18/3/14

Chiến tranh Lạnh có đang trở lại?

Chiến tranh Lạnh có đang trở lại?

Cập nhật: 09:50 GMT - thứ ba, 18 tháng 3, 2014 
 
Cuộc gặp lãnh đạo Mỹ và Nga từng thể hiện rõ không khí lạnh lẽo 


Viết trên trang  The New Republic, Paul Berman cho rằng với các diễn biến quanh Crimea, một cuộc Chiến tranh Lạnh lần hai có nguy cơ trở lại và theo ông đây có thể là câu chuyện kéo dài.
Nếu thế giới lại chia thành hai cực đối nghịch nhau giữa Phương Tây và Nga, các nước gần Nga đang đi theo Moscow hiện có Belarus, Kazakhstan, Turkmenistan cùng một số xứ sở chỉ có Moscow công nhận như Nam Ossetia và Abkhazia.

Nhưng báo chí châu Âu nói khu vực của người Serb tại Bosnia cũng có thể muốn tìm một sự hỗ trợ mạnh từ Nga.
Ông Milorad Dodic, lãnh tụ của người Serb tại Bosnia vừa thăm Moscow và được chào đón nồng nhiệt, khiến một số chính trị gia châu Âu như Paddy Ashdown ở Anh bày tỏ lo ngại về khả năng Moscow gây bất ổn tại Nam Tư cũ qua cách dùng khối người Serb theo Chính Thống giáo và thân Nga.
Tin mới nhất cho hay vùng  Trans-Dniester ly khai khỏi Moldova cũng vừa đề nghị Nga cho họ gia nhập.
Tại Trung và Cận Đông, Nga giữa được đồng minh vững chắc ở Syria và càng về sau này càng gắn bó với Iran.
Với việc Hoa Kỳ, Anh Quốc và Nato rút dần khỏi Afghanistan, ảnh hưởng truyền thống của Moscow ở nước này cũng có thể tăng lên, thông qua một nhóm Tajik, theo ông Lutfullah Latif, biên tập viên Trung Á của BBC.
Bên kia bán cầu, tại Venezuela, dù tình hình ngày càng bất ổn, chính quyền thiên tả vẫn tiếp tục chính sách của cố tổng thống Hugo Chavez và tìm ở Nga một đối trọng với Hoa Kỳ.
"Sự thống trị của Nga là công thức cho các cuộc cách mạng liên tiếp"
Paul Berman
Báo chí quốc tế cũng trích lời  quan chức Nga nói Moscow đang ‘tìm kiếm trở lại các căn cứ hải quân của cựu đồng minh thời Chiến tranh Lạnh’ như Cuba và Việt Nam.

Khỏe như Putin

Hiện khó nói cuộc đối đầu Đông Tây sẽ ra sao nhưng một thực tế là mô hình Nga thời Putin có điểm hấp dẫn với giới chức nhiều quốc gia đang phát triển là vì nó đơn giản: một dân tộc chủ đạo, một nhà nước trên hết và một lãnh đạo tối cao.
Liên bang Nga có trên 20 nước cộng hòa và nhiều dân tộc nhưng chỉ có một dân tộc đứng đầu là dân tộc Nga.
Xã hội đơn tuyến cũng hấp dẫn về mặt văn hóa với các nhóm đa số đông đảo ở nhiều nước, như nhóm Hán ở Trung Quốc và Việt ở Việt Nam, khỏi cần ‘đa văn hóa’ và quan hệ dung hòa các khối công dân xuẫt xứ khác nhau như ở Âu Mỹ.
Ở Nga, tam quyền phân lập’ chỉ là phân vai hình thức vì Viện Duma luôn chuẩn thuận các yêu cầu của Hành pháp và bên Tư pháp xử án y như Điện Kremlin mong muốn trong các vụ quan trọng.
Và nhà nước Nga mạnh về tiền nhờ dự trữ ngoại tệ lớn, nguồn dầu khí to, và là cường quốc quân sự dưới trướng một lãnh tụ tối cao, cầm quyền vĩnh viễn nhờ cách ‘lách Hiến pháp’ của ông Putin.
Văn hóa Nga khó lan tỏa ra các khu vực không nói tiếng Nga

Tuy thế, nhìn ra ngoài khu vực sát Nga, thế giới ngày nay có độ liên thuộc cao, việc hà hơi tiếp sức để phục hồi một mô hình đơn tuyến kiểu Liên Xô xem ra khó khả thi.
Chưa kể quyền lực của ông Putin và cả hệ thống hậu Xô Viết gắn chặt với tiền xuất khẩu năng lượng.
Cần phân biệt giá trị của dầu và khí đốt trong cuộc chơi của ông Putin.
Nguồn dầu thô đã đem lại cho ông các khoản lợi nhuận cao, nhất là sau khi khối OPEC chủ động giảm sản lượng để giữa giá.
Nhưng khí đốt bán thẳng từ Nga sang châu Âu mới là vũ khí chính trị hữu hiệu để Moscow đối thoại cứng rắn với châu Âu và tạo ảnh hưởng ở vùng ‘cận biên’ của Nga.
Và về lâu dài, kinh tế Nga sẽ lao đao nếu giá dầu và khí đốt biến động.
Dân số nước này đang giảm, lão hóa và thái độ Đại Nga không giúp cho việc tạo ra một xã hội cởi mở, có nguồn lao động nhập cư thay thế.
Nếu Chiến tranh Lạnh trở lại, các nước đều phải xem xét lại vị trí của mình, tuỳ vào tính toán và quyền lợi của họ trong tương quan ngoại giao và kinh tế với Nga, Ukraine và Phương Tây.
Điều này không cản trở các quốc gia khác nhau, gồm cả Việt Nam, tìm đến Moscow vì các nguồn lợi quân sự và để có sự hỗ trợ, hoặc cân bằng lại trong quan hệ của họ với Hoa Kỳ, Trung Quốc.
Nhưng đối ngoại hữu hảo với Kremlin là một chuyện, còn áp dụng mô hình Nga lại là một chuyện khác.
Vì như Paul Berman viết, “các biến thể của Liên Xô đang tồn tại hiện nay chưa bao giờ thành công trong việc lập ra các không gian ổn định”.
Thậm chí, chính “khái niệm về sự thống trị của Nga là công thức cho các cuộc cách mạng liên tiếp,” theo Paul Berman.
Những người châu Âu phản đối ông Putin ví ông với Hitler

Tác giả này chỉ ra các cuộc cách mạng chống lại Moscow từ năm 1953, 1956, 1968, 1989, 2000, 2003, 2004 đến nay, năm 2014, lần lượt ở Đông Đức, Ba Lan, Hungary, Tiệp Khắc, và sau đến Serbia, Gruzia, Ukraine và lần nữa là Ukraine.
Có những người châu Âu ví ông Putin với Hitler nhưng theo tôi, ông Putin không bành trướng lãnh thổ vì chủ nghĩa gì cụ thể dù có ý kiến như của Bấm Igor Panarin cho rằng Kremlin muốn xây đắp một ý thức hệ nhà nước cho riêng Nga.
Ngay cả chuyện ông ra tay với Ukraine cũng là để ngăn ngừa các thách thức với quyền lực của ông ở trong nước.
Vì ngay ở trong nước Nga đã và đang có những xu hướng đòi thay đổi ‘mô hình Putin’ mà theo họ chỉ là sự ‘thối rữa’ (decay) kéo dài của một nhà nước thời kỳ hậu Liên Xô.
Cũng về lâu dài, Hoa Kỳ và Phương Tây có thừa tiềm năng để ‘đối đầu’ với Nga nếu thực sự đổ vỡ về Ukraine tới mức không thể hàn gắn được, theo những ý kiến cứng rắn ở Washington.
Theo họ, Hoa Kỳ và EU có nền kinh tế gộp lại hiện vào khoảng 30 nghìn tỷ USD, vượt xa nền kinh tế 2,5 nghìn tỷ USD của Liên bang Nga.

Source : BBC

17/3/14

Bí ẩn quanh các bức Hoa Diên Vĩ (Irises) lẫy lừng của Van Gogh

Bí ẩn quanh các bức Hoa Diên Vĩ (Irises) lẫy lừng của Van Gogh

 

Trịnh Thanh Thủy

7.03.2014




Tình cờ một ngày cuối đông tôi ghé thăm Viện Bảo Tàng Getty ở Santa Monica, Hoa Kỳ. Tôi có cơ hội đối mặt với một trong những bức vẽ hoa Diên Vĩ “Irises” nguyên thủy(original) của danh hoạ Van Gogh. Bức này là bức đắt giá thứ ba của ông, so với bức “Dr. Gachet” là một trong những bức tranh đắt giá nhất thế giới. Bức chân dung bác sĩ Gachet là người chăm sóc ông trước khi ông qua đời được bán đấu giá năm 1990 với giá 82.5 triệu đô.
Bức “Irises” hiện nay thuộc sở hữu của Getty Museum. Đứng trước bức tranh nguyên thủy nổi tiếng này, tôi tự hỏi không biết nó đẹp và hay ở chỗ nào mà lại đắt giá đến vậy. Tôi hỏi người hướng dẫn, hiện tại nó trị giá bao nhiêu? Bà ta từ chối trả lời mà bảo, nó “vô giá”. Đó là một cách trả lời khôn ngoan nhất của Getty Museum. Từ xưa tới nay, Getty luôn luôn dấu kín giá của những sưu tầm có được, kể cả các báu vật quý hiếm. Nếu chúng ta tò mò muốn biết giá phỏng chừng của nó trên thương trường, ta có thể phỏng đoán từ sự kiện nó được đem ra đấu giá năm 1987. Cách đây 26 năm nó đã được Alan Bond, một nhà buôn tranh mua với giá 53.9 triệu đô và sau đó Getty là một bảo tàng viện giàu nhất trong các bảo tàng viện thế giới bí mật mua lại với 1 giá kinh khủng nào đó không ai biết. Phải nói là, những tác phẩm nghệ thuật đối với khách thưởng ngoạn nếu không biết và hiểu thì nó chẳng có giá trị gì, nhưng với người yêu thích mà am tường thì nó quả vô giá. Do đó Getty không bao giờ tiết lộ cái giá họ trả vì cho dù nếu họ mua quá đắt hay quá rẻ, cả hai điều này đều vô nghĩa với giá trị nghệ thuật chân chính của tác phẩm đó.

Iris-01

Bức “Irises” này được Van Gogh thực hiện năm 1889 trong dưỡng trí viện Saint Paul-de-Mausole ở Saint-Rémy-de-Provence, France, một năm trước khi ông qua đời năm 1890. Nó được ông vẽ trước khi bị đột quỵ nên người ta có thể nhận ra sự tĩnh tâm may mắn có được trong tác phẩm cuối đời này của ông. Bức này chịu ảnh hưởng của kỹ thuật tranh in mộc bản (Ukiyo-e woodblock prints) của Nhật Bản, cũng như trong phần lớn các tác phẩm khác của ông. (Loại tranh in bằng bảng khắc gỗ của Nhật Bản được ra đời trong khoảng thế kỷ từ 18, được lưu dụng đến thế kỷ 20, lúc đó hầu hết các hoạ sĩ trên thế giới đều chịu ảnh hưởng loại tranh này).
Từ nơi an trí của bệnh viện tâm thần ST Paul-de-Mausole, những tác phẩm lẫy lừng ra đời như phút dương quang bừng dậy của người hoạ sĩ tài danh. Thiên nhiên, cây cỏ, côn trùng và nhất là hoa rực sáng, và tươi nở trong tim ông. Qua khung cửa trải đầy màu vàng chín của cánh đồng lúa mì và sắc xanh của cây ô –liu già, bức “Diên Vĩ” với sắc lam tím đã ra đời miêu tả trọn vẹn những cảm xúc buồn bã, cô độc, vui, buồn, giận ghét trong một con người chịu nhiều sóng gió. Người hoạ sĩ nghèo khó, cô đơn này đã từng tự cắt tai vì mất tình bạn với Gauguin, đặt tay trên lửa nóng và kết thúc cuộc đời vô vọng của mình bằng một phát súng trên cánh đồng lúa mì gần nhà thương điên.
Nếu bạn hỏi tôi, tìm thấy gì trong bức Diên Vĩ này, xin chia sẻ cùng các bạn cảm nghĩ của tôi khi đứng trước nó.
Nó đánh mạnh vào thị giác của người xem bởi những gam màu sắc tuyệt đẹp. Trong khoảnh khắc của một cận ảnh, bạn như đang đứng trước một vườn hoa Diên Vĩ rực sắc xanh tím lạ kỳ, sống động, mạnh khoẻ và bừng sáng. Người xem như bước thật sâu vào tranh và đang là một đoá xanh lam tím trong những đoá xanh. Tôi để ý thấy được một đoá màu trắng to, khoẻ, ở bên góc trái bức tranh, nở miệng trái tim cười. Tôi đoán đó là hiện thân của Van Gogh, không biết bạn có nghĩ như tôi không?
Những thân lá uốn éo tạo những nét cong, gẫy, ấn tượng, thể hiện tâm hồn yếu đuối của nghệ nhân. Những ảo giác mơ hồ trùng điệp trong rừng hoa như vẻ vừa u buồn lại man dại của sắc xanh pha lam tía, khiến tôi liên tưởng đến sức mạnh thiêng liêng của Mẹ Đất(Earth Mother) giờ đang bị tổn thương. Nó hệt như tâm hồn cô đơn, quằn quại của Van Gogh khi đã tìm được khoảnh khắc an bình thanh thản khi sáng tác bức Diên Vĩ này. Qua đó, bạn có thể trực diện cảm nhận được niềm tin thần thánh của hoạ sĩ về thiên nhiên và nghệ thuật.
Mỗi một bức về Diên Vĩ, ông vẽ mỗi khác. Ông cẩn thận nghiên cứu hình dáng và chuyển động của chúng kể các bóng rọi, bóng nghiêng, nét uốn lượn, quằn quại, rợn sóng. Ông để ý quan sát và tạo hình chúng như chính ông là hoa Diên Vĩ vậy. Đến nỗi Octave Mirbeau, một nhà phê bình nghệ thuật người Pháp, chủ nhân đầu tiên của bức “Irises” phải thốt lên rằng“Bằng cách nào mà Van Gogh thấu hiểu sự thanh tú tự nhiên của hoa cỏ tinh tế đến vậy
Trong khi bức “Vase of Irises”(Bình hoa Diên Vĩ) ông thực hiện một năm sau(1890) thì khác. Bức này hiện thuộc về bộ sưu tập của viện bảo tàng Metropolitan Museum of Art ở New York.

Iris-02

Ông không dùng lối vẽ đắp nặng nề và sắp xếp màu đen làm viền nữa. Bằng những nét cọ nhỏ đặc thù quen thuộc, người hoạ sĩ xứ Hà Lan lần này đã phối màu nhẹ, mát mắt và ít dữ dội hơn. Ông xử dụng màu lam tía, xanh lá cây, xanh nước biển đối chọi lại ánh sáng của nền và màu trắng của chiếc độc bình với những điểm vàng trong bó hoa như màu tương phản. Màu xanh của chiếc bàn lập lại màu xanh thân lá của những cành Diên Vĩ, tạo dáng chủ đạo trong nghệ thuật xắp xếp của bình hoa và phả lên nét nhìn thanh nhã thẳng đứng.
Tôi tìm thấy gì trong bức Diên Vĩ này?
Cũng như lần trước tôi tìm ra Van Gogh như ẩn hiện trong một đóa hoa bên góc phải bạn ạ. Để ý kỹ, bạn sẽ thấy bên góc phải một đóa hoa với ba cánh đang tàn úa với màu sắc khác lạ. Nhất là cái cánh hướng về phía dưới trông giống khuôn mặt người với cái miệng là một đốm màu vàng. Cánh hoa tàn ấy mang tâm trạng u uất, hoang mang và hỗn loạn của một người đang quyết định cho mình một chọn lựa dứa khoát, một chia ly.
Bức tĩnh vật “Bình Hoa Diên Vĩ dựa trên nền vàng”(Vase with Irises Against a Yellow Background). Bức thứ ba này hiện thuộc sở hữu của Van Gogh Museum tại Amsterdam, The Netherlands, Europe. Nó được thực hiện năm 1890 có lẽ là Bức Diên Vĩ cuối của đời ông.

Iris-03

Ông đã phân tích bức hoạ của mình cho người em là Theo hiểu khi viết thư cho Theo vào tháng 5, ngày 11 và 12:
Bó hoa tím được đặt trên nền vàng chanh sáng cùng sắc vàng tương phản của chiếc độc bình, mang lại ấn tượng lớp màu này chồng lên lớp kia. Tuy nhiên sự tương phản khiến mỗi màu sắc nổi bật nét riêng của mình.”
Dựa vào bức hoạ này, Dale Larner với một suy luận dựa trên một vài chứng cớ nào đó đã đưa ra kết luận rằng VanGogh chính là Jack The Ripper một kẻ sát nhân. Dale tuyên bố sau 3 năm nghiên cứu ông đã tìm ra VanGogh, một bệnh nhân tâm thần với bề ngoài nhút nhát nhưng chính là kẻ sát nhân hàng loạt có tính toán. Năm 2004, sau khi đọc những lá thư của VanGogh, Dale bắt đầu nghi ngờ và so sánh khuôn mặt của Mary Kelly, một nạn nhân của Jack The Ripper bị giết ở LonDon, với bức hoạ nói trên. Dale cho rằng khi nhìn những bông hoa Diên Vĩ trong bức hoạ được VanGogh tạo hình, mỗi bông là một mảnh thân thể của Mary. Đây là website mà Dale Larner trình bày giả thuyết của mình. (http://vincentaliasjack.com/VanGogh_Ripper_Irises.html). Nhiều người đã vào tìm đọc và phê bình, có người tin, có người cho suy luận mơ hồ không căn cứ, Larner tưởng tượng quá mức. Hoặc giả đây chỉ là một scandal không gây được một tiếng vang nào đáng kể.
Phút gặp gỡ đầu tiên giữa tôi và bức “Hoa Diên Vĩ” số 1, giống như phút giây tôi biết đến Van Gogh lần đầu. Sau phút tao phùng sơ ngộ ấy, tôi tìm hiểu thêm về người và tranh, mới bật ngửa ra rằng, chưa bao giờ nghệ thuật, con người và số phận lại quấn lấy nhau riết róng, bền chặt và bi thảm dường ấy như trường hợp của Van Gogh. Thiên nhiên, cuộc đời, tay vẽ, đam mê và những xúc cảm trong con người ông hoà quyện với nhau làm một. Trong suốt 10 năm ông làm hội hoạ, hơn 500 tác phẩm khác nhau ra đời. Mỗi bức tranh, mỗi trang đời, trong mỗi giai đoạn, là mỗi một câu chuyện trong cuốn hồi ký dài 500 trang tự thuật. Ông đã để lại cho thế giới một kho tàng, một bộ sưu tập mỹ thuật sáng tạo vô giá gồm những cái đẹp của một vũ trụ hỗn mang, chao đảo.
Tôi xin dùng một lời phát biểu của Hoạ Sĩ Nguyễn Thuyên về VanGoh để thay lời kết:
Mỗi họa sĩ, sau khi thừa hưởng di sản quá khứ sẽ đẩy được hội họa tới trước được bao xa? Dù chỉ là một chút xíu? Lúc trẻ tôi không chiêm nghiệm được cái lớn của Gauguin và Van Gogh. Mỗi họa sĩ đều phải đi con đường khổ ải của chính mình và giải được những câu hỏi của con Sphinx trong nghệ thuật. Sau khi cố gắng làm tranh có vẻ như có 3 chiều, Gauguin và Van Gogh hiểu rằng việc chấp nhận hai chiều sẽ làm tranh có tính tạo hình(plastic) nhất, hiểu tại sao họ thích tranh Nhật. Những mảng phẳng dẹt , và bút pháp của hai ông là điều chưa từng thấy, nó giải phóng tay vẽ, theo tôi Van Gogh chỉ vẽ có một lớp dầy, và hoàn tất, nó đòi hỏi sự điêu luyện biết chừng nào. Và màu sắc, có ai thấy một palette như bức này trong lịch sử hội họa Tây phương trước đó? Và màu của Gauguin nữa, chúng là những bữa tiệc trần gian mà người say mê hội họa không bao giờ biết chán.”

