28/9/11

TRẦN THIỆN ĐẠO - MẠN ĐÀM VĂN HỌC

MẠN ĐÀM VĂN HỌC HL 114
(Thứ Hai, 26 Tháng Chín-2011)

Tác giả : TRẦN THIỆN ĐẠO





Chuyện ...tình còn ít biết
của nhà thơ Victor Hugo

Như mọi người đều biết, Victor Hugo (1802-1885) vừa là nhà thơ trữ tình và châm biếm vừa là kịch tác gia cách tân vừa là nhà văn xã hội Pháp thế kỉ XIX rất ư năng động và sung sức, có nhiều tác phẩm đủ ba thể loại đó để đời. Chẳng hạn, chỉ cần nhắc tới cuốn truyện đầm đià nước mắt Les Misérables (Những kẻ khốn nạn – 1862) (1) là ít ai quên, đặc biệt ở Việt nam, các nhơn vật như anh tù khổ sai Jean Valjean và cô bé Cosette bị cặp vợ chồng nhà chủ tửu quán tên là Thénardier đày đọa khôn cùng. Nhưng ít người biết rằng nhà thơ nhà văn kịch tác gia lớn này đồng thời cũng không kém năng động và sung sức trên… trường tình, cả khi đà gần đất xa trời.
Dưới đây, vào hè, chúng tôi muốn kể cho bạn đọc nghe một giai thoại, hay đúng hơn, một sự cố đã thật sự xẩy ra cũng vào hè hơn một thế kỉ rưỡi trước, dính tới đường tình của văn/thi hào. Sự việc đã được ghi rành mạch trong cuốn sổ trực ban gọi là main courante ngày 5 tháng 07/1845 ở Công an phường Vendôme, Paris quận I, nhưng lại chưa hề được nhắc tới trong văn học sử, hay trong bất luận cuốn tiểu sử nào. Cũng lạ, là bởi chẳng một chi tiết lớn nhỏ liên quan tới một đại văn/thi hào như Victor Hugo mà không tiềm chứa chút ít ý nghĩa. Vì chưng, như đã nói, đương sự vốn rất ư năng động và sung sức về đủ mọi mặt, biết đâu đó lại là nguồn hứng sáng tác.
Ngõ hẻm Saint-Roch
Đây là một trong số ngõ hẻm trải đá hiếm có độ chừng trăm mét còn sót lại ở Paris. Nằm ngay trung tâm thành phố, nối liền hai con đường lớn Pyramides và Saint-Honoré, tranh tối tranh sáng núp bóng dưới tháp nhà thờ Saint-Roch. Chỉ vài bước là đà với tới quảng trường Vendôme xa hoa tráng lệ và vườn Tuileries thuộc Hoàng cung trong khu Palais Royal. Vào giữa thế kỉ XIX, ngõ hẻm có tên Saint-Roch này nổi tiếng không ít, hệt như các xóm đèn mờ, cà phê vườn, cà phê nhạc hiện nay ở bên ta, hay khu Khâm thiên trước kia ở Hà nội thời Pháp thuộc. Có chút gì lạ…thường ở chỗ ngõ hẻm dọc theo sát vách nhà thờ ! Nhà văn khuynh hướng tự nhiên Emile Zola (1840-1902) đúng ba chục năm sau, trong tập Pot-Bouille (Pot-Bouille, 1882), vẫn còn miêu tả khung cảnh đó như vầy : « Hắn (nhơn vật trong truyện) chợt thấy mình lọt thỏm vô trong hành lang thâm u của ngõ hẻm Saint-Roch. Trước mắt hắn, ở ngưỡng cửa nhà nghỉ nằm trong góc tối, Valérie (nhơn vật khác, phái nữ) đang chia tay một ông khách râu ria xồm xoàm. » Khách ở đây là khách làng chơi.
Ngày 5 tháng 07/1845 Victor Hugo đã lang thang đến đây. Để bất thần…bị bắt quả tang đang hành lạc trong phòng trọ nhà nghỉ với cô nường Léonie Biard, đã có chồng, vợ một nhà điêu khắc ít nhiều được giới nghệ sĩ biết tiếng. Biên bản Công an phường Vendôme đã ghi rõ sự việc như vậy. Bạn hãy cứ hình dung cảnh tượng đó. Vào lúc tinh sương hôm ấy, một đội công an hùng hục đột nhập nhà nghỉ (ai bắn tin cho họ ?), rầm rập leo lên garni (phòng trọ) ở từng trên, đập cửa thùm thụp .Victor Hugo và Léonie Biard hốt hoảng quơ lấy quần áo vội vã xỏ vô xỏ vào, trong lúc ngoài cửa công an không ngớt hô hoán : « Au nom de l’Empereur, ouvrez…». Nhơn danh Hoàng đế, mở cửa mau lên ..., bởi bấy giờ Hoàng đế Napoléon III (Napoléon đệ tam) đang trị vì nước Pháp, và công an chưa có thói nhơn danh luật pháp để bắt bớ như ngày nay.
Thời ấy, xã hội và luật pháp ở đây không đùa với những chuyện gian dâm ngoại tình, chẳng thua gì ở bên ta thời xưa với những chuyện lăng loàn và vào thời chống Pháp chống Mĩ với những chuyện hủ hoá. Nên chi Léonie Biard tất bị tống giam trong nhà tù Saint-Lazare dành cho phụ nữ để phục hồi nhơn phẩm hai tháng trời ròng rã. Còn Victor Hugo, lúc bấy giờ đang giữ chức pair de France (nghị viên) Thượng viện và là thi hào tiếng tăm lừng lẫy, dĩ nhiên được miễn thứ. Khiến cho nhà thơ lãng mạn Lamartine (1790-1869) cũng phải lên tiếng mỉa mai, thâm độc : «Mọi thứ đó xem ra thật dễ quên tức khắc. Nước Pháp vốn là một nước cao su, người ta có thể bật nẩy mình nhảy khỏi giường chiếu một cách mau lẹ. »
Tình trường
So với hình phạt gọt gáy bôi vôi hoặc bè chuối trôi sông (2) thời không xa lắm ở bên ta thì hai tháng phục hồi nhơn phẩm (gần một thế kỉ rưỡi sau, thành ngữ này lại được cóp nguyên xi, ứng dụng vào xã hội ta) mà cô nường Léonie Biard trả giá cho hành vi ngoại tình và ngoại dâm của mình xét ra quả thật là quá nhẹ. Còn Victor Hugo thì chẳng những không bị voi giày ngựa xéo (3) như vào thời Tự Đức (1830-1883) mà còn được phép đi nghỉ… xả hơi, xa cách tình trường một thời gian… ngắn.
Tình trường của Victor Hugo bấy giờ nằm khoanh trong một diện tích nhỏ hẹp. Cứ giở bản đồ thành phố Paris mà coi. Bà vợ chánh thức Adèle (họ Foucher) chung sống với ông chồng Victor trong một căn hộ ở quảng trường Royale, nay đổi thành quảng trường des Vosges. Còn cô đào Juliette Drouet (1806-1883, tên thật là Julienne Gauvain), vừa là tình nhơn vừa là nguồn hứng thiết thân với ông từ những năm 1833, thì cư ngụ trên con đường nhỏ Sainte-Anastase kề cận. Và đó là không kể biết bao cuộc tình chóng vánh với các nữ diễn viên mới bước vào nghề trong rạp Comédie Française (Nhà hát Quốc gia Pháp) cũng gần kề. Riêng cô nường son trẻ Léonie Biard, thì đành chịu chấp nhận phòng trọ nhà nghỉ nọ ở ngõ hẻm Saint-Roch hầu cho văn hào được thỏa thích phụ bạc cùng một lúc cả phu nhơn và tình nhơn của mình.
Ngày nay, căn hộ 280 mét vuông ở quảng trường des Vosges được biến thành Maison de Victor Hugo (Nhà lưu niệm Victor Hugo), còn cư quán của Juliette Drouet nằm trên con đường nhỏ Sainte-Anastase thì mang một tấm biển đề Ici vécut Juliette Drouet (1806-1883) (Juliette Drouet, 1806-1883, đã cư ngụ nơi đây). Riêng nhà nghỉ trong ngõ hẻm Saint-Roch nay không còn nữa thì tất nhiên không có một ghi chú nào hết, dẫu rằng sự cố ngày 5 tháng 07/1845, ngoài chỗ đáng thương cho cô nường Léonie Biard, đã là dịp khiến cho Victor Hugo khởi tác thiên truyện nổi tiếng nhứt của mình.
Số là ngay sau khi được miễn thứ, Victor Hugo liền rời khỏi Paris đi nghỉ xả hơi, tạm trú ở tửu điếm Au rendez-vous d’Austerlitz (Chỗ hẹn Austerlitz), xã Montefermeil ở ven đô. Nhà trọ này cũng như nhà nghỉ nói trên nay không còn nữa, nhưng hình bóng của nó vẫn còn hiển hiện qua tên gọi Auberge des Thénardier (Quán trọ vợ chồng Thénardier) trong tác phẩm để đời của văn hào. Ngày 7 tháng 11/1845, chính trong tửu điếm tạm trú này nhà văn đã khởi tác cuốn truyện tràn trề nước mắt Les Misérables, trong đó nhơn vật Jean Valjean lang thang ngoài sương gió như sau : « Hắn cứ nhắm hướng Montefermeil mà bước tới một cách quả quyết như kẻ đã từng đến đó nhiều lần và biết rõ xứ này. » Kẻ đã từng đến đó nhiều lần và biết rõ xứ này, chính là tác giả.
Trở lại tình trường
Chứng nào tật nấy, chẳng mấy lâu sau là Victor Hugo đà quay ngược trở về Paris hú hí với bà vợ Adèle, với người tình muôn thuở Juliette, với người tình mới là cô đào Alice Ozy (tên thật : Julie-Justine Pilloy, 1820-1893) và với biết bao cuộc tình chóng vánh khác. Mang theo bản thảo đã khởi tác ở Montefermeil, để cuối cùng hoàn tất 17 năm sau vào năm 1862 ở biệt thự Hauteville-House, trên hòn đảo nhỏ Guernesey thuộc nước Anh, giữa biển cả đầy sóng gió tựa như cuộc đời của mình - nơi ông lưu vong suốt 15 năm trời (1855-1870), bị chánh quyền Đế chế đệ nhị bấy giờ truy bức. Cũng trong thời gian lưu vong này mà thi hào hoàn tất và khởi tác các tập thơ, châm biếm Châtiments (Hình phạt), trữ tình Contemplations (Trầm tư) và anh hùng ca La légende des siècles (Sử thi ngàn đời), biểu hiện tài thơ nhiều mặt của mình.
Nhưng vẫn khôn thôi năng động và sung sức, cho tới ngày nhắm mắt.

