Tham luận tại Tọa đàm Khoa học về Bùi Giáng (TĐH KHXH&NV, TP. HCM, ngày 14-9-2013)
Trong Bùi Giáng,
sơ thảo tiểu truyện (i),
nhà phê bình văn học Đặng Tiến nhận định có tính
tổng kết về văn nghiệp Bùi Giáng như sau : “ Trên
cơ bản, Bùi Giáng là nhà thơ ”.
Thế nào là “ trên cơ bản ” ? Tôi không
muốn hiểu câu nhận định trên đây theo nghĩa thông
thường của sự phân loại, đánh giá về văn nghiệp của
một tác giả : Bùi Giáng trước hết và trên hết,
hay, tựu trung, là một nhà thơ, nói khác đi, phần có
chân giá trị là sự nghiệp thi ca của ông, còn các phần
còn lại là thứ yếu, không “ cơ bản ”. Thật
ra, trong khối lượng đồ sộ và đa tạp của Bùi Giáng
“ văn xuôi ”, dù khó tính đến mấy, ta vẫn
có thể chắt lọc ra không ít những trang tuyệt bút từ
các Giảng luận văn học
(Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan đến Phan Văn Trị / Tôn
Thọ Tường và Tản Đà), các tùy bút văn chương, các
nghị luận triết học, đó là chưa kể một số bản
dịch thành công khá đặc biệt. Trong chừng mực nào đó,
chúng có giá trị tự tại, độc lập với việc có hoặc
không có “ Bùi Giáng nhà thơ ”. Vì thế, tôi
muốn thử hiểu nhận định trên đây theo một cách
khác : dù là văn xuôi hay thơ, Bùi Giáng vẫn “ trên
cơ bản, là nhà thơ ”, theo nghĩa : Bùi Giáng có
ý thức sử dụng ngôn ngữ theo nghĩa rộng như là “ ngôn
ngữ thi ca ”. Chính điều này tạo nên nét riêng
biệt, độc sáng của thi văn Bùi Giáng, và đồng thời
mời gọi ta hãy đến với Bùi Giáng theo cách hiểu ấy.
Như ai cũng dễ nhận ra, và như chính Bùi
Giáng đã thừa nhận, bút pháp và thơ của Bùi Giáng
thoạt đầu xuất phát từ cội nguồn Thơ Mới. Nhưng, do
một sự tương ứng sâu thẳm nào đó và cũng là một cơ
duyên, việc Bùi Giáng tiếp cận và tiếp thu tư tưởng,
nhất là triết học về nghệ thuật, của Heidegger, theo
chúng tôi, là một trường hợp khá hy hữu : nó thanh
tân, trọn vẹn và chung thủy đến lạ thường. Sự gặp
gỡ này còn có sự hiện diện của một nhân vật thứ
ba có ý nghĩa quyết định : thi sĩ Đức Friedrich
Hölderlin. Heidegger là triết gia, Hölderlin là thi sĩ, sống
cách nhau ngót hơn một thế kỷ, nhưng thật lạ lùng khi
Heidegger từng nhiều lần nhấn mạnh rằng ông không còn
có thể phân biệt mình với Hölderlin được nữa (ii) !
Tự nhận mình đồng nhất với một người khác, nhưng
không ai nghĩ rằng Heidegger tự “ đánh mất mình ”
trong mối quan hệ lạ thường ấy. Ta cũng có thể nói
hệt như thế về mối quan hệ tay ba : Heidegger –
Hölderlin – Bùi Giáng ! Trong bài tham luận ngắn này,
chúng tôi muốn lưu ý đến mối quan hệ lạ thường này
như một nỗ lực góp phần soi sáng quan niệm sống, sáng
tác và suy tưởng của Bùi Giáng.
1. Triết gia – thi sĩ :
Quyển Giảng
giải về Thơ Hölderlin của
Heidegger (iii)
(tập 4 trong Toàn tập) chỉ ngót 200 trang, nhưng đã được
Bùi Giáng dịch và diễn giải hơn 1000 trang, chia làm hai
tập : Lời Cố quận
và Lễ Hội Tháng Ba.
Có thể nói đây là công trình văn xuôi quan trọng nhất
và cũng phức tạp, sâu sắc nhất của Bùi Giáng. Theo một
cách nói quen thuộc, chính ở đây, Bùi Giáng đã đi từ
“ tự phát ” đến “ tự giác ”
trong quan niệm sống và sáng tác văn chương.
