13/4/13

Tuệ Sỹ - Chiến tranh, tình yêu, hoài niệm và truyện ngắn VÕ HỒNG

Chiến tranh, tình yêu, hoài niệm
và truyện ngắn VÕ HỒNG


Tuệ Sỹ



Vết thương đã khô và đóng vẩy. Một phần sự sống bị tước đoạt, bị loại bỏ, một cách chậm chạp nhưng chắc chắn. Một chút tình yêu, mơ hồ và khiêm tốn, cũng bắt đầu chớm dậy. Như một thứ định mệnh phi lý, một khi đã đến, nó không chịu vô cớ ra đi; và một khi ra đi, nhất định phải để lại vết hằn khổ nhục, một vết hằn năm tháng. Đó là một thứ quà tặng mà chất liệu là sự tàn phá, sụp đổ và mất mát, không có đền bù. Tình yêu cũng phi lý như chiến tranh, cả hai cùng ngoi đầu dậy từ những phá phách hỗn loạn của một cơn giận mông lung, vô cớ và vô nghĩa. cũng như một cành gai nhỏ, đâm vào da thịt, cấu xé da thịt, nhức nhối; ở đó, tình yêu lớn dần cùng với mức độ trưởng thành của sự chết trên một phần da thịt. Cho đến lúc phần đó được gỡ hẳn ra khỏi cái phần sống còn lại lớn lao kia, được ném xuống cho lăn lóc với cát bụi vô nghĩa, và lạc loài, tình yêu bỗng như rơi vào quãng trống mênh mông. Khuôn hình được tháo ra từng mảnh và được cho vào ngọn lửa, để một quá khứ trở thành vĩnh cửu trong hoài niệm: :Lửa bừng lên. Đốt cháy những nụ cười. Đốt cháy những mơ mộng. Xuyên qua ngọn lửa, nàng mường tượng thấy mình lùi lũi đi sâu vào rừng ngõ thâm u, bí mật. Lá khô cựa mình dưới bước chân và ở trên cành có con sóc ngơ ngác nhìn theo (Hoa Bươm Bướm (HBB), đoạn kết).
Đó là đoạn chót của lịch sử một vết thương, mà ngày tháng đã làm khô và đóng vảy. Đó là cũng đoạn mở đầu cho một quãng trống của hoài niệm. Hoài niệm sẽ chỉ là sự hiện hữu bất thực trong sự trầm lặng của hư không. Tình yêu đã chen lấn để trưởng thành giữa những cơn nhức nhối, bị níu kéo giữa sự sống và chết, nó "mỏng manh như một cành hoa bươm bướm màu tím nhạt…. Ơ bãi đất hoang", vùng đất của đe dọa thường trực.
Khi tình yêu chưa hiện diện, nó lần mò trong bóng tối của những dày xéo tàn bạo, không có sự rung động của bản năng, mà nó chỉ có sự cân nhắc của trí thông minh. Nó chọn cách mạng để làm thế giới cô đơn của mình. Làm cách mạng thì không thể yêu nước một cách ngây thơ như đứa trẻ yêu cánh đồng rộng trước mặt. Làm cách mạng để biết cách lấy thù hận và bạo động mà nuôi dưỡng tình yêu, để biết lấy sự chết làm sự sống. Nhưng tình yêu vẫn mang cái chất phi lý; nó tựa mình vào cột trụ trơ vơ của sự phản lý ngược ngạo. Cơn gió thoảng qua, một cọng lá khô phiêu hốt bỗng bám vào cột trụ, một cách vô tư, dửng dưng, rồi lặng lẽ rơi xuống…. Cảm giác lành lạnh. Mất tất cả rồi. Tuyệt vọng rồi….. anh hãy ôm vai…. Và cái nhìn bỡ ngỡ, vòng tay ngại ngùng, nhưng nụ hôn vẫn thắm thiết và kéo dài vô tư. Và vô tư vẫn kéo dài mãi mãi. Chàng khờ khạo như mọi người đàn ông. (HBB trích rải rác). Bởi vì tất cả đều phi lý. Phi lý bủa rộng thành bóng tối. Cũng là bóng tối của sự vô tư và dửng dưng đó. Con tàu chạy với toa tàu lắc lư trong đêm tối như một con vật lao đầu xuống vực sâu tự tử. Bóng tối, quá khứ hãi hùng, cô đơn trước cái chết đe dọa, câm nín như sự câm nín của tình yêu. Trụ hành quyết, cái băng bịt mắt… Con tàu sẽ phiêu lưu về đâu nữa? Nhưng những phiêu lưu thường đưa đến những ngẫu nhiên. Và ngẫu nhiên, một bàn tay. Ngón thon và mềm. Một bàn tay. Bám víu vào cuộc đời, đấu tranh với cuộc đời….. Sự ngẫu nhiên và tình yêu, cả hai cùng lần mò trong bóng tối, như cánh chim đêm đi tìm chỗ đậu lại. Đêm tối như bưng, và chàng nói như trong giấc mơ…., và một dòng nước mắt len chầm chậm như cũng biết e lệ ngập ngừng. (HBB, trích rải rác). Quả thực, tình yêu thì cô đơn như sao mai, nhưng sự phi lý khổng lồ là một. Có những phi lý của tình yêu, và chỉ có một phi lý của chiến tranh. Cũng như một dân tộc nhược tiểu phải trưởng thành torng khổ nhục, phải chọn cái phi lý của chiến tranh, phải tồn tại torng sự tàn phá điêu linh thống khổ; cũng vậy, tình yêu luôn luôn chọn vùng nào nhức nhối nhất trong thân thể mà tồn tại và trưởng thành. Rồi khi dân tộc nhược tiểu kia đã bước vào vùng có ánh sáng của độc lập và tự do, những anh dũng và hy sinh được gởi lại hết cho bóng tối của núi rừng. Cũng vậy, tình yêu vĩnh viễn là một sợi tơ trời trong trí nhớ.
Đó là một thứ tình yêu chỉ có trong thế giới của hoài niệm. Nó có thể chọn một hình thức thích hợp để xuất hiện trong văn chương. Tôi muốn nói các truyện ngắn của Võ Hồng. Nơi ông, có lẽ có một tình yêu đã trở thành vĩnh cửu, đã muôn đời câm lặng được chôn kín dưới lòng đất. Nó thấm vào các truyện ngắn của ông, làm chất liệu, hoặc khi ngấm ngầm hoặc khi lộ liễu, dưới dáng dấp mệt mỏi, nhiều tư lự, nhiều phán xét.