Trịnh Thanh Thủy

Source : damau.org

Tôi xấu hổ cho đất nước tôi

Tôi xấu hổ cho đất nước tôi

Theo pro & contra 

Tháng 3 17, 2014

Wladimir Kaminer
Phạm Thị Hoài dịch

Tôi xấu hổ cho đất nước tôi, vô trách nhiệm tuân theo kẻ được mệnh danh là tổng thống mà đẩy thế giới đến bờ chiến tranh. Không, không phải mọi người Nga đều hoan hô quân Nga tiến vào Ukraine; người dân ở Krym chắc chắn không muốn bị một đơn vị vũ trang cai quản. Hiếm có hai dân tộc nào gần gũi nhau hơn Nga và Ukraine.
Ở Đức, bao nhiêu năm nay tôi ra sức nói tốt cho đồng bào mình. Bao nhiêu lần tôi đã giải thích trong các cuộc phỏng vấn rằng dân Nga không phải ai cũng ghét người đồng tính, ai cũng kì thị chủng tộc, ai cũng ủng hộ những trò chơi chiến tranh của ngài tổng thống. Song càng ngày càng khó bênh vực nước Nga hơn.
Mỗi lần về Nga, tôi đều hỏi bạn bè: Thế là thế nào? Sống thế mà cũng chịu được hay sao? Mọi chính kiến tự do, mọi hình thức tự do đều bị trấn áp, trên truyền hình thì toàn nói láo, các bạn không thấy những người đang lê bước sang đường kia à? Cứ năm chục mét họ lại ngoảnh đầu đảo mắt như bị ai theo dõi!
Thấy chứ, chúng tớ có mù đâu, bạn bè tôi đáp. Nhưng sao cậu lại nghĩ rằng tự do sẽ tốt cho những người ấy? Tự do gì mới được cơ chứ? Tự do khỏi cái gì nhỉ? Ở đây người ta không cần tự do mà cần tín dụng lãi suất thấp và nhà thuê giá rẻ. Putin cho họ những thứ ấy. Còn lại đều là những giá trị phương Tây cố tình nhồi nhét để gây rối cho những đầu óc kém minh mẫn. Ở đây chẳng ai cần tự do, trừ đám đồng tính, bọn trẻ vị thành niên và vài tay nhà báo. Ở đây thời nào cũng vậy và sẽ mãi mãi như vậy. Chỉ như vậy đất nước này mới trụ nổi, với một gã bạo chúa thay vì một chính phủ, với một bộ máy hành chính tham nhũng chỉ lăm le đạp kẻ yếu và liếm kẻ mạnh, và với một dân tộc ưa nghĩ ngợi, thấy hết nhưng tuyệt đối không lên tiếng. Đâu phải nước nào cũng phát triển giống nước nào. Thế cũng là một khả năng, phải không nhỉ?
Có một kinh nghiệm cay đắng là, dân tộc nào từ bỏ quyền tự do của mình thì sớm hay muộn cũng rơi vào chiến tranh và sau đó thì tọt vào thùng rác của lịch sử. Gã bạo chúa hiện tại không hề được bầu, mà 15 năm trước được giới thiệu là người “kế nhiệm” trước quốc dân. Từ đó đến nay gã cho tổ chức vài cuộc bầu cử, lần nào cũng tự đếm phiếu cho mình. Một gã đàn ông nhỏ con, xuất thân từ lò đào tạo mật vụ Xô-viết, không vợ, không bạn bè, cô lập với thế giới, đầy mặc cảm, cai trị một đất nước khổng lồ, nơi dân chúng đã từ lâu đánh mất mọi hi vọng có ngày được hưởng quyền công dân và thực sự được tự bầu lên tổng thống của mình. Phương Tây đang cố đoán gã nghĩ gì trong đầu, dân Nga thì chẳng buồn thử đoán. Đơn giản là họ theo gã. Gã ghét người đồng tính, vậy là họ xuống đường biểu tình chống người đồng tính. Gã không ưa nghệ thuật hiện đại, vậy là họ đi dẹp các phòng tranh. Gã xua quân sang nước láng giềng, vậy là họ gào lên: “Krym là của chúng ta!”
Họ không nghĩ đến một cuộc sống hậu Putin, ngay cả khi điều đó xảy ra vài năm nữa. Khi gã đang bay mà đụng phải một đàn cò và rơi xuống chẳng hạn. Hoặc nếu gã lặn quá sâu, hay bị một con báo ăn thịt. Lúc ấy họ, người Nga, đồng bào tôi, sẽ làm gì nhỉ?
__________
Wladimir Kaminer (46) là nhà văn gốc Nga-Do Thái viết tiếng Đức, sống tại Berlin. Tác phẩm Russendisko của ông thành công lớn và được chuyển thể điện ảnh. Bài viết này đăng trên trang FB và blog của ông ngày 04-3-2014, ngay khi lính Nga tràn qua biên giới Ukraine, sau đó được đăng lại trên một số trang báo.
Bản tiếng Việt © 2014 pro&contra

16/3/14

Một năm cầm quyền của Tập Cận Bình


Một năm cầm quyền của Tập Cận Bình

 
Cập nhật: 11:56 GMT - chủ nhật, 16 tháng 3, 2014
Tập Cận Bình hiện có quyền lực tuyệt đối ở Trung Quốc?
Chuyến thăm Viện dưỡng lão Tứ Quý Thanh của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình hồi tháng 12 lúc đầu chỉ được xem là một chuyến thị sát thường lệ để cánh phóng viên có cơ hội chụp những bức ảnh đẹp.
Trong vòng chưa tới một giờ đồng hồ ở đó, ông Tập đã tham quan phòng đọc sách và phòng ăn trước khi đảo qua phòng văn nghệ để hòa giọng vào điệp khúc của một ca khúc cách mạng.

‘Hiệu ứng Tập Cận Bình’

Nhưng kể từ khi tin tức về chuyến thăm của ông Tập được loan ra thì nhà dưỡng lão này lại trở thành một địa điểm thu hút khách du lịch.
Trong nhiều tuần, điện thoại ở đây cứ reo liên tục, một nhân viên văn phòng ở đây cho biết, mọi người đều muốn đi lại ‘Tour Tập Cận Bình’.
“Chúng tôi đưa khách tham quan theo hành trình của Tập Chủ tịch,” cô cho biết, “Nhiều người yêu cầu đến đúng những căn phòng mà ông đã đến và gặp đúng những người mà ông đã gặp.”
Hãy xem đây là hiệu ứng Tập Cận Bình. Khi nhân vật quyền lực nhất Trung Quốc đến một nơi nào đó thì danh tiếng nơi đó sẽ nổi như cồn.
Gần 7.000 người sẽ đến thăm viện dưỡng lão này trong năm nay, trong khi danh sách chờ đến lượt được giới hạn ở mức 5.000 người.
Sau khi đến thăm viện dưỡng lão này, ông Tập đã dừng chân ở một nhà hàng bánh bao bên đường để ăn một bữa trưa dường như là ngẫu hứng.
"Người thuộc Thái tử Đảng có suy nghĩ rằng họ sở hữu đất nước này. Trong khi cả Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo, những người đã lãnh đạo đất nước trong vòng 10 năm trước, có xuất thân bình dân."
Lý Thành, chuyên gia ở Viện nghiên cứu Brooking, Washington
Kể từ đó, ‘Suất ăn của Tập Chủ tịch’, bao gồm bánh màn thầu và phá lấu, đã trở thành món bán chạy nhất ở nhà hàng này. Thậm chí một công ty du lịch Bắc Kinh còn đưa nhà hàng này vào danh sách các điểm đến ở Bắc Kinh.
Trước khi ông Tập lên nắm quyền, nhiều người đã nghi ngờ liệu ông có thể lãnh đạo đất nước hiệu quả. Vào lúc đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc dường như bị tê liệt với sự đấu đá nội bộ.
Nhưng điều này không ngăn cản được Tập Cận Bình. Ông lên nắm quyền lãnh đạo tối cao của Đảng một cách thoải mái.
Chỉ trong vòng một năm, ông Tập với sự tự tin của mình đã có những bước dài đáng kinh ngạc. Ông đang ở tuyến đầu của các kế hoạch cải cách kinh tế và xã hội tham vọng nhất của Trung Quốc trong nhiều thập niên.
Trung Quốc cũng có một tầm nhìn mới mà ông Tập gọi là ‘Giấc mơ Trung Hoa’ – nghĩa là người dân Trung Quốc có thể đưa đất nước của mình đến vinh quang nếu họ hòa thành một khối thống nhất.
Một chiến dịch bài trừ lãng phí và quan liêu trở thành tiêu đề chính trên các báo hàng ngày.

Uy quyền tuyệt đối?

Ông Tập được cho là đang chi phối hoàn toàn Thường vụ Bộ Chính trị
Nhưng không phải tất cả những thay đổi mà ông Tập khởi xướng đều tích cực. Kiểm duyệt truyền thông và Internet bị thắt chặt dưới uy quyền của ông, và những cải cách được trông đợi, chẳng hạn như xem xét toàn diện chính sách một con hay việc sử dụng các trại lao cải, dường như vẫn dậm chân tại chỗ.
Chính sách đối ngoại quả quyết của ông Tập đã làm gia tăng sự mất lòng tin với các nước láng giềng, nhất là những nước có tranh chấp lãnh thổ với Bắc Kinh ở Biển Đông và Biển Hoa Đông.
Tuy nhiên, nỗ lực cải cách là không ngừng nghỉ.
“Ở Trung Quốc, chúng tôi luôn nói rằng một tân lãnh đạo cần làm điều gì đấy khác biệt với người tiền nhiệm để có được sự ủng hộ và lòng tin của công chúng trong năm đầu tiên nắm quyền,” nhà nghiên cứu Lý Thành ở Viện Brooking ở Washington nói.
“Và trong đầu ông Tập cũng đã có kế hoạch,” ông Lý giải thích. Chỉ trong ba năm nữa, theo quy chế của Đảng thì ba trong số bảy cộng sự thân cận nhất của ông Tập trong Thường vụ Bộ Chính trị phải nghỉ hưu. Do đó, ông Tập cần phải khẩn trương cải cách.
"Tỷ lệ sáu chọi một thật sự đã đảm bảo quyền lực của ông Tập và cho phép ông làm bất cứ điều gì ông muốn."
Lý Thành, Viện Brooking ở Washington
Có thể thấy là ưu tiên số một của ông Tập là củng cố quyền lực.
Trong vòng hai thập kỷ qua, Trung Quốc được điều hành tập thể bởi Thường vụ Bộ Chính trị. Giờ đây, ít ai nghi ngờ rằng ông Tập đã nâng mình lên cao hơn tất cả những người khác như cái cách của Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình.
Khi chính quyền Trung Quốc loan báo các cuộc cải cách tại Hội nghị Trung ương 3 hồi tháng 11 năm ngoái, Thủ tướng Lý Khắc Cường được cho là người đóng vai trò chủ chốt trong việc hoạch định cải cách vì theo thông lệ Thủ tướng Trung Quốc phụ trách các vấn đề trong nước – nhất là các chính sách kinh tế.
Thay vào đó, tên của ông Tập Cận Bình xuất hiện liên tục trong bản báo cáo cải cách.
Đáng lưu ý, ông Tập đã đưa mình vào những ủy ban quan trọng mới phụ trách an ninh quốc gia và công cuộc tái cơ cấu. Ba tuần trước, chính quyền cũng loan báo rằng ông Tập sẽ lãnh đạo một ủy ban giám sát Internet.

‘Cùng phe cánh’

Ông Tập đang tìm cách giảm vai trò của Thủ tướng Lý Khắc Cường?
Những vị trí mới này là nỗ lực để củng cố cơ sở quyền lực của ông Tập, ông Bạc Trí Duyệt, một nhà nghiên cứu tại Đại học Quốc gia Singapore, nhận định.
“Điều mà ông ấy làm là mở rộng chiếc bánh quyền lực để ông ấy có nhiều quyền hơn,” Tiến sỹ Bạc cho biết, “Ông ấy cho mở những ủy ban mới và tạo ra vị trí mới cho bản thân và do đó ông ấy không ảnh hưởng đến vị trí của người khác.”
“Giờ đây ông ấy có nhiều chức danh quan trọng.”
Tập Cận Bình có cái lợi là xung quanh ông là những người thuộc cùng phe với ông trong Đảng Cộng sản.
“Tập Cận Bình nắm đa số trong Thường vụ Bộ Chính trị, cơ quan lãnh đạo tối cao,” ông Lý Thành nói, “Chỉ có Thủ tướng Lý Khắc Cường thuộc về phe phái khác vì ông này là người được cựu Chủ tịch Hồ Cẩm Đào bảo trợ.”
“Tỷ lệ sáu chọi một thật sự đã đảm bảo quyền lực của ông Tập và cho phép ông làm bất cứ điều gì ông muốn.”
"Ông ấy đang mạo hiểm khi muốn làm suy yếu vai trò của Lý Khắc Cường. Ông ấy không thể đổ lỗi cho ai cả."
David Zweig, giáo sư về khoa học xã hội ở Đại học Khoa học Kỹ thuật Hong Kong.
Tuy nhiên, nguy cơ ở chỗ ông Tập muốn đứng một mình trên đỉnh quyền lực.
“Ông ấy đang mạo hiểm khi muốn làm suy yếu vai trò của Lý Khắc Cường,” ông David Zweig, giáo sư về khoa học xã hội ở Đại học Khoa học Kỹ thuật Hong Kong.
“Ông ấy không thể đổ lỗi cho ai cả,” ông nói.
Nếu điều đó có thể làm cho ông Tập lo lắng thì nó cũng không ngăn được ông tiến hành một chiến dịch chống tham nhũng quyết liệt nhằm vào các cán bộ cao cấp.
Cho đến nay, có 40.000 quan chức chính quyền đã bị kỷ luật, 10.000 quan chức khác đã bị cách chức và chính quyền thu hồi được 65 tỷ Mỹ kim.
Nhiều người trong số những quan chức này chỉ là ‘ruồi’ – tức là cán bộ cấp thấp có ít quyền lực, nhưng cũng có một số con ‘hổ’, tức quan chức cấp cao, cũng bị sờ đến. Hiện có tin đồn rằng đối thủ của ông tập, cựu Bí thư Ủy ban Chính pháp Chu Vĩnh Khang, cũng là đối tượng bị điều tra.

‘Bảo vệ tương lai Đảng’

Chu Vính Khang được cho là đang bị ông Tập cho điều tra
Nỗ sợ bất ổn chính trị đã thúc đẩy công cuộc làm trong sạch Đảng. Tập Cận Bình vừa củng cố quyền lực nhưng cũng vừa bảo vệ cho tương lai của Đảng.
Ông được các nhà lãnh đạo khác của Trung Quốc tin tưởng giao cho nhiệm vụ cứu Đảng, David Zweig giải thích. Đảng Cộng sản Trung Quốc đang trong tình trạng tham nhũng tràn lan và ông Tập đang đánh cược rủi ro về kinh tế để bài trừ tham nhũng.
“Họ thật sự đang tiến hành chống tham nhũng triệt để với cái giá là ảnh hưởng đến kinh tế. Tăng trưởng GDP sẽ giảm,” ông Zweig nói.
“Một trong yếu tố quan trọng góp phần vào chi tiêu ở Trung Quốc mà mọi người thường không tính đến là chi tiêu của chính quyền, bao gồm tiệc tùng, quà cáp và du lịch,” ông giải thích.
Nỗi lo sợ về bất ổn của ông Tập cũng giải thích tại sao ông không khoan nhượng trước đối lập chính trị. Trước khi ông lên nắm quyền, nhiều người tự do ở Trung Quốc hy vọng ông sẽ cho phép tranh luận cởi mở hơn vả cho tự do ngôn luận nhiều hơn.
Tuy nhiên, trên thực tế dường như là ngược lại.
Nhiều nhân vật bất đồng chính kiến đã bị bắt bớ và sách nhiễu. Bà Lưu Hà, vợ của ông Lưu Hiểu Ba, người đoạt giải Nobel Hòa bình hiện đang bị Trung Quốc cầm tù, vẫn bị chính quyền quản chế tại gia bất chấp những vấn đề sức khỏe nghiêm trọng của bà.
"Họ thật sự đang tiến hành chống tham nhũng triệt để với cái giá là ảnh hưởng đến kinh tế. Tăng trưởng GDP sẽ giảm."
David Zweig, giáo sư về khoa học xã hội ở Đại học Khoa học Kỹ thuật Hong Kong.
Nhà nghiên cứu luật Hứa Chí Vĩnh bị kết án tù bốn năm sau khi yêu cầu quan chức công khai tài sản. Đàn áp tôn giáo vẫn diễn ra khốc liệt ở Tân Cương và Tây Tạng.
Tốc độ mà ông thâu tóm quyền lực và sự thoải mái sử dụng quyền lực của ông có thể bắt nguồn từ gia thế của ông, ông Lý Thành nhận định. Tập Cận Bình thuộc hàng ‘Thái tử Đảng’, con trai của một những nhà sáng lập Đảng Cộng sản Trung Quốc.
“Người thuộc Thái tử Đảng có suy nghĩ rằng họ sở hữu đất nước này,” ông Lý nói, “Trong khi cả Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo, những người đã lãnh đạo đất nước trong vòng 10 năm trước, có xuất thân bình dân.”
Hai ông Hồ và Ôn được xem là ‘quản gia’, trong khi ‘chủ nhân’ của chế độ này sẽ dễ dàng sửa chữa những thiếu sót của nó, cũng theo lời ông Lý Thành. Chẳng hạn họ có quan hệ chặt chẽ với những người điều hành các tập đoàn nhà nước đầy quyền lực của Trung Quốc.
“Do đó họ có thể buộc người của họ từ bỏ một số quyền lực và do đó mở cửa hệ thống kinh tế của Trung Quốc và thúc đẩy quá trình cải cách kinh tế,” ông nói.
Mới đây, Thủ tướng Lý Khắc Cường, nhân vật số hai của Trung Quốc, đã khai mạc kỳ họp Quốc hội thường niên với bài diễn văn dài hai tiếng đề ra kế hoạch của chính phủ trong năm nay. Sau đó, ông đã chủ trì một buổi họp báo trước hàng trăm nhà báo sau phiên bế mạc Quốc hội.
Nhưng ít người nghi ngờ rằng người đứng trong hậu trường là Chủ tịch Tập Cận Bình. Chỉ trong vòng một năm, ông đã định hình lại cơ cấu chính trị của Trung Quốc, đưa nó trở về với cội rễ cộng sản lúc đầu.
Một lần nữa, chỉ một người ngồi trên đỉnh quyền lực.

Source : BBC

15/3/14

Ông Bảo Ân – Con trai út của vua Bảo Đại


Ông Bảo Ân – Con trai út của vua Bảo Đại

 

Ông Bảo Ân. Ảnh: Văn học cội nguồn

 Ông Bảo Ân. Ảnh: Văn học  nguồn  cội


Huy Phương biên soạn

Theo  Văn học nguồn cội
Nhiều người Việt Nam sống ở quận Cam nhiều năm nay nhưng ít người biết có một người con trai của Cựu Hoàng Bảo Ðại đang sinh sống tại nơi này.
Ðó là ông Nguyễn Phước Bảo Ân, con trai của bà Lê Phi Ánh, người vợ không hôn thú của cựu hoàng trong thời gian ở Ðà Lạt. Bà Phi Ánh có hai người con với cựu hoàng là bà Nguyễn Phúc Phương Minh sinh năm 1950 đã qua đời tại Mỹ cách đây vài năm và ông Bảo Ân, sinh năm 1951, đang sống tại thủ phủ tỵ nạn, Westminster.

Chúng tôi không gọi ông Bảo Ân bằng hoàng tử như trong văn bản triều đình mà gọi bằng “Mệ” theo lối xưng hô trong hoàng tộc: Con gái, con trai của vua được gọi bằng Mệ, hàng cháu là “Mụ” chứ không phải ai là Tôn Thất, Bửu, Vĩnh… đều được gọi bằng Mệ như nhiều người đã lầm tưởng (1).
Ðiều đặc biệt không phải vì ông là một hoàng tử lưu lạc, mà vì chính ông là người con nối dõi nhà Nguyễn. Cựu hoàng có tất cả 5 người con trai: Con Hoàng Hậu Nam Phương là Bảo Long không có vợ chính thức, Bảo Thăng không có con; con của Thứ Phi Mộng Ðiệp là Bảo Hoàng chết khi mới 1 tuổi, Bảo Sơn mất khi ông 30 tuổi không có con.
Bảo Ân có hai con, gái là Nguyễn Phước Thụy Sĩ, sinh năm 1976 và trai là Nguyễn Phước Quý Khang sinh năm 1977. Như vậy, Nguyễn Phước Quý Khang là cháu đích tôn của Cựu Hoàng Bảo Ðại và chắt của ngài là một cặp trai song sinh có tên là Nguyễn Phước Ðịnh Lai, Nguyễn Phước Ðịnh Luân ra đời năm 2012.
“Mệ” Bảo Ân sinh năm 1951 tại Ðà Lạt. Năm 1953, khi cựu hoàng sang Pháp, bà Phi Ánh đem hai con về sinh sống trong một biệt thự trên đường Phùng Khắc Khoan tại Sài Gòn. Ông theo học trường Saint Paul rồi Taberd.
Ngày 4 tháng 10 năm 1955, Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm lập ủy ban trưng cầu dân ý truất phế Quốc Trưởng Bảo Ðại, và trở thành quốc trưởng. Theo lời kể của ông Bảo Ân, sau ngày đó, nhiều biệt thự ở Sài Gòn, Ðà Lạt và Pháp của bà Phi Ánh đều bị tịch thu, bà và người nhà được lệnh ra khỏi nhà trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Nhiều người đã đến đục tường ngôi nhà vì nghi có của cải cải cất giấu. Tài sản này là của tư hữu của bà Phi Ánh, vì chúng ta cũng biết bà Phi Ánh là em vợ của Thủ Hiến Trung Phần Phan Văn Giáo, sinh ra trong một gia đình giàu có, trong khi Cựu Hoàng Bảo Ðại rất nghèo, trong thời gian sống rất khó khăn ở Pháp, phải nhờ sự yểm trợ của thân mẫu là bà Từ Cung. Ðức Từ Cung đã phải bán nhiều cổ vật của Vua Khải Ðịnh để lấy tiền gửi sang cho cựu hoàng.
Sau ngày cựu hoàng bị truất phế, bà con, ngay cả bên gia đình của bà Phi Ánh cũng không ai muốn chứa chấp mẹ con bà, ba mẹ con phải ở nhà thuê, rày đây mai đó.
Trong hoàn cảnh này, bà Phi Ánh đành phải bước thêm bước nữa.
Khi nghe bà Phi Ánh đi lấy chồng, theo đề nghị của nhiều người thân thuộc trong Hoàng Tộc, bà Từ Cung đem Bảo Ân về Huế ăn học.
Chúng ta cũng biết thêm rằng, ngày 25 tháng 8 năm 1945, khi thoái vị làm dân, Cựu Hoàng Bảo Ðại đã giao tất cả cung điện như là tài sản của quốc gia, trừ Cung An Ðịnh tại làng An Cựu, nơi bà Từ Cung sinh sống, là tài sản riêng, do lương bổng của Vua Khải Ðịnh xây dựng nên. Sau đó, chính “công dân” Vĩnh Thụy, bà Nam Phương và các con đã về ở đó một thời gian, trước gia đình tan rã, mỗi người một phương.
Cũng theo lời ông Bảo Ân, sau khi truất phế Bảo Ðại, Cung An Ðịnh bị chính quyền tịch thu, bà Từ Cung trong lúc đó đang đau yếu phải dọn ra một ngôi nhà nhỏ trong khuôn viên của cung. Tuy vậy trong cuốn hồi ký của Vua Bảo Ðại, ông không hề có một lời trách móc oán hận về chuyện bị đối xử tệ bạc này.
Bà Phi Anh. Ảnh: Văn học cội nguồn
Bà Phi Ánh thời xuân sắc. Ảnh: Văn học cội nguồn
Tại Huế, ông Bảo Ân theo học tại trường Thiên Hựu (Providence) do các linh mục quản nhiệm. Ông tâm sự rằng, tuy sống trong một gia đình Phật Giáo thuần thành, ông lại phải theo học từ nhỏ đến lớn tại các trường nhà dòng, nên ông còn thông thuộc kinh Thiên Chúa Giáo hơn một người theo đạo Chúa khác.
Sau thời gian ở Huế, Bảo Ân trở lên Ðà Lạt rồi về Sài Gòn. Tới tuổi quân dịch, năm 1970, chỉ mới có bằng trung học, ông vào quân trường Quang Trung, rồi phục vụ tại Trung Tâm 3-Tuyển Mộ Nhập Ngũ Sài Gòn. Không hiểu vì lý do gì, năm 1972, ông Bảo Ân bị thuyên chuyển ra SÐ3 tại Quảng Trị, nhưng khi ra đến nơi, sư đoàn đã tan hàng nên ông được trở về đơn vị gốc.
Cố gắng đến trường, và cuối cùng, trước khi Sài Gòn thất thủ, ông Bảo Ân là sinh viên năm thứ hai phân khoa Thương Mại tại Ðại Học Vạn Hạnh, Sài Gòn.
Sau năm 1975, bà Phi Ánh sống trong cô đơn tại Sài Gòn và qua đời vào năm 1984, ở tuổi 62. Cô Phương Minh, chị ruột của ông Bảo Ân, lấy chồng và lập nghiệp ở Pháp, ly dị, trước tháng 4 năm 1975 về Sài Gòn thăm thân mẫu và bị kẹt lại đây, sau đó được bảo lãnh sang Hoa Kỳ lập nghiệp và qua đời vào năm 2012. Phần ông Bảo Ân, lúc đó đã có gia đình nên phải sống dưới chế độ cộng sản thêm nhiều năm nữa, cho đến 1992 mới được gia đình bên vợ bảo lãnh sang Mỹ.
Cựu Hoàng Bảo Ðại có gồm cả vợ và tình nhân là 8 người với 13 người con (tài liệu đã được ông Bảo Ân hiệu đính):
Vợ:
1. Nam Phương Hoàng Hậu. Có hôn thú, 5 con.
2. Bùi Mộng Ðiệp. Không hôn thú, 3 con.
3. Lý Lệ Hà. Không hôn thú, không con.
4. Hoàng Tiểu Lan. Không hôn thú, 1 con gái.
5. Lê Thị Phi Ánh. Không hôn thú, 2 con.
6. Vicky (Pháp). Không hôn thú, 1 con gái.
7. Clément. Không hôn thú.
8. Monique Marie Eugene Baudot. Có hôn thú, không con.
Con:
* Với Nam Phương Hoàng Hậu:
1. Thái Tử Nguyễn Phúc Bảo Long (4-1-1936/28-7-2007)
2. Công Chúa Nguyễn Phúc Phương Mai (1-8-1937).
3. Công Chúa Nguyễn Phúc Phương Liên (3-11-1938).
4. Công Chúa Nguyễn Phúc Phương Dung (5-2-1942).
5. Hoàng Tử Nguyễn Phúc Bảo Thăng (9-12-1943).
(Bốn người con còn lại của Bà Nam Phương hiện sống ở Pháp.)
*Với Thứ Phi Mộng Ðiệp, hai người con đầu hiện ở Pháp:
1. Nguyễn Phúc Phương Thảo (1946).
2. Nguyễn Phúc Bảo Hoàng (1954-1955).
3. Nguyễn Phúc Bảo Sơn (1957-1987), tử nạn tại Nhật.
*Với Hoàng Tiểu Lan:
1. Nguyễn Phúc Phương Anh, hiện sống ở Hawaii.
* Với Lê Thị Phi Ánh:
1. Nguyễn Phúc Phương Minh (1950-2012).
2. Nguyễn Phúc Bảo Ân (1951).
* Với bà Vicky
1. Nguyễn Phúc Phương Từ (Pháp).
“Họa vô đơn chí!”
Bảo Ân đã trao cho chúng tôi những trang nhật ký viết về cuộc sống của ông sau ngày 30 Tháng Tư 1975:
Hai nhân vật cuối cùng của giòng Vua Bảo Ðại: Nguyễn Phước Ðịnh Lai và Ðịnh Luân (cháu nội của Bảo Ân)
Hai nhân vật cuối cùng của giòng Vua Bảo Ðại: Nguyễn Phước Ðịnh Lai và Ðịnh Luân (cháu nội của Bảo Ân)
Ngày 30 Tháng Tư, nóng lòng vì không có tin tức gì của Ðức Bà Từ Cung ở Huế, tôi ở lại Sài Gòn để ngóng tin nên đã bỏ lỡ chuyến bay ra Hạm Ðội 7. Sau vài tuần đi ‘học tập cải tạo’ trở về, Ủy Ban Quân Quản đến nhà tôi ở 213 Công Lý Q.1 yêu cầu chị Phương Minh và tôi phải dọn ra trong vòng 24 tiếng đồng hồ vì họ nói nhà này của tướng cảnh sát ‘ngụy’ Nguyễn Ngọc Loan.
Tôi không biết Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan có ở đây không? Thật ra biệt thự này ngày xưa là của Ðức Bà Từ Cung (mẹ Vua Bảo Ðại), ngài mua để khi vào Sài Gòn có nơi trú ngụ. Năm 1957 sau khi truất phế Vua Bảo Ðại, chánh quyền Ðệ Nhất Cộng Hòa đã tịch thu và sau này được Quốc Hội Ðệ Nhị Cộng Hòa với sự vận động tích cực của Trung Tướng TNS. Tôn Thất Ðính, chính quyền đã giao trả lại cho Ðức Bà Từ Cung và ngài ra lệnh lấy căn nhà trước lập bàn thờ Ðức Gia Long và văn phòng liên lạc bà con Nguyễn Phước Tộc, còn căn phía sau thì cho chị em chúng tôi ở.
Giấy tờ nhà đất chưa hoàn tất thì biến cố 1975 xảy ra nên không có cái gì để chứng minh là nhà này của gia đình chúng tôi. Vậy là hai chị em mau mau thu xếp đồ đạc, những gì có thể mang được gì thì mang, còn những gì nặng nề không thể mang được thì bỏ lại như tủ lạnh, bàn ghế tủ giường và nhiều thứ khác. Chị em chúng tôi về nhà Me chúng tôi ở nhờ.
Vào một buổi sáng thức dậy xuống nhà lấy vài vật dụng để xài, tôi không thấy cái vali quần áo mà tôi đã đem ra được khỏi nhà 213 Công Lý để về đây, đó là cái vali độc nhất của tôi còn lại, nay không cánh mà bay. Cuối cùng tôi tìm thấy một cái thư của chị giúp việc cho Me tôi để lại, đại ý trong thư chị ta viết, trong hoàn cảnh này, chị cần một số vốn để buôn bán nuôi con nên đã lấy cái vali trốn đi, và mong tôi tha thứ cho chị. Thế là tay trắng hoàn trắng tay, đành phải đi mua thêm quần áo để mặc.
Sống ở nhà Me tôi cho đến năm 1978 thì Me tôi bị quy vào diện tư sản, bị cưỡng chế ra khỏi nhà và buộc phải đi kinh tế mới trên cao nguyên. Vì không thể sống ở nơi rừng thiêng nước độc nên cả nhà đều bỏ trốn về Sài Gòn, mỗi người đi mỗi nơi, trốn chui trốn nhủi, không hộ khẩu, không chứng minh nhân dân, sống như những kẻ bất hợp pháp. Me và chị Phương Minh thì sống lén lút trong nhà dì Phi Hoa (vợ ông cựu Thủ Hiến Phan Văn Giáo), còn tôi thì ở nhờ nhà mẹ vợ, mỗi tháng đều phải chi tiền cho công an khu vực nhưng vẫn lo sợ bị bắt, nên ban ngày thì ngủ còn ban đêm thì mở mắt trao tráo để canh chừng công an gõ cửa xét hộ khẩu thì lo leo sang nhà bên cạnh trốn cho mau.
Me tôi rất lo lắng sợ tôi bị bắt, bà nói “Me và chị Phương Minh là đàn bà con gái, chắc không ai bắt đâu, còn con là con trai, mà là con Vua Bảo Ðại nữa, ở đây nguy hiểm lắm.” (Lúc đó chánh quyền đang tuyên truyền nói xấu nhà Nguyễn.) Me tôi ép tôi phải ra đi, bà gom góp, vay mượn cho chúng tôi vàng để tìm đường vượt biên.
Tôi đi vượt biên tổng cộng ba lần, cả ba lần đều bị lừa, hai lần vợ chồng con cái cùng đi, sau cùng hết tiền, Me tôi chỉ còn đủ cho một mình tôi đi thôi, nhưng cũng bị lừa luôn, tuy nhiên cũng còn may mắn vì chỉ bị mất vàng chứ không bị bắt vào tù.
Hết tiền, bà và chị Phương Minh đem nhẫn kim cương đi bán thì bị cướp lấy mất, chúng còn xô chị Minh té trầy cả mình mẩy. Tôi không dám làm phiền Me tôi nữa, vợ chồng tôi bàn với nhau coi ra chợ trời xem thử có thể buôn bán gì được không? Thế là tôi bán luôn hai chiếc nhẫn vàng, đó là quà kỷ niệm của Me tôi tặng khi tôi tốt nghiệp trung học và một chiếc khi tôi vào đại học.
Gian nan chốn chợ Trời
Vợ chồng tôi bắt đầu ra chợ trời kiếm sống bằng cách mua đi bán lại, các bạn hàng ngoài chợ trời thấy hai khuôn mặt ngơ ngơ ngác ngác, họ biết hai con nai này mới ra giàn, nên họ có những món hàng mua cả năm rồi mà không bán được, dân Chợ Trời gọi là “hàng ngậm,” họ giả dạng cho người khác đem đến bán cho chúng tôi, ham rẻ chúng tôi mua vô và sau đó có những món hàng chúng tôi “ngậm” cho đến ngày đi Mỹ vẫn còn trong nhà.
Thấy coi bộ bán Chợ Trời không khá, một dịp đi thăm người bà con ở Q.11, được biết người bà con này có phần hùn trong một xưởng sản xuất nước tương, vợ tôi mới bàn với tôi đổi cách làm bằng nghề đi bỏ mối ở chợ Bến Thành. Thế là vợ chồng tôi lại chuyển qua nghề bỏ mối nước tương, chúng tôi mua nước tương rồi thuê xe ba bánh chở từ Phú Thọ Hòa đến chợ Bến Thành.
Gia đình “Mệ” Bảo Ân trong thời gian lăn lóc Chợ Trời.
Gia đình “Mệ” Bảo Ân trong thời gian lăn lóc Chợ Trời.
Tôi đứng ở ngoài giữ hàng, còn vợ tôi thì đẩy hàng vào chợ giao cho khách hàng, cô ấy không cho tôi vô chợ vì sợ gặp người quen. Bỏ mối nước tương một thời gian, chính quyền không cho xe ba bánh lưu thông những con đường chính trong trung tâm thành phố, vả lại tôi thấy vợ tôi khiêng nặng và cực nhọc quá mà chẳng kiếm được bao nhiêu nên vợ chồng tôi bàn nhau đổi nghề một lần nữa.
Số là khi đi lấy nước tương bỏ mối, chúng tôi thấy trong khu vực này có vài xưởng làm dép cao su, bỏ mối dép cao su nhẹ nhàng hơn, thế là vợ chồng tôi đến nói chuyện và xin mua về để bán. Lúc đầu họ bảo chúng tôi phải đợi đến khi nào họ giao cho khách hàng cũ của họ xong, nếu còn dư họ sẽ bán cho chúng tôi. Cả tháng trời, mỗi ngày chúng tôi phải chờ đợi 3-4 tiếng đồng hồ mà chỉ lấy được vài lố (12 đôi) dép, rồi chúng tôi đem những lố dép đó giao lại cho các tiệm bán dép ở chợ Ðại Quang Minh, Chợ lớn.
Sau một thời gian quen rồi, chủ hãng giao cho chúng tôi nhiều hơn và bạn hàng ở chợ, họ cũng đặt hàng nhiều hơn. Có hôm chúng tôi bán được hơn năm mươi lố dép. Những người lấy mối dép như chúng tôi thấy chúng tôi được chủ hãng giao cho một số lớn, họ ganh tỵ, kiếm chuyện gây sự và dọa đánh chúng tôi, bọn họ thì đông, còn chúng tôi chỉ có hai vợ chồng. Bán dép thì nhẹ nhàng hơn nước tương, cũng kiếm tiền khá hơn nhưng bây giờ chúng tôi cảm thấy không còn an toàn nữa, mỗi lần đi lấy hàng phải nhìn trước ngó sau xem có ai phục kích mình không?
Tôi thì lo cho vợ tôi, nhưng ngược lại nàng nói nàng không sợ mà chỉ sợ cho tôi. Cô ấy nói nếu tôi có mệnh hệ nào thì Me tôi sẽ oán trách cô ấy, vì ngay cả chuyện đi bán Chợ Trời, bỏ mối nước tương hay dép chúng tôi đều giấu mẹ tôi. Nghĩ mình đang sống bất hợp pháp, không có một tờ giấy lận lưng, nay đi gây chuyện với người ta, công an mà bắt được thì đi tù là cái chắc, nên vẫn trông có dịp kiếm cách khác làm ăn.
Trong một dịp tình cờ đi ngang qua đường Nguyễn Thái Bình, Q.1, tôi gặp lại anh bạn thương phế binh tên Quân, con Ðại Úy Hải, trưởng ban an ninh trong Quân Trấn, mà chúng tôi quen nhau trước 1975. Nhà anh ở trong Quân Trấn, Sài Gòn-Chợ Lớn, nơi trước kia tôi làm việc. Hiện nay, anh đang mua bán đĩa nhạc trên lề đường Nguyễn Thái Bình. Kỳ này tôi nói vợ tôi ở nhà chăm sóc con cái, để tôi ra gặp và hùn vốn với Quân.
Sáng chúng tôi đứng ở Nguyễn Thái Bình để thu mua đĩa, chúng tôi chỉ mua nhạc hòa tấu thôi, buổi chiều thì chúng tôi đi xe bus đến các quán cafe nhạc ở Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Ðịnh để bán. Thời gian này, nhà nước chỉ cho phép các quán cafe mở nhạc không lời mà thôi, nên các đĩa nhạc hòa tấu càng ngày càng khan hiếm khó mua. Chúng tôi lại xoay qua buôn bán đủ thứ, cái gì có lời là chúng tôi mua vào.
Tôi có một kỷ niệm không bao giờ quên được là, có một lần con trai tôi là Quý Khang đòi theo cha ra chợ Trời chơi, lúc đó Quý Khang mới ba tuổi, đến trưa Quý Khang buồn ngủ, tôi đang bận coi hàng nên không thể chở Khang về, nên trải tạm tờ báo ra lề đường cạnh chỗ tôi ngồi bán hàng để cháu nằm ngủ. Nhưng xui xẻo làm sao, đúng lúc đó công an và quản lý thị trường đem xe đến hốt những người chiếm lòng lề đường để buôn bán, thương binh Quân thì tàn tật không chạy nhanh được nên tôi phải phụ Quân gom hàng chạy cho nhanh, nếu họ bắt được thì hàng mất, còn tôi chắc cuộc sống của tôi cũng bi đát luôn, quýnh quáng quá lo chạy, nên bỏ quên thằng con đang nằm ngủ ngon lành trên lề đường. Lúc đó đường Nguyễn Thái Bình vắng tanh không còn một bóng người, chỉ còn Quý Khang đang nằm ngủ trên tờ báo, đúng như thành ngữ “đem con bỏ chợ!”
Quân theo gia đình đi Mỹ theo diện H.O. trước chúng tôi. Sau này qua Mỹ gặp lại anh ở Garden Grove, Quân nhỏ tuổi hơn tôi, chưa lập gia đình vẫn ở với cha mẹ, anh bị tàn tật nên cũng khó lấy vợ, còn gia đình tôi ở Westminster, lâu lâu Quân đến nhà tôi ăn cơm, ngồi ôn lại những ngày tháng vui buồn chợ Trời. Tiếc là ngày nay Quân đã ra người thiên cổ.
Gian nan những chuyến đi
Khoảng cuối năm 1975, bà Phi Ánh vào Tòa Ðại Sứ Pháp tại Sài Gòn, yêu cầu xin cho toàn gia đình (gồm cả chồng, con riêng và con của cựu hoàng) được đi Pháp. Ít lâu sau, qua ông đại sứ Pháp, Cựu Hoàng Bảo Ðại chỉ chấp thuận cho bà Phi Ánh và hai con sang đoàn tụ và tòa đại sứ đã nhanh chóng cấp Laissez-Passer cho bà Phi Ánh, Phương Minh và Bảo Ân. Tuy nhiên, Phương Minh đã có thời gian sống ở Pháp, nói rằng đời sống ở Pháp rất khó khăn, và tuy vì tình thương con, cựu hoàng thật ra không đủ khả năng bảo trợ nuôi dưỡng ba người. Mặt khác gia đình của bà Phi Ánh không thể chia cắt như thế, và Bảo Ân cũng không thể bỏ vợ con ở lại, nên chuyện ra đi không thành.
Ông Bảo Ân và Thứ Phi Mộng Ðiệp trước tranh vẽ Cựu Hoàng Bảo Ðại
Ông Bảo Ân và Thứ Phi Mộng Ðiệp trước tranh vẽ Cựu Hoàng Bảo Ðại
Năm 1978, người chồng sau của bà Phi Ánh vượt biên sang Mỹ thành công, gửi giấy bảo lãnh về, nhưng lúc ấy Bảo Ân đã có gia đình, không đủ điều kiện ra đi. Trong khi chờ đợi đi Mỹ, bà Phi Ánh mắc bệnh ung thư và qua đời năm 1984. Năm 1985, bà Phương Minh và các con riêng của bà Phi Ánh đi định cư ở Mỹ.
Mãi đến năm 1992, gia đình ông Bảo Ân được gia đình bên vợ bảo lãnh, sang Mỹ và định cư tại quận Cam từ đó đến nay. Những năm đầu tiên, cũng như bao nhiêu người mới sang khác, bà Bảo Ân phải ngồi shop may suốt ngày, ông làm trong một hãng in áo T-shirt và về sau sang làm cho một hãng Nhật chuyên sản xuất CD tại Garden Grove.
Con trai ông Bảo Ân, cháu đích tôn của Cựu Hoàng Bảo Ðại, Nguyễn Phước Quý Khang tốt nghiệp UCI về ngành thương mãi và hiện làm cho một công ty ngoại quốc ở Sài Gòn.
Xây mộ cho phụ hoàng
Gia đình Bảo Ân đến Mỹ năm 1992 nhưng vì thất lạc hồ sơ nên đến năm 2005 gia đình mới có quyền công dân. Cầm passport trong tay, quốc gia đầu tiên mà ông muốn đến là Pháp, để thăm mộ cha, điều mà ông mơ ước từ lâu, nhưng chưa có cơ hội thực hiện. Ông Bảo Ân đã liên lạc với một người bạn ở Paris là Ðặng Văn Phụng, nhờ vợ chồng người này đi xem thử tình trạng ngôi mộ của Vua Bảo Ðại hiện nay tại nghĩa trang Passy thuộc hạt Trocadero Paris 16e ra sao. Theo lời kể của ông Bảo Ân, người bạn này suốt một ngày đi tìm, đọc hết các tấm bia mộ mà không không thấy, nghi ngờ rằng cựu hoàng không được chôn cất tại đây. Ông Bảo Ân gợi ý cho người bạn là nên đi tìm người gác nghĩa trang để hỏi, mặc dầu với bản sơ đồ trong tay, cuộc tìm kiếm cũng không kết quả. Một lần khác, trong khi đang đứng gần ngôi mộ của cựu hoàng, người bạn này tình cờ gặp và hỏi một người cảnh sát già về ngôi mộ của “Sa Majesté Bảo Ðại,” thì ông này chỉ ngay vào ngôi mộ gần đó. Ðó là một ngôi mộ không có bia, không khắc tên, chỉ trơ trọi hai tấm “đan” xi măng sần sùi, với mấy chậu hoa đã quá cũ kỹ qua thời gian. Người bạn của anh nhìn xuống ngôi mộ mà bật khóc. Nơi yên nghỉ của một ông vua mà như thế này sao?
Ông Bảo Ân hồi tưởng: “Nghe anh kể mà tôi khóc nức nở, thật là tội nghiệp cho cha tôi, cha nằm đó lạnh lẽo như một kẻ vô danh đã 8 năm rồi, không ai biết để thắp một nén nhang cho cha ấm lòng.”
Nghĩa trang Passy ở Paris là một nghĩa trang nổi tiếng được xây dựng từ đầu thế kỷ XIX, nơi chôn cất nhiều nhân vật lừng danh của thế giới như tài tử phim hài Fernandel (1903-1971,) nhà văn Virgil Gheorghiu (1916-1992,) họa sĩ Edouard Manet (1832-1883,) người sáng lập công ty xe hơi Marcel Renault (1872-1903,) Tổng Thống Pháp Alexandria Millerand (1859-1943)… Cũng theo lời kể của ông Bảo Ân, Vua Bảo Ðại không tiền và cũng không có thế lực để được chôn cất tại đây, đây là phần mộ của một thương gia giàu có ở Paris, rất kính trọng cựu hoàng, khi nghe ông qua đời đã hiến phần đất này cho ngài. Về việc xây mộ cho Cựu Hoàng Bảo Ðại, khi ông từ trần ở Paris, chỉ có người vợ cuối cùng của ông là bà Monique Baudot, người Pháp ở bên cạnh, và trên pháp lý, chỉ có bà Monique, người vợ có hôn thú còn sống mới có quyền xây mộ cho ngài. Theo sự hiểu biết của ông Bảo Ân, bà Thứ Phi Mộng Ðiệp và các con tuy có tiền nhưng lại không muốn giao cho bà Monique xây mộ. Lúc sinh thời, Thái Tử Bảo Long không làm được, gia đình bên các công chúa không làm được, phía Nguyễn Phước Tộc cũng không làm được vì không có sự đồng ý của bà Monique, thậm chí hội này có quyên góp và giao lại cho bà Monique một số tiền để xây mộ nhưng không có kết quả… Nhiều người giàu có muốn xây mộ cho Vua Bảo Ðại để lấy tiếng cũng bị bà Monique cản trở.
Bên mộ vua Bảo Đại.
Bên mộ vua Bảo Đại.
Ông Bảo Ân rất xúc động và đau lòng khi nghe người bạn từ Paris mô tả những gì về ngôi mộ này, nên muốn nhờ người bạn đi kiếm người làm một tấm plaque khắc tên Vua Bảo Ðại đặt trên ngôi mộ và sau này có thể xúc tiến việc xây mộ cho ngài. Người bạn tìm đến ông Nguyễn Duy Hiệp, một người Việt, có dịch vụ chuyên lo về thủ tục mai táng của thành phố Paris. Ông này khi nghe nói đến có một người con cựu hoàng hiện ở Mỹ có quan tâm đến ngôi mộ, ông rất cảm kích và ngỏ ý ông sẽ liên lạc với bà Monique để có thể tiến hành việc xây mộ. Ông Nguyễn Duy Hiệp giải thích là bà Monique có nhờ ông quyên tiền để xây mộ cho cựu hoàng, nhưng trong ba năm, ông chỉ nới quyên được 1,200 Euros, vậy nếu “Mệ” Bảo Ân có khả năng làm được, “thì mời sang Paris, chúng ta sẽ bàn tiếp”.
Một chủ công ty mộ bia ở Paris là ông Cridel thấy hoàn cảnh của Cựu Hoàng Bảo Ðại đáng thương nên đã gặp bà Monique, và điều đình với bà, nếu bà bằng lòng thì ông sẽ thực hiện bản vẽ và ông sẽ giúp 50% phí tổn xây cất. Ông Nguyễn Duy Hiệp cũng góp lời thuyết phục, cuối cùng bà Monique đồng ý và giao cho ông Hiệp gây quỹ trong bà con cộng đồng Việt Nam.
Gây quỹ
Tốn phí cho công trình xây mộ ước tính ban đầu là khoảng 25,000 Euros. Công ty Cridel chịu 50%, ông Nguyễn Duy Hiệp quyên được 3,000 và cá nhân ông đóng thêm 1,000, chùa Tịnh Ðộ đóng góp 1,000, các vị đạo hữu Cao Ðài cho được 400. Số tiền còn lại do các vị trong cộng đồng Việt Nam đóng góp. Xúc động nhất là có 1 cháu gái gởi tới 5 Euros kèm theo bức thư đại ý là cháu còn đi học không có nhiều tiền nhưng thấy thương ông vua của mình quá nên xin được đóng góp để xây mộ cho ngài. Như vậy còn thiếu khoảng 9,000 Euros cho nên việc xây mộ đã chờ đợi hơn 3 năm nay rồi mà không thực hiện được. Sau sự tường trình của ông Nguyễn Duy Hiệp, ông Bảo Ân hứa sẽ cung cấp số tiền còn lại. Ông Bảo Ân cũng cho chúng tôi biết, qua Mỹ phải làm ăn vất vả, không có tiền, tuy vậy ông đã “cà” tất cả thẻ “credit” ông có mới có đủ tiền xây mộ cũng như trang trải tốn phí cho những chuyến đi sang Pháp.
Năm 2005, ông Bảo Ân qua đến Pháp, việc đầu tiên là đến gặp ông Cridel để xem bản vẽ, để xem có cần sửa chữa gì không? Ghi khắc tên tuổi của cựu hoàng trên bia đá như thế nào? Ðể khắc chữ bằng vàng trên bia mộ, phải tốn thêm 2,200 Euros. Sau khi bà Monique chấp thuận, ông Cridel sẽ cho xúc tiến xây mộ ngay lập tức, và khi nào hoàn tất, ông sẽ báo cho ông Bảo Ân trở qua Pháp để tổ chức lễ tưởng niệm và cầu siêu cho cựu hoàng.
Khi được thông báo công việc êm xuôi, cuối năm 2006, ông Bảo Ân trở lại Paris. Ông “chạm trán” bà Monique tại phần mộ của cựu hoàng. Bà Monique nổi tiếng là khó khăn, câu nói đầu tiên của bà Monique khi nhận ra Bảo Ân là “mắng” ông sao sang Paris mà không đến thăm viếng bà theo phép lịch sự, trong khi đó lại đến thăm bà Mộng Ðiệp. Ông Bảo Ân đành lấy lý do ông không rành tiếng Pháp và không biết đường sá.
Bà Monique cũng than phiền là các con Vua Bảo Ðại “làm phiền bà quá nhiều!”
Việc ông Bảo Ân xây được mộ cho cựu hoàng cũng là do duyên định, hình như vua cha dành cho ông vinh dự này vì gần 10 năm nay, không ai có thể thuyết phục được bà Monique để cho họ xây mộ của Vua Bảo Ðại, trong khi chính bà lại không có tiền hay không muốn xây mộ.
Mộ Bảo Đại sau khi đã sửa sang.
Mộ Bảo Đại sau khi đã sửa sang.
Ngoài các dòng chữ do ông Bảo Ân soạn khắc trên bia mộ, bà Monique đã quyết định là khắc thêm hình ảnh kim khánh bốn chữ “Bảo Ðại Sắc Tứ”(*) khắc trên tấm bia, mà có lẽ những người làm bia mộ, không ai biết ý nghĩa của nó. Trước ngày khánh thành, ông Bảo Ân cho bà Monique hay là ông sẽ đem lá cờ vàng ba sọc đỏ vào treo trước ngôi mộ, vì đây là lá cờ ngày 2 Tháng Sáu năm 1948, chính phủ của Quốc Trưởng Bảo Ðại (với Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuân) đã chính thức dùng làm quốc kỳ của quốc gia Việt Nam. Cuộc thương thảo bất thành vì bà Monique không bằng lòng và de dọa sẽ gọi cảnh sát can thiệp nếu ông Bảo Ân đem lá cờ VNCH vào lễ khánh thành.
Con trai của cựu hoàng phản đối bằng cách không đến tham dự lễ khánh thành ngôi mộ của cha, và bài diễn văn soạn sẵn, với tư cách là đại diện của gia đình Vua Bảo Ðại, để cám ơn các quan khách và hội đoàn người Việt tại Paris, sẽ không bao giờ còn cơ hội để đọc nữa.
Ngày khánh thành mộ cựu hoàng có đủ các chức sắc thành phố, các hội đoàn người Việt ở Paris, nhưng lại vắng bóng các “Mệ” con của Vua Bảo Ðại, ngoài lý do trên của Bảo Ân, không ai muốn gặp mặt bà Monique. Ông Bảo Ân cho biết lý do, nếu ai đến, tức là đã công nhận bà Monique trong vai trò người vợ chính thức của nhà vua, đó lại là điều tất cả mọi người không ai muốn.
Ghi chú:
(*) Theo nhà biên khảo Võ Hương An, 4 chữ “Bảo Ðại Sắc Tứ” khắc trong kim khánh trên bia của lăng Vua Bảo Ðại tại nghĩa trang ở Paris, nhìn thì đẹp nhưng không có nghĩa. Hai chữ sắc tứ (hay có khi là ân tứ) được dùng khi vua ban thưởng một vật gì đó cho bầy tôi; ở đây, Vua Bảo Ðại đã là vua rồi thì không viết “Bảo Ðại Sắc Tứ” được. Nếu muốn trang trí thì nên ghi “Bảo Ðại Hoàng Ðế”.
Trong bài báo này chúng tôi dùng tiếng “mộ” để chỉ nơi an nghỉ của Cựu Hoàng Bảo Ðại. Nhưng theo sách vở triều Nguyễn, mộ của Hoàng Ðế, Hoàng Hậu, Thái Hậu được gọi là “lăng,” còn ngoài ra, dân thường và quan lại, dù đến nhất phẩm triều đình cũng chỉ được gọi là “mộ.”
Những đoạn đời gian truân
Ông Bảo Ân nhớ lại: Nếu không có chuyện tịch thu tài sản và nhà cửa của bà Phi Ánh, mẹ ông, thì không có cảnh gia đình tan tác, mẹ con mỗi người mỗi ngả và lâm cảnh túng bấn.
“Cuộc đời đôi khi giống như một vở kịch.” Ông Bảo Ân tâm sự: “Ngày hôm đó thật là một ngày buồn thảm đáng ghi nhớ, trời đã tối rồi mà ba mẹ con chúng tôi vẫn chưa tìm ra chỗ để dung thân, đi tới đâu ai cũng khéo léo từ chối, không ai còn muốn dính dáng tới chúng tôi nữa. Ông ngoại nói với dì Phi Hoa để cho chúng tôi tạm trú, mặc dầu gia đình bà cũng đang lâm vào hoàn cảnh khó khăn vì có liên hệ đến Quốc Trưởng Bảo Ðại như chúng tôi.
Một thời gian khi thấy tình hình bên ngoài tạm yên, Me tôi quyết định cho chúng tôi đi học lại. Me tôi nhờ ông ngoại đến trường ghi danh cho chúng tôi, nhưng ông ngoại tới đâu, sau khi xem ‘lý lịch’ họ đều khéo léo từ chối, mà không nói lý do. Chị em chúng tôi đành phải ở nhà chơi một năm không đến trường. Sau đó chúng tôi phải tìm giải pháp là làm lại giấy khai sinh, lấy họ mẹ, từ dòng dõi nhà Nguyễn đổi thành con cháu họ Lê. Chúng tôi đã trở thành con người mới, không còn dính líu gì đến chế độ cũ nữa, có thể gọi là ‘chối bỏ nguồn gốc để tồn tại!’”
Trong thời gian này, bà Phi Ánh cũng không dám liên lạc với Ðức Từ Cung vì sợ bị lộ tung tích, vì dầu sao Bảo Ân cũng là giọt máu của cựu Hoàng Bảo Ðại duy nhất đang sống tại Việt Nam.
Công báo của VN Cộng hòa tịch biên tài sản.
Công báo của VN Cộng hòa tịch biên tài sản.
Ông Bảo Ân tiết lộ, tên thật của ông do bà Từ Cung đặt cho ông khi mới sinh ra đời là Bảo Khương. Khi làm lại giấy khai sinh, ông đã đổi tên Bảo Ân và lấy họ mẹ. Sau này khi bà Từ Cung và cựu Hoàng Bảo Ðại biết chuyện này, cũng đã rất thông cảm.
Năm 1964, bà Từ Cung đem Bảo Ân ra Huế ở với bà để đi học, cho đến năm 1968, khi biến cố Mậu Thân xảy ra, sau khi Việt Cộng rút ra khỏi Huế, bà Phi Ánh lo sợ cho con, nên đã nhờ một người trong Nguyễn Phước Tộc là ông Bửu Nghi, xin với Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ một chiếc trực thăng để đưa Bảo Ân từ sân Phú Văn Lâu lên phi trường Phú Bài, và từ đây ông đi theo máy bay C.130 chở tử sĩ và thương binh về Sài Gòn. Mười hai năm sau, 1980, “Mệ” Bảo Ân và chị là Phương Minh đã trở lại Huế để thọ tang bà nội là Ðoan Huy Hoàng Thái Hậu, tức là Ðức Bà Từ Cung.
Việc tịch thu tài sản của gia đình Quốc Trưởng Bảo Ðại
Nhiều người biết chuyện Quốc Trưởng Bảo Ðại bị ông Ngô Ðình Diệm truất phế trong cuộc “trưng cầu dân ý” vào ngày 23 Tháng Mười năm 1955, nhưng ít ai biết đến việc tài sản của toàn gia đình những người liên hệ với Quốc Trưởng Bảo Ðại (kể cả vợ không hôn thú) và của các ông Vĩnh Cẩn, Nguyễn Ðệ đều bị tịch thu. Thân mẫu của Quốc Trưởng Bảo Ðại, Ðức Từ Cung phải dọn ra khỏi Cung An Ðịnh.
Câu hỏi của chúng tôi đối với ông Bảo Ân là, phải chăng việc tịch thu tài sản này là do cấp dưới, tùy tiện, “lấy điểm” mà không phải do chủ trương, chính sách của cấp trên?
Ông Bảo Ân đã cho chúng tôi xem một tài liệu cũ mà ông đã lưu giữ từ 56 năm qua, tờ Công Báo Việt Nam Cộng Hòa ngày Thứ Bảy 22 Tháng Ba 1958, ấn hành bởi tòa tổng thư ký Phủ Tổng Thống, “bảng phụ đính vào quyết định số 400.BTC/DC ngày 14 Tháng Ba 1958 của ông bộ trưởng tài chánh chỉ định những tài sản của Bảo Ðại và bộ-hạ đặt dưới đạo luật số 17/57 và 16-2-1957 và sắc lệnh số 122-TC ngày 27-02-1958 chỉ định tài sản tịch thu” của:
- Vĩnh Thụy tức Bảo Ðại.
- Marie Jean Nguyễn Hữu Hào, tức Nguyễn Thị Lan, tức Nam Phương Hoàng Hậu, vợ chính thức của Bảo Ðại. – Bùi Thị Mông Ðiệp hay Bùi Mộng Ðiệp, vợ không chính thức của Bảo Ðại.
- Lê Thị Phi Ánh hay Lê Phi Ánh, vợ không chính thức của Bảo Ðại.
- Hoàng Thị Lang (hay Lan) tức Wong Y Lang, tức Jenny, vợ không chính thức của Bảo Ðại.
- Vĩnh Cẩn (anh em chú bác và là người thân cận với cựu hoàng, thường được gọi là Hoàng Tùng Ðệ) và vợ chính thức là Nguyễn Hữu Thị Bích Tiên.
- Nguyễn Ðệ (đổng lý văn phòng quốc trưởng ở Paris) và vợ là Bùi Thị Mão.
Tài sản bị chỉ định tịch thu gồm có bất động sản như nhà cửa, lâu đài, biệt điện, đồn điền, các sở đất, các kho chứa hàng, tất cả khí mãnh, dụng cụ trang bị cho các cơ sở trên, số tồn khoản tại các nhà băng, các cổ phần trong các công ty, các số nợ cho người khác vay, các loại xe hơi…
Chúng ta cũng biết là sau khi Quốc Trưởng Bảo Ðại bị truất phế, An Ðịnh Cung, diện tích 16,584 m2, tọa lạc tại bờ sông An Cựu Huế, tư sản của Vua Khải Ðịnh, không phải của triều đình nhà Nguyễn, đã bị chỉ định là tài sản tịch thu của “Vĩnh Thụy tức Bảo Ðại”. Thoạt đầu Ðức Từ Cung phải dọn qua tạm trú tại nhà thờ Kiên Thái Vương, trong khuôn viên Cung An Ðịnh Cung, và sau đó ra ở tại ngôi nhà ở địa chỉ 79D Phan Ðình Phùng, gần chợ An Cựu cho đến khi bà qua đời.
Sống lưu vong, chết nghèo khó
Theo lời kể của thứ phi Mộng Ðiệp với ông Bảo Ân, cuối năm 1955, sau khi bị truất phế, bề ngoài không ai biết cựu hoàng nghĩ gì, nhưng theo bà, ông đã có một thời gian bị trầm uất, mất ngủ và phải dùng thuốc an thần. Ông nói là ông rất lo cho Ðức Từ Cung. Sau này nghe tin Ðức Từ Cung bị đuổi ra khỏi Cung An Ðịnh, cựu Hoàng Bảo Ðại lại càng lo hơn, tối không ngủ được. Cựu hoàng hút thuốc lá liên miên, và thường bỏ nhà đi “bụi đời” (nguyên văn), không biết đi đâu, chỉ những lúc đau ốm hay cạn tiền mới trở về với bà Mộng Ðiệp.
Cũng theo lời tường thuật của ông Bảo Ân: “Sau cú ‘sốc’ đó cựu hoàng không muốn tin ai nữa, không muốn tiếp xúc với ai, ông bảo bà Mộng Ðiệp đưa tiền rồi đeo cái túi xách lên vai đi 3-4 ngày, đôi khi đi cả tuần đến khi đau ốm hoặc hết tiền mới trở về. Khi hết bệnh ông lại đi tiếp, hỏi ông đi đâu thì ông nói đi loanh quanh đây thôi. Có khi bà Mộng Ðiệp phải bảo Hoàng Tử Bảo Sơn và anh Jean Bui (con riêng của bà) theo dõi cựu hoàng, thì ông giận bà suốt hai tuần. Có lần cựu hoàng lên cơn sốt rét nằm trên băng ghế, dưới hầm metro, cảnh sát đem ông về đồn và gọi điện thoại cho Hoàng Tử Bảo Long đến bảo lãnh ông về, rồi khi hết bệnh ông lại đi nữa.”
Thứ Phi Mộng Ðiệp nói với Bảo Ân: “Nhà dì giống như cái trạm, hết tiền hay đau bệnh thì ngài mới về. Vì vậy khi Hoàng Hậu Nam Phương qua đời năm 1963, ở Chabrignac, không ai biết ngài ở đâu để thông báo. Ðiều này làm ngài rất buồn và cứ băn khoăn trách móc dì mãi!”
Nghèo khổ và cô đơn
Năm 1967, Công Chúa Phương Minh sang Pháp theo sự sắp xếp hôn nhân của gia đình nhưng không thành, thấy hoàn cảnh của vua cha cô đơn và tội nghiệp, nên cô tình nguyện ở lại để săn sóc cha.
Lúc này cựu hoàng đã dùng thuốc ngủ rất nặng, có lần uống thuốc xong, nằm vắt tay lên trán, vừa suy nghĩ vừa hút thuốc. Khi thuốc ngấm, ông ngủ hồi nào không biết, điếu thuốc trên tay rơi xuống áo cháy phỏng cả ngực, nên lần sau mỗi lần ông dùng thuốc ngủ, cô Phương Minh đứng đó canh chừng đến khi ông ngủ rồi mới dám đi làm công việc. Tuy ở Paris, Phương Minh cũng chỉ gặp Hoàng Tử Bảo Long một lần và chưa hề giáp mặt Bảo Thăng và các công chúa Phương Mai, Phương Liên và Phương Dung. Quốc Trưởng Bảo Ðại có nhiều vợ và nhiều dòng con, khi Nam Phương Hoàng Hậu qua đời, ông cũng không hay biết, điều đó đã tạo thêm sứt mẻ trong gia đình.
Ðời sống ở Paris cũng khó khăn, vất vả, cô con gái của cựu hoàng, phải đi làm tiếp viên trong một nhà hàng Trung Hoa để có phương tiện để sống gần cha và chính cô, cũng phải nhận sự trợ giúp từ mẹ ở Sài Gòn. Trong thời gian này, hầu hết sự chi dùng của ngài là do tiền của Ðức Bà Từ Cung gởi qua. Mặc dầu các con cũng thường hay lui tới thăm ngài, nhưng ngài không bao giờ đề cập đến vấn đề tiền bạc, và cũng không ai nghĩ đến chuyện giúp đỡ ngài. Theo lời cô Phương Minh kể lại, khi có tiền thì hai cha con rủ nhau đi nhà hàng, khi hết tiền thì nhiều ngày chỉ có một bữa ăn.
Nhiều khi cạn tiền, túng thế, cựu hoàng phải bảo Phương Minh chạy đi “vay mượn” những người quen biết.
Cho mãi đến năm 1971, Phương Minh hay tin mẹ đau nặng, cô trở về Sài Gòn và bị kẹt lại sau khi cộng sản chiếm miền Nam. Cũng năm này, Bảo Ðại kết hôn với Monique Baudot, một phụ nữ Pháp kém hơn 30 tuổi (Monique Baudot sinh năm 1946.) Bảo Ðại vào đạo Thiên Chúa, có tên thánh là Jean-Robert.
Ở Paris, cựu Hoàng Bảo Ðại không có nổi một căn nhà, nơi mà cựu hoàng ở với bà Monique trong những ngày cuối đời là do một người Pháp yêu mến để cho cựu hoàng ở không lấy tiền. Có lần, theo lời kể của bà Mộng Ðiệp, bà Monique đã xúi nhà vua kiện ra tòa án để lấy các tài sản của bà thứ phi, nhưng nhà vua đã không bằng lòng. Cuộc hôn nhân cuối cùng với bà Monique đã đưa đến chia rẽ trong gia đình cựu hoàng, từ đó không ai đến thăm viếng ông nữa và gần như vị vua cuối cùng của triều Nguyễn sống trong cảnh nghèo khó và cô đơn. Năm 1982, nhân khai trương Hội Hoàng Tộc ở hải ngoại, Bảo Ðại lần đầu tiên sang thăm Mỹ với tư cách cá nhân, cùng đi với cựu hoàng có bà Monique.
Sau khi cựu Hoàng Bảo Ðại kết hôn với bà Monique thì các con đều xa lánh không lui tới, thăm viếng. Ông mất ngày 31 Tháng Bảy 1997 tại Quân Y Viện Val-de-Grâce, Paris, hưởng thọ 85 tuổi. Ðám tang Bảo Ðại được tổ chức một cách lặng lẽ vào lúc 11 giờ ngày 6 Tháng Tám năm 1997 tại nhà thờ Saint-Pierre de Chaillot số 35 đại lộ Marceau, quận 16 Paris và linh cữu được mai táng tại nghĩa địa Passy trên đồi Trocadero, không hề thấy sự hiện diện của thân thích gia đình, trừ bà Monique, người vợ cuối cùng ở bên cạnh, với cờ tam tài của Pháp Quốc và Hội Cựu Quân Nhân Pháp.
‘Hoàng Tử’ Bảo Ân xin hai chữ ‘công bình’
Ðể kết thúc 5 kỳ báo viết về cựu Hoàng Bảo Ðại và tấm lòng của đứa con trai lưu lạc Bảo Ân, không có gì hơn là mời bạn đọc hiểu nỗi lòng của ông, được ghi lại trong bài diễn văn thay mặt gia đình, dự định đọc trong lễ khánh thành lăng mộ cựu Hoàng Bảo Ðại năm 2006 không thành.
Từ trái sang phải: Bà Ưng Thi, cựu Hoàng Bảo Ðại, bà Monique Baudot, ông Ưng Thi (Paris 1995)
Từ trái sang phải: Bà Ưng Thi, cựu Hoàng Bảo Ðại, bà Monique Baudot, ông Ưng Thi (Paris 1995)
Hoàng Tử Bảo Ân đã biện bạch nỗi lòng của một đứa con “bất hiếu” và xin hai chữ “công bình” cho phụ hoàng: “Năm 1980 tại Huế, tôi đã từng khóc để tiễn biệt Ðức Bà Nội tôn kính của chúng tôi là Ðoan Huy Hoàng Thái Hậu Từ Cung về với tổ tiên, liệt thánh nhà Nguyễn. Một lần nữa, 1986, tôi lại khóc để vĩnh biệt mẹ thân yêu của chúng tôi là bà thứ phi Lê Phi Ánh, và bây giờ, mặc dầu trễ chín năm do hoàn cảnh, cuối cùng tôi cũng đến được nơi đây để mong một phần nào làm tròn bổn phận của một đứa con hơn 50 năm qua, ao ước được gặp lại cha mình, nhưng rồi mãi mãi niềm ao ước đó chẳng bao giờ thành hiện thực. Ngày nay đứng bên mộ phần của cha, xin cúi đầu kính cẩn dâng lên ngài lời cầu xin được tha tội!”
Nói về cuộc đời của Cha tôi, lâu nay có nhiều dư luận trái ngược nhau. Ngày hôm nay, bên mộ phần ngài, tôi không muốn biện minh những gì ngài đã làm cho dân tộc của ngài, mà chỉ xin quý vị, cùng tất cả những người Việt Nam khác, hãy bỏ qua những khác biệt chính trị mà chỉ xét vấn đề trên từng bối cảnh lịch sử của đất nước, xin vui lòng nhìn vào lương tâm mình, không phải để tìm trong đó lòng bác ái hay một tình cảm riêng tư, bởi vì cha tôi, không muốn và cũng không chờ đợi sự rộng lượng đó của quý vị, mà chỉ xin quý vị tìm trong đó một đức tính cao thượng và lòng trung thực để trả lại cho ngài hai chữ ‘công bình’ trong lịch sử.” (Bảo Ân)

Bài và ảnh: Theo Văn học nguồn cội và tử nguồn gia đình của ông Bảo Ân.




14/3/14

Một sự hiểu lầm tai hại