24/12/12

90 bài thơ Đường do Tản Đà dịch [2]

90 bài thơ Đường do Tản Đà dịch [2]


TẢN ĐÀ NGUYỄN KHẮC HlẾU (1889-1939)



BẠCH CƯ DỊ 白 居 易 (772-846)

42. Sơn hạ túc 山 下 宿

獨 到 山 下 宿

Độc đáo sơn hạ túc.

靜 向 月 中 行

Tĩnh hướng nguyệt trung hành.

何 處 水 邊 碓

Hà xứ thủy biên đối,

夜 舂 雲 母 聲

Dạ thung vân mẫu thanh.



Ngủ trong núi

Một mình tới ngủ non xanh,

Lặng êm dưới bóng trăng thanh bước nhìn.

Suối đâu? Cối nước liền bên,

Chày đâm vân mẫu kìn kìn tiếng đêm.



43. Trì thượng 池 上

小 娃 撐 小 艇

Tiểu oa sanh tiểu đĩnh,

偷 採 白 蓮 迴

Thâu thái bạch liên hồi,

不 解 藏 蹤 跡

Bất giải tàng tung tích,

浮 萍 一 道 開

Phù bình nhất đạo khai.

Trên ao

Người xinh bơi chiếc thúng xinh,

Bông sen trắng nõn trắng tinh thó về.

Hớ hênh dấu vết không che,

Trên ao để một luồng chia mặt bèo.

Ngày Nay, số 82 (24-10-1937)



44. Chu trung vũ dạ 舟 中 雨 夜

江 雲 闇 悠 悠

Giang vân ám du du,

江 風 冷 修 修

Giang phong lãnh tu tu,

夜 雨 滴 船 背

Dạ vũ trích thuyền bối,

夜 浪 打 船 頭

Dạ lãng đả thuyền đầu.

船 中 有 病 客

Thuyền trung hữu bệnh khách.

左 降 向 江 川

Tả giáng hướng Giang Châu.



Trong thuyền đêm mưa

Mây sông kéo tới đùn đùn,

Gió sông thổi lạnh ghê hồn khách sông

Mưa đêm rỏ xuống mui bồng,

Sóng đêm dồn vỗ long bong mũi thuyền.

Trong thuyền có bác ốm rên,

Giáng quan thẳng lối ra miền Giang Châu.

Ngày Nay, số 107 (24-4-1938)



45. Hữu nhân dạ phỏng 友人夜訪

簷 間 清 風 簟

Thiềm gian thanh phong điệm.

松 下 明 月 盃

Tùng hạ minh nguyệt bôi.

幽 意 正 如 此

U ý chính như thử.

況 乃 故 人 來

Huống nãi cố nhân lai.



Người bạn đến thăm đêm

Thềm cao gió mát chiếu đan,

Chén soi bóng nguyệt bàng hoàng dưới thông.

Lòng riêng đương thú với lòng.

Lại đâu người cũ lạ lùng đến thăm.



46. Dạ vũ 夜 雨



早 蛩 啼 復 歇

Tảo cung đề phục yết.

殘 燈 滅 又 明

Tàn đăng diệt hựu minh.

隔 窗 知 夜 雨

Cách song tri dạ vũ.

芭 蕉 先 有 聲

Ba tiêu tiên hữu thanh.



Mưa đêm

Dế giun rên mỏi lại ngừng,

Đèn tàn muốn tắt lại bừng sáng ra.

Cách song, đêm biết mưa sa,

Tiếng nghe lộp bộp chăng là tàu tiêu.

Ngày Nay, số 130 (1-10-1938)



47. Thu trùng 秋 蟲

切 切 闇 窗 下

Thiết thiết ám song hạ,

喓 喓 深 草 裏

Yêu yêu thâm thảo lý.

秋 天 思 婦 心

Thu thiên tư phụ tâm,

雨 夜 愁 人 耳

Vũ dạ sầu nhân nhĩ.



Trùng mùa thu

Tiếng đâu dưới vách kêu ran?

Lại trong đám cỏ nghe càng nỉ con.

Trơi thu gái nhớ chồng son,

Mưa dầm đêm vắng, ai buồn lắng tai.

Ngày Nay, số 124 (21-8-1938)



48. Vấn Hoài Thủy 問 淮 水

自 嗟 名 利 客

Tự ta danh lợi khách,

擾 擾 在 人 間

Nhiễu nhiễu tại nhân gian.

何 事 長 淮 水

Hà sự trường Hoài thủy,

東 流 亦 不 閒

Đông lưu diệc bất nhàn?