Truyện dài của ông phần lớn cũng chỉ là những truyện ngắn được ráp lại. Có thể đây chỉ là cái nhìn phiến diện. Nhưng tôi tưởng tượng rằng, nếu cắt riêng từng đoạn trong truyện dài của ông, để chúng thành những đoạn biệt lập, chúng ta dẽ bắt gặp nhiều cái nhìn của một người từng trải, khôn ngoan trong đời sống và khôn ngoan cả trong tình yêu. Do đó, tác phẩm của ông mang nhieu chứng tích xã hội và thời đại. Nhưng, nếu nhà văn chỉ ngồi kể lể những chuyện đời đi qua trước mắt, dù bằng một giọng điệu trung thực đến mấy, vẫn không tránh khỏi tự gán cho mình vai trò trạng sư của một thời đại. Ngôn ngữ loài người không thể chỉ là phương tiện cho những tranh chấp và hòa giải. Mỗi người đều phải sống bằng cái nhìn phê phán, và đau khổ vì phê phán – phê phán và bị phê phán. Ngôn ngữ không thể chỉ là phương tiện cho cự phê phán.
Câu chuyện dài mà ông bố trí ít khi toàn bích. Trong đó, thời gian thường bị xén nhỏ, đứt khoảng, y hệt như hơi thở của một người mệt mỏi. Nếu chúng ta đặt riêng mỗi khaỏng đứt đó thành từng truyện ngắn, mỗi truyện sẽ là một hình ảnh nào đó trong toàn thể đời sống, không cần nối kết tương quan mà y nhiên vẫn là chân diện mục của tất cả đời sống.
Ơ dây, xin lấy thì dụ từ truyện dài Gíó Cuốn. Truyện bắt đầu bằng vài trang sôi động. Những tiếng kêu tuyệt vọng, những ngón tay bấu víu mệt mỏi, tất cả sẵn sàng cho một cơn gió cuốn sẽ trổi lên bất cứ lúc nào, lên đối mắt của con chim Á châu huyền bí êm như nhung, thổi lên những sợi tóc đen bay phất phơ trên làn da màu ngà, lên đóa hoa hồng mọc ở mảnh đất nhiều biến cố đau thương này. Gió cuốn tiếng kêu tuyệt vọng đó vào một xã hội trụy lạc, bẩn thỉu, với những đồ phế thải của ngoại quốc. Đó là chứng tích khổ nhục của thời đại chúng ta. Nhưng khi tiếng kêu từ trong thâm tâm lặng lẽ đó hiện rõ với vóc dáng của một người làm sở Mỹ, dẫn về một quãng đời đã qua, với gia đình, với chồng con, truyện bắt đầu tỏ ra rời rạc. Sự đối chiếu giữa hiện tại và quá khứ không liên tục. Vậy, có lẽ tốt hơn chúng ta phải tự cắt rời từng đoạn để đọc. Cố nhiên, không phải vì thế mà chứng tích thời đại bị bôi xóa mất trong tác phẩm. Tôi muốn nói, cốt cách văn chương của Võ Hồng biểu hiện qua các truyện ngắn của ông hơn. Tuy nhiên, trên đây tôi đã muợn truyện dài hoa Bươm Bướm để dẫn vào tình tự trong các truyện ngắn của ông.
Nếu cần chọn một môi giới, về hình thức, giữa một truyện dài và truyện ngắn của ông, chúng ta có thể được đề nghị chọn Dấu Chân Sa Mạc (Tuyển tập truyện ngắn, Con Suối Mùa Xuân - CSMX- ). So với các truyện ngắn khác của ông, truyện này được viết tương đối dài, 40 trang chữ nhỏ. Điển hình của một truyện ngắn được kết cấu tròn trịa. Nếu mở rộng thêm chi tiết, hoặc thêm nhiều động tác, nhiều đối thoại và nhiều tình tự cho các nhân vật, truyện có thể trở thành một truyện dài, với nội dung giản dị thích hợp cho đề tài qui tụ chung quanh đời sống đồng quê Việt Nam. Cũng như đa số các truyện ngắn khác của ông, Dấu Chân Sa Mạc xoay quanh một nhân vật, với những tình cảm phức tạp và tế nhị. Tình cảm của người viết được bày tỏ về nhân vât cũng phức tạp và tế nhị không kém. Nhân vật chính bị đóng khung trong một thế giới cô đơn với những hiềm kỵ, xoi mói của người chung quanh. Những thất bại ngẫu nhiên mà một thứ định mệnh nào đó, nếu chúng ta không tìm ra danh từ tương xứng, đã vô tình giúp cho những người chung quanh có cơ hội trả thù một cách vô cớ. Sự trả thù của họ cũng hiền lành như đời sống thường nhật của họ. Bằng các lời đồn đãi thêu dệt, bằng cái nhìn xỉa xói, tất nhiên không gây thiệt hại gì cho kẻ bị trả thù, nhưng thiệt hại lớn nhất cho là sa mạc cứ lớn dần.
Trên tất cả, chính thời gian là định mệnh ghê gớm nhất. Thời gian đã làm cho con gấu hung tợn đó bấy giờ đã nhu mì. Vuốt đã hết bén rồi và khí huyết cũng không còn sung mãn nữa. (CSMX.., Dấu Chân Sa Mạc).Thời gian đến và tàn phá tất cả những gì con người có, tài sản được tích lũy bằng những không ngoan vật lộn với đời sống lần lượt ra đi vì tuổi già không dung chứa; sắc đẹp và niềm kiêu hãnh của tuổi thanh xuân cũng lần lượt ra đi vì tuổi già không chứa. Đó là hình ảnh đau thương và nhục nhã của cuộc đời người. (CSMX, đã dẫn). Tác giả cũng tự thấy mình đau khổ với nhiều ân hận như mình đã hùa với thời gian để trả thù, chua xót và hối hận khi trong óc vụt có ý nghĩ rằng khuôn mặt, đó đã khác xa với khuôn mặt người bình thường; đã đồng lõa với thời gian vì đã để cho tuổi già, cho cái hình ảnh tiều tụy hôm nay nó cứ lấn át, tranh giành, chực đè lên hình ảnh huy hoàng cũ. (CSMX.., đã dẫn). Đem hiện tại đau thương của nó mà chồng lên quá khứ của nó, đè bẹp quá khứ huy hoàng của nó, dù sự thực là như thế, nhưng trong đời sống, chúng ta đã khéo lấy sự thực đó để trả thù một người, bất kể lạ hay quen. Cô Ba Hường, nhân vật chính của truyện, góa chồng sớm, giàu có và sang trọng nhất làng. Cô ít hăng hái bàn chuyện lứa đôi của mình. Cô chỉ thích nói tới ruộng đất, giá lúa giá nếp cao hay thấp, đập Tam giang hay đập Đồng cháy, nước lên nước xuống mực nào. Nhưng khi người đàn ông góa vợ nhà ờ sát nách cưới vợ, hôm đám cưới tấp nập, nhà cô không thắp đèn, dãy lan can trước nhà cô đêm đó chỉ còn là một khối bóng đen đặc sệt. Và sau đó, nét mặt cô Ba Hường chừng như già đi. Cũng vẫn khuôn mặt đó không gầy ốm suy hao gì nhưng mà nhìn lên thấy mất đi cái phần tinh anh rực rỡ, như một tấm gương đã mờ mờ nước thủy. Giữa một khung cảnh đầy những cặp mắt tò mò, tình yêu cũng đơn giản như đời sống của mọi người, nhưng tế nhị và cô đơn như muôn thuở của loài người. Khi tuổi gia đến và thời gian cướp mất thanh xuân, tình yêu không còn là sự rung động tế nhị, mà là một bãi sa mạc mênh mông, không có ai để bàn tính sau đó, không có ai để cân nhắc trước đó, trước mặt, sau lưng, bên phải, bên trái đều là sa mạc… cô bước đi giữa cuộc đời còn sót lại lạc lõng mơ hồ như người đi trong giấc mộng. Tất cả đều chập chờn hư ảo. Chặng đường cuối cùng của người lực sĩ đuối sức (đã dẫn, rải rác).
Cuối cùng cô chết trong lặng lẽ, không ai chứng kiến.Quả tình là chặng đường đi đến nấm mồ dễ dàng và thoải mái nhiều hơn so với những chặng đường nhọc nhằn cam go mà cô đã đi mấy năm gần đây khi già yếu và nghèo nàn, cô đơn và bị đời lạnh lùng hắt hủi. Tình yêu và sự chết cũng cô đơn như nhau; khi cả hai cùng gặp gỡ, người ta mới thấy sự cô đơn đó, và chỉ có thể thấy khi cả hai cùng đi vào thế giới im lặng thiên thu.
Truyện điển hình thứ hai mà tôi muốn nhắc đến, Những bí mật của anh Đỗ Cúc, (Vết Hằn Năm Tháng). Tình tự nội dung không buộc chặt vào nhân vật chính, qua một bút pháp đặc biệt. Đó là sự trải dài của câu chuyện, như một cách khong cố ý. Có thể nói, đấy là một mẩu truyện ngắn không cần kết cấu, và người đọc dễ dàng theo dõi, một cách thích thú, những đoạn văn dí dỏm một cách nghiêm trang. Anh Đỗ Cúc, nhân vật chính, làm luận văn hay và viết thư tình cũng hay như một nhà văn viết tiểu thuyết lãng mạn, tổng hợp cái lãng mạn văn chương đủ mọi phía. Anh không cần thấy, không cần biết cây thùy dương trên bãi biển. Anh không cần biết căn phòng của cô học trò mà anh mơ tưởng ra sao, cũng vẫn cho vào bức thư tình được chùm hoa bên rèm cũng như nhớ nhung ai mà từng cánh tả tơi theo gió. Lớn lên, anh lấy vợ cũng bình thường và dễ dàng như làm luận văn ở trường. Gia đình, vợ con ngăn nắp như bố cục của bài luận. Anh sống không thắc mắc, không lựa chọn, chỉ theo một bố cục nào đó đã có sẵn. Nói chuyện với những người như anh không phải dễ, nếu không tình cờ khám phá ra sự bí mật của bố cục kia.
Phần lớn các truyện ngắn của Võ Hồng đều được viết với bút pháp điềm tĩnh như mẩu truyện điển hình này. Chúng chỉ khác nhau về thác mắc nào đó của người viết. Ong viết truyện ngắn như một người khách qua đường, đi suốt một đoạn, khách ngồi lại nghỉ và thắc mắc về đoạn đường đã qua, trộn lẫn một ít tình cảm hay tư lự và cân nhắc. Thời gian cho các biến cố là một đoạn thẳng. Chúng kế tiếp nhau, tuần tự. Trong một vài truyện ngắn khác, như truyện Dốc Hiểm Nghèo (Khoảng Mát), thời gian cho các biến cố cũng đôi khi chạy theo một vòng tròn. Nhưng chúng cũng xuất hiện theo tuần tự tiếp nối. Vì vậy, chúng ta thấy kết cấu trong một truyện ngắn của Võ Hồng rất giản dị đó dễ gây cho người đọc có cảm giác như một hoài niệm nhẹ nhàng và mông lung.
Chúng ta có thể được dẫn tới hoài niệm về những hình ảnh của đồng quê Việt Nam. Đời sống theo nhu cầu tiến bộ, mà các phương tiện của văn minh khoa học có thể cung cấp, trong cái thêm có cái mất. Nếu anh Hoạt, nhân vật trong truyện ngắn Hãy Đến Chậm Hơn Nữa (tập truyện Trầm mặc Cây Rừng), nếu đừng ra đời sớm những ba mươi năm, có lẽ khoa học đã giúp anh thoát khỏi sự dày vò thân thể của chứng bệnh cùi. Vào cái thời của anh, anh có thể nghe một tiếng chim tu hú vào đầu hè, ngửi một mùi thơm của hoa mù u trong buổi chiều, nhìn những con chuồn chuồn đảo lộn trên nền trời sau cơn mưa…. Những niềm vui đó quá nhỏ so với nỗi khổ đè nặng của anh.
Thời gian, trong sự tiến bộ chung của một dân tộc hay một xã hội, mang lại nhiều thịnh vượng và bảo đảm cho đời sống theo đà gia tăng của các nhu cầu, nhưng đồng thời cũng làm vơi bớt những niềm vui trong trắng ngây thơ của những ngày xuân êm đềm .Cái bàn ủi bằng đất sét mà chú Ba cặm cụi nung để hy vọng ngày Tết có áo quần mới dĩ nhiên không dùng được…. An ngậm ngùi nhìn cái di tích của thời thơ ấu êm đềm nay không còn nữa, có chăng cũng chỉ ở trong cái ký ức bề bộn của chàng thôi. (Ngày Xuân êm đềm, tập truyện Lá Vẫn Xanh ).
Hoài niệm tuổi thơ gắn liền với một tình yêu quê hương mông lung. Yêu cánh đồng, yêu tiếng chim tu hú, những con chích chòe nhí nhảnh chuyền cành, những con chiền chiện mải miết tước lá cau về làm tổ, các con mương nhỏ mọc đầy khoai môn, khoai sáp. Lớp trẻ lớn lên, đổ nhau về thành phố để tìm đường sống. Trưởng thành luôn luôn đi đôi với mất mát.
Trưởng thành, và mất mát, người ta có thể thành công trong nhiều phương diện, nhưng có một thứ thất bại lớn lao không thể đến bù tương xứng. Đó là sự mệt mỏi. Sự mệt mỏi này đầy trong các truyện ngắn của Võ Hồng. Nó có thể là sự không ngoan của một người từng trải, biết cân nhắc sáng suốt về tình yêu. Nó có thể là câu chuyện hằng ngày của những người láng giềng ở thành phố. Nó có thể là hcuyện của một người bị tòa đòi ra làm chứng. Các truyện ngắn rải rác chung quanh đề tài này cũng thường cho chúng ta thấy cá tính của truyện ngắn Võ Hồng.
Một truyện ngắn đặc sắc khác, với ám ảnh kỳ lạ hiếm thấy trong đa số các truyện ngắn của Võ Hồng, ngoại trừ bút pháp và tình tự không mấy khác. Tôi muốn nói truyện ngắn Lá Vẫn Xanh. Truyện viết một nhân vật bị ám ảnh ngày tận thế, chỉ vì một mẩu tin ngắn gần như không quan trọng và ít ai chú ý được đăng trên báo. Nỗi khổ tâm của nhân vật chính là mọi người chung quanh có vẻ ngây thơ của họ và âm thầm đau khổ trong cô đơn lặng lẽ với ám ảnh của mình. Truyện kết cấu không giống như đa số các truyện khác. Câu chuyện ngày tận thế cũng được mọi người bàn tán, ngay cả trong ngày Tết. Nhưng cuối cùng, để chấm dứt câu chuyện, người ta vẫn chúc nhau một năm phúc thọ khang an. Ngày tận thế, dù là tai họa khủng khiếp sẽ giáng xuống cho nhân loại, cuối cùng cũng chỉ là chuyện phiếm. Riêng với nhân vật chính, nó không hề là chuyện phiếm. Người ta nói xong rồi quên liền sau đó. Anh thì nhớ mãi và không ngớt đau khổ. Anh chờ đợi, chỉ còn năm ngày, rồi bốn ngày, và cuối cùng, buổi sáng thức dậy đánh răng, anh chuẩn bị cho ngày tận thế hôm đó. Anh đợi từng giờ. Cho đến khi anh lên giường ngủ, và giấc ngủ cũng đến một cách bình thường. Thật quả không xứng với những giờ quyết liệt còn sót lại. Ngày hôm sau, anh thức dậy, vẫn như mọi ngày, nhưng thêm một câu nói giã từ: Thế là hết tận thế. Quả thật, chúng ta cô đơn và đau khổ trong mộ thế giới hãi hùng, mà bên ngoài mọi sự vẫn lạnh lùng trôi qua như thế ư?
Truyện ngắn điển hình chót hết mà tôi muốn nói trong bài này, đó là truyện Tình Yêu Đất (trong tập truyện Vết hằn năm tháng).
Truyện bắt đầu bằng những động tác hăng say của người yêu đất: Lão Túc. Thế giới bừng sáng và sôi động vì tình yêu chân thành của người và đất. Truyện xoay quanh sự trưởng thành của cuộc đời Lão Túc và sự trưởng thành của mảnh đất mà lão khai khẩn. Bởi vì cuộc đời của lão cũng đơn giản như đất, nên lão dễ dàng nghe được những vui mừng của đất, và do đó đất cũng rộng lượng bao dung đối với lão hơn cả mọi người, đất hiểu lão hơn cả vợ lão, con lão. Ngày lão lên xã làm giất khai đất, lão thấy lòng rộn ràng bâng khuâng. Ai hỏi lão có phải ở dưới đất về hay không, lão nghe bốn tiếng đó làm mát một nơi nào trong bụng lão…. Ở dưới đất về!… Đó là điệp khúc của một bài ca làm say sưa tâm hồn lão như mới ngày nào đây, lúc còn thanh niên, lòng lão rung động theo câu hò điệu hát huê tình… Và tối hôm đó, sau bữa cơm, lão bắt chõng ra nằm dưới hiên, nhìn lên bầu trời lấm tấm sao…. với tình yêu đất. Cho đến khi lão bị rắn hổ cắn, trước giờ hấp hối, lão còn thốt lên được mấy tiếng về mảnh đất của lão, miếng đất Gò đình…. Rồi nhắm mắt. Và truyện kết thúc ngay sau đó.
Tình yêu đất của Lão Túc cũng là tình yêu quê hương cụ thể của hầu hết nông dân Việt Nam. Yêu không trừu tượng, và cũng nhiều đam mê nhiệt thành như mọi thứ tình yêu khác. Quê hương không nhất thiết là chữ S hay chữ U. Nó là ruộng nương vười tược, là nơi gởi nắm xương tàn của cha ông mấy đời. Khi chiến tranh đến, một số người bò lại tất cả, chạy về thành phố hay nơi nào có thể bảo đảm an toàn sự sống. Nhưng cũng có những người quyết bám chặt lấy mảnh đất, chờ đợi cái chết : Bà Xự ngồi yên trên ngạch cửa, hai dòng nước mắt lặng lẽ chảy trên gò má. Bỏ nhà cửa mà đi. Bỏ ruộng nương, bỏ vườn tược, bỏ khúc sông và cái bến nhỏ này mà đi. Không, tôi không muốn đi đâu hết…., tôi muốn ngồi yên một chỗ, nằm yên một chỗ mà chết. (Bên Đập Đồng Cháy, tập truyện Những Giọt Đắng.) Bà Xự không muốn theo bà con chạy giặc. Chồng bà, con bà, những người thân thuộc của bà đã lần lượt bõ đi, trở về với đất. Nhưng được. Chết là gì? Nhắm hai con mắt lại, nhẹ nhàng buông xuôi hai tay…. hàng xóm bắt bà phải đi. Họ dọn giùm nhà cửa cho bà. Cài then cẩn thận. Đoàn người chạy giặc đến đập Đồng Cháy. Bà Xự chợt nhìn xuống lòng nước, soi thấy bóng mình… Hết rồi! Hết rồi! Không! Tôi không đi đâu hết,. Tôi đã mất hết cả rồi. Tuổi xuân xanh. Chồng tôi. Con tôi. Chỉ còn đập nước này mà tiếng ào ào tuôn đổ không hề thay đổi… Cho tôi ở lại. Không, xin cho tôi ở lại. Và Bà Xự vụt bỏ chạy. Bà mất tích. Đoàn tản cư tìm kiếm, kêu réo bà, nhưng bà mất tích. Đoàn tản cư chỉ còn năm người, hấp tấp, hồi hợp, im lặng. Sau lưng họ, con đập Đồng Cháy vẫn đổ tuôn từng khối nước lớn, tiếng dội ầm ầm ào ào, bọt tung trắng ngần, vỡ ra, quay cuồng rồi len lỏi chảy giữa những tảng đá to màu xám.
Chiến tranh và tình yêu, một đằng là ngọn lửa tàn bạo hủy diệt, một đằng là dòng suối ngọt, cùng đi đôi trong tương quan biện chứng. Hoài niệm là một thế giới được nâng lên từ mâu thuẫn đó, là vết thương đã khô và đóng vảy. Nhưng vết thương nằm ẩn kín trong vùng nhức nhối nhất của thân thể luôn luôn rỉ máu, không hề khô và đóng vảy. Lịch sử của vết thương chỉ khép lại cùng với những chung cục của lịch sử một đời người . 
 
 

Một bông hồng cho Cha

 

  Võ Hồng        5/5/09    trích từ quyển Một bông hồng cho Cha )

 
 
Nhờ đất cho món ăn
Nhờ nước đưa thức uống
Hô hấp nhờ khí trời
Mà cây đầy sức sống
Cũng vậy ba đứa con
Truyền cho cha sinh lực
Lao khổ dầu sớm hôm
Cô đơn dù nhức buốt
Nhưng nhìn con lớn khôn
Cha quên mọi cơ cực
Đứa Út vừa lên ba
Biết Mẹ qua tấm ảnh
Miệng chỉ quen gọi cha
Khi đói và khi lạnh
Chị lớn chín tuổi tròn
Đóng vai người Mẹ nhỏ
Vội vã học điều khôn
Cửa nhà tập coi ngó
 
Thằng giữa khi vào lớp
Tên mình tưởng tên ai
Thầy hỏi không biết đáp
Nghe chim hơn nghe bài
Nay các con nên người
Mỗi đứa đi một ngả
Mình cha căn nhà xưa
Trông vừa quen vừa lạ
Không còn ngày gian khổ
Chỉ dư ngày tiêu điều
Vắng con như cây cỏ
Héo úa giữa quạnh hiu
Tuổi già ngồi ngẫm lại
Quý nhất của đời mình
Là ba đứa con dại
Cha nuôi đến trưởng thành
Võ Hồng
Trong thời hồng hoang của lịch sử, con người chỉ biết có mẹ. Khỏi cần tìm hiểu đâu xa, cứ nhìn các con vật thì biết: gần gũi và hiền lành là con chó, con gà, xa xôi và hung bạo như con beo, con cọp. Sinh ra và lớn lên chỉ biết có mẹ, lúc thúc quanh mẹ. Bởi một lẽ đơn giản: khi biết mình mang thai, con cái thường sống cách ly con đực, thậm chí còn cắn đuổi con đực không cho lại gần.
Con người sau này thì không. Cha săn sóc mẹ khi mẹ mang thai, cha đỡ đần mẹ, cha giúp tay mẹ pha bình sữa, giặt giũ tã lót khi cha mẹ cùng nghèo. Khi cúng đầy tháng, cha châm hương đốt đèn thành kính cầu xin Mụ Bà và tham lam cầu khắp thần linh phù hộ cho con mau ăn, chóng lớn. Có lẽ đó là lần đầu tiên, lần trọng đại nhất trong đời mà cha trọn lòng nghĩ đến những vị thần linh. Vì con mà tin, mà khấn, mà cầu… cho dẫu mang tiếng mê tín cũng xin sẵn sàng vui nhận.
Con lên hai tháng, ba tháng, nằm ngửa huơ chân, huơ tay, mở to đôi mắt ngơ ngác, xoay đầu nhìn vu vơ sang trái, sang phải. Rồi con biết hé miệng cười, cái cười vô nghĩa nhưng đủ cho cả nhà mừng rỡ reo vui. Rõ ràng là nụ cười của con làm nở những nụ cười xung quanh, làm rạng rỡ những khuôn mặt, xóa mờ những nếp nhăn nơi trán. Lần lượt biết lật, biết bò… rồi con ngồi vững, rồi vịn tay đứng được, rồi bước những bước rụt rè. Tiếng reo vui, tiếng khuyến khích vang lên rộn ràng đầm ấm, trong đó có lẫn tiếng của cha.
Cha được phân công ngồi bón cho con những muỗng cơm đầu tiên, cha phải la: “Ùi ùi! Coi chừng con chuột kìa. Ăn mau chớ nó ăn hết”, rồi thừa lúc con ngơ ngác đưa mắt tìm, cha đút nhanh muỗng cơm vô miệng. Hỡi ơi, từ ngày có con, cha trở thành nhảm nhí đáng thương. Con mới mở miệng ngáp, đôi mắt mới khép hờ mà cha đã vội vàng ru, ru cái kiểu nửa ngâm nửa hát vụng về và chọn những câu nhảm nhí phù hợp với trạng thái tâm hồn của cha lúc đó.
À ơi, con gà cục tác lá chanh…
Có thể cha giỏi nhạc, cha hát hay nhưng cha ngượng không dám nghiêm trang cất giọng, sợ người khác nghe biết cha đang tràn trề niềm vui, no nê hạnh phúc. Vả chăng mặt con ngây ngô thế đó thì cha biểu diễn nghệ thuật để chi? Cha phải ngây ngô theo, con duỗi chân thì cha nói: “Chà! Bộ định về thăm ngoại hả?” Rờ cái đít nung núc thịt, cha bế chạy vừa nói nựng: “À, con heo ú đây? Ai ra mua!” Quả là những giây phút hân hoan cực độ. Nhưng phải chợt dừng lại. Sợ người khác nghe. Phải che giấu hạnh phúc để tỏ rằng mình không tầm thường. Khi có học, cha thường phải tạo vẻ mặt nghiêm trang. Dưới thời Nho giáo, cha được gọi là nghiêm đường. Hai mươi tuổi đậu cử nhân, đậu tiến sĩ thì phải mang bộ mặt lạnh lùng của một quan hoạn. Chỉ có người cha quê mùa mới thong dong cõng con bốn, năm tuổi đi chơi nghêu ngao khắp xóm bứt lá chuối quấn kèn. Lớn lên cha con cùng làm lụng cạnh nhau trên sân lúa, giữa rẫy khoai. Xã hội hôm nay trí thức hơn, văn minh hơn, trong cuộc sống cha một nghề, con một nghề, ai lo phần nấy, rốt cuộc tình thương cha con trở nên lợt lạt. Tình quấn quít cha con chỉ thể hiện khi con còn nhỏ: quá bậc tiểu học, con bắt đầu lớn, bắt đầu chọn bạn là bắt đầu xa cha. Từ đó cha thường chỉ đóng vai nguồn cung cấp tiền cho con ăn học, may sắm, nguồn kinh nghiệm khôn dại để đưa lời chỉ bảo khuyên răn. Tất cả đều chỉ là lý trí lạnh lùng.
Chớ mẹ thì không. Nghĩ đến mẹ là một chuỗi hình ảnh êm ái hiện ra: mẹ mang nặng đẻ đau, mẹ vạch vú cho bú, mẹ bồng ru ngủ, mẹ ôm hôn nựng, mẹ tập đứng tập đi. Khỏi cần lý luận, khỏi nhìn đâu xa, cứ nghĩ đến mẹ là như thấy rõ hồi nhỏ mình nằm như thế nào trong vòng tay mẹ, ỉa đái tự do trên mình mẹ và mẹ lo giặt, lo thay, quen thuộc với mùi khai, mùi thúi. Với cha thì phải suy nghĩ mới thấy, bởi mọi sự thương yêu chỉ hiện rõ khi mình còn nhỏ. Bây giờ nếu may mà biết được là nhờ ngẫu nhiên thấy một người cha nào đó đang thương yêu săn sóc đứa con nhỏ của họ.
Tìm trong văn chương thì thường chỉ gặp loại:
Công cha như núi Thái Sơn.
Núi này nhất định là phải lớn lắm và công cha cũng lớn như vậy. Không thấy ghi một nét cảm động về người cha mà chỉ phác qua một hình ảnh uy nghi, nhưng xa cách, gợi sự tôn sùng. Mọi người đều thuộc, đều đọc làu làu, nhưng mà thản nhiên như đọc khẩu hiệu.
Người cha quen thuộc, cha của Mẫn Tử Khiên, thì đã vẽ ra là một người biết làm bổn phận: bổn phận cưới kế thiếp khi vợ cả chết và bổn phận đuổi kế thiếp vì Mẫn Tử Khiên bị ngược đãi. Mà cũng ngẫu nhiên mới biết được con khổ khi thấy con mặc áo rách run rẩy đẩy xe cho mình.
Người cha trong cuốn Luân lý giáo khoa thư dễ thương hơn. Truyện kể: Mẹ đi chợ mua về cho con trái cam. Con nghĩ đến cha làm lụng nắng nôi, liền cầm trái cam chạy ra đồng đưa tặng cha. Cha nghĩ đến mẹ đầu tắt mặt tối ở nhà, liền cầm trái cam đem về tặng mẹ. Trái cam đi một vòng, dài và rộng hơn sợi dây tình cảm con thương cha, rộng gấp ba lần vì thêm tình mẹ thương con, tình chồng thương vợ.
Cổ văn thường nặng nghĩa lớn, nhẹ tình riêng. Phạm Trọng Yêm, tể tướng đời Tống, sai con là Thuần Nhân chở năm trăm thùng thóc về quê. Đến Đan Dương, Nhân gặp Thạch Man Khanh là bạn cũ của cha đang khốn quẫn vì bị ba cái tang dồn dập. Nhân tặng hết năm trăm thùng thóc. Lại nghe hai cô con gái của Thạch Man Khanh đến tuổi mà đang ế chồng, liền tặng luôn cái thuyền. Về kể lại chuyện cha nghe. Nghe tới chỗ hai cô con gái của bạn ế chồng, Phạm liền ngắt lời hỏi:
– Sao con không cho luôn cái thuyền?
Cuộc sống bắt cha hướng mắt ra ngoài đời, nhìn đời, lăn lộn với đời. Mẹ thì nhìn vào trong nhà, nhìn vuông sân chái bếp, con gà con chó, cây ổi, cây xoài và bầy con của mẹ. Con gần mẹ hơn cha là vậy. Cha lặng lẽ đi làm kiếm tiền, con đâu biết bao nhiêu gian lao cực nhọc, lo toan đối phó làm mệt mỏi gân cốt và trí óc cha. Về đến nhà tìm sự yên nghỉ, nhiều khi mang cái bực bội, cái cáu gắt từ ngoài xã hội mang về theo. Con phải len lén bỏ ra nhà sau, im lặng, càng xa càng tốt, gần như muốn xóa bỏ cái hiện hữu của mình. Sự cách xa giữa cha con thường bắt đầu nhẹ nhàng như vậy. Càng thêm xa cách bởi sao cạnh mẹ con thấy êm đềm. Ai làm ra tiền không cần biết, chỉ biết muốn nhai viên kẹo, muốn cắn trái ổi là chỉ cần thỏ thẻ với mẹ. Mua cây viết mới, sắm đôi dép mới… thảy thảy mẹ đóng vai bà tiên. Tội thân cha, cạnh bà tiên hiền, cha thành Thiên Lôi; bà tiên càng hiền, cha càng thành La Sát.
Không, cha không muốn vậy. Cha thương con nhưng cuộc sống phân công mỗi người mỗi việc. Mẹ như cọng mảnh, nhánh thấp cành gần để trái non xúm xít bâu quanh. Cha như thân vững chắc, bám rễ thật chặt, hút nhựa nuôi lá, nuôi hoa, nuôi trái. Thân chia những cành lớn đâm ngang, thân vươn những nhánh cao phủ trên đầu che mưa che nắng. Cha cân nhắc lời nói, chỉ nói khi cần, con lờn mẹ thì cha cần phải nghiêm. Mẹ là tình cảm, cha là lý trí, mẹ lạt lòng cha phải giữ kỷ cương. Mẹ chín bỏ làm mười, cha phải cầm cân nảy mực. Đi vào bước trưởng thành từ mười ba, mười bốn tuổi, con càng ngày càng ngại cha, tránh cha rồi xa cha là vậy.
Nhưng đừng đơn giản bất công, quên cái thời ta lên năm, lên mười, kẻo trở thành bội bạc. Hãy nhìn những đứa ba tuổi làm nũng với cha. Bắt cha bế chạy nhong nhong. Bắt phải dắt ra cổng đứng nhìn xe cộ. Bắt phải có cha nằm cạnh quạt cho mới chịu ngủ. Lên tám, lên chín thì hay chạy tới nơi cha làm việc để đón cha cùng về. Trên đường đi phải nắm tay cha, thỉnh thoảng nhìn lên mặt cha, dẫu là khuôn mặt tầm thường hay xấu xí.
Tuổi già chiếc bóng, mẹ dễ sống theo con, dâu, rể. Lúc thúc sớm hôm, chăm chút tỉ mỉ, mẹ uốn mình theo nếp sống, mềm mỏng ung dung như nước. Thường cha thì không, cha ít cam khuất phục rể dâu. Chịu sống hắt hiu, thiếu thốn, cố tránh trước cái giả bộ nặng tai của dâu, cái im lặng cố ý của rể. Mẹ biết ý nên khi phải nhắm mắt vĩnh biệt, mẹ thường thổn thức dặn dò: “Anh ở lại nuôi con. Gắng kiếm một người hiền lành giúp đỡ. Chớ đàn ông không chịu khổ được lâu”.
Phải, tuổi càng cao, khổ càng chồng chất, dâu rể không ăn hiếp thì có con muỗi, con kiến ăn hiếp thay. Cứ cắn, cứ chích, nạn nhân nghe đau đâu đập đó, chớ mắt mờ đâu còn thấy rõ. Nhìn lên bầu trời đâu còn thấy chòm Bắc đẩu mà mới ngày nào lững thững dắt con đi trong sân cha chỉ cho con nhìn.
Con nay đang tuổi trung niên, bận theo quyền lực, vui với vợ con, bè bạn, việc báo hiếu cho cha thường tỏ ra bủn xỉn. Nếu có ai trách hững hờ chễnh mảng thì thiếu chi lý lẽ dẫn ra: “Được vậy còn đòi gì nữa?... Trời ơi, thì giờ đâu!”
Phải, thì giờ đâu? Người xưa hay nhắc phận con kíp lo báo hiếu bởi “tử dục dưỡng nhi thân bất đãi”, con muốn nuôi mà cha mẹ không chờ.
Khi con ở tuổi trung niên thì cha vào giai đoạn già yếu. Bề ngoài ngó dẫu phương cương nhưng nội tạng thường đang rệu rã. Dễ hiểu thôi mà: một đồ vật dùng đã sáu chục năm rồi thì dẫu lạc quan đến đâu cũng chỉ có thể tạm nói: “Cũng còn khá”. Cha thỉnh thoảng cảm thấy hơi đau nơi này, chợt nghe có cái nhéo nơi kia. Đôi hồi bỗng mệt vô cớ. Nhưng cha thường im lặng không nói. Những câu nói không còn cần thiết, êm ái cho con nữa như khi con còn nhỏ. Bây giờ, những câu nói đều quấy rầy con. Đành âm thầm nghĩ đến câu Vạn vật vô thường.
Sách xưa dạy: “Hôn định thần tỉnh”, ta dịch: “Tối viếng sớm thăm”, lạt lẽo nghèo nàn nếu không có người giảng cụ thể rằng cha mẹ già thường cần đôi mắt và bàn tay con, trước và sau giấc ngủ. Đã nằm trong mùng thì lười đứng dậy để khép bớt cánh cửa, để lấy cái mền, để tìm lọ dầu. Ngủ một đêm sáng dậy, trong mình có gì thay đổi, đó là lúc con cần hỏi han mẹ cha mới dám giải bày.
Gần như mọi người con, cuối cùng đều âm thầm tự trách, lặng lẽ xót xa. Cha biết trước tâm trạng đó, phòng xa ngày nào mình từ trần con mới chợt ân hận muộn màng, nên trong mỗi bức thư gởi con, cha đều kết thúc bằng sự bằng lòng, rằng con đã học hành thành đạt và cha mãn nguyện, cha vui. Lòng vị tha, lòng hy sinh cho con kéo dài mãi sau khi nhắm mắt.
Báo hiếu đâu chỉ món quà, mà có thể đôi tháng gởi một bức thư. Nội dung đâu đòi hỏi cao siêu, chỉ cần mươi dòng lược kể một chuyện đã nghe, một điều vừa thấy. Thì cũng như bè bạn gặp nhau, chào nhau một câu rất nhảm mà vẫn rất cần. “Đi đâu đó? Mạnh giỏi?” Sinh nhật cha, tặng một cành hoa. Nếu ở thành phố xa, hai ba đứa con gởi về hai, ba bức điện chúc mừng, tốn không bao nhiêu mà tạo được sự rộn ràng tới tấp. Niềm vui tinh thần đâu thua bữa tiệc cao lương?
Ngày Vu Lan, nhiều chùa tổ chức lễ hội Bông hồng cài áo. Hoa hồng tượng trưng cho mẹ. Để tỏ lòng thương nghĩ tới cha, nhiều nơi buộc thêm dải nơ tượng trưng cho cha. Cha còn: nơ xanh. Cha mất: nơ trắng. Lễ đường xếp thành bốn dãy, dãy cha mẹ song toàn: hoa hồng nơ xanh. Mẹ còn, cha mất: hoa hồng nơ trắng. Mẹ mất, cha còn: hoa trắng, nơ xanh. Mẹ cha đều mất: hoa trắng, nơ trắng. Người dự lễ đứng theo hoàn cảnh của mình. Có lần, một em nhỏ tuổi chừng lên tám đứng trong hàng hoa trắng nơ trắng. Em nhìn quanh, tủi thân khóc òa và cả lễ đường cùng khóc òa theo.
Cha cũng như mẹ, rồi sẽ một ngày:
Đỉnh hoa biểu từ khơi bóng hạc1
nên mỗi người con đều phải vội vàng. Trả hiếu không bao giờ đủ, không được coi là dư bởi tình cha thương con là “cho” chứ không phải “cho vay” để có thể gọi là trả đủ.
 
1 Cha mẹ mãn phần (Nhị thập tứ hiếu)
Source :

Võ Hồng và những dòng chữ kỷ niệm Tuy Hòa

09.04.2013

bởi Trần Củng Sơn

​​Đất Tuy Hòa Phú Yên vẫn được coi là cằn cỗi về văn học so với các tỉnh miền Trung lân cận. Đây là một nhận xét dựa vào mấy chục năm trước, còn tương lai sau này thì chưa thể kết luận được. Và trên mảnh đất cằn cỗi văn học đó đã nảy lên một đóa hoa đẹp mang tên Võ Hồng. Ông sinh năm 1921 - lứa tuổi ba má tôi - tại làng Ngân Sơn, quận Tuy An, tỉnh Phú Yên, cách Tuy Hòa ba chục cây số về hướng bắc.

Trong giờ Việt Văn thời trung học, tôi được dạy về những bài mẫu trích từ tác phẩm của nhiều nhà văn miền Bắc, miền Trung và miền Nam, cũng may trong số đó có tên Võ Hồng, cho nên mình cũng có thể ngẩng mặt mà trao đổi chuyện văn nghệ với bạn bè các tỉnh khác.

Tôi vẫn nhớ những đoạn văn tả cảnh miền quê ở tỉnh Phú Yên, đặc biệt là nơi chôn nhau cắt rốn của nhà văn, thấy nó gần gũi và thơ mộng. Trời trưa hè Tuy Hòa dễ làm buồn ngủ; thời niên thiếu, trước khi ngủ trưa, tôi hay cầm cuốn truyện dài Hoa Bươm Bướm của Võ Hồng, đọc vài trang cho cảm giác nhẹ nhàng lây lan từ văn phong của ông và mơ màng. Đó là kỷ niệm đặc biệt mỗi khi nhắc tới ông.

Từ sau năm 1975, nhà văn Võ Hồng vẫn viết đều. Mặc dù sống trong hoàn cảnh chính trị tế nhị của đất nước thời chiến tranh cũng như hòa bình, ông vẫn đóng vai một nhà văn sống với chữ nghĩa văn chương.

Mười mấy năm trước có dịp về Tuy Hòa, tôi được một ông chú họ bảo nên ghé Nha Trang thăm nhà văn Võ Hồng, nhưng không hiểu sao tôi lại quên mang theo địa chỉ. Ở San Jose cũng có một cô bạn ái mộ ông, bảo là thỉnh thoảng nói chuyện qua điện thoại với ông. Và tới khi nghe tin ông mất vào tuần trước thì tôi đã không còn cơ hội để diện kiến một nhà văn gốc Phú Yên tài hoa.

Thời gian theo năm tháng đổi thay, dân số Việt Nam tăng lên gấp đôi gần trăm triệu người, các thị xã lớn lên thành thành phố, Tuy Hòa cũng có bộ mặt khác.

Xin trích một đoạn văn trong cuốn Trầm Mặc Cây Rừng - Chuyến Về Tuy Hòa của ông tả về phố cũ mấy chục năm trước để nhớ và tặng cho những đồng hương của miền đất Núi Nhạn Sông Đà Rằng:

“Chúng tôi cùng tới ‘Cafe Thảo’. Nghe nói khung cảnh nơi đây mộc mạc đơn sơ và những người trầm lặng suy tư hay tìm tới đây. Chúng tôi không hẳn là những người có đặc điểm quí báu đó, riêng tôi thì chỉ vì tò mò mà thôi. Đến thành phố nào, những người ít tiền cũng hay tìm một chỗ ngồi nơi một quán cafe. Ít tốn kém. Một lối trang sức tinh thần. Ở đây có cà phê Mây Hồng, cà phê Tùng, cà phê Hoài Bắc, cà phê ‘Chỗ chúng ta’. Một cô thâu ngân có khuôn mặt học trò hay có mái tóc Liêu trai thường thay thế cho hương vị của cà phê bởi rất nhiều khi người ta tới để ‘nhìn’ hơn là để ‘uống’. Đến một thành phố, người ta cũng hay tìm để bước vào những hiệu sách. Có cái gì thân mật nơi đó, người ta bắt gặp những khuôn mặt quen của tờ nhật báo quen đọc, những tập nguyệt san, tuần san quen được lật trên tay. Nhạn Đà, Vạn Kim, Đà Giang, Hùng Cường. Sinh hoạt tinh thần được chuyển về trọn vẹn từ thủ đô, được bày trên các ngăn tủ, được kẹp trên các sợi dây thép chăng ngang dọc.

“Mười giờ hơn khi chúng tôi về nhà. Lúc nãy đi ngang cô nhi viện Mằng Lăng tôi cảm thấy bùi ngùi. Mằng Lăng là một địa điểm của xã hội, nổi danh vì ngôi nhà lớn, họ đạo đông và giàu. Họ đạo di cư vào Tuy Hòa, nhà mồ côi di chuyển theo, được xây cất cao rộng kiên cố và mang tên cũ. Như là một hoài niệm không nguôi, như tấm lòng người Do Thái lang thang lúc nào cũng nghĩ về Đất Thánh của mình. Ngót một nửa số ruộng phì nhiêu của cánh đồng quận Tuy An thuộc quyền sở hữu của nhà thờ Mằng Lăng. Ngày Chúa nhật các họ đạo ở Gò Chung, ở Đồng Đất, ở Lò Giấy, ở Long Hòa, ở Diêm Điền… đều tụ hội về nhà thờ lớn Mằng Lăng xem lễ. Người ta đi thành từng đoàn dài trên những con đường nhỏ quanh co. Những đoàn người mặc áo dài đen nghiêm chỉnh đi thành hàng một hướng về ngôi nhà thờ lớn như những chân dài ngoẵng của một loài nhện khổng lồ.

“Khi nghe tôi về Tuy Hòa, một người bạn dặn: - Đi Tuy Hòa thì đừng quên con đường xuống Tòa Hành chánh, một con đường đẹp lý tưởng. Đường rộng trồng toàn cây dương mát. Hai bên đường có một đoạn có ruộng lúa. Lâu ngày sống xa ruộng lúa nay được ngửi mùi bùn, mùi nước, mùi lá lúa thật không gì êm mát bằng.

“Khi tôi chợt nhớ đến lời người bạn thì đã trễ. Buổi tối đoạn đường đó cấm đi lại.

“Ngày mai tôi sẽ trở lại Nha Trang bằng chuyến xe sớm. Cầu mong cho đêm nay yên tĩnh đừng có những cuộc pháo kích, những trận tấn công. Tôi muốn ở lại dài ngày giờ hơn để đi thăm những bạn quen, những người mà tôi xa cách đã mười lăm năm nay. Mười lăm năm, đó không phải là một thời gian ngắn. Cứ chồng nó lên ba lần là đủ để thành một đời người. Tôi cũng muốn đi thăm lại những cơ sở quen thuộc: trường Trung học Nguyễn Huệ, chùa Bảo Tịnh, nhà thờ Thiên Chúa giáo, trường Nữ Tiểu học, nhà thờ Tin Lành, cô nhi viện Phật giáo…”

Xin phép nhà văn Võ Hồng cho tôi nhắc tên quán cà phê Nhớ gần trường Đặng Đức Tuấn và nhà ga Tuy Hòa, có cô chủ quán mái tóc dài giống Juliette trong phim Romeo & Juliette thập niên 70.

Trần Củng Sơn
California, ba tháng tư năm hai ngàn mười ba
 
Source : Blog NXH/VOA  

 

12/4/13

WHITE HOUSE : Remarks by the President Announcing the Fiscal Year 2014 Budget

Rose Garden
11:00 A.M. EDT

THE PRESIDENT: Good morning, everybody. Please, please have a seat. Well, as President, my top priority is to do everything I can to reignite what I consider to be the true engine of the American economy: a rising, thriving middle class. That’s what I think about every day. That’s the driving force behind every decision that I make.
And over the past three years, our businesses have created nearly 6.5 million new jobs. But we know we can help them create more. Corporate profits are at an all-time high. But we have to get wages and incomes rising, as well. Our deficits are falling at the fastest pace in years. But we can do more to bring them down in a balanced and responsible way.
The point is, our economy is poised for progress -- as long as Washington doesn’t get in the way. Frankly, the American people deserve better than what we’ve been seeing: a shortsighted, crisis-driven decision-making, like the reckless, across-the-board spending cuts that are already hurting a lot of communities out there -- cuts that economists predict will cost us hundreds of thousands of jobs during the course of this year.
If we want to keep rebuilding our economy on a stronger, more stable foundation, then we’ve got to get smarter about our priorities as a nation. And that’s what the budget I’m sending to Congress today represents -- a fiscally responsible blueprint for middle-class jobs and growth.
For years, the debate in this town has raged between reducing our deficits at all costs, and making the investments necessary to grow our economy. And this budget answers that argument, because we can do both. We can grow our economy and shrink our deficits. In fact, as we saw in the 1990s, nothing shrinks deficits faster than a growing economy. That’s been my goal since I took office. And that should be our goal going forward.
At a time when too many Americans are still looking for work, my budget begins by making targeted investments in areas that will create jobs right now, and prime our economy to keep generating good jobs down the road. As I said in my State of the Union address, we should ask ourselves three questions every day: How do we make America a magnet for new jobs? How do we give our workers the skills they need to do those jobs? And how do we make sure that hard work leads to a decent living?
To make America a magnet for good jobs, this budget invests in new manufacturing hubs to help turn regions left behind by globalization into global centers of high-tech jobs. We’ll spark new American innovation and industry with cutting-edge research like the initiative I announced to map the human brain and cure disease. We’ll continue our march towards energy independence and address the threat of climate change. And our Rebuild America Partnership will attract private investment to put construction workers back on the job rebuilding our roads, our bridges and our schools, in turn attracting even more new business to communities across the country.
To help workers earn the skills they need to fill those jobs, we’ll work with states to make high-quality preschool available to every child in America. And we’re going to pay for it by raising taxes on tobacco products that harm our young people. It’s the right thing to do. (Applause.)
We’ll reform our high schools and job training programs to equip more Americans with the skills they need to compete in the 21st century economy. And we’ll help more middle-class families afford the rising cost of college.
To make sure hard work is rewarded, we’ll build new ladders of opportunity into the middle class for anybody who is willing to work hard to climb them. So we’ll partner with 20 of our communities hit hardest by the recession to help them improve housing, and education, and business investment. And we should make the minimum wage a wage you can live on -- because no one who works full-time should have to raise his or her family in poverty. (Applause.)
My budget also replaces the foolish across-the-board spending cuts that are already hurting our economy. And I have to point out that many of the same members of Congress who supported deep cuts are now the ones complaining about them the loudest as they hit their own communities. Of course, the people I feel for are the people who are directly feeling the pain of these cuts -- the people who can least afford it. They’re hurting military communities that have already sacrificed enough. They’re hurting middle-class families. There are children who have had to enter a lottery to determine which of them get to stay in their Head Start program with their friends. There are seniors who depend on programs like Meals on Wheels so they can live independently, but who are seeing their services cut.
That’s what this so-called sequester means. Some people may not have been impacted, but there are a lot of folks who are being increasingly impacted all across this country. And that's why my budget replaces these cuts with smarter ones, making long-term reforms, eliminating actual waste and programs we don’t need anymore.
So building new roads and bridges, educating our children from the youngest age, helping more families afford college, making sure that hard work pays. These are things that should not be partisan. They should not be controversial. We need to make them happen. My budget makes these investments to grow our economy and create jobs, and it does so without adding a dime to our deficits.
Now, on the topic of deficits, despite all the noise in Washington, here’s a clear and unassailable fact: our deficits are already falling. Over the past two years, I’ve signed legislation that will reduce our deficits by more than $2.5 trillion -- more than two-thirds of it through spending cuts and the rest through asking the wealthiest Americans to begin paying their fair share.
That doesn’t mean we don't have more work to do. But here’s how we finish the job. My budget will reduce our deficits by nearly another $2 trillion, so that all told we will have surpassed the goal of $4 trillion in deficit reduction that independent economists believe we need to stabilize our finances. But it does so in a balanced and responsible way, a way that most Americans prefer.
Both parties, for example, agree that the rising cost of caring for an aging generation is the single biggest driver of our long-term deficits. And the truth is, for those like me who deeply believe in our social insurance programs, think it's one of the core things that our government needs to do, if we want to keep Medicare working as well as it has, if we want to preserve the ironclad guarantee that Medicare represents, then we’re going to have to make some changes. But they don't have to be drastic ones. And instead of making drastic ones later, what we should be doing is making some manageable ones now.
The reforms I’m proposing will strengthen Medicare for future generations without undermining that ironclad guarantee that Medicare represents. We’ll reduce our government’s Medicare bills by finding new ways to reduce the cost of health care -- not by shifting the costs to seniors or the poor or families with disabilities. They are reforms that keep the promise we’ve made to our seniors: basic security that is rock-solid and dependable, and there for you when you need it. That's what my budget represents.
My budget does also contain the compromise I offered Speaker Boehner at the end of last year, including reforms championed by Republican leaders in Congress. And I don’t believe that all these ideas are optimal, but I’m willing to accept them as part of a compromise -- if, and only if, they contain protections for the most vulnerable Americans.
But if we're serious about deficit reduction, then these reforms have to go hand-in-hand with reforming our tax code to make it more simple and more fair, so that the wealthiest individuals and biggest corporations cannot keep taking advantage of loopholes and deductions that most Americans don’t get. That's the bottom line.
If you're serious about deficit reduction, then there's no excuse to keep these loopholes open. They don't serve an economic purpose. They don't grow our economy. They don't put people back to work. All they do is to allow folks who are already well-off and well-connected game the system. If anyone thinks I’ll finish the job of deficit reduction on the backs of middle-class families or through spending cuts alone that actually hurt our economy short-term, they should think again.
When it comes to deficit reduction, I’ve already met Republicans more than halfway. So in the coming days and weeks, I hope that Republicans will come forward and demonstrate that they’re really as serious about the deficits and debt as they claim to be.
So growing our economy, creating jobs, shrinking our deficits. Keeping our promise to the generation that made us great, but also investing in the next generation -- the next generation that will make us even greater. These are not conflicting goals. We can do them in concert. That’s what my budget does. That’s why I’m so grateful for the great work that Jeff Zients and his team have done in shaping this budget. The numbers work. There’s not a lot of smoke and mirrors in here.
And if we can come together, have a serious, reasoned debate -- not driven by politics -- and come together around common sense and compromise, then I’m confident we will move this country forward and leave behind something better for our children. That’s our task.
Thank you, God bless you. God bless the United States of America. (Applause.)

END
11:11 A.M. EDT

Source : www.whitehouse.gov

11/4/13

Phù vân

 

 
 


 THD




Phù vân


Tôi về tìm lại tôi xưa 

Tìm tôi nơi chốn em vừa lãng quên

Nghe trong chiều xuống êm đềm

Chút hương ngày cũ rơi miền tóc sương 

Người một phương ta một phương 

Tìm nhau chỉ thấy một đường thiên thu

Mai đây trong chốn sa mù

hương xưa còn đọng cánh phù vân trôi

Tranhodung.Seattle . Washington. USA

Clip


 

CUỒNG CA




CUỒNG CA 

Tặng C.T. 

“Nước mấy ngàn năm hồn chửa tỉnh
Người bao nhiêu triệu giấc còn say” (1)
Để mây còn thẩn thờ ngang núi
Nhìn nước tang thương chảy quặn lòng
Có đứa con xa lìa tổ quốc
Khóc kẻ   lưu  đày trên quê hương
Rót chén rượu cuồng , ta nhớ bạn
Thôi thì , đất nước cũng …. rưng rưng
Hãy cạn cùng ta thêm chén nữa
Mộng cuồng , xô đổ cả trăng sao
 cuồng tửu , cuồng từ , thôi uống cạn 
Đời đục rồi , ai giữ tấc lòng trong ?

Người ơi ! Có biết trăng khuya lạnh

Và biết lòng ta lạnh quá trăng  ?
-----------------
(1) 
 " Nước  bốn ngàn năm hồn chửa tỉnh 
         Người hăm lăm triệu giấc còn say             
                                           ( Tản Đà )
                                     


                                                                  

tranhodung.washington .usa.