TRẦN THIỆN-ĐẠO
(Paris, 17/08/2006)
____________

(1) Những kẻ khốn nạn, bản dịch của Nguyễn Văn-Vĩnh – Nxb Trung-Bắc-Tân-Văn, Hà nội, 1925. Nguyễn Văn-Vĩnh khéo dùng từ khốn nạn bấy giờ hàm nghĩa nghèo khốn và hoạn nạn, chớ không mang nghĩa hèn mạt như hiện nay, để chuyển đúng nguyên ý misérable của Victor Hugo.
(2) Gọt gáy bôi vôi : người vợ ngoại dâm bị gọt tóc sau ót, bôi vôi trắng, rồi dẫn đi bêu riếu khắp nơi ; bè chuối trôi sông : bị cột trên bè chuối, rồi thả trôi sông, tấp vô bờ là liền bị làng xóm đẩy ra, không ai dám cứu vớt.
(3) Voi giày ngựa xéo : người chồng ngoại dâm bị trói, rồi dẫn ra sân cho voi, ngựa giẫm – trên thực tế, nhờ có vợ bé, vợ nhỏ, nhu cầu tình dục hầu như được thỏa mãn, nên đây chỉ là hình phạt ít khi áp dụng.

Một vì sao rụng
JORJE SEMPRÚN (1923-2011) kÍ ỨC THẾ KỈ XX

Với chúng tôi, Jorje Semprún, vừa từ trần hôm qua thứ ba 07/06/2011, không phải là một nhà văn xa lạ. Chúng tôi đã có hân hạnh gặp ông và trò chuyện với ông 45 năm trước, trong cuộc hội thảo văn nghệ giữa sáu nhà văn Pháp đương đại tổ chức tối ngày 09 tháng 12/1964 ở Paris (1). Trong buổi hội thảo sôi nổi này, tham luận của ông đã đặc biệt khiến cho đại đa số thính giả, trong đó có chính chúng tôi, lấy làm sửng sốt vô ngần. Ngạc nhiên, ngỡ ngàng trước những lời tuyên bố thẳng băng của ông, rằng nhà văn phải tuyệt đối tự do trong tư duy cũng như trong sáng tạo. Bởi, tuy là một quan điểm chẳng có gì mới lạ đối với giới cầm bút, lời phát biểu này trái ngược hẳn đường lối chánh thống, chưa từng nghe, chưa từng thấy cho đến bấy giờ và hết sức bất ngờ, thốt ra từ một nhà văn cán bộ cộng sản. Vào giữa thời kì chiến tranh hai í thức hệ đối lập, một bên gọi là xã hội chủ nghĩa, bên kia là tư bản, đang hoành hành nửa lạnh nửa nóng trên thế giới,
Là phóng viên thường trực không công (ngoại trừ nhuận bút) của bán nguyệt san Văn (Sài gòn), chúng tôi đã ghi vội phát biểu ấy qua mấy dòng sau đây.

Ghi nhận
Trước khi trao lời cho nhà văn Jorje Semprún là nhà văn đồng chí hướng chánh trị và văn nghệ với mình, chủ tọa Yves Buin đọc một diễn văn, đối với những người hằng theo dõi đường lối của tạp chí và đảng của ông (đảng cộng sản Pháp), hết sức là khoáng đạt rộng rãi, khai mạc buổi thảo luận. Ông cho rằng một cuộc hội thảo tranh luận về văn nghệ giữa những nhà văn xu hướng khác nhau như hôm nay điển hình và tiêu biểu cho đường lối riêng biệt của nước Pháp để đi đến chủ nghĩa xã hội. Đồng thời ông tố cáo chủ nghĩa Xtalin và thuyết Jđanov (3) đã làm tê liệt bao nhiêu nguồn hứng một thời gian dài ở Liên xô và ở các nước xã hội chủ nghĩa và luôn cả trong nhóm những nhà văn cực tả ở các nước tư bản, và đã giết hại biết bao tài năng chớm nở nhưng chóng tàn dưới áp lực của một chánh quyền toàn trị không hiểu nổi đặc tánh và bản chất của văn nghệ. Cuối cùng ông đề cao nhà văn Paul Nizan (4), vốn là người bạn quá cố đồng học và đồng chí hướng với Jean-Paul Sartre và đã bị đảng Cộng sản Pháp lúc bấy giờ thóa mạ không tiếc lời.
Đến lượt nhà văn Cộng sản Jorje Semprún, và cũng là một nhà hoạt động chánh trị trực tiếp, lên diễn đàn. Cũng như Yves Buin, Jorje Semprún lên lời tố cáo chủ nghĩa Xtalin và thuyết Jđanov (đã làm tê liệt… và giết hại… v/v…) và đòi cho văn nghệ một chỗ đứng tự trị, không bị chánh trị trói buộc - lời tuyên bố này quả là một cái gì quá ư mới mẻ và bất ngờ, của một nhà văn lệ thuộc một đảng phái chủ trương lãnh đạo văn nghệ và quả tình chứng tỏ rằng đang có một sự biến chuyển lớn lao trong đường lối lãnh đạo nghệ thuật của đảng chánh trị nọ. Ông cho rằng, nhìn vào tình trạng văn nghệ Trung cộng hiện thời, ông nhận thấy rõ rệt cái nghèo nàn của nền văn nghệ Liên xô thời trước, chỉ vì văn nghệ ở kia và ở đây bị lệ thuộc chặt chẽ vào chánh trị. Ông bảo rằng nhà văn thiết yếu phải có tinh thần trách nhiệm trước khi đặt bút, nhưng không phải vì vậy mà nhà văn lệ thuộc mình hẳn vào đường lối chánh trị, vì làm như vậy, tức là khiến cho văn mình bị tù túng một cách tiên nghiệm, thì tác phẩm tạo ta trong tình trạng tinh thần đó sẽ không giữ được tánh chất thẩm mĩ nó buộc phải có để có thể là một tác phẩm nghệ thuật. (5)
Một tràng pháo tay hoan nghinh lời phát biểu bất ngờ này.