Hỏi nước sông Hoài

Trong vòng danh lợi thương ta,

Cái thân nhăng nhít cho qua với đời.

Việc chi, hỡi nước sông Hoài?

Cũng không thong thả, miệt mài về đông?

Ngày Nay, số 92 (2-1-1938)



49. Tảo thu độc dạ 早 秋 獨 夜

井 梧 涼 葉 動

Tỉnh ngô lương diệp động,

鄰 杵 秋 聲 發

Lân chử thu thanh phát.

獨 向 簷 下 眠

Độc hướng thiềm hạ miên.

覺 來 半 床 月

Giác lai bán sàng nguyệt.



Mùa thu sớm, đêm một mình

Giếng vàng lay động lá ngô,

Mỏ chày hàng xóm tiếng thu đã truyền...

Một mình ngủ dưới mái hiên,

Tỉnh ra trăng sáng một bên giường nằm.

Ngày Nay, số 126 (2-9-1938)



50. Thu mộ giao cư thư hoài 秋 暮 郊 居 書 懷

郊 居 人 事 少

Giao cư nhân sự thiểu,

晝 臥 對 林 巒

Trú ngọa đối lâm man.

窮 巷 厭 多 雨

Cùng hạng yếm đa vũ,

貧 家 愁 早 寒

Bần gia sầu tảo hàn.

葛 衣 秋 未 換

Cát y thu vị hoán,

書 卷 病 仍 看

Thư quyển bịnh nhưng khan.

若 問 生 涯 計

Nhược vấn sinh nhai kế,

前 溪 一 釣 竿

Tiền khê nhất điếu can.



Cuối thu, cảnh ở quê

Ở quê, thưa ít việc người,

Giữa trưa nằm khểnh, ngắm coi núi đèo.

Ngõ sâu ngán nỗi mưa nhiều,

Lạnh lùng chi sớm, cảnh nghèo thêm lo.

Áo lương còn mặc mùa thu,

Ốm đau, sách vẫn đôi pho chẳng rời.

Lấy chi qua sống ngày trời?

Một cần câu để bên ngòi ngồi câu.

Ngày Nay, số 135 (5-11-1938)



51. Thu giang tống khách 秋 江 送 客

秋 鴻 次 第 過

Thu hồng thứ đệ quá,

哀 猿 朝 夕 聞

Ai viên triêu tịch văn.

是 日 孤 舟 客

Thị nhật cô chu khách,

此 地 亦 離 群

Thử địa diệc ly quần.

濛 濛 潤 衣 雨

Mông mông nhuận y vũ,

漠 漠 冒 帆 雲

Mạc mạc mạo phàm vân,

不 醉 潯 陽 酒

Bất túy Tầm Dương tửu,

煙 波 愁 殺 人

Yên ba sầu sát nhân.



Sông thu tiễn khách

Nhàn thu lần lượt bay qua,

Thảm thương tiếng vượn hôm đà lại mai.

Ngày nay một chiếc thuyền ai,

Nước non này cũng chia phôi cách đàn.

Mưa đầm vạt áo như chan,

Buồm đi, man mác mây ngàn đón ngang.

Chẳng say chén rượu Tầm Dương,

Khỏi sao sóng, khói sầu thương chết người.

Ngày Nay, số 129 (24-9-1938)



52. Thảo 草

離 離 原 上 草

Ly ly nguyên thượng thảo,

一 歲 一 枯 榮

Nhất tuế nhất khô vinh,

野 火 燒 不 盡

Dã hỏa thiêu bất tận,

春 風 吹 又 生

Xuân phong xuy hựu sinh.

遠 芳 侵 古 道

Viễn phương xâm cổ đạo,

晴 翠 接 荒 城

Tình thúy tiếp hoang thành

又 送 王 孫 去

Hựu tống Vương tôn khứ

萋 萋 滿 別 情

Thê thê mãn biệt tình.



Cỏ

Đồng cao cỏ mọc như chen,

Khô tươi thay đổi hai phen năm tròn.

Lửa đồng thiêu cháy vẫn còn,

Gió xuân thổi tới mầm non lại trồi.

Xa xa thơm ngát dặm dài,

Thành hoang láng biếc khi trời tạnh mưa.

Vương, Tôn đi lại tiễn đưa,

Biết bao tình biệt đầm đìa lướt theo.