Hölderlin (1770-1843) là một trong những thi
sĩ nổi tiếng nhất của nước Đức, bạn đồng học và
có ảnh hưởng sâu đậm đến hai khuôn mặt lớn của
triết học Đức : Schelling và Hegel. Đáng chú ý :
Hölderlin cũng có định mệnh tương tự Bùi Giáng :
hơn 30 năm cuối đời sống trong trạng thái “ điên
tam đảo tứ ” ! Ta biết rằng Heidegger có những
bài giảng đầu tiên về Hölderlin vào những năm 1934-35
(ngay trước khi soạn luận văn nổi tiếng : Nguồn
gốc của tác phẩm nghệ thuật (iv)).
Ông tiếp tục bàn về Hölderlin cho tới 1946, được tập
hợp lại thành sáu luận văn trong tác phẩm vừa kể. Bùi
Giáng nhận định : “ Mười năm sau Sein
und Zeit [Tồn
tại và Thời gian, 1927, tác phẩm
chính của Heidegger], Hölderlin xuất hiện trên hầu hết
những cuốn sách của Heidegger mỗi phen tư tưởng của
Heidegger bước tới điểm quyết định ”. “ Riêng
cuốn sách Giảng giải về thơ
Hölderlin này mang một ý nghĩa
trầm trọng và sâu xa như thế nào trên con đường tư
tưởng của Heidegger, thành tựu một cái gì cho Tư tưởng
Tây phương, chuẩn bị cho một cuộc hội thoại lặng lẽ
mênh mông nào khác, những người theo dõi Heidegger ắt đã
từng nhận thấy ”. “ Người nào đã đọc kỹ
từ lâu cuốn sách dị thường ấy của ông Heidegger, ắt
đã rõ nguyên do lối sắp đặt thứ tự các bài giảng…
Và cũng không ngạc nhiên gì nhiều trước lối dịch và
giảng dường như kỳ dị của dịch giả ”. Bùi
Giáng viết tiếp : “ Nhan đề ấy nói gì ?
Có thể hiểu cưỡng bức theo hai cách :
1. Cuộc tiếp cận (của chúng ta với) Hölderlin
2. Cuộc tiếp cận của Hölderlin
Theo nghĩa thứ hai là thế nào ?
Hölderlin tiếp cận cái gì ? Ấy là : tiếp cận
Uyên Nguyên, đi về cận lập với Uyên Nguyên. Sao gọi là
Uyên Nguyên ? Theo nghĩa thứ nhất : chúng ta tiếp
cận ? Đi về tiếp cận ? Nhưng Hölderlin không
phải là một cá nhân. Nguồn thơ thi dựng của ông là
một nguồn Thi nhiên hi hữu. Hölderlin là Nguồn Thơ ấy.
Vậy thì tiếp cận Hölderlin là tiếp cận nguồn thơ ấy.
Nhưng tại sao tiếp cận mà không tắm mình vào ? Vì
đó là Uyên Nguyên và trong khi chúng ta dò dẫm trên bước
tiến lại gần, thì Uyên Nguyên cũng đi về với chúng ta
trong thể lệ riêng biệt : gần gũi mà xa
xôi ” (v)…
Đàng sau cách diễn đạt bay bổng nhưng
khá tối tăm ấy là diễn trình tư tưởng của Heidegger
được Bùi Giáng theo dõi sát sao và thể nhập trọn vẹn.
Có thể chia sự “ tiếp cận ” của Heidegger
với thơ Hölderlin làm hai thời kỳ : thời kỳ sớm
từ 1934 đến 1939 và thời kỳ muộn là 1939-1946, với sự
khác biệt quan trọng.
Thời kỳ sớm nổi bật với hai luận
văn : “Hölderlin và bản chất
của thi ca” (Bùi Giáng dịch và
giảng trong Lời Cố quận,
An Tiêm, 1972, tr. 146-242) và “Siêu
hình học nhập môn” (được
Bùi Giáng dịch và giảng một phần trong Trăng
Châu Thổ (Quế
Sơn, Võ Tánh, 1969, tr. 207-308).