Tầng lớp thượng lưu
Gia quyến
Thính giả lại càng lấy làm ngỡ ngàng, ngạc nhiên hơn nữa, lần này về thân thế của ông. Khi được biết rằng nhà văn cán bộ cộng sản Jorje Semprún mở mắt chào đời ở Madrid, thủ đô Tâybannha, ngày 10 tháng 12/1923, trong một gia đình phú quí, sang trọng về mặt vật chất, chức tước và nghề nghiệp. Thật vậy, cứ nhìn lướt qua gia phả môn đăng hộ đối, tương xứng với nhau về phương diện xã hội và tài sản, các dòng họ Semprún (bên nội) và Maura (bên ngoại) của ông thì rõ.
Cha ông, * José Maria Semprún (chữ ú với dấu sắc, đọc i như chữ u của chúng ta) là một nhà giáo lỗi lạc và luật sư danh tiếng. Giữ chức thủ hiến, cai trị vùng Castilla, miền trung Tây ban nha, và vùng tự trị Cantabria, miền tây bắc. Dẫu là một phần tử sùng đạo công giáo, ông không ngừng ủng hộ chánh phủ Cộng hòa, trung kiên với Mặt trận bình dân. Mẹ ông, * Susana Maura, là trưởng nữ của chánh trị gia Antonio Maura liên tiếp năm lần ngồi ghế thủ tướng dưới thời vua Alphonse XVIII (1881-1941), cực lực phản đối chỉ dụ của nhà vua giao toàn quyền cho chánh khách cực hữu José Primo de Rivera y Orbaneja năm 1930. Còn anh em ruột của ông, những * Gabriel, Miguel, Honorio thảy đều nắm nhiều chức vụ cao cấp trên chánh trường, người thì là đại biểu quốc hội, kẻ thì làm bộ trưởng. Trong lúc, tréo cẳng ngỗng thay, Jorje lại là cán bộ cộng sản khi thì công khai khi thì bí mật, rồi trở thành nhà văn tầm cỡ, nổi tiếng trong nước, ngoài nước.
Di tản
Khi tướng Francisco Franco (1892-1975), cấu kết với tập đoàn quốc xã Đức, thúc quân nổi dậy năm 1936 chống chánh phủ Cộng hòa và Mặt trận bình dân, thì nội chiến khai mào. Rồi thắng thế, lập nên chánh thể quân phiệt cho tới năm 1975. Đứng về phe Cộng hòa và Mặt trận bình dân, lại nữa, vốn tộc người do thái, gia đình nhà họ Semprún / Maura dĩ nhiên phải hối hả thoát thân. Vượt biên, trên thực tế là vượt biển, sang Pháp - khiến chúng ta không khỏi nghĩ tới cuộc di tản tháng tư 1975 ở miền nam Việt nam. Hơn nửa thế kỉ sau, chúng tôi vẫn còn được nhiều dịp tiếp xúc, trò chuyện với số người Cộng hòa di tản này lập nghiệp ở Pháp - chúng ta không khỏi nghĩ tới cộng đồng gọi là Việt kiều Mĩ, Đức, Pháp, Bỉ… lập nghiệp sau tháng 04/1975 ở châu Mĩ và châu Âu hiện nay. Cặp bến Bayonne, tạm trú ở miền nam nước Pháp một thời gian, rồi sang Thụy sĩ cư ngụ lân cận thủ đô Geneva. Nơi đây, cha ông, José Maria Semprún, được chánh quyền Cộng hòa giao nhiệm vụ làm đặc phái ngoại giao ở La Haye, thủ đô hành chánh Hòa lan, hai năm trời.
Tháng 02/1939, phòng đại diện chánh phủ Cộng hòa bị chánh quyền Hòa lan, dưới áp lực quốc xã Đức, ra lịnh đóng cửa. Cả gia đình Semprún / Maura buộc phải quay về Pháp. Jorje nội trú truờng Henri-IV là trường trung học tuyệt đỉnh ở Paris. Đậu Tú tài toàn phần, giải nhì cuộc Thi triết học toàn quốc. Ghi tên vào đại học Sorbonne. Rồi nghe tin thủ đô Madrid, nơi chôn nhau cắt rún của mình, bị quân phiệt sở tại chiếm cứ, lật đổ chánh phủ Cộng hòa Mặt trận bình dân : « Sự vật vừa biến mất đó, Jorje Semprún hối tiếc, tủi thân, chính là thành phố tuổi thơ của tôi và, cùng với nó, cả tuổi thơ, kí ức và cuộc đời của tôi. »

Trại tập trung
Buchenwald
Đồng thời, nước Pháp thua trận, kí hiệp ước đình chiến với Đức, buộc phải tiếp nhận quân đội quốc xã cầm quyền chiếm đóng và cai quản. Cả hai bên dãy núi Pyrénées vậy là nằm trọn dưới gót giày phát xít ngoại quốc (Đức) và quốc nội (Franco). Anh chàng Jorje, tuy mới lên 16, liền bỏ học theo kháng chiến. Gia nhập tổ chức cộng sản Pháp FTP-MOI (Francs-tireurs et partisans – Main-d’œuvre immigrée, Du kích và dân quân – Công nhơn nhập cư), rồi vào Đảng Cộng sản Tâybannha (Partido Comunista de Espana, gọi tắt là PCE) hai năm sau. Tổ chức FTP-MOI bấy giờ chuyển ông sang phục vụ mạng lưới Cảm tử Jean-Marie Action thuộc cơ quan tình báo Anh. Mạng lưới khoanh vùng nước Pháp này hoạt động ở miền Bourgogne, có nhiệm vụ tiếp nhận võ khí do đồng minh thả dù tiếp viện kháng chiến, rồi phân phối cho chiến khu miền trung đông thuộc các tỉnh Yonne và Côte-d’or.
Năm 1943, Jorje Semprún bị công an Đức Geheime Staatspolizei (gọi tắt là Gestapo, Công an bí mật quốc gia) vây bắt cùng lượt với lãnh đạo mạng lưới nói trên là Henri Frager (1897-1944, chết trong trại tập trung). Sau mấy ngày biệt giam, họ bị lôi đi đày trong trại Buchenwald (1937-1945) tập trung tộc người do thái và thiểu số txigan trước khi thiêu đốt tiêu diệt họ. Ở đây, tù số 44904 Jorje Semprún được tổ chức bí mật giao cho công vụ gọi là Arbeitsstatistik (Thống kê lao động), dưới quyền chỉ đạo của Bolados, bí danh lãnh đạo cộng sản Jaime Nieto trong trại. Đặc trách văn hóa dành cho tù tập trung Tâybannha cho tới ngày 11 tháng 04/1945. Là ngày trại Buchenwald được quân đội Mĩ do tướng George Patton (1885-1945 - tử nạn giao thông) cầm đầu giải phóng. Cuối tháng, trở về ngoại thành Paris.
Kí ức
Khai mào cuộc sống mới ông gọi là ma deuxième naissance, là cuộc tái sanh của mình. Nhưng kí ức hai năm khổ sai trải qua trong trại tập trung cứ khắc sâu trong tâm khảm. Hình ảnh những lò thiêu khen khét mùi máu thịt, những tên kapo (tù quản giáo) hách dịch ra oai, những cử chỉ nhỏ nhen hèn mọn cũng như tư cách quí phái cao thượng lẫn lộn của con người trong trại (xem trích đoạn cuối bài)… không thể tự dưng phai nhòa tan biến. Cho nên cựu tù tập trung Jorje Semprún cố công ghi chép lại các hình ảnh ấy trên giấy mực, hầu chủ động xóa sạch đau thương, nhưng vô hiệu. Khiến ông bỏ dở, thôi viết, và cố gắng tránh nghĩ tới cảnh tình diễn tiến mấy năm trời trong trại – ông gọi chủ đích này là amnésie volontaire, là nạo óc tự nguyện.
Từ năm 1953 tới năm 1962, trong thời gian, vốn thông thạo nhiều ngôn ngữ, làm phiên dịch cho Unesco (Cơ quan giáo dục, khoa học và văn hóa Liên hiệp quốc) kiếm ăn, ông thường trực đảm nhiệm ở Pháp công tác do Đảng Cộng sản Tâybannha giao phó : chống chế độ quân phiệt. Vượt biên giới khi cần, với giấy tùy thân giả mạo mang tên Rafael Artigas hoặc Juan Larrea, về nước hoạt động, vốn rành tiếng Pháp, dưới danh hiệu một nhà xã hội học… Pháp. Và viết báo chiêu hiền đãi sĩ, tụ họp giới trí thức dưới bút hiệu Federico Sánchez,.
Lập gia đình với Loleh Bellon, tên thật : Marie-Laure Bellon (1926-1999), diễn viên và kịch tác gia nổi tiếng một thời.