Ngày Nay, số 86 (21-11-1937)



53. Họa Đỗ lục sự đề hồng diệp 和 杜 錄 事 題 紅 葉

寒 山 十 月 旦

Hàn sơn thập nguyệt đán,

霜 葉 一 時 新

Sương diệp nhất thời tân.

似 燒 非 因 火

Tự thiêu phi nhân hỏa,

如 花 不 待 春

Như hoa bất đãi xuân.

連 行 排 降 葉

Liên hàng bài giáng diệp,

亂 落 剪 紅 巾

Loạn lạc tiễn hồng cân.

解 駐 籃 轝 看

Giải trụ lam dư khán,

風 前 唯 兩 人

Phong tiền duy lưỡng nhân.



Họa thơ ông Lục sự họ Đỗ vịnh lá đỏ

Lạnh lùng buổi sáng tháng mười,

Lá sương phơi núi cùng thời mới sao!

Như thiêu chẳng lửa mà thiêu,

Như hoa chẳng đợi xuân nào mới hoa.

Liền hàng, màn tía bày ra,

Rơi tung, xếp nếp khăn là đỏ ghê!

Muốn xem, dừng xuống kiệu tre,

Đứng chơi ngọn gió chỉ ta hai người.

Ngày Nay, số 139 (XII–1938)



54. Ký Vi Chi 寄 微 之

江 州 望 通 州

Giang Châu vọng Thông Châu,

天 涯 與 地 末

Thiên nhai dữ địa mạt.

有 山 萬 丈 高

Hữu sơn vạn trượng cao,

有 江 千 里 闊

Hữu giang thiên lý khoát.

間 之 以 雲 霧

Gián chi dĩ vân vụ,

飛 鳥 不 可 越

Phi điểu bất khả việt.

誰 知 千 古 險

Thùy tri thiên cổ hiểm,

為 我 二 人 設

Vị ngã nhị nhân thiết.

通 州 君 初 到

Thông Châu quân sơ đáo,

鬱 鬱 愁 如 結

Uất uất sầu như kết.

江 州 我 方 去

Giang châu ngã phương khứ,

迢 迢 行 未 歇

Thiều thiều hành vị yết.

道 路 日 乖 隔

Đạo lộ nhật quai cách.

音 信 日 斷 絕

Âm tín nhật đoạn tuyệt.

因 風 欲 寄 語

Nhân phong dục ký ngữ,

地 遠 聲 不 徹

Địa viễn thanh bất triệt.

生 當 復 相 逢

Sinh đương phục tương phùng.

死 當 從 此 別

Tử đương tòng thử biệt!



Gửi bạn Vi Chi

Châu Giang mà ngóng Châu Thông,

Chân trời cuối đất mênh mông thấy nào?

Núi đâu muôn trượng kìa cao,

Sông đâu ngàn dặm rộng sao rộng mà!

Mây che mù tỏa bao la,

Chim bay cũng chẳng vượt qua khỏi tầm.

Hiểm xưa còn đó ngàn năm,

Ai hay trời để chơi khăm đôi người.

Châu Thông bác mới tới nơi,

Mối sầu như thắt ngậm ngùi chiếc thân.

Châu Giang tôi mới đi dần,

Nẻo đi xa lắc chưa phần đã ngơi.

Quan hà ngày một chia khơi,

Tăm hơi ngày bẵng tăm hơi một ngày.

Gió đưa muốn gửi câu này,

Tiếng không suốt đến vì mày đất xa.

Sống còn gặp gỡ đôi ta,

Ví chăng chết mất thôi là biệt nhau.



55. Dĩ kính tặng biệt 以 鏡 贈 別

人 言 似 明 月

Nhân ngôn tự minh nguyệt,

我 道 勝 明 月

Ngã đạo thắng minh nguyệt.

明 月 非 不 明

Minh nguyệt phi bất minh,

一 年 十 二 缺

Nhất niên thập nhị khuyết.

豈 如 玉 匣 裡

Khởi như ngọc hạp lý,

如 水 常 澄 澈

Như thủy thường trừng triệt,

月 破 天 闇 時

Nguyệt phá thiên ám thời,

圓 明 獨 不 歇

Viên minh độc bất yết.

我 慚 貌 醜 老

Ngã tâm mạo xú lão,

繞 鬢 班 班 雪

Nhiễu mấn ban ban tuyết,

不 如 贈 少 年

Bất như tặng thiếu niên,

迴 照 青 絲 髮

Hồi chiếu thanh ty phát,

因 君 千 里 去

Nhân quân thiên lý khứ,

持 此 將 為 別

Trì thử tương vi biệt.



Lấy gương làm quà tặng biệt

Ai rằng: gương sáng như trăng,

Ta rằng: trăng sáng chưa bằng gương soi.

Trăng kia thật sáng vẹn mười,

Một năm lại khuyết mười hai bận đầy.

Sao bằng trong hộp ngọc này,

Trong như nước đứng ngày ngày năm năm.

Nào khi trăng khuyết trời âm.

Gương đầy tròn sáng như rằm trăng soi.

Buồn ta già xấu hơn người,

Đốm quanh mái tóc bời bời tuyết in.

Chẳng bằng cho bạn thanh niên,

Để soi tóc trẻ xanh rền sợi tơ.

Anh nay nghìn dặm đi xa,

Cầm gương ta để làm quà tiễn nhau.

Ngày Nay, số 114 (12.6.1938)



56. Tự Giang Lăng chi Từ Châu lộ thượng ký huynh đệ

自 江 陵 之 徐 州 路 上 寄 兄 弟

岐 路 南 將 北

Kỳ lộ nam tương bắc,

離 憂 弟 與 兄

Ly ưu đệ dữ huynh.

關 河 千 里 別

Quan hà thiên lý biệt,

風 雪 一 身 行

Phong tuyết nhất thân hành.

夕 宿 勞 鄉 夢

Tịch túc lao hương mộng,

晨 裝 慘 旅 情

Thần trang thảm lữ tình.

家 貧 憂 後 事

Gia bần ưu hậu sự,

日 短 念 前 程

Nhật đoản niệm tiền trình.

煙 雁 翻 寒 渚

Yên nhạn phiên hàn chử,

霜 烏 聚 古 城

Sương ô tụ cổ thành.

誰 憐 陟 岡 者

Thùy liên trắc cương giả,

西 楚 望 南 荊

Tây Sở vọng Nam Kinh.



Từ Giang Lăng đi Từ Châu
trên đường gửi cho anh em

Đường kia sắp bắc từ nam,

Mối lo ly biệt anh em cùng sầu.

Quan hà ngàn dặm xa nhau,

Người đi gió tuyết dãi dầu một thân.

Hồn quê nhọc giấc đêm xuân,

Sắm sanh hành lý tần ngần sớm mai.

Nhà nghèo lo tính xa xôi,

Đường xa nghĩ nỗi ngày trời ngắn không.

Nhạn sa bến lạnh khói lồng

Thành xưa lũ quạ họp trong sương mờ.

Ai thương kẻ bước lên gò?

Sở Tây trông ngóng bây giờ Kinh Nam.

Ngày Nay, số 101 (13.3.1938)



57. Tùng thanh 松 聲

月 好 好 獨 坐

Nguyệt hảo, hảo độc tọa,

雙 松 在 前 軒

Song tùng tại tiền hiên.

西 南 微 風 來

Tây nam vi phong lai,

潛 入 枝 葉 間

Tiềm nhập chi diệp gian,

蕭 寥 發 為 聲

Tiêu liêu phát vi thanh,

半 夜 明 月 前

Bán dạ minh nguyệt tiền,

寒 山 颯 颯 雨

Hàn sơn táp táp vũ

秋 琴 冷 冷 絃

Thu cầm lãnh lãnh huyền.

一 聞 滌 炎 暑

Nhất văn địch viêm thử,

再 聽 破 昏 煩

Tái thính phá hôn phiền.

竟 夕 遂 不 寐

Cánh tịch toại bất mị,

心 體 俱 翛 然

Tâm thể câu diểu nhiên.

南 陌 車 馬 動

Nam mạch xa mã động,

西 鄰 歌 吹 繁

Tây lân ca xúy phồn,

誰 知 茲 簷 下

Thùy tri tư thiềm hạ,

滿 耳 不 為 喧

Mãn nhĩ bất vi huyên.



Tiếng thông reo

Trăng trong ngồi mát một mình,

Hai cây thông đứng hữu tình trước hiên

Nhẹ nhàng cơn gió đưa lên,

Luồn cành lá, đến tự miền tây nam.

Bóng trăng sáng nửa chừng đêm,

Lào rào nghe tiếng gió làm tuôn đưa.

Ào ào núi rét sa mưa,

Đờn cầm thu nảy dây tơ lạnh lùng.

Một nghe, rửa sạch cơn nồng,

Hai nghe bức bối trong lòng phá tan.

Thâu đêm thức mãi bàn hoàn,

Dạ khoan khoái dạ, mình khoan khoái mình.