Ở thời kỳ này, Heidegger xem Hölderlin
là một thi sĩ quan trọng, nhưng
không quan trọng với tư cách
thi sĩ, mà như là triết gia - thi sĩ, nói khác đi,
tuy Hölderlin làm thơ, nhưng nội dung của nó không phân
biệt với triết gia. Thật ra, những đại thi hào Tây
phương như Homer, Sophockles, Virgil, Dante, Shakespeare và
Goethe thực hiện bản chất của thi ca còn phong phú hơn
cả Hölderlin, nhưng tại sao Heidegger lại tập trung vào
Hölderlin ? Lý do là vì, theo ông, Hölderlin là nhà thơ
làm thơ về
thi ca. Ông gọi Hölderlin là “ thi sĩ của những thi
sĩ ” (vi)
không theo nghĩa tôn vinh về đẳng cấp mà chỉ vì
Hölderlin là nhà thơ của bản thân thi ca. Hölderlin đã
viết những câu thơ về bản thân thi ca như thế nào,
trong chừng mực là một thứ “ siêu-thica ”
mang đầy đủ tư cách của một nhà tư tưởng ? Xin
điểm lại ngắn gọn năm điểm :
- Hai điểm đầu tiên có vẻ mâu thuẫn
với nhau. Hölderlin gọi thi ca là công việc “ hồn
nhiên thơ dại nhất ” (vii),
nhưng đồng thời cũng là công việc “ nguy
hiểm nhất ” (viii).
Vì lẽ thi ca nảy sinh trong ngôn ngữ, nên câu hỏi có thể
đặt lại là : ai làm chủ ngôn ngữ và ngôn ngữ
hiểm nguy theo nghĩa nào ? Theo Heidegger, ngôn ngữ là
cái gì quá “ thân thiết ” với con người, nó
có thể “ thôi miên ” ta ở vẻ ngoài khiến ta
dễ bỏ qua căn cơ, nền tảng. Sự hàm hồ của ngôn ngữ
làm cho cái không bản chất trở thành bản chất, đồng
thời biến bản chất thành cái gì nông nổi, bì phu. Đối
diện với hiểm nguy ấy, Hölderlin đã trả giá bằng sự
điên loạn của mình, một sự cố không thể điều trị
hay cứu chữa bằng y học. “ Điên loạn là số phận
của Hölderlin ”, vì “ những hoa trái đầu mùa
bao giờ cũng thuộc về phần của thần linh ” và
Hölderlin là “ hoa trái bi kịch nhất trong lịch sử
nước Đức ”. Phải chăng ta cũng có thể nói như
thế về Bùi Giáng ?
- Điểm thứ ba : con người chỉ hiện
hữu trong ngôn ngữ, và ngôn ngữ bao giờ cũng hiện hữu
trong đối thoại, trong “ nói ” và
“ nghe ”.
Đó là đặc trưng của con người, bởi chỉ con người
mới mang thời tính,
tức tìm thấy chính mình ngay trong lòng sự vật khi chúng
được từng bước khai mở bằng một cách nào đó. Ngôn
ngữ là nơi ta thể nghiệm : hoặc có thể đi sâu vào
được vùng ẩn mật, khép kín của thực tại khôn dò,
hoặc chỉ phải dừng lại ở bề mặt của sự hiện
diện thô sơ.
- Điểm thứ tư là từ chính lời thơ
của Hölderlin : “ những
gì bền vững là do thi sĩ thiết lập nên ” (ix).
Những gì tưởng như vững bền, thường trụ trong thế
gian đều cần được “ thiết lập nên, nếu không,
chúng sẽ bị chìm lấp, lẫn lộn trong mớ hỗn mang ”.
Để sự vật hiển hiện ra cho ta, ta phải đứng vào vùng
ánh sáng thích hợp. Như thế, con người không chỉ thụ
động ngồi nhìn sự vật chung quanh, rồi gọi tên chúng.
Ngược lại, chính thi sĩ đặt
tên cho chúng, và chỉ có việc
đặt tên
này mới thiết lập nên sự vật. Sự vật và bản thân
Tồn tại không bao giờ phơi bày mà phải được sáng tạo
và thiết lập. Thi sĩ có vai trò trung tâm trong sự hiện
hữu của con người (x).
- Và sau cùng, điểm thứ 5, lại từ
một
câu thơ khác của Hölderlin : “ con
người sống trên đời như một thi sĩ ” (xi).
