14/7/13

Vương Trung Hiếu - Tìm hiểu những bài thơ, ca dao liên quan tới "canh gà Thọ Xương"

 Vương Trung Hiếu 
 3 July 2013 

Trước đây nhiều nhà nghiên cứu đã tranh luận sôi nổi về nguồn gốc, dị văn, dị bản của những câu ca dao và bài thơ có liên quan đến “canh gà Thọ Xương”. Năm 2012, thêm một lần nữa, xuất hiện rầm rộ những bài viết liên quan đến vấn đề này, đặc biệt là quan điểm cho rằng “canh gà” là một món ăn, điều này trái ngược với nhận định truyền thống: “canh gà” chỉ thời gian (tiếng gà báo canh). Thật hư thế nào, chúng ta thử tìm hiểu các quan điểm, phân tích và minh định đôi điều, bởi vì đây là một tác phẩm đã từng xuất hiện trong sách giáo khoa trung học và đại học, đã từng được ghi nhận, đánh giá trong những công trình nghiên cứu có trọng lượng như “Lịch sử văn học Việt Nam” (NXB Khoa Học Xã Hội, 1980), “Văn học dân gian” (NXB Đại Học Và Trung Học Chuyên Nghiệp, 1973) hay “Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam” của Vũ Ngọc Phan (1956, tái bản nhiều lần)….
Về cơ bản có ba bài như sau:
Trong ca dao Hà Nội:
Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương. Mịt mù khói tỏa làn sương Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ.
Bài thơ “Hà Nội tức cảnh” của Dương Khuê:
Phất phơ ngọn trúc trăng tà, Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Mịt mùng khói tỏa ngàn sương, Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây hồ.
Và trong ca dao Huế:
Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương. Thuyền về xuôi mái dòng Hương, Biết đâu tâm sự đôi đường đắng cay.
I. Nguồn gốc
Hiện nay có ba quan điểm chính: 1. Ca dao Huế và Hà Nội có trước bài “Hà Nội tức cảnh” của Dương Khuê; 2. Thơ Dương Khuê xuất hiện trước, sau đó trở thành ca dao Hà Nội rồi lan truyền đến Huế để thành ca dao Huế; 3. Ca dao Huế có trước, sau đó Dương Khuê dựa trên bài này để sáng tác “Hà Nội tức cảnh”, cuối cùng bài thơ được dân gian hóa để trở thành ca dao Hà Nội.
Để tìm nguồn gốc, chúng ta cần xác định những chi tiết liên quan.
Thơ Dương Khuê: Do ca dao không có mốc thời gian sáng tác cụ thể nên chúng tôi căn cứ vào bài thơ của Dương Khuê để tiện việc đối chiếu. Theo PGS.TS. Trịnh Khắc Mạnh [1], bài “Hà Nội tứ cảnh”của Dương Khuê nằm trong tập “Vân Trì thi thảo” (雲池詩草 – Bản thảo thơ Vân Trì), (ký hiệu VHv. 2482) đang được lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán NômChúng ta biết rằng Dương Khuê (1839-1902), là quan nhà Nguyễn, một nhà thơ nổi tiếng, rất có khả năng bài “Hà Nội tứ cảnh” ra đời khoảng nửa cuối thế kỷ 19. Những địa danh trong bài thơ của ông trùng khớp với các địa danh ở Hà Nội xuất hiện trong ca dao Hà Nội.
Những địa danh trong ca dao Hà Nội
Trấn Vũ: Trấn Vũ Quán (hay đền Quán Thánh) nằm bên cạnh Hồ Tây, phía Tây Bắc Hà Nội. Ngôi đền này được xây dựng từ đời vua Lý Thái Tổ (Kỷ Dậu 1009 – Mậu Thìn 1028), nơi thờ Huyền Thiên Trấn Vũ, một trong bốn vị thần trấn giữ bốn cửa ngõ của thành Thăng Long ngày xưa (Thăng Long tứ trấn).
Thọ Xương: Theo Đồng Khánh địa dư chí (同慶地輿志) – Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn khoảng nửa cuối thế kỷ 19, Thọ Xương là một huyện của thành Thăng Long xưa, có tên chữ Hán là 壽昌縣 (Thọ Xương huyện). Ngày nay huyện này là khu vực thuộc thành phố Hà Nội, nằm trong địa phận quận Hoàn Kiếm, quận Hai Bà Trưng và một phần quận Đống Đa. Vào thời Lê sơ (Mậu Thân 1428 – Đinh Hợi 1527), Thọ Xương có tên là huyện Vĩnh Xương (永昌縣), đến thời nhà Mạc (Đinh Hợi 1527- Nhâm Thìn 1593) đổi tên là Thọ Xương. Ngày 1 tháng 10 năm 1888 (Đinh Hợi), vua Đồng Khánh ra đạo dụ nhượng hẳn thành Hà Nội cho Pháp, sau đó huyện Thọ Xương đã bị bãi bỏ. Hiện nay, Thọ Xương chỉ còn là tên một ngõ nhỏ (ngõ Thọ xương) thuộc phường Hàng Trống, quận Hoàn Kiếm [2].
Yên Thái: là địa danh nói về Làng Yên Thái (còn gọi là Làng Bưởi) ở bờ nam Hồ Tây, Hà Nội. Ngày xưa, làng này nổi tiếng với nghề làm giấy, kẹo mạch nha và cất rượu, đặc biệt nhất là nghề làm giấy dó trong giai đoạn cuối TK 19 – đầu TK 20, bao gồm: giấy sắc (dùng để viết sắc vua ban), giấy lệnh (dùng để viết các lệnh chỉ, thần phả), giấy để chép gia phả dòng họ, giấy để in tranh khắc gỗ, vẽ tranh dân gian, làm đồ chơi trung Thu, in kinh Phật, viết chữ Nho, làm quạt, bao bì, vàng mã..Ngày nay người ta còn dùng giấy đó để giấy chống ẩm, sản xuất tấm cách âm, cách nhiệt, làm màng loa máy thu thanh…
Nhiều nhà nghiên cứu công nhận rằng “Nhịp chày Yên Thái” dùng để chỉ tiếng chày phát ra khi người dân làng này sử dụng chày giã vỏ cây dó trong cối để làm giấy. Trong quyển Technique du peuple annamite (Kỹ thuật của người An Nam, tái bản 2009), Henri Oger cho biết vỏ cây dó được nấu và ngâm trong nước vôi khoảng ba tháng, bóc bỏ lần vỏ đen rồi giã bằng cối và chày, sau đó mới thực hiện những công đoạn khác để chế tạo giấy (tr. 215).
Tây Hồ hay Hồ Tây: là một hồ nước tự nhiên lớn nhất trong nội thành Hà Nội. Trước đây, hồ này còn có những tên gọi khác là Đầm Xác Cáo, Hồ Kim Ngưu, Lãng Bạc, Dâm Đàm, Đoài Hồ…. [3]. Đây chính là địa danh trong câu mở đầu bài thơ “Phong cảnh Tây Hồ” của quan Chương Lĩnh Hầu Nguyễn Huy Lượng (? – 1808): “Đầy vơi thực lạ cảnh Tây Hồ. Và cũng chính là địa danh trong vế đầu của câu đối nằm trên Cổng Giáp Đông – làng Hồ Khẩu (cũ, nay thuộc quận Tây Hồ): ” Mỹ tục thuần phong vĩnh chiếu Tây Hồ minh kính” (Mỹ tục thuần phong soi gương Tây Hồ trong sáng) [4].
Trong ca dao Huế
Thiên Mụ ở đây chính là chùa Thiên Mụ (天姥). Ngôi chùa cổ này nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế (Việt Nam) khoảng 5 km về phía tây [5]. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí (大南一統志 ) – do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, chùa Thiên Mụ chính thức khởi lập năm Tân Sửu (1601), trong triều đại chúa Tiên Nguyễn Hoàng (vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong). Đến năm Canh Dần (1710), chúa Quốc Nguyễn Phúc Chu (1691- 1725) cho đúc một chiếc chuông lớn (gọi là Đại Hồng Chung) đặt trong chùa Thiên Mụ. Chuông này nặng hơn 2 tấn, trên thành ngoài có khắc một bài văn của Chúa Nguyễn Phúc Chu. “Tiếng chuông Thiên Mụ” là cụm từ đã từng xuất hiện trong văn bản từ nửa đầu thế kỷ 19, đó chính là tựa đề bài thơ Thiên Mụ Chung Thanh (天姥鐘聲 – Tiếng chuông Thiên Mụ) của vua Thiệu Trị (1807 – 1847), diễn tả cảnh đẹp thứ mười bốn (đệ thập tứ cảnh, 第十四景) trong hai mươi cảnh đẹp của đất Thần Kinh do nhà vua xếp loại. Bài thơ này được ghi vào bia đá dựng gần cổng chùa [5]. Hiện nay chùa Thiên Mụ còn được gọi là chùa Linh Mụ (靈姥). Lý do là vào năm Nhâm Tuất (1862), vua Tự Đức cầu khấn mong có con nối dõi, vua sợ chữ "Thiên" phạm đến Trời nên cho đổi "Thiên Mụ" thành "Linh Mụ". Việc kiêng cữ này chỉ đến năm Kỷ Tỵ (1869), về sau người dân muốn gọi là chùa Thiên Mụ hay Linh Mụ đều được [5].
Thọ Xương là địa danh cũ, một khu vực thuộc làng Nguyệt Biều nằm bên bờ sông Hương, bên kia sông là chùa Thiên Mụ. Theo Đại Nam Nhất Thống chí (sđd), trước đây vùng này có tên gọi là Thọ Khương (Thọ Khang), đến năm Nhâm Tuất (1802) đầu triều đại Gia Long được đổi tên thành Thọ Xương, năm Minh Mạng thứ năm (Giáp Thân – 1824) đổi thành Long Thọ Cương 龍壽崗, tức đồi Long Thọ (trong chữ Hán “đồi” được viết là 崗 hoặc 岡), hiện nay chỉ còn gọi là Long Thọ, thuộc phường Thủy Biều, thành phố Huế.
Xét những địa danh trên, chúng ta thấy rằng tất cả đều xuất hiện trước thời Dương Khuê sống. Điều này dẫn tới hai khả năng: thứ nhất, những câu ca dao liên quan với “canh gà Thọ Xương” ở Huế và Hà Nội có thể ra đời trước khi Dương Khuê sáng tác bài “Hà Nội tứ cảnh”. Nếu như thế thì cần tìm kiếm những câu ca dao đó được viết bằng chữ Nôm hay chữ Quốc ngữ trong những văn bản từ nửa đầu thế kỷ 19 trở về trước. Chúng ta biết rằng chữ Nôm hình thành trước thế kỷ 15, định hình rồi phổ biến dần trong văn chương Việt Nam cho đến cuối thế kỷ 19. Ngày 1 tháng 1 năm 1879 chính quyền Pháp ra nghị định buộc các văn kiện chính thức phải dùng chữ Quốc ngữ [6]. Như vậy, nếu những câu ca dao Huế và Hà Nội có liên quan với “canh gà Thọ Xương” ra đời từ nửa cuối thế kỷ 19 thì vẫn có khả năng được ghi nhận bằng văn bản. Trong trường hợp không thể tìm thấy bất kỳ tài liệu nào chứng minh những câu ca dao ấy xuất hiện trước giai đoạn Dương Khuê sống thì phải công nhận khả năng thứ hai: bài Hà Nội tứ cảnh của Dương Khuê đã được dân gian hóa để trở thành những câu ca dao Huế và Hà Nội.
Tháng 4 năm 1918, Phạm Quỳnh viết bút ký “Mười ngày ở Huế”, đăng trên tạp chí Nam Phong, mở đầu phần IV trong đó có hai câu:
Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương [7]
Một số nhà nghiên cứu cho rằng Phạm Quỳnh đã dựa vào “tiếng chuông Trấn Vũ” trong ca dao Hà Nội để chế ra “tiếng chuông Thiên Mụ” rồi khẳng định rằng ca dao Hà Nội có trước, còn ca dao Huế là “sản phẩm ăn theo”, cải biên từ ca dao Hà Nội. Có thật vậy không? Xin mời xem đoạn văn kế tiếp Phạm Quỳnh viết sau hai câu ca dao kể trên:
Cả cái hồn thơ của xứ Huế như chan chứa trong hai câu ca ấy. Chùa Thiên Mụ là một chốn danh lam, có cái tháp bẩy từng, ở ngay trên bờ sông Hương, làng Thọ Xương thì ở bờ bên kia. Đêm khuya nghe tiếng chuông chùa với tiếng gà gáy xa đưa văng vẳng ở giữa khoảng giời nước long lanh mà cảm đặt thành câu ca cho con trẻ hát, ấy mới rõ cái tính tình của người xứ Huế” [7].