Đường nam xe ngựa rình rình,

Xóm tây tiếng hát, tiếng sênh rộn ràng.

Ai hay này chỗ hành lang,

Đầy tai nghe vẫn êm thường như không

Ngày Nay, số 127 (11.9.1938)



58. Thu san 秋 山

久 病 曠 心 賞

Cửu bệnh khoáng tâm thưởng.

今 朝 一 登 山

Kim triêu nhất đăng san.

山 秋 雲 物 冷

San thu vân vật lãnh,

稱 我 清 羸 顏

Xứng ngã thanh luy nhan.

百 石 臥 可 枕

Bạch thạch ngọa khả trẩm,

青 蘿 行 可 攀

Thanh la hành khả phan.

意 中 如 有 得

Ý trung như hữu đắc,

盡 日 不 欲 還

Tận nhật bất dục hoàn.

人 生 無 幾 何

Nhân sinh vô kỷ hà,

如 寄 天 地 間

Như ký thiên địa gian.

心 有 千 載 憂

Tâm hữu thiên tải ưu,

身 無 一 日 閑

Thân vô nhất nhật nhàn.

何 時 解 塵 網

Hà thời giải trần võng,

此 地 來 掩 關

Thử địa lai yểm quan.



Núi mùa thu

Ốm lâu, nằm mãi buồn sao!

Sáng nay ta mới lên cao hỡi lòng.

Màu thu, mây núi lạnh lùng.

Thanh hao nét mặt, ưa cùng ta đây.

Nằm gối đá, đi vin dây,

Dây xanh đá trắng đẹp thay cảnh tình!

Thú vui trong dạ một mình,

Thâu ngày quên tưởng cái hình về đâu.

Người ta sống có bao lâu,

Ở trong trời đất cùng nhau tạm thời.

Mối lo mang lấy nghìn đời,

Một ngày chẳng được hơi rồi tấm thân.

Bao giờ giũ sạch lụy trần?

Lại đây đóng cửa vui phần núi non.

Ngày Nay, số 126 (4.9.1938)



59. Vọng giang lâu thượng tác
望 江 樓 上 作

江 畔 百 尺 樓

Giang bạn bách xích lâu,

樓 前 千 里 道

Lâu tiền thiên lý đạo.

憑 高 望 平 遠

Bằng cao vọng bình viễn,

亦 足 舒 懷 抱

Diệc túc thư hoài bão.

驛 路 使 憧 憧

Dịch lộ sứ đồng đồng.

關 防 兵 草 草

Quan phòng binh thảo thảo.

及 茲 多 事 日

Cập tư đa sự nhật,

猶 覺 閒 人 好

Do giác nhàn nhân hảo.

我 年 過 不 惑

Ngã niên quá bất hoặc,

休 退 誠 非 早

Hưu thoái thành phi tảo.

從 此 拂 塵 衣

Tòng thử phất trần y.

歸 山 未 為 老

Qui sơn vị vi lão.



Trên lầu trông ra sông

Bờ sông trăm thước lầu cao,

Trước lầu nghìn dặm đi đâu con đường?

Tựa cao trông xuống dặm trường,

Mà trong bụng nghĩ như nhường khoan thư.

Đường quan rộn kẻ đưa thư,

Quân gia láo nháo ngẩn ngơ canh phòng.

Cuộc đời gặp lúc rối tung,

Riêng ai ở cảnh thong dong càng mầu.

Đã hơn bốn chục tuổi đầu,

Từ nay về nghỉ ngõ hầu phải thôi.

Từ nay giũ áo trần ai.

Non xanh tình thú vui chơi chửa già...



60. Tặng nội 贈 內

生 為 同 室 親

Sinh vi đồng thất thân,

死 為 同 穴 塵

Tử vi đồng huyệt trần.

他 人 尚 相 勉

Tha nhân thượng tương miễn,

而 況 我 與 君

Nhi huống ngã dữ quân.

黔 婁 固 窮 士

Kiềm Lâu cố cuồng sĩ,

妻 賢 忘 其 貧

Thê hiền vong kỳ bần.

冀 缺 一 農 夫

Ký Khuyết nhất nông phu,

妻 敬 儼 如 賓

Thê kính nghiễm như tân.

陶 潛 不 營 生

Đào Tiềm bất doanh sinh,

翟 氏 自 爨 薪

Địch thị tự thoán tân.

梁 鴻 不 旨 仕

Lương Hồng bất khẳng sĩ,

孟 光 甘 布 裙

Mạnh Quang cam bố quần.