Sống như một thi sĩ là sống giữa lòng những gì thiêng
liêng, vừa ẩn giấu, vừa vẫy gọi, mang ta đến
gần bản chất của sự vật. Sự
hiện hữu được thi sĩ tạo dựng và thiết lập là một
quà tặng được ban cho ta, bên ngoài quyền năng của cá
nhân mỗi người. Cũng thế, thi ca không chỉ là một trò
chơi với những từ ngữ và ngữ pháp đã có sẵn, trái
lại, cấu tạo nên bản chất của ngôn ngữ, qua đó, cấu
tạo nên cả mối quan hệ của một dân tộc với vận
mệnh lịch sử của mình. Thi sĩ không tái tạo cái khả
kiến, trái lại, làm cho nó trở
nên khả kiến. Đó cũng là ý
của Hölderlin khi nói về Oedipus, nhân vật thần thoại đã
tự móc mắt mình : “ Có lẽ đức vua Oedipus có
thừa một con mắt ! ”. Như Heidegger nhận
xét :
có lẽ Hölderlin cũng có thừa một con mắt ! Hölderlin
là thi sĩ của thời đại khốn
khó, khi thế giới cũ không còn
mà thế giới mới chưa đến. Sự điên loạn của nhà
thơ là kết quả của sự canh giữ cô đơn, của việc
sáng tạo nên những sự thật mới mẻ, dù không mấy ai
hay biết. Như thế, trong thời kỳ này, Heidegger đánh giá
cao chất lượng tư tưởng trong thơ Hölderlin : thi sĩ
thiết lập nên những nhu cầu thiết yếu và nghiêm trọng,
với “ sứ mệnh ” khôi phục lại những gì đã
suy tàn, gãy đổ của một thời vàng son quá khứ (như
nền “ nghệ thuật lớn ” của “ hệ hình
Hy Lạp ”) (xii).
Heidegger viết những lời mạnh
mẽ :
“ Công việc của chúng ta là mang lại quyền lực
cho Hölderlin ”. Nói cách khác, ở đây, thi sĩ và
triết gia không còn phân biệt về sứ mệnh ; họ chỉ
khác nhau ở tính cách và phương tiện : một bên dùng
lối ẩn dụ, ít nhiều tối tăm, một bên sử dụng khái
niệm minh nhiên, sáng sủa. Hölderlin là quan trọng, nhưng
chưa phải với tư cách là nghệ sĩ mà như là triết
gia : “ đứng trên đỉnh núi cao của thời đại,
thấu hiểu quá khứ và dự phóng tương lai ”. Ta dễ
dàng liên tưởng đến thời kỳ đầu của Bùi Giáng Mưa
Nguồn, của Bùi Giáng,
Heidegger và tư tưởng hiện
đại…
“ Đời xiêu đổ nguồn xưa anh
trở lại
Giữa hư vô em giữ nhé ngần này…”
Giữa hư vô em giữ nhé ngần này…”
Sau một Nietzsche bơ vơ, “ mất
quê hương ”, Heidegger muốn nhìn thấy nơi Hölderlin
hình ảnh và lời kêu gọi của kẻ “ quy hồi cố
quận ”, tìm lại được quê hương đã mất.
2. Thi sĩ – triết gia
Vào thời kỳ muộn, qua việc giảng giải
các tụng ca Như trong ngày Lễ hội
và Hồi tưởng
(Bùi Giáng : Lễ Hội Tháng
Ba, NXB Văn hóa Sài Gòn 2008),
Heidegger cho thấy một bước nhận thức sâu hơn về
Hölderlin chung quanh bản chất và trách vụ của thi ca. Lần
đầu tiên, Hölderlin đích thực xuất hiện “ trên
cơ bản là nhà thơ ”
(wesentlich als ein Dichter/essentially
as a poet) vì Heidegger thừa nhận
rằng ông đã được Hölderlin “ dạy dỗ ” về
bản chất của thi ca theo ngôn ngữ của cái BỐN (Trời,
Đất, Con người và Thần linh).
