25/12/12

KHÓC MẸ








Khóc mẹ


( Viết thay nỗi niềm blogger T.P.T., một người chưa quen , khi đọc tin T.P.T. đang trong vòng lao lý ,hay tin mẹ mất ,mà không thể về chịu tang mẹ . THD .30.7.2012)




KHÓC MẸ

                                Tặng T.P.T.


Vàng bay !

Vàng Bay !



Mẹ ơi hãy ngủ
Cho quên kiếp người
Lửa thiêu thân mẹ
Lửa đốt lòng con
Đừng đau lòng nữa
Mẹ ơi !
Mẹ ơi !
Con còn phải sống
đấu tranh với đời

Tim con lửa cháy
Ruột gan bời bời
Con quỳ khóc mẹ
Chảy máu con ngươi

Được tin mẹ mất
con chẳng được về
đội tang cho mẹ
con chẳng được nhìn
một lần sau cuối
dù thân xác mẹ
thiêu đốt thành than

Quỳ trong bóng tối
Con niệm bài kinh (*)
Nguyện cầu cho mẹ
Siêu thoát linh hồn
Về nơi chốn khác
Nơi không còn buồn
không còn hiu hắt
như là quê hương

Trong chốn lao tù
Con quỳ khóc mẹ
Dạy con làm người
Thân này đâu thể
Làm kẻ vong thân
Không thể sống quỳ
Kiếp đời nô lệ
Mẹ cho thân này
Để con sống thẳng
làm NGƯỜI TỰ DO
mẹ thành ngọn đuốc
Soi chốn ngục tù
Mẹ thành ngọn lửa
Đốt cháy đêm đen

Mẹ bỏ con đi
thân con tù tội
Mẹ về nơi ấy
biết buồn hay vui ?

Con quỳ khóc mẹ
Cho con làm NGƯỜI
Thân này dù nát
Niềm tin chẳng sờn :
Làm NGƯỜI phải được
Sống đời TỰ DO !


Tran Ho Dung .USA.  30.7.. 2012
 Repost on Dec 25 2012

---------------------------------------------------------------------------------
(*) Na antalikkhe na samuddamajjhe
Na pabbatànam vivaram pavissa
Navijjàtì so jagatippadeso
Yatthatthitam nappasaheyya maccu


Kinh Pháp Cú (Dhammapada)

------------------------------------------------------------------



24/12/12

90 bài thơ Đường do Tản Đà dịch [2]

90 bài thơ Đường do Tản Đà dịch [2]


TẢN ĐÀ NGUYỄN KHẮC HlẾU (1889-1939)



BẠCH CƯ DỊ 白 居 易 (772-846)

42. Sơn hạ túc 山 下 宿

獨 到 山 下 宿

Độc đáo sơn hạ túc.

靜 向 月 中 行

Tĩnh hướng nguyệt trung hành.

何 處 水 邊 碓

Hà xứ thủy biên đối,

夜 舂 雲 母 聲

Dạ thung vân mẫu thanh.



Ngủ trong núi

Một mình tới ngủ non xanh,

Lặng êm dưới bóng trăng thanh bước nhìn.

Suối đâu? Cối nước liền bên,

Chày đâm vân mẫu kìn kìn tiếng đêm.



43. Trì thượng 池 上

小 娃 撐 小 艇

Tiểu oa sanh tiểu đĩnh,

偷 採 白 蓮 迴

Thâu thái bạch liên hồi,

不 解 藏 蹤 跡

Bất giải tàng tung tích,

浮 萍 一 道 開

Phù bình nhất đạo khai.

Trên ao

Người xinh bơi chiếc thúng xinh,

Bông sen trắng nõn trắng tinh thó về.

Hớ hênh dấu vết không che,

Trên ao để một luồng chia mặt bèo.

Ngày Nay, số 82 (24-10-1937)



44. Chu trung vũ dạ 舟 中 雨 夜

江 雲 闇 悠 悠

Giang vân ám du du,

江 風 冷 修 修

Giang phong lãnh tu tu,

夜 雨 滴 船 背

Dạ vũ trích thuyền bối,

夜 浪 打 船 頭

Dạ lãng đả thuyền đầu.

船 中 有 病 客

Thuyền trung hữu bệnh khách.

左 降 向 江 川

Tả giáng hướng Giang Châu.



Trong thuyền đêm mưa

Mây sông kéo tới đùn đùn,

Gió sông thổi lạnh ghê hồn khách sông

Mưa đêm rỏ xuống mui bồng,

Sóng đêm dồn vỗ long bong mũi thuyền.

Trong thuyền có bác ốm rên,

Giáng quan thẳng lối ra miền Giang Châu.

Ngày Nay, số 107 (24-4-1938)



45. Hữu nhân dạ phỏng 友人夜訪

簷 間 清 風 簟

Thiềm gian thanh phong điệm.

松 下 明 月 盃

Tùng hạ minh nguyệt bôi.

幽 意 正 如 此

U ý chính như thử.

況 乃 故 人 來

Huống nãi cố nhân lai.



Người bạn đến thăm đêm

Thềm cao gió mát chiếu đan,

Chén soi bóng nguyệt bàng hoàng dưới thông.

Lòng riêng đương thú với lòng.

Lại đâu người cũ lạ lùng đến thăm.



46. Dạ vũ 夜 雨



早 蛩 啼 復 歇

Tảo cung đề phục yết.

殘 燈 滅 又 明

Tàn đăng diệt hựu minh.

隔 窗 知 夜 雨

Cách song tri dạ vũ.

芭 蕉 先 有 聲

Ba tiêu tiên hữu thanh.



Mưa đêm

Dế giun rên mỏi lại ngừng,

Đèn tàn muốn tắt lại bừng sáng ra.

Cách song, đêm biết mưa sa,

Tiếng nghe lộp bộp chăng là tàu tiêu.

Ngày Nay, số 130 (1-10-1938)



47. Thu trùng 秋 蟲

切 切 闇 窗 下

Thiết thiết ám song hạ,

喓 喓 深 草 裏

Yêu yêu thâm thảo lý.

秋 天 思 婦 心

Thu thiên tư phụ tâm,

雨 夜 愁 人 耳

Vũ dạ sầu nhân nhĩ.



Trùng mùa thu

Tiếng đâu dưới vách kêu ran?

Lại trong đám cỏ nghe càng nỉ con.

Trơi thu gái nhớ chồng son,

Mưa dầm đêm vắng, ai buồn lắng tai.

Ngày Nay, số 124 (21-8-1938)



48. Vấn Hoài Thủy 問 淮 水

自 嗟 名 利 客

Tự ta danh lợi khách,

擾 擾 在 人 間

Nhiễu nhiễu tại nhân gian.

何 事 長 淮 水

Hà sự trường Hoài thủy,

東 流 亦 不 閒

Đông lưu diệc bất nhàn?



Hỏi nước sông Hoài

Trong vòng danh lợi thương ta,

Cái thân nhăng nhít cho qua với đời.

Việc chi, hỡi nước sông Hoài?

Cũng không thong thả, miệt mài về đông?

Ngày Nay, số 92 (2-1-1938)



49. Tảo thu độc dạ 早 秋 獨 夜

井 梧 涼 葉 動

Tỉnh ngô lương diệp động,

鄰 杵 秋 聲 發

Lân chử thu thanh phát.

獨 向 簷 下 眠

Độc hướng thiềm hạ miên.

覺 來 半 床 月

Giác lai bán sàng nguyệt.



Mùa thu sớm, đêm một mình

Giếng vàng lay động lá ngô,

Mỏ chày hàng xóm tiếng thu đã truyền...

Một mình ngủ dưới mái hiên,

Tỉnh ra trăng sáng một bên giường nằm.

Ngày Nay, số 126 (2-9-1938)



50. Thu mộ giao cư thư hoài 秋 暮 郊 居 書 懷

郊 居 人 事 少

Giao cư nhân sự thiểu,

晝 臥 對 林 巒

Trú ngọa đối lâm man.

窮 巷 厭 多 雨

Cùng hạng yếm đa vũ,

貧 家 愁 早 寒

Bần gia sầu tảo hàn.

葛 衣 秋 未 換

Cát y thu vị hoán,

書 卷 病 仍 看

Thư quyển bịnh nhưng khan.

若 問 生 涯 計

Nhược vấn sinh nhai kế,

前 溪 一 釣 竿

Tiền khê nhất điếu can.



Cuối thu, cảnh ở quê

Ở quê, thưa ít việc người,

Giữa trưa nằm khểnh, ngắm coi núi đèo.

Ngõ sâu ngán nỗi mưa nhiều,

Lạnh lùng chi sớm, cảnh nghèo thêm lo.

Áo lương còn mặc mùa thu,

Ốm đau, sách vẫn đôi pho chẳng rời.

Lấy chi qua sống ngày trời?

Một cần câu để bên ngòi ngồi câu.

Ngày Nay, số 135 (5-11-1938)



51. Thu giang tống khách 秋 江 送 客

秋 鴻 次 第 過

Thu hồng thứ đệ quá,

哀 猿 朝 夕 聞

Ai viên triêu tịch văn.

是 日 孤 舟 客

Thị nhật cô chu khách,

此 地 亦 離 群

Thử địa diệc ly quần.

濛 濛 潤 衣 雨

Mông mông nhuận y vũ,

漠 漠 冒 帆 雲

Mạc mạc mạo phàm vân,

不 醉 潯 陽 酒

Bất túy Tầm Dương tửu,

煙 波 愁 殺 人

Yên ba sầu sát nhân.



Sông thu tiễn khách

Nhàn thu lần lượt bay qua,

Thảm thương tiếng vượn hôm đà lại mai.

Ngày nay một chiếc thuyền ai,

Nước non này cũng chia phôi cách đàn.

Mưa đầm vạt áo như chan,

Buồm đi, man mác mây ngàn đón ngang.

Chẳng say chén rượu Tầm Dương,

Khỏi sao sóng, khói sầu thương chết người.

Ngày Nay, số 129 (24-9-1938)



52. Thảo 草

離 離 原 上 草

Ly ly nguyên thượng thảo,

一 歲 一 枯 榮

Nhất tuế nhất khô vinh,

野 火 燒 不 盡

Dã hỏa thiêu bất tận,

春 風 吹 又 生

Xuân phong xuy hựu sinh.

遠 芳 侵 古 道

Viễn phương xâm cổ đạo,

晴 翠 接 荒 城

Tình thúy tiếp hoang thành

又 送 王 孫 去

Hựu tống Vương tôn khứ

萋 萋 滿 別 情

Thê thê mãn biệt tình.



Cỏ

Đồng cao cỏ mọc như chen,

Khô tươi thay đổi hai phen năm tròn.

Lửa đồng thiêu cháy vẫn còn,

Gió xuân thổi tới mầm non lại trồi.

Xa xa thơm ngát dặm dài,

Thành hoang láng biếc khi trời tạnh mưa.

Vương, Tôn đi lại tiễn đưa,

Biết bao tình biệt đầm đìa lướt theo.

Ngày Nay, số 86 (21-11-1937)



53. Họa Đỗ lục sự đề hồng diệp 和 杜 錄 事 題 紅 葉

寒 山 十 月 旦

Hàn sơn thập nguyệt đán,

霜 葉 一 時 新

Sương diệp nhất thời tân.