君 雖 不 讀 書

Quân tuy bất độc thư,

此 事 耳 亦 聞

Thử sự nhĩ diệc văn.

至 此 千 載 後

Chí thử thiên tải hậu,

傳 是 何 如 人

Truyền thị hà như nhân?

人 生 未 死 間

Nhân sinh vị tử gian.

不 能 忘 其 身

Bất năng vong kỳ thân.

所 須 者 衣 食

Sở tu giả y thực,

不 過 飽 與 溫

Bất quá bão dữ ôn.

蔬 食 足 充 飢

Sơ tự túc sung cơ,

何 必 膏 梁 珍

Hà tất cao lương trân?

繒 絮 足 禦 寒

Tăng nhứ túc ngự hàn,

何 必 錦 繡 文

Hà tất cẩm tú văn?

君 家 有 貽 訓

Quân gia hữu di huấn,

清 白 遺 子 孫

Thanh bạch di tử tôn.

我 亦 貞 苦 士

Ngã diệc trinh khổ sĩ,

與 君 新 結 婚

Dữ quân tân kết hôn.

庶 保 貧 與 素

Thứ bảo bần dữ tố,

偕 老 同 欣 欣

Giai lão đồng hân hân.



Thơ đưa vợ

Tình lúc sống một nhà cùng ở,

Chết ra tro, một hố cùng chung.

Khuyên nhau thiên hạ cũng cùng.

Nữa chi mình vợ, ta chồng cùng nhau?

Kìa như gã Kiềm Lâu cùng sĩ,

Cảnh nhà nghèo vợ nghĩ như không.

Nông phu Ký Khuyết cày đồng,

Vợ chàng quý trọng coi chồng khách sang.

Đào Tiềm chẳng lòng toan sinh lý,

Củi nấu ăn, Địch thị kiếm dần.

Lương Hồng quan chẳng chịu mần,

Mạnh Quang chỉ vải may quần cũng ưa,

Mình dẫu đọc sách xưa không mấy,

Các truyện kia hẳn thấy quen tai.

Nghìn năm còn lại ở đời,

Đến nay cùng nói là người như sao?

Người chưa chết lúc nào còn sống,

Chẳng ai mà quên bỗng được thân,

Cái ăn cái mặc là cần.

Cũng sao no ấm qua lần là xong.

Cơm rau đủ no lòng lúc đói.

Có cần chi thức tối cao lương,

Lụa the, rét đủ mặc thường,

Cần chi áo gấm xông hương vẽ vời?

Nhà mình có để đời câu dạy:

Lấy “sạch trong” cho lại cháu con.

Ta đây cũng một lòng son.

Cùng nàng buổi mới vuông tròn thất gia,

Giữ sao nghèo sạch nếp nhà,

Cùng nhau cho đến tuổi già cùng vui.

Ngày Nay, số 108 (1.5.1938)



61. Khinh phì 輕 肥

意 氣 驕 滿 路

Ý khí kiêu mãn lộ,

鞍 馬 光 照 塵

Yên mã quang chiếu trần

借 問 何 為 者

Tá vấn hà vi giả,

人 稱 是 內 臣

Nhân xưng thị nội thần.

朱 紱 皆 大 夫

Chu phất giai đại phu

紫 綬 或 將 軍

Tử thụ hoặc tương quân

誇 赴 軍 中 宴

Khoa phó quân trung yến.

走 馬 去 如 雲

Tẩu mã khứ như vân.

樽 罍 溢 九 醞

Tôn lôi dật cửu uấn,

水 陸 羅 八 珍

Thủy lục la bát trân.

果 擘 洞 庭 橘

Quả phách Đỗng Đình quất,

膾 切 天 池 鱗

Khoái thiết Thiên Trì lân.

食 飽 心 自 苦

Thực bão tâm tự nhược,

酒 酣 氣 益 振

Tửu hàm khí ích chân.

是 歲 江 南 旱

Thị tuế Giang Nam hạn,

衢 州 人 食 人

Cù Châu nhân thực nhân.



Nhẹ béo

Đầy đường dáng bộ con cưng,

Ngựa yên bóng nhoáng sáng trưng bụi hồng.

Hỏi: Làm chi đó những ông?

Người ta rằng lũ quan trong đó mà.

Dải điều đều Đại phu ta,

Mà đeo dải tía hoặc là Tướng quân

Khuênh khoang đi chén trong quân,

Rộn ràng vó ngựa chạy vần như mây.

Vò, ang chín thứ rượu đầy,

Hải sơn tám bát cỗ bày linh tinh.