Như vậy Phạm Quỳnh đã biết rõ rằng ngày xưa ở Huế có địa danh Thọ Xương, mặt khác, vào nửa đầu thế kỷ 19 vua Thiệu Trị đã sáng tác bài thơ rất nổi tiếng là “Thiên Mụ chung thanh” (Tiếng chuông Thiên Mụ), vậy hà cớ gì Phạm Quỳnh phải dựa vào “Tiếng chuông Trấn Vũ” để tạo ra “Tiếng chuông Thiên Mụ”? Theo chúng tôi, câu Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương ra đời trước khi Phạm Quỳnh đến Huế vào năm 1918. Phạm Quỳnh chỉ là người đưa câu ca đó vào bút ký của mình mà thôi, bởi vì vào năm 1824 địa danh Thọ Xương đã được đổi thành Long Thọ Cương. Nếu không am hiểu chi tiết này, chắc chắn trong đoạn văn trên Phạm Quỳnh đã viết là Long Thọ Cương (hay Thọ Cương) – địa danh hiện tại năm 1918, chứ không thể là Thọ Xương – địa danh cũ cách năm Phạm Quỳnh đến Huế gần một thế kỷ (94 năm).
Chúng tôi cho rằng, khởi thủy chỉ có hai câu:
Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương (hoặc Thọ Cương).
Về sau người ta mới ghép thêm hai câu nữa:
Thuyền về xuôi mái dòng Hương, Biết đâu tâm sự đôi đường đắng cay?
Nếu như thế thì câu ca Huế là độc lập, không dính dáng gì tới câu ca Hà Nội và thơ Dương Khuê. Trong quyển “Những điều nên biết” tác giả Nguyễn Văn Thái viết:
…“Không biết từ lúc nào, câu ca dao xứ Huế với “tiếng chuông Thiên Mụ” đã trở thành câu thơ miêu tả phong cảnh Hà Nội với “tiếng chuông Trấn Vũ”. Người ta cho rằng cụ Dương Khuê là người đầu tiên đã đưa “tiếng chuông Thiên Mụ” ra Hà Nội trong một bài thơ lục bát của cụ.”…
…“Bài thơ Hà Nội tức cảnh của cụ Dương Khuê được sáng tác vào khoảng thập niên 1870, sau nhiều năm cụ sống tại Huế. Do đó ta có thể nói rằng câu ca dao trên đây đã thấm nhập vào trí óc cụ Dương Khuê. Vì thế, khi cụ trở ra miền bắc, gặp lúc thời thế nhiễu nhương, cụ làm bài thơ Hà Nội tức cảnh để gửi gấm nỗi lòng của mình. Hai dòng đầu của bài thơ, cụ đã mượn câu ca dao nói trên nhưng thay đổi địa danh cho hợp với phong cảnh của Hà Nội: Chùa Thiên Mụ đổi thành chùa Trấn Vũ. Rất may là Hà Nội cũng có địa danh Thọ Xương cho nên cụ không cần phải đổi địa danh này.
Có điều khác biệt là, Thọ Xương ở Hà Nội, ngày nay vẫn còn mang tên Thọ Xương; trong khi Thọ Xương ở Huế đã thay đổi tên nhiều lần theo dòng thời gian, từ Thọ Khương, đến Thọ Xương, đến Thọ Cương, và nay là Long Thọ”… [8]
Nếu quả thật nhà thơ Dương Khuê có nhiều năm sống tại Huế thì chúng tôi đồng tình với nhận định của nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Thái, rất có khả năng Dương Khuê đã mượn ca dao Huế để sáng tác bài “Hà Nội tức cảnh”, sau đó bài thơ này được dân gian hóa, trở thành ca dao Hà Nội. Bằng chứng là ngoài hai câu đầu giống với ca dao Huế, ca dao Hà Nội còn có thêm hai câu cuối:“Mịt mù khói tỏa làn sương / Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ” rất giống với thơ Dương Khuê. Tuy nhiên, chúng tôi không tán thành chi tiết “Thọ Xương ở Hà Nội, ngày nay vẫn còn mang tên Thọ Xương” trong bài của Nguyễn Văn Thái. Xét về nghĩa của câu này thì không có gì sai, bởi vì hiện nay Hà Nội vẫn còn địa danh Thọ Xương, song, đó chỉ là tên một ngõ nhỏ thuộc phường Hàng Trống, quận Hoàn Kiếm. Còn địa danh Thọ Xương thật sự, xuất hiện trong trong thơ Dương Khuê và ca dao Hà Nội đã không còn sử dụng từ năm 1888, sau khi vua Đồng Khánh ra đạo dụ nhượng hẳn Hà Nội cho người Pháp.
2. Canh gà Thọ Xương là gì?
Trong ca dao Việt Nam, ngoài những bài đang phân tích ở đây, còn có những câu ghi nhận chữ “canh gà”:
Người đứng cối, kẻ giần sang Nghe canh gà gáy phàn nàn chửa xong.
Nếm muỗng đường om mùi thơm vị ngọt Qua thương nhớ bậu thức trót canh gà.
Về địa danh “Thọ Xương” thì có:
Trên chùa đã động tiếng chuông Gà Thọ Xương đã gáy, chim trên nguồn đã kêu.
Sở tại là những huyện nào Thọ Xương, Vĩnh Thuận, phủ Hoài thống kiêm.
Riêng cụm từ “canh gà Thọ Xương” thì chỉ có trong ca dao Huế và Hà Nội đã được trích dẫn ở đầu bài viết này, chúng tôi chưa tìm thấy bài ca dao nào khác.
Xét những câu ca dao trên, chúng ta thấy canh gà gáy và thức trót canh gà là hai tổ hợp từ chỉ thời gian, tương ứng với canh gà Thọ Xương trong ca dao Huế và Hà Nội, không có tổ hợp nào cho thấy đó là món ăn. Một câu khác cho biết Thọ Xương là huyện, câu còn lại cho thấy Gà Thọ Xương đã gáy, cả hai câu đều nói về địa danh.
Xin chú ý chi tiết, câu Gió đưa cành trúc la đà trong ca dao Huế và Hà Nội đơn thuần chỉ là “đường dẫn bắt cầu” cho câu kế tiếp, cũng giống như những câu ca khác: Gió đưa bụi chuối sau hè, Gió đưa gió đẩy lá dừa, Gió đưa lau lách quanh bờ…Chúng không làm tiền đề chỉ thời gian. Chính câu thơ của Dương Khuê mới nêu bật được tính thời gian trong canh gà Thọ Xương, đó là câuPhất phơ ngọn trúc trăng tà. “Trăng tà” có nghĩa là mặt trăng đã chếch hẳn về một phía khi đêm sắp hết, bình minh sắp ló dạng. Vào thời điểm đó gà ở Thọ Xương bắt đầu gáy vang. Như người xưa từng nói “Đêm năm canh, ngày sáu khắc”. Nếu tínhNửa đêm giờ Tý canh ba (23 giờ đến 1 giờ sáng) thì canh tư sẽ là giờ Sửu (1 đến 3 giờ sáng), còn canh năm là giờ Dần (3 đến 5 giờ sáng). Như vậy, thời điểm trăng tà hay gà gáy là vào lúc canh năm.
Tóm lại, rất ít có khả năng Canh gà Thọ Xương là một món ăn. Điều này còn được chứng minh bằng bài “Hà Nội tứ cảnh” của Dương Khuê trong tập Vân Trì thi thảo. Theo TS Trịnh Khắc Mạnh , trong bài thơ đó chữ canh được viết là  (canh giờ), chứ không phải chữ canh 羹 (bát canh, món canh) [1]. Chúng tôi đồng thuận với nhận định này, bởi vì hai chữ Nôm mà TS Trịnh Khắc Mạnh dẫn chứng đều có nguồn gốc từ chữ Hán: canh 更 (thuộc bộ Viết曰), có nghĩa là “đơn vị thời gian dùng cho ban đêm”, giống như trong tác phẩm Thái Bình mại ca giả 太平賣歌者, thi hào Nguyễn Du đã viết “Đàn tận tâm lực cơ nhất canh” 殫盡心力幾一更 (Dốc hết tâm lực gần một canh). Chữ canh 更 còn dùng để chỉ trống canh như Tôn Quang Hiến 孫光憲 (thời vua Tống Thái Tổ (960-975), Trung Quốc) đã viết: “Thính hàn canh, văn viễn nhạn” 聽寒更, 聞遠雁 (Lắng nghe tiếng trống canh lạnh, nghe thấy tiếng chim nhạn xa).
Nếu nói một món ăn thì phải dùng chữ canh 羹 (thuộc bộ Dương 羊). Chữ này có nghĩa là “món canh, món ăn nước”, thí dụ điều canh 調羹 (nêm món canh cho vừa ăn).
Tuy nhiên, có một chi tiết cần chú ý, TS Trịnh Khắc Mạnh cho rằng canh gà Thọ Xương là tiếng gà gáy báo canh ở Thọ Xương. Đây là cách hiểu thông thường, bởi vì khi nghe tiếng gà gáy lúc rạng đông chúng ta nhận thức rằng thời điểm lúc đó là canh năm (3 đến 5 giờ sáng). Nhưng trên thực tế, gà gáy không phải để báo cho chúng ta biết đó là canh mấy, tất cả là do đồng hồ sinh học nội tại của chúng. Tiếng gà gáy là kết quả phản ứng nhịp sinh học trong cơ thể gà trống, gọi là Circadian rhythm trong tiếng Anh [9]. Rất có khả năng ánh sáng và nhiệt độ lúc rạng đông đã kích thích, tác động tới cơ thể buộc con gà cất tiếng gáy.
3. Những dị văn và dị bản
Chúng ta biết rằng ca dao là thể loại văn vần, thuộc dòng văn học dân gian truyền khẩu, do đó việc tam sao thất bản là điều không tránh khỏi, chắc chắn sẽ có những dị biệt trong các văn bản nào đó. Trong quá trình sưu tập ca dao, chúng ta chấp nhận mọi dị văn và dị bản, xem mỗi bản là một đặc trưng phản ánh tính chất vùng miền và những điều khác. Tuy nhiên, đối với thơ Dương Khuê thì cần hiệu đính nghiêm túc tác phẩm do chính ông sáng tác. Muốn làm được điều này, chúng ta cần phải so sánh, đối chiếu và phân tích các văn bản để đưa ra kết luận cụ thể.
Hà thành hay Hà Nội
Trên trang blog cá nhân, nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Diện cho biết trong “Dương gia phả ký” (bản đánh máy chữ quốc ngữ, 122 trang), Dương Thiệu Cương lập vào cuối mùa hạ năm Quý Sửu (1973), Dã Lan Nguyễn Đức Dụ in ấn có bài thơ “Hà thành tức cảnh” của Dương Khuê – bài thứ hai trong trang 106 [10]. Nhưng trong quyển “Luận đề về Dương Khuê” (Nguyễn Duy Diễn, nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1960), bài thơ này được ghi tựa là “Hà Nội tức cảnh”. Theo chúng tôi, sách của Nguyễn Duy Diễn là công trình nghiên cứu về Dương Khuê có giá trị học thuật, đáng tin cậy, có lẽ vì thế nên TS Dương Thiệu Tống đã trích dẫn bài thơ của Dương Khuê trong sách của Nguyễn Duy Diễn với tựa đề là “Hà Nội tức cảnh”, không theo tựa “Hà thành tứ cảnh” trong Dương gia phả ký. TS. Dương Thiệu Tống đã cho đăng bài này trong sách của ông: “Tâm trạng Dương Khuê – Dương Lâm” (NXB Khoa học Xã hội, 2005).
Tứ hay tức
Như trên đã nói, bài thơ của Dương Khuê có tựa đề là “Hà Nội tứ cảnh”, nằm trong tập “Vân Trì thi thảo” [1], còn trong “Luận đề về Dương Khuê” (sđd), “Tâm Trạng Dương Khuê – Dương Lâm” (sđd) và Dương gia phả ký kể trên thì lại ghi nhận là “tức cảnh” chứ không phải “tứ cảnh”. Vậy tựa nào là chính xác như Dương Khuê đã viết?
Chúng ta biết rằng tập “Vân Trì thi thảo” của Viện Nghiên cứu Hán Nôm là bản viết thảo, chữ viết không dễ đọc, có thể do người khác chép lại chứ không phải là thủ bút của Dương Khuê (cần kiểm chứng điều này). Hai chữ “tứ” và “tức” trong thơ Dương Khuê là chữ Nôm nhưng được viết theo phép giả tá, nghĩa là mượn nguyên xi từ chữ Hán, do đó ta có thể giải thích ý nghĩa giống như chữ Hán. Tứ 四 (thuộc bộ Vi 囗) có nghĩa là “bốn”, giống như chữ t trong bài Thu chí 秋至 của Nguyễn Du : Tứ thì hảo cảnh vô đa nhật 四時好景無多日 (Cảnh đẹp bốn mùa chẳng được bao ngày); còn tức 即 (thuộc bộ Tiết卩) trong tức cảnh 即景 ở đây có nghĩa là sáng tác thơ do có cảm hứng với phong cảnh trước mắt, giống như tức cảnh thi 即景詩 (thơ tức cảnh).
Theo thiển ý của chúng tôi, tựa bài thơ của Dương Khuê nên hiệu đính là tức cảnh, không viết là tứ cảnh. Vì sao? Đồng ý rằng trong bài có bốn địa danh (Trấn Vũ, Thọ Xương, Yên Thái, Tây Hồ), nhưng nếu muốn đặc tả về cảnh đẹp, tại sao tác giả không chọn những cảnh đẹp tiêu biểu khác của Hà Nội mà lại chọn là Thọ Xương và Yên Thái – hai địa danh chưa phải là xuất sắc bậc nhất của Hà Nội? Chính vì thế, sử dụng “tức cảnh” sẽ dễ được người đọc chấp nhận hơn.
Phất phơ và gió đưa
Cách sử dụng từ phất phơ của Dương Khuê trong câu lục Phất phơ ngọc trúc trăng tà có thể xem là rất riêng, không trùng lặp với ca dao, bởi vì chúng ta không thấy những câu lục nào trong ca dao khởi đầu bằng từ này, chỉ thấy trong câu bát [11]:
Cái cò lặn lội bờ ao / Phất phơ đôi dải yếm đào gió bay.
Thân em như tấm lụa đào / Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
Đi đâu đường đất một mình / Phất phơ chéo áo giống hình phu quân.
Thân em như chẽn lúa đòng đòng / Phất phơ dưới ngọn nắng hồng buổi mai.
Cách dân gian chuyển “phất phơ” thành “gió đưa” là hợp với lô gíc thông thường, bởi vì chúng ta thấy tổ hợp “gió đưa” xuất hiện khá nhiều trong ca dao Việt Nam, phù hợp với “phất phơ” trong câu lục của Dương Khuê:
Gió đưa bụi chuối sau hè / Anh theo vợ bé bỏ bè con thơ.
Gió đưa con buồn ngủ lên bờ / Mùng ai có rộng… cho tôi ngủ nhờ một đêm.
Gió đưa gió đẩy lá dừa / Muốn ai thì muốn nhưng chừa em ra.
Gió đưa lau lách quanh bờ / Thương nhau chẳng đặng đừng chờ uổng công.
Trấn Vũ hay Trấn Võ
Ngoài bản ghi “tiếng chuông Trấn Vũ” người ta còn thấy bản ghi “tiếng chuông Trấn Võ”. Trên thực tế, trong chữ Hán – Nôm, 武 hay  武 tuy đọc theo âm Hán Việt là khác nhau nhưng viết đều giống nhau. Sở dĩ có sự khác biệt này là do người viết văn bản ca dao thuộc miền nào. Ghi theo cách đọc của người miền Bắc sẽ là , còn theo cách đọc của người miền Nam sẽ là . Như vậy, bản chính xác nên viết là Trấn , bởi vì đây là ca dao Hà Nội.
Thọ Xương hay Thọ Cương
Trong ca dao Huế có bản ghi là “Thọ Xương”, bản ghi là “Thọ Cương”. Hai cách ghi này không có gì sai, bởi vì đây là hai địa danh có thật ở Huế và cùng chỉ một khu vực. Sự khác biệt đơn giản chỉ là thời gian. Địa danh Thọ Xương xuất hiện trong thời vua Gia Long (1802 – 1820), đến năm 1824 (thời Minh Mạng) địa danh này được đổi thành Long Thọ Cương. Do vần của ca dao qui định nên người ta viết gọn là Thọ Cương, chứ không ghi là Long Thọ Cương. Tuy trong quyển “Văn học dân gian Bình Trị Thiên” (1987), khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm Huế ghi nhận là “Thọ Cương” (Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Cương), nhưng theo chúng tôi, viết “Thọ Xương” sẽ đầy đủ nghĩa hơn là “Thọ Cương”, vì không phải ai cũng biết Thọ Cương là chữ viết gọn của Long Thọ Cương, mặt khác, hiện nay địa danh này đã đổi thành Long Thọ.
Mịt mù hay mịt mùng
- Thơ Dương Khuê có hai dị bản, thể hiện qua câu: Mịt mù khói tỏa ngàn sương và Mịt mùng khói tỏa ngàn sươngVậy viết đúng thì phải là “mịt mù” hay “mịt mùng”? Chúng tôi cho rằng viết mịt mùng sẽ diễn đạt hay hơn và chính xác hơn. Bởi vì mịt mù(giống như mù mịt) có nghĩa là “bị bao phủ dày đặc không nhìn thấy gì”; còn mịt mùng có nghĩa là “không gian bao la, mờ ảo”. Nếu tả cảnh thì khói tỏa ngàn sương trong cái không gian bao la, mờ ảo sẽ hay hơn nhiều so với không gian bị bao phủ dày đặc, không nhìn thấy gì cả.
Đây cũng là chi tiết cho thấy Dương Khuê không chịu ảnh hưởng bởi ca dao, bởi vỉ chúng tôi chưa tìm thấy câu ca dao nào có từmịt mùng nằm ở đầu hoặc bất kỳ vị trí nào trong câu lục, còn mịt mù thì lại thấy xuất hiện mở đầu những câu lục:
Mịt mù gió thổi cát bay / Một lời giao ngãi, ngàn ngày nhớ thương.
Mịt mù khói tỏa màn sương / Không ai tin thấu tỏ tường dạ em.
Ngàn và làn
Thơ Dương Khuê có bản ghi là khói tỏa ngàn sương, nhưng bản khác lại viết là khói tỏa làn sương. Trước hết chúng ta phân tích chữ ngàn. Có ý kiến cho rằng “Ngàn tương đương với “bờ”, chứ không phải “rừng” hay “một ngàn” [12]. Chúng tôi không nghĩ vậy. Đầu tiên, cần xác định rằng ngàn ở đây là chữ Nôm, chứ không phải chữ Hán. Chúng tôi chưa tìm thấy tài liệu nào cho biết “ngàn tương đương với bờ”, mặt khác, hai chữ Nôm 坡 và 坡 có nghĩa là bờ trong bờ ruộng, chẳng liên quan gì tới ngàn cả. Vậy,ngàn ở đây có khả năng là rừng hoặc là số đếm được không? Chúng ta biết rằng, ngàn là số đếm, thí dụ như trong “một ngàn, muôn ngàn”, còn ngàn 岸 là “rừng”, như trong “núi ngàn” (núi rừng). Cả hai chữ này đều có thể kết hợp với chữ sương 霜 (霜 hay 岸霜) để thể hiện nghĩa bóng là “có nhiều sương” (frost).
Về chữ làn, nếu tả cảnh mà sử dụng từ làn sương e rằng mỏng manh quá, không phù hợp với “mịt mù” hay “mịt mùng”. Chúng tôi cho rằng chữ ngàn sẽ chính xác hơn. Ngoài ra, cần lưu ý đến chữ màn trong câu ca dao dưới đây:
Mịt mù khói tỏa màn sương Không ai tin thấu tỏ tường dạ em
Chữ màn 幔 cũng là chi tiết đáng chú ý để chúng ta đối chiếu, hiệu đính văn bản khi tìm thấy những bản Nôm khác về ca dao Hà Nội, Huế và thơ của Dương Khuê.
Dịp chày, tiếng chày hay nhịp chày
Bài “Hà thành tức cảnh” trong Dương gia phả ký (sđd) ghi là “Dịp chày” (Dịp chày An – Thái, mặt gương Tây – Hồ), bài “Hà Nội tức cảnh” trong quyển “Luận đề về Dương Khuê” (sđd) ghi là “Nhịp chày”, còn bài “Hà Nội tứ cảnh” trong tập Vân Trì thi thảo (sđd) lại ghi là “Tiếng chày”. Những dị văn này gây khó khăn trong quá trình hiệu đính thơ của Dương Khuê. Chúng ta thử đi tìm, phân tích xem chữ nào là chính xác nhất:
- Trong chữ Nôm, có những chữ được viết là “dịp” như , 堞, 擛, 蹀…; tất cả những chữ này đều xuất hiện trong cấu trúc “nhân dịp, dịp may”, không thể phù hợp với chữ “chày” có nghĩa là “cái chày”. Ngoài ra, “dịp” cũng không thể kết hợp với những chữ Nôm khác có nghĩa là “cái chày” hay “chày kình” (khúc gỗ hình cá voi để đánh chuông lớn), thí dụ chữ , hay 杵…. Như vậy, “dịp” là chữ viết sai, có thể do sự nhầm lẫn giữa phụ âm đầu d và nh của người ghi chép.
- Trong bài “Hà Nội tứ cảnh”, chữ “tiếng” xuất hiện trong câu thứ hai (tiếng chuông), nếu Dương Khuê sử dụng lặp lại chữ “tiếng” trong câu bốn (tiếng chày) thì hiệu quả nghệ thuật của bài thơ sẽ kém đi. Đây không phải là thủ pháp điệp từ để nâng cao giá trị nghệ thuật của Dương Khuê. Trong chữ Nôm, tiếng 㗂 có nghĩa là “tiếng kêu, tiếng nói”, từ này viết khác hẳn những chữ đọc lànhịp, thí dụ trong ăn nhịp, trong đánh nhịp, 喋 trong nhịp phách; vì thế khó có thể cho rằng người ghi chép nhìn chữ Nôm nhịprồi viết nhầm sang chữ Quốc ngữ là tiếng. Đây là dị văn cần chú ý để hiệu đính thơ Dương Khuê.
Nếu tính về xác suất, chữ dịp chỉ xuất hiện trong bài “Hà thành tức cảnh”, còn chữ tiếng chỉ có trong “Hà Nội tứ cảnh”, riêng chữ “nhịp” thì không những nằm trong “Hà Nội tức cảnh” mà còn trong các dị bản của ca dao Hà Nội. Nói cách khác, chữ nhịp xuất hiện trong nhiều văn bản, do đó rất có khả năng đó là chữ chính xác nhất.
An Thái hay Yên Thái
Trong “Văn đàn bảo giám” Trần Trung Viên (1926 – Tản Đà đề tựa, Trần Tuấn Khải hiệu đính), bản thơ Dương Khuê có địa danh là “An Thái”, trong khi đó bài “Hà Nội tứ cảnh” trong Vân Trì thi thảo (sđd) và nhiều tài liệu khác lại ghi là “Yên Thái”. Vậy địa danh nào là chính xác?
Chúng ta biết rằng trong Hán – Nôm, An 安 và Yên 安 viết giống nhau nhưng đọc theo âm Hán Việt thì khác nhau. Hiện tượng này cũng giống như  武 (Trấn Vũ) và  武 (Trấn Võ) trong những dị bản thơ của Dương Khuê. Đối với bài “Hà Nội tức cảnh” nên ghi là “Yên Thái”, bởi vì địa danh này xuất hiện trong rất nhiều sách: “Tìm hiểu văn hóa dân gian làng Yên Thái (Tây Hồ – Hà Nội)” của Lê Văn Kỳ (NXB Văn hóa Dân tộc, 2011), “Hà Nội những vấn đề ngôn ngữ văn hóa” của Hội Ngôn ngữ học Hà Nội (NXB Văn hóa Thông tin, 2001, tr.146), “Chân dung Thăng Long – Hà Nội” của Lý Khắc Cung (NXB Hà Nội, 2004, tr.14), “Hà Nội Thành phố nghìn năm” của Nguyễn Vinh Phúc (Hội hữu nghị Việt-Pháp TP Hà Nội, 2002, tr.71), “Hà Nội và Hà Nội” của Tô Hoài (NXB Hà Nội, 1996, tr.20)…
4. Kết luận:
- Về nguồn gốc những bài liên quan tới “canh gà Thọ Xương”, chúng tôi cho rằng ca dao Huế có trước, khởi thủy chỉ có hai câu:Gió đưa cành trúc la đà / Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương. Nhà thơ Dương Khuê đã mượn hai câu này để sáng tác bài “Hà Nội tức cảnh” (xem dẫn chứng ở đầu bài viết), sau đó “Hà Nội tức cảnh” được dân gian hóa để trở thành ca dao Hà Nội.
- Về dị văn và dị bản, chúng tôi đề nghị, cần hiệu đính bản nào được xem là chính xác nhất của thơ Dương Khuê và bản nào được xem là đặc sắc nhất trong ca dao Huế và Hà Nội liên quan tới “canh gà Thọ Xương” để thống nhất tài liệu; tránh trường hợp mỗi nơi in ấn và giải thích khác nhau, đặc biệt là trong sách giáo khoa và việc giảng dạy tại nhà trường.
Cuối cùng, hy vọng giới nghiên cứu sẽ tìm thấy những văn bản chữ Nôm khác về thơ và ca dao liên quan đến “canh gà Thọ Xương”, những văn bản thật sự thuyết phục để chấm dứt tình trạng tranh cãi về nguồn gốc, dị văn và dị bản như chúng tôi đã đề cập trong bài viết này.
V.T.H


Tài liệu tham khảo
1. Hà, Thu 2013., Sự thật về chữ “canh” trong “canh gà Thọ Xương” . Truy cập ngày 22 tháng 06 năm 2013, từhttp://www.anninhthudo.vn/Xa-hoi/Su-that-ve-chu-canh-trong-canh-ga-Tho-Xuong/470123.antd
2. Wikipedia 2013. Thọ Xương. Truy cập ngày 22 tháng 06 năm 2013, từhttp://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%8D_X%C6%B0%C6%A1ng
3. Wikipedia 2013. Hồ Tây. Truy cập ngày 22 tháng 06 năm 2013, từ http://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%93_T%C3%A2y
4. (hanoi.gov.vn) 2013. Lưu giữ những "mảnh hồn làng" của Hà Nội. Truy cập ngày 22 tháng 06 năm 2013, từhttp://hanoi.vietnamplus.vn/Home/Luu-giu-nhung-manh-hon-lang-cua-Ha-Noi/201212/9733.vnplus
5. Wikipedia 2013. Chùa Thiên Mụ. Truy cập ngày 22 tháng 06 năm 2013, từhttp://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a_Thi%C3%AAn_M%E1%BB%A5#T.C3.AAn_g.E1.BB.8Di
6. Việt, Hoàng Xuân 2006. Bạch thư chữ Quốc ngữ. Hội văn hóa Việt, San Jose, CA, tr. 374-375.
7. Quỳnh, Phạm 2009. Mười ngày ở Huế. Truy cập ngày 22 tháng 06 năm 2013, từhttp://phamquynh.wordpress.com/2009/02/19/tac-ph%E1%BA%A9m-m%C6%B0%E1%BB%9Di-ngay-%E1%BB%9F-hu%E1%BA%BF/
8. Thái, Nguyễn Văn 2010. Chùa Thiên Mụ hay chùa Trấn Vũ?. Truy cập ngày 23 tháng 06 năm 2013, từhttp://www.thegioinguoiviet.net/showthread.php?t=2533
9. Wikipedia 2013. Circadian rhythm. Truy cập ngày 23 tháng 06 năm 2013, từ http://en.wikipedia.org/wiki/Circadian_rhythm
10. Diện, Nguyễn Xuân 2012. Đã tìm thấy câu thơ "Canh gà Thọ Xương" trong Dương gia phả ký. Truy cập ngày 23 tháng 06 năm 2013, từ http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%8D_X%C6%B0%C6%A1ng
11. Hoài, Hà Phương 2013. Ca Dao Tục Ngữ Việt Nam. Truy cập ngày 22, 23 và 24 tháng 06 năm 2013, từ http://e-cadao.com/cadaodoor.htm
12. Ưu, Vô 2012. Sao vậy ca dao hóa thơ Dương Khuê?. Truy cập ngày 24 tháng 06 năm 2013, từ http://nhavantphcm.com.vn/doc-duong-van-hoc/sao-voi-ca-dao-hoa-tho-duong-khue.htm Vương Trung Hiếu
source : damau.org

12/7/13

Cúi nhưng không thấp






Người Nhật có thói quen gập hơn nửa người cúi chào khách.
 
Cái nghiêng mình quen thuộc khi người Nhật chào khách.

Ở đất nước mặt trời mọc, hình ảnh nghiêng gập người cúi chào thể hiện cả một nền văn hóa Nhật Bản: Cúi nhưng không hạ mình. Sự nhún nhường chỉ làm tăng thêm sự nể trọng của người đối diện.
Trên các chuyến bay của hãng hàng không Japan Airlines, nụ cười luôn nở trên môi các tiếp viên.  Họ sẵn sàng ngồi, chính xác là “quỳ xuống”, giúp khách sửa tư thế của đôi chân tê mỏi.  Họ niềm nở, vui vẻ tiếp nhận yêu cầu của hành khách khó tính nhất.  Không phải chất lượng máy bay khiến hành khách hài lòng mà chính cách phục vụ của tiếp viên khiến mọi người nghĩ tốt về người Nhật.  Chỉ vài phút khởi hành muộn, toàn bộ nhân viên phục vụ mặt đất và tiếp viên, phi công dàn thành hàng ngang, cúi rạp người xin lỗi khách.
Họ thật sự đã thành công khi để lại ấn tượng sâu sắc về một nước Nhật vô cùng hiếu khách và nghệ thuật giao tiếp tuyệt vời.

 Trung thực:
Ở Nhật, bạn khó có cơ hội bắt taxi để đi một cuốc đường dài. Vì sao?  Các tài xế sẽ tự chở bạn thẳng đến nhà ga tàu điện ngầm, kèm lời hướng dẫn “Hãy đi tàu điện ngầm cho rẻ”.
Sự trung thực của người Nhật in đậm nét ở những “mini shop không người bán” tại Osaka.
 
Hệ thống tự tính tiền tại siêu thị Nhật, người mua tự phục vụ, tự scan mã vạch, tự trả tiền.


Nhiều vùng ở Nhật không có nông dân.  Ban ngày họ vẫn đến công sở, ngoài giờ làm họ trồng trọt thêm.  Sau khi thu hoạch, họ đóng gói sản phẩm, dán giá và để thùng tiền bên cạnh cho người mua cứ theo giá niêm yết mà tự bỏ tiền vào thùng.  Cuối ngày, trên đường đi làm về, họ ghé đem thùng tiền về nhà.  Nhẹ nhàng và đơn giản.
Các con đường mua sắm, các đại siêu thị ở Hokkaido, Sapporo hay Osaka… cũng không nơi nào bạn phải gửi giỏ/túi xách.  Quầy thanh toán cũng không đặt ngay cổng ra vào.  Người Nhật tự hào khẳng định động từ “ăn cắp vặt” gần như đã biến mất trong từ điển.
Nếu bạn đến Nhật, toàn bộ các cửa hàng sẽ tự động trừ thuế, giảm 5 – 10% khi biết bạn là khách nước ngoài.

 No noise” – không ồn 
Nguyên tắc không gây tiếng ồn được áp dụng triệt để tại Nhật.  Tất cả đường cao tốc đều phải xây dựng hàng rào cách âm, để nhà dân không bị ảnh hưởng bởi xe lưu thông trên đường.  bỏ ra 18 tỷ USD xây hẳn một hòn đảo nhân tạo để làm phi trường rộng hơn 500ha ngay trên biển.  Lý do đơn giản chỉ vì “người dân không chịu nổi tiếng ồn khi máy bay lên xuống”.
 Tại các cửa hàng mua sắm, dù đang vào mùa quảng cáo, cũng không một cửa hàng nào được đặt máy phát ra tiếng.  Tuyệt đối không được bật nhạc làm ồn sang cửa hàng bên cạnh.  Muốn quảng cáo và thu hút thì cách duy nhất là thuê một nhân viên dùng loa tay, quảng cáo với từng khách.

Nhân bản:
  Vì sao trên những cánh đồng ở Nhật luôn còn một góc nguyên, không thu hoạch?  Không ai bảo ai, những nông dân Nhật không bao giờ gặt hái toàn bộ nông sản mà họ luôn “để phần”  5-10% sản lượng cho các loài chim, thú trong tự nhiên.

Bình đẳng:
Mọi đứa trẻ đều được dạy về sự bình đẳng.  Để không có tình trạng phân biệt giàu nghèo ngay từ nhỏ, mọi trẻ em đều được khuyến khích đi bộ đến trường.  Nếu nhà xa thì xe đưa đón của trường là chọn lựa duy nhất.  Các trường không chấp nhận cho phụ huynh đưa con đến lớp bằng xe hơi.
 Việc mặc đồng phục vest đen từ người quét đường đến tất cả nhân viên, công chức cho thấy một nước Nhật không khoảng cách.  Những ngày tuyết phủ trắng nước Nhật, từ trên cao nhìn xuống, những công dân Nhật như những chấm đen nhỏ di chuyển nhanh trên đường.  Tất cả họ là một nước Nhật chung ý chí, chung tinh thần lao động.
Văn hóa xếp hàng thấm đẫm vào nếp sinh hoạt hàng ngày của người Nhật.  Không có bất cứ sự ưu tiên nào.  Sẽ không có gì ngạc nhiên nếu một ngày bạn thấy người xếp hàng ngay sau lưng mình chính là Thủ tướng.
Ở Nhật, nội trợ là một nghề.  Hàng tháng chính phủ tự trích lương của chồng đóng thuế cho vợ.  Do đó, người phụ nữ ở nhà làm nội trợ nhưng vẫn được hưởng các chế độ y như một người đi làm.  Về già vẫn hưởng đầy đủ lương hưu.
Nội trợ là một nghề và vẫn được hưởng lương hưu
  
Độc đáo hơn nữa là nhiều công ty áp dụng chính sách, lương của chồng sẽ vào thẳng tài khoản của vợ.  Vai trò của người phụ nữ trong gia đình vì thế luôn được đề cao, tôn trọng.
Cúi nhưng không thấp: Ở đất nước mặt trời mọc, mọi người đều hiểu sâu sắc lý do khiến nước Nhật tan hoang sau chiến tranh thế giới thứ II, bật dậy mạnh mẽ trở thành cường quốc khiến cả thế giới phải nghiêng mình.

Source : GÓC NHÌN ALAN

Hương Máu

Nguyễn Văn Xuân

Hương Máu




Quả như lời viên đại tá, ông Hường có xuất hiện. Và hình như ông xuất hiện cốt để bị bắt chứ không thể để thực hiện một kế hoạch quân sự như viên đại tá hốt hoảng lầm tưởng. Ông tự để bị bắt trong một cái miếu giữa đường Hội An - Ðà Nẵng. Trường hợp của ông thuộc "quân quốc trọng sự" nên phải tống giao ngay cho viện Cơ Mật và Tòa Khâm xét xử. Lính tập Hội An lập tức tăng cường việc canh gác. Người ta tíu tít đóng cũi - một cái cũi khá lớn - để giải ông và người con trai bị bắt trước ông. Cậu này mới khoảng mười lăm, mười sáu . Cả tỉnh đều xôn xao, bàn tán về biến cố quan trọng mà họ không chờ đợi này vì họ vẫn còn nuôi khá nhiều ảo vọng về ông. Tối hôm giải ông ra Huế, ông cử Lê gọi tôi vào mật phòng và trầm ngâm khá lâu trước khi bảo tôi:

- Cậu chắc hiểu được cái cảm tình sâu xa của thầy đối với ông Phan, ông Nguyễn. Bấy giờ, ông Nguyễn bị bắt như thế, thật là mối thương tâm, tuyệt vọng chung cho cả quốc dân. Nhưng thầy không muốn để Triều đình tra tấn ông và không muốn con người cao qúi, anh hùng , cương trực nhường ấy, can đảm nhường ấy phải chết nhục dưới lưỡi gươm của tụi đao phủ hèn kém. Vậy, cậu hãy giúp thầy một việc...

Ông rút từ dưới gối một cái dùi nhọn, bén ngọt, dài chừng hơn một tấc, ở chuôi có cái cán bằng gỗ.

- Cậu hãy tùy nghi giao cái này cho ông để ông tự xử trên đường, khi cậu cùng đi ra Huế với ông.

- Con sẽ đi Huế ?

- Cả thầy, thầy cũng đi mang hồ sơ theo. Nhưng nếu thầy lại gần tù xa thì không tiện vậy chỉ có cậu là lui tới dễ dàng theo sự điều khiển của thầy. Cậu cứ đưa và rủi có chuyện gì, thầy đã có cách.

Tôi lặng lẽ cất cái dùi nhọn trong mình. Trên đường đi, tôi chờ cơ hội thuận tiện. Kể ra cơ hội thuận tiện thật nhiều vì mọi công việc cung cấp thức ăn, nước uống...đều do ông Lê định đoạt. Nhưng tôi vẫn chờ một buổi nào đó mà hành động của tôi không thể bị tiết lộ. Vào một bữa ăn tối, khi mấy người lính được ông Lê gọi lại để cho thuốc hút, tôi kẹp mũi dùi xuống dưới cái mâm gỗ đựng các thức ăn rồi mang lên cho ông Hường. Ông lơ đễnh đỡ cái mân, không nhìn tôi. Tôi đằng hắng cốt để cho ông chú ý rồi đỡ cái mâm lên, đặt mũi dùi chạm tay ông. Ông hiểu ý ngay, ngạc nhiên quay phắt sang nhìn tôi. Trái tim tôi đập thình thịch. Không hiểu vì tôi sợ quá, hãi hùng như chưa bao giờ, hay vì đó là lần đầu, sau ba năm trường ao ước mà không toại nguyện thì bất thần được sở nguyện: Ông nhìn tôi ! Ông nhìn tôi ! Nhưng chỉ một giây, hình như hiểu là không nên để lộ những tình cảm đáng nghi giữa hoàn cảnh này nên ông vội vàng nhận ngay mâm cơm, gật đầu ra vẽ cảm ơn, nhưng rõ ràng là để có cớ nhìn lại tôi . Trong cái nhìn sau này, tôi bắt chợt đôi mắt dịu dàng trái ngược với lối nhìn xẳng xớm, nảy lửa thường ngày. Và trong cái ánh sáng của mắt đó, tôi nghe như ông ngầm báo là hình như ông đã nhận ra tôi, hình như có biết tôi là ai, đã gặp ở đâu rồi và ông rất tin cẩn tôi. Ôi nói làm sao cho hết những xúc động, những xao xuyến rờn rợn trên ót, dưới lòng bàn chân và trên da thịt tôi. Ba năm tranh đấu cũa tôi đâu phải vô ích. Nếu không có ba năm nằm gai mếm mật đó, làm sao giờ phút lớn lao này của lịch sử, tôi được vị anh hùng đó nhìn thông cảm bằng cái nhìn sâu tự đáy lòng. Như thế, đâu có phải là cuộc sống sau này, về lâu về dài, tôi chẳng có cái gì để kể cho lũ con cháu nghe đâu ! Khi ông ăn xong, tôi đến mang cái mâm đi. Ông vờ cầm cây quạt lông lên phe phẩy, úp liền xuống chỗ cái mâm mới đỡ lên rồi đưa tay sữa soạn lại cái khăn đen "chữ nhân" cho nghiêm chỉnh. Tôi bước đi và có cái cảm tưởng cái nhìn đó đang lượn ở phía sau.

Trong đêm ấy, nghĩa là suốt đoạn cuối cuộc hành trình ấy, tôi và ông Lê cùng hồi hộp chờ đợi một vụ án mạng, một vụ tự sát thảm khốc nhưng hết sức oanh liệt. Tôi có cái nôn nao vừa hãi hùng, vừa tự hào của người tạo dựng lịch sử. Tôi chỉ chờ tiếng kêu tiếng thét để trở nên con người gắn liền với lịch sử. Nhưng lạ lùng và chẳng có việc gì xảy ra. Cuối cùng khi rời thuyền lên viện Cơ Mật, người ta bắt gặp cái dùi ấy từ cũi rớt ra ngoài...Người ta đoán là ông đã thủ cái dùi ấy từ trước, muốn dùng nó để tự sát như hầu hết các bậc phi thường trong tưởng tượng và bây giờ bị bại lộ, phải vứt ra ngoài. Lúc tôi mang chén nước lên cho ông lần cuối cùng, ông lại nhìn tôi và khẻ lắc đầu.

Sau này, tôi mới sực nhớ và hiểu tại sao không không tự sát. Quả tự sát là ngu muội hèn nhát, và phản bội. Ngày ở trên Tân Tỉnh, ông đã chuẩn bị cái chết này như một kế hoạch trọng đại vừa bảo toàn sinh mạng các đảng nhân, vừa biểu lộ ý chí cứu quốc công khai, chứ không phải là chọn cái chết hèn mọn, dễ dàng. Chính ông cử Lê sau này cũng thở dài hối hận đã tính một nước cờ trẻ con, đã đem cái chí mỏng cạn của kẻ phàm phu để so với tư tưởng cao cả của nhà lãnh tụ. Vì sau khi dự buổi xét xử tại viện Cơ Mật - buổi ấy tôi không được dự - Ông cử Lê đã nhận thức một cách đầy đủ về hành trạng của ông Hường. Ông Cử Lê cho biết ông Hường đã khẳng khái nhận hết cả những việc ông và tất cả kẻ khác đã làm. Ông cho rằng lấy tư cách là quan phụ đạo của vua, bậc thầy cũ của vua không thể bỏ vua mà không dẫn dắt, lấy tư cách một vị phó bảng, tức là nhà nho ông không thể không đặt chữ trung lên trên và quyết phải sống chết vì giáo điều ấy, lấy tư cách là quan địa phương, ông phải bảo vệ và phải chết với địa phương đã được vua ủy nhiệm . Như thế là ông thừa mệnh vua và bắt tất cả kẻ khác phải theo ông. Kẻ nào không theo, ông xử tử và đốt hết nhà cửa để răn chúng, thị chúng. Tất cả mọi người đều khiếp sợ mà theo, dầu không muốn theo cũng không được. Sau khi trình bày những lý lẽ chắc nịch ấy ông bằng lòng chịu chết vì trách cả trách nhiệm thuộc về ông và chỉ xin các quan là đừng theo dõi và hành hạ trả thù những kẻ khác vì họ chỉ bị động và họ đã quá đau khổ rồi.

Các quan lại ở triều đình nói cho đúng chỉ là bọn vô lý tưởng, chúa nào chúng thờ cũng được, thời nào chúng theo cũng xuôi. Chúng vốn ngầm sợ nhất là Nguyễn Hiệu. Nay bắt được Nguyễn Hiệu tức là phương Nam đã tạm bình định xong, chúng có thể yên tâm về mặt đó. Chặt đầu Nguyễn Hiệu, đó là một thắng lợi quyết định, và người ấy đã tự nhận hết tội lỗi thì cũng đủ lắm rồi. Hơi đâu mà bới bèo ra bọ, không chừng rồi dân chúng lại nổi lên lung tung thì càng thêm khốn. Thế là bản án xử trảm đã lập thành.

Buổi sáng đưa ông ra pháp trường, người ta đặt ông vào một cái cũi khác, lớn hơn cái cũ. Ông ngồi trên một tấm cót tre, bên cạnh có bày sẵn hộp trầu, thuốc và theo yêu cầu của ông, cả một tờ giấy bạch và cây bút lông thượng hạng. Người con trai ông đã được đưa vào đề lao để chờ phát vãng làm lính ở Quảng Ngãi.

Dân chúng nghe tin bắt được đại thủ lĩnh "phiến loạn" và đem hành quyết thì từ nguồn chí biển đều đổ xô về tới tấp. Họ dàn sẵn từ sáng sớm trên con đường tù nhân sẽ đi qua với tất cả nghêm trang của giờ lịch sử trọng đại. Họ chờ một con người như thế nào ? Hình như vóc dáng, kích thước và tư thế một bậc anh hùng phải khác. Vì ở đây, họ chỉ gặp một nhà nho tuấn tú, phương phi, trắng trẻo. Nhà nho đó không nhìn một ai, không một chú ý đến mọi động tĩnh chung quanh của đám dân chúng vốn quen ồn ào giờ bỗng trở nên im lặng, kính cẩn và nhiều kẻ khóe mắt rưng rưng...Ông đang lo nghĩ những vần thơ tuyệt bút và muôn vạn con mắt đều trố nhìn vào ngọn bút lông đứng sựng và thoăn thoắt chạy trên tờ giấy. Ðiều này khiến người ta phải nghĩ là ông lầm tưởng mình đang thảo hịch giữa buổi tinh sương chứ không phải làm thơ tuyệt mệnh trong khi đi đến pháp trường.

Tôi không cần tả lại dông dài cái giờ phút ông chấm dứt những bài thơ tuyệt bút để mỉm cười thọ hình. Nó cũng diễn ra theo cái truyền thống oanh oanh liệt liệt với nụ cười lặng lẽ của các chí sĩ Việt Nam. Cái chết không còn có tính cách bị chặt đầu một cách thảm hại mà cốt đạt cho được bốn chữ " trung dung tựu nghĩa" để gây một xúc động bất tuyệt trong lòng kẻ hậu sinh, cốt truyền tiếp một niềm tin tưởng không bao giờ dứt.

Lòng tin ấy quả không thể dứt được , nhất là khi tôi thấy nó trong đôi mắt ông Cử Lê hôm sau khi ở Viện Cơ Mật về và ông bí mật gọi tôi vào phòng riêng. Ông vừa ứa nước mắt vừa mừng rỡ bảo tôi :

- Quả là vận nước còn may lắm, cậu ạ. Thầy có được xem tận mắt hai bài thơ tuyệt mệnh thi của Nguyễn đại nhân. Chà ! cậu mà được thấy cái nét chữ vững vàng cứng cỏi như viết bằng mũi đinh, mũi thép đó, cậu mới hiểu. Chữ viết đẹp một cách ngang tàng mà không tỏ ra chỗ nào ẩn một nét rối loạn. Tiếc quá ! không biết làm sao cho cậu xem qua, liếc qua một chút thôi cũng được để cho cậu vững lòng tin vào vận nước còn tốt lắm ! tốt lắm ! Nhưng mất cái nọ cậu lại được bù cái kia. Ðây, thầy thuộc lòng hết cả hai bài thơ, cậu lấy giấy bút để thầy đọc cho cậu chép. Nhớ lấy cây bút thầy mới mua và đừng run tay nghe.

Tôi đã chép hai bài thơ và tôi xúc động nhất khi nghe đọc tới bốn câu chót của bài thứ hai và cũng là bài cuối cùng :


Hàn sơn kỷ đắc cô tùng cán
Ðại hạ yên năng nhất mộc chi
Hảo bả đan tâm triều liệt thánh
Trung thu minh nguyệt bạn ngô qui

(Núi lạnh, tùng côi xơ xác đứng
Nhà to, cột một khó ngăn ngừa
Về chầu liệt thánh lòng son đấy
Tháng tám trăng rằm sẵn nhịp đưa
Huỳnh Thúc Kháng dịch )


Tôi có cảm tưởng thấy cây tùng cao vút mọc trên những dãy núi lạnh tôi từng đi qua, từng chiêm ngưỡng bỗng đỗ nhào xuống.

Ðêm ấy , tôi ngủ chiêm bao thấy hàng trăm kỵ sĩ rong ruỗi khắp xóm làng tỉnh Quảng Nam mang theo những lá đại kỳ viết bằng chữ lớn, báo tin thủ lãnh phiến loạn dã chết.

Nhưng đột nhiên những kỹ sĩ rực rỡ sắc màu kia biến mất nhường chỗ cho những người gầy gò xanh xao. Họ chạy qua mặt tôi, lớn tiếng gọi tôi và vẫy tay. Tôi sững sốt chạy lại thì thấy toàn những bộ mặt quen mà tôi đã gặp suốt ba năm trời ở núi rừng. Nhưng khi họ trưng thẳng lá cờ, tôi không thấy hung tín mà chỉ thấy một chữ " Tiệp" rất lớn. Rồi tôi lại thấy đoàn kỵ sĩ áo quần sặc sỡ hiện ra và tất cả cùng đua nhau chạy về phía sương mù.

Nguyễn Văn Xuân

11/7/13

Một bài thơ tình sầu


Cuối cùng cho một tình yêu,
bình và dịch một bài thơ tình sầu


Hàn Thuỷ



Thơ tình yêu hay, ở nước nào cũng nhiều, và mỗi thời mỗi khác. Hãy cứ xin giới hạn trong thơ Việt Nam hiện đại, kể từ phong trào thơ mới, và trong tầm hiểu biết vừa chủ quan vừa hạn hẹp của tại hạ, người viết bài này. Đọc vài câu chắc nhiều người nhớ, để thấy cái khác của mỗi thời.
Áo trắng đơn sơ, mộng trắng trong,
Hôm xưa em đến, mắt như lòng.
Nở bừng ánh sáng. Em đi đến,
Gót ngọc dồn hương, bước tỏa hồng.
Huy Cận, Áo trắng
Yêu là chết ở trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu.
Xuân Diệu, Yêu
Thật ra thơ tình yêu của hai ông hoàng thơ mới này, không có gì sâu sắc. Họ nằm trong số những người có đóng góp rất lớn cho ngôn ngữ Việt, về cả cấu trúc câu văn xuôi lẫn bút pháp thơ, kế thừa ngôn ngữ thơ cổ điển của dân tộc và tiếp thu cái mới của thơ Pháp để hình thành một ngôn ngữ đẹp, từ đó biểu lộ được những tình cảm tinh tế... điều này nhiều học giả đã chỉ ra, ở một bài tản mạn này không dám nói nhiều. Nhưng trong tình yêu thì tinh tế chưa đủ, hình ảnh đẹp bóng bẩy cũng chưa đủ. Nhiều khi trong thơ tiền chiến người ta thấy tình yêu chỉ là cái cớ để nhà thơ... làm thơ, thí dụ như :
Chưa gặp em, tôi vẫn nghĩ rằng:
Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng,
Mắt xanh lả bóng dừa hoang dại,
Thăm thẳm nhìn tôi, không nói năng.
Đinh Hùng, Tự tình dưới hoa
Chẳng thà như Nguyễn Bính, rất chân thật :
Cầm tay anh khẽ nói:
-Khóc lóc mà làm chi?
Hôn nhau một lần cuối,
Em về đi, anh đi...
Nguyễn Bính, Hôn nhau lần cuối
Nói sao cho rõ đây ? có lẽ trừ vài bài ngoại lệ như Hai sắc hoa ti-gôn ; còn những bài thơ "tình cảm", hoặc "nói về tình yêu" của thời tiền chiến, rất hay, như Tiếng thu của Lưu Trọng Lư, Ngậm ngùi của Huy Cận, Ngập ngừng của Hồ Dzếnh, Vì sao của Xuân Diệu... với tại hạ, đó không phải là thơ tình yêu, vì trong đó tình yêu chỉ là cái cớ, đối tượng yêu chỉ là cái bóng. Trong nghĩa đó, văn chương của Trương Quỳnh Như và Phạm Thái là những tác phẩm tuyệt vời về tình yêu, từ hơn hai thế kỷ trước.
Tại hạ nghĩ là phải đến sau phong trào thơ mới, thơ tình yêu Việt Nam mới có nhiều bài hay. Hãy ghi nhận trong thời kháng chiến những bài thơ như Màu tím hoa sim... thời chiến, không có thì giờ tô điểm, lời thơ như lời kể chuyện, mà làm ta đau nhói :
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến chinh
Mấy người đi trở lại
(…)
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Hữu Loan, Màu tím hoa sim
Đến đây có lẽ không còn cần thú nhận nữa: một bài thơ tình hay, theo chủ quan của tại hạ, là một bài thơ về mối tình (có thể đơn phương, nhưng) liên quan đến hai con người, toát ra tình yêu chân thành, không lý luận, không lạm dụng những ẩn dụ, những hoa hoè bóng bảy... Thơ hay là những câu làm người ta tê tái như tím chiều hoang biền biệt, hay "hết hồn" luôn, như :
Lần đầu ta ghé môi hôn
Những con ve nhỏ hết hồn kêu vang
Trần Dạ Từ, Nụ hôn đầu

*


Ô hay ! tại hạ đang định tán về một bài thơ buồn mà. Vậy xin trở lại chủ đề, nhưng để bắt đầu mời bạn nghe Khánh Ly hát đã :


Bài hát này do Trịnh Công Sơn phổ thơ Trịnh Cung (1958), gần như giữ nguyên văn, trừ câu kết (và thêm cái coda tuyệt vời, nhưng điều ấy chỉ thuộc về bản nhạc), theo lời Đinh Cường:
...Sơn đã phổ nhạc bài thơ 4 chữ "Cuối Cùng Cho Một Tình Yêu" của Trịnh Cung,
và sửa câu cuối. "Lời ca anh nhỏ, nỗi buồn hôm nay" thành "nỗi lòng anh đây"...
Từ đây xin quên bản nhạc để chỉ nói về bài thơ dưới đây, với câu cuối đã được Trịnh Công Sơn sửa đổi, bởi công chúng đã biết như thế và chắc Trịnh Cung đã chấp nhận, vả lại, bạn bè đề nghị đổi một hai chữ là chuyện tự nhiên.

Ừ thôi em về
Chiều mưa giông tới
Bây giờ anh vui
Hai bàn tay đói
Bây giờ anh vui
Hai bàn chân mỏi

Thời gian nơi đây
Bây giờ anh vui
Một linh hồn rỗi
Tình yêu xứ này

Một lần yêu thương
Một đời bão nổi
Giã từ, giã từ
Chiều mưa giông tới
Em ơi em ơi

Sầu thôi xuống đầy
Làm sao em nhớ
Mưa ngoài sông bay
Lời ca anh nhỏ
Nỗi lòng anh đây





Ừ thôi em về, câu mở đầu là một lời từ biệt quá đỗi bình thường giữa hai người có tình cảm thân thiết với nhau ; câu hai cũng bình thường như thế, tại sao phải về ? đơn giản là vì trời sắp mưa giông, Chiều mưa giông tới chỉ khác ngôn ngữ nói chút xíu, cô đọng cho hợp với khổ thơ. Hai câu thơ giản dị, mà bài thơ độc đáo chính ở sự khởi đầu giản dị đó. Tuy vậy, độc đáo không chắc đã hay ! ở đây cái hay của nó chỉ ngấm dần khi người ta đọc toàn bài với những câu thơ kỳ lạ khác, rồi đọc lại lần nữa... bài thơ này không thể chỉ đọc một lần.
Tại sao ? bài thơ gần như dựa trên một thi pháp duy nhất, sự tỉnh lược (ellipse) ; thi pháp này có thể nói là phổ quát trong thi ca từ Đông sang Tây, từ cổ đến kim. Có hai mức độ tỉnh lược; ở mức thứ nhất nó cho phép bỏ bớt các từ đưa đẩy, miễn là ý đã rõ, đó là sự tỉnh lược văn phạm; ở mức thứ hai, sự tỉnh lược ý tưởng, thì ngay cả các ý tưởng liên hệ giữa các mệnh đề cũng có thể không cần viết ra, khi văn cảnh cho phép hiểu ngầm. Mà văn cảnh là cái không khí toát ra từ toàn bài, cho nên một bài thơ như bài thơ này, dùng cả hai loại tỉnh lược ở mức rất cao, thì không thể đọc nó một cách tuyến tính.
Loại thơ như thế đưa cảm nhận chủ quan của người thưởng thức ngày càng sâu hơn, một khi đồng cảm với tác giả. Bạn đã nghe bài thơ một lần rồi, qua một người phổ nhạc bạn thân của thi sĩ, và qua một giọng ca truyền cảm tinh tế, vậy xin trở lại từ chỗ bắt đầu bài thơ, khung cảnh thời gian và không gian của nó.
Bên bờ sông Hương xứ Huế, cuối những năm 50, người con gái và người con trai ngồi bên nhau. Họ vẫn yêu nhau nhưng phải nói với nhau lời chia tay lần cuối, trời sắp mưa giông và đã đến lúc người con gái phải về nhà.
Thời tiền chiến, sự giao thoa văn hoá Việt Pháp đã thúc đẩy một phần nào trong thanh niên tinh thần tự do luyến ái theo văn minh tây phương. Đã cho con gái đi học đến tú tài hay đại học, thì cấm cửa là không thể. Tuy vậy, từ truyền thống văn hoá, gia đình, xã hội, đến bản thân người thanh niên, đều chỉ chấp nhận một mức độ tự do có giới hạn; có thể gặp, có thể yêu ngoài môn đăng hộ đối (và nếu gia đình biết chuyện thì cuộc sống của người con gái không hề dễ dàng), nhưng thường dừng ở mức thuần khiết (platonique) trước khi người con gái đi lấy chồng. Khi ấy nảy ra bi kịch phải từ tạ nhau tuy vẫn yêu nhau. Không đổ vỡ, không giận dữ, không hy sinh cao cả như khi người con trai ra trận... nhưng vẫn phải chấp nhận tình yêu tan đắm. Dĩ nhiên đây chỉ là nói chung, không mối tình cụ thể nào không có những nét riêng.
Tới thời điểm của bài thơ, có lẽ tình cảnh "tiền chiến" nói trên chỉ còn xẩy ra trong xứ Huế. Miền Nam là vùng khẩn hoang, từ lâu đã thoáng hơn nhiều ; và Hà Nội sau 54 đã nằm trong một không khí khác hẳn rồi.
Khung cảnh xã hội và tâm thức ấy soi sáng bài thơ, và giải thích tại sao sự tỉnh lược của tác giả lại tự nhiên không giả tạo. Không có nó bài thơ trở nên rất khó hiểu, tình cảm của người trong cuộc dễ bị hiểu sai, hoặc bài thơ bị tưởng rằng gồm những lời siêu thực, hiểu sao cũng được.
Đó là lời của người con trai sau khi người yêu nói lời từ tạ cuối, trong lòng rất đau, chỉ thốt ra được những cảm tình mãnh liệt nhất, những điều khác đã chìm sâu để chi phối lời thơ một cách vô thức.
Tại hạ không dám đi sâu vào nhạc điệu của bài thơ vì sợ không tách ra khỏi nhạc của Trịnh Công Sơn được ; nhưng quả tình, như anh Đặng Tiến cho biết, có nhiều điều đáng nói. Đại đa số các câu trong bài thơ có toàn chữ với âm bằng, trừ chữ vần thì lại trắc (thí dụ 8 câu đầu), và dùng toàn vần thông (âm không giống nhau hoàn toàn : tới/đói/mỏi/rỗi/nổi...) ; như một cái gì nhói lên rồi lại nhói lên, nhói lên nữa, trên cái nền trầm buồn của tâm tình. Thơ hay vì thế, rất cô đọng mà truyền cảm, vì nội dung cùng nhạc điệu đều toát ra tâm trạng, và khi cảm thông được với tâm trạng tác giả, ta không còn thấy đâu là sự tỉnh lược nữa.
Ừ, thôi em về (để ý dấu phảy ngầm trong diễn tả của Khánh Ly), '   ' bây giờ là sự chấp nhận trong đau đớn, ' thôi ' hằn lên ý nghĩa của sự gián đoạn thời gian, và ' thôi ' còn là tự ý buông rời. Quá khứ có nhau, tương lai thôi không có nhau. Và câu tiếp theo, chiều mưa giông tới, không đơn giản chỉ là một lý do thời tiết, nó còn là một ẩn dụ.
Đau như vậy, mà sao nói bây giờ anh vui ? Đó chỉ là lời nói dối để xoa dịu người yêu. Người yêu, sau khi nói ra quyết định phải chia tay, sợ người con trai quá buồn. Vì vậy phải trả lời như thế ; trả lời như thế, nhưng lại nói tiếp theo (riêng cho mình ?) hai bàn tay đói. ' Đói ' là sao ? là từ đây đôi tay anh vẫn rất thèm, nhưng không còn được cầm tay em hay ôm vai em nữa – lúc đầu tại hạ dịch là mes mains avides, cám ơn Đỗ Tuyết Khanh đã tặng cho chữ orphelines, quá hay. Lại tiếp tục phủ nhận bây giờ anh vui, và lại tiếp tục phủ nhận cái phủ nhận ấy : hai bàn chân mỏi ; đúng thế, khi tâm tình rung động mãnh liệt thì người ta tự nhiên có cảm tưởng mệt mỏi rã rời. Phủ nhận của phủ nhận, trong tiếng Pháp có chữ ' si ' đầu câu, rất thích hợp.
Ở đoạn hai tác giả mới thực sự tìm cách tự an ủi mình. Vì sống ở đây và lúc này nên không sao, dù tan nát nhưng linh hồn sẽ được cứu rỗi bởi tình yêu xứ Huế hay/và tình yêu của xứ Huế !
Tự an ủi được như thế nên trong đoạn ba, mặc dù bi thiết, tác giả đã có bước lùi xa hơn để nhìn nhận chung về cuộc tình và nói ra được lời từ giã. Một lần yêu thương / một đời bão nổi, tám chữ, mô tả một tình yêu đầy giông tố, không đổ vỡ mà không thành, của thanh niên nam nữ một nơi, một thời.
Câu đầu của đoạn cuối Sầu thôi xuống đầy... thật là... thần sầu. Chỉ cảm được mà khó lòng diễn tả, đừng nói đến dịch được cho hết ý ; không đơn giản là một ghi nhận khẳng định ! nó gợi nhớ câu thơ Kiều, Sầu đong càng lắc càng đầy, chữ ' thôi ' này vừa van xin vừa kháng cự : "Hỡi nỗi sầu, hãy thôi rơi xuống như mưa rơi ngoài kia, để thôi lấp đầy tâm hồn ta, tâm hồn người yêu, và thôi lấp đầy không gian". Để người yêu vừa chia tay sẽ nhớ tâm tình của ta, ở đây, hôm nay, với cơn mưa này. Để tâm tình nàng thấm sâu một lời ca nhỏ.
Nhạc điệu cuối cùng chuyển thoát khỏi các đoạn trước, nó trở nên miên man nhờ ở ba vần bằng đầy/bay/đây lặng lẽ trồi lên khoả lấp cái nhói đau của hai vần trắc nhớ/nhỏ. Không biết bạn có để ý ? đây cũng là vần của đoạn thơ về linh hồn được cứu rỗi.
Sẽ không còn gặp nhau ngoài đời, nhưng vẫn miên man hy vọng gặp nhau trong tâm tưởng.
Thơ hay tự nó không có tính phi thời gian ; nó trở thành phi thời gian, chính vì nó là một tuyệt cú đại diện cho một khoảng thời-không nhất định, trước không có, sau cũng không.

*


Dưới đây là bản dịch tiếng Pháp, hy vọng qua đó nói rõ được hơn với bạn đọc quen tiếng Pháp cảm nhận của người dịch về bài thơ, tuy rằng làm việc này đúng là hơi liều. Tại hạ đã cố sử dụng phong cách tỉnh lược của tác giả, nhưng tiếng Pháp dù sao cũng cần tuân theo logic chặt chẽ của nó ; cho nên vẫn bớt mông lung.
Xin cám ơn anh Đặng Tiến, các bạn Mai Ninh và Phan Huy Đường, đã góp ý ; và nhất là cám ơn Đỗ Tuyết Khanh, đã nhiều lần chỉnh lý tiếng Pháp, cả về từ ngữ, văn phạm và phong cách của mấy phiên bản khác nhau mà người dịch đề nghị.




Cuối cùng
cho một tình yêu



Ừ thôi em về
Chiều mưa giông tới
Bây giờ anh vui
Hai bàn tay đói
Bây giờ anh vui
Hai bàn chân mỏi

Thời gian nơi đây
Bây giờ anh vui
Một linh hồn rỗi
Tình yêu xứ này

Một lần yêu thương
Một đời bão nổi
Giã từ, giã từ
Chiều mưa giông tới
Em ơi em ơi

Sầu thôi xuống đầy
Làm sao em nhớ
Mưa ngoài sông bay
Lời ca anh nhỏ
Nỗi lòng anh đây

Thơ Trịnh Cung


Source : www.diendan.org


Dernières paroles
pour un amour



Oui, il est temps que tu rentres
Ce soir l'orage menace
Si, je suis bien
Mes mains orphelines
Si, je suis bien
Mes pieds las

Vivre en ce lieu et ce temps
Je suis bien maintenant
Mon âme est sauvée
L'affection de cette terre

Une fois un amour
Une vie de tempêtes
Adieu, je te dis adieu
Ce soir l'orage menace
Mon aimée, adieu

Qu'importe ma tristesse
Si tu ne les as pas oubliés
Cette pluie sur la rivière
Ce cœur qui crie tout bas
Ma chanson que voilà

Bản dịch Hàn Thuỷ

10/7/13

VÔ THƯỜNG


VÔ THƯỜNG   
                                                   Trần Hồ Dũng 




Có phải em vầng trăng buồn cổ độ

Để truông ngàn ta đợi mãi thiên thu

Gió hiu hắt mang theo lời mộ địa

Đỉnh non cao còn nhớ mãi suối nguồn

Mầm ly biệt nằm trong ngày hội ngộ

Biển sầu dâng khi ghé nụ hôn đầu

Lá vàng úa khi mùa xuân vừa hết

Ngày vụt tàn khi giọt nắng phai mau

Hoa và bướm , tình yêu và ánh sáng

Cùng tan vào trong ảo ảnh hư không

Thắp một nén hương trầm đêm mộng ảo

Thuở yêu em là biết lẽ vô thường


Rồi em cũng bay xa như hạc trắng

Mây buồn trôi nhớ mãi cánh chim trời


Dòng sông mãi ra đi tìm biển rộng

Để cuối trời ta lạc bước miên du


tranhodung.saigon.1986











8/7/13

cõi tôi




cõi tôi

                                                           trần hồ dũng



Tôi về tìm lại  tôi xưa

Tìm tôi  nơi  chốn  em vùa lãng quên

Nghe trong chiều rớt  bên thềm

Chút hương ngày cũ phơi miền tóc sương

người một phương ,ta một phương

Tìm nhau chỉ thấy một đường : thiên thu

mai sau trong chốn sa mù

Hương xưa còn đọng cánh phù vân trôi ?

gọi nhau , tiếng gọi bồi hồi

Tôi ,  trăng  khuya quạnh    ; em , bờ bến xa

tôi về , lạnh  cõi người ta