似 燒 非 因 火

Tự thiêu phi nhân hỏa,

如 花 不 待 春

Như hoa bất đãi xuân.

連 行 排 降 葉

Liên hàng bài giáng diệp,

亂 落 剪 紅 巾

Loạn lạc tiễn hồng cân.

解 駐 籃 轝 看

Giải trụ lam dư khán,

風 前 唯 兩 人

Phong tiền duy lưỡng nhân.



Họa thơ ông Lục sự họ Đỗ vịnh lá đỏ

Lạnh lùng buổi sáng tháng mười,

Lá sương phơi núi cùng thời mới sao!

Như thiêu chẳng lửa mà thiêu,

Như hoa chẳng đợi xuân nào mới hoa.

Liền hàng, màn tía bày ra,

Rơi tung, xếp nếp khăn là đỏ ghê!

Muốn xem, dừng xuống kiệu tre,

Đứng chơi ngọn gió chỉ ta hai người.

Ngày Nay, số 139 (XII–1938)



54. Ký Vi Chi 寄 微 之

江 州 望 通 州

Giang Châu vọng Thông Châu,

天 涯 與 地 末

Thiên nhai dữ địa mạt.

有 山 萬 丈 高

Hữu sơn vạn trượng cao,

有 江 千 里 闊

Hữu giang thiên lý khoát.

間 之 以 雲 霧

Gián chi dĩ vân vụ,

飛 鳥 不 可 越

Phi điểu bất khả việt.

誰 知 千 古 險

Thùy tri thiên cổ hiểm,

為 我 二 人 設

Vị ngã nhị nhân thiết.

通 州 君 初 到

Thông Châu quân sơ đáo,

鬱 鬱 愁 如 結

Uất uất sầu như kết.

江 州 我 方 去

Giang châu ngã phương khứ,

迢 迢 行 未 歇

Thiều thiều hành vị yết.

道 路 日 乖 隔

Đạo lộ nhật quai cách.

音 信 日 斷 絕

Âm tín nhật đoạn tuyệt.

因 風 欲 寄 語

Nhân phong dục ký ngữ,

地 遠 聲 不 徹

Địa viễn thanh bất triệt.

生 當 復 相 逢

Sinh đương phục tương phùng.

死 當 從 此 別

Tử đương tòng thử biệt!



Gửi bạn Vi Chi

Châu Giang mà ngóng Châu Thông,

Chân trời cuối đất mênh mông thấy nào?

Núi đâu muôn trượng kìa cao,

Sông đâu ngàn dặm rộng sao rộng mà!

Mây che mù tỏa bao la,

Chim bay cũng chẳng vượt qua khỏi tầm.

Hiểm xưa còn đó ngàn năm,

Ai hay trời để chơi khăm đôi người.

Châu Thông bác mới tới nơi,

Mối sầu như thắt ngậm ngùi chiếc thân.

Châu Giang tôi mới đi dần,

Nẻo đi xa lắc chưa phần đã ngơi.

Quan hà ngày một chia khơi,

Tăm hơi ngày bẵng tăm hơi một ngày.

Gió đưa muốn gửi câu này,

Tiếng không suốt đến vì mày đất xa.

Sống còn gặp gỡ đôi ta,

Ví chăng chết mất thôi là biệt nhau.



55. Dĩ kính tặng biệt 以 鏡 贈 別

人 言 似 明 月

Nhân ngôn tự minh nguyệt,

我 道 勝 明 月

Ngã đạo thắng minh nguyệt.

明 月 非 不 明

Minh nguyệt phi bất minh,

一 年 十 二 缺

Nhất niên thập nhị khuyết.

豈 如 玉 匣 裡

Khởi như ngọc hạp lý,

如 水 常 澄 澈

Như thủy thường trừng triệt,

月 破 天 闇 時

Nguyệt phá thiên ám thời,

圓 明 獨 不 歇

Viên minh độc bất yết.

我 慚 貌 醜 老

Ngã tâm mạo xú lão,

繞 鬢 班 班 雪

Nhiễu mấn ban ban tuyết,

不 如 贈 少 年

Bất như tặng thiếu niên,

迴 照 青 絲 髮

Hồi chiếu thanh ty phát,

因 君 千 里 去

Nhân quân thiên lý khứ,

持 此 將 為 別

Trì thử tương vi biệt.



Lấy gương làm quà tặng biệt

Ai rằng: gương sáng như trăng,

Ta rằng: trăng sáng chưa bằng gương soi.

Trăng kia thật sáng vẹn mười,

Một năm lại khuyết mười hai bận đầy.

Sao bằng trong hộp ngọc này,

Trong như nước đứng ngày ngày năm năm.

Nào khi trăng khuyết trời âm.

Gương đầy tròn sáng như rằm trăng soi.

Buồn ta già xấu hơn người,

Đốm quanh mái tóc bời bời tuyết in.

Chẳng bằng cho bạn thanh niên,

Để soi tóc trẻ xanh rền sợi tơ.

Anh nay nghìn dặm đi xa,

Cầm gương ta để làm quà tiễn nhau.

Ngày Nay, số 114 (12.6.1938)



56. Tự Giang Lăng chi Từ Châu lộ thượng ký huynh đệ

自 江 陵 之 徐 州 路 上 寄 兄 弟

岐 路 南 將 北

Kỳ lộ nam tương bắc,

離 憂 弟 與 兄

Ly ưu đệ dữ huynh.

關 河 千 里 別

Quan hà thiên lý biệt,

風 雪 一 身 行

Phong tuyết nhất thân hành.

夕 宿 勞 鄉 夢

Tịch túc lao hương mộng,

晨 裝 慘 旅 情

Thần trang thảm lữ tình.

家 貧 憂 後 事

Gia bần ưu hậu sự,

日 短 念 前 程

Nhật đoản niệm tiền trình.

煙 雁 翻 寒 渚

Yên nhạn phiên hàn chử,

霜 烏 聚 古 城

Sương ô tụ cổ thành.

誰 憐 陟 岡 者

Thùy liên trắc cương giả,

西 楚 望 南 荊

Tây Sở vọng Nam Kinh.



Từ Giang Lăng đi Từ Châu
trên đường gửi cho anh em

Đường kia sắp bắc từ nam,

Mối lo ly biệt anh em cùng sầu.

Quan hà ngàn dặm xa nhau,

Người đi gió tuyết dãi dầu một thân.

Hồn quê nhọc giấc đêm xuân,

Sắm sanh hành lý tần ngần sớm mai.

Nhà nghèo lo tính xa xôi,

Đường xa nghĩ nỗi ngày trời ngắn không.

Nhạn sa bến lạnh khói lồng

Thành xưa lũ quạ họp trong sương mờ.

Ai thương kẻ bước lên gò?

Sở Tây trông ngóng bây giờ Kinh Nam.

Ngày Nay, số 101 (13.3.1938)



57. Tùng thanh 松 聲

月 好 好 獨 坐

Nguyệt hảo, hảo độc tọa,

雙 松 在 前 軒

Song tùng tại tiền hiên.

西 南 微 風 來

Tây nam vi phong lai,

潛 入 枝 葉 間

Tiềm nhập chi diệp gian,

蕭 寥 發 為 聲

Tiêu liêu phát vi thanh,

半 夜 明 月 前

Bán dạ minh nguyệt tiền,

寒 山 颯 颯 雨

Hàn sơn táp táp vũ

秋 琴 冷 冷 絃

Thu cầm lãnh lãnh huyền.

一 聞 滌 炎 暑

Nhất văn địch viêm thử,

再 聽 破 昏 煩

Tái thính phá hôn phiền.

竟 夕 遂 不 寐

Cánh tịch toại bất mị,

心 體 俱 翛 然

Tâm thể câu diểu nhiên.

南 陌 車 馬 動

Nam mạch xa mã động,

西 鄰 歌 吹 繁

Tây lân ca xúy phồn,

誰 知 茲 簷 下

Thùy tri tư thiềm hạ,

滿 耳 不 為 喧

Mãn nhĩ bất vi huyên.



Tiếng thông reo

Trăng trong ngồi mát một mình,

Hai cây thông đứng hữu tình trước hiên

Nhẹ nhàng cơn gió đưa lên,

Luồn cành lá, đến tự miền tây nam.

Bóng trăng sáng nửa chừng đêm,

Lào rào nghe tiếng gió làm tuôn đưa.

Ào ào núi rét sa mưa,

Đờn cầm thu nảy dây tơ lạnh lùng.

Một nghe, rửa sạch cơn nồng,

Hai nghe bức bối trong lòng phá tan.

Thâu đêm thức mãi bàn hoàn,

Dạ khoan khoái dạ, mình khoan khoái mình.

Đường nam xe ngựa rình rình,

Xóm tây tiếng hát, tiếng sênh rộn ràng.

Ai hay này chỗ hành lang,

Đầy tai nghe vẫn êm thường như không

Ngày Nay, số 127 (11.9.1938)



58. Thu san 秋 山

久 病 曠 心 賞

Cửu bệnh khoáng tâm thưởng.

今 朝 一 登 山

Kim triêu nhất đăng san.

山 秋 雲 物 冷

San thu vân vật lãnh,

稱 我 清 羸 顏

Xứng ngã thanh luy nhan.

百 石 臥 可 枕

Bạch thạch ngọa khả trẩm,

青 蘿 行 可 攀

Thanh la hành khả phan.

意 中 如 有 得

Ý trung như hữu đắc,

盡 日 不 欲 還

Tận nhật bất dục hoàn.

人 生 無 幾 何

Nhân sinh vô kỷ hà,

如 寄 天 地 間

Như ký thiên địa gian.

心 有 千 載 憂

Tâm hữu thiên tải ưu,

身 無 一 日 閑

Thân vô nhất nhật nhàn.

何 時 解 塵 網

Hà thời giải trần võng,

此 地 來 掩 關

Thử địa lai yểm quan.



Núi mùa thu

Ốm lâu, nằm mãi buồn sao!

Sáng nay ta mới lên cao hỡi lòng.

Màu thu, mây núi lạnh lùng.

Thanh hao nét mặt, ưa cùng ta đây.

Nằm gối đá, đi vin dây,

Dây xanh đá trắng đẹp thay cảnh tình!

Thú vui trong dạ một mình,

Thâu ngày quên tưởng cái hình về đâu.

Người ta sống có bao lâu,

Ở trong trời đất cùng nhau tạm thời.

Mối lo mang lấy nghìn đời,

Một ngày chẳng được hơi rồi tấm thân.

Bao giờ giũ sạch lụy trần?

Lại đây đóng cửa vui phần núi non.

Ngày Nay, số 126 (4.9.1938)



59. Vọng giang lâu thượng tác
望 江 樓 上 作

江 畔 百 尺 樓

Giang bạn bách xích lâu,

樓 前 千 里 道

Lâu tiền thiên lý đạo.

憑 高 望 平 遠

Bằng cao vọng bình viễn,

亦 足 舒 懷 抱

Diệc túc thư hoài bão.

驛 路 使 憧 憧

Dịch lộ sứ đồng đồng.

關 防 兵 草 草

Quan phòng binh thảo thảo.

及 茲 多 事 日

Cập tư đa sự nhật,

猶 覺 閒 人 好

Do giác nhàn nhân hảo.

我 年 過 不 惑

Ngã niên quá bất hoặc,

休 退 誠 非 早

Hưu thoái thành phi tảo.

從 此 拂 塵 衣

Tòng thử phất trần y.

歸 山 未 為 老

Qui sơn vị vi lão.



Trên lầu trông ra sông

Bờ sông trăm thước lầu cao,

Trước lầu nghìn dặm đi đâu con đường?

Tựa cao trông xuống dặm trường,

Mà trong bụng nghĩ như nhường khoan thư.

Đường quan rộn kẻ đưa thư,

Quân gia láo nháo ngẩn ngơ canh phòng.

Cuộc đời gặp lúc rối tung,

Riêng ai ở cảnh thong dong càng mầu.

Đã hơn bốn chục tuổi đầu,

Từ nay về nghỉ ngõ hầu phải thôi.

Từ nay giũ áo trần ai.

Non xanh tình thú vui chơi chửa già...



60. Tặng nội 贈 內

生 為 同 室 親

Sinh vi đồng thất thân,

死 為 同 穴 塵

Tử vi đồng huyệt trần.

他 人 尚 相 勉

Tha nhân thượng tương miễn,

而 況 我 與 君

Nhi huống ngã dữ quân.

黔 婁 固 窮 士

Kiềm Lâu cố cuồng sĩ,

妻 賢 忘 其 貧

Thê hiền vong kỳ bần.

冀 缺 一 農 夫

Ký Khuyết nhất nông phu,

妻 敬 儼 如 賓

Thê kính nghiễm như tân.

陶 潛 不 營 生

Đào Tiềm bất doanh sinh,

翟 氏 自 爨 薪

Địch thị tự thoán tân.

梁 鴻 不 旨 仕

Lương Hồng bất khẳng sĩ,

孟 光 甘 布 裙

Mạnh Quang cam bố quần.

君 雖 不 讀 書

Quân tuy bất độc thư,

此 事 耳 亦 聞

Thử sự nhĩ diệc văn.

至 此 千 載 後

Chí thử thiên tải hậu,

傳 是 何 如 人

Truyền thị hà như nhân?

人 生 未 死 間

Nhân sinh vị tử gian.

不 能 忘 其 身

Bất năng vong kỳ thân.

所 須 者 衣 食

Sở tu giả y thực,

不 過 飽 與 溫

Bất quá bão dữ ôn.

蔬 食 足 充 飢

Sơ tự túc sung cơ,

何 必 膏 梁 珍

Hà tất cao lương trân?

繒 絮 足 禦 寒

Tăng nhứ túc ngự hàn,

何 必 錦 繡 文

Hà tất cẩm tú văn?

君 家 有 貽 訓

Quân gia hữu di huấn,

清 白 遺 子 孫

Thanh bạch di tử tôn.

我 亦 貞 苦 士

Ngã diệc trinh khổ sĩ,

與 君 新 結 婚

Dữ quân tân kết hôn.

庶 保 貧 與 素

Thứ bảo bần dữ tố,

偕 老 同 欣 欣

Giai lão đồng hân hân.



Thơ đưa vợ

Tình lúc sống một nhà cùng ở,

Chết ra tro, một hố cùng chung.

Khuyên nhau thiên hạ cũng cùng.

Nữa chi mình vợ, ta chồng cùng nhau?

Kìa như gã Kiềm Lâu cùng sĩ,

Cảnh nhà nghèo vợ nghĩ như không.

Nông phu Ký Khuyết cày đồng,

Vợ chàng quý trọng coi chồng khách sang.

Đào Tiềm chẳng lòng toan sinh lý,

Củi nấu ăn, Địch thị kiếm dần.

Lương Hồng quan chẳng chịu mần,

Mạnh Quang chỉ vải may quần cũng ưa,

Mình dẫu đọc sách xưa không mấy,

Các truyện kia hẳn thấy quen tai.

Nghìn năm còn lại ở đời,

Đến nay cùng nói là người như sao?

Người chưa chết lúc nào còn sống,

Chẳng ai mà quên bỗng được thân,

Cái ăn cái mặc là cần.

Cũng sao no ấm qua lần là xong.

Cơm rau đủ no lòng lúc đói.

Có cần chi thức tối cao lương,

Lụa the, rét đủ mặc thường,

Cần chi áo gấm xông hương vẽ vời?

Nhà mình có để đời câu dạy:

Lấy “sạch trong” cho lại cháu con.

Ta đây cũng một lòng son.

Cùng nàng buổi mới vuông tròn thất gia,

Giữ sao nghèo sạch nếp nhà,

Cùng nhau cho đến tuổi già cùng vui.

Ngày Nay, số 108 (1.5.1938)



61. Khinh phì 輕 肥

意 氣 驕 滿 路

Ý khí kiêu mãn lộ,

鞍 馬 光 照 塵

Yên mã quang chiếu trần

借 問 何 為 者

Tá vấn hà vi giả,

人 稱 是 內 臣

Nhân xưng thị nội thần.

朱 紱 皆 大 夫

Chu phất giai đại phu

紫 綬 或 將 軍

Tử thụ hoặc tương quân

誇 赴 軍 中 宴

Khoa phó quân trung yến.

走 馬 去 如 雲

Tẩu mã khứ như vân.

樽 罍 溢 九 醞

Tôn lôi dật cửu uấn,

水 陸 羅 八 珍

Thủy lục la bát trân.

果 擘 洞 庭 橘

Quả phách Đỗng Đình quất,

膾 切 天 池 鱗

Khoái thiết Thiên Trì lân.

食 飽 心 自 苦

Thực bão tâm tự nhược,

酒 酣 氣 益 振

Tửu hàm khí ích chân.

是 歲 江 南 旱

Thị tuế Giang Nam hạn,

衢 州 人 食 人

Cù Châu nhân thực nhân.



Nhẹ béo

Đầy đường dáng bộ con cưng,

Ngựa yên bóng nhoáng sáng trưng bụi hồng.

Hỏi: Làm chi đó những ông?

Người ta rằng lũ quan trong đó mà.

Dải điều đều Đại phu ta,

Mà đeo dải tía hoặc là Tướng quân

Khuênh khoang đi chén trong quân,

Rộn ràng vó ngựa chạy vần như mây.

Vò, ang chín thứ rượu đầy,

Hải sơn tám bát cỗ bày linh tinh.

Quả dâng quít hái Động Đình,

Cá Thiên Trì thái, đơm thành gỏi ngon.

Ăn no khoan khoái tâm hồn,

Rượu say, ý khí hùng hồn càng thêm.

Năm nay hạn hán Giang Nam,

Cù Châu người mổ người làm thức ăn.

Ngày Nay, số 102 (27-3-1938)



62. Văn khốc giả 聞 哭 者

昨 日 南 鄰 哭

Tạc nhật nam lân khốc,

哭 聲 一 何 苦

Khốc thanh nhất hà khổ?

云 是 妻 哭 夫

Vân thi thê khốc phu.

夫 年 二 十 五

Phu niên nhị thập ngũ,

今 朝 北 里 哭

Kim triêu bắc lý khốc,

哭 聲 又 何 切

Khốc thanh hựu hà thiết!

云 是 母 哭 兒

Vân thị mẫu khốc nhi,

兒 年 十 七 八

Nhi niên thập thất bát.

四 鄰 尚 如 此

Tứ lân thượng như thử,

天 下 多 夭 折

Thiên hạ đa yểu chiết.

乃 知 浮 世 人

Nãi tri phù thế nhân.

少 得 垂 白 髮

Thiểu đắc thùy bạch phát?

余 今 過 四 十

Dư kim quá tứ thập,

念 彼 聊 自 悅

Niệm bỉ, liêu tự duyệt.

從 此 明 鏡 中

Tùng thử minh kính trung

不 嫌 頭 似 雪

Bất hiềm đầu tự tuyết.



Nghe người khóc

Mới hôm nọ, xóm nam người khóc,

Tiếng khóc sao đau độc nỗi lòng?

Rằng: Đâu là vợ khóc chồng,

Chồng hai nhăm tuổi, khuất vòng nhân gian,

Sớm nay lại khóc than xóm bắc,

Tiếng khóc sao ruột thắt từng cơn?

Rằng: Đâu là mẹ khóc con,

Con mười bảy, tám, chết còn tuổi xanh.

Bốn hàng xóm chung quanh như thế.

Khắp thế gian chết trẻ còn nhiều.

Mới hay người thế bao nhiêu,

Trắng phơ mái tóc dễ nào mấy ai?

Ta nay tuổi có ngoài bốn chục,

Nghĩ ai kia, thôi cũng vui lòng.

Từ nay trong bức gương trong,

Đầu ta ngỡ tuyết, ta không quản gì.

Ngày Nay, số 105 (10-4-1938)



63. Tam niên biệt 三 年 別

悠 悠 一 別 已 三 年

Du du nhất biệt dĩ tam niên,

相 望 相 思 明 月 天

Tương vọng tương tư minh nguyệt thiên,

腸 斷 青 天 望 明 月

Trường đoạn thanh thiên vọng minh nguyệt,

別 來 三 十 六 回 園

Biệt lai tam thập lục hồi viên.



Xa nhau ba năm

Xa nhau một chuyến ba năm,

Ngóng nhau chung bóng trăng rằm nhớ nhau.

Trời xanh, trăng sáng, lòng đau,

Ba mươi sáu độ trước sau trăng tròn!



64. Thính biên hồng 聽 邊 鴻

驚 風 吹 起 塞 鴻 群

Kính phong xuy khởi tái hồng quần,

半 入 平 沙 半 入 雲

Bán nhập bình sa bán nhập vân.

為 問 昭 君 月 下 聽

Vị vấn Chiêu Quân nguyệt hạ thính,

何 如 蘇 武 雪 中 聞

Hà như Tô Vũ tuyết trung văn?



Nghe chim hồng ngoài biên ải

Đàn hồng rợn gió ngoài biên,

Nửa sa cát bể, nửa lên mây trời.

Chiêu Quân, Tô Vũ nghe chơi,

Dưới trưng, trong tuyết đôi nơi thế nào?

Ngày Nay, số 118 (10-7-1938)



65. Tự khuyến 自 勸

憶 昔 饑 貧 應 舉 年

Ức tích cơ bần ứng cử niên,

脫 衣 典 酒 曲 江 邊

Thoát y điển tửu Khúc Giang biên.

十 千 一 斗 猶 奢 飲

Thập thiên nhất đẩu do xa ẩm,

何 況 官 供 不 值 錢

Hà huống quan cung bất trị tiền.



Tự khuyên mình

Nhớ xưa nghèo túng lúc khoa thi.

Bến Khúc thèm men, cố áo đi.

Đấu rượu muôn đồng quen uống đắt.

Nữa chi lộc nước mất tiền chi!



66. Lâm Giang tống Hạ Chiêm 臨 江 送 夏 瞻

悲 君 老 別 淚 沾 巾

Bi quân lão biệt lệ chiêm cân,

七 十 無 家 萬 里 身

Thất thập vô gia vạn lý thân.

愁 見 舟 行 風 又 起

Sầu kiến chu hành phong hựu khởi,

白 頭 浪 裡 白 頭 人

Bạch đầu lãng lý bạch đầu nhân.



Tới sông tiễn Hạ Chiêm

Muôn dặm thương anh, lệ biệt sầu,

Bảy mươi tuổi tác cửa nhà đâu?

Buồn trông trận gió theo thuyền nổi,

Sóng bạc đầu quanh khách bạc đầu.

Ngày Nay, số 124 (21-8-1938)



67. Đại Lâm tự đào hoa 大 林 寺 桃 花

人 間 四 月 芳 菲 盡

Nhân gian tứ nguyệt phương phi tận,

山 寺 桃 花 始 盛 開

Sơn tự đào hoa thủy thịnh khai.

長 恨 春 歸 無 覓 處

Trường hận xuân qui vô mịch xứ,

不 知 轉 入 此 中 來

Bất tri chuyển nhập thử trung lai.



Hoa đào chùa Đại Lâm

Tháng tư hoa đã hết mùa,

Hoa đào rực rỡ cảnh chùa mới nay.

Xuân về kín chốn ai hay,

Biết đâu lẩn khuất trong này núi non.

Ngày Nay, số 112 (29-5-1938)



68. Giang thượng địch 江上笛

江 上 何 人 夜 吹 笛

Giang thượng hà nhân dạ xuy địch,

聲 聲 似 憶 故 園 春

Thanh thanh tự ức cố viên xuân,

此 時 聞 者 堪 頭 白

Thử thời văn giả kham đầu bạch,

況 是 多 愁 少 睡 人

Huống thị đa sầu thiểu thụy nhân.



Sáo trên sông

Đêm, ai thổi sáo trên sông,

Vườn xuân tiếng tiếng gửi lòng ai đâu?

Ai nghe, luống những bạc đầu,

Nữa chi ít ngủ, nhiều sầu như ai?

Ngày Nay, số 123 (14-8-1938)



69. Vương Chiêu Quân 王昭君

滿 面 朝 沙 滿 鬢 風

Mãn diện Hồ sa mãn mấn phong,

眉 銷 殘 黛 臉 銷 紅

Mi tiêu tàn đại kiểm tiêu hồng,

愁 苦 辛 勤 憔 悴 盡

Sầu khổ tân cần tiều tụy tận.

如 今 卻 似 畫 圖 中

Như kim khước tự họa đồ trung.



Vương Chiêu Quân

Cát Hồ đầy mặt, gió đầy tai,

Mực nhạt mày xanh, má đỏ phai.

Khổ sở lo buồn tiều tụy thế,

Mới là tranh vẽ giống như ai.

Ngày Nay, số 99 (27-2-1938)



70. Đại mại tân nữ tặng chư kỹ 代 賣 薪 女 贈 諸 妓

亂 蓬 為 鬢 布 為 巾

Loạn bồng vi mấn, bố vi cân,

曉 蹋 寒 山 自 負 薪

Hiểu đạp hàn sơn tự phụ tân,

一 種 錢 塘 江 畔 女

Nhất chung Tiền Đường giang bạn nữ,

著 紅 騎 馬 是 何 人

Trước hồng kỵ mã thị hà nhân?



Thay lời chị bán củi tặng các kỹ nữ

Đầu bù khăn vải trùm tai,

Trèo non gánh củi sương mai lạnh lùng,

Tiền Đường cũng gái bên sông.

Mà đâu yên ngựa quần hồng là ai?



71. Túc chương đình dịch 宿樟亭驛

夜 半 樟 亭 驛

Dạ bán Chương Đình dịch,

愁 人 起 望 鄉

Sầu nhân khỉ vọng hương.

明 月 何 所 見

Nguyệt minh hà sở kiến,

潮 水 白 茫 茫

Trào thủy bạch mang mang.



Ngủ nhà trạm Chương Đình

Nửa đêm ở trạm Chương Đình,

Người buồn trở dậy nặng tình hương quan

Dưới trăng trông ngóng lan man,

Nước trào trắng xóa một làn trăng soi.

Ngày Nay, số 148 (1939)

90 bài thơ Đường do Tản Đà dịch [1]

90 bài thơ Đường do Tản Đà dịch [1]




TẢN ĐÀ NGUYỄN KHẮC HlẾU (1889-1939)



VƯƠNG BỘT 王勃 (649-676)

1. Thục trung cửu nhật 蜀中九日

九 月 九 日望 鄉 臺

Cửu nguyệt cửu nhật Vọng Hương đài.

他 席 他 鄉 送 客 杯

Tha tịch tha hương tống khách bôi.

人 情 已 厭 南 中 苦

Nhân tình dĩ yếm Nam Trung khổ,

鴻 鴈 那 從 北 地 來

Hồng nhạn na tòng bắc địa lai.



Trong đất Thục ngày mồng chín

Vọng Hương mồng chín lên đài,

Chén đưa tiệc khách quê người Nam Trung

Người đây chán chết nỗi lòng,

Cớ sao đất bắc chim hồng lại chi?

Ngày Nay, số 87 (28-11-1937)



LẠC TÂN VƯƠNG 駱賓王 (640?-684)

2. Dịch thủy tống biệt 易水送別

此 地 別 燕 丹

Thử địa biệt yên Đan,

壯 士 髮 衝 冠

Tráng sĩ phát xung quan.

昔 時 民 已 沒

Tích thời nhân dĩ một,

今 日 水 由 寒

Kim nhật thủy do hàn.



Sông Dịch tiễn biệt

Đất này biệt chú yên Đan

Tóc anh tráng sĩ tức gan dựng đầu.

Người xưa nay đã đi đâu,

Lạnh lùng sông nước cơn sầu chưa tan.

Ngày Nay, số 120 (24.7.1938)



TRẦN TỬ NGANG 陳子昂 (651-702)

3. Kế khâu lãm cổ 薊丘覽古

南 登 碣 石 館

Nam đăng Kệ Thạch quán,

遙 望 黃 金 臺

Dao vọng Hoàng Kim đài.

邱 陵 盡 喬 木

Khâu lăng tận kiều mộc

昭 王 安 在 哉

Chiêu Vương an tại tai

霸 圖 悵 已 矣

Bá đồ trướng dĩ hĩ,

驅 馬 復 歸 來

Khu mã phục quy lai.



Gò Kế xem cảnh năm xưa

Trèo lên Kệ Thạch quán nam,

Xa xa trông ngóng Hoàng Kim có đài.

Cây cao phủ hết quanh đồi.

Vua Chiêu ngày trước nay thời nơi nao?

Cơ đồ bá chủ còn đâu!

Nhớ ai đánh ngựa ta âu lại về.



TRƯƠNG NHƯỢC HƯ 張若虛

4. Xuân giang hoa nguyệt dạ 春 江 花 月 夜

春 江 潮 水 連 海 平

1. Xuân giang triều thủy liên hải bình,

海 上 明 月 共 潮 生

Hải thượng minh nguyệt cộng triều sinh.

灩 灩 隨 波 千 萬 里

Diễm diễm tùy ba thiên vạn lý,

何 處 春 江 無 月 明

Hà xứ xuân giang vô nguyệt minh?

江 流 宛 轉 遶 芳 甸

5.Giang lưu uyển chuyển nhiễu phương điện

月 照 花 林 皆 似 霰

Nguyệt chiếu hoa lâm giai tự tản.

空 裏 流 霜 不 覺 飛

Không lý lưu sương bất giác phi,

汀 上 白 沙 看 不 見

Đinh thượng bạch sa khan bất kiến

江 天 一 色 無 纖 塵

Giang thiên nhất sắc vô tiêm trần,

皎 皎 空 中 孤 月 輪

10. Hạo hạo không trung cô nguyệt luân.

江 畔 何 人 初 見 月

Giang bạn hà nhân sơ kiến nguyệt?

江 月 何 年 初 照 人

Giang nguyệt hà niên sơ chiếu nhân?

人 生 代 代 無 窮 已

Nhân sinh đại đại vô cùng dĩ,

江 月 年 年 秖 相 似

Giang nguyệt niên niên kỳ tương tự.

不 知 江 月 待 何 人

15. Bất tri giang nguyệt đãi hà nhân,

但 見 長 江 送 流 水

Đãn kiến trường giang tống lưu thủy.

白 雲 一 片 去 悠 悠

Bạch vân nhất phiến khứ du du,

青 楓 浦 上 不 勝 愁

Thanh phong phố thượng bất thăng sầu,

誰 家 今 夜 扁 舟 子

Thùy gia kim dạ biên chu tử,

何 處 相 思 明 月 樓

20. Hà xứ tương tư minh nguyệt lâu?

可 憐 樓 上 月 徘 徊

Khả lân lâu thượng nguyệt bồi hồi,

應 照 離 人 妝 鏡 臺

Ưng chiếu ly nhân trang kính đài.

玉 戶 簾 中 卷 不 去

Ngọc hộ liêm trung quyển bất khứ,

擣 衣 砧 上 拂 還 來

Đảo y châm thượng phất hoàn lai.

此 時 相 望 不 相 聞

25. Thử thời tương vọng bất tương văn,

願 逐 月 華 流 照 君

Nguyện trục nguyệt hoa lưu chiếu quân.

鴻 雁 長 飛 光 不 度

Hồng nhạn trường phi quang bất độ

魚 龍 潛 躍 水 成 文

Ngư long tiềm dược thủy thành văn.

昨 夜 閒 潭 夢 落 花

Tạc dạ nhàm đàm mộng lạc hoa.

可 憐 春 半 不 還 家

30. Khả lân xuân bán bất hoàn gia.

江 水 流 春 去 欲 盡

Giang thủy lưu xuân khứ dục tận,

江 潭 落 月 復 西 斜

Giang đàm lạc nguyệt phục tây tà.

斜 月 沈 沈 藏 海 霧

Tà nguyệt trầm trầm tàng hải vụ,

碣 石 瀟 湘 無 限 路

Kiệt Thạch, Tiêu Tương vô hạn lộ.

不 知 乘 月 幾 人 歸

35. Bất tri thừa nguyệt kỷ nhân quy?

落 月 搖 情 滿 江 樹

Lạc nguyệt dao tình mãn giang thụ.



Đêm trăng hoa trên sông xuân

Sông xuân sáng nước liền ngang bể,

Vầng trăng trong mặt bể lên cao.

Ánh trăng theo sóng đẹp sao!

Sông xuân muôn dặm chỗ nào không trăng?

5.Dòng sông chảy quanh rừng hoa ngát,

Trăng soi hoa như tán trập trùng.

Sương bay chẳng biết trong không

Trên soi cát trắng nhìn không thấy gì.

Trời in nước một ly không bụi.

10. Mảnh trăng trong ròi rọi giữa trời.

Thấy trăng thoạt mới là ai?

Trăng sông thoạt mới soi người năm nao?

Người sinh mãi, kiếp nào cho biết,

Nhìn trăng sông năm hệt không sai.

15. Trăng sông chẳng biết soi ai,

Dưới trăng chỉ thấy sông dài nước trôi.

Đám mây trắng ngùi ngùi đi mãi,

Rặng phong xanh một dải sông sầu.

Đêm nay ai đó, ai đâu?

20. Chiếc thuyền để nhớ trên lầu trăng soi.

Trăng thờ thẩn nơi người xa ngóng,

Chốn đài gương tựa bóng thương ai.

Trong rèm cuốn chẳng đi thôi,

Trên bàn đập áo quét rồi lại ngay.

25. Cùng nghe ngóng lúc nay chẳng thấy,

Muốn theo trăng trôi chảy đến chàng.

Hồng bay, ánh sáng không màng,

Nước sâu cá quẫy chỉ càng vẩn tăm.

Đêm nọ giấc trong đầm hoa rữa,

30. Ai xa nhà xuân nửa còn chi!

Nước sông trôi mãi xuân đi,

Trăng tà lặn xuống bên kia cánh đầm.

Vầng trăng lặn êm chìm khói bể,

Đường bao xa non kệ sông Tương.

35. Về trăng mấy kẻ thừa lương,

Trăng chìm lay bóng đầy hàng cây sông.



TRƯƠNG CỬU LINH 張 九 齡 (678-740)

5. Tự quân chi xuất hĩ 自 君 之 出 矣

自 君 之 出 矣

Tự quân chi xuất hĩ,

不 復 理 殘 機

Bất phục lý tàn ky.

思 君 如 月 滿

Tư quân như nguyệt mãn,

夜 夜 減 光 煇

Dạ dạ giảm quang huy



Từ ngày anh bước ra đi

Từ ngày anh bước ra đi,

Cửa canh bỏ dở, nghĩ gì sửa sang.

Nhớ anh như nguyệt tròn gương,

Tiêu hao ánh sáng, đêm thường lại đêm

Ngày Nay, số 116 (26-6-1938)



VƯƠNG XƯƠNG LINH 王 昌 齡 (698-756?)

6. Tống Hồ Đại 送 胡 大

荊 門 不 坩 別

Kinh Môn bất kham biệt,

況 乃 瀟 湘 秋

Huống nãi Tiêu Tương thu.

何 處 遙 望 君

Hà xứ dao vọng quân,

江 邊 明 月 樓

Giang biên mình nguyệt lâu.



Tiễn Hồ Đại

Non Kinh biệt đã đau lòng,

Nữa chi thu lại hai dòng Tiêu, Tương.

Nhớ anh, xa ngóng dặm trường,

Bên sông dưới bóng trăng suông tựa lầu.

Ngày Nay, số 122 (7-8-1938)



7. Khuê oán 閨 怨

閨 中 少 婦 不 知 愁

Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu,

春 日 凝 妝 上 翠 樓

Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu.

忽 見 陌 頭 楊 柳 色

Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,

悔 教 夫 婿 覓 封 侯

Hối giao phu tế mịch phong hầu.



Nhớ chồng

Trẻ trung nàng biết đâu sầu,

Buồng xuân trang điểm, lên lầu ngắm gương.

Nhác trông vẻ liễu bên đường,

«Phong hầu» nghĩ dại xui chàng kiếm chi.

Ngày Nay, số 77 (19-9-1938)



VƯƠNG DUY 王 維 (701-761)

8. Quá Hương Tích tự 過香積寺

不 知 香 積 寺

Bất tri Hương Tích tự

數 里 入 雲 峰

Sổ lý nhập vân phong.

古 木 無 人 徑

Cổ mộc vô nhân kính,

深 山 何 處 鐘

Thâm sơn hà xứ chung.

泉 聲 咽 危 石

Tuyền thanh yết nguy thạch,

日 色 冷 青 松

Nhật sắc lãnh thanh tùng.

薄 暮 空 潭 曲

Bạc mộ không đàm khúc,

安 禪 制 毒 龍

An thiền chế độc long.



Qua chùa Hương Tích

(Chùa ở trong hang Tý Ngọ, núi Nam Sơn,
thuộc Trường An, Hồ Nam, Trung Quốc.)

Chẳng hay Hương Tích chùa đâu,

Đi đôi ba dặm, lên đầu non cao.

Cây um, đường tắt vắng teo,

Núi sâu chuông vẳng nơi nào tiếng đưa.

Suối kêu nghẽn đá ria bờ,

Lạnh lùng bóng nắng chui lùa thông xanh.

Trời hôm, tấc dạ thanh minh,

Qui y đạo Phật sửa mình là hơn.

Ngày Nay, số 97 (13-2-1938)



9. Tây Thi vịnh 西 施 詠

艷 色 天 下 重

Diễm sắc thiên hạ trọng,

西 施 寧 久 微

Tây Thi ninh cửu vi

朝 為 越 溪 女

Triêu vi Việt Khê nữ,

暮 作 吳 宮 妃

Mộ tác Ngô cung phi,

賤 日 豈 殊 眾

Tiện nhật khởi thù chúng,

貴 來 方 悟 稀

Quý lai phương ngộ hi.

邀 人 傅 脂 粉

Yêu nhân phó chi phấn.

不 自 著 羅 衣

Bất tự trước la y

君 寵 益 嬌 態

Quân sủng ích kiêu thái,

君 憐 無 是 非

Quân lân vô thị phi.

當 時 浣 紗 伴

Đương thời hoán sa bạn,

莫 得 同 車 歸

Mạc đắc đồng xa quy

持 謝 鄰 家 子

Trì tạ lân gia tử,

效 顰 安 可 希

Hiệu tần an khả hi.



Vịnh Tây Thi

Thế gian sắc đẹp ai bì,

Tây Thi không nhẽ hàn vi suốt đời

Sớm còn gái Việt bên ngòi,

Cung Ngô tối đã lên ngồi cạnh vua.

Lúc hèn, ai chẳng hơn thua,

Khi sang mới biết đời chưa mấy người.

Phấn son gọi kẻ tô, giồi,

Áo là em mặc có người xỏ tay.

Vua yêu càng lắm vẻ hay,

Vua thương, phải trái mặc bay sá gì.

Giặt sa những bạn đương thì;

Cùng xe chẳng được đi về với ta.

Xin van cô ả bên nhà,

Cũng đòi «nhăn mặt» khó mà như nhau.



THÔI HIỆU 崔 顥 (704 – 754)

10. Hoàng Hạc lâu 黃 鶴 樓

昔 人 已 乘 黃 鶴 去

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,

此 地 空 餘 黃 鶴 樓

Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.

黃 鶴 一 去 不 復 返

Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,

白 雲 千 載 空 悠 悠

Bạch vân thiên tải không du du.

晴 川 歷 歷 漢 陽 樹

Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ.

芳 草 萋 萋 鸚 鵡 洲

Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.

日 暮 鄉 關 何 處 是

Nhật mộ hương quan hà xứ thị?

煙 波 江 上 使 人 愁

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.



Gác Hoàng Hạc

Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?

Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ !

Hạc vàng đi mất từ xưa,

Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay.

Hán Dương sông tạnh cây bày.

Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non.

Quê hương khuất bóng hoàng hôn,

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?

Ngày Nay, số 80 (10-10-1937)



LÝ BẠCH 李 白 (701-762)

11. Oán tình 怨 情

美 人 捲 珠 簾

Mỹ nhân quyển châu liêm.

深 坐 蹙 蛾 眉

Thâm tọa tần nga my.

但 見 淚 痕 濕

Đãn kiến lệ ngân thấp,

不 知 心 恨 誰

Bất tri tâm hận thùy.



Buồn vì tình

Người xinh cuốn bức rèm châu.

Ngồi im thăm thẳm nhăn chau đôi mày.

Chỉ hay giọt lệ vơi đầy,

Đố ai biết được lòng này giận ai!

Ngày Nay, số 119 (17.7.1938)



12. Tặng nội 贈 內

三 百 六 十 日

Tam bách lục thập nhật,

日 日 醉 如 泥

Nhật nhật túy như nê.

雖 為 李 白 婦

Tuy vi Lý Bạch phụ,

何 異 太 常 妻

Hà dị Thái thường thê?



Đưa cho vợ

Ba trăm sáu chục ngày trời,

Ngày ngày say bét như đời con nê.

Vợ chàng Lý Bạch ta kia,

Như ai vợ Thái thường xưa khác gì?

Ngày Nay, số 130 (1.10.1938)



13. Xuân tứ 春 思

燕 草 如 碧 絲

Yên thảo như bích ti,

秦 桑 低 綠 枝

Tần tang đê lục chi.

當 君 懷 歸 日

Đương quân hoài qui nhật,

是 妾 斷 腸 時

Thị thiếp đoạn trường thì.

春 風 不 相 識

Xuân phong bất tương thức,

何 事 入 羅 幃

Hà sự nhập la vi.



Ý xuân

Cỏ non xanh biếc vùng Yên,

Cành dâu xanh ngả ở bên đất Tần.

Lòng em đau đớn muôn phần,

Phải chăng là lúc phu quân nhớ nhà.

Gió xuân quen biết chi mà,

Cớ chi lọt bức màn là tới ai?

Ngày Nay, số 78 (26.9.1937)



14. Tống khách qui Ngô 送客歸吳

江 村 秋 雨 歇

Giang thôn thu vũ yết,

酒 盡 一 帆 飛

Tửu tận nhất phàm phi.

路 歷 波 濤 去

Lộ lịch ba đào khứ,

家 惟 坐 臥 歸

Gia duy tọa ngọa qui.

島 花 開 灼 灼

Đảo hoa khai chước chước,

汀 柳 細 依 依

Đinh liễu tế y y.

別 後 無 餘 事

Biệt hậu vô dư sự,

還 應 掃 釣 磯

Hoàn ưng tảo điếu ky.



Tiễn khách đi về Ngô

Sông thu ngớt hạt mưa tuôn,

Rượu vừa cạn chén, cánh buồm xa bay.

Đường đi trải mấy nước mây,

Ngồi nằm, ai chẳng khó thay đến nhà.

Cây đồi hớn hở ra hoa,

Lăn tăn lá liễu thướt tha bên ngàn.

Xa nhau rồi những thanh nhàn.

Thú chơi quét tấm thạch bàn ngồi câu.

Ngày Nay, số 119 (17.7.1938)



15. Xuân nhật túy khởi ngôn chí 春 日 醉 起 言 志

處 世 若 大 夢

Xử thế nhược đại mộng.

胡 為 勞 其 生

Hồ vi lao kỳ sinh?

所 以 終 日 醉

Sở dĩ chung nhật túy.

頹 然 臥 前 楹

Đồi nhiên ngọa tiền doanh.

覺 來 眄 庭 前

Giác lai miện đình tiền.

一 鳥 花 間 鳴

Nhất điểu hoa gian minh.

借 問 此 何 時

Tá vấn thử hà nhật?

春 風 語 流 鶯

Xuân phong ngữ lưu oanh.

感 之 欲 歎 息

Cảm chi dục thán tức,

對 酒 還 自 傾

Đối tửu hoàn tự khuynh.

浩 歌 待 明 月

Hạo ca đãi minh nguyệt.

曲 盡 已 忘 情

Khúc tận dĩ vong tình.



Ngày xuân say rượu dậy nói chí mình

Ở đời như giấc chiêm bao

Cái thân còn đó, lao đao làm gì?

Cho nên suốt buổi say lì,

Nằm lăn trước cột, biết gì có ta.

Tỉnh thôi đưa mắt sân nhà.

Một con chim hót bên hoa ngọt ngào.

Hỏi xem: nay đó ngày nào?

Ngày xuân gió mát, vui chào tiếng oanh.

Ngậm ngùi cám cảnh sinh tình,

Nghiêng bầu, mình lại với mình làm vui.

Hát ran, chờ tấm trăng soi,

Thoạt xong câu hát thời rồi đã quên.

Ngày Nay, số 91 (26.12.1937)



16. Tống hữu nhân 送 友 人

青 山 橫 北 郭

Thanh sơn hoành Bắc quách,

白 水 遶 東 城

Bạch thủy nhiễu Đông thành.

此 地 一 為 別

Thử địa nhất vi biệt.

孤 蓬 萬 里 征

Cô bồng vạn lý chinh.

浮 雲 游 子 意

Phù vân du tử ý,

落 日 故 人 情

Lạc nhật cố nhân tình.

揮 手 自 茲 去

Huy thủ tự tư khứ,

蕭 蕭 班 馬 鳴

Tiêu tiêu ban mã minh.



Tiễn bạn

Chạy dài cõi Bắc non xanh,

Thành Đông nước chảy quanh thành trắng phau.

Nước non này chỗ đưa nhau

Một xa muôn dặm biết đâu cánh bồng!

Chia phôi khác cả mối lòng,

Người như mây nổi, kẻ trông bóng tà.

Vẫy tay thôi đã rời xa,

Nhớ nhau tiếng ngựa nghe mà buồn teo.

Ngày Nay, số 77 (19.9.1937)



17. Quan san nguyệt 關 山 月

明 月 出 天 山

Minh nguyệt xuất Thiên San,

蒼 茫 雲 海 間

Thương mang vân hải gian.

長 風 幾 萬 里

Trường phong kỷ vạn lý,

吹 度 玉 門 關

Xuy độ Ngọc Môn quan.

漢 下 白 登 道

Hán hạ Bạch Đăng đạo,

胡 窺 青 海 灣

Hồ khuy Thanh Hải loan.

由 來 征 戰 地

Do lai chinh chiến địa,

不 見 有 人 還

Bất kiến hữu nhân hoàn.

戍 客 望 邊 色

Thú khách vọng biên sắc,

思 歸 多 苦 顏

Tư quy đa khổ nhan.

高 樓 當 此 夜

Cao lâu đương thử dạ,

歎 息 未 應 閑

Thán tức vị ưng nhàn.



Trăng quan san

Vừng trăng ra núi Thiên San,

Mênh mang nước bể mây ngàn sáng soi.

Gió đâu muôn dặm chạy dài,

Thổi đưa trăng sáng ra ngoài Ngọc Môn.

Bạch Đăng quân Hán đóng đồn,

Vụng kia Thanh Hải dòm luôn mắt Hồ.

Từ xưa bao kẻ chinh phu,

Đã ra đất chiến, về ru mấy người?

Buồn trông cảnh sắc bên trời,

Giục lòng khách thú nhớ nơi quê nhà.

Lầu cao, đêm vắng, ai mà,

Đêm nay than thở ắt là chưa nguôi.



18. Thu tịch lữ hoài 秋夕旅懷

涼 風 度 秋 海

Lương phong độ thu hải

吹 我 鄉 思 飛

Xuy ngã hương tứ phi.

連 山 去 無 際

Liên sơn khứ vô tế,

流 水 何 時 歸

Lưu thủy hà thời qui

目 極 浮 雲 色

Mục cực phù vân sắc,

心 斷 明 月 暉

Tâm đoạn minh nguyệt huy.

芳 草 歇 柔 豔

Phương thảo yết nhu diệm,

白 露 催 寒 衣

Bạch lộ thôi hàn y.

夢 長 銀 漢 落

Mộng trường Ngân hán lạc,

覺 罷 天 星 稀

Giác bãi thiên tinh hy.

含 悲 想 舊 國

Hàm bi tưởng cựu quốc,

泣 下 誰 能 揮

Khấp hạ thùy năng huy.



Tối mùa thu nhớ nhà

Lạnh lùng gió vượt bể thu,

Hồn quê theo gió như vù vù bay.

Chạy dài dãy núi liền mây,

Nước trôi trôi mãi, có ngày về chăng?

Đám mây vút mắt xa chừng,

Đứt tươm khúc ruột dưới vừng trăng soi.

Cỏ thơm đẹp mướt thôi rồi,

Áo may mặc rét giục người móc sa!

Giấc mơ rơi dải Ngân hà,

Sao thưa lác đác tỉnh ra khắp trời.

Đoái thương nước cũ ngậm ngùi

Khóc rơi giọt lệ lau chùi đố ai?



19. Kinh Hạ Bi Dĩ kiều hoài Trương Tử Phòng

經 下 邳 圯 橋 懷 張 子 房

子 房 未 虎 嘯

Tử Phòng vị hổ khiếu,

破 產 不 為 家

Phá sản bất vi gia.

滄 海 得 壯 士

Thương hải đắc tráng sĩ,

椎 秦 博 浪 沙

Chùy Tần Bác Lãng sa.

報 韓 雖 不 成

Báo Hàn tuy bất thành.

天 地 皆 振 動

Thiên địa giai chấn động.

潛 匿 遊 下 邳

Tiềm nặc du Hạ Bi.

豈 曰 非 智 勇

Khởi viết phi trí dũng.

我 來 圯 橋 上

Ngã lai Dĩ kiều thượng,

懷 古 欽 英 風

Hoài cổ khâm anh phong.

惟 見 碧 流 水

Duy kiến bích lưu thủy,

曾 無 黃 石 公

Tằng vô Hoàng Thạch công.

歎 息 此 人 去

Thán tức thử nhân khứ,

蕭 條 徐 泗 空

Tiêu điều Từ, Tứ không.



Qua cầu Dĩ đất Hạ Bi nhớ Trương Tử Phòng

Thầy Lương hổ chửa ra oai.

Phá tan của cải gia tài sạch không.

Biển xanh được kẻ anh hùng,

Vua Tần, đánh một dùi đồng thử coi.

Cánh đồng Bác Lãng công toi,

Thù Hàn chưa trả đất trời cũng kinh.

Hạ Bi trốn lánh nương mình,

Khôn ngoan mạnh bạo tài tình lắm thay!

Ta nay cầu Dĩ chơi đây

Nhớ ai thiên cổ lòng đầy kính yêu,

Trong veo nước biếc xuôi chiều,

Mà ông Hoàng Thạch đâu nào có đâu.

Than rằng ai đó đi đâu,

Vắng tanh Từ, Tứ để sầu nước non.

Ngày Nay, số 82 (24.10.1937)



20. Sơn trung vấn đáp 山 中 問 答

問 予 何 事 棲 碧 山

Vấn dư hà sự thê bích san?

笑 而 不 答 心 自 閒

Tiếu nhi bất đáp, tâm tự nhàn.

桃 花 流 水 窅 然 去

Đào hoa lưu thủy yểu nhiên khứ,

別 有 天 地 非 人 間

Biệt hữu thiên địa, phi nhân gian.



Trả lời hỏi trong núi

Hỏi ta: Ở núi làm chi?

Thong dong chẳng nói, cười khì cho vui.

Hoa đào theo bẵng nước trôi,

Có riêng trời đất, cõi người đâu đây.

Ngày Nay, số 94 (16-1-1938)



21. Tặng Uông Luân 贈汪倫

李 白 乘 舟 將 欲 行

Lý Bạch thừa chu tương dục hành,

忽 聞 岸 上 踏 歌 聲

Hốt văn ngạn thượng đạp ca thanh.

桃 花 潭 水 深 千 尺

Đào Hoa đàm thủy thâm thiên xích,

不 及 汪 倫 送 我 情

Bất cập Uông Luân tống ngã tình.



Tặng Uông Luân

Sắp đi Lý Bạch ngồi thuyền,

Trên bờ chân giậm, nghe liền tiếng ca

Nước đầm nghìn thước Đào Hoa,

Uông Luân, tình bác tiễn ta sâu nhiều.

Ngày Nay, số 135 (5-11-1938)



22. Tảo phát Bạch Đế thành 早 發 白 帝 城

朝 辭 白 帝 彩 雲 間

Triêu từ Bạch Đế thái vân gian,

千 里 江 凌 一 日 還

Thiên lý Giang Lăng nhất nhật hoàn.

兩 岸 猿 聲 啼 不 住

Lưỡng ngạn viên thanh đề bất trụ,

輕 舟 已 過 萬 重 山

Khinh chu dĩ quá vạn trùng san.



Sớm ra đi từ thành Bạch Đế

Sớm ra Bạch Đế thành mây,

Giang Lăng nghìn dặm một ngày về luôn.

Hai bờ tiếng vượn véo von,

Thuyền lan đã vượt núi non vạn trùng

Ngày Nay, số 88 (5-12-1937)



23. Ô dạ đề 烏夜啼

黃 雲 城 邊 烏 欲 棲

Hoàng vân thành biên ô dục thê.

歸 飛 啞 啞 枝 上 啼

Quy phi «á á» chi thượng đề.

機 中 織 錦 秦 川 女

Cơ trung chức cẩm Tần Xuyên nữ.

碧 紗 如 湮 隔 窗 語

Bích sa như yên cách song ngữ.

停 梭 悵 然 憶 遠 人

Đình thoa trướng nhiên ức viễn nhân

獨 宿 孤 房 淚 如 雨

Độc túc cô phòng lệ như vũ.



Quạ kêu đêm

Mây vàng tiếng quạ bên thành,

Nó bay tìm ngủ trên cành nó kêu.

Tần Xuyên cô gái buồng thêu,

Song sa khói tỏa như khêu chuyện ngoài.

Dừng thoi buồn bã nhớ ai,

Phòng không gối chiếc, giọt dài tuôn mưa.

Ngày Nay, số 83 (31-10-1937)



24. Thái liên khúc 採 蓮 曲

若 耶 溪 傍 採 蓮 女

Nhược Da khê bạng thái liên nữ,

笑 隔 菏 花 共 人 語

Tiếu cách hà hoa cộng nhân ngữ.

日 照 新 倀 水 底 明

Nhật chiếu tân trang thủy để minh,

風 飄 香 袂 空 中 舉

Phong phiêu hương duệ không trung cử.

岸 上 誰 家 遊 冶 郎

Ngạn thượng thùy gia du dã lang,

三 三 五 五 映 垂 楊

Tam tam ngũ ngũ ánh thùy dương.

紫 騮 嘶 入 落 花 去

Tử lưu tê nhập lạc hoa khứ,

見 此 踟 躕 空 斷 腸

Kiến thử trì trù không đoạn trường.



Khúc hát hái sen

Có cô con gái nhà ai,

Hái sen, chơi ở bên ngòi Nhược Da.

Mặt hoa cười cách đóa hoa,

Cùng ai nói nói mặn mà thêm xinh.

Áo quần mặc mới sáng tinh,

Nắng soi đáy nước rung rinh bóng lồng.

Thơm thơ vạt áo gió tung,

Bay lên phấp phới trong không ngạt ngào.

Năm, ba chàng trẻ nhà nào,

Ngựa hồng rặng liễu, bờ cao bóng người.

Ngựa kêu, lần bước hoa rơi,

Đoái trông ai đó, ngậm ngùi tiếc thương.

Ngày Nay, số 89 (10-12-1937)



ĐỖ PHỦ 杜甫 (712-770)

25. Nguyệt dạ 月 夜

今 夜 鄜 州 月

Kim dạ Phu Châu nguyệt,

閨 中 只 獨 看

Khuê trung chỉ độc khan.

遙 憐 小 兒 女

Dao liên tiểu nhi nữ,

未 解 憶 長 安

Vị giải ức Tràng An.

香 霧 雲 鬟 濕

Hương vụ vân hoàn thấp,

清 輝 玉 臂 寒

Thanh huy ngọc tý hàn.

何 時 倚 虛 幌

Hà thời ỷ hư hoảng,

雙 照 淚 痕 乾

Song chiếu lệ ngân can.



Đêm sáng trăng

Châu Phu này lúc trăng soi.

Buồng the đêm vắng riêng coi một mình.

Đoái thương thơ dại đầu xanh,

Tràng An chửa biết đem tình nhớ nhau.

Sương sa thơm ướt mái đầu,

Cánh tay ngọc trắng lạnh màu sáng trong.

Bao giờ tựa bức màn không,

Gương soi chung bóng lệ dòng dòng khô.

Ngày Nay, số 86 (21-11-1937)



26. Đăng Nhạc Dương lâu 登 岳 陽 樓

昔 聞 洞 庭 水

Tích văn Động Đình thủy,

今 上 岳 陽 樓

Kim thướng Nhạc Dương lâu.

吳 楚 東 南 坼

Ngô, Sở đông nam sách,

乾 坤 日 夜 浮

Càn khôn nhật dạ phù.

親 朋 無 一 字

Thân bằng vô nhất tự,

老 病 有 孤 舟

Lão bệnh hữu cô chu

戎 馬 關 山 北

Nhung mã quan sơn bắc.

憑 軒 涕 泗 流

Bằng hiên thế tứ lưu.



Lên lầu Nhạc Dương

Động Đình nghe tiếng từ xưa,

Nhạc Dương lâu mới bây giờ lên chơi.

Đông nam Ngô, Sở chia hai,

Ngày đêm như thấy đất trời nổi nênh.

Người quen, một chữ vắng tanh,

Tuổi già, mình ốm lênh bênh chiếc thuyền.

Quan san cõi Bắc giặc tràn,

Mái hiên đứng tựa giụa giàn giọt rơi.

Ngày Nay, số 87 (28-11-1937)



27. Tuyệt cú 絕 句

兩 個 黃 鸝 鳴 翠 柳

Lưỡng cá hoàng ly minh thúy liễu,

一 行 白 鷺 向 青 天

Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên.

窗 含 西 嶺 千 秋 雪

Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết,

門 泊 東 吳 萬 里 船

Môn bạc Đông Ngô vạn lý thuyền.



Câu tứ tuyệt

Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc,

Một hàng cò trắng vút trời xanh.

Nghìn năm tuyết núi song in sắc,

Muôn dặm thuyền Ngô cửa rập rình.

Ngày Nay, số 97 (13-2-1938)



28. Đăng Cao 登 高

風 急 天 高 猿 嘯 哀

Phong cấp thiên cao, viên khiếu ai.

渚 清 沙 白 鳥 飛 迴

Chử thanh sa bạch, điểu phi hồi.

無 邊 落 木 蕭 蕭 下

Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ,

不 盡 長 江 滾 滾 來

Bất tận trường giang cổn cổn lai.

萬 里 悲 秋 常 作 客

Vạn lý bi thu thường tác khách.

百 年 多 病 獨 登 臺

Bách niên đa bệnh độc đăng đài.

艱 難 苦 恨 繁 霜 鬢

Gian nan khổ hận phồn sương mấn,

潦 倒 新 停 濁 酒 杯

Lạo đảo tân đình trọc tửu bôi.



Lên núi

Gió mạnh, trời cao, vượn rúc sầu

Bến trong, cát trắng, lượn đàn âu.

Lào rào lá rụng, cây ai đếm,

Cuồn cuộn sông dài, nước đến đâu.

Muôn dặm quê người thu não cảnh,

Một thân già yếu bước lên lầu.

Khó khăn ngao ngán bao là nỗi,

Rượu uống không ngon chóng bạc đầu.

Ngày Nay, số 79 (3-10-1937)



29. Khúc giang 曲 江

朝 回 日 日 典 春 衣

Triều hồi nhật nhật điển xuân y,

每 日 江 頭 盡 醉 歸

Mỗi nhật giang đầu tận túy qui.

酒 債 尋 常 行 處 有

Tửu trái tầm thường hành xứ hữu,

人 生 七 十 古 來 稀

Nhân sinh thất thập cổ lai hi.

穿 花 蛺 蝶 深 深 見

Xuyên hoa giáp điệp thâm thâm hiện,

點 水 蜻 蜓 款 款 飛

Điểm thủy thanh đình khoản khoản phi.

傳 語 風 光 共 流 轉

Truyền ngữ phong quang cộng lưu chuyển,

暫 時 相 賞 莫 相 違

Tạm thời tương thưởng mạc tương vi.



Trên sông Khúc

Khỏi bệ vua ra, cố áo hoài,

Bên sông say khướt, tối lần mai.

Nợ tiền mua rượu đâu không thế,

Sống bảy mươi năm đã mấy người?

Bươm bướm luồn hoa phơ phất lượn.

Chuồn chuồn giỡn nước lửng lơ chơi.

Nhắn cho: quang cảnh thường thay đổi,

Tạm chút chơi xuân kẻo nữa hoài.

Ngày Nay, số 90 (19-12-1937)



SẦM THAM 岑 參 (715-770)

30. Sơn phòng xuân sự 山 房 春 事

梁 園 日 暮 亂 飛 鴉

Lương viên nhật mộ loạn phi nha,

極 目 蕭 條 三 兩 家

Cực mục tiêu điều tam lưỡng gia.

庭 樹 不 知 人 去 盡

Đình thụ bất tri nhân khứ tận,

春 來 還 發 舊 時 花

Xuân lai hoàn phát cựu thì hoa



Cảnh xuân nhà trên núi

Trời tối vườn Lương quạ lượn lờ,

Nhà đâu vút mắt, nóc lưa thưa.

Cây xuân chẳng biết người đi hết,

Xuân đến hoa còn nở giống xưa.



CAO THÍCH 高 適 (702-765)

31. Vịnh sử 詠 史

尚 有 綈 袍 贈

Thượng hữu đề bào tặng,

應 憐 范 叔 寒

Ưng lân Phạm Thúc hàn.

不 知 天 下 士

Bất tri thiên hạ sĩ,

猶 作 布 衣 看

Do tác bố y khan.



Vịnh sử

Áo bông còn có cho nhau,

Cảm thương chàng Phạm bấy lâu lạnh lùng.

Cõi đời chẳng biết anh hùng,

Vẫn coi nhau thể bần cùng khố dây.

Ngày Nay, số 111 (22.5.1938)



32. Biệt Đổng Đại 別 董 大

十 里 黃 雲 白 日 曛

Thập lý hoàng vân bạch nhật huân,

北 風 吹 雁 雪 紛 紛

Bắc phong xuy nhạn tuyết phân phân.

莫 愁 前 路 無 知 己

Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ,

天 下 誰 人 不 識 君

Thiên hạ thùy nhân bất thức quân?



Tương biệt với Đổng Đại

Mười dặm vàng pha bóng nhật vân,

Nhàn xuôi gió bấc tuyết bay nhanh.

Chớ buồn nẻo trước không tri kỷ.

Thiên hạ ai người chẳng biết anh!

Ngày Nay, số 88 (5.12.1937)



GIẢ CHÍ 賈 至 (718-772)

33. Tống Lý Thị lang phó Thường Châu

送 李 侍 郎 赴 常 州

雪 晴 雲 散 北 風 寒

Tuyết tình vân tán bắc phong hàn,

楚 水 吳 山 道 路 難

Sở thủy Ngô sơn đạo lộ nan.

今 日 送 君 須 盡 醉

Kim nhật tống quân tu tận túy;

明 朝 相 憶 路 漫 漫

Minh triêu tương ức lộ man man.



Tiễn Lý Thị lang đổi tới Thường Châu

Tuyết tạnh mây tan gió lọt da,

Non sông Ngô Sở, nỗi đường xa.

Lúc này đưa bác nên say tít,

Tình nặng đường xa buổi sáng ra.

Ngày Nay, số 84 (7.11.1937)



TRƯƠNG VỊ 張 謂

34. Hồ trung đối tửu tác

湖 中 對 酒 作

夜 坐 不 厭 湖 上 月

Dạ tọa bất yếm hồ thượng nguyệt,

晝 行 不 厭 湖 上 山

Trú hành bất yếm hồ thượng san.

眼 前 一 樽 又 常 滿

Nhãn tiền nhất tôn hựu thường mãn,

心 中 萬 事 如 等 閒

Tâm trung vạn sự như đẳng nhàn.

主 人 有 黍 萬 餘 石

Chủ nhân hữu thử vạn dư thạch,

濁 醪 數 斗 應 不 惜

Trọc giao sổ đẩu ưng bất tích.

即 今 相 對 不 盡 歡

Tức kim tương đối bất tận hoan,

別 後 相 思 復 何 益

Biệt hậu tương tư phục hà ích.

茱 萸 灣 頭 歸 路 賒

Thù du loan đầu qui lộ xa,

願 君 且 宿 黃 公 家

Nguyện quân thả túc Hoàng công gia.

風 光 若 此 人 不 醉

Phong quang nhược thử, nhân bất túy,

參 差 辜 負 東 園 花

Sâm si cô phụ đông viên hoa.



Trong hồ cùng nhau uống rượu

Ngồi đêm chẳng chán trăng hồ,

Ngày đi chẳng chán quanh hồ núi non.

Một chai trước mắt đầy luôn,

Trong lòng muôn nỗi lo buồn bỏ qua.

Chủ nhân thóc nếp đầy nhà,

Rượu nồng mấy gáo ắt là tiếc chi?

Cùng nhau nay chẳng hả hê,

Nhớ nhau lúc khác ích gì nữa ai?

Thù du về bến xa xôi,

Xin ai ở lại ngủ chơi ông Hoàng

Chẳng say cũng phí phong quang,

Vườn đông luống để bẽ bàng cho hoa.

Ngày Nay, số 93 (9.1.1938)



TIỀN KHỞI 錢 起 (722-780)

35. Giang hành 江 行

睡 穩 葉 舟 輕

Thụy ổn diệp chu khinh,

風 微 浪 不 驚

Phong vi lãng bất kinh.

任 君 蘆 葦 岸

Nhậm quân lô vi ngạn,

終 夜 動 秋 聲

Chung dạ động thu thanh.



Đi trên sông

Ngủ yên trong chiếc thuyền con,

Gió hiu hiu thổi, sóng rờn rờn đưa.

Mặc đâu lau sậy bên bờ,

Suốt đêm động rộn tha hồ tiếng thu.

Ngày Nay, số 122 (7.8.1938)



VI ỨNG VẬT 韋 應 物 (736-780)

36. Thính giang địch, tống Lục Thị ngự 聽 江 笛 送 陸 侍 御

遠 聽 江 上 笛

Viễn thính giang thượng địch,

臨 觴 一 送 君

Lâm trường nhất tống quân.

還 愁 獨 宿 夜

Hoàn sầu độc túc dạ,

更 向 郡 齋 聞

Cánh hướng quận trai văn.



Nghe sáo sông, tiễn quan Thị ngự họ Lục

Xa nghe tiếng sáo trên sông,

Một phen cất chén rượu nồng đưa nhau.

Nghĩ cho đêm vắng thêm sầu,

Riêng ai tiếng ấy bên lầu lại nghe.

Ngày Nay, số 122 (7.8.1938)



CÁP GIA VẬN 蓋 嘉 運

37. Y Châu ca 伊 州 歌

打 起 黃 鶯 兒

Đả khởi hoàng oanh nhi,

莫 教 枝 上 啼

Mạc giao chi thượng đề.

啼 時 驚 妾 夢

Đề thời kinh thiếp mộng,

不 得 到 遼 西

Bất đắc đáo Liêu Tê.



Khúc hát Y Châu

Đập cho mất cái vàng anh,

Chẳng cho nó ở trên cành nó kêu.

Nó kêu tỉnh giấc chiêm bao,

Liêu Tây chẳng được em theo đến chàng.



LÝ ĐOAN 李 端

38. Bái tân nguyệt 拜 新 月

開 簾 見 新 月

Khai liêm kiến tân nguyệt,

即 便 下 階 拜

Tức tiện há giai bái.

細 語 人 不 聞

Tế ngữ nhân bất văn,

北 風 吹 裙 帶

Bắc phong xuy quân đái.



Vái trăng mới

Mở rèm thấy tấm trăng non,

Thềm trên bước xuống vái luôn trăng này.

Khẽ lời khấn chẳng ai hay,

Thoảng cơn gió bấc thổi bay dải quần

Ngày Nay, số 117 (3.7.1938)



LIỄU TÔNG NGUYÊN 柳 宗 元 (773-819)

39. Giang tuyết 江 雪

千 山 鳥 飛 絕

Thiên sơn điểu phi tuyệt.

萬 徑 人 蹤 滅

Vạn kính nhân tung diệt.

孤 舟 簑 笠 翁

Cô chu toa lạp ông,

獨 釣 寒 江 雪

Độc điếu Hàn Giang tuyết.



Tuyết trên sông

Nghìn non mất bóng chim bay,

Muôn con đường tắt dấu giày tuyệt không.

Kìa ai câu tuyết bên sông,

Áo tơi, nón lá, một ông thuyền chài.

Ngày Nay, số 92 (2.1.1938)



40. Ngư ông 漁 翁

漁 翁 夜 傍 西 巖 宿

Ngư ông dạ bạng tây nham túc

曉 汲 清 湘 燃 楚 燭

Hiểu cấp thanh Tương nhiên Sở trúc.

煙 銷 日 出 不 見 人

Yên tiêu nhật xuất bất kiến nhân,

欸 乃 一 聲 山 水 綠

Ái nãi nhất thanh sơn thủy lục.

迴 看 天 際 下 中 流

Hồi khan thiên tế hạ trung lưu,

巖 上 無 心 雲 相 逐

Nham thượng vô tâm vân tương trục.



Ông lão thuyền câu

Thuyền câu ngủ ghé non tây,

Dòng Tương, tre Sở sáng ngày nấu ăn,

Khói tan trời nắng vắng tanh,

Tiếng vang nước biếc non xanh một chèo.

Xuôi dòng ngoảnh lại trời cao,

Đầu non mấy đám mây theo lững lờ.

Ngày Nay, số 113 (5.6.1938)



LƯU VŨ TÍCH 劉 禹 錫 (772-842)

41. Ô Y hạng 烏 衣 巷

朱 雀 橋 邊 野 草 花

Chu Tước kiều biên dã thảo hoa.

烏 衣 巷 口 夕 陽 斜

Ô Y hạng khẩu tịch dương tà.

舊 時 王 謝 堂 前 燕

Cựu thời Vương Tạ đường tiền yến.

飛 入 尋 常 百 姓 家

Phi nhập tầm thường bách tính gia.



Ngõ Ô Y

Bên cầu Chu Tước cỏ hoa,

Ô Y đầu ngõ, bóng tà tịch dương.

Én xưa nhà Tạ, nhà Vương,

Lạc loài đến chốn tầm thường dân gia.

Ngày Nay, số 94 (16-1-1938)


( to be continued )

 

23/12/12

Sáng Chủ nhật buồn

 

Sáng Chủ nhật buồn
  •  
Bất động sản
Thị trường bất động sản chờ chính phủ 'giải cứu'

Thường sáng Chủ nhật, sau khi thức dậy, tôi có tâm trạng vui nhưng không hiểu tại sao sáng nay tôi lại thấy buồn.
Có lẽ bị tác động bởi vài câu chuyện buồn của tối hôm qua. Bắt đầu từ chuyện anh lái taxi than vãn ế ẩm, nhiều bạn anh đã bỏ xe nghỉ việc vì lỗ. Từ đó nhớ đến chuyện các hãng taxi bị lỗ nặng. Đại gia Mai Linh bị nặng nhất rồi các hãng khác nghe nói cũng đang điêu đứng, tìm cách bán lại để tháo chạy. Rồi nhớ tuần trước đi ăn tối tại một nhà hàng khá nổi tiếng tại đường Trần Quốc Thảo, tối thứ bảy mà cả nhà hàng hai tầng chỉ có một bàn thực khách của chúng tôi. Rồi nhớ lại chuyện anh bạn là chủ một nhà rất lớn ở Bình Quới, anh nói: Số lượng thực khách giảm xuống thấy rõ từng ngày…tình hình này qua năm 2013 không biết sẽ ra sao.
Từ đầu năm đến giờ, lúc nào ngồi với đám bạn bè là giới kinh doanh, đều nghe họ thở dài vì nghĩ đến nợ nần. Nhiều người bạn biến mất vì vỡ nợ. Giới chứng khoán thì đã tiêu tùng từ hai năm trước. Giới bất động sản thì lao đao từ đầu năm ngoái để đến cuối năm nay thì hầu như sụp đổ, ai sống sót thì đang khấp khởi trông chờ vào gói giải cứu của chính phủ. Hầu như những đại gia còn sống sót ngắc ngoải là những đại gia khủng, trong nhóm lợi ích, có quyền lợi liên thông với các quan chức lớn và giới ngân hàng. 100 ngàn đến 150 ngàn tỷ đồng của chính phủ đổ ra chắc để giải cứu cho đám nhà giàu này?
Tôi biết có một số đại gia nhà đất sụp đổ từ hai năm trước, hầu hết các dự án của họ đều dừng lại, giao luôn cho ngân hàng xiết nợ rồi ung dung bỏ đi ăn chơi và hưởng thụ. Các đại gia ấy cứ đến thứ sáu là rậm rực bay đi Singapore, đi Mã Lai, đi Macao, Las Vegas…để đánh bạc. Tôi hỏi một vị, đang nợ ngân hàng ngập đầu mà tiền đâu còn đi ăn chơi? Vị ấy cười cười không nói.
Sau này thì tôi hiểu ra. Công thức làm ăn của các đại gia ấy là: Đại gia nhờ quan hệ chạy được một dự án, bỏ ra 100 tỉ đồng để đền bù và bôi trơn các cấp, sau đó “vẽ” ra một dự án quy mô lớn với trị giá nâng lên đến 600 tỉ đồng nhưng giá trị thực thì chỉ chừng 300 tỉ. Đại gia mang dự án ấy thế chấp ngân hàng vay được 1/2 giá trị là 300 tỉ đồng. Đại gia rút về 100 tỉ đồng là vốn bỏ ra ban đầu. Còn 200 tỉ đồng của ngân hàng đem ra múa. Thời sốt nhà đất, đại gia hốt đậm, vì mới vẽ bản đồ, chưa kịp làm móng đã bán sạch hàng. Thời này, nhà đất xẹp, không dụ ai để bán được hàng, đại gia bèn dừng lại dự án rồi tuyên bố vỡ nợ, giao dự án lại cho ngân hàng làm chi thì làm. Đại gia chẳng mất gì hết, có khi còn lời nếu biết dừng dự án sớm, nên cứ vui chơi. Chỉ ngân hàng ôm đổng.
Bây giờ chính phủ đổ tiền ra giải cứu bất động sản là giải cứu cho các anh ngân hàng ôm món hàng thế chấp trời ơi đó.
"Rồi hình ảnh hàng vạn dân oan mất đất lê la đi khiếu kiện ngày này qua tháng nọ ở khắp mọi miền đất nước lại ập về trong tôi. Có người bị đánh chết, có người bị bắt tù, có người tự thiêu, có người phải cởi truồng để giữ đất."
Cả nước có đến hàng ngàn dự án địa ốc kiểu đó. Có những địa phương giải tỏa trắng đến vài xả, vài phường để cấp đất cho các đại gia trời ơi kiểu đó.
Rồi hình ảnh hàng vạn dân oan mất đất lê la đi khiếu kiện ngày này qua tháng nọ ở khắp mọi miền đất nước lại ập về trong tôi. Có người bị đánh chết, có người bị bắt tù, có người tự thiêu, có người phải cởi truồng để giữ đất…Ôi dân tôi sao mà gặp hết kiếp nạn này đến kiếp nạn khác thế này! Phẫn uất. Rồi buồn.
Rồi mọi hình ảnh tăm tối khác, những thứ bao năm nay đã cố quên, lại ập về khi nghĩ lại những gì đã đọc trong ”Bên Thắng Cuộc”. Nào học tập cải tạo, nào tiêu diệt tư sản mại bản, nào cải tạo công thương nghiệp, nào đổi tiền, nào nạn kiều, nào phương án 2, nào vượt biên, nào chiến tranh biên giới…bao nhiêu số phận dân lành bị vùi dập, bao nhiêu chết chóc tang thương…Đọc rất nhiều sách vở nói về nỗi khổ ải của dân ta dưới thời thực dân phong kiến, tuy đã được cường điệu lên nhiều lần, nhưng thấy cũng không thấm tháp gì so với những gì mà dân ta chịu đựng dưới thời bao cấp, qua thực tế bản thân tôi trải nghiệm, qua những số liệu lạnh lùng của Huy Đức nêu ra.
Buồn hơn nữa là đã qua rồi thời bao cấp, mà dân ta có hết lầm than đâu!
Nhất tướng công thành, vạn cốt khô.
Một chủ trương sai lầm, vạn xác dân phơi.
Từ 75 đến giờ biết bao nhiêu chủ trương sai lầm được phán ra? Và có ai đứng ra nhận trách nhiệm trước lịch sử, trước nhân dân?

Bài viết nêu quan điểm riêng của tác giả, từng là thư ký tòa soạn báo Thanh Niên. Bài viết đã đăng ở

Bấm blog của tác giả.
 
Source : BBC

21/12/12

VÔ NGÔN


Tran Ho Dung

Lặng câm ! Hề ! Lặng câm !

Đi - Về , không in dấu

Một đời không tiếng nói

Ai người tri kỷ đây



Người một đời câm nín

Đá muôn đời vô ngôn

phận người và phận đá

ai vui buồn hơn ai


Người mài gươm lên đá

Hiện một dòng phôi pha

Chiều nghiêng rơi chiếc lá

Hồn nào vừa đi qua

Tranhodung . Washington .USA. Memorial Day . 2012

Tâm thức


   Tâm thức
                            Trần Hồ Dũng


Chỉ cần một nụ cười
Tâm ta hoa hồng nở
Chỉ cần một ánh nhìn
Lòng ta tràn ánh sáng

Nụ cười em vừa tắt
Tâm ta , cánh hoa khô
Em quay mặt bước đi
Lòng ta đầy bóng tối

Bàn chân em ngây thơ
Bước qua đời rất nhẹ
Sao lòng ta già cỗi
Hóa sa mạc ưu phiền

Tâm, khát một nụ cười
Hồn , bóng đêm chờ sáng
Ta bước vào cơn mê
Nghe đời trôi rất lạ

Em là ta ngày trước
Ta là em ngày sau
Ta và em là một
Nở chung đóa vô thường