Quả dâng quít hái Động Đình,

Cá Thiên Trì thái, đơm thành gỏi ngon.

Ăn no khoan khoái tâm hồn,

Rượu say, ý khí hùng hồn càng thêm.

Năm nay hạn hán Giang Nam,

Cù Châu người mổ người làm thức ăn.

Ngày Nay, số 102 (27-3-1938)



62. Văn khốc giả 聞 哭 者

昨 日 南 鄰 哭

Tạc nhật nam lân khốc,

哭 聲 一 何 苦

Khốc thanh nhất hà khổ?

云 是 妻 哭 夫

Vân thi thê khốc phu.

夫 年 二 十 五

Phu niên nhị thập ngũ,

今 朝 北 里 哭

Kim triêu bắc lý khốc,

哭 聲 又 何 切

Khốc thanh hựu hà thiết!

云 是 母 哭 兒

Vân thị mẫu khốc nhi,

兒 年 十 七 八

Nhi niên thập thất bát.

四 鄰 尚 如 此

Tứ lân thượng như thử,

天 下 多 夭 折

Thiên hạ đa yểu chiết.

乃 知 浮 世 人

Nãi tri phù thế nhân.

少 得 垂 白 髮

Thiểu đắc thùy bạch phát?

余 今 過 四 十

Dư kim quá tứ thập,

念 彼 聊 自 悅

Niệm bỉ, liêu tự duyệt.

從 此 明 鏡 中

Tùng thử minh kính trung

不 嫌 頭 似 雪

Bất hiềm đầu tự tuyết.



Nghe người khóc

Mới hôm nọ, xóm nam người khóc,

Tiếng khóc sao đau độc nỗi lòng?

Rằng: Đâu là vợ khóc chồng,

Chồng hai nhăm tuổi, khuất vòng nhân gian,

Sớm nay lại khóc than xóm bắc,

Tiếng khóc sao ruột thắt từng cơn?

Rằng: Đâu là mẹ khóc con,

Con mười bảy, tám, chết còn tuổi xanh.

Bốn hàng xóm chung quanh như thế.

Khắp thế gian chết trẻ còn nhiều.

Mới hay người thế bao nhiêu,

Trắng phơ mái tóc dễ nào mấy ai?

Ta nay tuổi có ngoài bốn chục,

Nghĩ ai kia, thôi cũng vui lòng.

Từ nay trong bức gương trong,

Đầu ta ngỡ tuyết, ta không quản gì.

Ngày Nay, số 105 (10-4-1938)



63. Tam niên biệt 三 年 別

悠 悠 一 別 已 三 年

Du du nhất biệt dĩ tam niên,

相 望 相 思 明 月 天

Tương vọng tương tư minh nguyệt thiên,

腸 斷 青 天 望 明 月

Trường đoạn thanh thiên vọng minh nguyệt,

別 來 三 十 六 回 園

Biệt lai tam thập lục hồi viên.



Xa nhau ba năm

Xa nhau một chuyến ba năm,

Ngóng nhau chung bóng trăng rằm nhớ nhau.

Trời xanh, trăng sáng, lòng đau,

Ba mươi sáu độ trước sau trăng tròn!



64. Thính biên hồng 聽 邊 鴻

驚 風 吹 起 塞 鴻 群

Kính phong xuy khởi tái hồng quần,

半 入 平 沙 半 入 雲

Bán nhập bình sa bán nhập vân.

為 問 昭 君 月 下 聽

Vị vấn Chiêu Quân nguyệt hạ thính,

何 如 蘇 武 雪 中 聞

Hà như Tô Vũ tuyết trung văn?



Nghe chim hồng ngoài biên ải

Đàn hồng rợn gió ngoài biên,

Nửa sa cát bể, nửa lên mây trời.

Chiêu Quân, Tô Vũ nghe chơi,

Dưới trưng, trong tuyết đôi nơi thế nào?

Ngày Nay, số 118 (10-7-1938)



65. Tự khuyến 自 勸

憶 昔 饑 貧 應 舉 年

Ức tích cơ bần ứng cử niên,

脫 衣 典 酒 曲 江 邊

Thoát y điển tửu Khúc Giang biên.

十 千 一 斗 猶 奢 飲

Thập thiên nhất đẩu do xa ẩm,

何 況 官 供 不 值 錢

Hà huống quan cung bất trị tiền.



Tự khuyên mình

Nhớ xưa nghèo túng lúc khoa thi.

Bến Khúc thèm men, cố áo đi.