- Tụng ca Như
trong ngày Lễ hội (1800) (xiii)
là mới mẻ, phong phú khi mô tả sự
nghèo nàn tinh thần của thời
đại mà Hölderlin gọi là sự
thiếu vắng lễ hội. Trong Hồi
tưởng (xiv),
ta lắng nghe những nhớ tưởng của thi sĩ về “ những
giấc mộng vàng ” (Bùi Giáng : “ Giấc
vàng long lanh ”) trong những
“ lễ hội ” đã qua. Lễ hội là gì? Là ra
khỏi nhịp điệu nhàm chán thường ngày. Là ra khỏi vòng
kìm tỏa của sự “ hữu ích ”, “ hữu
dụng ” để sống đích thực là chính mình. Trong
thời đại của khoa học - kỹ thuật - công nghệ, con
người bị “ đóng khung ” (Gestell), khiến cho
sự “ ưu tư ” (Sorge/Care) khó trở thành sự ưu
tư đích thực. Thời hiện đại không thể có “ lễ
hội ”, vì ta không còn từ ngữ, không còn ngôn ngữ
để làm việc ấy nữa (Bùi Giáng : “ Tôi
bước qua từ ngữ rụng hai lần ”).
Đó là cảm thức sâu sắc rằng bản chất cao nhất của
thi ca, của người “ thi sĩ tương lai ” như nói
trước đây không thể đạt tới được nữa :
“ Đạp thanh hội cũ hào hoa
Giấc vàng buổi Tảo Mộ đà cáo chung ”
Giấc vàng buổi Tảo Mộ đà cáo chung ”
Bùi
Giáng
- Vậy phải làm gì khi “ hệ hình
Hy Lạp ” của nền “ nghệ thuật lớn ”
cổ đại là bất khả phục hồi, một đi không trở
lại ? Trong Xây Ở Suy Tư
(1951), Heidegger cho rằng : ta không thể làm
cho thần linh quay trở lại, mà
chỉ còn có thể “ chăm lo ” (schonen) và
“ chờ
đợi ” sự lai đáo ấy. Trong Thi
sĩ là gì trong thời khốn khó ?,
khi bình giảng về tụng ca Bánh
và Rượu của Hölderlin, Heidegger
thấy cần thiết phải tạo nên một “ bầu
khí ” (Ether) thích hợp để
đón đợi và làm chỗ cư lưu cho “ thần linh ”,
bởi “ chỉ còn có thần linh mới có thể cứu vớt
chúng ta ”. “ Thần linh ” ở đây không
được hiểu như là sức mạnh siêu nhiên mà như là những
kích thước mới cần được khám phá cho sự hiện hữu
của con người. Sự đón đợi ấy là sự chuẩn bị ở
trong tư thế lẫn sự chuyển hóa ở trong tâm thức.
Heidegger viết : “ Là thi sĩ trong thời đại khốn
khó có nghĩa là : đón đợi,
hát ca, dõi theo sự vẫy gọi của thần linh.
Đó là lý do tại sao người thi sĩ trong đêm trường tối
tăm của thế giới [Bùi Giáng : “ thế
dạ ”] lại tỏ bày sự
linh thánh. Đó là lý do tại sao, trong ngôn ngữ của
Hölderlin, đêm trường của thế giới lại là đêm thánh
thiêng ” (xv).
Ta biết rằng, thời hiện đại được gọi là “ đêm
tối ”. Ở thời kỳ đầu, Heidegger đọc Hölderlin
qua hình ảnh một đêm trường đầy tối tăm, bế tắc
(Siêu hình học nhập môn,
tr. 46). Bây giờ, đi sâu hơn, hình ảnh mới lại là hình
ảnh của “ Tửu thần Dionysos ngao du ca hát trong đêm
thánh ”.
Trên con đường Quy hồi cố quận,
bây giờ Hölderlin lại trải nghiệm đêm tối như cái gì
“ thanh sạch ”, “ hân hoan ”, hay,
nói
như ngôn ngữ Bùi Giáng, trong “ hồn
ca vũ địa ”.
Tóm lại, khi thử đặt Bùi Giáng vào
trong mối quan hệ mật thiết với Heidegger và Hölderlin,
qua đó soi sáng phần nào hành trạng, suy tư và sáng tác
của ông, ta thấy Bùi Giáng là một trường hợp khá đặc
biệt, hiếm có : không chỉ tiếp thu nguồn thi ca, tư
tưởng vốn xa lạ theo nghĩa thâm cảm, tri kỷ mà còn tự
dấn mình thực hiện trọn vẹn như một biểu
trưng : “ Trút
linh hồn dường như thể như thân ”.
“ Biết ít, vui nhiều, ấy
là tặng vật, cho người phù du ” (xvi).
Bùi Giáng không muốn ai bắt chước mình. Nhưng có lẽ
ông muốn mình được đọc, được hiểu như một dấu
hiệu của sự TỰ DO trong “ thời
khốn khó ”. Quả thật, Bùi Giáng, “ trên cơ
bản, là một nhà thơ ”.
14.09.2013
Bùi Văn Nam Sơn
NGUỒN : Tham
luận tại Tọa đàm Khoa học về Bùi Giáng
ngày 14.9.2013 tại Trường đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn TP. HCM
Bản do tác giả gửi cho Diễn Đàn
ngày 14.9.2013 tại Trường đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn TP. HCM
Bản do tác giả gửi cho Diễn Đàn
(ii)
Martin
Heidegger : Erläuterungen zu Hölderlins
Dichtung / Elucidations of Hölderlin’s Poetry/Minh giải Thi ca Hölderlin,
bản tiếng Anh của Keith Hoeller, New York, 2000, tr. 13
và trong The Heidegger Controversy: A
Critical Reader, ed. R. Wolin, Cambridge, Mass, 1993: “Tư tưởng của tôi
ở trong mối quan hệ quyết định với thi ca của Hölderlin” (tr.
112).
(iii)
Martin
Heidegger : Erläuterungen zu Hölderlins
Dichtung, Gesamtausgabe, Band 4, Vittorio
Klostermann, Frankfurt am Main,
1981.
(iv)
Martin
Heidegger : Der Ursprung des Kunstwerkes, Reclam
1960, 2008 (BVNS dịch và chú giải, sắp xuất bản).
(v)
Bùi Giáng : Lễ Hội Tháng Ba, NXB Văn
hóa Sài Gòn, tái bản 2008, tr. 7 và tiếp.
(vi)
Martin
Heidegger : Hölderlin und das Wesen der
Dichtung / Hölderlin và bản chất của thi ca,
Toàn tập, Tập 4, tr. 47.
(vii)
F. Hölderlin : “Dichten:
diss unschuldigste aller Geschäffte”
(III, 77), Sđd. Tr. 31.
(viii)
“Darum ist
der Güter Gefährlichsten, die Sprache dem Menschen gegeben… damit er
zeuge, was er sei…” (IV, 246), Sđd. Tr.
31.
(ix)
F.
Hölderlin : “Was bleibt aber, stiften die
Dichter” (IV, 63), Sđd. tr. 31.
(x)
Chuồn
chuồn, Châu chấu, Rừng Marylin, Biển Bardot, Ngành Novak, Đóa John
Keats, Miền Hà Thanh, Ngành Mật niệm, Đóa U linh, Hồng lĩnh Hạc lâm,
Quỳnh Lai Thị Xứ, Nghìn thu Cổ lục, Ngày Hy Nga, Đêm Bé Chị, Hoa trên
Ngàn, Sóng Hồng Hoang, Thềm dục vọng… (xem
thêm: Mai Thảo, Một vài kỷ niệm với Bùi
Giáng, trong nhiều tuyển tập)
(xi)
“Voll
Verdienst, doch dichterisch wohnet Der Mensch auf dieser Erde”
(VI, 25) Sđd. tr. 31.
(xii)
Bùi Giáng : Hư vô và
Vĩnh viễn (Mưa Nguồn): “Hồn hoa cỏ Phượng
Thành Hy Lạp úa”.
(xiii)
F. Hölderlin : “Wie
wenn am Feiertage…”,
trong M. Heidegger: Erläuterungen zu
Hölderlins Dichtung/Giảng giải Thơ Hölderlin, Toàn tập, Tập
4, tr. 49 và tiếp.
(xiv)
F. Hölderlin : “Andenken”, nt, tr. 79
và tiếp.
(xv)
Thi sĩ để
làm gì ?/ Wozu Dichter ? / What are poets for ? Bản tiếng Anh
trong Poetry, Language, Thought, London
1975, tr. 94.
(xvi)
F. Hölderlin : “Zu wissen
wenig, aber der Freude viel, Ist
Sterblichen gegeben…” (IV, 240)/To know little, but
of joy much Is given to mortals. Heidegger dùng làm đề từ cho
phần bình giảng về Tụng ca
“Quy Hồi Cố quận/Gửi người thân thuộc”
(Heimkunft/An die Verwandten) của
Hölderlin. Sđd. tr. 13, Bùi Giáng : Lời
Cố Quận, An Tiêm 1971, tr. 30.