Trên chánh trường
Đảng viên
Là cán bộ nhiệt tình, năm 1956, ông được bầu vào ban lãnh đạo và bộ chánh trị PCE, Đảng Cộng sản Tâybannha. Trong chức vụ này, thường đi công cán, đặc biệt ở các nước đông Âu xã hội chủ nghĩa, bên cạnh bà tổng bí thư Dolores Ibárruri (1895-1989 - thường gọi là la Pasionaria) và lãnh đạo Santiago Carrillo (1915-….). Lên thay tổng bí thư tiền nhiệm vào năm 1960, Santiago Carrillo lần lần hợp pháp hóa PCE thành một đảng công khai, công tác bí mật thế là ngưng hẳn, gây nên lục đục trong nội bộ. Jorje Semprún và một số cán bộ nòng cốt như Fernando Claudín (1915-1990) bị khai trừ, vì tội xa rời đường lối của Đảng, hay nói theo nguyên văn là bất đồng quan điểm với đường lối của Đảng ghi rõ trong cuốn Autobiografía de Federico Sánchez (Tự truyện của Federico Sánchez – 1976; một trong số tác phẩm rất hiếm viết bắng tiếng mẹ đẻ) của Jorje Semprún. Họ bị lãnh đạo PCE bấy giờ xem là một lũ intelectuales a cabeza de calito, một lũ trí thức khờ khạo, cạn suy - khiến chúng ta không khỏi nghĩ tới trường hợp những Trần Đức Thảo (1917-1993), Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997) … ở miền Bắc Việt nam hơn nửa thế kỉ trước.
Bộ trưởng
Kể từ đây, vỡ mộng, ông xoay hướng cuộc đời, dành nó cho văn chương nghệ thuật (xem tiểu mục tiếp sau). Chỉ gián đoạn trong một thời gian ngắn, không đầy ba năm, khi ông chiều í bạn bè trở lại tham giam trực tiếp chánh trường.
Phải nói rằng vào những năm 80 thế kỉ trước, đại biểu đảng cánh tả PSOE (Partido Socialista Obrero Espana, Đảng Xã hội Công nhơn Tâybannha) đa số trong Cortes Generales (Quốc hội), 202 trên 360. Tổng bí thư PSOE Felipe Gonzáles đương nhiên được vua Juan Carlos Ier vời lên ngồi ghế Thủ tướng bốn nhiệm kì liên tiếp. Thành lập nội các, tân thủ tướng khẩn khoản mời Jorje Semprún vào hội đồng chánh phủ mới này. Đương sự không mấy thiết tha, nhưng cuối cùng nhận chức Tổng trưởng Bộ văn hóa, đảm nhiệm kể từ đầu năm 1988. Trong chánh phủ, hệt như trước kia trong PCE (lục đục trong nội bộ PCE - xem cách mấy dòng trên đây), bộ trưởng Jorje Semprún gặp nhiều xung đột ngấm ngầm với phó thủ tướng Alfonso Guerra vốn là lãnh đạo PSOE thứ hai, có tiếng là tham nhũng. Đầu năm 1991, ông buộc phải từ chức, vì thủ tướng bao che thói tục đáng ngờ của phó thủ tướng đồng cánh với mình. Hai năm sau, trong cuốn Federico Sánchez vous salue bien (Federico Sánchez xin bái chào các ngài – 1993), dưới dạng tiểu thuyết, Jorje Semprún thuật lại kinh nghiệm làm bộ trưởng bất toại ba năm trời trong chánh phủ.

Trên văn đàn
Đề tài
Có thể bảo sự nghiệp văn chương nghệ thuật của Jorje Semprún thảy đều dựa trên kí ức. Kí ức cá nhơn, nhưng lồng trong bối cảnh í thức hệ diễn biến trên lịch sử chánh trị thế kỉ XX ở châu Âu. Tác phẩm của ông đếm có cả thảy 43 đầu sách, đại đa số, trên dưới 40, viết bằng tiếng Pháp, còn lại là bằng tiếng mẹ đẻ. Hầu hết dưới dạng tác giả đề là tiểu thuyết (6), nhưng thuộc loại mà chúng tôi gọi là tự sự hư cấu (7), hay, chánh xác hơn, là hồi kí hư cấu (một thuật ngữ còn trong trứng nước, do chúng tôi cấu tạo).
Nội dung các hồi kí hư cấu này tựu trung xoay quanh ba chủ đề. Thứ nhứt là * kinh nghiệm trải qua trong thời gian ông bị công an Gestapo Đức tra khảo ở Paris, rồi bị đày trong trại tập trung Buchenwald và những khó khăn gặp phải để thích nghi với đời sống bình thường sau khi được giải phóng tái sanh, thí dụ như trong các cuốn Le grand voyage (Du hành xa – 1963), L’Évanouissement (Ngất xỉu – 1967) hay L’écriture ou la vie (Cầm bút hay là sống – 1994)… Thứ hai là * thời ki ông trực tiếp lãnh đạo Đảng Cộng sản Tâybannha và công tác bí mật chống chế độ quân phiệt Franco trong nước ngoài nước, thí dụ như trong các cuốn Autobiografía de Federico Sánchez (sđd), hay La deuxième mort de Ramon Mercadier (Ramon Mercadier lại tử vong lần nữa – 1969)… Thứ ba là * cuộc đời ông lưu vong ở Pháp và các năm đầu thời hậu quân phiệt kể từ năm 1975, thí dụ như trong các cuốn La montagne blanche (Bạch sơn – 1986), Federico Sánchez vous salue bien (sđd), hay Adieu, vive clarté…(Vĩnh biệt, ánh sáng chói lòa… – 1998)…
Điện ảnh
Nhưng chính ngành điện ảnh mới thật sự là nhịp cầu chuyển tiếp và tiếp nối giữa con người cán bộ và con người làm văn. Năm 1965, đạo diễn Alain Resnais đặt hàng, nhờ Jorje Semprún soạn kịch bản cho cuốn phim La guerre est finie (Chiến tranh đà chấm dứt – 1966) ông sắp dàn dựng. Đây là dịp cho phép nhà văn cán bộ cộng sản lần hồi lột xác, như đương sự đã thú nhận : « Trải nghiệm này rút ngắn thời gian lột xác, thay da đổi thịt của tôi. »
Cũng trong dịp này ông thân quen với ca sĩ diễn viên Yves Montand (1921-1991). Họ í hợp tâm đồng, trở thành bạn tâm giao khăng khít với nhau. Cả hai đều khuynh tả, cùng dấn thân, mỗi người trong địa hạt của mình, mưu cầu công lí cho xã hội và chính nghĩa trên chánh trường. Thẳng tay tố cáo mọi hành vi cực đoan do bất kì phe phái nào can phạm, người thì bằng cán bút, kẻ thì bằng biểu diễn. Yves Montand thủ vai các nhơn vật do Jorje Semprún khắc họa vẽ nét trong kịch bản dựa trên lịch sử đương đại. Ba bộ phim lớn của đạo diễn Costa-Gravas biểu hiện sự cộng tác chặt chẽ này.
Trước tiên là * bộ phim Z (Z – 1969), trong đó Yves Montand thủ vai nhơn vật Grigoris Lambrakis, đại biểu và lãnh tụ Đảng Xã hội Hi lạp bị “chế độ đại tá ’’ do quân đội thiết lập ám sát năm 1967. Tiếp sau là * L’Aveu (Thú tội – 1970), trong đó Yves Montand thủ vai thứ trưởng Bộ ngoại giao Tiệp khắc Artur London bị chánh quyền cộng sản bỏ tù trước khi mang ra xét xử trong một vụ án thiếu công minh năm 1961. Và cuối cùng là * État de siège (Giới nghiêm – 1973), trong đó Yves Montand thủ vai Dan Mitrione, cố vấn Hoa kì các chế độ độc tài ở châu Mĩ La tinh, bị tổ chức cực tả Tupamaros (Phong trào giải phóng quốc gia) bắt cóc và thủ tiêu năm 1970. Các nhơn vật lịch sử kể trên trong phim có thật, và đều là nạn nhơn các hành vi quá khích tả, hữu lẫn lộn.