Đấu rượu muôn đồng quen uống đắt.

Nữa chi lộc nước mất tiền chi!



66. Lâm Giang tống Hạ Chiêm 臨 江 送 夏 瞻

悲 君 老 別 淚 沾 巾

Bi quân lão biệt lệ chiêm cân,

七 十 無 家 萬 里 身

Thất thập vô gia vạn lý thân.

愁 見 舟 行 風 又 起

Sầu kiến chu hành phong hựu khởi,

白 頭 浪 裡 白 頭 人

Bạch đầu lãng lý bạch đầu nhân.



Tới sông tiễn Hạ Chiêm

Muôn dặm thương anh, lệ biệt sầu,

Bảy mươi tuổi tác cửa nhà đâu?

Buồn trông trận gió theo thuyền nổi,

Sóng bạc đầu quanh khách bạc đầu.

Ngày Nay, số 124 (21-8-1938)



67. Đại Lâm tự đào hoa 大 林 寺 桃 花

人 間 四 月 芳 菲 盡

Nhân gian tứ nguyệt phương phi tận,

山 寺 桃 花 始 盛 開

Sơn tự đào hoa thủy thịnh khai.

長 恨 春 歸 無 覓 處

Trường hận xuân qui vô mịch xứ,

不 知 轉 入 此 中 來

Bất tri chuyển nhập thử trung lai.



Hoa đào chùa Đại Lâm

Tháng tư hoa đã hết mùa,

Hoa đào rực rỡ cảnh chùa mới nay.

Xuân về kín chốn ai hay,

Biết đâu lẩn khuất trong này núi non.

Ngày Nay, số 112 (29-5-1938)



68. Giang thượng địch 江上笛

江 上 何 人 夜 吹 笛

Giang thượng hà nhân dạ xuy địch,

聲 聲 似 憶 故 園 春

Thanh thanh tự ức cố viên xuân,

此 時 聞 者 堪 頭 白

Thử thời văn giả kham đầu bạch,

況 是 多 愁 少 睡 人

Huống thị đa sầu thiểu thụy nhân.



Sáo trên sông

Đêm, ai thổi sáo trên sông,

Vườn xuân tiếng tiếng gửi lòng ai đâu?

Ai nghe, luống những bạc đầu,

Nữa chi ít ngủ, nhiều sầu như ai?

Ngày Nay, số 123 (14-8-1938)



69. Vương Chiêu Quân 王昭君

滿 面 朝 沙 滿 鬢 風

Mãn diện Hồ sa mãn mấn phong,

眉 銷 殘 黛 臉 銷 紅

Mi tiêu tàn đại kiểm tiêu hồng,

愁 苦 辛 勤 憔 悴 盡

Sầu khổ tân cần tiều tụy tận.

如 今 卻 似 畫 圖 中

Như kim khước tự họa đồ trung.



Vương Chiêu Quân

Cát Hồ đầy mặt, gió đầy tai,

Mực nhạt mày xanh, má đỏ phai.

Khổ sở lo buồn tiều tụy thế,

Mới là tranh vẽ giống như ai.

Ngày Nay, số 99 (27-2-1938)



70. Đại mại tân nữ tặng chư kỹ 代 賣 薪 女 贈 諸 妓

亂 蓬 為 鬢 布 為 巾

Loạn bồng vi mấn, bố vi cân,

曉 蹋 寒 山 自 負 薪

Hiểu đạp hàn sơn tự phụ tân,

一 種 錢 塘 江 畔 女

Nhất chung Tiền Đường giang bạn nữ,

著 紅 騎 馬 是 何 人

Trước hồng kỵ mã thị hà nhân?



Thay lời chị bán củi tặng các kỹ nữ

Đầu bù khăn vải trùm tai,

Trèo non gánh củi sương mai lạnh lùng,

Tiền Đường cũng gái bên sông.

Mà đâu yên ngựa quần hồng là ai?



71. Túc chương đình dịch 宿樟亭驛

夜 半 樟 亭 驛

Dạ bán Chương Đình dịch,

愁 人 起 望 鄉

Sầu nhân khỉ vọng hương.

明 月 何 所 見

Nguyệt minh hà sở kiến,

潮 水 白 茫 茫

Trào thủy bạch mang mang.



Ngủ nhà trạm Chương Đình

Nửa đêm ở trạm Chương Đình,

Người buồn trở dậy nặng tình hương quan

Dưới trăng trông ngóng lan man,

Nước trào trắng xóa một làn trăng soi.

Ngày Nay, số 148 (1939)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét