16/6/11

Nguyễn Đức Sơn -Xóm chuồng ngựa ( 1 )

Nguyễn Đức Sơn
Xóm chuồng ngựa
(tập truyện ngắn

Mục lục


Con chuột cống
Thiên đàng Địa ngục hai bên
Đêm tiệc trần gian
Ý tưởng chiều tà
Xóm chuồng ngựa
Phụ lục

Con chuột cống

Nó vùng dậy với tất cả nỗi oan ức nghiệt ngã tuyệt đối không đời nào được phơi bày. Nó, con chuột cống, đang mang một mũi tên có lẽ là một chiếc đũa bếp sắt… chạy chạy qua qua lại lại như chứng nhân cho tất cả sự ngược đãi, độc ác, gạt gẫm, xỏ lá. Luân cảm thấy tức tối đến cực điểm. Luân quăng chiếc xe đạp của mình trên lề đường, nhét vội hai trăm gờ ram thịt bò vừa mới mua ở chợ Bến Thành vào bánh xe, xông vô đám đông vô tâm đang lúc nhúc.

Bên kia là mặt tiền nhà ga Sài Gòn. Buổi sáng tương đối yên tĩnh mặc dù xe cộ vẫn không ngớt bóp còi qua lại liên miên. Một vài người đàn ông thất nghiệp và hành khất - ở đâu mà chẳng có cái nạn này trừ những nước theo xã hội chủ nghĩa - bơ phờ uể oải Có người đi qua đi lại chờ đợi và rình mò. Định cướp cái vật gì chăng? Khó lòng lắm các người ạ. Chỉ vì đói quá các người không nhận chân tình thế xung quanh. Bởi khu này có nhiều cảnh sát và nhân viên công lực. Thôi nhé, hãy nằm xuống bực thềm đó nghỉ một chút, và đánh một giấc ngắn hay một giấc ngàn năm cũng được. Ta bất lực trước các ngươi. Cứ đánh một giấc đi, rồi tính chuyện mưu sinh bằng mọi cách các ngươi có thể nhân danh cái đói thảm khốc. Ta cũng mưu sinh chật vật và thống khổ lắm đây. Nhưng hiện giờ ta có hai trăm gờ ram thịt bò - lại thịt bò con nữa mới tốt chứ – mới mua ở chợ Bến Thành. Ta rất đói nhưng không thể chia cho các ngươi. Bởi vì ta có chịu chia cho, chẳng lẽ mỗi người trong các ngươi chỉ sẽ nhận một… nguyên tử thịt bò. Các người đông quá. Cứ mỗi ngày đi qua ta đã thấy xuất hiện thêm những bộ mặt lạ rồi. Hình như từ dưới đất độn lên hay trên trơi cao rớt xuống. Còn những người cũ đã bỏ đi đâu? Chắc các người đã ngã quỵ ở một xó nào đó và trở về cát bụi. Thôi, vậy là xong. Ta không biết tính sao. Tính gì khi ta đã thấy trái đất nó quay, nó quay, nó quay. Thôi, ta sẽ mua thêm khoai tây về chiên và một ít sà lách Đà Lạt, làm một bữa bíp téc cho đã đời để nhìn trái đất này nó quay.

Sau một thoáng nghĩ ngợi lan man, tiếng động ở bên này đường Lê Lai kéo Luân về thực tại. Những xe cộ thì cứ thản nhiên băng qua. Những xe nhỏ như vec-pa, mô-tô, mô-by-lết cũng thản nhiên băng qua. Hầu hết những người đi bộ cũng thản nhiên đi qua. Có một số người thản nhiên cố ý một cách đáng bắn nhất. Họ ngửng mặt lên trời, xem những sự việc xảy ra ở dọc đường không những không can hệ gì đến họ mà còn đáng khinh như đa số những tên linh mục và thầy tu và những tên trí thức học phiệt xuẩn động của thế kỷ. Một số khác, cũng đông đảo như vậy, thản nhiên đi qua vì họ không trông thấy và không hay biết chi cả. Hình như họ sướng nhất trần gian. Họ trải qua khoảng một trăm năm ngắn ngủi và êm đềm. Như đời một công chúa trong hoàng cung. Như đời một tên mọi ở một bản thổ cô lập và heo hút. Như đời một sinh viên nhà giàu, mặt mày, tâm hồn và đầu óc đều trắng bệu như bột, thường học rất giỏi và nhiều lúc cả gan lý luận nữa nhưng tuyệt đối không bao giờ dám hành động và xuống đường. Nhưng nói chung họ là những kẻ tốt phúc nhất như họ vẫn nghĩ.

Chỉ có một số người nhìn lại đám đông, có trông thấy cảnh tượng một con chuột cống bị đâm ngang từ miệng đến hông. Rồi một số trong bọn này cũng bỏ đi. Một số lê la lại nhìn.

"Mẹ ơi, coi kìa!"

"Gì thế hở Mai?"

"Người ta xem đông quá mẹ ạ!"

"Thây kệ họ chúng ta không nên chen vào."

"Nhưng tụi con nít và cả người lớn nữa vỗ tay vui quá, vào xem thử chuyện gì hở mẹ!"

"Mẹ đã bảo phí thì giờ. Chúng ta còn phải vào chợ mua không biết bao nhiêu món ăn. Hôm nay Chúa nhật phải đông lắm. Con quên rằng anh con mới công du ở Mỹ về và nay mai lại sắp lên đường lại rồi sao? Mẹ phải lo cho anh con ăn đúng giờ giấc chứ."

"Thôi mẹ đứng chờ, con vào xem thử chuyện gì?"

Vừa lúc đó, đám đông dãn ra về một hướng. Rồi đám đông bóp lại thành một hình thuẫn.

"Ối, cái gì cháy khét đó Mai con ơi!"

"Thưa vâng mẹ ạ, nhưng không sao hết, người ta đốt một con chuột cống còn sống kia mà."

"À ra thế. Tưởng gì quan trọng. Chuyện có vậy mà cũng làm nháo cả phố lên!"

Cái đám đông vỗ tay reo hò. Một nhân viên cảnh sát huýt còi tiến khá chật vật vào đám đông.

"Cái gì vậy, cái gì vậy, xê ra, xê ra!"

"Xếp ạ, có cái gì đâu người ta đốt một con chuột cống."

"Thôi giải tán đi. Ai đốt đó, làm ơn cho tôi biết với."

Một nhân viên cảnh sát khác cũng tiến đến từ phía công trường của khu chợ Bến Thành. Rồi một nhân viên nữa từ bến xe lam. Rồi một nhân viên nữa mang kiếng trắng, tóc hớt cao, dạng chừng cấp bậc lớn hơn. Ông này điềm tỉnh đi vào, không nói năng gì cả.

Lúc này, Luân đã khóa kỹ xe đạp. Nó nhặt ở vỉa hè bên hông nhà ga một hòn đá đen lớn, rất bẩn, tiến về phía con chuột cống.

"Kìa anh Luân mẹ ạ!"

"Có phải không, con nhìn kỹ lại."

"Đúng rồi mẹ ạ."

"À, ra đúng thằng Luân. À, à, bây giờ mẹ mới thấy nó. Té ra nó chỉ là một đứa đứng đường. Vậy mà đến nhà xin dạy kèm theo lời rao của mẹ đăng ở báo, nó ăn mặc tươm tất, tỏ ra rất hiền, ngoan và chăm học, À, mẹ trông thấy rồi. Chính thằng Luân. Mai thứ Hai nó sẽ đến nhà ta phải không?"

"Vâng, mai anh Luân có đến."

"Mai là ngày mười hai phải không? Mai nó đến vứt cho nó một tuần lương rồi a lê xúp luôn! À, té ra cái thằng ngỗ ngáo, đứng đường mà từ lâu mẹ cứ tưởng là sinh viên nghèo, chăm học như nó vẫn nói. À ra thế. Đúng là cái mặt nó rồi."

Hai mẹ con xa dần ra khỏi đám đông.

Đám đông lại nháo lên vỗ tay. Con chuột cống nhảy lẫn cẫn đi qua đi lại bất kể hướng nào. Nó kiệt sức nên không thể giãy giụa như lúc đầu, Luân nhìn kỹ thấy rõ ràng một chiếc đũa bếp sắt đã đâm thẳng từ mồm vào họng nhưng chưa lủng qua bên ngoài. Miếng da bên dưới nách một chân phình chông ra, trắng phếu. Luân cũng chú ý thấy một cái lồng bằng lưới sắt mà nó nhớ đã giẫm phải một lần khi tiến vào đám đông. Luân đoán ngay tức khắc và đoán rất đúng: người ta đã đánh bẫy được con chuột cống vào lồng rồi người ta dí chiếc đũa bếp sắt vào mồm nó và đâm thẳng xuống hông. Con vật quá nhỏ và thất thế hoàn toàn nên chịu cái cực hình dã man và rừng rú đó. Luân mường tượng nghe những tiếng sực sự và xèo xèo khi chiếc đũa nóng đỏ đâm qua tim, phổi và những sớ thịt.

"Cái lè phải đăm cho nó chết cho lâu, chết từ từ mới được."

"Phải rồi, đừng có đăm lủng qua bụng nó sẽ chết ngay, phải đăm sơ sơ như vậy thì nó mới lâu chết, coi mới sướng chứ!"

Hai tên các chú nói chuyện với nhau. Đó là hai kẻ chủ chốt trong vụ hành quyết có thể gọi là hợp pháp nhưng vô cùng phi nhân và dã man thuộc hạng nhất thế gian đó. Hai tên chắc hẳn ở sát nhà nhau. Chắc hẳn là hai tên đó đều có nhiều cộng đồng sinh tồn nhỏ và lớn trong cuộc sinh hoạt ẩm thực và kinh tế hằng ngày. Chính những liên quan hạ đẳng đó thường dễ cấu kết con người với nhau. Đó cũng chính là cái mà xã hội vẫn quen mồm gọi là tình tương thân tương ái.

Luân đau nhói ở trong tim, trong ruột, trong linh hồn, trong suốt cả con người nó. Nó không dằn được nữa. Nhưng Luân không biết ném hòn đá vào ai. Trước kia Luân chỉ có ý định ném vào đầu con chuột cho nó chết ngay tức khắc. Bây giờ Luân chưa quyết định đối tượng. Ném vào con chuột cho nó chết thật nhanh, đành rồi, như ý nghĩ mạnh mẽ căn bản của Luân. Nhưng còn phải ném vào bất cứ ai trong đám đông. Ném vào hai tên chủ mưu Ba Tàu. Ném vào mấy viên cảnh sát không có thái độ. Ném vào người chủ nhà Luân đến giúp việc được mấy tháng nay hay ném vào chính ngay mặt con gái của bà, Mai, đứa con gái học đệ tứ? hay ném vào tất cả? hay ném lên trên trời? ném phủng trời cao? Luân đã sôi máu. Khắp người rung chuyển rất mạnh. Cùng lúc con chuột giựt giựt mấy cái thật mạnh. Máu ứ bật ra khỏi mồm. Nhắm mắt lại, Luân ném mạnh hòn đá lên đầu con vật khốn đốn nhưng không trúng. Luân lại càng sôi máu hơn. Nó thấy quá bất lực và hét lớn.

"Tại sao các ông không giết ngay tức khắc?"

A ha! Ô hô! A ha ha! cả bọn con nít và cả người lớn ở khu Lê Lai lao xao. Mọi con mắt bỗng đổ dồn đến Luân. Luân hoàn toàn bị vây kín bởi một thông đồng đầy đặc, lấp kín và ngu xuẩn của đám đông. Luân không thoát ra được. Mấy nhân viên cảnh sát đang xem tiến về phía Luân:

"Ê cậu kia, cậu định làm loạn đây sao?"

"Không, tôi không phải ở đây. Tôi chỉ là một người đi đường. Tôi không thể chịu thấu cảnh dã man rừng rú phi pháp và cực kỳ vô nhân trong vụ hành quyết này nên tôi có thái độ, hành động và tôi can thiệp."

Cả đám đông cười ồ lên. A ha! Ô hô! A ha ha!

Đợi cho tiếng cười la của đám đông tan dần, viên cảnh sát với cấp bực cao và có vẻ học thức mới hỏi tiếp Luân, giọng mai mỉa, hằn học và khinh bỉ. Trên đời này có biết bao nhiêu kẻ nhân danh cho tối tăm, ngu xuẩn cũng vênh mặt khinh bỉ kẻ khác.

"Ông can thiệp cho con chuột?"

"Thì ông đã thấy."

"Tôi chưa nghe ai nói bênh vực cho một con chuột cống bao giờ, ở các nước văn minh Âu Mỹ, người ta cũng chỉ bênh vực cho những con vật hữu ích nào đó hay ít ra một thân xác to lớn nào đó."

Nói xong, nhân viên công lực trí thức đó ngó thẳng vào mặt Luân, đưa tay nâng nhẹ đôi gọng kính, cố tạo cái vẻ đắc thắng và khoan dung. Đám đông lại chăm chú vào người Luân. Trong một khoảnh khắc, Luân thấy rõ đối tượng của đám đông bu lại ở khu phố này đã chuyển trọn vẹn từ con chuột sang Luân. Luân chỉ biết nhìn chiếc áo sơ mi của nó đã rách một vạt và dính nhiều đất. Những tiếng cười ồ di động từng chụm hai ba cái đầu này đến hai ba cái đầu khác trong đám đông. Cái thông đồng dầy đặc của đám đông càng ngày càng bít bùng. Thái độ độc nhất của người công chính trong trường hợp này là phải yên lặng, yên lặng hoàn toàn. Luân cảm thấy rõ điều đó và cho đó là cách thế phải giữ tương đối khôn ngoan nhất. Nhưng không dằn được trước những tiếng cười ngu xuẩn và khiêu khích không dứt được, Luân trả lời:

"Các ông mà hiểu cái gì. Các ông lầm hoàn toàn."

"Ông hãy nói ngay tôi lầm thế nào. Ý ông muốn bảo con chuột cống có ích hoặc có một thân xác to lớn như con mèo con chó chăng. Ông không biết những thứ bệnh ngặt nghèo do chuột cống gây ra sao? Như trong mùa dịch hạch lăm le Sài Gòn vừa qua, ông có hiểu nguyên nhân và thủ phạm độc nhất là ai không?"

Nói xong, nhân viên lại nâng nâng gọng kính, nhướng đôi mắt ra vẻ đắc thắng và khoan dung hơn. Nhưng Luân phản ứng ngay:

"Ông không được xúc phạm đến tôi bằng cách lập lại và lập lại một cách quá thiếu sót bài vệ sinh khoa học thường thức lớp tư lớp ba."

"Tại ông ngu quá!" Nhân viên đáp cộc cằn, không còn đeo cái mặt nạ khoan dung đối với một thanh nhiên chưa đầy hai mươi tuổi là Luân nữa.

"Chính ông mới ngu vì ông đem cái hiểu biết của một đứa học tiểu học nói chuyện với tôi."

"Vậy xin hỏi trí thức của ông đến đâu?"

"Không đến đâu cả. Không có nghĩa gì cả. Chắc chắn không có nghĩa gì cả. Nhưng ít ra còn dạy cho ông nhiều lắm ông ạ. Đây, thẻ sinh viên đây."

Viên cảnh sát giựt lấy rồi gật gật :

"À, à, sinh viên năm thứ ba y khoa."

Đám đông trở nên yên lặng. Viên cảnh sát nói thao thao, nói lấy nói để, hy vọng nói thật nhiều sẽ lấp kín sự thiếu sót nông cạn của mình:

"À, á, sinh viên, càng chứng tỏ ông ngu. Ông đã làm náo động cả khu phố này, ông đã ném đá vào con chuột cống đang bị người ta đổ xăng đốt. Ông hành động với mục đích gì nếu không phải là ngỗ nghịch hay cố ý gây rối. Ông không khinh tởm thứ chuột này hay sao? Ông học y khoa mà không biết chuột cống là nguyên nhân độc nhất sinh ra bệnh dịch hạch đe dọa ở Sài Gòn này hay sao?"

"Thưa ông tôi biết. Tôi rất nhờm tởm thứ chuột này, Tôi cũng quá biết rằng nguyên nhân chính của trận dịch hạch vừa qua là do loại bọ chét ở trên mình thứ chuột này. Nhưng vấn đề ở đây không phải là vấn đề đó. Xin ông hiểu rõ. Hơn nữa đâu phải bởi chuột cống là nguyên do chính và là thủ phạm để chúng ta - con người - tiêu diệt một cách thù hằn và dã man."

"Chứ cái gì là nguyên nhân chính."

"Thì tôi đã nói chính những con bọ chét trên lưng chuột mới được tạm gọi là nguyên nhân chính. Con chuột đâu có muốn bị thứ bọ chét kia ẩn vào mình nó hút máu và truyền nhiễm. Chính loài chuột cống là nạn nhân kia mà. Hơn thế nữa chính những con bọ chét kia cũng không phải là thủ phạm, con bọ chét có muốn sinh ra làm.... con bọ chét đâu. Con bọ chét có muốn có vi trùng dịch hạch ở trong người đâu. Và con vi trùng dịch hạch có muốn làm... con vi trùng dịch hạch đâu!"

Đám đông lại ngơ ngác không hiểu gì, kể cả viên cảnh sát đang đối đáp với Luân và mấy viên cảnh sát khác. Đám đông cục cựa, nhúc nhích, như một con thú lớn thù lù với cái đầu là viên cảnh sát có vẻ trí thức. Đến khi viên cảnh sát này nhếch mép cười thì toàn thân con thú cũng rung lên: cả đám đông lại cười lên nhao nhao: Ô hô! A ha!

Luân hối hận sao mình không giữ thái độ im lặng ngay từ lúc đầu và cứ để mặc cho mọi việc xảy ra. Luân, Luân, mày có nên im lặng hoàn toàn trên mặt đất này cho đến khi cái bóng của mày nhỏ dần, nhỏ dần, rồi mất hút hay không? Cái đuôi, cái thân của con thú, của thế kỷ này là con – thú–đám–đông rung lên làm cái đầu của nó càng chồm đến phía trước. Thật ra Luân đã hiểu cay đắng rằng con–thú–đám–đông bắt đầu hiện hình khi loài người biết sống thành đoàn thể, xã hội. Viên cảnh sát nói tiếp bằng giọng trấn áp.

"Ông ngỗ nghịch hay cố ý gây rối. Trong cả hai trường hợp, xin mời ông lên xe đến bót. Ở đó ông sẽ thấy lời lẽ thiệt hơn. Tôi có thể cũng không đủ quyền phán xét ông. Nhanh lên, xin mời ông."

Luân nhào tới lượm chính hòn đá nó vừa ném đập mạnh một lần nữa lên đầu con chuột đang ngất ngư vùng vẫy yếu ớt mang đám lửa cháy dở khắp toàn thân. Đám đông hoảng sợ dãn ra. Tất cả lô nhô, xao động. Họ tưởng Luân làm gì. Ai ngờ Luân chỉ đập mạnh hòn đá lên đầu con chuột. Máu tiếp tục búng ra và óc phun tóe ra. Con vật trúng chổ hiểm quật lên một cái rồi lịm luôn. Luân cũng ngất đi nhưng liền đó cảm thấy bình an. Xong, Luân không cần hoặc chưa muốn giải thích hành động của mình thì viên cảnh sát với nhiều người trong đám đông đồng la lớn:

"Này, này, sao ông độc ác và dã man như thế. Vậy mà hồi nãy ông nói ai dã man?"

Cái đám đông cười rồ lên. Luân không biết nói gì thêm. Một cái hố ngăn cách dựng ngược lên trước nó và đám đông. Không còn tình cảnh nào tuyệt vọng hơn tình cảnh không thể giải thích hay bày tỏ gì nữa ở thế kỷ này.

"Nó mất trí!"

"A, thằng điên!"

"Con cái nhà ai tội nghiệp!"

"Trông mặt mày khôi ngô đó chứ, lại sinh viên này nọ nữa."

" Có cái gì điên khùng trong mặt nó!"

"Đồ dã man!"

"Độc ác đến thế là cùng!"

"Đem mà giết nó đi cũng vừa!"

"Đồ quỹ yêu hiện hình."

Không biết bao nhiêu tiếng nói, giọng nói của đàn ông, đàn bà, trẻ con vang vọng đây đó, thốt ra từ cái thân thể nhầy nhụa của con–thú–đám–đông. Tất cả đều đắc ý, tự cho mình là những người bình thường, tốt, trong mọi xã hội trên mặt đất này.

Con chuột cống bây giờ đã hoàn toàn nằm yên một chỗ. Lửa còn cháy lem lém, càng ngày càng bớt khét vì lông lá đã rụng hết. Người ta hoàn toàn không chú ý đến con chuột nữa mà chỉ chú ý đến Luân. Luân là cái tụ điểm cho con mắt đám đông chĩa vào. Thế nhưng Luân không nhức nhối. Luân chỉ hối hận đã không can thiệp cho con chuột sớm như ý muốn, đã không giúp nó trở về bụi cát cho nhanh. Ôi mỗi một giây khắc cực hình trôi qua đối với một con chuột đang bị hành quyết một cách cực kỳ dã man như vậy là một ý nghĩa gì dưới trần gian này và trên cao thâm kia? Vậy mà Luân, mày đã cãi cọ phân bua với con–thú–đám–đông và vô tình để cho những phút đau đớn của con vật khốn đốn kia kéo dài. Những đau đớn đó, cố thể có một ân huệ nào ở trên cao rơi xuống để bồi hoàn không? Mọi con mắt đã hoàn toàn đậm chĩa vào Luân. Thế nhưng, sau đó, dần dần, Luân hết nhức nhối. Nó đứng vững như một hòn núi đặt giữa đại dương, mà chân núi ăn thủng qua ruột trái đất. Bão táp, thủy triều cứ trồi lên lấp xuống. Núi vẫn là núi. Đứng y nguyên một chổ. Luân thật sự đã hết nhức nhối.

"Ê, thôi đi cho kịp giờ." Một viên cảnh sát khác lại nói với Luân bằng một giọng truyền bảo.

"Xin hỏi: ông bắt tôi về lý do gì?"

"Ông phá rối trật tự, thế thôi."

"Thế nào là trật tự, ông?"

"Ông khỏi lý luận ở đây."

"Nhưng tôi phải biết lý do tôi bị bắt."

"Xin ông cứ về bót rồi biết."

Phải nói về bót mới biết. Nhưng Luân đứng vững như núi đá giữa đại dương kia.

Đám đông tan ra, tan ra. Hồi nãy giờ Luân hoàn toàn quên bà Ngạn – mẹ của Mai – và Mai, đứa con gái nó đến kèm học. Luân cứ tưởng hai mẹ con đã vào chợ Bến Thành rồi. Bây giờ Luân đã trông thấy Mai khi nhướng mắt lên một chút về phía trước. Mai đứng một mình tươi mát giữ đám đông hôi hám, dơ dáy. Luân đoán chắc bà Ngạn phải đứng ở ngoài đám đông sợ phiền phức và đang tức giận con gái mình dù là đứa con gái được chiều chuộng. Luân muốn tránh đôi mắt của Mai. Đôi mắt hết sức trong, hết sức xanh, dễ in vào bất cứ ấn tượng xấu tốt nào do xã hội chấp nhận. "Mai ơi, làm sao em hiểu được tôi. Mai hãy đi xa đi và coi như không gặp tôi sáng nay." Luân muốn truyền phóng ý nghĩ đó cho Mai. Rồi Luân đứng một mình, muôn đời một mình. Không cần phải giải thích và phân bua với ai. Luân thấm thía hiểu rằng trong cái số người chịu lê la đến xem cảnh tượng hành quyết rất cực kỳ dã man con chuột cống này - trong số có cả Mai - không ai đứng về phía Luân, hiểu nó. Luân bình tĩnh nói với nhân viên cảnh sát bên cạnh.

"Tôi có xe đạp. Nhờ ông cho lên xe luôn."

"Được rồi, nhưng nhờ ông cho xem thẻ căn cước và trưng binh luôn."

"Được rồi, về bót hẳn hay."

Luân bình tĩnh trả lời, dùng ngay lời một nhân viên khác đã nói với nó. Luân bình tĩnh cho đến phút chót. Đám đông tan dần, tan dần, tan dần. Những người đến chậm đều tỏ vẻ muốn hiểu nguyên nhân và cảnh tượng xảy ra. Một ông người Bắc di cư hỏi:

"Cái gì vậy thưa các ông?"

Một ông khác cũng người Bắc di cư trong đám đông tỏ vẻ rất biết chuyện, lấy giọng kẻ cả, bề trên, đai diện cho đám đông, cho phán xét và tiếng nói cuối cùng, đáp rất ư là gọn:

"Một người điên khùng gì đó."

Luân im lặng, Luân im lặng, Luân im lặng. Luân là môt hòn núi ngầm. Biển đã tràn ngập lên người nó. Bão tố đã tràn ngập người nó đến muôn đời.


Thiên đàng Địa ngục hai bên


Ai khôn thì lại ai dại thì qua
Đêm nằm nhớ chúa nhớ cha
Đọc kinh cầu nguyện kẻo xa linh hồn
Linh hồn phải giữ...


Thằng Tâm mới đọc đến đó thì bọn trẻ dàn ra. Ở khi đất này bọn trẻ đã chế biến một thứ trò chơi của hầu hết trẻ con miền Nam với bài hát đọc được như trên. Đó là trò chơi "Bắt linh hồn" theo thằng Phước hoặc giản dị hơn, cứ lấy theo câu đầu của bài hát như con Nhạn đề nghị, trò chơi "Thiên đàng địa ngục hai bên".


Thiên đàng địa ngục hai bên
Ai khôn thì lại ai dại thì qua


"Này Tâm, dại thì qua cái gì mày?" Thằng Phước hỏi, và chưa kịp để thằng Tâm suy nghĩ trả lời, nói tiếp:

"Dại thì xa chứ?"

"Xa cái gì?" Thằng Tâm cãi.

"Xa địa ngục chứ xa cái gì nữa!"

"Vậy mày nói xa địa ngục là dại à? vì như thế bài hát nói "Ai khôn thì lại Thiên đàng và ai dại thì sa Địa Ngục".Vậy ai cũng khôn chứ có ai dại!"

"Khôn cái gì! Dại cái gì!"

Lão Phồn lên tiếng thình lình làm lũ trẻ mất hồn vía. Chúng không ngờ trong lúc nói chuyện chúng đã xê dịch lại gần túp lều của lão mài dao trong khu đất Mả Tây này. Con Nhạn thất kinh bỏ chạy trước. Sau thấy mấy đứa bạn trai chỉ dang ra thôi, nó từ từ từ tiến lại, núp sau lưng một đứa nhìn ông lão:

"Khôn cái gì! Dại cái gì! lão thích nhất là ăn cơm. Ăn cơm ngon lắm. Tụi bây đứa nào ăn cơm chưa?"

"Chưa!"

"Tôi rồi!"

"Tôi chưa!"

"Tôi ăn hồi năm giờ."

"Tôi chín giờ tối mới ăn. Nhưng mẹ tôi thường cho tôi ăn trước." Con Nhạn nói sau hết.

"Đứa nào ăn cơm rồi thì khôn, đứa nào chưa ăn thì dại , đúng vậy không?" Ông lão vừa nói vừa ngắm nhìn từng khuôn mặt trẻ, vẻ mặt ông nửa thật nửa chơi. Lũ trẻ không hiểu rõ thái độ của ông. Mà chính ông cũng không hiểu ông nói thật hay nói đùa nữa.

Lúc này Ái, chị của Nhạn, cũng vừa tiến đến. Ái được coi như bà tiên đối với tụi trẻ ở khu đất này không phân biệt giàu nghèo hay tôn giáo nào cả. Ái học đệ lục, rất xinh, rất ngoan. Ái nói với Nhạn.

"Mẹ gọi về tắm rửa.”

"Không, em chỉ muốn về ăn cơm thôi.”

"Ừ, tắm xong rồi ăn cơm. Sao bữa nay đòi cơm sớm thế?"

Cả bọn biết ý khúc khích cười. Riêng Nhạn – có lẽ trẻ nhất đám – không biết diễn ý làm sao đành nín thinh.

Thằng Phước lém lĩnh:

"Nhạn nó muốn khôn đó chị Ái ạ!"

Ái không hiểu gì ngơ ngác.

Lão Phồn thấy vậy nói lại:

"Đứa nào ăn cơm thì khôn đứa nào không ăn thì dại chứ không phải gần địa ngục hay thiên đàng gì hết.”

"Ồ vậy thì tụi mình đứa nào cũng khôn hết.” Tâm nói nhanh giữa tiếng cười reo của bọn trẻ.

Ái đứng một mình không hiểu lão Phồn nói chơi hay nói thật. Hình như nói chơi mà cũng hình như nói thật. Cũng như nhiều lời khác của lão mà Ái nghe được.

"Chiều nay mày chưa khôn phải không Nhạn? Chín giờ tối mày mới khôn, tao khôn hồi năm giờ rồi kia!" Phước cất tiếng làm Ái bật cười. Ái dẫn cả bọn đến bức tường đổ ngồi chơi.

Lúc đầu mới dọn nhà đến đây, Ái rất sợ cái Mả Tây này. Với tuổi mười ba, tâm hồn nó thực sự đang nẩy nở cùng với những sự dò hỏi thắc mắc về chính bản thân mình, về ngoại cảnh, về những hiện tượng ở ngoài tầm hiểu biết của cả người lớn. Ái không đời nào dám đi đâu gần Mả Tây. Nó nghi ngờ nhiều thứ. Nào là ma. Nào là bệnh phong cùi mà nó được biết có thể gây ra nếu gặp hơi mả bốc lên khi trời mưa. Nào là thể diện của một đứa con gái... sau cùng nó đã làm quen. Nó thấy tất cả tụi trẻ trong khu đất đều ra đó chơi. Chúng trèo lên mả thả diều. Chúng chơi đạp lon, cút bắt ở giữa những chiếc mả lớn. Có đứa nhà nghèo chiều tối ra nằm ngủ ngay trên mả trần hoặc những cái lăng nhỏ. Ở đây có cây cỏ, có dế, có chuồn chuồn. Đúng là một công viên. Đúng là một ấu viên nếu người ta dựng một tòa nhà, trồng thêm những cây đu, những ghế xích đu, những cái thang tuột cho trẻ. Đặc biệt nhất ở đây đã an nghỉ những linh hồn của nhiều nòi giống. Đầu tiên là mả của tụi lính Tây, lính lê dương đánh thuê cho Pháp như Ý, Đức, Ảrập... trong thời kháng chiến oai hùng và thần thánh vừa qua. Rồi sau đó, không ai cai quản, vùng đất này được dùng để chôn cất cả những xác chết người Tàu, người Ấn, người Ma Lai, người Campuchia, v.v. và dĩ nhiên có cả người Việt. Linh hồn của những kẻ quá cố ắt hẳn đã theo đủ những tôn giáo chính như Phật giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo, v.v. nên sau đó dân vùng có khuynh hướng gọi là Mả Lớn hơn là Mả Tây hay Mả Thánh. Vâng, nếu cái nghĩa địa này không rộng lớn lắm ở bề mặt, ở diện tích, ở sự nguy nga của những kiến trúc mồ mả thì ít ra cũng rộng lớn về phương diện linh hồn, đạo giáo như vừa nói. Vào lễ Phật Đản, tụi con nít trong khu đất đã trốn nhà vào đây làm lễ. Vào lễ Giáng Sinh, tụi chúng cũng không từ chối dựng cây Nô-en nơi đây, với cả bánh, trái và nhũng thức ăn hỗn tạp của tụi con nít giàu, nghèo. Đây mới đích thực là một cộng đồng rộng lớn. Cộng đồng xã hội giữa những trẻ con không biết giai cấp. Cộng đồng tử sinh giữa những người chết và người sống (mặc dù hai bên không biết nhau). Cộng đồng tôn giáo, về những kẻ đã khuất được chôn chung trong một khu đất có vòng thành hẳn hoi và về phía rực rỡ nhất của những tâm hồn trong trắng đang hòa vui với nhau trong những dịp lễ lớn của Phật giáo và Thiên Chúa giáo. Và thật ra nếu có đứa nào chịu tổ chức một đại lễ nào thuộc Bà La Môn giáo hay Hồi giáo hay Ma giáo gì gì cũng được bọn trẻ hoan nghênh mặc dù sự cấm đoán của cha mẹ, những bậc hiện thân dầy đặc của thành kiến. Lâu rồi một vài đứa trẻ con của những Mỹ kiều trắng và đen cũng ra đó chơi. Chúng phá phách không kém những đứa trẻ bản xứ. Chúng cũng trèo lên đầu mả thả diều, hát bô lô ba la, chúng cũng bắt chước bọn trẻ chấp tay cầu Phật mặc dù cha mẹ chúng biết. Thực là một cộng đồng rộng lớn và chân thực mà ở đó không ai muốn chiếm ưu thế cả.

"What do you play here?"

Thằng John bây giờ chạy ra nhập với bọn trẻ lựa một câu dễ nhất để hỏi nhưng tụi trẻ bản xứ không tài nào biết trả lời kể cả Ái, học đệ lục ban Anh Văn. Dù vậy thằng John cũng nhập bọn cố gắng chơi chung một cách thật hòa hợp, thân mật.


Ai khôn thì lại, ai dại thì qua.
Đêm nằm nhớ chúa nhớ cha
Đọc kinh cầu nguyện…


Đọc đến đó thì thằng Tâm quay sang hỏi lão Phồn:

"Thưa ông. Ông đã bao giờ đọc kinh cầu nguyện chưa?"

Ông lão chỉ nghe được tiếng chưa rồi đoán chừng đáp:

"Chưa, lão chưa… ăn cơm. Lão thích nhất là ăn cơm. Ăn cơm rất ngon.”

Ái chăm chú nhìn lão Phồn, nhìn cái gian nhà lá dừa dựng sát bên vòng thành nghĩa địa như sợ gió bay. Như một số nhà của những phu xích lô, thợ hồ. nhưng những người nghèo này chỉ dựng nhà ở mặt tường ngoài của nghĩa địa. Còn nhà của lão Phồn ở ngay bên trong.

"Thưa ông, ông ở đây lâu chưa?" Ái hỏi.

"Gần hai mươi năm cháu ạ!" Ông lão dịu giọng.

"Sao ông không bệnh? Ông không sợ bệnh phong cùi ở hơi mả sao?"

"Bệnh sao được. Phật, Trời phải phù hộ chứ. Lão chỉ thường mắc phải một thứ bệnh.”

Ái chưa kịp hỏi thì Phước đã xen vào, vẻ hối hả như sợ lây bệnh:

"Thưa ông bệnh gì vậy?"

Lão Phồn nhìn ra cái mả lớn ở ngay trước nhà lão. Cái dáng lão xiêu vẹo trong chạng vạng đi một hơi thất sắc, xê ra. Ái chú ý thấy một cái chén và một đôi đũa úp trên đầu mả, sau cái thánh giá. Ái biết ngay đó là tất cả đồ dùng để ăn cơm của lão.

"Thưa ông bệnh gì vậy?" Ái hồi hộp hỏi lại.

"Bệnh đói cháu ạ!"

Ái, Nhạn, Tâm, Phước và cả John sau đó đều bật cười. Ái biết Lão Phồn đói thật nhưng Ái không hiểu thật ra ông có ý hài hước không? Nhìn khuôn mặt lạnh như bàn thạch của ông lão, Ái không đoán được mảy may ý nghĩ của ông:


Thiên đàng, Địa ngục hai bên
Ai khôn thì lại…


Tâm chưa dứt lời thì Phước nhìn ông lão:

"Thưa ông Thiên đàng là gì?"

"Thưa ông, Địa ngục gì ạ!" Con Nhạn cũng bắt chước hỏi theo.

"Ông tin có ma không ông? Ông gặp ma ở đây chưa?" Ái không để Lão Phồn trả lời, hỏi xen vào.

Ông lão loạng choạng sách một cái đấu ngắn bước ra phía mả, nơi có phơi cái chén và đôi đũa. Lão kê sát ghế vào thành mả, ngồi xuống thì vừa tầm với cái chén và đôi đũa. Cái mả biến thành bàn ăn.

"Thưa ông Địa ngục là gì ạ?" Phước hỏi lộn câu hỏi của Nhạn.

"Thưa ông Thiên đàng là gì ạ?" Nhạn đành phải hỏi câu hỏi của Phước.

Ông lão chưa biết trả lời sao thì Tâm đã đọc mấy câu hát.


Đêm nằm nhớ chúa nhớ cha
Đọc kinh cầu nguyện kẻo xa linh hồn
Linh hồn phải giữ linh hồn
Đến khi…


Cả bọn – kể cả Ái – đồng thanh:


Đến khi gần chết được lên Thiên đàng


Cả bọn im lặng. Nhạn liếng thoắng:

"Thiên đàng ở đâu hở ông?"

Tâm không mong gì ông lão trả lời nên hát lại:


Thiên đàng, Địa ngục hai bên
Ai khôn thì lại ai dại thì qua


"Qua cái gì mày? xa chứ, bắt tao chữa lại mãi sao? Nghe đây:


Thiên đàng Địa ngục hai bên
Ai khôn thì lại ai dại thì ra”


Bấy giờ ông lão mới lên tiếng như trở lại điệp khúc:

"Khôn cái gì? Dại cái gì?"

Nghỉ một lát lão tiếp:

"Địa ngục với Thiên đàng ở đâu mà chẳng có.”

Cả bọn chụm lại lắng nghe, kể cả John, tưởng ông lão sắp giảng nghĩa.

"Lão thích nhất là cơm. Ăn cơm ngon nhất.”

Câu nói của lão làm cả bọn cụt hứng, cười bù. Nhưng chợt lão tiếp:

"Hãy tìm đâu cho lão một chén cơm, một con cá và nếu được một xị rượu lão chỉ ngay cho.”

"Thưa ông, ông chỉ ngay cái gì vậy?" Bọn trẻ đồng nói, quên hẳn những câu hỏi của chúng chưa được ông lão trả lời. Chỉ một mình Ái nhớ lại.

Khuya đó lão Phồn kiệt sức gục đầu bên thành mả.

Nước giải chảy một dòng đặc trên thành xi măng lấp lánh ánh trăng non. Lão đã kiệt lực trong suốt một ngày mài dao mà không kiếm ra khách. Chỉ có một mình Ái lẻn ra đây với một đĩa cơm, một chén thịt hầm và một ly rượu thuốc rót trộm của ba nó. Chỉ có một mình Ái chứng kiến cảnh phục sinh kỳ diệu của lão Phồn. Một sự phục sinh thực sự chứ không phải trong cổ tích hay thuộc loại thần thánh. Và lần đầu tiên trong thảm cỏ xanh nhung của tâm hồn Ái mơ hồ vẽ ra ý niệm đầu tiên về biên giới thô sơ nhưng nền tảng biết bao nhiêu giữa Thiên Đàng và Địa Ngục trên thế gian này.
Nguồn: Tập truyện ngắn Xóm chuồng ngựa của Nguyễn Đức Sơn, nhà xuất bản An Tiêm ấn hành lần thứ nhất tại Sài Gòn tháng 06 năm 1971. Tác giả giữ bản quyền.

Nguyễn Đình Toàn -Ngày tháng

Nguyễn Đình Toàn

Ngày tháng

(truyện dài)


Những tháng mưa làm cho ngày ngắn đi. Buổi chiều tan sở ra đến cửa đã thấy bóng tối chạng vạng lẫn trong sương mù và hơi nước, tôi đi dọc theo các khu phố trở về nhà dưới trời mưa, nghe gió lạnh thổi vào thấm qua quần áo, hôm nào có Vinh còn đỡ, bữa nào phải về một mình, vừa rét vừa buồn. Xe hơi bật đèn chạy khi còn ánh sáng làm cho buổi chiều hình như mất hết vẻ của nó. Đó là một khoảng thời gian không tên gọi, như tuổi ba mươi của một người đàn bà, ngày tháng và hy vọng đã bắt đầu thoi thóp. Vinh đối với tôi như ngọn đèn xanh đỏ ở ngã tư đường, giam hãm, giữ lại trong giây lát trước khi tôi vượt biên qua bên kia. Đó là lúc nghỉ chân nhưng cũng nhiều khi làm mình bực bội. Anh ở trên cao đó không liên quan gì đến tôi, nhưng tôi phải nghe theo anh, nếu không tôi không thể tránh được cảm tưởng là mình phạm lỗi. Tôi phải tuân theo hiệu đèn trước khi qua đường. Hắn rằng ở đây không có người biên phạt. Nhưng ít ra tôi cũng phải tuân theo một luật lệ nào đó trong khi đến tuổi già, nếu không tôi chỉ là kẻ trôi xuôi trong dòng ngày tháng. Tôi phải được giữ lại trong cánh tay anh. Phải được sống với anh để nhận ra thân thể mình. Không thể ù lì như buổi chiều bị đêm nuốt không còn lại một dấu vết gì. Dù việc ấy ích lợi hay không tôi không cần biết, nhưng nếu còn có thể ngoi đầu lên khỏi mặt nước để thở, tôi phải ngoi lên để thở. Thở để sống. Và sống có nghĩa là sống với anh, sống với một người nào đó. Sống một mình là ngoắc ngoải, là chiều không ra chiều, đêm không ra đêm. Tự sờ mó thân thể mình là một điều nhục nhã, và tự làm ung thối mình. Không có nắng ấm làm cho chín. Phải có một người chồng chết đi trên tay tôi mới biết ra điều ấy. Tôi có yêu anh không có lẽ đây là việc tôi cũng chẳng cần đặt ra với mình nữa, bởi vì anh ấy đã chết. Còn Vinh? Lần thứ nhất gặp Vinh khi vừa từ một tỉnh xa trở về Sài Gòn, cái nóng bức của thành phố cũ còn vây hãm lấy tôi làm cho tôi khiếp sợ. Ở đó đêm không thể ngủ thẳng giấc vì trời nóng và vì tiếng phi cơ bay lượn suốt hai mươi bốn giờ một ngày. Gió từ những bãi cát trắng chói mắt ngoài bờ biển và các dãy núi đá, về mùa hè, thổi tới như hơi nước sôi. Những cây thông trong vùng phi trường cháy đen vì gió. Hoa phượng vĩ trên các hè đường giống như những tia lửa nhìn thấy đằng sau các chiếc phi cơ phản lực đinh tai nhức óc lên xuống mỗi phút. Đời sống cũng bàng hoàng như tin tức về cuộc chiến tranh mỗi ngày đè nặng lên đất nước, tiếng bom đạn và động cơ rung chuyển nhà cửa, người nói chuyện không nghe thấy tiếng nhau. Người lớn ngày tắm hai ba lần vẫn nóng, trẻ con rôm sẩy đầy mình. Tôi có thể nói một điều gì về Vinh trong tình trạng này chăng? Hơi lửa mặt trời còn chạy rần rần trong máu chưa thoát khỏi các lỗ chân lông cùng với cái chết của chồng tôi còn ở bên cạnh những đêm ngủ một mình. Vinh mời tôi uống một tách trà trong ngày đầu tiên ấy và tôi nghĩ anh còn trẻ hơn tôi nhiều. Buổi chiều đó cơn mưa thổi bụi và lá vàng bay xao xác trong công viên ở phía bên kia đường. Tôi nghĩ giá được sang ngồi trên chiếc ghế đá ở góc vườn hoa lúc đó cũng thích. Vinh bỏ đường, vắt chanh vào tách trà cho tôi. Chén trà ấy sẽ là phai đi phần nào lượng mặt trời đang muốn biến tôi thành cây thông cháy trong phi trường. Khi Vinh hôn tôi cái hôn đầu tiên, tôi nghĩ, cuộc hỏa hoạn đã được dập tắt, tôi bắt đầu phải thở hết thán khí ra khỏi ngực. Mấy ngón tay Vinh thơm mùi vỏ chanh. Mùi thơm ấy báo hiệu rằng tôi phải làm người làm vườn trở lại. Phải trồng trọt lại những tình cảm của mình. Trên mảnh đất tôi không nhìn rõ mặt. Trên mảnh đất tôi đã khóc than và đã chôn một quãng đời của mình. Chiếc taxi chạy đến, tôi mở mắt, nhìn vầng trán Vinh che kín trước mặt tôi chỉ biết lúc ấy trời đã tối, đèn lộ đã được thắp lên, Vinh đưa tôi đến một quán ăn. Chúng tôi ngồi trên gác và nhìn xuống phố, phía xa là đường xe lửa. Vinh hỏi tôi, Hà ăn gì? Tôi nói, em không đói. Không đói cũng phải ăn chứ. Đĩa thức ăn bốc khóc trước mặt, máy điều hòa không khí chạy ì ì, dao nĩa và những chiếc thìa mạ kền sáng bóng, môi tôi bị bỏng rẫy, Vinh nhìn tôi, tôi biết anh đang làm quen với tôi và làm quen với cuộc tình anh vừa bắt gặp. Bữa ăn chẳng có gì ngon lành vì tôi không để ý đến các món. Tách cà phê cuối cùng cho tôi lấy lại bình tĩnh. Nhưng những giây phút bình tĩnh đối với tôi chỉ là những giây phút buồn bã. Chất nước đen ấm và ngọt làm tôi nhớ tới những buổi sớm làm lấy bữa ăn sáng của mình trước khi đến sở. Nói là bữa ăn sáng nhưng thường thường tôi chỉ uống một tách cà phê nhỏ mà thôi. Ngồi một mình trong chiếc ghế nhìn căn phòng vắng vẻ, chiếc quạt máy quay đều, tôi tưởng tượng hình dáng của chính mình sáng ngày hôm sau sẽ làm những cử động tương tự ra sao, và ngày tới có lúc bất chợt thấy mình có những dáng điệu giống như đã làm một lần rồi, khiến tôi hoảng sợ, không biết có phải mình bị dẫn dắt bởi tưởng tượng ngày hôm trước hay thực ra đã có những lần tôi đi lại, cử động như thế. Khi chúng tôi còn sống, có những sáng thức giấc, chợt nhìn thân thể mình trần trên giường, giống như nhiều sáng khác, nhưng chính nó lại cho tôi cảm giác thoải mái, cảm giác nôn nao của thứ hạnh phúc đầm đầm dưới da thịt, ngây ngất như giấc ngủ chưa đi hết, những sự lập lại này cho tới ý nghĩa rõ ràng rằng mình đã sống qua một đêm và mình đang tiếp tục sống. Tôi đang sống, đó là tiếng reo vui thì thầm thường làm tôi cười trong lúc nửa thức nửa ngủ đó, và giật mình vì bị ngạt hơi tỉnh hẳn dậy vì anh hôn tôi, anh đã mặc quần áo bay, sửa soạn ra phi trường, còn tôi, anh bắt em ngủ thế chứ bộ tại em sao, tôi làm nũng với anh, và giữ chặt anh với quần áo của anh để thấy rõ da thịt mình, hôm nay anh bay đâu, thôi đừng có cắn em đau nghe, tôi sẽ khép hai chân lại, nhưng làm thế nào giữ nổi anh, em ngủ lại nhé, anh đi nhớ khóa trái cửa rồi ném chìa khóa vào cho em, không ngộ nhỡ có ai đến thì chết. Những buổi sáng như thế tiếp diễn không biết được bao lâu, rồi có một buổi tôi chờ không thấy anh trở về nữa. Vị chỉ huy trưởng của anh đến tận nhà nói rõ hơn cho tôi hay là thôi, có lẽ anh không còn bao giờ trở về nữa. Buổi sáng đó là buổi sáng tôi tỉnh một lượt giấc ngủ của mình chứ không tỉnh làm hai ba lần như xưa nữa. Tôi rửa mặt soi bóng mình trong gương, nhìn chân tay người ngợm chỗ nào cũng làm tôi muốn khóc hết. Tôi khóc cả giờ trong buồng tắm, khóc cả giờ khi trở ra nằm xuống giường. Lúc anh đi anh không đánh thức tôi dậy. Thành thử tôi đã không nhớ được mặt anh trong ngày cuối cùng. Sự im lặng trong một góc phòng, dưới gầm giường, trên trần nhà, trong bồn nước, đè cứng lấy chân tay, tôi ăn uống và sống bằng một ý thức trong suốt, không lúc nào nín khóc, anh đã bị rơi máy bay đâu đó trong một khu rừng, tất cả chỉ còn lại một chút tro than, người ta đã phủ cho anh một lá cờ, thổi hiệu kèn vĩnh biệt, bồng súng chào người chết cho Tổ quốc. Tôi trả lại căn nhà cho căn cứ, ra phố thuê nhà ở, kiếm việc làm, những sáng thức dậy quen dần với sự vắng mặt của anh, tự làm bữa ăn lót dạ, và những cử chỉ dáng điệu lặp lại từ đó đã cho tôi ý nghĩa của cái chết chứ không phải sự sống nữa. Khi anh còn sống tôi sống với anh và hưởng những giây phút êm đềm hay gay gắt cùng với anh, sự hiện diện của anh lẫn lộn với những xúc động đó trong tôi, và tôi không một lần để ý phân biệt. Bây giờ anh không còn nữa, tôi không ngờ sự trống trải anh để lại, lại rộng lớn đến thế. Tôi đã bơi đến muốn kiệt sức mà không ra khỏi, tôi đã ngụp lặn, ngoi ngóp, thở những hơi tanh nồng, buổi sáng trở dậy đánh răng rửa mặt tôi ngửi rõ mùi rỉ sắt trong nước, buổi tối nằm ngủ trên chiếc giường mênh mông chỉ có chỗ người chạm xuống nệm là đủ cho tôi tin được một mình không ngã, đôi lúc trở mình tôi hốt hoảng tưởng như mất đà và đang lao đầu xuống vực, choàng thức dậy, tôi muốn gọi anh, muốn gọi tôi, nhưng không cất được thành lời, bởi vì lời kêu gọi ấy cũng như cái chết của anh, tôi làm sao lấy lại được, hai mắt khô cứng và cay xót vì thiếu ngủ và đã mở hoài trong tôi. Mọi sự đối với tôi bỗng trở nên bưng bít, hơi thở đau trong ngực tim đập từng hồi thôi thúc, lúc thoi thóp như không còn theo được nhịp máu, tôi mê thiếp trong giấc ngủ một nửa, phải lấy tay bóp dưới ngực giúp máu chạy đều sau khi vùng thoát được cơn thoi thóp, núm vú căng dưới bàn tay sâm sấp mồ hôi, có những sự chuyển động như các gân máu chằng kéo bên trong và đang xiết lại. Những trận thức dậy không giờ giấc nhất định như thế, đã tập cho tôi thói quen hút thuốc lá. Buổi tối trước khi đi ngủ việc đầu tiên của tôi là phải kiếm bao thuốc và chiếc hộp quẹt để trên mặt bàn ngủ để lúc cần thì lấy châm hút. Ngồi một mình trong màn, lưng tựa vào thành giường, đốt thuốc nhìn ngó căn phòng với ánh sáng mờ của ngọn đèn ngủ, tôi tập thở khói ra đằng mũi, ngó những ngón tay mình, ngửi mùi thuốc bắt đầu bám khét trên đó, ngó nhìn chiếc tủ áo nơi góc phòng, khung cửa sổ đóng kín, nghe ngóng tiếng những con chuột lục lọi nơi phía nhà sau, có lần ngủ quên để điếu thuốc rơi xuống nệm suýt cháy nhà, tỉnh dậy thấy khói bay mù mịt ho sặc sụa phải chạy xuống bếp lấy nước dội bừa lên dập tắt, sau đó giường ướt sũng phải ngủ dưới đất nơi tấm cói trải sàn chỗ bàn khách, sáng dậy phải lau lại nhà cửa, gói chiếc khăn trải giường và chiếc chăn mỏng bị cháy vào một bóc giấy bỏ thùng rác trước khi đi làm, tự nghĩ giá đừng thức dậy đêm qua. Mùi cháy khét làm cho căn phòng thêm mờ ám, buổi trưa về thay quần áo tôi tự ngửi mùi trên vai và trên hai cánh tay mình. Chỉ là những mùi vị ảo tưởng mà thôi. Một chút gì đó nơi mình đã bị cháy thiêu cùng với chăn nệm.

Người bạn ngày còn con gái đến chơi sáng Chủ nhật cho một bức tượng phù thủy đựng trong chiếc hộp gỗ sơn, dưới chân hộp có chiếc ngăn kéo nhỏ, mở ra sẽ nghe một điệu nhạc từ trong phát ra, giống như tiếng dương cầm đồ chơi của trẻ con, hay chuông đồng hồ. Anh dạy học có vợ và đã có một đứa con trai, tôi chưa bao giờ gặp mặt vợ anh, đêm nghe điệu nhạc trong chiếc hộp nghe đi nghe lại trong vô thức, tưởng nhớ lại lúc còn nhỏ, một tỉnh lỵ nào buổi sáng có sương mù, có ga xe lửa, có chiếc cầu bắc qua một con sông nhỏ giữa hai triền núi, trong vườn có những cây đào trái chín đỏ cắn ngập răng, mùa đông co ro trong những tấm áo dày, hình dáng người bạn nói cười sâu trong trí nhớ không rõ nét, anh uống rượu và hút thuốc từ khi còn là sinh viên, anh mời tôi dự một buổi khiêu vũ gia đình do một người bạn tổ chức nhân dịp lễ đính hôn, đêm đó sáng trăng, khách rất đông, người ta nhảy từ trong nhà ra ngoài thềm, từ ngoài thềm xuống sân, rồi từ sân ra các lối đi lát xi măng xuống vườn, những điều anh nói cho tôi cười bây giờ cũng chỉ còn giống như thứ ánh sáng xanh biếc lọt qua kẽ lá xuống khu vườn.

Tôi hỏi anh bản nhạc trong chiếc hộp là bản gì thế? Cần gì biết. Chị cứ nghe cho đỡ buồn là được. Tôi bảo, có lẽ tôi không ở đây nữa đâu. Anh nói, chị gầy quá sức. Tôi bảo, tôi mất bình tĩnh quá. Tôi cũng hỏi anh, tại sao bức tượng trong chiếc hộp lại là một mụ phù thủy? Anh cười bảo, chắc người làm ra họ cho thế là đẹp. Có thể nó đã được giảng nghĩa bằng bản nhạc và cả chị lẫn tôi đều không hiểu. Tôi nói, anh đi dạy triết mà vẫn có cách trả lời như một sinh viên vậy. Anh vẫn cười bảo, giáo sư làm thế nào giỏi bằng phù thủy được. Chị muốn Sài Gòn à? Vâng. Cứ kể chị đổi chỗ ở đi cũng phải. Tôi nói, làm gì cũng được nhưng tôi không muốn ở đây nữa. Anh tỉ mẩn ngồi cho chạy lại bản đàn. Tiếng linh tinh bỗng làm tôi buốt óc. Chịu đựng một cái chết trong đời mình quả là một việc khó khăn quá. Anh bảo tôi, thôi chị làm thế nào thì làm, miễn chị bỏ được sự ám ảnh cũ. Vì cũng chẳng còn cách nào hơn. Tôi nói, vâng, và cũng không còn biết phải bắt đầu, có lẽ tôi đã bắt đầu rồi, từ hôm anh ấy bay đi, từ ngay cái phút anh ấy mới bước ra khỏi cửa, vâng, và từ phút này dù muốn hay không tôi cũng bắt buộc phải để lại tất cả những gì thuộc nửa quãng đời về trước, để tiếp tục phần còn lại, dầu với ý nghĩa như thế nào. Tiếng phản lực cơ xé trời giúp tôi khỏi phải nói với người bạn những lời tôi nghĩ ra được.

Tôi đáp phi cơ vào Sài Gòn, tàu bay nghiêng cánh cho nhìn thấy cái thành phố đầy cát trắng và mặt trời lần cuối. Vĩnh biệt những cây thông đen trong phi trường nơi tôi cũng đã cùng bốc cháy nhưng với ngọn lửa hạnh phúc nên chẳng thành tro than. Vĩnh biệt những chiếc buồng tắm mỗi ngày phải dùng tới hai ba lần. Vĩnh biệt anh yêu dấu, em sẽ phải quên anh. Mặt biển xanh trong suốt nhìn thấy cát dưới đáy sâu, dâng lên rồi xoáy hút xuống bên dưới, lấp kín cả ngôi mộ tôi không tìm thấy phương hướng, là lời đáp giã từ. Từng đám mây trắng xóa ngoài khung cửa phi cơ lướt qua không kịp nhận biết hình thù hút theo trí nhớ, tôi bịt mũi thổi hơi ra ngoài lỗ tai cho khỏi bị ù. Thân xác nhẹ tênh trong một cảm giác choáng váng, tôi cởi bỏ sợi dây an toàn, nhắm mắt thở nhẹ để cố giữ cho những hình ảnh còn sót lại trong óc đừng tan biến đi nốt, tưởng lại khu nghĩa trang trên cát và những lần tôi vào viếng thăm với bó hoa nhỏ trên tay, nhìn những cây thông đen đủi nứt nẻ reo trong hơi nóng, tôi phải tháo giầy ra cầm tay để đi chân không vào, giẫm trên những xác trái khô chìm lẫn dưới cát bỏng đến nỗi tôi lại phải bỏ giầy xuống đi, trở về nhà hai ngón chân cái thường bị xước da phía trên vì cát bám cọ vào mũi giầy. Lòng tôi cũng mang những xót xa tương tự, những nỗi xót xa nhỏ bé, vô ích, tôi biết một cách se thắt rằng giữa anh và tôi, dù thế nào, cũng chỉ còn một sự liên lạc mà thôi, đó là tấm bia mộ vô tri tôi phủi bụi mỗi lần.

Người bạn đã giới thiệu Vinh cho tôi, để “nếu có gì trục trặc về nơi ăn chốn ở mới, chị có thể nhờ anh ấy”, Vinh làm thông tấn ngoại quốc ở đây. Tôi không biết Vinh làm công việc đó với một ý hướng như thế nào, nhưng đối với tôi chỉ có một ý nghĩa đáng kể trước nhất là, cả anh nữa, anh cũng hàng ngày ở gần với cái chết. Anh nói với tôi về những trận đánh trên núi, người ta đã thả bom lửa khiến cả mấy ngọn núi cháy dữ dội như hỏa diệm sơn. Anh cũng nói với tôi về những quãng đường hành quân nghe tiếng nổ và nhìn thấy khói ở dưới đất bay lên, lính chết, và người ta có khi mất cả tháng không đi hết những đường hầm tìm thấy, một toán đi trên, một toán đi dưới hầm, liên lạc bằng máy vô tuyến, đánh nhau với địch cả trên và dưới đất suốt đêm ngày, không biết lúc nào và ở đâu. Anh đã ở những đồn quân tiền tuyến không nhớ nổi bao nhiêu ngày đã không ngoi ra khỏi hào lũy, không ló đầu lên khỏi mặt đất, trời mưa cũng như trời nắng.

Tôi cũng chẳng muốn nhắc với Vinh về cái chết của chồng tôi. Vinh đưa tôi đi ăn ở những tiệm ngoài thành phố, có khi anh ở lại Sài Gòn một vài ngày, nhiều là một hai tuần, rồi lại tiếp tục đi, cả tháng tôi mới gặp lại anh, anh trở lại với bụi bậm, mồ hôi và tính tình mỗi ngày một thay đổi, anh vừa thân vừa lạ với tôi như khắp mọi nơi, tôi chẳng tham dự nhưng hình như đã phải đơn phương vào đó bằng cái chết của chồng tôi, tôi hỏi Vinh có yêu tôi không, đó là câu hỏi hết sức tránh phải trả lời, anh chiều chuộng và mua tặng tôi những món quà không phải tôi không thích nhưng không cần thiết.

Nhưng có cần gì, đối với tôi, chỉ có anh, chỉ có sự gần gũi thực sự của anh bên cạnh là đáng kể. Tôi không thể chịu nổi nữa cái cảnh nói không ai nghe tiếng mình, có lẽ tất cả những người đàn bà không có ai yêu, hay người yêu đã chết đều hiểu rõ điều này, mặc dù tôi biết, tôi hiểu rằng, những điều tôi nói ra không có gì đáng nói, nhưng ý nghĩa của nó là được nói với người khác không phải nói một mình.

Căn phòng tôi thuê ở tầng thứ tư một building gần bờ sông có thang máy để lên xuống. Tôi mở chiếc cửa sắt bước vào, đóng cửa tìm cái nút số 4 ấn một cái. Chiếc thang máy chuyển động rồi chạy lên. Trời còn mưa ào ạt bên ngoài. Ngọn đèn nhỏ trong hộp thang chiếu trên đầu, tôi nhìn chiếc bóng mình áp trên tấm vách gỗ. Tầng thứ nhất rồi tầng thứ hai, bao giờ đứng trong thang máy tôi cũng cảm thấy nôn nao, chóng mặt. Tôi nghĩ giá lầu tôi ở cao hơn nữa, tầng thứ mười lăm hay hai mươi có lẽ tôi sẽ không chịu nổi. Chiếc thang dừng lại, tôi mở cửa bước ra, đi lại phía phòng mình, vừa đi vừa cởi bỏ áo mưa, tai vẫn còn nghe tiếng mưa đổ bên ngoài. Tôi nghĩ trước và sợ đêm nay sẽ phải ngủ một mình, mở cửa sổ ngó xuống chiếc sân bên dưới, sâu thẳm, ở đó những người ở cùng building đã lấy sơn trắng kẻ ô làm một chiếc sân đánh vũ cầu mỗi buổi chiều, bây giờ mưa chắc những phòng ở bên dưới không ai mở cửa sổ ánh sáng lọt qua các khe cửa không đủ sáng sẽ làm cho khoảng sân tối hơn và trở thành sâu hơn. Có lần đứng với Vinh nhìn xuống mảnh sân đó, tôi đã nghe Vinh nói đến cái vẻ quyến rũ của cái chiều sâu đó. Tiếng nói của anh đột ngột thổi suốt linh hồn, tôi cảm thấy rõ ràng như có một con vật gì như một con sâu nhỏ, có lông mềm, bò ở trong ống xương hai đầu gối. Tôi ngước mắt nhìn anh, mặt anh không có vẻ gì khác lạ khi anh nói một cái gì làm cho tôi sợ hãi, anh bỗng cao lớn và nặng nề như cái bóng đè trong lúc mê sảng, lúc đó tôi không hiểu anh, không thể nào thông cảm được điều anh nói, đối với tôi cái chết không thể nào có được vẻ quyến rũ, tôi không muốn chết, tôi không thích chết, cái chết của chồng tôi đã dạy cho tôi sự tuyệt vọng. Thế nhưng rồi một vài lần, mươi mười lăm lần, vào buổi trưa, buổi chiều, lúc sẩm tối, đứng một mình nhìn xuống cái chiều sâu thăm thẳm dựng đứng bên dưới đó, cái mặt sân láng xi măng cứng rắn bên dưới đó, đủ cao và đủ rắn cho một cái đầu bể nát, tôi tưởng tượng ra sự bắn vỡ tung tóe của máu óc, của một thân xác mềm nhũn, trút bỏ được hết ưu phiền, tôi cũng nhận ra sự khoan khoái rạo rực được lao xuống cái vực sâu đó, một cảm giác sung sướng thật sự như cơn khoái lạc của dục tình, nhưng to lớn hơn, rộng rãi hơn, nó mở thoát ra khỏi chân tay, chà xát được bằng cả sự ân ái trong mơ, tôi đã đứng nhìn như thế, và sự xúc động chỉ chấm dứt như chiếc đĩa hát quay hết một vòng cuối cùng ở đằng sau lưng.

Thế nhưng không phải lúc nào cái chiều sâu quỷ quái đó cũng hiển hiện. Có nhiều lúc nó chỉ còn là một cái hố trơ trẽn làm chóng mặt, cuốn rút lấy thân thể như muốn nhấc bổng chân đứng khiến tôi muốn mửa cả bữa ăn vừa nuốt vào dạ dày.

Đó có lẽ là lúc này đây, tôi đương cảm thấy, tôi sẽ phải bật đèn, mở cửa sổ và không thể không ném một cái nhìn xuống cái chiều sâu đó. Tôi tra chiếc chìa khóa vào ổ, mở cửa và làm y như những điều đã nghĩ. Ngọn đèn vừa bật cháy chưa đủ làm ấm căn phòng, trời mưa suốt buổi chiều và vẫn còn đang mưa làm cho tường vôi, giường nệm, quần áo treo trên móc đều có vẻ thấm ẩm hơi nước, cũng có thể sự ẩm ướt có trước nhất ở trong trí tưởng tượng của tôi. Khi tôi đứng dựa đầu vào thành chiếc cửa sổ sơn màu xám nhìn ra ngoài, tôi có cảm tưởng đã áp mặt trên một tảng nước đá, một vết lạnh in hằn trên má và trán, đường sơn trắng không còn thể nhận thấy, đêm đã hoàn toàn đen, ánh đèn soi rõ những hạt mưa rơi như không tới nổi chiều sâu bên dưới. Cảm giác, hình ảnh nhầm lẫn tôi chẳng thiết phân biệt, mưa trên dòng sông đen phía xa, mặt nước lẫn với bãi đất, những căn nhà thấp phía bên kia bờ thắp đèn, tựa như không có nóc, ánh lửa cháy trong không, bóng đen đã bôi xóa tất cả những gì ở trên và dưới. Tôi quay vào thay quần áo và nhìn thấy gói thuốc lá để trên bàn, chiếc bàn nhỏ, bao thuốc đã được khui, tôi nhớ hình như tôi không bóc, bao thuốc đã được hút, các điếu xộc xệch, một hai điếu đã được rút ra, vậy nếu tôi không phải là người đã bóc gói thuốc, thì bữa nay Vinh về, anh đã vào đây, và vì tôi chưa về anh bỏ đi ăn, đi quanh quẩn ở đâu đó, tôi cảm thấy bị xúc động mạnh, tôi dốc bao thuốc lấy một điếu bật diêm quẹt châm thuốc hút, quay lại khép bớt một cánh cửa thay quần áo, bao giờ được mặc thứ quần áo bằng vải mềm ở nhà, bỏ được quần áo lót, tôi vẫn cảm thấy dễ chịu, chỉ có lúc đó người tôi mới cảm thấy được nghỉ ngơi thật sự. Tôi trở lại đẩy cánh cửa sổ vừa khép lại ra, một trận gió đầy hơi nước ùa vào trong phòng thổi lọt qua lần vải truyền đi khắp người. Tôi ngồi xuống chiếc ghế có nệm và tựa bằng mousse bọc vải hoa màu da mận dày. Tôi thử sờ những mẩu thuốc còn lại trong gạt tàn. Không còn một chút hơi ấm nào. Có lẽ chính là những điếu thuốc tôi đã hút, không phải Vinh. Tôi đứng dậy đi lại phía chiếc tủ lạnh kiếm đồ ăn. Mấy trái mận, một ly sữa, vài chiếc bánh biscuits trong hộp để trên nóc tủ lạnh. Thôi cũng được. Sớm mai nếu tiện tôi sẽ ăn bù bữa cơm thiếu này. Tôi mang mọi thứ trở lại bàn, bày biện, ngồi xuống, dụi điếu thuốc và bắt đầu ăn. Vừa ăn tôi lại nghĩ bữa nay mưa lạnh, ăn xong không có nước uống, phải uống nước lạnh cũng khổ, tôi lại đứng dậy đi lấy cái ấm đun nước bằng điện, vào phòng rửa mặt mở vòi máy lấy nước, nước chảy xối trong ấm, tôi ngó bóng mình trong gương, miếng bánh cắn giữa hàm răng, tôi ghé sát mặt vào nhìn cho rõ hai con mắt, dấu vết những đêm thiếu ngủ chưa hết, hai cái quầng trũng thâm, hằn rõ những đường nhăn nhỏ, hơi thở từ mũi làm mờ mặt kính, ấm nước đầy tràn, tôi phải tắt máy, đổ bớt ra, tôi thở thật mạnh làm như thở khói ra, hơi nước bám mờ loang lớn thêm, tôi lấy lưỡi đưa nốt miếng bánh vào miệng, gầm gừ với bóng mình rồi trở ra cắm điện đun nước, tôi muốn được uống một ngụm nước trà sau bữa ăn. Bữa ăn chẳng ra bữa ăn, đời chẳng ra đời… Nghĩ thế tôi lấy lòng càng chua chát. Tôi lắng tai nghe các phòng bên cạnh, xem người ta đang làm gì.

Ở tầng trên cùng này là những người độc thân. Đàn ông thì viết văn, làm báo, công tư chức già, thương gia giàu có thuê phòng riêng để hưởng lạc, đàn bà thì làm gái nhảy, vợ lẽ, sống bao lương tháng và những thứ lỡ thì, lỡ tuổi, lỡ đời như tôi. Tôi lắng nghe và tôi chẳng nghe tiếng gì hết, ngoài tiếng mưa và gió thổi bên ngoài. Tôi mới ở building tôi không rõ đời sống nơi này lắm, nhưng có điều những tiếng động ở đây thường là những tiếng động gây tưởng tượng, cả sự yên lặng nữa. Mỗi phòng như một nhà giam nhỏ người ta đi về đều đóng cửa, tự giam, tự giấu mình trong đó. Tôi không thích đời sống ở đây nhưng không dễ thuê được một căn nhà ngoài phố bây giờ. Vả chăng, dầu sao cũng còn một sự dễ chịu là người ta không phải chú ý đến những người chung quanh cho lắm. Đi về gặp nhau mỉm cười gật đầu chào một cái cũng được, không cũng chẳng sao. Ở ngoài phố thì không làm thế được. Quanh quẩn đã gần chín giờ. Tôi lấy ấm pha trà và thấy cần đi ra nhà sau. Làm việc này thật ngại. Cần lắm tôi mới đi. Thế nhưng có nhiều hôm ra đến nơi thấy người ta đứng xem báo đợi đến lượt mình, tôi đi thẳng xuống tầng dưới mất công đi ngược cái hành lang suốt dọc building leo một cầu thang lên lại lầu mình ở đầu đằng này. Tôi đi ra sau, trở về rửa ráy xong, ấm trà vừa ngấm. Hương sen thơm và nước nóng thấm qua tách ra tay, tôi uống từng ngụm nhỏ, ngồi ngửa mặt nhìn lên trần nhà, tựa đầu trên thành ghế. Uống hết hai tách nước, tôi lại châm thuốc hút và ngoẹo đầu ngủ, vừa ngủ vừa thức vừa hút thuốc tôi không biết mình ngủ lúc nào, thức lúc nào, nhưng tôi còn nhớ được là tôi đã tiếp thêm một điếu thuốc mới nữa. Nhớ lại buổi tối bị cháy nệm ở nơi cũ. Anh ấy đã chết thật ở trong tôi và ở ngoài tôi. Không còn một tí hy vọng nào, không còn một ý nghĩa nào thiết thực cho đời sống tôi. Đàn bà mau quên hay đích thực người ta không còn thể nào tìm thấy được sự liên lạc với người đã chết?

Vinh về thật, anh vào lúc nào tôi không hay, anh lại gần nhấc điếu thuốc ra khỏi tay tôi, anh gọi, đánh thức tôi bằng cách hôn tôi. Tôi giật mình mở choàng mắt chống đỡ. Vinh hỏi Hà về bao giờ. Tôi nói em đoán anh về mà. Đoán thế nào? Tôi mỉm cười nhìn xuống bao thuốc. Vinh cũng cười bảo, đợi em buồn quá, nên anh xuống phố. Em ăn gì chưa? Tôi nhìn anh gật đầu. Anh đã cạo râu, rửa mặt, thay quần áo sạch sẽ. Tôi nói, chưa bao giờ em thấy anh sạch sẽ đến thế. Vinh vẫn cười, vì lâu lâu phải chưng bảnh với em một lần chứ. Tôi nói, mưa buồn quá, lúc tan sở em ngóng anh ở cửa không thấy. Anh phải lại đằng hãng gửi cho họ ít hình và tin tức mới. Vinh bế tôi lên lòng. Anh ngồi vào chiếc ghế tôi đang ngồi. Bàn tay anh lùa vào lưng áo tôi. Anh hôn môi tôi, say đắm và âu yếm. Cái hôn của anh làm thức dậy trong tôi một nỗi sung sướng bải hoải. Tôi thốt nghĩ đến con sông mù mù dưới trời mưa khi nãy, làn nước đen bốc khói hay bụi nước bay hơi, tôi nhớ lại những sợi chỉ nhăn trên quầng mắt và dáng điệu mình tìm cách ăn miếng bánh ngậm trên răng. Vinh cắn trên cổ, trên ngực làm tôi buồn, tôi nói buồn em anh. Vinh bảo chiều đi máy bay bị bão bết quá, hành khách đều mửa hết. Tôi hỏi anh từ đâu về. Vinh nói, ngoài Trung, kể cũng chán, tôi nói, anh đi đâu em cũng chẳng biết, anh về em cũng chẳng hay. Bàn tay Vinh bóp chặt trên vai tôi, anh về thì anh tới đây, thế nào anh cũng tới mà. Tôi cũng hỏi, công việc của anh ra làm sao? Việc gì cơ? Ồ, việc này việc khác. Vinh nói, được đến đâu hay đến đó. Đó là những câu hỏi, trả lời, không định rõ, nhưng nó liên quan tới chúng tôi chẳng khác nào bàn tay anh vuốt ve ôm giữ tôi, một chuyện nào đó xảy ra, một chuyện không may dĩ nhiên, có thể chia lìa khỏi tôi bàn tay ấy, cái không may và cái may mắn đều ngang hàng không biết trước. Vinh rủ tôi đi ăn. Tôi nói tôi không đói nhưng nếu anh muốn ăn thì tôi sẽ đi. Anh nói, em lười quá, không đói cũng phải đi chứ. Anh vừa lãnh một cặp tiền không tiêu cũng uổng.

Câu nói giỡn của Vinh bỗng làm cho những cảm giác ngây ngất êm đềm anh đang gây cho tôi bằng hai bàn tay anh vuốt ve dưới lưng áo, bằng môi và những chân râu vừa cạo của anh sát trên cổ, vụt tắt, tắt như ngọn đèn chói lóa chợt chiếu thẳng vào mắt, làm lẫn lộn ánh sáng và bóng tối, tắt mà vẫn sáng rực trong tâm hồn tôi vừa trũng xuống như đêm, tôi bỗng cảm thấy trí óc sáng suốt một cách tuyệt vọng, sáng suốt mà không suy nghĩ được gì. Dòng sông đầy khói sương bên ngoài, vạch sơn trắng sâu dưới sân bay lên, quấn quít trong đầu tôi. Quãng đường đi qua lúc buổi chiều, khoảng trời đục mù trên cao không phân biệt được giới hạn chiều cao chỗ nào, mưa và bóng tối đã nối liền trời và quãng không trên các nóc nhà và đỉnh cây. Một cái gì đã thoát ra khỏi tay chân tôi, mất như một ngày vừa hết, tôi không thể làm dừng lại những xúc động, không thể vui buồn như ý muốn, hai hàng nước mắt chảy trên má, Vinh hỏi tôi, em khóc đấy à? Tôi nói kỳ quá, em không nhịn được. Anh thay quần áo cho tôi như trẻ con. Một cơn gió ùa mạnh vào trong phòng làm rớt chiếc ly không trên mặt bàn xuống sàn vỡ tan tành, mất công nhặt mảnh vụn, Vinh hôn tôi nồng nàn trên môi, để em thoa lại chút phấn đi anh, mình đi đâu bây giờ, đâu cũng được, tôi lấy chiếc phất trần quơ những mảnh thủy tinh vụn gói vào một gói giấy, để rồi vứt ra ngoài, trời vẫn mưa đều, gió lùng bùng quanh quẩn trong mấy bức tường bay lất phất những quần áo treo trên móc, vạch sơn trắng và ngọn đèn cháy trên dòng sông sương mù còn lởn vởn, mưa rào rạo trên mặt gỗ mấy cánh cửa sổ, đêm đã sâu, những ngọn đèn đường nhìn thấy thấp thoáng sau những hàng cây đen ngang tầm mắt. Thang máy có người dùng nên chúng tôi đi bằng lối cầu thang xuống phố. Vinh đưa tôi tới chiếc xe nhỏ kiểu thể thao có chụp mui, mở cửa xe cho tôi vào, xe của ai thế, anh mượn của một người bạn, anh mở máy xe ngả đầu hôn phớt trên má tôi trước khi cho xe chạy, mưa xối trên nóc, hai chiếc que gạt nước chạy đi chạy lại trên mặt kính trước mặt, tiếng nước bắn nghe rõ hai bên thành xe, mặt đường mưa rơi vỡ thành bụi trắng, hai người cảnh sát đội mũ mặc áo mưa tùm hụp đứng khuất vào căn nhà góc ngã tư nơi trụ đèn giao thông. Mình ra bờ sông ăn nhé, Vinh nói. Tôi nhắm mắt ngả đầu vào thành ghế và vai Vinh, em thèm ngủ quá, bờ sông hả anh, ờ phải đó ra ngoài đó ngồi một lúc cho thoáng. Vinh bảo, em coi chừng ăn uống thất thường mất hết sức khỏe. Tôi nói, mỗi bữa phải đi ăn ngại quá. Đứa trẻ cầm một cái tàn lớn che cho chúng tôi đi vào trong quán. Trời mưa quán vắng, nhiều bàn bỏ trống, chúng tôi ngồi một bàn ở phía sát lan can, Vinh đề nghị tôi uống rượu, tôi nói phải đấy, tôi muốn được thoát khỏi mình, chiếc ly thủy tinh nhỏ trong suốt nước rượu đỏ và viên đá thả bên trong, mưa lấp kín mặt sông, chỗ này chúng tôi đã ngồi nhiều lần vào giờ nước lên và rút đi, những buổi chiều trời đẹp nước trong xanh hay lều bều rác rưởi, vở dừa, những con chuột chết bụng trương phềnh trôi dập dềnh mắc kẹt trong những sợi dây neo mấy chiếc thuyền làm quán ăn nổi bên cạnh, bãi bùn bẩn thỉu đầy những nút chai, vỏ hộp, những mảnh gạch vụn, đồ thừa thãi những thứ người ta không thể nào biết được nó là cái gì nữa, hớp rượu lúc đó có vị ngọt khác thường, hơi men bừng lên mặt và làm đói, tôi cầm chiếc thìa nhỏ vứt qua khe chiếc lan can sắt xuống dòng sông, mưa vùi kín không còn một dấu tích, một sự thổn thức không thành từ lúc nghe câu nói đùa của Vinh vẫn còn muốn thức dậy, trí óc lãng đãng một điều gì muốn quen, muốn nhớ, đường sơn trắng bay lên, uốn mềm như một dải khăn, Vinh nói, ăn đi chứ em, dòng sông đen mờ hơi nước và ngọn đèn cháy sáng giữa khoảng không, em uống rượu nữa không, em muốn uống nhưng sợ lát say, cứ uống đi, anh đưa về, không đời nào đâu, em sẽ đi một mình, bữa cơm ngon, tôi ăn được nhiều hơn tôi tưởng nữa, Vinh nói có ngày vì lười em ăn cả chiếc ly uống nước của em nữa, tôi bảo em đói thật, buổi chiều em đã ăn mấy chiếc bánh rồi mà sao vẫn còn đói, một trận gió lớn tốc từ dưới sông lên làm bát đĩa rơi vỡ loảng xoảng, những người bồi cuống quýt chạy đi chạy lại để giữ, sự thay đổi bất chợt của thời tiết và tiếng rơi vỡ làm tôi thích thú, tôi muốn hất luôn ly rượu xuống đất, nhưng nghĩ đã vứt chiếc thìa xuống sông, nên không làm nữa. Vinh nói bão rớt. Có lẽ cơn bão này đã làm mọi người nôn mửa trên chuyến máy bay anh vừa đi lúc chiều. Còn chiếc máy bay đâm xuống một khu rừng không tên, viên đá tan trong nước rượu lạnh buốt, còn chuyến phi cơ tôi đã ngồi nhìn xuống vùng biển xanh trong suốt, một cây thông đen mọc sững trong đầu, tôi nói với Vinh, bữa nay em không nghĩ được gì rõ cả. Vinh bảo tôi, em nên nghỉ ít lâu đừng đi làm nữa, độ này em gầy quá đó. Tôi gầy quá đó là điều tôi cứ nghe nhắc hoài, tôi cứ gầy đi mãi sao, hai con mắt nhìn thấy trong gương buổi chiều bây giờ tôi thử nhớ lại, cái gạt tàn với những mẩu thuốc lạnh ngắt, tôi nói, sẽ có ngày em nhảy thử xuống cái sân sau của anh, em sẽ nhảy trúng cái vạch sơn làm đích. Vinh nhìn tôi cười bảo nhưng coi chừng vỡ mất cái đầu xinh đẹp em sẽ không còn cái gì để mà nghĩ bậy. Tôi nhìn sang bên kia sông, những tấm bảng quảng cáo lớn giờ trông thấy cũng mờ mờ, tôi hỏi Vinh, anh đã sang bên ấy chơi lần nào chưa? Vinh bảo chưa và anh bảo nếu em muốn sang chơi hôm nào anh đưa sang. Tôi nói em có việc gì đâu. Nghe nói ở bên đó có một nữ tu viện. Mưa vẫn không ngớt. Một chiếc đèn pha từ căn cứ hải quân chiếu sáng từng mảnh khu vườn căn nhà lớn phía hải cảng. Một chiếc tàu lớn đậu ở bến thắp đèn trên các cột và sau các cửa sổ, không nhìn thấy bóng người, những lá cờ nhỏ treo dọc theo các sợi dây vừa bị gió thổi vừa vì mưa lớn không còn thể phân biệt được màu sắc nên tôi trông như tất cả đều đen. Lúc ra xe tôi hơi choáng váng. Vinh bảo coi chừng em say thật đa. Tôi phải nói sẽ với Vinh, cái đầu em, anh dắt em đi. Ngồi trong xe quay kính kín như một chiếc hộp, tôi thèm được ngủ quá sức. Vinh vỗ vỗ vai tôi, về nhà hãy hay chứ. Tôi bảo Vinh, anh cho em điếu thuốc đi. Vinh mở hộp xe kiếm thuốc và tôi tự làm lấy việc này, anh còn lái xe, tôi lấy thuốc, bật quẹt châm hút. Phố chỉ còn lại xe cộ và những quán cóc thấp thoáng người đứng ngồi.

Tôi chợt nhớ có lần Vinh bảo anh chỉ có một chỗ thôi, đó là đời sống, không có chỗ ấy thì không còn chỗ nào khác nữa. Thế còn chỗ của tôi, chỗ của tôi là chỗ nào đây, hai mi mắt nặng trĩu, nhưng tôi biết đêm nay tôi sẽ không ngủ được, anh có hút không em châm cho, Vinh nói ừ châm cho anh một điếu. Tôi mồi lửa cho anh, nghĩ đến những buổi chiều ở một mình trên căn gác. Chúng tôi trở về phòng, Vinh bảo, thôi đừng bật đèn, anh bước lại mở cửa sổ và chúng tôi bỏ quần áo trong thứ ánh sáng lờ mờ đó. Vinh nói cứ để cửa đêm ngủ cho mát, gió hắt theo những hạt nước nhỏ vào người nhưng cũng đủ làm tôi nổi gai vì rét, tôi nhào xuống giường cuốn tấm chăn len nhẹ lên mình, em lạnh quá. Vinh vẫn còn điếu thuốc trên môi nằm xuống bên cạnh, khung cửa sổ nhìn ngược hình như đảo lộn, nhưng có lẽ tại tôi say, những giọt nước lạnh rớt trên mặt, gió thổi mạnh, tôi nhìn thấy tấm vải dày phủ ngoài hốc tường làm tủ treo quần áo bay tung hẳn lên và reo phần phật, tôi nói gió quá anh, Vinh dụi tắt điếu thuốc, anh phủ kín tôi và bàn tay anh dịu dàng sờ lên môi, trên cổ tôi, anh nói, xương vai em nhô cả ra đây này, chiều sâu, ngọn đèn, dòng sông, ly rượu, cùng một lúc nổi lềnh bềnh cùng với thân thể tôi, rồi mất tăm từng thứ và hiển hiện trở lại, vui buồn lẩn khuất trong đám sương, tôi nhầm lẫn tên gọi, một mặt trời nhỏ bây giờ sáng giữa thân thể, đốt cháy, phân chia mặt mũi và chân tay, tôi phải tách rời một cái tôi không thể tách rời, như thân thể, phần nào em dâng hiến cho anh, phần nào cho em, phần nào cho người đã chết? Mưa làm thành những tiếng rì rầm đều đều dìm sâu thêm trí giác, sợi khói trắng bay ra khỏi đầu, tôi thở hụt từng hơi.

Trí não và chân tay duỗi ra sau cơn co rút, mùi tanh hăng ngửi thấy cùng với sự buồn chán bắt đầu, đời sống ứa nhựa hay cái chết tự vắt mình, Vinh lau cho tôi, bụi mưa bám lấm tấm trên cánh tay bỏ ngoài chăn và trên mặt, cảm giác còn tê cứng, những hạt nước lạnh buốt tôi đã nhận thấy từ lúc nãy nhưng trong một ý thức mù tịt tựa bị tràn qua một lớp mật trắng. Mưa mau nhưng nhỏ hạt hơn, phố không còn tiếng động, Vinh ngủ dễ dàng có lẽ anh bị mệt vì chuyến bay buổi chiều. Anh ngủ để lát sẽ trở dậy, tôi biết, tôi lần nhẹ ra khỏi chăn, lấy thuốc hút. Gió lạnh quá, tôi phải ra khép cửa sổ lại. Đốm lửa và khói thuốc làm tôi đỡ rét. Đêm đen chẳng còn nhìn thấy gì bên dưới cái chiều sâu bên ngoài. Mọi xúc cảm, ý nghĩ trong tôi bây giờ cũng đã tắt cùng với ngọn đèn mơ tưởng nào. Tôi nhìn xuống da thịt mình trắng rợn trong đêm, ánh sáng đã thoát ra, hay đó chính là cái anh gọi là đời sống? Đời sống có từ thân thể của chính mình hay là những người ngồi lê la trong mấy cái quán cóc. Tôi lấy áo mặc, ngồi xuống ghế hút hết điếu thuốc rồi trở lại giường nằm. Miệng khô mới nhớ thèm uống nước, nhưng lười tôi không muốn bò dậy nữa. Vinh nuốt nước miếng tóp tép, tôi bắt chước làm như anh cho đỡ khát. Tôi nghĩ, không gì buồn thảm bằng lần mò làm những công việc nhỏ nhặt trong tối và nghĩ về điều đó. Tìm một bao diêm, nhặt một cái áo treo lên móc, quơ tay tìm một cái tách để uống nước, những cử động đó có khi làm xong rồi ngồi xuống ghế hay lên giường nằm tôi lại tưởng như còn thấy chính mình đang mò mẫm đi tìm những thứ khác nữa. Tưởng tượng mạnh và rõ ràng đến nỗi có nhiều khi đã làm tôi hoảng sợ. Những lúc đó tôi muốn chết, cái chết nhẹ nhàng như tiếng chết tôi muốn la lên một mình, nhưng nó chỉ lí nhí, lúng búng trong cổ họng, tôi trở dậy đóng cửa sổ hay mở ra, làm một cử chỉ gì đó, kiếm một viên thuốc uống, đi lại trong phòng và chính lúc đó, tôi lại nhìn thấy tôi nằm trằn trọc trên giường. Dĩ nhiên đó chỉ là những ảo tưởng. Ba mươi năm sống của tôi càng ngày càng nhiều ảo tưởng. Nhiều đến nỗi tôi không thể phân biệt cái nào cũ, cái nào mới, cái nào mất đi hay trở lại, ảo tưởng là cái gì tôi nhìn thấy, sờ thấy hay những cái đã biến đi, những cái hoàn toàn do tôi tưởng tượng, cái chết của chồng tôi và nỗi ám ảnh của tôi về anh cũng là ảo tưởng, như những ngày anh đã sống thật với tôi, tôi còn nhớ, ảo tưởng là tủ áo của tôi xếp đều trong ô kính và xếp đều trong trí nhớ, anh đã sống và chết bên cái tủ áo ấy, ảo tưởng là những chiếc áo tôi mặc mỗi ngày, Vinh thức giấc. Anh sờ trên người tôi và hỏi em mặc áo rồi à? Tôi thấy ngứa ngáy trong cổ và ho mấy tiếng. Vinh nói, coi chừng em bị cảm đấy. Tôi bảo, em chưa ngủ được tí nào. Vinh nói, anh mệt quá. Trong hơi thở của anh còn mùi rượu, có lẽ mùi rượu ở trong mũi tôi không chừng, tôi hỏi anh còn say không, Vinh nói, anh đâu có say. Anh đi lần này có gì lạ không? Thì cũng vẫn thế, súng đạn, tàu bay, tàu bò, và người chết. Anh không muốn đổi nghề à? Đổi làm gì chứ? Vả lại làm gì ra tiền nhiều hơn? Tôi nói, cái may đâu có đến với mình mãi. Bàn tay Vinh làm tôi ham muốn trở lại, anh nói, biết đâu, trận đánh nào cũng vẫn có người sống sót. Em đổi hiệu sáp môi rồi à? Anh ngửi thấy mùi khác à? Đêm chẳng còn bao lâu, có lẽ đã ba, bốn giờ. Mai thứ mấy anh nhỉ? Thứ Bảy. Thứ Bảy à. Thế thì tốt. Buổi chiều được nghỉ tha hồ ngủ trưa. Mưa ngớt. Bóng tối ngoài cửa sổ bắt đầu loãng bớt màu đen. Đời sống dễ dàng nhất là lúc chẳng có gì để giữ. Mình có thể nhấm nháp và thụ hưởng từng giây phút của đời mình. Vinh lùa tay vào tóc tôi, anh hôn và dò đón để cùng chung phút cuối cùng. Hai môi tôi lạnh ngắt. Một hơi gió hết sức nhẹ thổi lùa trên mặt nhưng cũng làm tôi rùng hết cả mình, hơi gió như một làn nước mỏng tràn đầy ngũ quan và dìm sâu tôi xuống mãi. Giấc ngủ sau đó không còn mộng mị. Tôi cảm thấy mỏi mệt một cách dễ chịu, buổi sáng, lúc thức giấc. Chúng tôi rửa mặt, đánh răng và pha cà phê uống ở nhà trước khi đi làm. Vinh hẹn sẽ đón tôi buổi trưa. Tôi nghĩ, thực ra, tình yêu có lẽ chỉ có một cách chứng tỏ. Trời sáng trong nhưng chưa có một tia nắng nào. Những ngọn cây nhìn thấy trên hai bên lề đường dưới phố, xanh mướt sau một đêm mưa. Ở một vài chỗ còn những đám sương mỏng như khói thuốc. Xe cộ chạy ì ầm ngoài lộ, những âm thanh đó khua động trong tôi một vài điều gì rõ ràng, nhưng tôi tự nhủ, nghĩ làm chi cho mệt. Cái bóng đen của ngọn đèn đã tắt. Em có muốn lấy thêm đường không? Anh cho em một thìa nhỏ thôi. Nó đã chìm, đã khuất, đã tắt, nhưng tôi biết là nó vẫn còn. Sao độ này em hay chọn những màu áo già dữ vậy? Những mảnh vụn của hạt cà phê nhìn thấy dưới đáy cốc khi chất nước đen đã được nuốt dần. Có lẽ chính những hạt bụi nhỏ đó đã làm tôi nhiều đêm mất ngủ. Nhưng những viên thuốc màu hồng, màu trắng, màu xanh đã giúp tôi ngủ, nếu tôi muốn và cả hai thứ đã làm tôi mệt như nhau và trí óc có nhiều hôm không còn đủ sáng suốt để làm một việc gì, buổi sáng đi làm cần mang theo áo mưa xuống đến đường tôi mới biết tôi cầm theo cái hộp đựng giày, tôi tự hỏi cầm giày đi làm chi vậy, và lại phải leo lên phòng đổi lấy chiếc áo, buổi trưa hết giờ làm đi về gần tới nhà tôi lại phải trở lại lấy chiếc áo để quên trên móc ở sở sợ buổi chiều mưa vào lúc đi làm lại không có áo mặc. Tôi hút thuốc để quên hai cái trò chơi quái ác đó, và mỗi ngày một lần phải rửa hai ngón tay bằng chanh cho khỏi vàng. Trò chơi? Thì cái gì chẳng trò chơi. Chúng tôi đóng cửa xuống đường, Vinh đưa tôi đến sở trước khi anh đến sở anh. Người bạn ở sở hỏi tôi, chồng chị đấy à? Tôi nói không. Tôi làm việc buổi sáng không nhầm lẫn chi hết. Lúc mười một giờ một người bạn Mỹ, khách quen của cơ quan tôi làm việc, mời tôi ra phố ăn sáng. Tôi đi với ông ta. Ở trong quán chúng tôi mỗi người đều mua báo đọc. Có lúc ông ta hỏi tôi nghĩ thế nào về cuộc chiến tranh này. Tôi cười bảo, sao ông lại đem hỏi tôi điều mà tôi không thể nào trả lời được ấy? Ông ta cũng cười nói, dầu sao thì bà cũng đã chứng kiến từ mấy chục năm nay rồi mà. Tôi nói, thực ra nếu có một điều đáng nghĩ tới thì đó là chính những người đã chết. Ông ta hỏi, bà có bi quan quá không? Tôi nói, có nhiều lúc sự phán đoán hay ý kiến của mình chẳng có nghĩa gì. Tôi không hề muốn chồng tôi chết, anh ấy vẫn chết như thường. Tôi cũng nghe nói. Ông cũng biết tôi bị góa sao? Vâng, một vài người bạn của bà cho tôi hay. Ông hỏi thăm về tôi làm gì vậy? Ông ta bảo, nói ra thì cũng hơi kỳ, nhưng tôi đã… hỏi dò họ, vì tôi có một điều muốn đề nghị với bà. Giọng nói ngập ngừng của ông khiến tôi đã đoán được điều ông muốn nói với tôi, nhưng dầu sao thì đó chỉ là dự đoán, cần phải nghe chính ông ta nói mới biết được. Ông ta nhìn thẳng vào mặt tôi và nói rằng ông rất có cảm tình với tôi, cha mẹ ông có một trang trại khá lớn ở bên Mỹ, chắc chắn sau này phần gia tài sẽ được trao lại cho ông, vì ông là con một, và chính ông, ông cũng để dành được khá nhiều tiền, mặc dù ông bị bệnh dạ dày nhưng với số lương kỹ sư ông có thể chữa chạy mà không sợ thiếu thốn, và sau cùng ông hỏi tôi, nếu tôi nhận lời, ông xin cưới tôi và cả hai sẽ đi về Mỹ. Đề nghị của ông làm tôi buồn cười quá, và tôi không nhịn cười được, tôi nói, tôi không ngờ lại có thể có một đề nghị như thế giữa tôi và ông, hình ảnh Vinh rồ máy cho xe chạy buổi sáng khi anh đã mở cửa cho tôi xuống trước sở hiện đến rõ ràng trong óc, tôi không chuẩn bị một tình cảm nào để có thể đền đáp lòng tốt của ông, có lẽ tôi dùng chữ lòng tốt không đúng đâu, nhưng tôi không tìm được chữ nào khác, nhưng ông hãy khoan cho tôi về cuộc “viện trợ” này, tôi có ý nói đùa với ông ta về hai tiếng “viện trợ” và ông cười với tôi. Tôi cũng hỏi ông, ông có nghĩ là điều ông nói với tôi giá xảy ra ở một nơi nào khác là nước Việt Nam hiện nay thì ý nghĩa của nó có thể khác đi không? Ông nói, ông hiểu luân lý của người Việt Nam, ông biết sự khó khăn của một người đàn bà Á châu có chồng là người da trắng, nhưng ông hứa ông sẽ xin đền bù, ông tin rằng nếu có tiền người ta cũng sẽ sống được một sống được một cách dễ chịu. Tôi nói, không chừng ông chưa hiểu rõ chúng tôi lắm đâu. Ông cười bảo, bà có thể tin là tôi xin hỏi cưới bà một phần cũng chính vì cái vẻ bí mật tôi không thể nào hiểu được đó. Ông khen tôi đẹp, khen các thành phố Việt Nam đẹp, những con đường Sài Gòn có trồng cây hai bên đường là một điều lạ lùng đầy thú vị đối với ông. Ở bên Mỹ, trong các thành phố, phần lớn người ta chỉ nhìn thấy xi măng, mặt nhựa, khó nhìn thấy bóng cây và đất cát, muốn nhìn thấy những thứ đó người ta phải đi ra ngoại ô. Nói tới ngoại ô, ông nói luôn tới những buổi đi ăn ngoài trời, ông nói, ông biết một nơi câu cá, một chỗ trượt tuyết và nhiều chỗ leo núi rất thích, ông cũng nói nếu có tôi bên cạnh để cùng sống những cảnh ấy thì thật là tuyệt, đối với ông tôi giống như một khu phố có trồng cây, lạ lắm. Tôi cười bảo, ông mơ mộng chi dữ vậy. Ông nói, hình như người ta nghi ngờ người Mỹ chúng tôi chỉ thiếu có điều ấy. Đã đến lúc tôi phải nói rõ cho ông ta biết, chính chúng tôi, chúng tôi cũng còn thiếu điều đó, chúng tôi còn cần phải có nhiều hơn nữa để sống, để chấp nhận đời sống của mình, một đời sống khác hẳn đời sống của bất cứ một dân tộc nào trên thế giới, chút mơ mộng hay kỳ lạ cuối cùng còn lại đó, chúng tôi không thể đem đổi cho ai để lấy bất cứ một thứ gì, ông đã ở đây, ông đã nhìn thấy chúng tôi sống và chết ra sao rồi mà, nếu không còn cái chút gì đó thì chúng tôi còn cái gì cơ chứ? Ông ta có vẻ hoảng sợ khi nghe tôi nói một hơi dài như thế, có lẽ ông không nghe kịp lời tôi, vì chúng tôi dùng một thứ tiếng thứ ba là tiếng Pháp. Ông không thấy điều ấy khôi hài sao? Có thể tôi đã nói sai tất cả những điều tôi muốn nói với ông từ nãy, thế mà chết là lại nói đến một việc kết hợp đời đời? Ông nói nếu tôi không muốn trở về Mỹ, ông có thể ở lại Việt Nam với tôi, chúng tôi sẽ lập nghiệp ở đây. Tôi nói làm thế nào tôi có thể thay được quê hương cho ông? Vả lại lập nghiệp hay là những trong gì có nghĩa lâu bền tương tự đã làm chúng tôi sợ, người ta không thể sống mà không nghĩ trước đến tương lai, nhưng tương lai chính là điều chúng tôi sợ nhất. Bà nói cho bà hay bà nói cho ai thế? Tôi không biết, tôi nói điều tôi cảm thấy, có lẽ tôi cũng nói ít nhất là cho một người đã chết. Có lẽ tôi không thể hiểu được bà thực đấy. Điều ấy cũng chỉ có nghĩa ngang hàng như tôi nói có lẽ tôi hiểu ông. Ông lộ vẻ buồn rầu và bảo, như thế tôi không còn hy vọng gì sao? Ông nhầm đó, ông không hy vọng gì cả, nếu ông muốn lấy một người đàn bà Việt Nam, bây giờ, ông biết rõ là không khó khăn gì mà. Sự khó khăn của tôi là bà chứ không phải người khác, ông ta nói. Tôi cảm thấy hơi nóng ở đầu, giấc ngủ thiếu đêm qua làm tôi bắt đầu khó chịu, tôi nói vậy thì sự khó khăn là sự khó khăn có sẵn ở trong tôi và ở trong ông, không phải ở bên ngoài. Làm thế nào có thể dàn xếp được. Ông nói, nếu bà có thiện chí, nghĩa là, tôi muốn nói, bà không thờ ơ lắm với đề nghị của tôi, chúng ta có thể giải quyết được chứ. Tôi nói, giả thử bây giờ tôi chết đi, ông còn ở lại đất này không? Ông ta trả lời không cần suy nghĩ, dĩ nhiên không, tôi không thể làm cái việc vô lý là đổi tất cả để chẳng lấy gì hết. Vậy thì cả ông, cả tôi đều thay đổi, chúng ta có thể thay thế quyết định và chết, nhưng có một cái không thể thay đổi là quê hương của ông và quê hương của tôi. Làm thế nào chúng ta có thể gắn liền hai sự khác biệt đó. Tôi cho rằng bà nghĩ xa quá, dầu thế nào thì chúng ta cũng chỉ có một đời này để sống. Ông nói đúng đó, vậy tìm cách ra khỏi cái số phận của mình để làm gì? Tóm lại, bà không cho điều tôi muốn nói với bà là quan trọng sao? Tôi phải đắn đo hơn đối với ông từ lúc này, ông thấy rõ những lời chúng ta nói với nhau từ nãy đủ chứng tỏ tôi không hề nghĩ như thế. Tôi tìm một câu nói đùa với ông ta cho không khí bớt trầm trọng đi, ông có khi nào nghĩ rằng bất cứ một người đàn bà nào lấy chồng đã có ý nghĩ như là lấy một người ngoại quốc rồi không? Ông có vẻ không bằng lòng câu nói đùa này của tôi nhưng dầu sao tôi cũng thấy ông mỉm cười với tôi và nói, hay bà cho là tôi đã nói ra điều ấy quá sớm, nghĩa là, quá đột ngột? Tôi lấy thuốc trong sắc châm hút và bảo, ông thấy tôi hút thuốc lá trước mặt mọi người thế này, đó cũng là điều đáng coi là lạ đối với một người đàn bà Việt Nam, song vì tôi thích thì tôi cứ hút, tôi làm việc gì tôi thích, tôi cũng đã gặp và phải chịu nhiều sự bất ngờ, cái chết của chồng tôi có phải cũng là sự bất ngờ, bữa ăn sáng ông mời tôi đây không bất ngờ sao, tôi có cho thế là ông thiếu … chuẩn bị đâu. Giọng ông ta có vẻ dịu dàng, vậy bà chỉ có hai cách trả lời. Và tôi mong được trả lời một cách dứt khoát. Tôi là một người Mỹ. Tôi cũng cười với ông và không phải là tôi không cảm động, tôi nói, nhưng ông hẳn biết là còn một cách trả lời thứ ba nữa đó là tôi không trả lời câu hỏi của ông. Ông khen tôi khôn ngoan, ông cũng nói ông mong rằng tôi sẽ đổi ý kiến, và cho đến ngày nào ông còn ở lại Việt Nam tôi có thể báo tin mừng cho ông, song ông lại nói thêm rằng, dù sao thì câu trả lời của tôi cũng đã quá rõ ràng, vậy sau này, ông về Mỹ, nếu có dịp hãn hữu nào tôi qua bên ấy dừng quên ghé thăm trại của ông. Về điều này, tôi nói một cách vui vẻ, nếu có cơ hội như thế, thế nào tôi cũng ghé thăm ông. Tôi cũng nói với ông về những trại chăn nuôi và những đồng cỏ vẫn được xem trong các phim Western, và tôi vẫn thường ao ước được thấy tận mắt một lần những cảnh ấy. Khi đó ông sẽ dạy tôi cưỡi ngựa chứ? Ông nói, tôi sẽ biếu bà con ngựa đẹp nhất của trại tôi để bà mang về Việt Nam. Tôi nói, chỉ sợ khi tôi sang đến đó cả ông lẫn tôi đều không nhận ra nhau nữa vì đã đầu tóc trắng xóa cả. Ông nói, người Mỹ có thể lên mặt trăng thì quãng đường từ đây về đến nông trại của tôi chỉ bằng một giấc ngủ trưa thôi. Tôi nói đùa thêm với ông một câu nữa, thế ông không nghĩ là lúc thức dậy thì tôi đã xế chiều rồi à? Chúng tôi cùng cười với nhau và sau đó ông đưa tôi về sở.

Nguồn: Ngày tháng. Truyện dài của Nguyễn Đình Toàn. An Tiêm xuất bản lần thứ nhất, ngoài những bản thường còn in thêm 20 bản trên giấy quý dành riêng cho tác giả và nhà xuất bản. In tại Đăng Quang, 734A Phan Thanh Giản, Sài Gòn. Giấy phép số 755 BTT/NT/NHK/QN ngày 27.4.1968.

Thế Uyên - Những ý nghĩ của bọt biển ( 2 )

Thế Uyên
Những ý nghĩ của bọt biển
(Thái độ II)

Mười năm văn hoá kiểm duyệt miền Nam

Gần đây trên các tạp chí văn học có một phù trợ dịch thuật những bài tham luận, khảo luận, tự sự, hội thảo, v.v. của những nhà văn Tây phương, nhất là những nhà văn Pháp về các đề tài như: văn nghệ dấn thân hay không dấn thân, văn nghệ là vô bổ vô ích hay có tác dụng đối với xã hội, cái họa siêu hình đối với văn chương ra làm sao, văn nghệ có nên để chính trị theo đuổi hay không, v.v. Tôi theo dõi các bài ấy một cách khá chăm chú vì tò mò muốn xem thiên hạ nghĩ ngợi ra làm sao ở bên Tây, bên Mỹ, bên Tàu. Đôi khi, gặp mặt bạn bè, nếu có người nêu những đề tài ấy ra, tôi thường im lặng đứng ra ngoài cuộc bởi vì đọc những bài ấy để mở rộng thêm kiến văn thì nên, còn đọc chúng để rồi coi những vấn đề nêu ra ấy là những vấn đề của nhà văn Việt Nam thì lại là một lầm lẫn lớn. Lầm lẫn lớn bởi vì thân phận nhà văn Pháp ở giữa Paris trong một quốc gia tân tiến có chế độ tự do ngôn luận và tinh thần thái bình đã lâu không giống một chút nào thân phận nhà văn nhược tiểu Đông Nam Á. Những Grillet, Berger, Sartre, Camus đâu có phải tham dự thứ chiến tranh bi thảm, đâu có phải lo chế độ bị tiêu tan, đâu có nghèo khổ quá mức, đâu có phải chứng kiến cảnh tượng chua xót như… (Tôi xin miễn ghi tiếp bởi vì ghi tiếp thể nào cũng bị kiểm duyệt xóa bỏ. Vả lại, không ghi tiếp đầy đủ, chúng ta, những người Việt Nam, ai cũng biết rõ người cảnh tượng đó là như thế nào rồi).

Nhận xét như trên, tôi thấy rằng ở Việt Nam, vấn đề trọng đại đối với nhà văn không phải là vấn đề viết thế nào, viết để làm gì. Cũng không phải là vấn đề cái họa siêu hình, tiểu thuyết mới tiểu thuyết cũ, tiền chiến hậu chiến. Đối với nhà văn Việt Nam mang thân phận nhược tiểu Đông Nam Á, thực sự ra chỉ có một vấn đề cấp bách thường xuyên và trọng đại là VẤN ĐỀ KIỂM DUYỆT. Và nhà văn Việt Nam chỉ có một ám ảnh, thắc mắc, một vấn đề thực sự là: VIẾT THẾ NÀO ĐỂ KHỎI BỊ KIỂM DUYỆT BỎ.

Tôi không biết các cụ Nguyễn Trãi, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Gia Thiều, v.v. khi sáng tác thơ văn, có bị kiểm duyệt hay không. Tôi mở lịch sử ra đọc, và đọc mờ cả mắt mà không thấy triều đại nào đã thành lập một cơ quan kiểm duyệt. Mới đầu tôi cho rằng nhất định phải có, bởi vì không lẽ gì vào thế kỷ XX, chúng ta có cả một nền văn hóa kiểm duyệt rất phong phú mà lại không có một nguồn gốc truyền thống nào trong bốn ngàn năm văn hiến. Tôi tìm đến một vị thâm nho hỏi tiếp bởi vì tôi cho rằng quá kém chữ Hán, tôi đã không hiểu được những tên chức vụ xưa như Đông các đại học sĩ, Tả tham tri, Hữu tham tri, v.v. Hơn nữa, đọc sử, tôi đã thấy những ông đề đốc đô đốc của Quang Trung đã chỉ huy toàn đơn vị bộ binh, thì suy ra dám có một ông Chánh sự vụ Sở Kiểm duyệt nấp dưới tên một chức vụ như Đô sát Ngự sử Văn đàn chẳng hạn. Sau khi vị túc nho đã xác định là trong suốt lịch sử Việt Nam từ hồi Đinh Bộ Lĩnh cho tới khi Tôn Thất Thuyết xách gươm chạy sang Tàu, nhất định không có chức vụ kiểm duyệt nào, kể cả chức Đa sát (xin lỗi, Đô sát) ngự sử văn đàn, tôi chợt nghĩ ra một điều thực hiển nhiên là: Nếu trong quá khứ đã có những cơ quan kiểm duyệt, thì hẳn chúng ta ngày nay chưa chắc đã có Đoạn trường tân thanh, Chinh phụ ngâm hay Cung oán ngâm khúc. Bởi vì nếu có cơ quan kiểm duyệt, chắc Đoạn trường tân thanh bị cấm phổ biến vì “tả chân” quá, Cung oán ngâm khúc bị cấm vì “xúc phạm đến thuần phong mỹ tục” và Chinh phụ ngâm thì chắc chắn không những bị cấm ấn hành mà thôi, tất cả còn dám bị truy tố ra trước tòa vì tội “làm suy giảm tinh thần chiến đấu của quân đội”. Giả thử Nguyễn Du hay Nguyễn Công Trứ lấy tư cách ông bự, xin lỗi, lấy tư cách đại quan thần trong triều, gây áp lực với quan Đa sát ngự sử văn đàn, có thể những tác phẩm của các ông vẫn được lưu hành với những đoạn kiểm duyệt bỏ cần thiết. Và như thế, trong Đoạn trường tân thanh của chúng ta ngày nay, chắc chắn không còn có những câu như: “Rõ ràng trong ngọc trắng ngà, Dày dày đúc sẵn một tòa thiên nhiên” (Đa sát ngự sử văn đàn phê: “tả chân”, “khiêu dâm”) và trong Chinh phụ ngâm không còn có những câu “Bước đi một bước lại vin áo chàng”. (Đa sát ngự sử văn đàn phê: Tiễn chồng đi thi hành bổn phận quân đội gì mà lại thê thảm vậy, viết thế là “hại tới tinh thần chiến đấu của quân đội”). Càng nghĩ lại quá khứ, tôi càng mừng cho nền văn học, nếu không có ngày nay chúng ta còn gì? Vậy tôi tin rằng những người thường chê trách các cụ nhất, đến đây chắc cũng phải nghiêng đầu bái phục sự sáng suốt của tiền nhân bởi vì tiền nhân đã hiểu rằng văn hóa không thể đi đôi với chế độ kiểm duyệt.

Lịch sử đã chứng tỏ rõ khi Việt Nam còn độc lập, chúng ta không có cơ quan kiểm duyệt. Vậy có thể suy luận dễ dàng rằng chế độ kiểm duyệt hiện nay chỉ xuất hiện kể từ khi quốc gia này đi vào vòng nô lệ ngoại bang và nó thiết yếu gắn liền với sự nô lệ của dân Việt dưới một chế độ có hình thức cai trị khác nhau. Cơ quan kiểm duyệt đầu tiên của Việt Nam dĩ nhiên do người Pháp thiết lập. Tôi không được đọc những văn kiện căn bản quy định tổ chức điều hành và nhiệm vụ của cơ quan này nên không hiểu rõ thực sự người Pháp muốn gì. Nhưng căn cứ trên những sự kiện thực tế, tôi thấy người Pháp trọng văn hóa và vì thường rêu rao họ tới “khai hóa” dân Việt, do đó chế độ kiểm duyệt của họ trung bình không lấy gì làm khắt khe. Đôi khi còn có những thời kỳ thật cởi mở, người cầm bút là người đừng xúi dân nổi dậy chống chính quyền bảo hộ. Còn ngoài ra muốn viết gì thì viết tùy ý. Lắm khi, họ còn không cấm cả những cuốn đề cao con người cách mạng chống Pháp – bằng cớ là những cuốn như Đôi bạn, Đoạn tuyệt của Nhất Linh, v.v. đều ấn hành dưới thời Pháp thuộc.

Theo ý tôi, chính vì sự hiểu biết và chính sách cởi mở của các cơ quan kiểm duyệt dưới thời Pháp thuộc, dân Việt đã có một thời kỳ sinh hoạt văn hóa phong phú từ 1925 tới 1945. Dù không ưa gì người Pháp, tôi cũng phải ghi nhận rằng nhờ sự tử tế này, chúng ta mới có văn học sử cận đại đáng kể. Đọc đến đây, nhiều người có tinh thần bài Pháp hơn tôi chắc không đồng ý. Nhưng nếu những người đó làm một thí nghiệm giả tưởng là đem một vài tác phẩm của văn chương tiền chiến đưa ra kiểm duyệt theo các tiêu chuẩn hiện nay, họ sẽ đổi ý kiến. Cuốn Hồn bướm mơ tiên chẳng hạn, chắc chắn không thể được phép in vì nội dung thuật lại một tình duyên có tính cách ép liễu nài hoa dưới bóng từ bi của Phật tổ – nhân viên kiểm duyệt sẽ bôi bỏ. Cuốn Giông tố của Vũ Trọng Phụng chắc sẽ được truyền tay nhau đọc để rồi cũng bôi bỏ trọn cuốn vì nội dung “phương hại tới nền đạo đức truyền thống của dân tộc”. Cuốn Số đỏ cũng bị cấm không những vì cùng lý do trên, còn thêm lý do đả phá giai cấp thống trị. Nói một cách giản dị, một nhà văn như Vũ Trọng Phụng chắc chắn không thể ra mắt dân chúng và thành danh dưới chế độ hiện nay. Tôi đã một lần tình cờ tìm được hai cuốn kể trên ấn bản thời Pháp thuộc, đem so với những ấn bản mới phát hành gần đây tôi đã thấy cơ quan kiểm duyệt hồi tố nhiều đoạn trong ấn bản sau. Một giáo sư bạn tôi khi biết truyện này đã thốt ra một tiếng thở dài: “Cũng may là mấy ngài kiểm duyệt còn thương các cụ, đã buông tha cho các tác phẩm của thế kỷ XIX…”.

Sau khi người lính viễn chinh Pháp cuối cùng xuống tàu hồi hương, có một cơ quan do chính quyền bảo hộ để lại được chính phủ đầu tiên Việt Nam Cộng hòa nâng niu quý trọng nhiều nhất là cơ quan kiểm duyệt. Điều đó thực dễ hiểu vì thành phần lãnh đạo mới đa số là cựu quan lại và phong kiến cũ – những người đã từng bị nhà văn nhà báo tố cáo sự thối nát nhũng lạm ngay từ dưới thời Pháp thuộc. Do đó, các quan Tuần vũ, quan Huyện, quan Phủ, quan Đốc phủ sứ, v.v. ngay sau khi lên được địa vị chủ nhân ông nước Việt Nam, đã liên kết với nhau để thẳng tay triệt hạ sinh hoạt văn hóa – họ hy vọng làm im được tiếng nói của dân chúng biểu lộ qua các tác phẩm và báo chí, họ sẽ vĩnh viễn giữ được “triều đình mới”. Họ đã không thành công trong việc duy trì “triều đình” quá 10 năm, nhưng đã thành công trong việc làm tê liệt các sinh hoạt văn hóa và tạo ra cả một MƯỜI NĂM VĂN HÓA KIỂM DUYỆT MIỀN NAM.

Trước khi viết văn, tôi đã từng nghe thấy tiếng kêu la của nhiều nhà văn về sự khắt khe thiếu hiểu biết của Kiểm Duyệt. Và tôi va đầu vào bức tường kiểm duyệt ngay từ truyện ngắn đầu tiên. Nhất Linh khi còn chủ trương Văn Hóa Ngày Nay, nói: “Truyện cháu viết được nhưng kiểm duyệt không cho đăng đâu…”. Từ ngày ấy cho tới nay, mỗi khi cầm bút viết, tôi đều bị ám ảnh bởi một câu hỏi: “Làm sao đây cho khỏi bị Kiểm Duyệt bỏ?”. Theo lời khuyên của nhiều người giàu kinh nghiệm, tôi tránh viết những bài khảo luận bởi vì chế độ Diệm sẵn lòng cho nói chuyện văn chương chính trị bên Phú-lãng-sa, bên Mỹ, bên Brésil nhưng lại rất kỵ việc người cầm bút quốc nội đưa những ý kiến, bàn tới những lý thuyết đi ra ngoài khuôn khổ “Cần lao Nhân vị”. Nhưng rút lui vào địa hạt sáng tác cũng không xong bởi vì trong địa hạt này cũng có nhiều cấm điều. Chẳng hạn như muốn rủa Thượng Đế một câu cũng khó, muốn viết một chút về quân đội cũng không xong. Viết truyện tình cũng không yên thân vì Phủ Tổng Thống đã ban chỉ thị xuống cho các nhân viên kiểm duyệt biết chỉ cho phép yêu như thế nào. Tôi có một thời kỳ nhận thấy cứ tả hôn môi là bị bỏ nên đành viết đến chỗ chàng-bắt-đầu-cúi-xuống hay nàng-bắt-đầu-ngửng-lên là ngừng. Một thời kỳ khác tôi nhận thấy nhân vật cấm không được bàn cả đến vấn đề trinh tiết. Xoay sang viết về chiến tranh Việt-Pháp trước 1954, cũng bị Kiểm Duyệt bôi xóa… Có lần bực tức quá, tôi nghĩ: “Thôi, có lẽ cũng đành nghỉ viết cho rồi!”. Tôi đã nghỉ viết một thời gian khá lâu và khi bắt đầu lại, mỗi khi cầm bút lại tự nhủ: “Cứ viết để đấy, viết cho độc giả năm năm sau…”.

Nhưng chế độ của hai ông Nhu – Diệm đã sụp đổ sớm hơn lòng mong mỏi. Lợi dụng khí thế cách mạng những tháng đầu, tôi vội vàng cho đăng những truyện đã chuẩn bị sẵn. Nhưng thời kỳ cởi mở qua rất nhanh ............................ [1] Các sáng tác của tôi đã bắt đầu xuất hiện trên các báo với các vết đen ô nhục hay các khoảng trắng mỹ thuật. Nhưng tôi chưa chán nản như dưới thời Nhu Diệm dù bị va đầu vào một loạt cấm điều mới: cấm đả kích Viện Hoá Đạo, cấm đả kích Thiên chúa giáo, cấm tố cáo những xấu xa của nhà cầm quyền, cấm phê bình chính sách của chính phủ, cấm nói động tới các tướng lãnh ........................... [2] .

Tôi chưa chán nản bởi vì một buổi đi làm về tới nhà biết tin một người em họ khá thân vừa bị Việt cộng bắt không biết sống chết thế nào, tôi chợt hiểu một điều là tôi và các bạn tôi cần phải có bổn phận phải tiếp tục cuộc chiến đã mở trên địa hạt văn hóa ít nhất cũng bởi vì nếu miền Nam mất vào tay cộng sản, chúng tôi sẽ chịu cùng số phận với người em họ kia – chứ đâu có thể đáp phi cơ đi ngoại quốc sống ung dung như những vị đang tưởng rằng chỉ cần dollar và súng đạn là thắng được kẻ thù.


Văn hoá trong chiến tranh Việt Nam

Tại các nước có truyền thống dân chủ như Pháp, Anh, Hoa Kỳ, v.v. những người cầm bút thường được sử dụng ngòi bút của mình theo lương tâm của chính họ và dư luận quần chúng. Vì thế, những nhà văn nhà báo tại các nước Tây phương này có thể được coi như phát ngôn viên cho nguyện vọng nhân dân mọi tầng lớp trong xã hội. Cũng vì thế, dân mua báo, mua sách và kết quả là những người cầm bút có một mức sống khá cao và nguồn lợi tức không lệ thuộc vào chính quyền. Trong những điều kiện ấy, văn hóa (trong đó báo chí là một bộ môn) có thể coi như sinh hoạt và phát triển trong một chính sách văn hóa tạm gọi là TỰ DO. Quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận trở thành một thứ quyền thứ tư sau quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Những người hành xử thứ quyền thứ tư này được cả chính quyền lẫn dân chúng tôn trọng.

Tại các nước theo xã hội chủ nghĩa như Nga Xô, Ba Lan, Trung Cộng, Bắc Việt, v.v. những người cầm bút phải sử dụng ngòi bút của mình theo chỉ thị của đảng và giới hạn trong chính sách của đảng từng thời kỳ. Vì thế, họ không phải là phát ngôn viên cho dân, mà là phát ngôn viên cho đảng. Cũng vì thế dân ít mua sách, báo và cũng vì vậy, đảng phải bao dưỡng nhà văn qua cơ quan trung gian và thừa hành là Chính phủ, và hậu quả là nhà văn có mức sống khá cao và nguồn lợi tức hoàn toàn lệ thuộc vào chính quyền. Trong những điều kiện ấy, văn hóa có thể coi như sinh hoạt và phát triển trong một chính sách văn hóa tạm gọi là CHỈ HUY. Quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận bị tiêu diệt hay hạn chế tối đa và những người cầm bút được chính quyền đối xử như những cán bộ đặc biệt và đãi ngộ xứng đáng. Còn người dân thì thờ ơ.

Như vậy, xét về phương diện thuần túy vật chất và quyền lợi, người cầm bút trong chế độ dân chủ hay chế độ vô sản chuyên chính, đều được trọng đãi – dĩ nhiên trong những điều kiện khác nhau. Còn tại Việt Nam và tại những quốc gia cùng mang thân phận nhược tiểu Á Phi, chính sách văn hóa là gì và những người cầm bút được đối xử và đãi ngộ ra sao?

Nói tới chính sách văn hóa, cần phải tìm hiểu xem chính quyền ở Việt Nam, từ khi cựu hoàng Bảo Đại về nước làm Quốc trưởng cho tới gần đây, do thành phần xã hội nào nắm giữ – bởi vì quan điểm văn hóa biến đổi tùy theo tầng lớp xã hội. Điều hiển nhiên, nhưng cho tới giờ chưa ai nói ra, là các chính phủ quốc gia kế tiếp nhau 10 năm nay tại miền Nam Việt Nam đều là do thành phần cựu quan lại và phong kiến phối hợp với nhau nắm giữ. Đã là cựu quan lại và phong kiến, tất nhiên họ phải có một chủ trương tiêu diệt hay cản trở mọi phát triển hay sinh hoạt văn hóa, bởi vì yếu tính của văn hóa từ sau 1930 thường chống lại yếu tính của giai cấp phong kiến và quan lại. Hậu quả là để duy trì địa vị thống trị của mình, quan lại và phong kiến đưa ra một chính sách văn hóa tạm gọi là ngu-hóa-quần-chúng. Chính sách này trên thực tế được biểu lộ bằng những khía cạnh sau:

- Một chính sách kiểm duyệt khắt khe: Nói chung, quan lại và phong kiến cũ không cho phép ấn hành một nhận định, quan điểm, biên khảo, không cho phép xuất hiện một khuynh hướng hay trường phái tư tưởng nào xét ra có hại trực tiếp hay gián tiếp tới địa vị thống trị của họ.

- Một chính sách bế quan tỏa cảng tinh thần: Các sách báo ngoại quốc chỉ được nhập nội sau những biện pháp ngăn chặn khắt khe. Không những tất cả những cuốn sách nào có nội dung hay đề tài về thế giới cộng sản bị cấm, hàng rào “quan thuế văn hóa” còn cản cả những cuốn có nội dung đi ra ngoài khuôn khổ chính trị chính quyền đã ấn định.

- Một chính sách văn hóa vị chính quyền: Chỉ nâng đỡ hay ưu đãi những người làm văn hóa nào hoặc chịu suy tôn chính quyền hay ít nhất cũng chịu im lặng phục tòng. Bỏ rơi, lơ là mọi hoạt động văn hóa thông thường mà một quốc gia trung bình phải tìm cách nuôi dưỡng, phát triển không ẩn ý chính trị nhất thời.

Chính sách văn hóa (xin tạm gọi như thế) của chính quyền miền Nam Việt Nam trình bày trên, đã được áp dụng tối đa dưới sự kiểm soát của Cố vấn Ngô Đình Nhu. Và hiện nay, dù ông Nhu đã chết, và dù có vài cởi mở đáng kể, miền Nam vẫn còn được thụ hưởng những điểm chính yếu của thứ chính sách trên.

Hiện nay có nhiều người trách ông Ngô Đình Nhu đã chỉ nghĩ tới địa vị cá nhân và dòng họ, đã quá chú trọng tới chính trị giai đoạn, v.v. nên đã không để văn hóa dân tộc phát triển – và như thế là làm hại tới một sinh hoạt có tính cách trường cửu của cộng đồng xã hội. Những vị này – cho tới nay vẫn nắm giữ những địa vị then chốt trong chính quyền, khi trách chế độ cũ như vậy, có ẩn ý cho rằng văn hóa không có ích cho việc tranh đấu chống Cộng hay việc tranh đấu nói tổng quát. Và ông Ngô Đình Nhu như vậy xét ra cũng có điểm có thể “thông cảm”, v.v.

Sự thực không phải như thế. Sự thực có lẽ chính những vị nghĩ như vậy đã bị ông Nhu, giai tầng phong kiến và trí thức vong bản phóng thể (tạm dịch chữ aliéné) mà không biết. Hơn nữa, chính một số trí thức không vong bản còn tự phóng thể lấy mình bằng cách chấp nhận không xét lại những lập luận của các nhà văn Pháp về sự không có giá trị chiến đấu của văn hóa. Những bài dịch thuật tham luận, khảo luận của các nhà văn Pháp về đề tài: “Que peut la littérature” xuất hiện khá nhiều ở Việt Nam gần đây chứng tỏ. Ít có ai đặt vấn đề lại như sau: Nước Việt Nam nhược tiểu Á Phi với một chiến cuộc 25 năm không phải là nước Pháp.

Những người chấp nhận luận cứ văn hóa không có giá trị chiến đấu có bao giờ đặt câu hỏi tại sao các nước cộng sản không những tiêu diệt văn hóa mà lại còn trọng đãi các nhà văn? Đặt câu hỏi này rồi, vấn đề đặt ra kế tiếp sẽ là: Chính quyền cộng sản ưu đãi nhà văn là tại họ trọng văn hóa, yêu chuộng nghệ thuật hay là vì tại các nhà văn chính là những cán bộ rất hữu ích và văn hóa chính là một thứ vũ khí lợi hại của chính quyền vô sản chuyên chính?

Mở các thánh thư của các đấng tổ phụ của chủ nghĩa cộng sản ra đọc, tìm hiểu mọi nguyên tắc căn bản quy định cơ cấu tổ chức và sinh hoạt điều hành của các chế độ cộng sản, thấy có một sự kiện hiển nhiên nữa là không có một khoảng đất nào dù nhỏ và khuất nẻo tại các nước “xã hội chủ nghĩa”, các cán bộ cộng sản lại chịu chấp nhận một người ăn rồi ngồi làm những việc vô ích theo quan điểm về lao động của họ. Vậy khó có thể chấp nhận luận cứ cho rằng cộng sản ưu đãi nhà văn (dĩ nhiên là những nhà văn không đi ra ngoài khuôn khổ Đảng đã ấn định) chỉ vì họ trọng nghệ thuật, yêu chuộng người cầm bút. Làm một suy luận đơn giản, sẽ thấy rằng cộng sản ưu đãi nhà văn, chú trọng tới sinh hoạt văn hóa, chính bởi vì các người cầm bút là những cán bộ tốt và sinh hoạt văn hóa là phương tiện tốt cho việc duy trì chế độ xã hội tại quốc nội, phát triển chủ nghĩa và chế độ xã hội tại quốc nội, phát triển chủ nghĩa và chế độ tại quốc ngoại. Nói một cách đơn giản coi như một vũ khí chiến đấu có hiệu năng ưu hạng. Vấn đề kế tiếp đặt ra là tại sao văn hóa lại được các lãnh tụ cộng sản coi như là một vũ khí chiến đấu có khả năng ưu hạng.

Trái với các ngộ nhận của người không cộng sản, chiến trường chính và đối tượng của sách lược cộng sản là Ý THỨC CON NGƯỜI. Đọc đến đây nhiều người sẽ không đồng ý bởi vì cho rằng cộng sản “chúng nó vô thần”, “chúng nó duy vật”, v.v. tất không thể chú trọng tới một cái gì “dính dáng tới tinh thần”. Sự thực ngược hẳn lại. Người cộng sản thắng chúng ta nhiều hiệp chính vì họ đã hiểu rằng chiến thắng tùy thuộc Con Người và Sự Chinh Phục Được Ý Thức Con Người. Năm 1938, Mao Trạch Đông, khi ấy còn ở mật khu đối phó với hai kẻ địch Nhật Bản và Quốc dân đảng Trung Hoa, đã viết như sau: “Trong một cuộc chiến tranh, vũ khí là một yếu tố quan trọng nhưng không phải là yếu tố quyết định. Yếu tố chính là người chứ không phải là vật. Tương quan giữa các lầm lẫn không phải chỉ được xác định là do tương quan giữa những sức mạnh kinh tế và quân sự mà cũng còn do tương quan giữa những tiềm lực nhân sự và tinh thần con người. Để điều khiển những sức mạnh quân sự và kinh tế, phải cần đến con người” (trích Trường kỳ kháng chiến). Hai mươi năm sau đại tá Ch. Lacheroy, chỉ huy Sở Tác động Tinh thần Bộ Quốc phòng Pháp, tuyên bố trong một hội nghị: “Ở Đông Dương cũng như Trung Hoa, cũng như ở Triều Tiên và tại các nơi khác nữa, chúng ta nhận thấy rằng kẻ mạnh nhất dường như đã bị đánh bại bởi kẻ yếu nhất. Tại sao vậy? Tại vì những tiêu chuẩn chúng ta dùng để đánh giá các lực lượng cho tới lúc này, những tiêu chuẩn cổ truyền ấy, chúng đã bị đào thải rồi. Chúng ta phải đối diện với một hình thức chiến tranh mới, mới trong ý niệm và mới trong áp dụng. Đấy là cái hình thức chiến tranh mà chúng ta gọi là chiến tranh cách mạng”.

Nói đến Ý Thức Con Người, lại sẽ có nhiều người thắc mắc: “Làm sao chống lại, làm sao diệt được ý thức hệ cộng sản?”. Những người thắc mắc này cho rằng ý thức hệ cộng sản phát sinh từ vô sản nông công, yếu tính của vô sản nên khó có cách gì hủy diệt được. Để giải đáp thắc mắc này, bây giờ nếu tôi, người viết bài, nói rằng vô sản công nông chẳng có ý thức quái gì hết, chắc những thắc mắc trên không ai chịu tin. Do đó, để đơn giản vấn đề, xin trích dẫn sau đây một đoạn, vẫn do chính Lénine viết từ 1902 trong cuốn Que faire?: “Còn về chủ nghĩa xã hội, nó thoát thai từ những lý thuyết triết học, lịch sử kinh tế do những đại biểu học thức của tầng lớp có của, do những người trí thức. Những người sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học hiện đại, Marx và Engel, đều là những trí thức trưởng giả xét theo địa vị xã hội của họ… Ý thức chính trị về giai cấp chỉ có thể mang đến cho những thợ bên ngoài, nghĩa là bên lề tranh đấu kinh tế và ở ngoài những tương quan chủ và thợ. Vậy ai đem ý thức chính trị về giai cấp đến cho người thợ, người vô sản? Những người trí thức ở tầng lớp khác”. Như vậy, những người trí thức đã đem ý thức chính trị (ý thức hệ cộng sản) đến cho công nông, nghĩa là đã tạo ra cách mạng vô sản và chế độ cộng sản, thì người trí thức cũng có thể tiêu diệt ý thức hệ cộng sản, hay mang lại cho người thợ, người nông phu một Ý THỨC HỆ MỚI chống lại hoặc phá hủy được chế độ cộng sản. Tất cả những điều đó thực hiện bằng gì? Dĩ nhiên không phải chỉ bằng dollar và súng đạn. Hiển nhiên là bằng cái mà những người không cộng sản thường gọi là VĂN HÓA và những người cộng sản thường gọi là TUYÊN TRUYỀN (hiểu theo định nghĩa của Trường Chinh: “Tuyên truyền thực hiện đến tuyệt đích là văn hóa”).

Xét như vậy, văn hóa nếu biết sử dụng nó, là một vũ khí chiến đấu có mục tiêu là chinh phục con người và ý thức con người. Vấn đề bây giờ là không nên nói thêm về phía địch, những kẻ đã đạt tới mức thượng thừa trong việc sử dụng văn hóa như một vũ khí, chỉ nên xét về phía chúng ta từ sau tháng 7.1954, và nhất là từ sau 1.11.1963, xem các chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã làm được những gì trong địa hạt này. Và vấn đề tương lai là làm sao trong một tương lai không xa lắm, tại một phòng họp tại Pentagone, thống tướng Westmoreland đừng phải nhắc lại câu nói của đại tá Ch. Lacheroy:

“Ở Đông Dương cũng như ở Trung Hoa, cũng như ở Triều Tiên và các nơi khác nữa, chúng ta nhận thấy rằng kẻ mạnh nhất dường như đã bị đánh bại bởi kẻ yếu nhất. TẠI SAO VẬY?”.


Quảng Ngãi tháng Mười

Quảng Ngãi có lẽ là thị trấn độc nhất có bãi cát ven sông tương tự Hà Nội ở miền Nam sông Bến Hải. Nhiều lần nhìn qua cửa phi cơ, thấy bãi cát lớn trắng chói êm ả, tôi đã ao ước sẽ có lúc được đặt chân lên nó vào một mùa lạnh nào đó. Bây giờ mới cuối tháng 10, khí hậu chưa lạnh nên tôi, trong suốt thời gian lưu lại tại tỉnh này, vẫn không thực hiện được cái thú ngày xưa, cái thú vị nghe gió rít quanh tai và tiếng cát khô cứng dưới gót giầy.

Thị trấn Quảng Ngãi cuối tháng Mười nắng chói chang, gay gắt trên gáy, bụi trắng bay từng lớp. Mùa mưa năm nay tới chậm. Người dân địa phương đã nói với tôi: “Trời không mưa mau, lấy nước đâu mà cấy. Mạ đã già cả rồi…”. Bắt chước dáng điệu người đối thoại, tôi cũng ngẩng đầu nhìn trời và cũng thoáng lo âu – một thứ lo âu của một người không ở trong mối tai họa đang đe dọa. Năm ngoái lụt, rồi chiến dịch lớn của Việt cộng, chiến dịch của ta, bây giờ nếu thêm nạn hạn hán, thì quả thật người dân tóc bạc này nói đúng: “Trời không thương dân nghèo miền Trung”.

Người dân Quảng Ngãi nói chung khác hẳn những người dân Sài Gòn. Hơn mười tháng trời phục vụ tại thủ đô, tôi đã quá quen với những thái độ chán chường tiêu cực, những hành động hư không, những thứ tranh đấu không liên tưởng và không cả nhiệt tình, v.v. nên khá ngạc nhiên khi biết rõ những người dân xứ Nam Ngãi. Ở nhiều nơi cát trắng chói đất cằn này, con người dứt khoát hơn với cuộc đời và những người đồng loại. Không có những vị trí mơ hồ, không có những hiệp hội đoàn thể, chơi với ai cũng được và thực ra chẳng chơi với ai hết. Bất cứ người dân nào đến tuổi đi bầu tại Quảng Ngãi, đều gần như đã chọn một lập trường chính trị.

Hoặc họ là Việt cộng, hoặc họ là Việt Quốc… Mà đã Cộng thì là thứ cộng trung kiên, và đã Quốc thì cũng quốc tới hai ba đời. Và ngay trong nội bộ Việt Quốc, ai đã thuộc hệ phái A thì nhất định là A, ai thuộc hệ phái B thì khăng khăng là B. Nơi đây chiến tranh quốc cộng mang hẳn một hình thái cá nhân, một thứ thù truyền kiếp. Đêm nay Cộng về giết hay mổ bụng hay chôn sống một bí thư xã Việt Quốc, thì ngày mai căn nhà của anh chàng chỉ huy vụ ám sát đêm trước sẽ bị đốt ra tro. Việt Quốc thù hằn Việt cộng và ngược lại. Và con người thật là nóng bỏng như thứ nắng chói chang đang chiếu đến nỗi rằng du kích cộng địa phương đã chôn sống cả tới những vợ con cha mẹ đối thủ khi họ thắng thế vào mùa mưa vừa qua. “Giết được một Việt Quốc bằng giết mười chính quy” là khẩu hiệu của Việt cộng nơi địa phương này.

Làng ta ta về… Trong phòng khách của tòa tỉnh, người thiếu úy bí thư thẳng thắn trả lời câu hỏi của tôi: “Mấy tháng trước, chúng ta chỉ còn giữ được thị trấn và vùng phi trường. Chính vì thế tỉnh chúng tôi mới phát động chiến dịch về làng”. Một thiếu úy khác vạch ba nét tượng trưng cho sông Trà Khúc, sông Vệ và bờ biển, giới hạn ranh giới khu vực chiến dịch về làng đã thành công.

Anh nói: “Chúng tôi đã đưa được dân hai xã về lấy đất hai xã đông nhất trong tỉnh. Trong tháng tới, hy vọng sẽ sang miền phía Nam sông Vệ”. Ngày hôm sau, mượn xe Jeep của sư đoàn, lấy khẩu colt của Duy Lam, tôi nhờ một người bạn giáo sư địa phương đưa về thăm miền ngoài thị trấn. Sau khi vượt dăm ba cây cầu tạm (cầu cũ đã bị Việt cộng phá hủy), rẽ vào con đường đất rộng đủ vừa bốn bánh xe; khung cảnh đột nhiên trở thành quen thuộc. Những ruộng nhỏ có bờ đất, những con đường làng sát cạnh các lũy tre – hình ảnh của quê hương ngoài Bắc. Dừng chân ở một ấp, một trưởng đoàn công tác của chiến dịch về làng nói với tôi qua ly trà nóng bỏng: “Sao thượng cấp không chịu phát cho chúng tôi súng lớn để giữ làng?”. Tôi lảng tránh câu trả lời dù rằng phát súng cho họ là đưa họ vào đất chết. Có trung liên đại liên những người dân sẽ chiến đấu đến cùng giữ mảnh đất riêng và trong nhiều trường hợp, họ sẽ không đủ sức chống chủ lực địch. Thà để đánh bằng lựu đạn và carbine để rồi phải phân tán mỗi khi địch về đông. Khi cho xe chạy qua một cây cầu dẫn sang quận Mộ Đức bên kia sông Vệ, tôi hơi ngập ngừng vì vùng này, theo lời dặn dò của người thiếu úy, khá thiếu an ninh cho một chiếc xe Jeep và khẩu súng 6 viên đạn. Nhưng khung cảnh quá đẹp làm tôi tiếp tục cuộc hành trình tìm tới một đoàn chiến dịch về làng đang công tác sát biển. Các cồn cát, hàng phi lao bắt đầu xuất hiện nhiều.

Sau khi ra khỏi một làng, cảnh sông và bãi cát dưới nắng đẹp rõ từng nét gần như bất động. Người hướng dẫn chỉ tay bên kia sông, nói: “Quê ngoại tôi ở trong làng kia…”. Nhìn cảnh người bạn ngồi cạnh, nghĩ tới các người dân lúc nào cũng tranh đấu chính trị miền này, tôi không chặn nổi một câu hỏi vẩn vơ: “Quê hương các anh đẹp thế, đáng lẽ phải sản xuất thi sĩ nhiều mới phải…”. Người bạn cười chỉ cất tiếng nói khi xe len lỏi vào trong một khu vực toàn nhà đổ nát, toàn những cột cháy đen: “Tụi Cộng tấn công hồi đó đấy!”. Khi tới gần sát biển, tại thôn An Chỉ, một thiếu úy than thở với tôi: “Anh đừng ngạc nhiên khi thấy tôi không đeo súng. Đeo, tôi sợ dám bắn chết cán bộ dân chính ba gai lắm. Số ba gai tí thôi, nhưng bực lắm! Hai trung đội B K của tôi nằm sương phơi nắng ngoài những cồn cát kia giữ an ninh, các ông cán bộ ba gai lại tà tà, chịu sao nổi!”. Bữa cơm thô sơ đã dọn ra vì tôi, vì lý do có buổi họp gần kề, rất tiếc không ở lại được để cùng chia sẻ, với những người đang vì dân chúng đứng đầu gió miền ven biển đất cằn.

Những Thanh niên Quảng Ngãi trong Ban Chấp hành của lực lượng thanh niên cách mạng, một đoàn thể tư bao gồm hơn 1.500 đoàn viên, đều rất trẻ.

Đa số dưới 25 tuổi. Họ liên tiếp trình bày về những hiện tượng thối nát tại địa phương, và sau mỗi sự kiện, họ lại hỏi một câu: “Sài Gòn có biết không?”. Tôi tránh né một câu trả lời dứt khoát vì trả lời “có” cũng kẹt mà trả lời “không” còn kẹt hơn. Không gian trong phòng họp đầy nghẹn ngào, đầy uất ức. Tôi cố giữ khỏi bị chìm đắm vào tình tự ấy. Và tôi đã thành công nếu không phải biết tới chuyện những bao gạo, bao cá khô, hũ nước mắm mà chính tôi, với tư cách một hộ tống viên, đã mang ra sau cơn lụt tới miền này.

Trở dậy từ 4 giờ sáng, cài chiếc bi đông nước vào thắt lưng (ngồi cả ngày trên phi cơ và hộ tống viên ít khi được phi hành đoàn cho uống nước) phóng xe tới cơ quan theo xe thực phẩm ra phi trường để rồi khi tối mờ mịt mới đặt chân mệt lử xuống Sài Gòn.

Tôi đã cứ tưởng như thế đã góp một phần nhỏ bé giúp dân cho tới lúc này, khi biết những liên tục cứu trợ ấy đã lạc đi nơi nào hầu hết trước khi tới tay người dân khốn khổ.

Khi rời phòng họp, trời đã về chiều nắng đã bớt chói trên cát nhưng tâm hồn tôi vẫn nóng bỏng. Nóng bỏng bởi những người thanh niên này đã đặt quá nhiều tin tưởng vào tôi và cơ quan tôi hiện đang phục vụ, khi tôi biết rằng, với tất cả nỗ lực và thiện chí cá nhân những nguyện vọng của họ chưa chắc đã được thỏa mãn.

Mà nguyện vọng của họ – những người trẻ tuổi kết hợp với nhau dưới đoàn kỳ gồm tới 7 ngôi sao trên nền đỏ ấy, có là gì đâu. Họ chỉ mong được giúp đỡ phương tiện để hoạt động xã hội (số tiền trợ cấp của chính quyền địa phương không nhiều) và nếu có thể được làm những kẻ trung gian chuyển những giúp đỡ của trung ương và các nước bạn tới tận tay người dân thụ hưởng.

Chỉ muốn giúp dân như thế cũng khó – khó bởi vì giả thử có quá nhiều người thiện chí thanh liêm thì những kẻ tham nhũng ở cái quốc gia này biết ăn chận để làm giàu vào đâu. Nghĩ như thế là bi quan quá chăng? Chưa chắc!



--------------------------------------------------------------------------------
[1]Đoạn bị kiểm duyệt
[2]Đoạn bị kiểm duyệt

Nguồn: In xong tại nhà in Nam Sơn, 36 Nguyễn An Ninh, Sài Gòn, ngày 10-5-1966. Nam Sơn xuất bản.