Sự nghiệp
Tặng thưởng
Sự nghiệp nghệ thuật Jorje Semprún cống hiến trên văn đàn Pháp và thế giới già nửa thế kỉ qua đã được tôn vinh. Tác phẩm của ông thưòng xuyên được tặng thưởng giải này giải khác. Phải kể, theo thứ tự thời gian : giải Formentor cho cuốn Du hành xa (1963 – sđd), giải Fèmina cho cuốn Ramon Mercadier lại tử vong lần nữa (1969 – sđd), giải Planeta cho cuốn Tự truyện của Federico Sánchez (1976 – sđd), giải Các nhà xuất bản và thư quán Đức, giải Femina Vacaresco và giải văn chương Nhơn quyền đồng lượt cho cuốn Cầm bút hay là sống (1994 – sđd), giải Les Charmettes - J.J. Rousseau cho cuốn La mort qu’il faut (Cái chết cần thiết – 2001) và sau chót là giải Ulysse năm 2007 cho toàn bộ tác phẩm của ông.
Phần khác, năm 1994, ông được bầu vào hội đồng chấm giải Goncourt là giải văn chương lớn nhứt ở Pháp. Nhưng lại không được vào Académie française (Viện Hàn lâm Pháp), bởi lẽ ông một mực giữ quốc tịch Tâybannha, nơi chôn nhau cắt rún của mình, không chịu chánh thức trở thành dân nước ông thường xuyên cư ngụ. Dầu cho hầu hết tác phẩm, kể cả kịch bản của ông đều viết bằng tiếng Pháp có nội dung và hình thức điểm xuyết, và ngày dài sanh sống (và sắp chôn cất) ở Pháp. Trích đoạn dưới đây tiêu biểu cho chất lượng đó.

Trích dẫn
Mấy dòng này, trích trong tác phẩm Cầm bút hay là sống (sđd, một trong số kiệt tác của ông), đặt vấn đề liên quan tới thể loại tự truyện, qua nhơn vật tù tập trung (chính tác giả) vừa được quân đội đồng minh giải phóng.
Sẽ có kẻ còn sống sót, hẳn nhiên rồi. Như tôi đây chẳng hạn. Một kẻ sống sót làm vì, xuất hiện đúng lúc trước mặt ba vị sĩ quan đồng minh phái đi điều tra để kể cho họ nghe mây khói bốc lên trên lò thiêu, mùi thịt khét lẹt bao trùm vòm trời Ettersberg (8), tiếng kêu cứu nghẹn ngào dưới lớp tuyết đóng băng, lao dịch giết mòn tù nhơn, sự sống kiệt quệ, hi vọng khôn cùng, thú tánh của con vật dã man mang dáng con người, lòng cao thượng bản năng của con người, vẻ trần trụi thân tình điêu đứng trong ánh mắt của bạn bè đồng cảnh. Nhưng làm sao kể hết cho được ? Tôi không mấy tin ngay giây phút đầu tiên. Đó là ngày 12 tháng tư năm 1945, hôm sau ngày trại Buchenwald được giải phóng. Tóm lại là mọi sự đang còn tươi rói. Khỏi cần phải đặc biệt nặn óc. Cũng khỏi cần có trong tay tư liệu đáng tin, đã được kiểm tra. Chết chóc vẫn còn đó, hiện diện. Ngay dưới mắt chúng tôi, chỉ cần liếc qua mà thôi. Hàng trăm con người vẫn đang tắt thở đằng kia, tù lao công bị bỏ đói trong Petit Camp (9), tù do thái sống sót chuyển đến từ trại Auschwitz (10). Chỉ cần thoải mái nghĩ tới nó. Thực tại nằm sẵn đó, chờ đợi. Ngôn từ cũng thế. Vậy mà tôi không tin mình có thể kể rốt ráo được mọi sự . Chẳng phải vì kinh nghiệm sống qua khó miêu tả. Nó quả thật khôngtài nào sống nổi, là một điều khác hẳn, dễ hiểu. Điều khác hẳn này chẳng liên quan tới hình thức kể chuyện có thật, mà tới chính bản chất của nó. Chẳng phải về cấu trúc, mà về mật độ. Chỉ đạt tới bản chất đó và mật độ trong suốt đó những ai biết biến chứng từ của mình thành một vật thể nghệ thuật, một không gian sáng tạo. Hay tái tạo. Chỉ có loại tự sự thuần thục mới thật sự chuyển được một phần nào chứng từ. Nhưng đây đâu phải là điều gì đặc biệt : mọi kinh nghiệm lịch sử lớn lao đều như vậy cả.


Thăng hoa
Nói thí dụ Jorje Semprún mà không làm văn, thì chắc ông chỉ được xem đơn thuần là một chứng nhơn lịch sử. Chứng nhơn ba trận mạc đương đại, diễn biến giữa thế kỉ XX ở châu Âu nhưng chẳng phải là không có tác động trên chánh trường thế giới : nội chiến Tây Ban Nha, bầu trời đen tối trong trại tập trung Buchenwald, công tác đảng phái bí mật rồi công khai sau thế chiến thứ hai. May thay cho chính ông và cho văn đàn thế giới, năng khiếu văn chương đã biến ông một thành nhà văn lớn. Chính năng khiếu này và kinh nghiệm lịch sử lớn lao trải qua đã thăng hoa các sự kiện nói trên, phả vô sự nghiệp của ông một chiều sâu hi hữu.
Ít có nhà văn nào cùng thế hệ với ông đạt tới đỉnh cao này.

TRẦN THIỆN - ĐẠO
(Paris, 7-9/06/2011)
-------------------------------
(1) Sáu nhà văn này là : Jorje Semprún (1923-2011), Jean Ricardou, Simone de Beauvoir (1908-1986), Yves Berger (1931-2004), Jean-Paul Sartre (1905-1980) và Jean-Pierre Faye. Chủ tọa hội thảo là nhà báo Yves Buin, tổng biên tập tạp chí thanh niên cộng sản Pháp Clarté (Ánh sáng). Xem Tin giờ chót (bán nguyệt san Văn, số 24, ngày 15/12/1964).
(2) Xem Trần Thiện-Đạo, Cuộc tranh luận văn nghệ giữa sáu nhà văn Pháp đương đại (Phần I, Văn, số 25, ngày 01/01/1965; Phần II, Văn, số 28, ngày 15/02/1965).
(3) Anđrêï Jđanov (1896-1948). Ủy viên Bộ chánh trị Đảng Cộng sản Liên xô. Chủ đạo và chỉ đạo chánh sách văn hóa, ấn định đường lối văn nghệ hiện thực xã hội chủ nghĩa. Có thể ví với Trường Chinh (Đặng Xuân Khu – 1907-1988), ‘’tác giả’’ cuốn Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hóa Việt Nam (1948), cùng với những Hoài Thanh (Nguyễn Đức Nguyên - 1909-1982), Tố Hữu (Nguyễn Kim Thành - 1920-2002), Nguyễn Đình Thi (1924-2003) và Nguyễn Công Hoan (1903-1982), Xuân Diệu (họ Ngô - 1916-1985), Huy Cận (họ Cù - 1919-2005)… ở CHXHCN Việt nam
(4) Paul Nizan (1905-1940), nhà văn thân thiết với triết gia Jean-Paul Sartre. Đảng viên Đảng Cộng sản Pháp cho tới năm 1938, là năm Liên xô và Đức quốc xã kí hiệp ước thỏa thuận không gây chiến. Phản đối hiệp ước này, ông công bố rút ra khỏi đảng.
(5) Phan Khôi (1887-1960), tám năm trước đó, trong một tình thế khó khăn hơn nhiều, đã cương trực bày tỏ quan điểm của mình trong bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ (1956). Kháng cự, phản đối chủ trương “văn nghệ sĩ phải ở dưới quyền lãnh đạo (của đảng cộng sản) ’’ do Trường Chinh phán quyết trong một cuộc tọa đàm ở trụ sở Hội Văn nghệ, tiền thân Hội Nhà văn).
(6) Bùi Ngọc Tấn, tác giả cuốn Chuyện kể năm 2000 (Nxb Thanh niên – 2000), cũng vậy, đề nó là tiểu thuyết. Thật ra, cuốn hồi kí không bị biên tập chúng tôi hiện có trong tay mang tên là Mộng du, một nhan đề thật sự ăn khớp với í nghĩa tác giả muốn gởi tới người đọc.
(7) Xem Trần Thiện-Đạo, Tự sự hư cấu (Hợp lưu, số 113, tháng 3 & 4 năm 2011).
(8) Trại tập trung Buchenwald xây trên cao nguyên Ettersberg, nổi tiếng trước kia là nơi văn hào Johann Wolfgang von Goethe (1749-1832) thường xuyên lên viết lách dưới bóng một cây đại thụ.
(9) Khu dành cho tù lao công khổ sai, ăn uống thiếu thốn, bịnh hoạn lây tràn, chết hàng loạt.
(10) Auschwitz-Birkenau. Trại tập trung lớn nhứt nhốt 90% tù do thái, có lúc không đủ chỗ phải chuyển bớt qua các trại khác. Từ tháng 05/1940 tới tháng 01/1945, hơn một triệu mốt người, già trẻ bé lớn, tử vong : bị thiêu đốt, làm vật thí nghiệm, bịnh hoạn, đói rét, xử bắn.


Đọc sách
Q U I C H Ụ P

Đầu năm ngoái, trong dịp tham dự Hội nghị quốc tế giới thiệu văn học Việt Nam ra nước ngoài (1) do Hội Nhà văn tổ chức tại Hà nội từ ngày 04 tới 10 tháng Giêng 2010, chúng tôi có hân hạnh làm quen với một số văn nghệ sĩ chưa từng gặp mặt trước đó. Trong số này, đặc biệt có hai nhà viết văn và làm thơ gốc miền Trung, một nam một nữ, và về mặt sự nghiệp, một đà già dặn, một còn trẻ : ngoài chỗ nói trên, chúng tôi cũng chưa hề nghe nhắc tới (tên) họ và (được) đọc tác phẩm của họ trên sách báo (2)… cho tới gần đây. Cho tới khi gặp mặt và thân mật trò chuyện, biết chúng tôi ở Pháp về, họ thân tình tặng chúng tôi tác phẩm mới vừa xuất bản của họ, thể như có í âm thầm giãi bày điều gì canh cánh trong lòng, dai dẳng từ mấy thập niên qua mà thời gian, vốn có khả năng xóa nhòa và khỏa lấp mọi sự, vẫn không làm sao giải tỏa được.
Hai tác phẩm đó là tập Tuyển tập thơ và Phụ lục (Nxb Hội nhà văn – 2009) của nhà thơ thương binh Hoàng Cát và tập tự truyện Cánh chim trong Bão tố của nhà thơ nữ Nguyễn Thanh Song Cầm. Hoàng Cát sanh năm 1942 tại Nam đàn, Nghệ an, Nguyễn Thanh Song Cầm năm 1960 tại Cam lộ, Quảng trị : nhắc tới năm sanh và nơi chôn nhau cắt rún của hai nhà thơ này là nhằm ghi liền ở đây những yếu tố liên quan trực tiếp tới thời gian họ bị qui chụp phủ đầu cái tội tày đình là ‘’biểu tượng hai mặt’’ trong tác phẩm. Rồi bị trù dập, để khỏi bảo là bị đọa đày trong miếng cơm manh áo, trong công ăn việc làm : Hoàng Cát kể từ năm 32 tuổi, Nguyễn Thanh Song Cam từ năm 21 tuổi. Thảy đều diễn ra trong thời gian nhà thơ Tố Hữu (1920-2002 – có tên tục là anh Lành) gốc gác Quảng điền, Thừa thiên Huế, làm quan lớn có quyền thế trong bộ máy của Đảng và Nhà nước.
Bài này chỉ nhắc tới tình huống mà Hoàng Cát đã phải gánh chịu suốt thời gian dài từ 1974 tới 1989 (năm văn nghệ được cởi trói, báo chí được phép đăng tải thơ văn của đương sự ; thi phẩm đầu tay được xuất bản năm 1991) - dành trường hợp Nguyễn Thanh Song Cầm cho một bài sau. Những chi tiết thuật lại dưới đây đều rút ra từ tác phẩm Tuyển tập thơ và Phụ lục nói trên và được kiểm chứng qua nhiều buổi chuyện trò trực tiếp và qua điện thoại với bạn bè quen biết đã có dịp theo dõi sát sao vụ việc.

Hoàng Cát và cây táo ông Lành
Hoàng Cát bỗng dưng rước vạ vào thân năm 1974 khi truyện ngắn Cây táo ông Lành của ông đăng trên tuần báo Văn Nghệ, số đặc biệt thiếu nhi, cùng với nhiều truyện khác của những tác giả khác. Câu chuyện khai mào rất ăn khách, hợp cách với độc giả ở lứa tuổi còn cắp sách đến trường, giải thích hai mạng đề cây táo và ông Lành gói gọn trong tên truyện :
Tên thật ông là gì, nhiều người không biết. Đã từ lâu, người ta vẫn gọi ông là ông Lành. Vì tính ông hiền lành và rất yêu lũ trẻ trong làng. Lâu dần, nó thành ra tên của ông. Vườn nhà ông khá rộng, có nhiều cây ăn quả như chuối, mãng cầu, vú sữa, táo... Ông Lành thú nhất là cây táo lai. Nó đứng ở góc vườn, trùm cái tán khum khum lên một vạt đất chừng dăm tấm chiếu. (…) Mé dậu vườn là con đường ống xuyên qua làng. Sáng sáng, lũ trẻ học trò lớp Một đi tắt qua đấy để đến trường. Bao giờ chúng cũng đi thật sớm, tíu tít như một đàn chim, vồ lượm những quả táo rụng. (…) Vốn là một ông già yêu trẻ, ông Lành lấy thế làm niềm vui. (Tuyển tập thơ và Phụ lục, tr. 461-462)
Lũ trẻ không chỉ lượm mót táo rụng, mà còn lấy đá, gạch và các vật cùng loại thi nhau liệng cho táo rụng xuống nhiều hơn, tinh ranh, sung sướng. Bổn tánh hiền… lành, nên ông Lành không quát mắng, mà chỉ nhắc chừng bọn nó chớ nên ngỗ nghịch làm vậy. Nể ông, lũ trẻ xem chừng ngoan ngoãn tuân lời. Cho đến một hôm, đang ngồi vót lạt buộc cái nạng chống đỡ cây táo sai quả thì bỗng nhiên có một cục đất chẳng biết từ đâu rơi đánh bịch trên đầu, tung tóe lên vai lên cổ ông. Ngẩng đầu, ông trông thấy thằng Thìn đang chăm chăm nhìn mình, rồi nghe nó lắp bắp :
- Cháu… cháu lỡ ! Ông tha…
Đang cơn bực mình, ông Lành ném cây rựa xuống sân (…), đứng phắt lên :
- Ông, ông cái con khỉ !
Hoảng quá, thằng Thìn co giò bỏ chạy. (sđd, tr. 463)
Tháo lui giữa chừng thì gặp lũ bạn trờ tới, nó liền đánh tráo cơ sự. Úp mở bảo rằng khi sắp đi ngang qua cây táo, nó bất thần bị một phen hú vía trở tay không kịp. Lũ bạn nhao nháo cả lên. Nó bèn thừa cơ kể tiếp : vừa tới gần cây táo, nó bỗng nghe như có ai réo gọi một cách rợn người. Ngước mắt, nó dòm thấy trên cành cây táo một cái đầu lâu đen ngòm đang trân trân nhìn nó, nạt nộ. Kinh hồn, nó chẳng nói chẳng rằng vắt chưn lên cổ mà thụt mạng thoát chạy. Lũ bạn tái mét mặt mày. Riêng thằng Tỵ và thằng Ngọ thì bán tín bán nghi, rủ nhau đi rình cho ra lẽ. Chưa đầy một sát na, chúng nó quay ngược ù té trở lại, hổn hển không còn một chút máu mặt. Cái chuyện đầu lâu đen ngòm trên cây táo nạt nộ chận đường của thằng Thìn vậy là có thật một trăm phần trăm. Thế là lũ trẻ hết còn dám đi tắt trên con đường ống xuyên làng, hết còn bén mảng tới cây táo sai quả mà phải vòng vèo theo con đường chính mà đến trường. Vắng lũ trẻ, không còn nghe bọn nó ríu rít bên tai, ông Lành buồn tênh, góa bụa đơn chiếc một mình không biết thổ lộ cùng ai. Thấy táo rụng đầy mặt đất cả tuần rồi mà chẳng có đứa nào tới mót, lòng dạ ông đâm ra cồn cào, ruột gan ông đau đáu. Ông bèn kiếm một cái rổ, lượm hết táo rụng đem đi rửa sạch, chờ sẵn, biết đâu rồi cũng có đứa nào mon men ghé qua, nhờ nó mang cho lũ trẻ. Vừa rửa táo xong, ông chợt trông thấy thằng Mùi hớt hải chạy băng ngang qua mà không đếm xỉa gì tới cây táo. Ông liền gọi giật nó lại :
- Nè con !
Thằng Mùi ngoái đầu, “dạ’’ một tiếng rõ to, rồi định quay đi chạy thẳng. Nhưng ông Lành đã kịp bưng rổ táo chín múp chạy tới, giữ nó lại. Thằng Mùi tròn mắt, không dám lấy :
-Táo có ma đầu-lâu-đen, cháu không ăn đâu ông ạ ! (sđd, tr. 466)
Ông Lành lấy làm ngạc nhiên hết sức. Bị ông vấn hỏi, nó liền giơ tay chỉ cây táo. Khai rằng thằng Thìn bảo là có một cái đầu lâu đen ngòm trên cành cây táo thường hay nạt nộ, chận đường không cho bọn trẻ băng ngang qua đến trường. À, thì ra là vậy. Ông bèn lập tức cải chánh, để cho, qua trung gian thằng Mùi, lũ trẻ biết rõ đó không phải là đầu lâu ma quỉ chi ráo, mà chỉ là một ổ kiến có phận sự giết sâu giết bọ, bảo vệ hoa quả. Không thôi thì bọn mày lấy táo ở đâu mà nhai. Rồi bắt nó bưng cả rổ táo vô lớp cho lũ bạn nó.
Và đồng thời nhắn cô giáo Hà dạy lớp Một, ông sẵn lòng cho cô mượn căn nhà xây cạnh cây táo dành cho thằng Sửu, cậu con trai một của ông, khi nó lấy vợ, ra riêng. Ngôi nhà hiện còn trống, để không, có vài chỗ dột do chuột bọ cắn xé vì chẳng có người ở ngăn chận. Bởi nhà vừa xây cất xong thì thằng Sửu đột nhiên xung phong vô bộ đội, chẳng biết tới bao giờ nó mới giải ngũ, lấy vợ đẻ con cho ông một lũ cháu.
Thế là bọn học trò cô Hà ngày nào cũng cắp sách đến trường, vui vẻ vô lớp trong căn nhà mới và xúm xít rộn rã dưới bóng cây táo ông Lành.

Từ cây táo ông Lành đến cây táo anh Lành
Chụp lấy câu chuyện thiếu nhi vừa kể làm vật giảo nghiệm, mổ xẻ soi mói tìm cho bằng được chứng cớ đã gây nên án mạng, tạp chí Học tập (tiền thân tạp chí Cộng sản), cơ quan lí luận và chánh trị của Đảng Lao động Việt Nam (tiền thân Đảng Cộng sản Việt Nam), số tháng 11/1974, sau hơn 30 năm phát động vụ án Nhân văn Giai phẩm (1955-1958), cho đăng một bài xã luận dưới nhan đề cực kì chỉ đạo, chứng tỏ mối quan tâm của giới cầm quyền trong ngành văn hóa văn nghệ bấy giờ. Nhan đề là cả một tuyên ngôn : Tăng cường tính đảng, đi sâu vào đời sống nhân dân, tạo một khí thế mới trong văn nghệ ta (sđd, tr. 458). Chỉ thị này khai mào và kết thúc thẳng thừng như sau :
Một truyện ngắn viết về thiếu nhi đăng trên tuần báo Văn nghệ trong thời gian qua thuộc loại nấm độc nguy hiểm. Với lối viết theo kiểu “biểu tượng hai mặt’’, truyện này gieo rắc hoài nghi trong quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng ta, gieo rắc tư tưởng chống lại đường lối cách mạng, chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền chuyên chính vô sản của chúng ta. Miêu tả cuộc sống heo hút, tâm trạng u buồn của một ông già, người vợ chết vì bom, người con trai độc nhất “vô bộ đội đợt đầu tiên kể từ sau khi có lệnh hòa bình’’ (…). Trong điều kiện chuyên chính vô sản, cuộc đấu tranh giữa hai con đường ở miền Bắc tiếp tục diễn ra gay go phức tạp, truyện ngắn này đưa ra hình ảnh cái đầu lâu khủng khiếp và nói về việc “từ bỏ con đường này để đi theo con đường khác’’ là có tác dụng gì ? (…), cùng với lối viết bóng gió, xuyên tạc ‘’ nhà mới mà đã dột vì chuột bọ’’, tác giả đe dọa “bỏ” con đường mà tác giả cho là “con đường tắt’’ để đi con đường khác ! Đó là một sự thách thức chế độ ta. Chuyện đã không chân thật, chi tiết lại đáng ngờ, gieo rắc những quan điểm, tư tưởng sai trái, đây rõ ràng là một truyện xấu và có hại. Vì tính chất độc hại của nó, truyện ngắn này đã bị đông đảo bạn đọc kịch liệt phản đối.
Những lời cáo buộc chắc nịch, rập khuôn, xây trên nền móng í thức hệ đúc kết trong môi trường lí thuyết và thực tế xã hội chủ nghĩa, trích dẫn trên đây xét ra chẳng cần phải luận bàn, bởi vì nó chẳng có gì để luận bàn và nhứt là vì nó mặc nhiên không cho phép bất kì ai, kể cả bị cáo, lên tiếng luận bàn. (3) Thế cho nên nó đương nhiên quật ngã ngay lập tức tác giả Cây táo ông Lành, khiến cho cuộc đời Hoàng Cát đột nhiên lâm vào cảnh điêu đứng một thời gian dài. Điêu đứng trong miếng cơm manh áo, điêu đứng trong văn chương chữ nghĩa ngót mười mấy năm trời.
Là một bộ đội thương binh ở chiến trường Bình Trị Thiên miền Trung từ năm 1969, được thuyên chuyển ra miền Bắc điều dưỡng và lắp chưn giả năm 1971, rồi làm cán bộ kĩ thuật trong nhà máy cơ khí Hà nội và viết văn làm báo sanh nhai. Ổn định cho tới năm 1974, thì bất thần gặp nạn, dở sống dở chết. Trước hết là cho nồi cơm : ngón đòn đầu tiên là mất công ăn việc làm ở nhà máy (ai ra lịnh sa thải ?), ngón thứ hai là trợ cấp thương binh hạng A bị xóa sổ (ai ra lịnh bôi bỏ ?) ; sau là cho nghiệp văn : ngón đòn thứ ba là tác phẩm gởi tới chẳng báo nào chịu / dám đăng (ai ra lịnh cấm ?), hết toi nhuận bút. Không những thế, người ta (ai ?) còn buộc tuần báo Văn nghệ phải viết bài chánh thức tự kiểm điểm trước bàn dân thiên hạ và, đồng thời, về tận quê quán đương sự ở xóm làng Nam đàn, Nghệ an điều tra lí lịch gia đình. Trong tình cảnh đó, thì, ngoại trừ một thiểu số bạn bè thân tín cương trực như những Võ Văn Trực, Phạm Đình Ân, Trần Hoài Dương còn dám giao tiếp, giúp đỡ (sđd, tr. 476), phần lớn những kẻ quen biết từ trước đều lần lượt lẩn tránh lánh xa, sợ bị liên lụy. Kể cả Xuân Diệu (1916-1985), là người đã đỡ đầu Hoàng Cát thời ông mới tập tành viết lách :
Số là, khi vụ “Cây táo ông Lành’’ xảy ra, Hoàng Cát thân cô thế cô, bị o ép đủ bề chẳng còn biết nương tựa, bấu víu vào đâu. Nghĩ đến tình nghĩa nhiều năm, anh phải chạy lên Xuân Diệu cầu cứu : « Em thế nào anh đã biết. Anh có thề nói giúp để họ hiểu em, tránh suy diễn sai về em. Em tin, với uy tín của anh, chắc chắn anh giúp đỡ được em.»
Thì bỗng dưng nhà thơ không còn mặn mà. (sđd, tr. 475-476) (4)
Nhưng trong cái rủi cũng có cái may : là thương binh cụt chưn nên Hoàng Cát không bị bắt đi học tập cải tạo như các bậc đàn anh của ông trong ‘’nhóm’’ Nhân văn Giai phẩm già nửa thế kỉ trước :
Nếu ta không là thương binh tàn phế suốt đời
Có lẽ đã phải ngồi chơi mấy năm trong nhà đá. (sđd, tr. 472)
Dầu không phải học tập cải tạo, thì vẫn phải kiếm ăn. Nhưng kiếm ăn bằng cách nào, khi chẳng ai dám thâu dụng kẻ bị Đảng và Nhà nước buộc tội chống đường lối cách mạng, chống chế độ xã hội chủ nghĩa, chống nền chuyên chính vô sản (sđd, tr. 469 và tr. 493), khi vợ mình sớm trưa đau yếu, khi con mình hỉ mũi chưa sạch (sđd, tr. 476), khi mình chỉ còn có mỗi một đầu gối để bò ? Đói, Hoàng Cát bắt buộc phải bò trên đầu gối bên mặt còn lại. Khập khiễng làm đủ thứ nghề (đếm cả thảy là 17) để sống còn, bán thuốc lào, bán đậu phộng, bán cà rem, bán nước trà năm xu một tách trên vỉa hè, dán hộp đựng thuốc cho ngành dược, mua da heo nhổ sạch lông thái nhỏ trộn thính với lá chanh biến thành nem chạo chào hàng, nuôi gà giống, nuôi gà công nghiệp, nuôi heo, nuôi chó, nuôi két … (sđd, tr. 498) :
Vấp tai nạn văn chương, trải qua 17 nghề kiếm sống
Nghề nào cũng đớn đau, tủi nhục ê chề
Nuôi lợn, nuôi gà, nuôi chó (hay chó nuôi ta ?)
Bán nước chè 5 xu cũng phải còng lưng đóng thuế
Máu đổ xuống chiến trường, máu không vón cụ
Để thành vàng - sống tạm buổi hoàng hôn. (sđd, tr. 476)
Cuộc sống bị đọa đày, tài năng bị vùi dập - bấy nhiêu khổ ải về thể chất và tinh thần mà Hoàng Cát (và vợ con) đã phải trải qua, tựu trung chỉ vì hai chữ ông Lành và cây táo. Dư luận bấy giờ tin rằng đương sự thâm í mượn tên tục của Tố Hữu để chống đường lối lãnh đạo của Đảng và nói xấu chế độ xã hội chủ nghĩa, nên bị nhà thơ quan chức này trả thù. Trong sân biệt thự của anh Lành chẳng có trồng một cây táo sai quả đó ư ? Tố Hữu minh oan, nói mình không hay biết gì ráo. (sđd, tr. 520) Sự thật ? Mong rằng sẽ có sử gia văn học nào cặn kẽ giải trình.

Trường hợp không hiếm
Thật ra, trường hợp nhà văn nhà thơ bị qui chụp một cách ấu trĩ, thiếu suy xét, a dua, học đòi và nhứt là độc đoán thuật lại trên đây đâu phải là hiếm có. Cứ nghĩ tới vụ án Nhân văn Giai phẩm vào thập niên 50 (thế kỉ trước) mà những Phan Khôi (1887-1959), Hoàng Cầm (1922-2010) (5), Trần Dần (1926-1997), Phùng Cung (1928-1997), Lê Đạt (1929-2008), Phùng Quán (1932-1995) và nhiều nữa đã bị bắt đi học tập cải tạo (trừ Phan Khôi, cương quyết không học), bị treo bút và bị đọa đày như thế nào thì rõ. (6) Có điều là những nhà này thường xuyên được nhắc tới trên sách báo trong nước và ngoài nước. (7) Còn rất nhiều nhà khác ít tên tuổi hơn thì chẳng mấy khi được nói đến, Hoàng Cát là một thí dụ điển hình. Cũng như Nguyễn Thanh Song Cầm, sẽ là đề tài chúng tôi sắp trình bày.
Chủ đích của loại bài này là thiết lập công bằng trong biên khảo và bình luận.
TRẦN THIỆN - ĐẠO
(Paris, 16/04/2011)

(1)Tiếng Anh / Mĩ : International Conference to introduce Vietnam literature abroad. Tiếng Pháp : Conférence Internationale pour la Propagation de la Littérature vietnamienne à l’Étranger. Tiếng Trung :…
(2)Một phần, chắc là vì chúng tôi ở xa nên không có điều kiện xem đủ sách báo trong nước.
(3)Xem : Mặc dù Hoàng Cát khi đó là cán bộ kỹ thuật, trực tiếp sản xuất ở nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo, lại là thương binh từ chiến trường miền Nam trở về, đã đổ máu và để lại một phần cơ thể của mình nơi chiến trường Trị Thiên ác liệt, vậy mà tác giả đã không có được một cơ hội, dù là rất nhỏ, để có dịp trình bày lại. (Huy Thắng, Một cuộc đời chìm nổi – Qua những dòng thơ - sđd, tr. 472)
(4)Về con người Xuân Diệu, xem cảnh ông ’’ nói chuyện thời sự’’ với học viên văn nghệ sĩ trẻ thời chống Pháp chống Mĩ : Anh (Xuân Diệu) nói về xã hội thối nát của Pháp và Mỹ ( …). Xuân Diệu trợn tròn con mắt :
- Các đồng chí có biết bên ấy chúng nó mặc quần áo bằng gì không ? Bằng ni lông. Quần áo ni lông ! Chúng tôi ào lên. Thật không thể nào hiểu được cái bọn người khốn nạn ấy lại có thể lấy ni lông làm quần áo, thứ vải mưa mầu cánh dán trong suốt (…) Thật là một lũ điên loạn, trụy lạc. Mặc quần áo như vậy có khác gì cởi truồng […] Xuân Diệu bồi thêm :
- Còn quần áo may bằng vải thường các đồng chí có biết nó in gì trên đấy không ? Không phải in hoa. Nó in cả một tờ Nữu ước thời báo với đầy đủ hình ảnh, măng sét, tít lớn, tít nhỏ, tin ngắn, tin dài lên mặt vải. Cũng không phải in lên một bộ quần áo mà in lên cả hàng bao nhiêu cuộn vải rồi cứ thế mà cắt ! Không để chúng tôi kịp ngạc nhiên, Xuân Diệu tiếp luôn :- Còn tổng thống ở bên Mỹ, khi hết nhiệm kỳ không làm tổng thống nữa, các đồng chí có biết nó đi làm gì không ? Đi quảng cáo cho các hãng buôn kiếm tiền ! Chúng tôi lại ồ lên. Cái bọn người quái đản ấy cần được cải tạo. Chúng ta sẽ là người cải tạo chúng. Giai cấp vô sản, tầng lớp lao động, những người nghèo khổ bị bóc lột ở những nước ấy sẽ đứng lên. (Bùi Ngọc Tấn, Viết về bạn bè – Nxb Hải phòng, 2003 – tr. 309-310)
(5)Chúng tôi có đến thăm Hoàng Cầm năm 2004. Trong câu chuyện qua lại, nhà thơ thuật cho chúng tôi nghe hoạt cảnh sau đây. Hồi ông bị biệt giam vì vụ bản thảo tập thơ Về Kinh Bắc chuyển ra nước ngoài (nhà thơ Hoàng Hưng cũng bị bắt vì vụ này), một hôm nghe tin Tố Hữu sắp đến thăm, ông rất mừng, tin rằng chắc mình sẽ được thả nay mai. Trò chuyện thoải mái với nhau, rồi vui vẻ chia tay. Ngay ngày hôm sau, Hoàng Cầm vẫn bị biệt giam, nhưng khắc nghiệt hơn (ai ra lịnh ?). Xin hương hồn nhà thơ chứng giám cho lời kể này.
(6)Tố Hữu bấy giờ là Ủy viên trung ương Đảng Lao động Việt Nam, phụ trách đường lối văn chương nghệ thuật và, tất nhiên, đảm nhiệm công cuộc dập tắt phong trào Nhân văn Giai phẩm. Tác giả cuốn tổng kết “Qua cuộc đấu tranh nhóm phá hoại Nhân Văn - Giai Phẩm’’ trên mặt trận văn nghệ (Nxb Văn Hóa – 1958).
(7)Của cả tác giả nước ngoài. Chẳng hạn như khảo luận của Georges Bourdarel, Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam (Trăm hoa đua nở trong đêm tối ở Việt nam – Nxb Jacques Berton, Paris, 1991).





source : hopluu.net.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét