VONG QUỐC HÀNH - Định Nguyên
mẹ ở quê nhà buốt ngọn bất
em ở quê nhà đắng miếng cơm
ta, chén Hồ trường say bóng tuyết
bài hành vong quốc viết chưa xong
mồ mẹ nhang đèn đêm cố sự
em thắp đèn khuya ngóng nỗi buồn
ta, mảnh tha hương đem vá lại
ngậm ngùi kim chỉ hề non sông
khúc tuý hành ca lệch bóng tối
vọng qua mặt đất đêm ba mươi
ở giữa cơn say hồn thắt lại
rượu đắng hay ta vẫn ngậm ngùi ?
này mẹ, khăn tang đã quấn vội
này em, đừng khóc những mùa xuân
lãng tử vẫn hề ta lãng tử
chí lớn ta hề bàn tay không
dốc ngược bình khô uống nhật nguyệt
mùa xuân, thơ, rượu, buồn như nhau
bứt sợi tóc gầy so với tuyết
tuyết tan rồi, còn tóc trắng phau
say ngủ trong thơ gối trời đất
tưởng đêm trừ tịch mộng bình yên
đêm hoang trùng điệp như thành quách
giữa mộng tai còn rộn lửa binh
tống biệt chén này bạn hữu chết
oan hồn vây giữa hàng kẽm gai
vạn bóng ma hoang ngồi chật đất
mùa xuân, mùa xuân, hề bi ai !
chén này rót sẵn đợi pháo nổ
chờ uống môi xưa vị rất nồng
mười năm ta tưởng như thiên cổ
giọt lệ này rơi chén vỡ không ?
rót một ly đầy rượu cúng mẹ
nhang khói thơm từ cổ tích xưa
con bỏ quên đời đêm xứ lạ
mẹ về ở trọ tối thiên thu
một chén uống giùm bọn bằng hữu
cúi rạp người quanh những miếng cơm
ngựa xe, tiền bạc ngươi đều đủ
có thiếu chăng là chút núi sông
rượu khô, bình cạn, ghế bàn lạnh
đập chén ra đi đêm ba mươi
những bước âm dương xô lệch đất
một cõi càn khôn nức nở cười
Ðịnh Nguyên
3/7/07
Bữa Say Ghé Chùa Ông Hội An - Hoàng Lộc
Bữa Say Ghé Chùa Ông Hội An
Hoàng Lộc
Quan Vân Trường mặt đỏ cũng thành danh
ta đỏ mặt hơn ông, đời lại hỏng
ông cốt cách quỳnh tương, ta hồ đồ rượu dỏm
cuộc trăm năm đã đến thế - hoang tàn
Kinh Châu, Kinh Châu mờ hơi sương
lòng ông, lòng ta - ai biết được ?
hào khí ngời thanh long, cũng sụt sùi
ngọn bút
chuyện nghìn xưa thầm hòi chuyện nghìn sau
ông còn đất để về, ta biết về đâu ?
mịt mịt trời sương - mờ mờ thân thế
châu với quận đã lạc loài tri kỷ
mảnh trăng suông vừa nhạt thếch rượu mời
chốn trần gian tốc gió bốn trời
trên đất lạ còn rung bờm xích thố
ông tử vi thần thơm lừng thiên cổ
ta thơ cuồng vất vưởng mỗi tờ mây
để có lần ta chếnh choáng qua đây
chén rượu dỏm chừng không gượng nổi
ông linh hiển, mặt mày ông đỏ chói
đỏ mặt mình, ta gục dưới chân ông...
1987
Hoàng Lộc
(Qua Mấy Trời Sương Mưa)
Hoàng Lộc
Quan Vân Trường mặt đỏ cũng thành danh
ta đỏ mặt hơn ông, đời lại hỏng
ông cốt cách quỳnh tương, ta hồ đồ rượu dỏm
cuộc trăm năm đã đến thế - hoang tàn
Kinh Châu, Kinh Châu mờ hơi sương
lòng ông, lòng ta - ai biết được ?
hào khí ngời thanh long, cũng sụt sùi
ngọn bút
chuyện nghìn xưa thầm hòi chuyện nghìn sau
ông còn đất để về, ta biết về đâu ?
mịt mịt trời sương - mờ mờ thân thế
châu với quận đã lạc loài tri kỷ
mảnh trăng suông vừa nhạt thếch rượu mời
chốn trần gian tốc gió bốn trời
trên đất lạ còn rung bờm xích thố
ông tử vi thần thơm lừng thiên cổ
ta thơ cuồng vất vưởng mỗi tờ mây
để có lần ta chếnh choáng qua đây
chén rượu dỏm chừng không gượng nổi
ông linh hiển, mặt mày ông đỏ chói
đỏ mặt mình, ta gục dưới chân ông...
1987
Hoàng Lộc
(Qua Mấy Trời Sương Mưa)
Hồ sơ Nhân văn-Giai phẩm- Hai lá thư của ông Nguyễn Hữu Đang
Loạt bài: Hồ sơ Nhân văn-Giai phẩm
Hai lá thư của ông Nguyễn Hữu Đang
Nhà thơ, nhà báo Hoàng Hưng vừa chuyển cho talawas hai lá thư ông Nguyễn Hữu Đang gửi cho ông, cũng là gửi cho các đồng nghiệp ở báo Lao Động vào năm 1993 - 1994. Được sự đồng ý của Hoàng Hưng, talawas công bố toàn văn hai lá thư này để bạn đọc thấy được tinh thần kiên nhẫn, lạc quan của người cựu lãnh đạo phong trào Nhân văn-Giai phẩm trong hoàn cảnh đói nghèo cũng như tính cách nghiêm túc, cẩn trọng của một nhà báo lão thành đối với công việc viết và làm báo, khi ông ở tuổi 80, và 20 năm sau khi ra tù.
talawas
Thư số 1
Hà Nội, ngày 10-11-1993
Anh Hoàng Hưng thân mến,
Tôi gửi vào lời ân cần hỏi thăm sức khoẻ, sinh hoạt và công việc của anh và của các bạn tốt đã quan tâm đến đời sống của tôi với tình nhân ái cao quí. Một lần nữa, tôi khẳng định lòng biết ơn sâu sắc của tôi đối với thịnh tình của các bạn. (Xin nói rõ: tôi đã rất phấn khởi nhận được đầy đủ các món quà của các bạn mà anh em ngoài này gọi là “lộc” [1] ).
Hôm anh trở về, tôi không biết trước để đến cùng anh chia tay, tôi rất tiếc và xin anh thứ lỗi. Từ sau buổi gặp anh, tôi vẫn có ý muốn gửi vào trong ấy một cái gì làm món quà mọn tỏ mối quan hệ thân thiện giữa chúng ta, mối quan hệ mà tôi mong càng ngày càng phát triển tốt đẹp.
Các bạn hãy coi như chúng ta gặp nhau, cùng nhau nói chuyện vui vẻ, thân mật và tôi cao hứng cho các bạn nghe một bài thơ, kể cho các bạn nghe một câu chuyện yêu đương thời còn trẻ. Quà suông thế đấy!
Thơ thì tôi ít lắm nhưng cũng có sẵn một bài làm trong trại giam năm 1960 nhân nghe một người đồng cảnh ngâm mấy câu thơ của Vũ Hoàng Chương là bạn học với tôi hồi còn nhỏ. Tôi chép gửi vào để các bạn đọc cho biết một vài cảm nghĩ của tôi, cách đây ba mươi ba năm, về tình nhân loại vẩn đục những tội ác của chủ nghĩa Xtalin, chủ nghĩa Mao Trạch Đông, chủ nghĩa đế quốc Mỹ… chủ nghĩa phát xít đã qua hay biến dạng và những hành động duy ý chí tổn hại vô ích.
Chuyện thì có đoạn hồi ký tôi mới viết gần đây. Tôi ghi lại hoàn toàn đúng sự thật, có sai chệch chút ít thì cũng chỉ trong chi tiết nhỏ, thí dụ lời lẽ những câu đối thoại (trí nhớ không thể trung thành như máy ghi âm). Nếu các bạn thấy câu chuyện “có vẻ tiểu thuyết” thì lý do chính bản thân sự việc nó như thế, nó giống nội dung một cuốn tiểu thuyết nào đó một cách ngẫu nhiên chứ không do tôi thêu dệt. Các bạn biết đấy, sự thật nhiều khi vượt xa hư cấu hoặc trùng hợp với hư cấu.
Cũng xin bộc lộ là chính vì lý lo cái “vẻ tiểu thuyết” dễ gây nghi ngờ mà trong đoạn hồi ký này tôi đã phải bới đi hai tình tiết có thật không quan trọng:
1. Trên thực tế, trong buổi đầu tôi gặp Huyền Nhiên ở giữa đường, có cả cô em Huyền Nhiên xấp xỉ tuổi chị. Trong bài viết tôi phải loại bỏ sự thật có mặt của cô ta để khỏi giống đoạn đầu Truyện Kiều.
2. Trên thực tế, còn có một người anh họ xa của Huyền Nhiên cũng yêu Huyền Nhiên tha thiết mà không được Huyền Nhiên đáp lại. Trong bài viết tôi phải loại bỏ sự tồn tại của anh ta để khỏi giống Đoạn tuyệt của Nhất Linh có nhân vật Thân (tầm thường) bên cạnh nhân vật Dũng (xuất sắc) cho Loan so sánh, lựa chọn trong lòng.
Ngoài ra, để tránh sự phản ứng có thể sẽ có ở phía chồng và các con của Huyền Nhiên đang sống ở Sài Gòn – do câu nệ hay hẹp hòi, không muốn ai nói động đến chuyện yêu đương cũ dù là đúng đắn của người thân đã khuất, tôi gọi chệch các tên thật (… [2] ). Thế thôi.
Tôi gửi bài hồi ký vào, trước nhất để các bạn đọc cho vui, nhưng nếu anh thấy có thể đăng báo và chuyển đến tờ Lao Động mà các bạn đang góp sức đẩy mạnh, thì tôi càng hoan nghênh. Tôi vẫn có thiện cảm với tờ báo ấy. [3]
Trong trường hợp đăng được, tất nhiên tôi phục tùng quyền sửa chữa và quyết định tối hậu của Ban biên tập, nhất là việc cắt bớt thì không nên dè dặt, miễn là có chỉ rõ chỗ cắt bằng ba dấu chấm (…).
Về đầu đề, có thể dùng "Bộ vòng xơ-men" hoặc "Bộ vòng giao ước", tùy Ban biên tập chọn.
Bài hơi dài, không nhất thiết phải đăng ngay, có thể giữ lại, đăng vào số Tết có nhiều trang.
Trong trường hợp không đăng được, anh cứ tin là vẫn vui vẻ cả và anh hãy yên tâm giữ bản thảo lại làm vật lưu niệm (tôi đã viết sẵn câu đề tặng [4] ). Anh chỉ cần báo cho biết càng sớm càng tốt bằng thư gửi qua Phùng Quán (Ngõ số 10, cạnh trường Chu Văn An, đường Thụy Khuê, quận Ba Đình, Hà Nội.)
*
Dưới đây là đôi nét về tình hình tôi hiện nay mà dĩ nhiên là bài Phùng Quán viết về tôi không thể nào nói rõ vì Quán đến thăm tôi đầu năm 1991, từ bấy đến nay đã gần ba năm, trong thời gian ấy người ta đã có thay đổi một phần cách đối xử với tôi cũng như với những anh em Nhân văn khác, xin báo cáo tỉ mỉ cùng các bạn quí:
1. Người ta không chính thức công bố sửa sai, phục hồi theo tinh thần Đại hội VI, cứ đối xử khác đi để ai chú ý thì ngầm hiểu như thế. Vấn đề là giữ ý thế nào đó.
2. Người ta trả lại chế độ hưu trí nhưng ấn định mức lương một cách tuỳ tiện chứ không kể cấp bậc, không tính thâm niên. Đáng lẽ, phải xếp tôi tối thiểu chuyên viên 7, nhưng chỉ xếp chuyên viên 5.
3. KGB không còn gây phiền hà hay xử sự thô bạo như trước. Ít ra, bề ngoài tôi cũng bình thường như mọi người dân lương thiện.
4. Hoạn quan, bồi bút không còn lên gân đả kích, qui chụp, chỉ thỉnh thoảng nói mơ hồ “vụ Nhân văn–Giai phẩm đã giải quyết xong rồi”.
5. Hội Nhà văn thay Hội Văn nghệ cũ nhận là cơ quan chủ quản của tôi (được coi là cán bộ biên tập của Hội đã về hưu).
Hằng năm, đến Tết có biếu quà mừng tuổi. Vào dịp kỷ niệm 40 năm xuất bản báo Văn Nghệ có mời đến chiêu đãi riêng và tặng 100.000đ. Nhân dịp anh em văn nghệ sĩ mừng thọ tôi 80 tuổi, có cử Hữu Mai đại diện đến chúc mừng và tặng quà.
6. Nhà xuất bản Văn Hoá đã ký hợp đồng ấn hành một tập hồi ký 200 trang của tôi.
7. Một số tờ báo sẵn sàng đăng bài hiền lành nhưng tôi chỉ mới hứa hẹn (trừ tờ Nghệ thuật Điện ảnh đã đăng hai bài).
8. Chưa được hưởng trợ cấp lão thành cách mạng tuy có đủ tiêu chuẩn. Vì đã phạm kỷ luật nghiêm trọng (Không cần biết việc thi hành kỷ luật đã được xét và sửa sai).
9. Chưa được phân phối một căn hộ hai phòng để có chỗ sống là phụ, có chỗ chết là chính. Đã tích cực đề nghị mà chưa được trả lời
10. Nói tóm tắt một câu thì việc sửa sai, phục hồi đối với tôi mới chỉ được thực hiện nửa vời, chiếu lệ.
Chắc chắn tôi sẽ chết trước khi được xã hội trả lại đầy đủ sự công bằng theo lương tri chứ không phải sự “công bằng” theo những nguyên tắc qui định của một tổ chức.
Song song với cách đối xử mới của người ta bước đầu như trên, tôi đã tự mình xây dựng cuộc sống chuyển hướng trên cơ sở:
1. Sức khoẻ tốt: không có bệnh mãn tính nặng, không hay ốm đau lặt vặt. Cơ thể có suy nhược theo tuổi già như tai, mắt răng, đầu gối, động tác phản ứng… đều kém đi nhưng cũng còn tạm đủ dùng ở mức trung bình. Có bốn cái khoẻ: ăn khoẻ, ngủ khoẻ, nói khoẻ, đi xe đạp khoẻ. Trong lứa tuổi tám 80, thuộc loại khá.
2. Trí tuệ minh mẫn tuy trí nhớ yếu. Việc cũ nhớ nhiều, nhớ kỹ, việc mới hay quên. Còn đủ năng lực viết lách, viết báo, thuyết trình, thảo luận.
3. Sinh hoạt hàng ngày theo nếp “ba ít”: ít vật chất, ít quan hệ, ít quan tâm. Tiêu dùng đại tiết kiệm. Thiếu sách báo, tài liệu để bồi dưỡng kiến thức. Không có đồng hồ, rađiô, tivi. Quần áo, chăn màn tạm đủ. Xe đạp tồi. Đối nhân xử thế sòng phẳng, chung sống hoà bình.
4. Tình cảm: sống với bạn bè là chính, tìm được ở những người thân tình yêu thương, quí trọng, giúp đỡ ân cần. Ngoài ra cũng có nhiều người quen biết hay không quen biết tỏ thiện cảm. Đó là niềm an ủi. Tự xét mình lương thiện, chưa bao giờ làm hại cá nhân hay xã hội. Đó là niềm tự hào.
5. Tư tưởng, về căn bản theo học thuyết Lão, Trang. Chấp nhận, phục tùng khách quan; thích ứng với môi trường; coi nhẹ các vấn đề đấu tranh cải tạo, cống hiến, công bằng xã hội, tiến hoá loài người v.v… Cụ thể về chính trị, cứ nhắm mắt theo đuổi tuyệt đại đa số quảng đại quần chúng nhân dân; làm nghĩa vụ công dân ở mức độ tối thiểu cần thiết; không cần phân biệt chủ nghĩa nào, chế độ nào, đảng phái nào. Chỉ cần hai chữ “bình yên”.
Trong hoàn cảnh tuổi già, thanh bần, đứng ngoài lề xã hội, lý do tồn tại của tôi những năm còn lại là sống để xem và thưởng thức cái xem.
6. Hoạt động tinh thần: nói thưởng thức cái xem là nói cảm nghĩ trong khi xem. Tôi tranh thủ những giờ nhàn rỗi (không xem) để viết những cảm nghĩ trong khi xem. Viết chơi như người ta chơi cây cảnh, không khẩn trương, không cố gắng xuất bản hay không xuất bản không thành vấn đề. Không cần danh, lợi hay ảnh hưởng.
7. Để dành tiền: một câu hỏi lớn day dứt là “sẽ chết ở đâu?” Bởi vậy những món tiền mà bạn bè và những người thương yêu san sẻ, giúp đỡ, tôi không dám tiêu ngay. Phải gửi ngân hàng để tích lũy, phòng xa người ta nhất định không phân phối cho một căn phòng, cùng đường phải tự lực làm một gian bán mái bám vào chái nhà ai đấy thì tôi cũng có thể góp phần mình với các nhà hảo tâm.
Tình hình tôi mọi mặt hôm nay đại thể là như thế. Không dám chắc rồi đây tôi sẽ có thêm được cái gì tốt hơn không. Dù sao tôi cũng đã quen chịu đựng số phận bất hạnh, chỉ mong khổ vừa vừa. (Tiện đây cũng xin báo cáo thêm là tôi tin có định mệnh và do đó tôi nhận thức loài người là một bầy con rối.)
Anh Hoàng Hưng ạ,
Trên kia tôi có nói về tư tưởng tôi theo học thuyết Lão, Trang song nói cho thật đúng thì là tôi hướng theo, mà lại chỉ mới hướng theo ở một vài điểm nào đấy thôi. Học thuyết ấy quá cao siêu, tôi không có đủ trình độ và bản lĩnh để lĩnh hội được hết và áp dụng được thoả đáng. Nói nôm na, tôi chỉ mới dựa vào quan niệm “vô vi” để kiên định thái độ “tiêu cực cầu an”, không còn sợ “tiêu cực cầu an” là hèn. Trái lại, tôi ngang nhiên khoe mình “tiêu cực cầu an” vì đó là chân lý, là con đường đi tới hạnh phúc – “tiêu cực cầu an” có lý tưởng, có lập trường vậy.
Chưa cần tìm hiểu sâu xa gì lắm, chỉ cần biết một điểm này: Lão Đam khuyên dạy người đời cái lẽ “tri túc”: Hãy tự lấy làm bằng lòng với những cái gì mình đang có. Đấy là bí quyết để sung sướng, ít ra cũng là bí quyết để tránh bấp bênh, vất vả, bảo đảm bình yên.
Tôi thật lòng muốn học đòi “tri túc” để biến cái thiếu khách quan, phàm tục thành cái đủ chủ quan tiên tử.
Chúc các bạn trong ấy vui, mạnh, thành công và “tri túc”.
Xiết chặt tay và mong gặp lại
Nguyễn Hữu Đang
Bài thơ gửi kèm thư số 1
Quán trọ hành tinh
Gửi Vũ Hoàng Chương, nhà thơ Đạo học
Nguyễn Hữu Đang
Anh “đến nhân gian lạc bến bờ
Tìm sông lưu lạc, núi bơ vơ ” (1)
Biết chăng sầu oán vùi tâm thức
Máu đẫm tay người ngập phím tơ
Bước chân lịch sử đi không vội
Tơ nhện thiên đường dệt giấc mơ
Ngày đêm vô vạn hành tinh vỡ
Lặng ngắt thinh không vũ trụ mờ
Yên Bái, 1960
N. H. Đ.
(1) Lời thơ Vũ Hoàng Chương:
“Ta đến nhân gian lạc bến bờ
Tìm sông lưu lạc, núi bơ vơ” (NHĐ)
Thư số 2
Hà Nội ngày 6-6-1994
Anh Hoàng Hưng thân mến,
Tôi gửi vào lời ân cần hỏi thăm anh, gia đình anh và các bạn quí Trần Trọng Thức, Tống Văn Công, Lưu Trọng Văn, Hoàng Thoại Châu, Lê Phú Khải và tất cả nhân viên báo Lao Động trong ấy mà tôi mong sẽ có dịp được quen biết.
Tình hình tôi vẫn bình thường, nghĩa là khoẻ, tỉnh tỏ và tạm đủ no ấm. Đang tiến hành chuyển cư lên ở hẳn Hà Nội dù chưa có nhà được thuê và chưa có khẩu chính thức thường xuyên. Việc đề nghị được phân phối thuê nhà đã có triển vọng sẽ được giải quyết. Người ta hứa chắc chắn, còn mình thì cứ chờ đợi trường kỳ, chỉ mong sẽ có nhà riêng trước khi chết. Còn món trợ cấp lão thành cách mạng 140.000 đ /tháng thì người ta trả lời dứt khoát là không được hưởng vì đã “phạm kỷ luật nghiêm trọng”, muốn được hưởng thì phải xin xoá bỏ việc thi hành kỷ luật cũ đã. Chuyện khó đấy vì người ta chỉ muốn giải quyết sửa sai nửa chừng. Tại sao, anh có thể hiểu, tôi nói ra thêm phiền. Nhưng cũng không vì thế mà tôi chấp nhận. Sẽ còn khiếu nại – cũng trường kỳ như kháng chiến, như chờ đợi nhà riêng.
Nhắc lại việc tử tế mới đây:
Sau khi nhờ Phùng Quán chuyển đến anh bài “Bộ vòng xơ-men”, tôi trở về quê Thái Bình, mãi đến giáp Tết Nguyên đán mới lại lên Hà Nội. Ở quê, đầu tháng 12-1993 được tin Lao Động đã đăng hai kỳ “Bộ vòng xơ-men” tôi bèn đi tìm mượn đọc mà chẳng kiếm đâu ra [5] . Muốn mua ở thị xã, chẳng có nơi nào bán. Đành vào thư viện tỉnh đọc nhờ – phải đạp xe 12 km, không phải chuyện đùa. (Lưu ý các anh về việc phát hành. Có lẽ ít quá không đủ bán chứ không phải bán chạy, chóng hết đến thế). Rất cảm ơn các anh về sự quan tâm và cũng rất hài lòng về cả ba mặt giới thiệu, biên tập và trình bày. Riêng về bản in thì mất một từ, sai hai từ, không đáng kể. (Chỉ mong L.Đ. phấn đấu đạt tới trình độ tuyệt đối không in sai một chữ mà sách báo nước ngoài đã thực hiện được từ lâu).
Ngày 28 tháng Chạp âm lịch tôi lên Hà Nội, đến nhà Quán đúng lúc Quán vừa từ trong Nam trở ra. Quán đưa cho tôi thư của anh kèm với 500.000đ nhuận bút. Mừng lắm. Thư cho biết dư luận tốt về bài báo và tình cảm nồng hậu của anh em. Còn nhuận bút thì so với ngoài này là khá. Nhân dịp này cũng xin khẳng định rất thật thà là tôi tuy nghèo mà cũng chẳng cao đạo gì nhưng ít chú trọng tiền công trong những việc làm mà tôi thích. Các anh giúp cho như thế là quí; nhiều, ít không thành vấn đề, đừng bao giờ các anh e ngại không đáp ứng sự mong muốn của tôi mà các anh tưởng là cao trong khi sự thật lại là tôi không cầu kỳ, đòi hỏi.
Tiền nhuận bút tôi vẫn chưa dám tiêu, cứ còn phải gửi ngân hàng phòng xa rồi đây có thể phải làm túp lều để có chỗ chết như tôi đã nói với anh – biết đâu căn buồng mà người ta hứa lại chẳng là bánh vẽ? Rất tiếc là Quán đã lười không chịu đem ra cho tôi những số L.Đ. mà các anh dành cho theo tiêu chuẩn quyền tác giả. Tôi lên thủ đô muộn, báo L.Đ cũ nếu còn lại cũng khó tìm thấy, thế là lại tốn công lùng khắp nơi quen biết để xin lấy đem photocopy tặng bạn bè, việc kéo dài lai nhai đến nửa tháng mới xong. Tôi oán trách Quán thấu trời.
Sau khi “Bộ vòng xơ-men” được hoan nghênh, tôi đã có hứng viết ngay một bài định gửi đăng vào L.Đ. số Tết, nếu không kịp thì vào số Xuân. Viết về đề tài tiếu lâm để vui đùa với bạn đọc một chút vào dịp năm mới. Viết công phu tôi tin là sẽ hấp dẫn và có ích. Bài viết xong, cũng gửi cho Phùng Quán để nhờ chuyển chẳng ngờ Quán đi vắng, mình nằm ở quê đâu có biết, thành ra bài ứ đọng. Quán trở về, Quán đọc, Quán không tán thành tôi vui đùa trên báo bằng tiếu lâm vì “dù sao tiếu lâm cũng vẫn còn bị nhiều người cho là nhảm”. Quán cứ muốn tôi lúc nào cũng đúng mực, nghiêm chỉnh, thậm chí đạo mạo, theo quan niệm cũ cố nhiên.
Tuy không đồng ý hẳn với Quán, tôi cũng khiêm tốn nghe theo dè dặt, tạm hoãn gửi đăng báo, giữ lại để sửa chữa thật kỹ cho chín chắn; nếu đông đảo anh em tán thành, ủng hộ thì sẽ đăng vào số Tết cuối năm nay. Đầu đề là “Truyện tiếu lâm bên lề một hội nghị văn hoá” (Hồi ký kháng chiến). Bản thảo hoàn chỉnh, tôi sẽ chụp photocopy gửi cho anh một bản để các bạn quí cùng bình luận và góp ý kiến với tôi. Không vội, còn sáu tháng nữa để nghiên cứu và quyết định.
Ngay bây giờ, tôi gửi đến anh bài kèm đây để anh làm việc với Ban biên tập báo L.Đ. “Vật khinh, hình trọng”, chưa biết bài sẽ được đánh giá thế nào, tôi cũng màng cả năm đề nghị:
1. Nhận được là đăng ngay chứ không giữ lại để đăng vào dịp kỷ niệm Cách mạng tháng Tám hay dịp Quốc khánh. Đăng càng sớm càng tốt.
Vì tôi không muốn bài chìm ngập trong vô số bài cùng đề tài mà tất cả các báo đều có bổn phận đóng góp vào các dịp ấy. Chừng ấy, bài báo dễ bị độc giả không chú ý hoặc coi thường, hoặc đã thưởng thức quá tải những bài khác đến chán ngấy rồi.
Tôi nghĩ thế. Nếu các anh nghĩ trái lại thì tôi đành xin thua. Các anh là Bộ Chính trị của tờ báo, tôi phải phục tùng.
2. Về mặt biên tập: Nếu không dùng toàn văn bản thảo vì thấy dài quá đối với khuôn khổ tờ báo (không muốn đăng hai, ba kỳ) thì cứ cắt bỏ thoải mái, cắt bỏ bao nhiêu cũng được. Chỗ nào tôi thích mà bị cắt bỏ tôi sẽ lấy lại trong tập sách 200 trang đã ký hợp đồng với NXB Văn Hoá. Tất nhiên những chỗ sai, hỏng đều phải sửa đổi.
Tuy vậy có một đoạn tôi xin được giữ nguyên văn. Đó là đoạn “Riêng tôi lúc ấy… sau thời điểm chào cờ hôm ấy” (trang 6). Vì đó là một thứ “tuyên ngôn độc lập cá nhân”. Các anh hãy độ lượng, thông cảm chứ đừng chê là khó tính.
3. Về đầu đề (tên bài, “tít”): Tôi giới thiệu mấy tên sách mà tôi định dùng để các anh tham khảo:
- Tên chính: “Ngày khai sinh vĩ đại”, “Ngày khai sinh lớn”, “Ngày khai sinh lừng lẫy”
- Tên phụ: ở dưới, chữ nhỏ hơn, trong ngoặc đơn: “Nhớ về Ngày Độc lập 2-9-45”
Còn tên bài báo (đầu đề, “tít”) thì có hai trường hợp:
a. Không cắt bỏ chỗ nào hoặc cắt bỏ không đáng kể:
- “Tít” chính: có thể là một trong ba tên dự kiến cho sách.
- “Tít” phụ: ở dưới, chữ nhỏ hơn, trong ngoặc đơn: “Ấn, kiếm nhà Nguyễn – Tuyên ngôn Độc lập”
b. Cắt bỏ nhiều, hết hoặc gần hết những chỗ có khoanh nét đỏ, nội dung thu gọn lại trong đề tài ấn, kiếm đơn thuần; chỉ đặt một “tít”: “Ấn, kiếm vương quyền nhà Nguyễn trên lễ đài “Ngày Độc lập” 2-9-45”
4. Về minh hoạ (tranh, ảnh):
Nếu L.Đ. không có ảnh tốt hơn thì có thể dùng hai hay một ảnh kèm đây.
- Ảnh màu chụp một bức tranh vẽ theo ảnh, căn bản đúng hiện thực nhưng cũng có tô điểm thêm vài ba chi tiết (hiện bày trong Viện Bảo tàng Lịch sử). Nên dùng.
- Ảnh đen trắng nhỏ đã in trên báo, chụp ảnh lúc Chính phủ Lâm thời vừa bước lên mặt lễ đài (x. tr. 6 bản thảo). Từ trái sang phải: Nguyễn Văn Tố, Trần Huy Liệu, Võ Nguyên Giáp, Dương Đức Hiền, Vũ Trọng Khánh, Hồ Chí Minh, Nguyễn Lương Bằng, Vũ Đình Hòe, Nguyễn Hữu Đang. Ảnh này dùng xong gửi trả lại tôi.
Theo ý tôi dùng một ảnh màu (toàn cảnh cuộc mít tinh) là đủ đẹp. Chân dung cụ Hồ đăng vào dịp kỷ niệm Cách mạng tháng Tám hay Quốc khánh long trọng hơn.
- Ảnh đen trắng to chưa in trên sách, báo lần nào, mờ quá, tôi gửi đến để các anh xem cho biết. Trong ảnh, cụ Hồ đã đội mũ chứ không để đầu trần như lúc mới lên lễ đài, lúc này vẫn chưa có người che ô. Áo của ông cụ ở đây màu thẫm, có thể không phải bằng kaki (tôi không nhớ rõ). Trong ảnh, lại có hình một người đang chụp ảnh hay quay phim (Mai Trung Thứ?) là điều mà tôi chưa bao giờ nhớ được, cứ yên trí là đã không cho ai bước lên lễ đài ngoài Chính phủ Lâm thời và ông Nguyễn Lương Bằng. Phía sau người chụp ảnh hay quay phim, đứng lùi vào mé trong là Nguyễn Hữu Đang. Ảnh này xem xong cũng gửi trả lại tôi.
5. Về xã giao:
Thể nào ở cuối bài cũng ghi “Trích hồi ký sẽ do NXB Văn Hoá ấn hành năm 1995”. Đó là điều kiện tôi đã cam kết với NXB để họ đồng ý cho trích bản thảo (đã ký hợp đồng) đăng báo trước. Chú ý: ghi rõ “NXB Văn Hoá”. Chuyện có đi có lại.
Cuối cùng, tôi muốn đề ra nguyên tắc cho tất cả những bài tôi gửi đăng trên L.Đ. là:
- Không đăng thì báo cho biết ngay bằng thư gửi qua Phùng Quán (Ngõ số 10, cạnh Trường Chu Văn An, đường Thụy Khuê, HN)
- Không cần trả lại bản thảo.
- Đăng được thì báo cho biết sau khi chấp nhận bản thảo, thư cũng gửi qua Phùng Quán. Tôi cần biết sớm để kịp đón mua báo hoặc đến lĩnh báo ở 51 Hàng Bồ mà các anh dặn trước [6] .
Có đăng mà tôi không biết đủ sớm thì tôi cũng dễ mất phần như chuyến “Bộ vòng xơ-men” vừa rồi.
Xin phản ảnh với các anh một nét tồi trong sinh hoạt hằng ngày của tôi bây giờ là nếu cứ ở nhà thì không được đọc một tờ báo nào, không có một tờ báo nào để đọc.
Chúc anh mạnh khoẻ, vui vẻ, sẵn tiền, vợ đảm, con ngoan, tự do, bình đẳng.
Chào “công bằng, văn minh thật”.
Nguyễn Hữu Đang
T.B.:
1. Sau khi đã hoàn thành bản thảo hồi ký 200 trang về “Ngày Độc lập” để sòng phẳng với NXB Văn Hoá, nghĩa là từ tháng 9 mùa thu sắp tới tôi sẽ có thể viết một số bài cho L.Đ.. Tôi chỉ sợ không nắm vững nhu cầu của tờ báo (vì ở xa các anh và không có báo để theo dõi nội dung báo) chứ không sợ thiếu nhiệt tình.
2. Gần đây Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương có soạn một tài liệu chống những hoạt động phá hoại an ninh chính trị, gửi cho các đảng ủy địa phương dùng, cụ thể là để tất cả các chi bộ Đảng học tập. Đoạn cuối tài liệu có một câu qui cho Phùng Quán đã tiếp tay cho nhóm Nguyễn Hộ chắc anh đã biết rõ. Rồi đây Quán sẽ có thư kể lại đầu đuôi sự việc. Trong thư này tôi chỉ có thể khẳng định một câu là Phùng Quán oan, C.A. đã báo cáo sai và Ban TTVH T.Ư. đã thiếu xác minh thận trọng.
Mặt khác, chắc Quán sẽ đấu tranh thanh minh, nhưng cũng còn lâu mới giành được sự công bằng, và trong khi đó thì Quán mang tiếng thế nọ thế kia, rất thiệt hại. Quán đã phải tính đến nước kiện Ban TTVH T.Ư. trước toà án về tội vu cáo nếu họ không chịu sửa sai đến nơi đến chốn.
Không hiểu những người có quyền phân xử sẽ giải quyết êm thấm, hay là sẽ lờ đi, coi như chẳng có chuyện gì, hay là sẽ trấn áp người khiếu tố? Dù sao tôi cũng tin rằng Việt Nam cũng như Trung Quốc, chỉ đổi mới kinh tế, chưa đổi mới chính trị.
Nhưng thôi, anh Hưng ạ, năm mươi năm qua những sự việc bất ngờ lớn trong nước, ngoài nước đã dạy cho chúng ta những bài học lớn mà kết quả là chúng ta đã biết nghĩ và sống cao hơn những chuyện đấu đá “thiệt mình mà chẳng ích gì cho ai”.
Chính tập Người đi tìm mặt [7] của anh cũng đã xa lánh những đao to búa lớn, xa lánh những Don Quichote.
3. Ban đầu tôi nghe người ta nói Hoàng Hưng mới cho ra một tập thơ như sự thách thức với cái tên ngang ngang Tôi vẽ mặt tôi (!). Phùng Quán phải đi mua với giá 7.000đ. Tôi mượn đọc. Đọc chưa kỹ, chưa hiểu lắm nhưng đã thấy có cái gì như những cảm giác siêu thực: “Đường phố 1”, “Đường phố 2”, “Đường phố 3” rồi “Sốt”:
“Tôi bồng bềnh tôi nở chật không gian
Tôi nhìn tôi bay khỏi đất”
Chương “Nhập môn” sẽ làm cho tôi tự ty là người ngoại đạo. Tôi tạm coi những bài trong đó là thần chú hay mật mã.
Trái lại, bài “Định mệnh” đã giúp tôi nhích lại gần thơ anh, nhất là hai câu:
“Em bi phẫn ở hiền sao gặp ác
Ác ở trong hiền chứ ác ở đâu”
thì tôi lấy làm tâm đắc lắm. Nếu có dịp bình luận hai câu đó, tôi sẽ viết một trăm trang sách. Càng thấm thía hơn đối với tôi là bài “Người về” mà tôi thấy đề tài và chủ đề trùng hợp – song mở rộng hơn, khơi sâu hơn – với một bức danh hoạ của Répine (Nga). Có thể nói câu:
“Bước vào cửa người quen tái mặt”
của anh đã được Répine minh hoạ chính xác, đầy đủ. (Anh có thể tìm xem bức tranh này trong tuyển tập tranh Répine do Liên Xô xuất bản, chú thích bằng Pháp văn, đã bán ở Hà Nội, hiện tôi đang có). Tên bức tranh là: "Những người không ai chờ đợi” nói tình huống bi thảm của những người tù đày chính trị từ Siberie trở về gia đình, bị xa lánh.
Thôi nhé, thư quá dài rồi, tôi dừng bút.
Nguyễn Hữu Đang
Tiện đây, tôi gửi tặng anh tấm ảnh để tỏ tình thân và ghi lại việc tôi đã tìm thấy mặt không vui, không buồn, không thiện không ác, như thế là như thế.
"Tuyên ngôn độc lập cá nhân" của ông Nguyễn Hữu Đang (Trích trong bài viết về lễ Tuyên ngôn Độc lập)
… Riêng tôi lúc ấy, tâm trạng không đơn giản. Bên cạnh sự kính trọng của tôi đối với nhà cách mạng lão thành ở cương vị đề xướng, thiết kế, hướng dẫn, lúc ấy tôi còn có niềm tự hào cá nhân về tư cách mình là một trong những người hưởng ứng, thi công, thực hiện, "góp gió thành bão". Từ tuổi thiếu niên, bước theo con đường của Ông Cụ, tôi đã đạt một số thành tích khiêm tốn và hy vọng sẽ làm được hơn. Đường còn dài, cuộc sống còn nhiều thử thách song tôi vẫn lạc quan. Sau mười lăm năm hoạt động xã hội, tôi đã trưởng thành! Quan tâm đến bản thân, tôi chợt nghĩ: dù tận tụy, hy sinh vì công ích đến đâu cũng không ai có thể hoàn toàn vô tư. Chủ động hay không, ai cũng thể hiện mình theo xu hướng tự nhiên, trong những điều kiện khách quan và bằng cái vốn tự có. Tham gia phong trào giải phóng dân tộc có định hướng xã hội chủ nghĩa (4), tôi đã thể hiện mình không phải như giọt nước hoà tan vào một dòng sông, mà như một nhạc công trong dàn nhạc.
Bấy lâu, thể hiện mình để chung sức đấu tranh, trước khi giành được chính quyền, tôi đã phải cùng đồng đội vượt bao gian nan, nguy hiểm để nhận lấy những kết quả hạn chế. Từ nay hẳn tôi sẽ được như con chim sổ lồng vỗ cánh bay cao. Khoảnh khắc tôi trông thấy tôi trong bước phát triển mới: thoát khỏi vòng giam hãm, uy hiếp của chế độ thực dân bạo tàn, tôi đang sống hết mình, đang phát huy ý chí và năng lực, đang học hỏi và cống hiến, đang được tin cậy và giúp đỡ trong một quần thể trùng trùng điệp điệp… Ý thức tồn tại tự do và thanh cao cùng với dân tộc độc lập, xã hội công bằng nâng con người tôi vụt lớn lên đồng thời tình cảm gắn bó với đất nước đã sinh ra và nuôi dưỡng mình cũng thu con người tôi vụt bé lại như trẻ thơ mừng mừng tủi tủi trong vòng tay mẹ hiền sau những năm gia biến.
Nếu Cách mạng thành công đưa đến cho người dân sự đổi đời thì hình ảnh viễn tưởng của sự đổi đời ở tôi đã bắt đầu hiện ra như thế trong nội tâm, sau thời điểm chào cờ hôm ấy.
(4) Chính vì có định hướng này mà cuộc đấu tranh chống xâm lược và nền thống trị ngoại bang mới được gọi là cuộc cách mạng đúng với nghĩa chính xác của hai tiếng "cách mạng" trong sử học và chính trị học (NHĐ)
© 2007 talawas
--------------------------------------------------------------------------------
[1]Khi Hoàng Hưng từ Tp HCM ra Hà Nội, một số anh em ở báo Lao Động phía Nam đã góp tiền - số tiền không lớn - gửi ra biếu ông Nguyễn Hữu Đang và ông Phùng Cung, thông qua Phùng Quán. (Các chú thích trong bài đều của talawas.)
[2]Chỗ này xin cắt bỏ để không phiền lòng những người liên quan.
[3]Tờ báo Lao Động của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, từ năm 1990, với quyết định của Tổng biên tập Tống Văn Công, một đảng viên cấp tiến, đã ra phụ san Lao Động Chủ Nhật do nhóm nhà báo Sài Gòn cũ (Lý Quý Chung, Trần Trọng Thức, Hoàng Thoại Châu…) phối hợp với nhóm nhà báo từ Hà Nội vào (Hữu Tính, Hoàng Hưng, Lưu Trọng Văn…) thực hiện, mở đầu cuộc cách tân báo chí thời đổi mới. Năm 1993, LĐCN nhập vào Lao Động, thành tờ báo uy tín hàng đầu Việt Nam lúc ấy.
[4]Câu đề tặng trong bản thảo là: "Thân mến tặng anh Hoàng Hưng để ghi nhớ buổi gặp nhau lần đầu ở nhà Phùng Quán. Hà Nội, 10-11-93". Khi đưa cho báo Lao Động đăng bài "Bộ vòng xơ-men", Hoàng Hưng đã cắt bỏ dòng đề tặng.
[5]Khi "Bộ vòng xơ-men" được đưa lên Ban Biên tập báo Lao Động để duyệt đăng, PA 25 của Công an đã biết ngay, họ đến đòi xem bản thảo. Tất nhiên là họ cẩn thận hơi thừa, vì đây là câu chuyện về mối tình đầu của ông Đang vào năm 1946, nhưng nội dung rất "tốt", thể hiện lòng kính yêu tôn thờ của cô người yêu ông với Cụ Hồ.
[6]Bài viết của ông Nguyễn Hữu Đang đã không đến được báo Lao Động vì phút chót, người được ông nhờ cậy là Phùng Quán đã tự động đem gửi cho một tờ báo khác có địa vị chính trị quan trọng (ý muốn cho ông được xuất hiện một cách đầy "chính thống"). Ông Đang đã phải viết một thư khác cho Hoàng Hưng để xin lỗi về việc ấy.
[7]Tập thơ của Hoàng Hưng xuất bản đầu năm 1994. Vì tập thơ này, đặc biệt là bài "Người về", PA 25 đã rày với Tổng Liên đoàn Lao động, cơ quan chủ quản của báo Lao Động, tờ báo mà Hoàng Hưng là thành viên. Nghe tin, Hoàng Hưng đã viết đơn xin từ nhiệm Trưởng ban Văn hoá Văn nghệ của báo.
Hai lá thư của ông Nguyễn Hữu Đang
Nhà thơ, nhà báo Hoàng Hưng vừa chuyển cho talawas hai lá thư ông Nguyễn Hữu Đang gửi cho ông, cũng là gửi cho các đồng nghiệp ở báo Lao Động vào năm 1993 - 1994. Được sự đồng ý của Hoàng Hưng, talawas công bố toàn văn hai lá thư này để bạn đọc thấy được tinh thần kiên nhẫn, lạc quan của người cựu lãnh đạo phong trào Nhân văn-Giai phẩm trong hoàn cảnh đói nghèo cũng như tính cách nghiêm túc, cẩn trọng của một nhà báo lão thành đối với công việc viết và làm báo, khi ông ở tuổi 80, và 20 năm sau khi ra tù.
talawas
Thư số 1
Hà Nội, ngày 10-11-1993
Anh Hoàng Hưng thân mến,
Tôi gửi vào lời ân cần hỏi thăm sức khoẻ, sinh hoạt và công việc của anh và của các bạn tốt đã quan tâm đến đời sống của tôi với tình nhân ái cao quí. Một lần nữa, tôi khẳng định lòng biết ơn sâu sắc của tôi đối với thịnh tình của các bạn. (Xin nói rõ: tôi đã rất phấn khởi nhận được đầy đủ các món quà của các bạn mà anh em ngoài này gọi là “lộc” [1] ).
Hôm anh trở về, tôi không biết trước để đến cùng anh chia tay, tôi rất tiếc và xin anh thứ lỗi. Từ sau buổi gặp anh, tôi vẫn có ý muốn gửi vào trong ấy một cái gì làm món quà mọn tỏ mối quan hệ thân thiện giữa chúng ta, mối quan hệ mà tôi mong càng ngày càng phát triển tốt đẹp.
Các bạn hãy coi như chúng ta gặp nhau, cùng nhau nói chuyện vui vẻ, thân mật và tôi cao hứng cho các bạn nghe một bài thơ, kể cho các bạn nghe một câu chuyện yêu đương thời còn trẻ. Quà suông thế đấy!
Thơ thì tôi ít lắm nhưng cũng có sẵn một bài làm trong trại giam năm 1960 nhân nghe một người đồng cảnh ngâm mấy câu thơ của Vũ Hoàng Chương là bạn học với tôi hồi còn nhỏ. Tôi chép gửi vào để các bạn đọc cho biết một vài cảm nghĩ của tôi, cách đây ba mươi ba năm, về tình nhân loại vẩn đục những tội ác của chủ nghĩa Xtalin, chủ nghĩa Mao Trạch Đông, chủ nghĩa đế quốc Mỹ… chủ nghĩa phát xít đã qua hay biến dạng và những hành động duy ý chí tổn hại vô ích.
Chuyện thì có đoạn hồi ký tôi mới viết gần đây. Tôi ghi lại hoàn toàn đúng sự thật, có sai chệch chút ít thì cũng chỉ trong chi tiết nhỏ, thí dụ lời lẽ những câu đối thoại (trí nhớ không thể trung thành như máy ghi âm). Nếu các bạn thấy câu chuyện “có vẻ tiểu thuyết” thì lý do chính bản thân sự việc nó như thế, nó giống nội dung một cuốn tiểu thuyết nào đó một cách ngẫu nhiên chứ không do tôi thêu dệt. Các bạn biết đấy, sự thật nhiều khi vượt xa hư cấu hoặc trùng hợp với hư cấu.
Cũng xin bộc lộ là chính vì lý lo cái “vẻ tiểu thuyết” dễ gây nghi ngờ mà trong đoạn hồi ký này tôi đã phải bới đi hai tình tiết có thật không quan trọng:
1. Trên thực tế, trong buổi đầu tôi gặp Huyền Nhiên ở giữa đường, có cả cô em Huyền Nhiên xấp xỉ tuổi chị. Trong bài viết tôi phải loại bỏ sự thật có mặt của cô ta để khỏi giống đoạn đầu Truyện Kiều.
2. Trên thực tế, còn có một người anh họ xa của Huyền Nhiên cũng yêu Huyền Nhiên tha thiết mà không được Huyền Nhiên đáp lại. Trong bài viết tôi phải loại bỏ sự tồn tại của anh ta để khỏi giống Đoạn tuyệt của Nhất Linh có nhân vật Thân (tầm thường) bên cạnh nhân vật Dũng (xuất sắc) cho Loan so sánh, lựa chọn trong lòng.
Ngoài ra, để tránh sự phản ứng có thể sẽ có ở phía chồng và các con của Huyền Nhiên đang sống ở Sài Gòn – do câu nệ hay hẹp hòi, không muốn ai nói động đến chuyện yêu đương cũ dù là đúng đắn của người thân đã khuất, tôi gọi chệch các tên thật (… [2] ). Thế thôi.
Tôi gửi bài hồi ký vào, trước nhất để các bạn đọc cho vui, nhưng nếu anh thấy có thể đăng báo và chuyển đến tờ Lao Động mà các bạn đang góp sức đẩy mạnh, thì tôi càng hoan nghênh. Tôi vẫn có thiện cảm với tờ báo ấy. [3]
Trong trường hợp đăng được, tất nhiên tôi phục tùng quyền sửa chữa và quyết định tối hậu của Ban biên tập, nhất là việc cắt bớt thì không nên dè dặt, miễn là có chỉ rõ chỗ cắt bằng ba dấu chấm (…).
Về đầu đề, có thể dùng "Bộ vòng xơ-men" hoặc "Bộ vòng giao ước", tùy Ban biên tập chọn.
Bài hơi dài, không nhất thiết phải đăng ngay, có thể giữ lại, đăng vào số Tết có nhiều trang.
Trong trường hợp không đăng được, anh cứ tin là vẫn vui vẻ cả và anh hãy yên tâm giữ bản thảo lại làm vật lưu niệm (tôi đã viết sẵn câu đề tặng [4] ). Anh chỉ cần báo cho biết càng sớm càng tốt bằng thư gửi qua Phùng Quán (Ngõ số 10, cạnh trường Chu Văn An, đường Thụy Khuê, quận Ba Đình, Hà Nội.)
*
Dưới đây là đôi nét về tình hình tôi hiện nay mà dĩ nhiên là bài Phùng Quán viết về tôi không thể nào nói rõ vì Quán đến thăm tôi đầu năm 1991, từ bấy đến nay đã gần ba năm, trong thời gian ấy người ta đã có thay đổi một phần cách đối xử với tôi cũng như với những anh em Nhân văn khác, xin báo cáo tỉ mỉ cùng các bạn quí:
1. Người ta không chính thức công bố sửa sai, phục hồi theo tinh thần Đại hội VI, cứ đối xử khác đi để ai chú ý thì ngầm hiểu như thế. Vấn đề là giữ ý thế nào đó.
2. Người ta trả lại chế độ hưu trí nhưng ấn định mức lương một cách tuỳ tiện chứ không kể cấp bậc, không tính thâm niên. Đáng lẽ, phải xếp tôi tối thiểu chuyên viên 7, nhưng chỉ xếp chuyên viên 5.
3. KGB không còn gây phiền hà hay xử sự thô bạo như trước. Ít ra, bề ngoài tôi cũng bình thường như mọi người dân lương thiện.
4. Hoạn quan, bồi bút không còn lên gân đả kích, qui chụp, chỉ thỉnh thoảng nói mơ hồ “vụ Nhân văn–Giai phẩm đã giải quyết xong rồi”.
5. Hội Nhà văn thay Hội Văn nghệ cũ nhận là cơ quan chủ quản của tôi (được coi là cán bộ biên tập của Hội đã về hưu).
Hằng năm, đến Tết có biếu quà mừng tuổi. Vào dịp kỷ niệm 40 năm xuất bản báo Văn Nghệ có mời đến chiêu đãi riêng và tặng 100.000đ. Nhân dịp anh em văn nghệ sĩ mừng thọ tôi 80 tuổi, có cử Hữu Mai đại diện đến chúc mừng và tặng quà.
6. Nhà xuất bản Văn Hoá đã ký hợp đồng ấn hành một tập hồi ký 200 trang của tôi.
7. Một số tờ báo sẵn sàng đăng bài hiền lành nhưng tôi chỉ mới hứa hẹn (trừ tờ Nghệ thuật Điện ảnh đã đăng hai bài).
8. Chưa được hưởng trợ cấp lão thành cách mạng tuy có đủ tiêu chuẩn. Vì đã phạm kỷ luật nghiêm trọng (Không cần biết việc thi hành kỷ luật đã được xét và sửa sai).
9. Chưa được phân phối một căn hộ hai phòng để có chỗ sống là phụ, có chỗ chết là chính. Đã tích cực đề nghị mà chưa được trả lời
10. Nói tóm tắt một câu thì việc sửa sai, phục hồi đối với tôi mới chỉ được thực hiện nửa vời, chiếu lệ.
Chắc chắn tôi sẽ chết trước khi được xã hội trả lại đầy đủ sự công bằng theo lương tri chứ không phải sự “công bằng” theo những nguyên tắc qui định của một tổ chức.
Song song với cách đối xử mới của người ta bước đầu như trên, tôi đã tự mình xây dựng cuộc sống chuyển hướng trên cơ sở:
1. Sức khoẻ tốt: không có bệnh mãn tính nặng, không hay ốm đau lặt vặt. Cơ thể có suy nhược theo tuổi già như tai, mắt răng, đầu gối, động tác phản ứng… đều kém đi nhưng cũng còn tạm đủ dùng ở mức trung bình. Có bốn cái khoẻ: ăn khoẻ, ngủ khoẻ, nói khoẻ, đi xe đạp khoẻ. Trong lứa tuổi tám 80, thuộc loại khá.
2. Trí tuệ minh mẫn tuy trí nhớ yếu. Việc cũ nhớ nhiều, nhớ kỹ, việc mới hay quên. Còn đủ năng lực viết lách, viết báo, thuyết trình, thảo luận.
3. Sinh hoạt hàng ngày theo nếp “ba ít”: ít vật chất, ít quan hệ, ít quan tâm. Tiêu dùng đại tiết kiệm. Thiếu sách báo, tài liệu để bồi dưỡng kiến thức. Không có đồng hồ, rađiô, tivi. Quần áo, chăn màn tạm đủ. Xe đạp tồi. Đối nhân xử thế sòng phẳng, chung sống hoà bình.
4. Tình cảm: sống với bạn bè là chính, tìm được ở những người thân tình yêu thương, quí trọng, giúp đỡ ân cần. Ngoài ra cũng có nhiều người quen biết hay không quen biết tỏ thiện cảm. Đó là niềm an ủi. Tự xét mình lương thiện, chưa bao giờ làm hại cá nhân hay xã hội. Đó là niềm tự hào.
5. Tư tưởng, về căn bản theo học thuyết Lão, Trang. Chấp nhận, phục tùng khách quan; thích ứng với môi trường; coi nhẹ các vấn đề đấu tranh cải tạo, cống hiến, công bằng xã hội, tiến hoá loài người v.v… Cụ thể về chính trị, cứ nhắm mắt theo đuổi tuyệt đại đa số quảng đại quần chúng nhân dân; làm nghĩa vụ công dân ở mức độ tối thiểu cần thiết; không cần phân biệt chủ nghĩa nào, chế độ nào, đảng phái nào. Chỉ cần hai chữ “bình yên”.
Trong hoàn cảnh tuổi già, thanh bần, đứng ngoài lề xã hội, lý do tồn tại của tôi những năm còn lại là sống để xem và thưởng thức cái xem.
6. Hoạt động tinh thần: nói thưởng thức cái xem là nói cảm nghĩ trong khi xem. Tôi tranh thủ những giờ nhàn rỗi (không xem) để viết những cảm nghĩ trong khi xem. Viết chơi như người ta chơi cây cảnh, không khẩn trương, không cố gắng xuất bản hay không xuất bản không thành vấn đề. Không cần danh, lợi hay ảnh hưởng.
7. Để dành tiền: một câu hỏi lớn day dứt là “sẽ chết ở đâu?” Bởi vậy những món tiền mà bạn bè và những người thương yêu san sẻ, giúp đỡ, tôi không dám tiêu ngay. Phải gửi ngân hàng để tích lũy, phòng xa người ta nhất định không phân phối cho một căn phòng, cùng đường phải tự lực làm một gian bán mái bám vào chái nhà ai đấy thì tôi cũng có thể góp phần mình với các nhà hảo tâm.
Tình hình tôi mọi mặt hôm nay đại thể là như thế. Không dám chắc rồi đây tôi sẽ có thêm được cái gì tốt hơn không. Dù sao tôi cũng đã quen chịu đựng số phận bất hạnh, chỉ mong khổ vừa vừa. (Tiện đây cũng xin báo cáo thêm là tôi tin có định mệnh và do đó tôi nhận thức loài người là một bầy con rối.)
Anh Hoàng Hưng ạ,
Trên kia tôi có nói về tư tưởng tôi theo học thuyết Lão, Trang song nói cho thật đúng thì là tôi hướng theo, mà lại chỉ mới hướng theo ở một vài điểm nào đấy thôi. Học thuyết ấy quá cao siêu, tôi không có đủ trình độ và bản lĩnh để lĩnh hội được hết và áp dụng được thoả đáng. Nói nôm na, tôi chỉ mới dựa vào quan niệm “vô vi” để kiên định thái độ “tiêu cực cầu an”, không còn sợ “tiêu cực cầu an” là hèn. Trái lại, tôi ngang nhiên khoe mình “tiêu cực cầu an” vì đó là chân lý, là con đường đi tới hạnh phúc – “tiêu cực cầu an” có lý tưởng, có lập trường vậy.
Chưa cần tìm hiểu sâu xa gì lắm, chỉ cần biết một điểm này: Lão Đam khuyên dạy người đời cái lẽ “tri túc”: Hãy tự lấy làm bằng lòng với những cái gì mình đang có. Đấy là bí quyết để sung sướng, ít ra cũng là bí quyết để tránh bấp bênh, vất vả, bảo đảm bình yên.
Tôi thật lòng muốn học đòi “tri túc” để biến cái thiếu khách quan, phàm tục thành cái đủ chủ quan tiên tử.
Chúc các bạn trong ấy vui, mạnh, thành công và “tri túc”.
Xiết chặt tay và mong gặp lại
Nguyễn Hữu Đang
Bài thơ gửi kèm thư số 1
Quán trọ hành tinh
Gửi Vũ Hoàng Chương, nhà thơ Đạo học
Nguyễn Hữu Đang
Anh “đến nhân gian lạc bến bờ
Tìm sông lưu lạc, núi bơ vơ ” (1)
Biết chăng sầu oán vùi tâm thức
Máu đẫm tay người ngập phím tơ
Bước chân lịch sử đi không vội
Tơ nhện thiên đường dệt giấc mơ
Ngày đêm vô vạn hành tinh vỡ
Lặng ngắt thinh không vũ trụ mờ
Yên Bái, 1960
N. H. Đ.
(1) Lời thơ Vũ Hoàng Chương:
“Ta đến nhân gian lạc bến bờ
Tìm sông lưu lạc, núi bơ vơ” (NHĐ)
Thư số 2
Hà Nội ngày 6-6-1994
Anh Hoàng Hưng thân mến,
Tôi gửi vào lời ân cần hỏi thăm anh, gia đình anh và các bạn quí Trần Trọng Thức, Tống Văn Công, Lưu Trọng Văn, Hoàng Thoại Châu, Lê Phú Khải và tất cả nhân viên báo Lao Động trong ấy mà tôi mong sẽ có dịp được quen biết.
Tình hình tôi vẫn bình thường, nghĩa là khoẻ, tỉnh tỏ và tạm đủ no ấm. Đang tiến hành chuyển cư lên ở hẳn Hà Nội dù chưa có nhà được thuê và chưa có khẩu chính thức thường xuyên. Việc đề nghị được phân phối thuê nhà đã có triển vọng sẽ được giải quyết. Người ta hứa chắc chắn, còn mình thì cứ chờ đợi trường kỳ, chỉ mong sẽ có nhà riêng trước khi chết. Còn món trợ cấp lão thành cách mạng 140.000 đ /tháng thì người ta trả lời dứt khoát là không được hưởng vì đã “phạm kỷ luật nghiêm trọng”, muốn được hưởng thì phải xin xoá bỏ việc thi hành kỷ luật cũ đã. Chuyện khó đấy vì người ta chỉ muốn giải quyết sửa sai nửa chừng. Tại sao, anh có thể hiểu, tôi nói ra thêm phiền. Nhưng cũng không vì thế mà tôi chấp nhận. Sẽ còn khiếu nại – cũng trường kỳ như kháng chiến, như chờ đợi nhà riêng.
Nhắc lại việc tử tế mới đây:
Sau khi nhờ Phùng Quán chuyển đến anh bài “Bộ vòng xơ-men”, tôi trở về quê Thái Bình, mãi đến giáp Tết Nguyên đán mới lại lên Hà Nội. Ở quê, đầu tháng 12-1993 được tin Lao Động đã đăng hai kỳ “Bộ vòng xơ-men” tôi bèn đi tìm mượn đọc mà chẳng kiếm đâu ra [5] . Muốn mua ở thị xã, chẳng có nơi nào bán. Đành vào thư viện tỉnh đọc nhờ – phải đạp xe 12 km, không phải chuyện đùa. (Lưu ý các anh về việc phát hành. Có lẽ ít quá không đủ bán chứ không phải bán chạy, chóng hết đến thế). Rất cảm ơn các anh về sự quan tâm và cũng rất hài lòng về cả ba mặt giới thiệu, biên tập và trình bày. Riêng về bản in thì mất một từ, sai hai từ, không đáng kể. (Chỉ mong L.Đ. phấn đấu đạt tới trình độ tuyệt đối không in sai một chữ mà sách báo nước ngoài đã thực hiện được từ lâu).
Ngày 28 tháng Chạp âm lịch tôi lên Hà Nội, đến nhà Quán đúng lúc Quán vừa từ trong Nam trở ra. Quán đưa cho tôi thư của anh kèm với 500.000đ nhuận bút. Mừng lắm. Thư cho biết dư luận tốt về bài báo và tình cảm nồng hậu của anh em. Còn nhuận bút thì so với ngoài này là khá. Nhân dịp này cũng xin khẳng định rất thật thà là tôi tuy nghèo mà cũng chẳng cao đạo gì nhưng ít chú trọng tiền công trong những việc làm mà tôi thích. Các anh giúp cho như thế là quí; nhiều, ít không thành vấn đề, đừng bao giờ các anh e ngại không đáp ứng sự mong muốn của tôi mà các anh tưởng là cao trong khi sự thật lại là tôi không cầu kỳ, đòi hỏi.
Tiền nhuận bút tôi vẫn chưa dám tiêu, cứ còn phải gửi ngân hàng phòng xa rồi đây có thể phải làm túp lều để có chỗ chết như tôi đã nói với anh – biết đâu căn buồng mà người ta hứa lại chẳng là bánh vẽ? Rất tiếc là Quán đã lười không chịu đem ra cho tôi những số L.Đ. mà các anh dành cho theo tiêu chuẩn quyền tác giả. Tôi lên thủ đô muộn, báo L.Đ cũ nếu còn lại cũng khó tìm thấy, thế là lại tốn công lùng khắp nơi quen biết để xin lấy đem photocopy tặng bạn bè, việc kéo dài lai nhai đến nửa tháng mới xong. Tôi oán trách Quán thấu trời.
Sau khi “Bộ vòng xơ-men” được hoan nghênh, tôi đã có hứng viết ngay một bài định gửi đăng vào L.Đ. số Tết, nếu không kịp thì vào số Xuân. Viết về đề tài tiếu lâm để vui đùa với bạn đọc một chút vào dịp năm mới. Viết công phu tôi tin là sẽ hấp dẫn và có ích. Bài viết xong, cũng gửi cho Phùng Quán để nhờ chuyển chẳng ngờ Quán đi vắng, mình nằm ở quê đâu có biết, thành ra bài ứ đọng. Quán trở về, Quán đọc, Quán không tán thành tôi vui đùa trên báo bằng tiếu lâm vì “dù sao tiếu lâm cũng vẫn còn bị nhiều người cho là nhảm”. Quán cứ muốn tôi lúc nào cũng đúng mực, nghiêm chỉnh, thậm chí đạo mạo, theo quan niệm cũ cố nhiên.
Tuy không đồng ý hẳn với Quán, tôi cũng khiêm tốn nghe theo dè dặt, tạm hoãn gửi đăng báo, giữ lại để sửa chữa thật kỹ cho chín chắn; nếu đông đảo anh em tán thành, ủng hộ thì sẽ đăng vào số Tết cuối năm nay. Đầu đề là “Truyện tiếu lâm bên lề một hội nghị văn hoá” (Hồi ký kháng chiến). Bản thảo hoàn chỉnh, tôi sẽ chụp photocopy gửi cho anh một bản để các bạn quí cùng bình luận và góp ý kiến với tôi. Không vội, còn sáu tháng nữa để nghiên cứu và quyết định.
Ngay bây giờ, tôi gửi đến anh bài kèm đây để anh làm việc với Ban biên tập báo L.Đ. “Vật khinh, hình trọng”, chưa biết bài sẽ được đánh giá thế nào, tôi cũng màng cả năm đề nghị:
1. Nhận được là đăng ngay chứ không giữ lại để đăng vào dịp kỷ niệm Cách mạng tháng Tám hay dịp Quốc khánh. Đăng càng sớm càng tốt.
Vì tôi không muốn bài chìm ngập trong vô số bài cùng đề tài mà tất cả các báo đều có bổn phận đóng góp vào các dịp ấy. Chừng ấy, bài báo dễ bị độc giả không chú ý hoặc coi thường, hoặc đã thưởng thức quá tải những bài khác đến chán ngấy rồi.
Tôi nghĩ thế. Nếu các anh nghĩ trái lại thì tôi đành xin thua. Các anh là Bộ Chính trị của tờ báo, tôi phải phục tùng.
2. Về mặt biên tập: Nếu không dùng toàn văn bản thảo vì thấy dài quá đối với khuôn khổ tờ báo (không muốn đăng hai, ba kỳ) thì cứ cắt bỏ thoải mái, cắt bỏ bao nhiêu cũng được. Chỗ nào tôi thích mà bị cắt bỏ tôi sẽ lấy lại trong tập sách 200 trang đã ký hợp đồng với NXB Văn Hoá. Tất nhiên những chỗ sai, hỏng đều phải sửa đổi.
Tuy vậy có một đoạn tôi xin được giữ nguyên văn. Đó là đoạn “Riêng tôi lúc ấy… sau thời điểm chào cờ hôm ấy” (trang 6). Vì đó là một thứ “tuyên ngôn độc lập cá nhân”. Các anh hãy độ lượng, thông cảm chứ đừng chê là khó tính.
3. Về đầu đề (tên bài, “tít”): Tôi giới thiệu mấy tên sách mà tôi định dùng để các anh tham khảo:
- Tên chính: “Ngày khai sinh vĩ đại”, “Ngày khai sinh lớn”, “Ngày khai sinh lừng lẫy”
- Tên phụ: ở dưới, chữ nhỏ hơn, trong ngoặc đơn: “Nhớ về Ngày Độc lập 2-9-45”
Còn tên bài báo (đầu đề, “tít”) thì có hai trường hợp:
a. Không cắt bỏ chỗ nào hoặc cắt bỏ không đáng kể:
- “Tít” chính: có thể là một trong ba tên dự kiến cho sách.
- “Tít” phụ: ở dưới, chữ nhỏ hơn, trong ngoặc đơn: “Ấn, kiếm nhà Nguyễn – Tuyên ngôn Độc lập”
b. Cắt bỏ nhiều, hết hoặc gần hết những chỗ có khoanh nét đỏ, nội dung thu gọn lại trong đề tài ấn, kiếm đơn thuần; chỉ đặt một “tít”: “Ấn, kiếm vương quyền nhà Nguyễn trên lễ đài “Ngày Độc lập” 2-9-45”
4. Về minh hoạ (tranh, ảnh):
Nếu L.Đ. không có ảnh tốt hơn thì có thể dùng hai hay một ảnh kèm đây.
- Ảnh màu chụp một bức tranh vẽ theo ảnh, căn bản đúng hiện thực nhưng cũng có tô điểm thêm vài ba chi tiết (hiện bày trong Viện Bảo tàng Lịch sử). Nên dùng.
- Ảnh đen trắng nhỏ đã in trên báo, chụp ảnh lúc Chính phủ Lâm thời vừa bước lên mặt lễ đài (x. tr. 6 bản thảo). Từ trái sang phải: Nguyễn Văn Tố, Trần Huy Liệu, Võ Nguyên Giáp, Dương Đức Hiền, Vũ Trọng Khánh, Hồ Chí Minh, Nguyễn Lương Bằng, Vũ Đình Hòe, Nguyễn Hữu Đang. Ảnh này dùng xong gửi trả lại tôi.
Theo ý tôi dùng một ảnh màu (toàn cảnh cuộc mít tinh) là đủ đẹp. Chân dung cụ Hồ đăng vào dịp kỷ niệm Cách mạng tháng Tám hay Quốc khánh long trọng hơn.
- Ảnh đen trắng to chưa in trên sách, báo lần nào, mờ quá, tôi gửi đến để các anh xem cho biết. Trong ảnh, cụ Hồ đã đội mũ chứ không để đầu trần như lúc mới lên lễ đài, lúc này vẫn chưa có người che ô. Áo của ông cụ ở đây màu thẫm, có thể không phải bằng kaki (tôi không nhớ rõ). Trong ảnh, lại có hình một người đang chụp ảnh hay quay phim (Mai Trung Thứ?) là điều mà tôi chưa bao giờ nhớ được, cứ yên trí là đã không cho ai bước lên lễ đài ngoài Chính phủ Lâm thời và ông Nguyễn Lương Bằng. Phía sau người chụp ảnh hay quay phim, đứng lùi vào mé trong là Nguyễn Hữu Đang. Ảnh này xem xong cũng gửi trả lại tôi.
5. Về xã giao:
Thể nào ở cuối bài cũng ghi “Trích hồi ký sẽ do NXB Văn Hoá ấn hành năm 1995”. Đó là điều kiện tôi đã cam kết với NXB để họ đồng ý cho trích bản thảo (đã ký hợp đồng) đăng báo trước. Chú ý: ghi rõ “NXB Văn Hoá”. Chuyện có đi có lại.
Cuối cùng, tôi muốn đề ra nguyên tắc cho tất cả những bài tôi gửi đăng trên L.Đ. là:
- Không đăng thì báo cho biết ngay bằng thư gửi qua Phùng Quán (Ngõ số 10, cạnh Trường Chu Văn An, đường Thụy Khuê, HN)
- Không cần trả lại bản thảo.
- Đăng được thì báo cho biết sau khi chấp nhận bản thảo, thư cũng gửi qua Phùng Quán. Tôi cần biết sớm để kịp đón mua báo hoặc đến lĩnh báo ở 51 Hàng Bồ mà các anh dặn trước [6] .
Có đăng mà tôi không biết đủ sớm thì tôi cũng dễ mất phần như chuyến “Bộ vòng xơ-men” vừa rồi.
Xin phản ảnh với các anh một nét tồi trong sinh hoạt hằng ngày của tôi bây giờ là nếu cứ ở nhà thì không được đọc một tờ báo nào, không có một tờ báo nào để đọc.
Chúc anh mạnh khoẻ, vui vẻ, sẵn tiền, vợ đảm, con ngoan, tự do, bình đẳng.
Chào “công bằng, văn minh thật”.
Nguyễn Hữu Đang
T.B.:
1. Sau khi đã hoàn thành bản thảo hồi ký 200 trang về “Ngày Độc lập” để sòng phẳng với NXB Văn Hoá, nghĩa là từ tháng 9 mùa thu sắp tới tôi sẽ có thể viết một số bài cho L.Đ.. Tôi chỉ sợ không nắm vững nhu cầu của tờ báo (vì ở xa các anh và không có báo để theo dõi nội dung báo) chứ không sợ thiếu nhiệt tình.
2. Gần đây Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương có soạn một tài liệu chống những hoạt động phá hoại an ninh chính trị, gửi cho các đảng ủy địa phương dùng, cụ thể là để tất cả các chi bộ Đảng học tập. Đoạn cuối tài liệu có một câu qui cho Phùng Quán đã tiếp tay cho nhóm Nguyễn Hộ chắc anh đã biết rõ. Rồi đây Quán sẽ có thư kể lại đầu đuôi sự việc. Trong thư này tôi chỉ có thể khẳng định một câu là Phùng Quán oan, C.A. đã báo cáo sai và Ban TTVH T.Ư. đã thiếu xác minh thận trọng.
Mặt khác, chắc Quán sẽ đấu tranh thanh minh, nhưng cũng còn lâu mới giành được sự công bằng, và trong khi đó thì Quán mang tiếng thế nọ thế kia, rất thiệt hại. Quán đã phải tính đến nước kiện Ban TTVH T.Ư. trước toà án về tội vu cáo nếu họ không chịu sửa sai đến nơi đến chốn.
Không hiểu những người có quyền phân xử sẽ giải quyết êm thấm, hay là sẽ lờ đi, coi như chẳng có chuyện gì, hay là sẽ trấn áp người khiếu tố? Dù sao tôi cũng tin rằng Việt Nam cũng như Trung Quốc, chỉ đổi mới kinh tế, chưa đổi mới chính trị.
Nhưng thôi, anh Hưng ạ, năm mươi năm qua những sự việc bất ngờ lớn trong nước, ngoài nước đã dạy cho chúng ta những bài học lớn mà kết quả là chúng ta đã biết nghĩ và sống cao hơn những chuyện đấu đá “thiệt mình mà chẳng ích gì cho ai”.
Chính tập Người đi tìm mặt [7] của anh cũng đã xa lánh những đao to búa lớn, xa lánh những Don Quichote.
3. Ban đầu tôi nghe người ta nói Hoàng Hưng mới cho ra một tập thơ như sự thách thức với cái tên ngang ngang Tôi vẽ mặt tôi (!). Phùng Quán phải đi mua với giá 7.000đ. Tôi mượn đọc. Đọc chưa kỹ, chưa hiểu lắm nhưng đã thấy có cái gì như những cảm giác siêu thực: “Đường phố 1”, “Đường phố 2”, “Đường phố 3” rồi “Sốt”:
“Tôi bồng bềnh tôi nở chật không gian
Tôi nhìn tôi bay khỏi đất”
Chương “Nhập môn” sẽ làm cho tôi tự ty là người ngoại đạo. Tôi tạm coi những bài trong đó là thần chú hay mật mã.
Trái lại, bài “Định mệnh” đã giúp tôi nhích lại gần thơ anh, nhất là hai câu:
“Em bi phẫn ở hiền sao gặp ác
Ác ở trong hiền chứ ác ở đâu”
thì tôi lấy làm tâm đắc lắm. Nếu có dịp bình luận hai câu đó, tôi sẽ viết một trăm trang sách. Càng thấm thía hơn đối với tôi là bài “Người về” mà tôi thấy đề tài và chủ đề trùng hợp – song mở rộng hơn, khơi sâu hơn – với một bức danh hoạ của Répine (Nga). Có thể nói câu:
“Bước vào cửa người quen tái mặt”
của anh đã được Répine minh hoạ chính xác, đầy đủ. (Anh có thể tìm xem bức tranh này trong tuyển tập tranh Répine do Liên Xô xuất bản, chú thích bằng Pháp văn, đã bán ở Hà Nội, hiện tôi đang có). Tên bức tranh là: "Những người không ai chờ đợi” nói tình huống bi thảm của những người tù đày chính trị từ Siberie trở về gia đình, bị xa lánh.
Thôi nhé, thư quá dài rồi, tôi dừng bút.
Nguyễn Hữu Đang
Tiện đây, tôi gửi tặng anh tấm ảnh để tỏ tình thân và ghi lại việc tôi đã tìm thấy mặt không vui, không buồn, không thiện không ác, như thế là như thế.
"Tuyên ngôn độc lập cá nhân" của ông Nguyễn Hữu Đang (Trích trong bài viết về lễ Tuyên ngôn Độc lập)
… Riêng tôi lúc ấy, tâm trạng không đơn giản. Bên cạnh sự kính trọng của tôi đối với nhà cách mạng lão thành ở cương vị đề xướng, thiết kế, hướng dẫn, lúc ấy tôi còn có niềm tự hào cá nhân về tư cách mình là một trong những người hưởng ứng, thi công, thực hiện, "góp gió thành bão". Từ tuổi thiếu niên, bước theo con đường của Ông Cụ, tôi đã đạt một số thành tích khiêm tốn và hy vọng sẽ làm được hơn. Đường còn dài, cuộc sống còn nhiều thử thách song tôi vẫn lạc quan. Sau mười lăm năm hoạt động xã hội, tôi đã trưởng thành! Quan tâm đến bản thân, tôi chợt nghĩ: dù tận tụy, hy sinh vì công ích đến đâu cũng không ai có thể hoàn toàn vô tư. Chủ động hay không, ai cũng thể hiện mình theo xu hướng tự nhiên, trong những điều kiện khách quan và bằng cái vốn tự có. Tham gia phong trào giải phóng dân tộc có định hướng xã hội chủ nghĩa (4), tôi đã thể hiện mình không phải như giọt nước hoà tan vào một dòng sông, mà như một nhạc công trong dàn nhạc.
Bấy lâu, thể hiện mình để chung sức đấu tranh, trước khi giành được chính quyền, tôi đã phải cùng đồng đội vượt bao gian nan, nguy hiểm để nhận lấy những kết quả hạn chế. Từ nay hẳn tôi sẽ được như con chim sổ lồng vỗ cánh bay cao. Khoảnh khắc tôi trông thấy tôi trong bước phát triển mới: thoát khỏi vòng giam hãm, uy hiếp của chế độ thực dân bạo tàn, tôi đang sống hết mình, đang phát huy ý chí và năng lực, đang học hỏi và cống hiến, đang được tin cậy và giúp đỡ trong một quần thể trùng trùng điệp điệp… Ý thức tồn tại tự do và thanh cao cùng với dân tộc độc lập, xã hội công bằng nâng con người tôi vụt lớn lên đồng thời tình cảm gắn bó với đất nước đã sinh ra và nuôi dưỡng mình cũng thu con người tôi vụt bé lại như trẻ thơ mừng mừng tủi tủi trong vòng tay mẹ hiền sau những năm gia biến.
Nếu Cách mạng thành công đưa đến cho người dân sự đổi đời thì hình ảnh viễn tưởng của sự đổi đời ở tôi đã bắt đầu hiện ra như thế trong nội tâm, sau thời điểm chào cờ hôm ấy.
(4) Chính vì có định hướng này mà cuộc đấu tranh chống xâm lược và nền thống trị ngoại bang mới được gọi là cuộc cách mạng đúng với nghĩa chính xác của hai tiếng "cách mạng" trong sử học và chính trị học (NHĐ)
© 2007 talawas
--------------------------------------------------------------------------------
[1]Khi Hoàng Hưng từ Tp HCM ra Hà Nội, một số anh em ở báo Lao Động phía Nam đã góp tiền - số tiền không lớn - gửi ra biếu ông Nguyễn Hữu Đang và ông Phùng Cung, thông qua Phùng Quán. (Các chú thích trong bài đều của talawas.)
[2]Chỗ này xin cắt bỏ để không phiền lòng những người liên quan.
[3]Tờ báo Lao Động của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, từ năm 1990, với quyết định của Tổng biên tập Tống Văn Công, một đảng viên cấp tiến, đã ra phụ san Lao Động Chủ Nhật do nhóm nhà báo Sài Gòn cũ (Lý Quý Chung, Trần Trọng Thức, Hoàng Thoại Châu…) phối hợp với nhóm nhà báo từ Hà Nội vào (Hữu Tính, Hoàng Hưng, Lưu Trọng Văn…) thực hiện, mở đầu cuộc cách tân báo chí thời đổi mới. Năm 1993, LĐCN nhập vào Lao Động, thành tờ báo uy tín hàng đầu Việt Nam lúc ấy.
[4]Câu đề tặng trong bản thảo là: "Thân mến tặng anh Hoàng Hưng để ghi nhớ buổi gặp nhau lần đầu ở nhà Phùng Quán. Hà Nội, 10-11-93". Khi đưa cho báo Lao Động đăng bài "Bộ vòng xơ-men", Hoàng Hưng đã cắt bỏ dòng đề tặng.
[5]Khi "Bộ vòng xơ-men" được đưa lên Ban Biên tập báo Lao Động để duyệt đăng, PA 25 của Công an đã biết ngay, họ đến đòi xem bản thảo. Tất nhiên là họ cẩn thận hơi thừa, vì đây là câu chuyện về mối tình đầu của ông Đang vào năm 1946, nhưng nội dung rất "tốt", thể hiện lòng kính yêu tôn thờ của cô người yêu ông với Cụ Hồ.
[6]Bài viết của ông Nguyễn Hữu Đang đã không đến được báo Lao Động vì phút chót, người được ông nhờ cậy là Phùng Quán đã tự động đem gửi cho một tờ báo khác có địa vị chính trị quan trọng (ý muốn cho ông được xuất hiện một cách đầy "chính thống"). Ông Đang đã phải viết một thư khác cho Hoàng Hưng để xin lỗi về việc ấy.
[7]Tập thơ của Hoàng Hưng xuất bản đầu năm 1994. Vì tập thơ này, đặc biệt là bài "Người về", PA 25 đã rày với Tổng Liên đoàn Lao động, cơ quan chủ quản của báo Lao Động, tờ báo mà Hoàng Hưng là thành viên. Nghe tin, Hoàng Hưng đã viết đơn xin từ nhiệm Trưởng ban Văn hoá Văn nghệ của báo.
Sinh Nhật Của Hoa Quỳnh - Nguyễn Tôn Nhan
Sinh Nhật Của Hoa Quỳnh
anh gói kín một hoa Quỳnh mới nở
đến bên em cẩn trọng đặt môi hôn
từ thuở ấy nguyệt mang mang dưới nước
là xương xanh da thịt ủ trong hồn
em yêu dấu tặng anh bàn tay lạ
buổi đất trời mây trắng vội bay đi
anh quỳ gối nghe thiên thu bên má
nụ hôn em ấm lại tuổi nhu mì
anh sẽ gói một hoa Quỳnh , có lẽ
dưới dương gian ân ái cũng mơ hồ
em thầm kín đến bên anh nhè nhẹ
gửi chút tình khờ dại rất nên thơ
em có áo trinhnguyên như nguyệt bạch
tóc man thiên ngai ngái nụ bông trời
anh chỉ biết quỳ bên em và biết
sợ sương hàn xuống đụng tới hai vai
anh sợ quá lạnh dồn lên tới mắt
một đêm mai hư huyễn gọi nhau về
sao rụng bám cả hồn anh rất chặt
những hoa Quỳnh ướt mộng của xưa kia
anh sẽ ở trong bàn tay mềm mỏng
chân đạp lên sương trắng rụng như bông
anh sẽ ngậm hạt cau non ngát mộng
chia cho em ảo ảnh quý vô cùng
một ngày mai rừng đông chim quyến rũ
rủ anh vào điên đảo cuộc rong chơi
nhưng hừng sớm bên dòng con thác lũ
anh chợt thèm tiếng dội thuả xa xôi
rồi anh trở về thở gấp như sao
ngợ tiếng ai kêu một buổi nào
anh biết có lòng em bát ngát
vẫn tỏa ngườm thấu vọng đến ngàn sau
chúng ta đan một vòng tay rất nhỏ
đủ cho nhau với quả đất thơm hương
anh sẽ gói triệu hoa Quỳnh ướt nữa
để riêng em chôn kín mắt môi buồn
dưới nhật nguyệt gửi trao dù rất nhỏ
chút chân tình sương khói phải không Hương ?
Nguyễn Tôn Nhan
(Tháng Giêng SG Anh Làm Thơ Yêu Em)
anh gói kín một hoa Quỳnh mới nở
đến bên em cẩn trọng đặt môi hôn
từ thuở ấy nguyệt mang mang dưới nước
là xương xanh da thịt ủ trong hồn
em yêu dấu tặng anh bàn tay lạ
buổi đất trời mây trắng vội bay đi
anh quỳ gối nghe thiên thu bên má
nụ hôn em ấm lại tuổi nhu mì
anh sẽ gói một hoa Quỳnh , có lẽ
dưới dương gian ân ái cũng mơ hồ
em thầm kín đến bên anh nhè nhẹ
gửi chút tình khờ dại rất nên thơ
em có áo trinhnguyên như nguyệt bạch
tóc man thiên ngai ngái nụ bông trời
anh chỉ biết quỳ bên em và biết
sợ sương hàn xuống đụng tới hai vai
anh sợ quá lạnh dồn lên tới mắt
một đêm mai hư huyễn gọi nhau về
sao rụng bám cả hồn anh rất chặt
những hoa Quỳnh ướt mộng của xưa kia
anh sẽ ở trong bàn tay mềm mỏng
chân đạp lên sương trắng rụng như bông
anh sẽ ngậm hạt cau non ngát mộng
chia cho em ảo ảnh quý vô cùng
một ngày mai rừng đông chim quyến rũ
rủ anh vào điên đảo cuộc rong chơi
nhưng hừng sớm bên dòng con thác lũ
anh chợt thèm tiếng dội thuả xa xôi
rồi anh trở về thở gấp như sao
ngợ tiếng ai kêu một buổi nào
anh biết có lòng em bát ngát
vẫn tỏa ngườm thấu vọng đến ngàn sau
chúng ta đan một vòng tay rất nhỏ
đủ cho nhau với quả đất thơm hương
anh sẽ gói triệu hoa Quỳnh ướt nữa
để riêng em chôn kín mắt môi buồn
dưới nhật nguyệt gửi trao dù rất nhỏ
chút chân tình sương khói phải không Hương ?
Nguyễn Tôn Nhan
(Tháng Giêng SG Anh Làm Thơ Yêu Em)
Hiện tượng Kim Dung -Đỗ Long Vân
Đỗ Long Vân
Vô Kỵ giữa chúng ta hay là Hiện tượng Kim Dung
I.
RẤT CÓ THỂ NGƯỜI TA SẼ NGẠC NHIÊN. Nhưng một trong những sự kiện đáng lưu ý nhất của văn học miền Nam trên mười năm nay, là cái phong trào võ hiệp mà, cứ khi nào hết chuyện nói, người ta lại mang ra lên án như là nguyên nhân của sự suy đồi xã hội. Nó đã bùng lên đột ngột và ồn ào để xâm lấn chớp nhoáng những giới thật khác nhau. Những lý do của phong trào ấy có nhiều. Có những lý do thường trực như nhu cầu giải trí, sự cám dỗ của cái khác thường, tiếng gọi của phiêu lưu. Lại có những lý do thời cuộc: sự bế tắc của tình thế xô người ta trốn thực tại trong một thế giới hoang đường. Ngoài những lý do tự nhiên ấy lại phải kể đến cả một chiến dịch cổ động truyền khẩu cũng như trên mặt báo. Thời đại này của kế hoạch. Không có gì người ta có thể tin là tự nhiên và bộc phát. Ai tuy nhiên đã gây lên phong trào ấy và trong mục đích nào? Nghi vấn ấy người đời sau sẽ giải quyết. Có điều là cái phong trào ấy, dù có ai chủ ý gây nên chăng nữa, cũng không thể nào lên tới mức độ người ta đã thấy, nếu những truyện võ hiệp được tung ra, đã không diễn tả gì tâm sự của người đương thời. Và chứng cứ là phong trào ấy không phải truyện võ hiệp nào cũng làm người ta chạy theo mà người ta chỉ chịu, chỉ chuộng, chỉ mê một thứ truyện là truyện của Kim Dung. Cho đến nỗi những ai từng để ý tới những tương quan giữa văn học và xã hội không thể không coi chúng như một hiện tượng của thời đại. Hiện tượng Kim Dung như thế nào? Nó có nghĩa gì giữa cảnh tai biến của chúng ta và tai sao lại có thể xảy ra? Ấy là những nghi vấn mà cố gắng của bài này là tìm ra một đáp thuyết.
Thường thì ai cũng công nhận rằng truyện Kim Dung “hay” hơn những truyện võ hiệp cổ điển. Và để minh chứng cho thiên kiến ấy, người ta đã viện ra nhiều lý do: nào là tâm lý phức tạp, tình tiết éo le, truyện kể hồi hộp, nào là thiện và ác không còn minh định một cách ngây ngô như xưa nữa mà, trái lại, người ta không còn biết ai phải và ai trái, ai giỏi võ hơn ai và ai sẽ thắng… Những lý do ấy tuy nhiên, xét cho cùng, không diễn tả gì hơn là tâm sự của người đọc. Không phải thời nào người ta cũng tìm trong những truyện kể cái hồi hộp, sự phức tạp tâm lý và những xung đột khả nghi không biết ai phải và ai trái. Ấy là những đặc tính giờ làm người ta đam mê. Sự đam mê ấy nói lên rằng lòng người ta đã thay đổi. Nó không có nghĩa là người ta đã tìm ra những tiêu chuẩn khách quan của một cái “hay” muôn thuở. Truyện Kim Dung không hay hơn những truyện võ hiệp xưa. Chúng khác hẳn. Tại chúng đáp lại những nhu cầu tâm lý khác. Và công của Kim Dung không phải là đã cải thiện nghệ thuật viết truyện võ hiệp. Ông đã sáng tác ra một kiểu truyện võ hiệp mới.
II. Quan niệm võ học
1. Trong truyền thống hoang đường
Cái ấy mới có lẽ người ta không ngờ rằng nó đã bắt đầu ngay trong quan niệm võ học. Ai cũng biết là từ Kim Dung mới thịnh những chuyện chưởng và nội lực. Chưởng pháp dựa vào sức của bàn tay, như một biến thể của quyền thuật, thật ra không có gì lạ. Nhưng khi tự lòng tay người ta có thể vận ra những luồng khí giết người, thời cái hoang đường nghĩ lại cũng chẳng khác gì những truyện kiếm quang. Táo bạo đầu tiên của Kim Dung là đã nối lại một truyền thống hoang đường mà truyện võ hiệp có thời đã bỏ dở. Ấy là thời được tung ra những truyện võ hiệp gọi là đứng đắn. Trong những truyện ấy người ta cam đoan rằng những thế võ được sử dụng đều là võ thực, nghĩa là đều có tên trong những sách chân truyền, và, sợ thế cũng chưa đủ, người ta lại kèm theo những hoạ đồ trình bầy động tác của từng thế một. Những độc giả thực tế và nghiêm trang được yên tâm là đã không mất tiền và thì giờ một cách vô ích. Hơn thế nữa họ lại có dịp khoe rằng đã tiếp xúc một cách ích lợi với võ học chính tông. Nhưng ai đọc truyện võ hiệp để học võ bao giờ? Võ học trong những truyện là một dịp để người ta tưởng tượng, cũng như người ta đọc những truyện khoa học giả tưởng không để trở thành kỹ sư, mà để tưởng tượng trên những có thể, tưởng là không thể tưởng tượng được, của khoa học. Nhưng người ta hiểu tại sao cái hoang đường của những truyện luyện kiếm lại có thể cám dỗ người ta hơn là tất cả những thứ võ thuộc những truyện khác.
Một thỏi sắt luyện thành một thanh kiếm tốt đã khó. Nhưng khó hơn nữa là luyện thế nào để tự nó thu nhỏ lại bằng cái lá. Khi ấy người ta có một diệp kiếm; nhỏ hơn, bằng một viên ngọc, là hoàn kiếm, nhỏ hơn nữa, bằng hạt cát, là sa kiếm. Lạ là càng thu nhỏ thì năng lực của kiếm càng lớn. Tất cả xẩy ra như năng lực ấy, càng bị dồn trong một khối thể chất nhỏ bao nhiêu, lại càng tăng trưởng bấy nhiêu. Và đến khi miếng thép ấy hoá ra nước làm thuỷ kiếm, ra hơi làm khí kiếm, ra ánh sáng làm quang kiếm, thì năng lực phát huy được kể như không cùng. Tương quan ấy giữa năng lực và thể chất không làm người ta suy nghĩ ra sao? Nhưng tôi không muốn nói rằng những tác giả võ hiệp là những Einstein bị người đời quên lãng.
2. Ý nghĩa của nội lực
Kiếm tuy nhiên vẫn chỉ là một vật ngoại thân. Căn bản của võ học theo Kim Dung lại ở nội lực. Nội lực là cái nguyên khí tản mác ngoài thiên nhiên mà, theo những cách luyện đặc biệt, người ta thâu nạp được trong người. Khi giao đấu thì nội lực ấy có thể, từ lòng bàn tay, xuất phát ra những ngọn gió lớn có sức đánh gẫy cây và đập nát đá. Nói theo kiểu của giới đọc võ hiệp, người ta gọi thế là dấu chưởng. Xem như thế thì chưởng phong còn hoang đường gấp mấy lần quang kiếm. Uy lực của quang kiếm dù sao cũng là thể chất. Sức của chưởng phong thì tuỳ ở nội lực. Và nội lực là một cái gì cũng mơ hồ như nguyên khí của thiên nhiên. Người luyện kiếm tiếp tục một truyền thống thợ rèn, tìm cách chế hoá thể chất ra năng lượng. Nội lực trái lại, là một sức mạnh vô hình. Cũng như tinh thần. Và người ta không thể ngờ rằng võ học Kim Dung cũng chịu ảnh hưởng nặng nề của thần bí học. Ấy là một thần bí học duy tự nhiên. Cho nên người anh hùng Kim Dung là người nhờ gặp may uống được máu rắn, ăn được kỳ hoa, nuốt được dị quả mà tiếp thu những mãnh lực nguyên thuỷ của vũ trụ súc tích trong những vật ấy để trong chốc lát, đạt tới nội lực thượng thừa. Luyện nội lực như thế, để nói như những triết gia là một cách trở lại nguồn. Thường thường một nội lực thâm hậu đòi ở người ta một công phu dài mấy chục năm. Nhưng như người ta thấy, được một dịp may trời cho, thì mấy mươi năm luyện tập cũng chưa bằng. Trời trong Kim Dung có những đặc ân như muốn riễu những cố gắng của con người. Kể cả khả nghi. Nhưng không thế thì làm sao võ lâm có thể đổi mới và sinh ra những biến cố bất ngờ ?
Nội lực đã thâm hậu thì võ công nào người ta cũng học được. Luyện những võ công tinh xảo quá mà thiếu nội lực thì trái lại người ta có thể bị tẩu hoả nhập ma, và dù có luyện được, cũng không thể nào phát huy được hết uy lực của nó. Người giàu nội lực thời dùng một thế võ tầm thường cũng có thể đạt tới một uy lực siêu phàm và khắc chế những võ công tinh xảo, như Trương Quân Bảo lấy mấy ngọn quyền nhập môn của phái Thiếu Lâm mà thắng được một Hà Túc Đạo mà đời xưng tụng là kiếm khách. Nhưng đặt nội lực trên cái tinh xảo của võ công, phải chăng một lần nữa Kim Dung lại đặt tự nhiên trên sức chế hoá và công phu của con người? Cũng có lẽ. Nhất là khi người ta nhớ rằng trong truyện ông, đạt tới tuyệt đỉnh của võ học không phải là một Hoàng Dược Sư chẳng hạn, muốn lấy trí năng của mình để đoạt quyền tạo hoá, mà, những nhân vật độc ác như Âu Dương Phong, ngay thẳng như Hồng Thất Công, thật thà như Quách Tĩnh, ngây thơ như Châu Bá Thông, sống toàn theo năng tính nghĩa là con người tự nhiên của họ. Trở về tự nhiên, trở về nguồn, khi ấy, cũng là trở về cái phần nguyên thuỷ của mình. Và người ta có thể nghĩ rằng lấy nội lực làm căn bản cho võ học, Kim Dung đã chẳng làm gì hơn là đặt căn bản võ học trong lòng người. Uy lực của người anh hùng từ giờ không ở cái sảo của võ công và của khí giới nữa cũng như cái gì đe doạ chàng trên giang hồ không còn là những nguy hiểm của thế giới bên ngoài mà ở ngay chỗ sâu xa nhất trong người chàng. Nguy hiểm ngoại tại người ta có thể lấy trí năng để giải hoá. Nhưng đấu nội lực thì ai cũng biết là chỉ có một mất và một còn. Cả con người mình khi ấy phải ngưng tụ để chống trả. Suy tính gì được nữa? Sểnh một cái, tâm hồn giao động, thế là bị phân tâm và nội lực ly tán. Khi ấy thì không chết người ta cũng bị trọng thương. Và kẻ thắng trận trước hết là kẻ giữ được cái tĩnh của lòng mình trước những xôn xao của ngoại giới. Nhưng ý nghĩa của võ học cũng thay đổi hẳn. Võ học trở nên một kỷ luật của nội tâm và nội lực cũng giống cái mà, theo ngôn ngữ khác, người ta gọi là đức tin.
Sự nội tâm hoá ấy tuy nhiên lại mở rộng phạm vi võ học. Xưa võ học không ra ngoài một nghệ thuật sử dụng quyền, cước và khí giới thì giờ người ta có thể giết nhau trong một tiếng cười, một tiếng rống, một tiếng sáo, một tiếng đàn. Tất cả là làm thế nào cho tinh thần đối phương rối loạn. À! Các tác giả võ hiệp đã không sống uổng trong thời đại của tâm lý chiến! Nhưng còn gì đẹp và ghê người hơn cảnh một đôi cao thủ, người đàn và người sáo, một đêm trăng trên mặt bể, vận nội lực trong những tiếng nhạc thâu hồn? Tệ hơn nữa người ta có thể dùng những điệu thoát y vũ! Nhưng bị võ lâm nguyền rủa như môn võ ác độc nhất vẫn là “Hoá công đại pháp” chuyên môn dùng để phá nội lực của con người. Hình như chạm đến nội lực là chạm đến một cái gì thiêng liêng. Võ học chính tông trong Kim Dung tuy nhiên cũng giống như đạo. Ở chỗ tối cao của nó thì người ta trở nên “tĩnh” như Thái Sơn. Ấy là cái tĩnh của người đã đạt tới cái chân nguyên của tự nhiên và của lòng mình. Người và tự nhiên khi ấy là một. Những xôn xao của ngoại giới không còn làm gì được người ta nữa. Và trong cái tự do tuyệt đối của tinh thần, người ta có thể, không những như Hà Túc Đạo, tay kiếm tay đàn không sợ rối chí mà, xa hơn nữa, không cần xuất thủ, còn có thể ngồi yên lấy ý điều khiển nội lực đánh lại người.
3. Võ học như một yếu tố của truyện kể
Cái tĩnh ấy lẽ dĩ nhiên chỉ có thể có với một nội lực siêu phàm. Sức mạnh thực không cần phô trương. Ít khi Kim Dung dùng những tĩnh từ mỹ lệ để mô tả cách biểu diễn của một võ công. Ông không tìm trong võ công cái ngoạn mục của những động tác. Trông không còn gì tầm thường hơn là những cuộc đấu nội lực? Nhưng ấy cũng là những cuộc đấu khẩn trương nhất và tất cả nghệ thuật giờ là làm ta tham dự vào sự khẩn trương ấy. Hết làm vui mắt, võ học trở nên một yếu tố gây xúc động nghĩa là để nói với tâm hồn. Xu hướng của nó là càng ngày càng tiết kiệm những động tác. Nhưng sự kín đáo ấy đã thành ra một dấu hiệu của sức mạnh thực. Hãy nhìn thế võ ấy chẳng hạn: xem thật là đơn sơ, nhưng thủ có, công có, và hàm chứa không biết bao nhiêu cách biến hoá, xem nhẹ nhàng, nhưng cực kỳ độc lạt, xem chậm chạp nhưng uy mãnh vô cùng. Cây cổ thụ ấy ngang nhiên đứng thẳng. Nhưng sẽ phất ống tay áo là nó đổ. Khi ấy người ta mới thấy rằng những thớ gỗ trong cây đã nát. Nó đã trúng Thất Thương quyền. Sự ngạc nhiên của người ta khi ấy, một võ công ồn ào hơn làm gì có thể gây nên. Cái ngoạn mục bớt đi. Nhưng chấn động tâm lý lại càng lớn. Quãng cách giữa nguyên nhân và kết quả, nghĩa là cái phần biểu diễn ấy, được thu giảm đến cùng cực. Và người ta như bị đẩy trước một huyền bí. Ấy là cái cảnh, chẳng hạn, “không biết người khách ấy xuất thủ như thế nào mà đối phương hự lên một cái rồi ngã lăn ra chết”. Võ công gì mà lạ thế? Không ai nhận ra, nhưng, như một tia chớp, nó vụt lòe lên như tiêu ký của bóng tối. Các môn phái thành danh, trong khi ấy, đều có những võ công đặc biệt. Và một miếng võ thường là một căn cước. Nhưng trước miếng võ kỳ bí ấy ai chẳng rùng mình. Rắc rối hơn nữa là có những cao thủ dùng võ công của môn phái này để giết người môn phái kia. Ấy là một dịp cho không biết bao nhiêu nghi vấn như khi trên thân thể dập nát của Dư Đại Nham ấn tích của “Kim cương chỉ” vốn là một tuyệt kỹ bí truyền của Thiếu Lâm, làm mọi người hoang mang không biết ai là hung thủ. Chẳng lẽ lại là một trong những thần tăng uy đức trấn giang hồ? Nhưng chắc không thể không là một cao thủ tuyệt luân và món “Kim cương chỉ” trở nên một nỗi ám ảnh nhức nhối để, như một tang vật của tội ác trong những chuyện trinh thám, ngưng tụ quanh nó cả một không gian chập trùng đe doạ và bí mật. Ấy là không kể những khi trên giang hồ xuất hiện những miếng võ thất truyền làm người ta sực nhớ lại cả một dĩ vãng hoang đường.
Nói tóm lại thì võ lực trong Kim Dung không phải chỉ có những cái tên rất đẹp. Nó không chỉ là cơ hội cho những vũ điệu ngoạn mục mà còn góp phần vào sự diễn biến và sức dẫn cảm của truyện. Cho nên tuy những môn võ quan trọng trong Kim Dung chẳng có mấy và toàn là võ bịa, nhưng đã đọc qua thì người ta không thể dễ dàng quên. Ai chẳng còn nhớ đến Nhất Dương chỉ, Lạc Anh quyền, Đả Cẩu bổng, Lăng Ba vi bộ v.v… Những võ công ấy cứ trở lại, không những trong một truyện, mà từ truyện này sang truyện khác như những thể tài của một nhạc tấu. Và sự thường trở lại ấy cũng đủ cho chúng một cá thể đặc biệt. Hơn thế nữa võ công nào cũng gắn vào một nhân vật, nhắc lại một diễn biến trọng yếu, có những đặc điểm và một lịch sử riêng; như Giáng long Thập bát chưởng, truyền từ đời này sang đời khác, cho đến khi đã thất truyền mà kỷ niệm còn chấn động giang hồ. Sự có mặt của chúng chẳng khác nào của những nhân vật. Ấy là không kể có khi một võ công có thể thực sự trở nên một nhân vật chính của truyện như Cửu âm chân công mà trong võ lâm ai cũng muốn luyện cho được để xẩy ra bao nhiêu vụ tương tàn. Và tập Đồ long đao chẳng hạn có kể gì hơn là sự phân tán và tái thống nhất của võ lâm qua sự phân tán và tìm lại thấy của Cửu Dương thần công? Truyện võ hiệp của Kim Dung cũng là truyện võ học nữa.
4. Võ học và cơ cấu luận
Trong truyện võ hiệp cổ điển thì võ học không đặt ra một nghi vấn nào. Chính phái và tà môn cũng dùng một thứ võ. Ấy là một kiến thức chung cho mọi giới trong giang hồ. Những môn phái có thể đánh nhau, nhưng từ môn phái này sang môn phái khác, người ta vẫn thấy những miếng võ ấy được sử dụng. Võ học khi ấy cũng vô danh như ngôn ngữ và như ngôn ngữ, chỉ có giá trị của một phhương tiện. Phương tiện chung. Hơn nhau duy ở kinh nghiệm, tài và sức riêng của mỗi người. Nhưng truyện Kim Dung bắt đầu khi võ học đã mất sự thống nhất ấy. Mỗi môn phái giờ có một thứ võ. Lẽ dĩ nhiên người ta vẫn coi Đạt Ma sư tổ là ông tổ của võ học Trung Nguyên. Nhưng cái vốn của ông truyền lại, những kẻ đến sau, mỗi người chỉ lĩnh hội được một phần. Và cái phần ấy, mỗi người lại hiểu theo một cách, tuỳ tư chất và kiến thức của mỗi người, để từ đó tham bác, chế hoá và sáng tạo thêm ra. Thành ra cũng cùng một gốc mà võ công trong thiên hạ tại không cùng lịch sử: một môn phái là một truyền thống. Những trang đầu của truyện Đồ long đao cho người ta thấy từ những đoạn của Cửu Dương chân kinh nghe lỏm được ở miệng Giác Viễn lúc lâm chung, Quách Tường và Trương Quân Bảo, tư chất và kiến thức khác nhau, đã lập ra hai môn phái khác nhau thế nào. Sự biến hoá ấy của võ học làm người ta nghĩ đến sự biến hoá của ngôn ngữ. Cũng một ngôn ngữ mẹ mà tuỳ theo địa phương biến hoá đến nỗi người địa phương này không còn hiểu được người địa phương kia. Võ học cũng thế, tuy cùng một gốc mà giờ võ công của mõi môn phái lại tuân theo một qui tắc, đòi hỏi một cách luyện tập, và có một lối phá giải riêng. Muốn phá giải một võ công thì trước hết phải biết cách biến hoá nghĩa là cái văn phạm đặc biệt của nó. Cho nên không thể lấy võ công này mà thắng võ công khác cũng như không thể nói là có võ công nào hơn võ công nào. Nhưng có những võ công mà văn phạm phức tạp hơn, khó phá giải hơn và biến hoá khó lường trước được hơn. Một khi tuy nhiên đã biết cái văn phạm ấy rồi thì sự phá giải không còn là một nan đề. Lưỡng Nghi đao pháp triền miên bất tuyệt như thế mà chỉ cần biết rằng sự biến hoá của nó dựa trên một cách chuyển bộ theo Bát quái là Vô Kỵ có thể thoát khỏi vòng vây của nó một cách dễ dàng. Cái gì Kim Dung muốn người ta thưởng thức trong một võ công, một lần nữa, không phải là cái ngoạn mục của sự biểu diễn mà là văn phạm, cơ thức, nguyên lý, nói tóm lại, sự mạch lạc nội tại của nó. Mạch lạc đến nỗi có khi một miếng võ có thể sử dụng ngược chiều mà vẫn được như thường. Lẽ dĩ nhiên thế chỉ là một chuyện nên thơ. Và cái nên thơ ấy mà Kim Dung mang lại cho võ học là cái nên thơ của cơ cấu luận. Nghĩa là của những gì phân tích được.
Cái huyền bí mà những võ công của Kim Dung thoạt cho người ta thấy chợt tiêu thất. Và sự sáng sủa bắt đầu của những lý do và số lượng. Cái văn phạm khúc chiết của mỗi võ công không kể, mỗi võ công lại chia làm nhiều chiêu, mỗi chiêu lại gồm nhiều thức, mỗi thức lại chia nhiều thế. Hơn thế nữa, lại có thể tính xem mỗi võ công người ta luyện được mấy thành hoả hầu và được sử dụng với mấy thành công lực. “Thành” là đơn vị để ước lượng mức thành đạt của người luyện võ cũng như uy lực của mỗi đòn tung ra. Nói tóm lại thì tất cả đều đo được, tích giải được, phân chiết được. Và người ta vào thế giới của những phức thể. Ấy là thân thể con người chằng chịt những huyệt đạo và kinh mạch như một cái lưới tinh vi, những độc dược mà thứ nào cũng là một pha trộn theo những phân lượng bí truyền, giữa rất nhiều dị thảo, những kiếm pháp chung đúc cái tinh hoa của không biết bao nhiêu môn phái khác nhau, sự phối hợp ảo điệu giữa hai cao thủ, người này sử dụng võ công vốn tương khắc với võ công của người kia, thành một thế liên hoàn không có gì phá nổi, môn Phân thân Tâm pháp cho phép người ta mỗi tay dùng một tuyệt kỹ để biến một người duy nhất thành một cao thủ… Phân tích, phối hợp, ấy là những động tác căn bản của cơ cấu luận. Nhưng có lẽ không chỗ nào ấn tích của cơ cấu luận lại rõ ràng hơn trên những môn võ dựa vào thư pháp, như Đồ long công chẳng hạn, mà mỗi đòn là một nét chữ. Mỗi chữ khi ấy trở nên hoạ đồ của một chiêu số. Không những đọc được mà như người ta thấy, cái văn phạm nội tại của môn võ lại có thể vẽ ra được nữa! Ai làm thế nào để một người không biết võ, không cần giải thích dài lời, có thể thất và thông đạt những cơ thức của một võ công một cách dễ dàng hơn? Nhưng còn chuyện Cửu Âm chân kinh…
Cửu Âm chân kinh là một võ học kỳ thư. Và các cao thủ ai cũng muốn cướp nó cho được để luyện những võ học tuyệt luân có ghi trữ. Khốn nỗi tự bản duy nhất của nó đã bị huỷ và chỉ có Quách Tĩnh là người đã học nó thuộc lòng. Người ta còn nhớ Âu Dương Phong đã tìm cách buộc Quách Tĩnh phải chép lại bản kinh ấy cho y như thế nào. Không thể làm khác, Quách Tĩnh đành y lời, nhưng khôn ngoan, lại cố ý, chữ “tác” đánh ra chữ “tộ”, chép cho sai. Lẽ dĩ nhiên Âu Dương Phong đọc không hiểu. Nhưng nhũn nhặn nghĩ rằng ấy là tại văn của Cửu Âm chân kinh uẩn súc quá và cái óc thô bạo của mình không nhìn thấy chỗ tinh tế của nó, y bắt Hoàng Dung, người yêu cực kỳ thông minh của Quách Tĩnh, giảng cho vỡ lẽ. Hoàng Dung cũng nói dựa mà giảng bừa cốt cho xuôi tai thì thôi. Âu Dương Phong cứ theo những lời giảng ấy mà luyện, thấy rất khó, nhưng vẫn tự cưỡng. Là người khác thì đã “tẩu hoả nhập ma” mà chết. Nhưng nội lực Âu Dương Phong đã tới chỗ siêu phàm. Y không chết, nhưng tất cả kinh mạch trong người đều chạy ngược, y phải đi bằng hai tay, chân chổng lên trời và rốt cuộc không còn nhớ Âu Dương Phong là ai nữa. Võ công của y, trong khi ấy, lại trở nên vô địch. Ấy cũng là võ công của Cửu Âm chân kinh. Những chiêu thức tuy nhiên đều đảo ngược và cách biến hoá của chúng tuân theo một sự mạch lạc mà người ngoài không thể hiểu: ấy là sự mạch lạc của người điên. Hoá ra người điên cũng có lý của họ và không có gì, dù tạp loạn đến đâu, mà người ta không thể đưa tới một thế tương tất. Chỉ cần một luận lý khác! Nhưng mẩu chuyện ấy không đủ chứng tỏ tinh thần nhân bản của Kim Dung. Cái gì người ta còn thấy là, xô đến tận chỗ nghịch lý, cái nên thơ của cơ cấu luận.
5. Sự tương đối hoá võ học và thế đa nguyên của võ lâm
Một cơ cấu là một cá thể độc đáo. Nhưng nó cũng định một giới hạn. Cái độc đáo vốn là cái không phổ biến thì những gì, ở chỗ này, là những ưu điểm, ở chỗ khác, lại có thể xuất hiện như những khuyết điểm. Như những ngôn ngữ, mỗi võ công chỉ đáp ứng một số nhu cầu nhất định. Không thể có võ công toàn năng. Lạc Anh chưởng chẳng hạn có mau nhưng không mạnh, Hàm Mô công mạnh nhưng thân pháp lại khó coi, Nhất Dương chỉ thì chỉ có bọn đồng tử mới học được. Thất Thương quyền lợi hại bao nhiêu! Nhưng muốn luyện được môn võ ấy thì trước hết phải tự đả thương tạng phủ đến bẩy lần. Trong khi ấy thì Lăng Ba vi bộ chỉ là một phép tránh đòn cũng đủ để Đoàn Dự có thể buộc một hung thần ác sát lậy mình làm sư phụ. Nhưng đem bộ pháp ấy đối phó với cảnh loạn đả không theo qui tắc nào của những người không biết võ lại bằng thừa. Cái khéo của Kim Dung là đã chia những ưu điểm và những khuyết điểm ấy như thế nào để vừa giữ cái bản sắc đặc biệt của mỗi võ công vừa duy trì sự diễn tiến của truyện trong một tình trạng bất trắc thường xuyên. Thử tưởng tượng một nhân vật có một võ công cứ giở ra là ai cũng thua thì truyện sẽ chán biết mấy! Cái thú với Đoàn Dự chẳng hạn là không ai có thể biết trước khi nào Lục Mạch thần kiếm của chàng ta “chạy” và khi nào không. Nhưng nó chỉ có trong chừng nào kiến thức võ học của Đoàn Dự còn đầy khuyết điểm. Khuyết điểm chính là cái độc đáo và một dịp cho mọi bất ngờ. Cho nên trong Kim Dung nhân vật nào cũng có sở trường và sở đoản. Giỏi võ công thì không có nội lực. Người có nội lực thượng thừa lại không biết võ công. Có người giỏi ám khí. Có người tài khinh công. Có người sành độc dược. Nhưng được một đằng lại mất đi một nẻo. Võ công nào trong thiên hạ mà Vương Ngọc Yến không biết? Nhưng nàng lại không biết dùng võ công. Mưu trí như Hoàng Dung thì môn Song thủ Hổ bác đòi hỏi một tâm hồn chất phác nàng lại không tài nào học được. Tưởng một Tạ Tốn thì cái gì chẳng hơn người! Thế mà lại thua Trương Thuý Sơn ở thư pháp cũng như Vương phu nhân đã thua Đoàn Dự ở kiến thức về hoa trà. Ngược lại thì một Trương Quân Bảo chỉ có mấy miếng quyền nhập môn mà làm cho Côn Luân tam thánh liểng xiểng ôm hận thề không bao giờ trở lại Trung Nguyên nữa. Và để kết luận người ta bảo nhau rằng thật là ngoài trời lại có trời. Có Ỷ Thiên kiếm thì có Đồ Long đao, có Cửu Âm chân kinh thì có Cửu Dương chân kinh, có độc dược của Vương Nạn Cô thì có giải dược của Hồ Thanh Ngưu, có kiếm pháp của Tuyết Sơn thì phái Kim Cô phái cũng có đao pháp để phá giải. Không có cái gì sau cùng không có khắc tinh của nó. Cao thủ này lại dẫn người ta gặp cao thủ khác tài hơn. Người ta càng đi lại càng thấy kiến thức của mình chật hẹp. Võ lâm trở nên một thế giới vô cùng và đã mất trung tâm. Mỗi phương xuất hiện một anh hùng. Khi Anh hùng xạ điêu bắt đầu thì Vương Trùng Dương, con người duy nhất có thể xứng ngôi Minh Chủ võ lâm đã tạ thế. Để môn phái ông ngày một suy đốn và các bạn ông, những người còn sót lại trong Võ lâm Ngũ bá, cứ năm năm một lại trở về Hoa Sơn, tiếp tục những cuộc luận võ không ai được và ai thua. Cũng như thể cái chết của Dương Phá Thiên làm những anh hùng của Minh giáo phân tán, không ai phục ai, mỗi người theo đuổi một cuộc phiêu lưu riêng ở một góc trời. Võ lâm sa vào cảnh chia năm và xẻ bẩy. Xưa các cao thủ đều nhìn về Thiếu Lâm như cái nguồn của võ học. Cái nguồn ấy giờ ở chỗ nào? Thiếu lâm chỉ còn là một môn phái như các môn phái khác. Và võ học cũng như Thượng đế của Pascal là một tinh cầu trung tâm ở khắp nơi, nhưng không biết đâu là giới hạn. Ngần ấy võ công là ngần ấy ngôn ngữ, và võ công nào, trong giới hạn của nó, cũng có thể gọi là vô địch. Làm thế nào có thể thu cái thế giới đã nát vụn ấy vào một mối. Ai cũng muốn làm bá chủ võ lâm. Người ta giết nhau như ngóe để độc chiếm những võ công kỳ bí có thể cho phép người ta khuất phục chúng anh hùng. Câu chuyện nghĩa hiệp đã nhường chỗ cho những cuộc tranh cường đẫm máu. Ẩn tàng trong cảnh tương tàn ấy tuy nhiên, cái gì người ta thấy là sự huy hoàng của một giấc mơ thống nhất.
6. Trở về nguyên lý
Muốn thống nhất võ lâm thì phải là một cao thủ vô địch. Nhưng khi chẳng võ công nào vô địch cã thì làm sao? Tưởng chỉ có một cách duy nhất là nghiên cứu tất cả những võ công của thiên hạ. Ấy là tham vọng của Mộ Dung. Nhưng ai có thể thực hiện được? Khi ngay võ công của môn phái mình cũng chẳng mấy người luyện hết. Hơn thế nữa những võ công phức tạp đòi hỏi một nội lực thâm hậu. Nội lực thâm hậu thì không những võ công nào cũng luyện được mà, như người ta biết, có thể lấy những miếng võ thuật là thô thiển để thắng những võ công ảo diệu hơn. Như thế thì điều trọng yếu của võ học không cứ ở võ công, mà tới một độ nào người ta chỉ coi là những khoa chân múa tay, mà thật ra ở nội lực. Nội lực mới là căn bản của võ học. Nhưng người ta hiểu rằng có sự trở về nguồn ấy là tại võ học không còn thống nhất nữa. Và nếu sau này Vô Kỵ có thể thu võ lâm vào một mối thì cũng tại chàng đã tìm lại được nguyên bản của Cửu chương Chân kinh và luyện một cách chu toàn môn thần công chép trong kinh ấy. Sự thâm hậu của nội lực, tuy nhiên, mới là một điều kiện cần nhưng chưa đủ. Cái may thứ hai của Vô Kỵ là đã vớ được Càn khôn Đại nã Di Tâm pháp mà, nhờ một nội lực siêu phàm, chàng có thể lãnh hội trọn vẹn. Võ công trong thiên hạ, có nhiều thật, nhưng đều cùng một gốc và chẳng ra khỏi những quy luật của tự nhiên. Sao người ta không thể tìm ra những quy luật chung cho những võ công trên đời? Càn khôn Đại nã Di Tâm pháp không phải là một võ công ảo diệu hơn những võ công khác, nó là nguyên lý của mọi võ công, và người ta có thể coi nó như một thứ văn phạm đại cương tổng hợp và giải thích những văn phạm đặc biệt. Cho nên dù gặp những võ công phức tạp đến mấy thì, nhờ Tâm pháp ấy, Vô Kỵ cũng có thể định ra cơ thức của nó và phá giải được. Khi thì chàng dùng ngay võ công của đối thủ để trả đòn làm cho y ngơ ngác không biết tên này làm thế nào mà biết được những tuyệt kỹ bí truyền của môn phái mình, khi thì, ngộ nghĩnh hơn, chàng chuyển những đòn của đối thủ trở về đánh lại y và đồng bọn gây ra không biết bao nhiêu cảnh khôi hài. Ai chẳng còn nhớ trận Huyền minh nhị lão vây đánh Vô Kỵ bị chàng giở Đại nã di Tâm pháp, làm cho nhị lão, đòn người này trúng phải người kia, và sau cùng, giận quá đâm ra đánh nhau thực sự. Ấy là thuật “lấy gậy ông đập lưng ông” và chính nó đã cho phép Vô Kỵ khuất phục chúng anh hùng và thống nhất võ lâm.
7. Giấc mộng bách khoa
Nhưng đâu có phải ai cũng biết Càn khôn Đại nã di Tâm pháp? Cái may của Vô Kỵ chỉ đến một lần. Khi Triệu Minh muốn nghiên cứu võ học Trung Nguyên thì nàng chẳng biết làm gì hơn là bắt cóc những cao thủ của chín đại môn phái buộc họ phải thi triển những tuyệt kỹ của bản môn cho nàng xem. Những người khác cũng có thể tìm cách học từng võ công một. Càng nhiều càng hay. Và trên con đường của tri thức, võ học từ một phương tiện dần dần trở nên một cứu cánh tự tại. Khi ấy sinh ra những nhân vật như Vương Nạn Cô chuyên chế những độc dược càng ngày càng độc, để hết bỏ cho người này lại bỏ cho người khác, và sau cùng bỏ ngay cho chính nàng nữa, trong mục đích duy nhất là để cho chồng nàng là Thần y Hồ Thanh Ngưu phải xin chịu là thua. Lại có Châu Bá Thông mê học võ công hơn mê gái, luyện võ công không để áp chế ai cả, nhưng vì võ công và như để chơi. Ấy là không kể một Cưu Ma Trí võ công đầy mình mà cứ hết chạy ngang lại chạy dọc, suốt đời bôn ba tìm cách học thêm, tuy chẳng ai biết là để làm gì. Nhưng ai ngờ rằng sự uyên bác, mai mỉa thay, trong cái thế giới bạo động và sự công hiệu trực tiếp ấy, lại trở nên một giá trị? Nó là tất cả uy danh của họ Mộ Dung, cái nên thơ của Vương Ngọc Yến, và biến Tàng Kim Các, nơi tích trữ những võ học kỳ thư trong Thiếu Lâm tự thành một ám ảnh cho những người luyện võ. Ai chẳng còn nhớ cuộc gặp gỡ mở đầu truyện Đồ Long Đao giữa Quách Tường và sư Vô Sắc? Vô Sắc ỷ vào kinh nghiệm và kiến thức của mình, cuộc rằng sau mười thế võ ông có thể nhận ra môn phái của Quách Tường. Nhưng Quách Tường cướp tiên cơ, công một loạt mười thế võ nguồn gốc khác nhau mà nàng được những cao thủ danh trấn giang hồ truyền thọ cho, trước khi chấm dứt bằng một thế của chính Thiếu Lâm tự, làm cho, nếu không xảy ra một chuyện tình cờ, Vô Sắc suýt nữa đành chịu thua. Hào hứng của câu chuyện là cuộc đấu võ đã thành ra một cuộc đấu trí. Thắng Quách Tường thì làm gì Vô Sắc không thắng nổi. Nhưng ông muốn lấy cái học của mình để khuất phục người con gái ngỗ ngược ấy. Và người ta không biết phục gì hơn giữa tác phong của nhà sư và sự uyên bác của một cô gái mười mấy tuổi đầu. Cuộc đua võ học ấy, tuy nhiên trong cái phong thái tài tử của nó, như ngấm ngầm lên án cái võ lực thuần tuý. Sự thắng trận nà có ý nghĩa khi tất cả đều bị tương đối hoá? Con người võ hiệp của Kim Dung trong một thế giới đã mất nguyên lý, trước khi, như Đoàn Dự, nguyền rủa võ học để tôn thờ nhan sắc, bắt đầu quên sứ mạng nhập thế của mình để lạc vào một giấc mộng bách khoa.
Tham vọng bách khoa ấy không chỉ giới hạn trong phạm vi võ học. Như để nhuốm võ học một sắc thái tinh thần ngày càng đậm, người ta thấy các cao thủ tìm mọi cách để thực hiện sự tương kết giữa võ học và các môn học khác. Triết học có: ấy là những võ công khi thì dựa trên kinh dịch, khi mượn Phật học làm căn bản, khi thì lấy cảm hứng trong Lão giáo; y học có: ấy là cả cái hệ thống huyệt đạo và kinh mạch trên thân thể con người; dược khoa có: ấy là cái nghề chế thuốc độc và linh đơn tinh vi và phức tạp; nhạc thuật có: ấy là tiếng sáo thống thiết của Hoàng Dược Sư, tiếng đàn tranh gay gắt của Âu Dương Phong, tiếng đàn cầm não nùng của A Bích; thi ca có: ấy là Đồ long công mà Trương Tam Phong đã tạo ra từ tự hoạch của mấy câu ca dao truyền tụng cái bí mật của đao Đồ Long và cây kiếm Ỷ Thiên. Ấy là không kể những võ công dựa trên một nghệ thuật cắm hoa, pha trà, đánh cờ, viết chữ v.v… Một cảnh thác đổ, một thế chim bay, một kiểu rắn bò, một cảnh cọp ngồi, không có gì trong tạo vật giờ lại không thể là một nguồn cho võ học. Và con người võ hiệp của Kim Dung, ngoài võ học, còn có hơn một sở trường. Mấy ai đã quên những tận đồ của Hoàng Dược sư? Vừa là một kỹ sư con người kỳ quặc ấy vừa là một nghệ sĩ tài hoa. Không những được tôn là kiếm khách, Hà Túc Đạo còn là kỳ thánh và cầm thánh nữa. Người ta thường gặp chàng, trong những khu rừng vắng, đánh cờ một mình và gẩy đàn gọi chim ngàn ca múa. Trong khi ấy thì Tạ Tốn vẫn mang sử ra minh chứng cho tác phong bạo ngược của mình, Trương Thuý Sơn vẫn đam mê thư pháp, Đoàn Dự vẫn diễn thuyết về trà hoa, Hàn Tố Tố vẫn bình văn Trang Tử, Anh Cô vẫn bạc đầu nghiên cứu toán pháp, Hoàng Dung vẫn thừa sức thi thơ với các danh tài nước Đại Lý. Nhưng có gì mà Hoàng Dung không biết? Kể cả khoa nấu bếp làm cho Hồng Thất Công thán phục phải truyền thọ võ công cho nàng trước khi để nàng kế nghiệp mình làm bang chủ Cái bang. Và còn tài cải trang của A chu nữa, thoắt cái nàng biến thành bà lão, thoắt cái thành một nam tử hán, và sau cùng đưa nàng đến một cái chết thảm khốc.
Con người võ học càng ngày càng muốn kiêm bác. Tượng trưng cho cái tham vọng bách khoa ấy là Tô Tinh Hà. Không môn học nào là ông không nghiên cứu. Nhưng rốt cuộc trong môn nào sở năng của ông cũng dở dang. Làm thế nào một cá nhân có thể tinh thâm được tất cả những môn học ở trên đời, khi một cái mênh mông của võ học cũng đủ làm người ta chóng mặt? Sự thất bại của Tô Tinh Hà như đã nói lên tâm sự của một thời đại trước cái kiến thức chung càng ngày càng tăng trưởng và phức tạp, nhưng cũng ngày càng tản mác. Trong Tàng Kinh Các những võ học kỳ thư vẫn xếp thành chồng dầy. Ai là người đã thực hiện được sự tổng hợp của cái di sản ấy? Nhưng ngay biết hết được cái di sản ấy cũng chưa có người. Ôi! Vương Ngọc Yến! Nàng ở đâu? Người con gái ấy chưa bao giờ động thủ, nhưng võ công nào cũng thấu triệt. Nàng có thể nói lên từ lịch sử đến những cơ thức và khả năng của một võ công của môn phái một cách tường tận hơn là ngay những người của môn phái ấy. Cao thủ của môn phái này mới xuất thủ thì nàng đã biết là môn võ nào và cao thủ của môn phái kia sẽ dùng môn võ nào để ứng phó. Khi những đối thủ còn mò mẫm chưa biết nên giở những đòn gì cho phải thì nàng đã tiên liệu được tất cả diễn biến của trận đấu. Và mỗi lần nàng mở miệng mách một thế võ cho một cao thủ thượng thừa thì, nghe cái giọng yêu kiều và xa xôi như đến từ một thế giới khác ấy, người ta muốn nghĩ rằng nàng ở giữa cuộc đời như nàng tiên của tri thức thuần tuý. Tiếc sao võ học trong đời nàng chỉ là chuyện phụ. Người con gái ấy cũng như Đoàn Dư, ngoài thình yêu, chẳng coi gì là trọng. Hai người sinh ra để lấy nhau: một người gần như biết tất cả võ công của thiên hạ và một người, nhờ Chu Cáp thần công có sức hút công lực của người khác, mà súc tích trong người nội lực của không biết bao nhiêu anh hùng. Sự tương kết giữa đôi trai gái ấy, sẽ đưa tới kết quả nào? Không ai biết. Nhưng người ta biết rằng cả hai đều coi võ học như một cái gì phù phiếm, và trước thế chia đôi ấy giữa kiến thức và nội lực, người ta không thể không nghĩ rằng cái thời đã hết khi một Vô Kỵ, vừa có Cửu dương Chân công, vừa có Càn Khôn Đại Mã Di Tâm pháp, thâu tóm trong một cái tất cả những có thể của võ học. Sự tổng hợp ấy sau Vô Kỵ, không xảy ra một lần nữa.
Nhưng trong Thiếu Lâm Tự cũng như trong lòng người võ lâm, Tàng Kinh Các vẫn sừng sững làm chứng cho một chí chinh phục không bao giờ nguôi. Vẫn có người giết nhau, và khó hiểu thay! Thí mạng để độc chiếm một võ công như ông và trong nhóm Trường Bạch tam cầm, đã trúng độc sắp chết, mà cứ giữ khư khư ôm lấy con dao Đồ Long không chịu mang ra đổi lấy giải dược, chỉ vì nghĩ rằng trong con dao ấy có giữ một võ học kì thư, vẫn có những Châu Bá Thông, sau khi đã chán tất cả, mà vẫn chưa biết chán võ học bao giờ, vẫn có những Cưu Ma Trí suốt đời đi tìm những võ công lạ và sẵn sàng làm tất cả để đổi lấy tuyệt kỹ mà mình chưa được biết. Nhưng võ học mênh mông. Võ công này chưa thông đạt thì đã xuất hiện võ công khác phức tạp hơn. Khi chưa nắm được cái nguyên lý của võ học thì có biết bao nhiêu cũng là một cái biết dở dang. Các cao thủ phải học từng võ công một cũng như trong Tàng Kinh Các cuốn võ học kỳ thư này xếp lên cuốn võ học kì thư kia. Trí nhớ khi ấy có một ý nghĩa nên thơ khác thường. Nhưng kiến thức vẫn chỉ là một tổng số không bao giờ đóng thành tổng hợp. Ngay Càn Khôn Đại Nã Di Tâm pháp cũng chỉ là một tổng hợp rất lớn chứ chưa có thể nói là đã đạt tới nguyên lý cuối cùng của võ học. Người ta nhớ rằng Vô Kỵ đã luyện thông bảy lớp của Tâm pháp ấy một cách dễ dàng. Nhưng tới lớp thứ tám thì chàng thấy rất khó và gặp những đoạn văn tối nghĩa và chứa những mâu thuẫn không giải quyết được. Hình như người sáng tạo ra Tâm pháp ấy tới một độ nào cũng đã vấp phải một bức tường không thể nào vượt qua. Hay là tại Kim Dung vẫn muốn dành một phần cho thượng đế? Những Cưu Ma Trí, Mộ Dung Bác, Tiêu Viễn Sơn sau một đời khổ luyện tưởng đã đạt tới giới hạn cuối cùng của võ học thì, ngay khi ấy, họ chợt khám phá ra rằng cái tham vọng vượt bậc của họ nghịch lại những võ công tối cao họ luyện được, mà mục đích là dẫn tới cái ý của võ học trong một sự lãng quên và sự tương nghịch ấy đang ngấm ngầm dẫn họ đến chỗ bị tẩu hoả nhập ma. Cảnh tượng ấy mới tuyệt vọng làm sao! Nhưng con người của Kim Dung trong giấc mộng bách khoa, trong ý chỉ sáng tạo, trong tinh thần chinh phục của nó, ngay khi đã bị cái tham vọng của nó quật ngã, không phải đã không nói lên một cái gì vượt bực trong con người. Sự vượt bực ấy tuy nhiên mang sẵn trong nó cái ngòi của thất bại. Con người có một sức sáng tạo không cùng. Nhưng tất cả xảy ra như người ta càng sáng tạo càng xa chân lý, và càng thất lạc trong cảnh tạp loạn của cái kiến thức người ta đã tạo ra. Cho nên người anh hùng đích thực của Kim Dung như Vô Kỵ, thường không phải là người của sáng tạo mà của sự trở về và của sự tìm thấy lại.
Nguồn: Nxb Trình Bầy. Ban chủ trương: Diễm Châu, Trịnh Viết Đức, Lê Văn Hảo, Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Khắc Ngữ, Thế Nguyên, Trần Tuấn Nhậm, Nguyễn Văn Trung, Thảo Trường, Đỗ Long Vân. Thư từ và tác phẩm xin gửi cho: Ô. Thế Nguyên, 80/80 Trần Quang Diệu, Sài Gòn. Phát hành tại: Quán sách số 34 (Trước cửa Pharmacie Diệu Tâm), 117, Lê Lợi, Sài Gòn. In xong ngày 24-12-1967 tại nhà in Trình Bầy, 291 Lý Thái Tổ, Sài Gòn. Ngoài những bản thường còn in thêm 40 bản đặc biệt, không bán, trong đó hai mươi bản đánh số từ Đ.L.V I đến Đ.L.V XX và hai mươi bản từ T.B. I đến T.B. XX. Copyright by Đỗ Long Vân, 1967.
Vô Kỵ giữa chúng ta hay là Hiện tượng Kim Dung
I.
RẤT CÓ THỂ NGƯỜI TA SẼ NGẠC NHIÊN. Nhưng một trong những sự kiện đáng lưu ý nhất của văn học miền Nam trên mười năm nay, là cái phong trào võ hiệp mà, cứ khi nào hết chuyện nói, người ta lại mang ra lên án như là nguyên nhân của sự suy đồi xã hội. Nó đã bùng lên đột ngột và ồn ào để xâm lấn chớp nhoáng những giới thật khác nhau. Những lý do của phong trào ấy có nhiều. Có những lý do thường trực như nhu cầu giải trí, sự cám dỗ của cái khác thường, tiếng gọi của phiêu lưu. Lại có những lý do thời cuộc: sự bế tắc của tình thế xô người ta trốn thực tại trong một thế giới hoang đường. Ngoài những lý do tự nhiên ấy lại phải kể đến cả một chiến dịch cổ động truyền khẩu cũng như trên mặt báo. Thời đại này của kế hoạch. Không có gì người ta có thể tin là tự nhiên và bộc phát. Ai tuy nhiên đã gây lên phong trào ấy và trong mục đích nào? Nghi vấn ấy người đời sau sẽ giải quyết. Có điều là cái phong trào ấy, dù có ai chủ ý gây nên chăng nữa, cũng không thể nào lên tới mức độ người ta đã thấy, nếu những truyện võ hiệp được tung ra, đã không diễn tả gì tâm sự của người đương thời. Và chứng cứ là phong trào ấy không phải truyện võ hiệp nào cũng làm người ta chạy theo mà người ta chỉ chịu, chỉ chuộng, chỉ mê một thứ truyện là truyện của Kim Dung. Cho đến nỗi những ai từng để ý tới những tương quan giữa văn học và xã hội không thể không coi chúng như một hiện tượng của thời đại. Hiện tượng Kim Dung như thế nào? Nó có nghĩa gì giữa cảnh tai biến của chúng ta và tai sao lại có thể xảy ra? Ấy là những nghi vấn mà cố gắng của bài này là tìm ra một đáp thuyết.
Thường thì ai cũng công nhận rằng truyện Kim Dung “hay” hơn những truyện võ hiệp cổ điển. Và để minh chứng cho thiên kiến ấy, người ta đã viện ra nhiều lý do: nào là tâm lý phức tạp, tình tiết éo le, truyện kể hồi hộp, nào là thiện và ác không còn minh định một cách ngây ngô như xưa nữa mà, trái lại, người ta không còn biết ai phải và ai trái, ai giỏi võ hơn ai và ai sẽ thắng… Những lý do ấy tuy nhiên, xét cho cùng, không diễn tả gì hơn là tâm sự của người đọc. Không phải thời nào người ta cũng tìm trong những truyện kể cái hồi hộp, sự phức tạp tâm lý và những xung đột khả nghi không biết ai phải và ai trái. Ấy là những đặc tính giờ làm người ta đam mê. Sự đam mê ấy nói lên rằng lòng người ta đã thay đổi. Nó không có nghĩa là người ta đã tìm ra những tiêu chuẩn khách quan của một cái “hay” muôn thuở. Truyện Kim Dung không hay hơn những truyện võ hiệp xưa. Chúng khác hẳn. Tại chúng đáp lại những nhu cầu tâm lý khác. Và công của Kim Dung không phải là đã cải thiện nghệ thuật viết truyện võ hiệp. Ông đã sáng tác ra một kiểu truyện võ hiệp mới.
II. Quan niệm võ học
1. Trong truyền thống hoang đường
Cái ấy mới có lẽ người ta không ngờ rằng nó đã bắt đầu ngay trong quan niệm võ học. Ai cũng biết là từ Kim Dung mới thịnh những chuyện chưởng và nội lực. Chưởng pháp dựa vào sức của bàn tay, như một biến thể của quyền thuật, thật ra không có gì lạ. Nhưng khi tự lòng tay người ta có thể vận ra những luồng khí giết người, thời cái hoang đường nghĩ lại cũng chẳng khác gì những truyện kiếm quang. Táo bạo đầu tiên của Kim Dung là đã nối lại một truyền thống hoang đường mà truyện võ hiệp có thời đã bỏ dở. Ấy là thời được tung ra những truyện võ hiệp gọi là đứng đắn. Trong những truyện ấy người ta cam đoan rằng những thế võ được sử dụng đều là võ thực, nghĩa là đều có tên trong những sách chân truyền, và, sợ thế cũng chưa đủ, người ta lại kèm theo những hoạ đồ trình bầy động tác của từng thế một. Những độc giả thực tế và nghiêm trang được yên tâm là đã không mất tiền và thì giờ một cách vô ích. Hơn thế nữa họ lại có dịp khoe rằng đã tiếp xúc một cách ích lợi với võ học chính tông. Nhưng ai đọc truyện võ hiệp để học võ bao giờ? Võ học trong những truyện là một dịp để người ta tưởng tượng, cũng như người ta đọc những truyện khoa học giả tưởng không để trở thành kỹ sư, mà để tưởng tượng trên những có thể, tưởng là không thể tưởng tượng được, của khoa học. Nhưng người ta hiểu tại sao cái hoang đường của những truyện luyện kiếm lại có thể cám dỗ người ta hơn là tất cả những thứ võ thuộc những truyện khác.
Một thỏi sắt luyện thành một thanh kiếm tốt đã khó. Nhưng khó hơn nữa là luyện thế nào để tự nó thu nhỏ lại bằng cái lá. Khi ấy người ta có một diệp kiếm; nhỏ hơn, bằng một viên ngọc, là hoàn kiếm, nhỏ hơn nữa, bằng hạt cát, là sa kiếm. Lạ là càng thu nhỏ thì năng lực của kiếm càng lớn. Tất cả xẩy ra như năng lực ấy, càng bị dồn trong một khối thể chất nhỏ bao nhiêu, lại càng tăng trưởng bấy nhiêu. Và đến khi miếng thép ấy hoá ra nước làm thuỷ kiếm, ra hơi làm khí kiếm, ra ánh sáng làm quang kiếm, thì năng lực phát huy được kể như không cùng. Tương quan ấy giữa năng lực và thể chất không làm người ta suy nghĩ ra sao? Nhưng tôi không muốn nói rằng những tác giả võ hiệp là những Einstein bị người đời quên lãng.
2. Ý nghĩa của nội lực
Kiếm tuy nhiên vẫn chỉ là một vật ngoại thân. Căn bản của võ học theo Kim Dung lại ở nội lực. Nội lực là cái nguyên khí tản mác ngoài thiên nhiên mà, theo những cách luyện đặc biệt, người ta thâu nạp được trong người. Khi giao đấu thì nội lực ấy có thể, từ lòng bàn tay, xuất phát ra những ngọn gió lớn có sức đánh gẫy cây và đập nát đá. Nói theo kiểu của giới đọc võ hiệp, người ta gọi thế là dấu chưởng. Xem như thế thì chưởng phong còn hoang đường gấp mấy lần quang kiếm. Uy lực của quang kiếm dù sao cũng là thể chất. Sức của chưởng phong thì tuỳ ở nội lực. Và nội lực là một cái gì cũng mơ hồ như nguyên khí của thiên nhiên. Người luyện kiếm tiếp tục một truyền thống thợ rèn, tìm cách chế hoá thể chất ra năng lượng. Nội lực trái lại, là một sức mạnh vô hình. Cũng như tinh thần. Và người ta không thể ngờ rằng võ học Kim Dung cũng chịu ảnh hưởng nặng nề của thần bí học. Ấy là một thần bí học duy tự nhiên. Cho nên người anh hùng Kim Dung là người nhờ gặp may uống được máu rắn, ăn được kỳ hoa, nuốt được dị quả mà tiếp thu những mãnh lực nguyên thuỷ của vũ trụ súc tích trong những vật ấy để trong chốc lát, đạt tới nội lực thượng thừa. Luyện nội lực như thế, để nói như những triết gia là một cách trở lại nguồn. Thường thường một nội lực thâm hậu đòi ở người ta một công phu dài mấy chục năm. Nhưng như người ta thấy, được một dịp may trời cho, thì mấy mươi năm luyện tập cũng chưa bằng. Trời trong Kim Dung có những đặc ân như muốn riễu những cố gắng của con người. Kể cả khả nghi. Nhưng không thế thì làm sao võ lâm có thể đổi mới và sinh ra những biến cố bất ngờ ?
Nội lực đã thâm hậu thì võ công nào người ta cũng học được. Luyện những võ công tinh xảo quá mà thiếu nội lực thì trái lại người ta có thể bị tẩu hoả nhập ma, và dù có luyện được, cũng không thể nào phát huy được hết uy lực của nó. Người giàu nội lực thời dùng một thế võ tầm thường cũng có thể đạt tới một uy lực siêu phàm và khắc chế những võ công tinh xảo, như Trương Quân Bảo lấy mấy ngọn quyền nhập môn của phái Thiếu Lâm mà thắng được một Hà Túc Đạo mà đời xưng tụng là kiếm khách. Nhưng đặt nội lực trên cái tinh xảo của võ công, phải chăng một lần nữa Kim Dung lại đặt tự nhiên trên sức chế hoá và công phu của con người? Cũng có lẽ. Nhất là khi người ta nhớ rằng trong truyện ông, đạt tới tuyệt đỉnh của võ học không phải là một Hoàng Dược Sư chẳng hạn, muốn lấy trí năng của mình để đoạt quyền tạo hoá, mà, những nhân vật độc ác như Âu Dương Phong, ngay thẳng như Hồng Thất Công, thật thà như Quách Tĩnh, ngây thơ như Châu Bá Thông, sống toàn theo năng tính nghĩa là con người tự nhiên của họ. Trở về tự nhiên, trở về nguồn, khi ấy, cũng là trở về cái phần nguyên thuỷ của mình. Và người ta có thể nghĩ rằng lấy nội lực làm căn bản cho võ học, Kim Dung đã chẳng làm gì hơn là đặt căn bản võ học trong lòng người. Uy lực của người anh hùng từ giờ không ở cái sảo của võ công và của khí giới nữa cũng như cái gì đe doạ chàng trên giang hồ không còn là những nguy hiểm của thế giới bên ngoài mà ở ngay chỗ sâu xa nhất trong người chàng. Nguy hiểm ngoại tại người ta có thể lấy trí năng để giải hoá. Nhưng đấu nội lực thì ai cũng biết là chỉ có một mất và một còn. Cả con người mình khi ấy phải ngưng tụ để chống trả. Suy tính gì được nữa? Sểnh một cái, tâm hồn giao động, thế là bị phân tâm và nội lực ly tán. Khi ấy thì không chết người ta cũng bị trọng thương. Và kẻ thắng trận trước hết là kẻ giữ được cái tĩnh của lòng mình trước những xôn xao của ngoại giới. Nhưng ý nghĩa của võ học cũng thay đổi hẳn. Võ học trở nên một kỷ luật của nội tâm và nội lực cũng giống cái mà, theo ngôn ngữ khác, người ta gọi là đức tin.
Sự nội tâm hoá ấy tuy nhiên lại mở rộng phạm vi võ học. Xưa võ học không ra ngoài một nghệ thuật sử dụng quyền, cước và khí giới thì giờ người ta có thể giết nhau trong một tiếng cười, một tiếng rống, một tiếng sáo, một tiếng đàn. Tất cả là làm thế nào cho tinh thần đối phương rối loạn. À! Các tác giả võ hiệp đã không sống uổng trong thời đại của tâm lý chiến! Nhưng còn gì đẹp và ghê người hơn cảnh một đôi cao thủ, người đàn và người sáo, một đêm trăng trên mặt bể, vận nội lực trong những tiếng nhạc thâu hồn? Tệ hơn nữa người ta có thể dùng những điệu thoát y vũ! Nhưng bị võ lâm nguyền rủa như môn võ ác độc nhất vẫn là “Hoá công đại pháp” chuyên môn dùng để phá nội lực của con người. Hình như chạm đến nội lực là chạm đến một cái gì thiêng liêng. Võ học chính tông trong Kim Dung tuy nhiên cũng giống như đạo. Ở chỗ tối cao của nó thì người ta trở nên “tĩnh” như Thái Sơn. Ấy là cái tĩnh của người đã đạt tới cái chân nguyên của tự nhiên và của lòng mình. Người và tự nhiên khi ấy là một. Những xôn xao của ngoại giới không còn làm gì được người ta nữa. Và trong cái tự do tuyệt đối của tinh thần, người ta có thể, không những như Hà Túc Đạo, tay kiếm tay đàn không sợ rối chí mà, xa hơn nữa, không cần xuất thủ, còn có thể ngồi yên lấy ý điều khiển nội lực đánh lại người.
3. Võ học như một yếu tố của truyện kể
Cái tĩnh ấy lẽ dĩ nhiên chỉ có thể có với một nội lực siêu phàm. Sức mạnh thực không cần phô trương. Ít khi Kim Dung dùng những tĩnh từ mỹ lệ để mô tả cách biểu diễn của một võ công. Ông không tìm trong võ công cái ngoạn mục của những động tác. Trông không còn gì tầm thường hơn là những cuộc đấu nội lực? Nhưng ấy cũng là những cuộc đấu khẩn trương nhất và tất cả nghệ thuật giờ là làm ta tham dự vào sự khẩn trương ấy. Hết làm vui mắt, võ học trở nên một yếu tố gây xúc động nghĩa là để nói với tâm hồn. Xu hướng của nó là càng ngày càng tiết kiệm những động tác. Nhưng sự kín đáo ấy đã thành ra một dấu hiệu của sức mạnh thực. Hãy nhìn thế võ ấy chẳng hạn: xem thật là đơn sơ, nhưng thủ có, công có, và hàm chứa không biết bao nhiêu cách biến hoá, xem nhẹ nhàng, nhưng cực kỳ độc lạt, xem chậm chạp nhưng uy mãnh vô cùng. Cây cổ thụ ấy ngang nhiên đứng thẳng. Nhưng sẽ phất ống tay áo là nó đổ. Khi ấy người ta mới thấy rằng những thớ gỗ trong cây đã nát. Nó đã trúng Thất Thương quyền. Sự ngạc nhiên của người ta khi ấy, một võ công ồn ào hơn làm gì có thể gây nên. Cái ngoạn mục bớt đi. Nhưng chấn động tâm lý lại càng lớn. Quãng cách giữa nguyên nhân và kết quả, nghĩa là cái phần biểu diễn ấy, được thu giảm đến cùng cực. Và người ta như bị đẩy trước một huyền bí. Ấy là cái cảnh, chẳng hạn, “không biết người khách ấy xuất thủ như thế nào mà đối phương hự lên một cái rồi ngã lăn ra chết”. Võ công gì mà lạ thế? Không ai nhận ra, nhưng, như một tia chớp, nó vụt lòe lên như tiêu ký của bóng tối. Các môn phái thành danh, trong khi ấy, đều có những võ công đặc biệt. Và một miếng võ thường là một căn cước. Nhưng trước miếng võ kỳ bí ấy ai chẳng rùng mình. Rắc rối hơn nữa là có những cao thủ dùng võ công của môn phái này để giết người môn phái kia. Ấy là một dịp cho không biết bao nhiêu nghi vấn như khi trên thân thể dập nát của Dư Đại Nham ấn tích của “Kim cương chỉ” vốn là một tuyệt kỹ bí truyền của Thiếu Lâm, làm mọi người hoang mang không biết ai là hung thủ. Chẳng lẽ lại là một trong những thần tăng uy đức trấn giang hồ? Nhưng chắc không thể không là một cao thủ tuyệt luân và món “Kim cương chỉ” trở nên một nỗi ám ảnh nhức nhối để, như một tang vật của tội ác trong những chuyện trinh thám, ngưng tụ quanh nó cả một không gian chập trùng đe doạ và bí mật. Ấy là không kể những khi trên giang hồ xuất hiện những miếng võ thất truyền làm người ta sực nhớ lại cả một dĩ vãng hoang đường.
Nói tóm lại thì võ lực trong Kim Dung không phải chỉ có những cái tên rất đẹp. Nó không chỉ là cơ hội cho những vũ điệu ngoạn mục mà còn góp phần vào sự diễn biến và sức dẫn cảm của truyện. Cho nên tuy những môn võ quan trọng trong Kim Dung chẳng có mấy và toàn là võ bịa, nhưng đã đọc qua thì người ta không thể dễ dàng quên. Ai chẳng còn nhớ đến Nhất Dương chỉ, Lạc Anh quyền, Đả Cẩu bổng, Lăng Ba vi bộ v.v… Những võ công ấy cứ trở lại, không những trong một truyện, mà từ truyện này sang truyện khác như những thể tài của một nhạc tấu. Và sự thường trở lại ấy cũng đủ cho chúng một cá thể đặc biệt. Hơn thế nữa võ công nào cũng gắn vào một nhân vật, nhắc lại một diễn biến trọng yếu, có những đặc điểm và một lịch sử riêng; như Giáng long Thập bát chưởng, truyền từ đời này sang đời khác, cho đến khi đã thất truyền mà kỷ niệm còn chấn động giang hồ. Sự có mặt của chúng chẳng khác nào của những nhân vật. Ấy là không kể có khi một võ công có thể thực sự trở nên một nhân vật chính của truyện như Cửu âm chân công mà trong võ lâm ai cũng muốn luyện cho được để xẩy ra bao nhiêu vụ tương tàn. Và tập Đồ long đao chẳng hạn có kể gì hơn là sự phân tán và tái thống nhất của võ lâm qua sự phân tán và tìm lại thấy của Cửu Dương thần công? Truyện võ hiệp của Kim Dung cũng là truyện võ học nữa.
4. Võ học và cơ cấu luận
Trong truyện võ hiệp cổ điển thì võ học không đặt ra một nghi vấn nào. Chính phái và tà môn cũng dùng một thứ võ. Ấy là một kiến thức chung cho mọi giới trong giang hồ. Những môn phái có thể đánh nhau, nhưng từ môn phái này sang môn phái khác, người ta vẫn thấy những miếng võ ấy được sử dụng. Võ học khi ấy cũng vô danh như ngôn ngữ và như ngôn ngữ, chỉ có giá trị của một phhương tiện. Phương tiện chung. Hơn nhau duy ở kinh nghiệm, tài và sức riêng của mỗi người. Nhưng truyện Kim Dung bắt đầu khi võ học đã mất sự thống nhất ấy. Mỗi môn phái giờ có một thứ võ. Lẽ dĩ nhiên người ta vẫn coi Đạt Ma sư tổ là ông tổ của võ học Trung Nguyên. Nhưng cái vốn của ông truyền lại, những kẻ đến sau, mỗi người chỉ lĩnh hội được một phần. Và cái phần ấy, mỗi người lại hiểu theo một cách, tuỳ tư chất và kiến thức của mỗi người, để từ đó tham bác, chế hoá và sáng tạo thêm ra. Thành ra cũng cùng một gốc mà võ công trong thiên hạ tại không cùng lịch sử: một môn phái là một truyền thống. Những trang đầu của truyện Đồ long đao cho người ta thấy từ những đoạn của Cửu Dương chân kinh nghe lỏm được ở miệng Giác Viễn lúc lâm chung, Quách Tường và Trương Quân Bảo, tư chất và kiến thức khác nhau, đã lập ra hai môn phái khác nhau thế nào. Sự biến hoá ấy của võ học làm người ta nghĩ đến sự biến hoá của ngôn ngữ. Cũng một ngôn ngữ mẹ mà tuỳ theo địa phương biến hoá đến nỗi người địa phương này không còn hiểu được người địa phương kia. Võ học cũng thế, tuy cùng một gốc mà giờ võ công của mõi môn phái lại tuân theo một qui tắc, đòi hỏi một cách luyện tập, và có một lối phá giải riêng. Muốn phá giải một võ công thì trước hết phải biết cách biến hoá nghĩa là cái văn phạm đặc biệt của nó. Cho nên không thể lấy võ công này mà thắng võ công khác cũng như không thể nói là có võ công nào hơn võ công nào. Nhưng có những võ công mà văn phạm phức tạp hơn, khó phá giải hơn và biến hoá khó lường trước được hơn. Một khi tuy nhiên đã biết cái văn phạm ấy rồi thì sự phá giải không còn là một nan đề. Lưỡng Nghi đao pháp triền miên bất tuyệt như thế mà chỉ cần biết rằng sự biến hoá của nó dựa trên một cách chuyển bộ theo Bát quái là Vô Kỵ có thể thoát khỏi vòng vây của nó một cách dễ dàng. Cái gì Kim Dung muốn người ta thưởng thức trong một võ công, một lần nữa, không phải là cái ngoạn mục của sự biểu diễn mà là văn phạm, cơ thức, nguyên lý, nói tóm lại, sự mạch lạc nội tại của nó. Mạch lạc đến nỗi có khi một miếng võ có thể sử dụng ngược chiều mà vẫn được như thường. Lẽ dĩ nhiên thế chỉ là một chuyện nên thơ. Và cái nên thơ ấy mà Kim Dung mang lại cho võ học là cái nên thơ của cơ cấu luận. Nghĩa là của những gì phân tích được.
Cái huyền bí mà những võ công của Kim Dung thoạt cho người ta thấy chợt tiêu thất. Và sự sáng sủa bắt đầu của những lý do và số lượng. Cái văn phạm khúc chiết của mỗi võ công không kể, mỗi võ công lại chia làm nhiều chiêu, mỗi chiêu lại gồm nhiều thức, mỗi thức lại chia nhiều thế. Hơn thế nữa, lại có thể tính xem mỗi võ công người ta luyện được mấy thành hoả hầu và được sử dụng với mấy thành công lực. “Thành” là đơn vị để ước lượng mức thành đạt của người luyện võ cũng như uy lực của mỗi đòn tung ra. Nói tóm lại thì tất cả đều đo được, tích giải được, phân chiết được. Và người ta vào thế giới của những phức thể. Ấy là thân thể con người chằng chịt những huyệt đạo và kinh mạch như một cái lưới tinh vi, những độc dược mà thứ nào cũng là một pha trộn theo những phân lượng bí truyền, giữa rất nhiều dị thảo, những kiếm pháp chung đúc cái tinh hoa của không biết bao nhiêu môn phái khác nhau, sự phối hợp ảo điệu giữa hai cao thủ, người này sử dụng võ công vốn tương khắc với võ công của người kia, thành một thế liên hoàn không có gì phá nổi, môn Phân thân Tâm pháp cho phép người ta mỗi tay dùng một tuyệt kỹ để biến một người duy nhất thành một cao thủ… Phân tích, phối hợp, ấy là những động tác căn bản của cơ cấu luận. Nhưng có lẽ không chỗ nào ấn tích của cơ cấu luận lại rõ ràng hơn trên những môn võ dựa vào thư pháp, như Đồ long công chẳng hạn, mà mỗi đòn là một nét chữ. Mỗi chữ khi ấy trở nên hoạ đồ của một chiêu số. Không những đọc được mà như người ta thấy, cái văn phạm nội tại của môn võ lại có thể vẽ ra được nữa! Ai làm thế nào để một người không biết võ, không cần giải thích dài lời, có thể thất và thông đạt những cơ thức của một võ công một cách dễ dàng hơn? Nhưng còn chuyện Cửu Âm chân kinh…
Cửu Âm chân kinh là một võ học kỳ thư. Và các cao thủ ai cũng muốn cướp nó cho được để luyện những võ học tuyệt luân có ghi trữ. Khốn nỗi tự bản duy nhất của nó đã bị huỷ và chỉ có Quách Tĩnh là người đã học nó thuộc lòng. Người ta còn nhớ Âu Dương Phong đã tìm cách buộc Quách Tĩnh phải chép lại bản kinh ấy cho y như thế nào. Không thể làm khác, Quách Tĩnh đành y lời, nhưng khôn ngoan, lại cố ý, chữ “tác” đánh ra chữ “tộ”, chép cho sai. Lẽ dĩ nhiên Âu Dương Phong đọc không hiểu. Nhưng nhũn nhặn nghĩ rằng ấy là tại văn của Cửu Âm chân kinh uẩn súc quá và cái óc thô bạo của mình không nhìn thấy chỗ tinh tế của nó, y bắt Hoàng Dung, người yêu cực kỳ thông minh của Quách Tĩnh, giảng cho vỡ lẽ. Hoàng Dung cũng nói dựa mà giảng bừa cốt cho xuôi tai thì thôi. Âu Dương Phong cứ theo những lời giảng ấy mà luyện, thấy rất khó, nhưng vẫn tự cưỡng. Là người khác thì đã “tẩu hoả nhập ma” mà chết. Nhưng nội lực Âu Dương Phong đã tới chỗ siêu phàm. Y không chết, nhưng tất cả kinh mạch trong người đều chạy ngược, y phải đi bằng hai tay, chân chổng lên trời và rốt cuộc không còn nhớ Âu Dương Phong là ai nữa. Võ công của y, trong khi ấy, lại trở nên vô địch. Ấy cũng là võ công của Cửu Âm chân kinh. Những chiêu thức tuy nhiên đều đảo ngược và cách biến hoá của chúng tuân theo một sự mạch lạc mà người ngoài không thể hiểu: ấy là sự mạch lạc của người điên. Hoá ra người điên cũng có lý của họ và không có gì, dù tạp loạn đến đâu, mà người ta không thể đưa tới một thế tương tất. Chỉ cần một luận lý khác! Nhưng mẩu chuyện ấy không đủ chứng tỏ tinh thần nhân bản của Kim Dung. Cái gì người ta còn thấy là, xô đến tận chỗ nghịch lý, cái nên thơ của cơ cấu luận.
5. Sự tương đối hoá võ học và thế đa nguyên của võ lâm
Một cơ cấu là một cá thể độc đáo. Nhưng nó cũng định một giới hạn. Cái độc đáo vốn là cái không phổ biến thì những gì, ở chỗ này, là những ưu điểm, ở chỗ khác, lại có thể xuất hiện như những khuyết điểm. Như những ngôn ngữ, mỗi võ công chỉ đáp ứng một số nhu cầu nhất định. Không thể có võ công toàn năng. Lạc Anh chưởng chẳng hạn có mau nhưng không mạnh, Hàm Mô công mạnh nhưng thân pháp lại khó coi, Nhất Dương chỉ thì chỉ có bọn đồng tử mới học được. Thất Thương quyền lợi hại bao nhiêu! Nhưng muốn luyện được môn võ ấy thì trước hết phải tự đả thương tạng phủ đến bẩy lần. Trong khi ấy thì Lăng Ba vi bộ chỉ là một phép tránh đòn cũng đủ để Đoàn Dự có thể buộc một hung thần ác sát lậy mình làm sư phụ. Nhưng đem bộ pháp ấy đối phó với cảnh loạn đả không theo qui tắc nào của những người không biết võ lại bằng thừa. Cái khéo của Kim Dung là đã chia những ưu điểm và những khuyết điểm ấy như thế nào để vừa giữ cái bản sắc đặc biệt của mỗi võ công vừa duy trì sự diễn tiến của truyện trong một tình trạng bất trắc thường xuyên. Thử tưởng tượng một nhân vật có một võ công cứ giở ra là ai cũng thua thì truyện sẽ chán biết mấy! Cái thú với Đoàn Dự chẳng hạn là không ai có thể biết trước khi nào Lục Mạch thần kiếm của chàng ta “chạy” và khi nào không. Nhưng nó chỉ có trong chừng nào kiến thức võ học của Đoàn Dự còn đầy khuyết điểm. Khuyết điểm chính là cái độc đáo và một dịp cho mọi bất ngờ. Cho nên trong Kim Dung nhân vật nào cũng có sở trường và sở đoản. Giỏi võ công thì không có nội lực. Người có nội lực thượng thừa lại không biết võ công. Có người giỏi ám khí. Có người tài khinh công. Có người sành độc dược. Nhưng được một đằng lại mất đi một nẻo. Võ công nào trong thiên hạ mà Vương Ngọc Yến không biết? Nhưng nàng lại không biết dùng võ công. Mưu trí như Hoàng Dung thì môn Song thủ Hổ bác đòi hỏi một tâm hồn chất phác nàng lại không tài nào học được. Tưởng một Tạ Tốn thì cái gì chẳng hơn người! Thế mà lại thua Trương Thuý Sơn ở thư pháp cũng như Vương phu nhân đã thua Đoàn Dự ở kiến thức về hoa trà. Ngược lại thì một Trương Quân Bảo chỉ có mấy miếng quyền nhập môn mà làm cho Côn Luân tam thánh liểng xiểng ôm hận thề không bao giờ trở lại Trung Nguyên nữa. Và để kết luận người ta bảo nhau rằng thật là ngoài trời lại có trời. Có Ỷ Thiên kiếm thì có Đồ Long đao, có Cửu Âm chân kinh thì có Cửu Dương chân kinh, có độc dược của Vương Nạn Cô thì có giải dược của Hồ Thanh Ngưu, có kiếm pháp của Tuyết Sơn thì phái Kim Cô phái cũng có đao pháp để phá giải. Không có cái gì sau cùng không có khắc tinh của nó. Cao thủ này lại dẫn người ta gặp cao thủ khác tài hơn. Người ta càng đi lại càng thấy kiến thức của mình chật hẹp. Võ lâm trở nên một thế giới vô cùng và đã mất trung tâm. Mỗi phương xuất hiện một anh hùng. Khi Anh hùng xạ điêu bắt đầu thì Vương Trùng Dương, con người duy nhất có thể xứng ngôi Minh Chủ võ lâm đã tạ thế. Để môn phái ông ngày một suy đốn và các bạn ông, những người còn sót lại trong Võ lâm Ngũ bá, cứ năm năm một lại trở về Hoa Sơn, tiếp tục những cuộc luận võ không ai được và ai thua. Cũng như thể cái chết của Dương Phá Thiên làm những anh hùng của Minh giáo phân tán, không ai phục ai, mỗi người theo đuổi một cuộc phiêu lưu riêng ở một góc trời. Võ lâm sa vào cảnh chia năm và xẻ bẩy. Xưa các cao thủ đều nhìn về Thiếu Lâm như cái nguồn của võ học. Cái nguồn ấy giờ ở chỗ nào? Thiếu lâm chỉ còn là một môn phái như các môn phái khác. Và võ học cũng như Thượng đế của Pascal là một tinh cầu trung tâm ở khắp nơi, nhưng không biết đâu là giới hạn. Ngần ấy võ công là ngần ấy ngôn ngữ, và võ công nào, trong giới hạn của nó, cũng có thể gọi là vô địch. Làm thế nào có thể thu cái thế giới đã nát vụn ấy vào một mối. Ai cũng muốn làm bá chủ võ lâm. Người ta giết nhau như ngóe để độc chiếm những võ công kỳ bí có thể cho phép người ta khuất phục chúng anh hùng. Câu chuyện nghĩa hiệp đã nhường chỗ cho những cuộc tranh cường đẫm máu. Ẩn tàng trong cảnh tương tàn ấy tuy nhiên, cái gì người ta thấy là sự huy hoàng của một giấc mơ thống nhất.
6. Trở về nguyên lý
Muốn thống nhất võ lâm thì phải là một cao thủ vô địch. Nhưng khi chẳng võ công nào vô địch cã thì làm sao? Tưởng chỉ có một cách duy nhất là nghiên cứu tất cả những võ công của thiên hạ. Ấy là tham vọng của Mộ Dung. Nhưng ai có thể thực hiện được? Khi ngay võ công của môn phái mình cũng chẳng mấy người luyện hết. Hơn thế nữa những võ công phức tạp đòi hỏi một nội lực thâm hậu. Nội lực thâm hậu thì không những võ công nào cũng luyện được mà, như người ta biết, có thể lấy những miếng võ thuật là thô thiển để thắng những võ công ảo diệu hơn. Như thế thì điều trọng yếu của võ học không cứ ở võ công, mà tới một độ nào người ta chỉ coi là những khoa chân múa tay, mà thật ra ở nội lực. Nội lực mới là căn bản của võ học. Nhưng người ta hiểu rằng có sự trở về nguồn ấy là tại võ học không còn thống nhất nữa. Và nếu sau này Vô Kỵ có thể thu võ lâm vào một mối thì cũng tại chàng đã tìm lại được nguyên bản của Cửu chương Chân kinh và luyện một cách chu toàn môn thần công chép trong kinh ấy. Sự thâm hậu của nội lực, tuy nhiên, mới là một điều kiện cần nhưng chưa đủ. Cái may thứ hai của Vô Kỵ là đã vớ được Càn khôn Đại nã Di Tâm pháp mà, nhờ một nội lực siêu phàm, chàng có thể lãnh hội trọn vẹn. Võ công trong thiên hạ, có nhiều thật, nhưng đều cùng một gốc và chẳng ra khỏi những quy luật của tự nhiên. Sao người ta không thể tìm ra những quy luật chung cho những võ công trên đời? Càn khôn Đại nã Di Tâm pháp không phải là một võ công ảo diệu hơn những võ công khác, nó là nguyên lý của mọi võ công, và người ta có thể coi nó như một thứ văn phạm đại cương tổng hợp và giải thích những văn phạm đặc biệt. Cho nên dù gặp những võ công phức tạp đến mấy thì, nhờ Tâm pháp ấy, Vô Kỵ cũng có thể định ra cơ thức của nó và phá giải được. Khi thì chàng dùng ngay võ công của đối thủ để trả đòn làm cho y ngơ ngác không biết tên này làm thế nào mà biết được những tuyệt kỹ bí truyền của môn phái mình, khi thì, ngộ nghĩnh hơn, chàng chuyển những đòn của đối thủ trở về đánh lại y và đồng bọn gây ra không biết bao nhiêu cảnh khôi hài. Ai chẳng còn nhớ trận Huyền minh nhị lão vây đánh Vô Kỵ bị chàng giở Đại nã di Tâm pháp, làm cho nhị lão, đòn người này trúng phải người kia, và sau cùng, giận quá đâm ra đánh nhau thực sự. Ấy là thuật “lấy gậy ông đập lưng ông” và chính nó đã cho phép Vô Kỵ khuất phục chúng anh hùng và thống nhất võ lâm.
7. Giấc mộng bách khoa
Nhưng đâu có phải ai cũng biết Càn khôn Đại nã di Tâm pháp? Cái may của Vô Kỵ chỉ đến một lần. Khi Triệu Minh muốn nghiên cứu võ học Trung Nguyên thì nàng chẳng biết làm gì hơn là bắt cóc những cao thủ của chín đại môn phái buộc họ phải thi triển những tuyệt kỹ của bản môn cho nàng xem. Những người khác cũng có thể tìm cách học từng võ công một. Càng nhiều càng hay. Và trên con đường của tri thức, võ học từ một phương tiện dần dần trở nên một cứu cánh tự tại. Khi ấy sinh ra những nhân vật như Vương Nạn Cô chuyên chế những độc dược càng ngày càng độc, để hết bỏ cho người này lại bỏ cho người khác, và sau cùng bỏ ngay cho chính nàng nữa, trong mục đích duy nhất là để cho chồng nàng là Thần y Hồ Thanh Ngưu phải xin chịu là thua. Lại có Châu Bá Thông mê học võ công hơn mê gái, luyện võ công không để áp chế ai cả, nhưng vì võ công và như để chơi. Ấy là không kể một Cưu Ma Trí võ công đầy mình mà cứ hết chạy ngang lại chạy dọc, suốt đời bôn ba tìm cách học thêm, tuy chẳng ai biết là để làm gì. Nhưng ai ngờ rằng sự uyên bác, mai mỉa thay, trong cái thế giới bạo động và sự công hiệu trực tiếp ấy, lại trở nên một giá trị? Nó là tất cả uy danh của họ Mộ Dung, cái nên thơ của Vương Ngọc Yến, và biến Tàng Kim Các, nơi tích trữ những võ học kỳ thư trong Thiếu Lâm tự thành một ám ảnh cho những người luyện võ. Ai chẳng còn nhớ cuộc gặp gỡ mở đầu truyện Đồ Long Đao giữa Quách Tường và sư Vô Sắc? Vô Sắc ỷ vào kinh nghiệm và kiến thức của mình, cuộc rằng sau mười thế võ ông có thể nhận ra môn phái của Quách Tường. Nhưng Quách Tường cướp tiên cơ, công một loạt mười thế võ nguồn gốc khác nhau mà nàng được những cao thủ danh trấn giang hồ truyền thọ cho, trước khi chấm dứt bằng một thế của chính Thiếu Lâm tự, làm cho, nếu không xảy ra một chuyện tình cờ, Vô Sắc suýt nữa đành chịu thua. Hào hứng của câu chuyện là cuộc đấu võ đã thành ra một cuộc đấu trí. Thắng Quách Tường thì làm gì Vô Sắc không thắng nổi. Nhưng ông muốn lấy cái học của mình để khuất phục người con gái ngỗ ngược ấy. Và người ta không biết phục gì hơn giữa tác phong của nhà sư và sự uyên bác của một cô gái mười mấy tuổi đầu. Cuộc đua võ học ấy, tuy nhiên trong cái phong thái tài tử của nó, như ngấm ngầm lên án cái võ lực thuần tuý. Sự thắng trận nà có ý nghĩa khi tất cả đều bị tương đối hoá? Con người võ hiệp của Kim Dung trong một thế giới đã mất nguyên lý, trước khi, như Đoàn Dự, nguyền rủa võ học để tôn thờ nhan sắc, bắt đầu quên sứ mạng nhập thế của mình để lạc vào một giấc mộng bách khoa.
Tham vọng bách khoa ấy không chỉ giới hạn trong phạm vi võ học. Như để nhuốm võ học một sắc thái tinh thần ngày càng đậm, người ta thấy các cao thủ tìm mọi cách để thực hiện sự tương kết giữa võ học và các môn học khác. Triết học có: ấy là những võ công khi thì dựa trên kinh dịch, khi mượn Phật học làm căn bản, khi thì lấy cảm hứng trong Lão giáo; y học có: ấy là cả cái hệ thống huyệt đạo và kinh mạch trên thân thể con người; dược khoa có: ấy là cái nghề chế thuốc độc và linh đơn tinh vi và phức tạp; nhạc thuật có: ấy là tiếng sáo thống thiết của Hoàng Dược Sư, tiếng đàn tranh gay gắt của Âu Dương Phong, tiếng đàn cầm não nùng của A Bích; thi ca có: ấy là Đồ long công mà Trương Tam Phong đã tạo ra từ tự hoạch của mấy câu ca dao truyền tụng cái bí mật của đao Đồ Long và cây kiếm Ỷ Thiên. Ấy là không kể những võ công dựa trên một nghệ thuật cắm hoa, pha trà, đánh cờ, viết chữ v.v… Một cảnh thác đổ, một thế chim bay, một kiểu rắn bò, một cảnh cọp ngồi, không có gì trong tạo vật giờ lại không thể là một nguồn cho võ học. Và con người võ hiệp của Kim Dung, ngoài võ học, còn có hơn một sở trường. Mấy ai đã quên những tận đồ của Hoàng Dược sư? Vừa là một kỹ sư con người kỳ quặc ấy vừa là một nghệ sĩ tài hoa. Không những được tôn là kiếm khách, Hà Túc Đạo còn là kỳ thánh và cầm thánh nữa. Người ta thường gặp chàng, trong những khu rừng vắng, đánh cờ một mình và gẩy đàn gọi chim ngàn ca múa. Trong khi ấy thì Tạ Tốn vẫn mang sử ra minh chứng cho tác phong bạo ngược của mình, Trương Thuý Sơn vẫn đam mê thư pháp, Đoàn Dự vẫn diễn thuyết về trà hoa, Hàn Tố Tố vẫn bình văn Trang Tử, Anh Cô vẫn bạc đầu nghiên cứu toán pháp, Hoàng Dung vẫn thừa sức thi thơ với các danh tài nước Đại Lý. Nhưng có gì mà Hoàng Dung không biết? Kể cả khoa nấu bếp làm cho Hồng Thất Công thán phục phải truyền thọ võ công cho nàng trước khi để nàng kế nghiệp mình làm bang chủ Cái bang. Và còn tài cải trang của A chu nữa, thoắt cái nàng biến thành bà lão, thoắt cái thành một nam tử hán, và sau cùng đưa nàng đến một cái chết thảm khốc.
Con người võ học càng ngày càng muốn kiêm bác. Tượng trưng cho cái tham vọng bách khoa ấy là Tô Tinh Hà. Không môn học nào là ông không nghiên cứu. Nhưng rốt cuộc trong môn nào sở năng của ông cũng dở dang. Làm thế nào một cá nhân có thể tinh thâm được tất cả những môn học ở trên đời, khi một cái mênh mông của võ học cũng đủ làm người ta chóng mặt? Sự thất bại của Tô Tinh Hà như đã nói lên tâm sự của một thời đại trước cái kiến thức chung càng ngày càng tăng trưởng và phức tạp, nhưng cũng ngày càng tản mác. Trong Tàng Kinh Các những võ học kỳ thư vẫn xếp thành chồng dầy. Ai là người đã thực hiện được sự tổng hợp của cái di sản ấy? Nhưng ngay biết hết được cái di sản ấy cũng chưa có người. Ôi! Vương Ngọc Yến! Nàng ở đâu? Người con gái ấy chưa bao giờ động thủ, nhưng võ công nào cũng thấu triệt. Nàng có thể nói lên từ lịch sử đến những cơ thức và khả năng của một võ công của môn phái một cách tường tận hơn là ngay những người của môn phái ấy. Cao thủ của môn phái này mới xuất thủ thì nàng đã biết là môn võ nào và cao thủ của môn phái kia sẽ dùng môn võ nào để ứng phó. Khi những đối thủ còn mò mẫm chưa biết nên giở những đòn gì cho phải thì nàng đã tiên liệu được tất cả diễn biến của trận đấu. Và mỗi lần nàng mở miệng mách một thế võ cho một cao thủ thượng thừa thì, nghe cái giọng yêu kiều và xa xôi như đến từ một thế giới khác ấy, người ta muốn nghĩ rằng nàng ở giữa cuộc đời như nàng tiên của tri thức thuần tuý. Tiếc sao võ học trong đời nàng chỉ là chuyện phụ. Người con gái ấy cũng như Đoàn Dư, ngoài thình yêu, chẳng coi gì là trọng. Hai người sinh ra để lấy nhau: một người gần như biết tất cả võ công của thiên hạ và một người, nhờ Chu Cáp thần công có sức hút công lực của người khác, mà súc tích trong người nội lực của không biết bao nhiêu anh hùng. Sự tương kết giữa đôi trai gái ấy, sẽ đưa tới kết quả nào? Không ai biết. Nhưng người ta biết rằng cả hai đều coi võ học như một cái gì phù phiếm, và trước thế chia đôi ấy giữa kiến thức và nội lực, người ta không thể không nghĩ rằng cái thời đã hết khi một Vô Kỵ, vừa có Cửu dương Chân công, vừa có Càn Khôn Đại Mã Di Tâm pháp, thâu tóm trong một cái tất cả những có thể của võ học. Sự tổng hợp ấy sau Vô Kỵ, không xảy ra một lần nữa.
Nhưng trong Thiếu Lâm Tự cũng như trong lòng người võ lâm, Tàng Kinh Các vẫn sừng sững làm chứng cho một chí chinh phục không bao giờ nguôi. Vẫn có người giết nhau, và khó hiểu thay! Thí mạng để độc chiếm một võ công như ông và trong nhóm Trường Bạch tam cầm, đã trúng độc sắp chết, mà cứ giữ khư khư ôm lấy con dao Đồ Long không chịu mang ra đổi lấy giải dược, chỉ vì nghĩ rằng trong con dao ấy có giữ một võ học kì thư, vẫn có những Châu Bá Thông, sau khi đã chán tất cả, mà vẫn chưa biết chán võ học bao giờ, vẫn có những Cưu Ma Trí suốt đời đi tìm những võ công lạ và sẵn sàng làm tất cả để đổi lấy tuyệt kỹ mà mình chưa được biết. Nhưng võ học mênh mông. Võ công này chưa thông đạt thì đã xuất hiện võ công khác phức tạp hơn. Khi chưa nắm được cái nguyên lý của võ học thì có biết bao nhiêu cũng là một cái biết dở dang. Các cao thủ phải học từng võ công một cũng như trong Tàng Kinh Các cuốn võ học kỳ thư này xếp lên cuốn võ học kì thư kia. Trí nhớ khi ấy có một ý nghĩa nên thơ khác thường. Nhưng kiến thức vẫn chỉ là một tổng số không bao giờ đóng thành tổng hợp. Ngay Càn Khôn Đại Nã Di Tâm pháp cũng chỉ là một tổng hợp rất lớn chứ chưa có thể nói là đã đạt tới nguyên lý cuối cùng của võ học. Người ta nhớ rằng Vô Kỵ đã luyện thông bảy lớp của Tâm pháp ấy một cách dễ dàng. Nhưng tới lớp thứ tám thì chàng thấy rất khó và gặp những đoạn văn tối nghĩa và chứa những mâu thuẫn không giải quyết được. Hình như người sáng tạo ra Tâm pháp ấy tới một độ nào cũng đã vấp phải một bức tường không thể nào vượt qua. Hay là tại Kim Dung vẫn muốn dành một phần cho thượng đế? Những Cưu Ma Trí, Mộ Dung Bác, Tiêu Viễn Sơn sau một đời khổ luyện tưởng đã đạt tới giới hạn cuối cùng của võ học thì, ngay khi ấy, họ chợt khám phá ra rằng cái tham vọng vượt bậc của họ nghịch lại những võ công tối cao họ luyện được, mà mục đích là dẫn tới cái ý của võ học trong một sự lãng quên và sự tương nghịch ấy đang ngấm ngầm dẫn họ đến chỗ bị tẩu hoả nhập ma. Cảnh tượng ấy mới tuyệt vọng làm sao! Nhưng con người của Kim Dung trong giấc mộng bách khoa, trong ý chỉ sáng tạo, trong tinh thần chinh phục của nó, ngay khi đã bị cái tham vọng của nó quật ngã, không phải đã không nói lên một cái gì vượt bực trong con người. Sự vượt bực ấy tuy nhiên mang sẵn trong nó cái ngòi của thất bại. Con người có một sức sáng tạo không cùng. Nhưng tất cả xảy ra như người ta càng sáng tạo càng xa chân lý, và càng thất lạc trong cảnh tạp loạn của cái kiến thức người ta đã tạo ra. Cho nên người anh hùng đích thực của Kim Dung như Vô Kỵ, thường không phải là người của sáng tạo mà của sự trở về và của sự tìm thấy lại.
Nguồn: Nxb Trình Bầy. Ban chủ trương: Diễm Châu, Trịnh Viết Đức, Lê Văn Hảo, Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Khắc Ngữ, Thế Nguyên, Trần Tuấn Nhậm, Nguyễn Văn Trung, Thảo Trường, Đỗ Long Vân. Thư từ và tác phẩm xin gửi cho: Ô. Thế Nguyên, 80/80 Trần Quang Diệu, Sài Gòn. Phát hành tại: Quán sách số 34 (Trước cửa Pharmacie Diệu Tâm), 117, Lê Lợi, Sài Gòn. In xong ngày 24-12-1967 tại nhà in Trình Bầy, 291 Lý Thái Tổ, Sài Gòn. Ngoài những bản thường còn in thêm 40 bản đặc biệt, không bán, trong đó hai mươi bản đánh số từ Đ.L.V I đến Đ.L.V XX và hai mươi bản từ T.B. I đến T.B. XX. Copyright by Đỗ Long Vân, 1967.
KIỀU - DƯỚI GÓC NHÌN PHẬT GIÁO
KIỀU - DƯỚI GÓC NHÌN PHẬT GIÁO
Doãn Quốc Sỹ
Nói đến Nguyễn Du là nói đến Truyện Kiếu trước hết và dĩ nhiên chúng ta cũng không quên bài Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh của ngườì nữạ. Vậy tốt hơn hết chúng ta hãy “Cảo thơm lần giở trước đèn” để xem đạo Phật đã thể hiện ra sao qua nội dung truyện Kiều.
Chúng ta hãy ôn lại Truyện Kiều từ đầu tới cuối
Vào dịp: Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh
Kiều đã cùng hai em là Vương Quan và Thúy Vân đi chơi xuân, gia nhập vào cảnh:
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm
Và Kiều đã chúng kiến cảnh nấm mồ hương khói vắng tanh của nàng Ðạm Tiên, một ca nhi tài sắc một thời. Và nàng Kiều đã nói:
Ðã không kẻ đoái người hoài
Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương
Rồi đối cảnh sinh tình:
Rút trâm sẵn giắt mái đầu
Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần
Và Ðạm Tiên đã hiển linh để tạ lòng ngưới tri kỷ khiến Kiều càng xúc động:
Lòng thơ lai láng bồì hồi
Gốc cây lại vạch một bài cổ thi.
Kế đó là cuộc gặp gỡ Kim Trọng – (bạn của Vương Quan) – lần đầu tiên:
Chàng Vương quen mặt ra chào
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa
Tuy nhiên với Kiều thì tình ý có tế nhị hơn:
Người quốc sắc kẻ thiên tài
Tình trong như đã mặt ngoaì còn e
Ðêm đó Kiều mơ thấy Ðạm Tiên tới báo cho Kiều hay là:
Một mình lưỡng lự canh chầy
Ðường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh
Vương bà chợt thức giấc hỏi Thúy Kiều vì sao trằn trọc khóc thầm trong lúc canh khuya như vậỵ, và Thúy Kiều đã thành thực thưa với mẹ về việc Ðạm Tiên báo mộng cho biết số kiếp đoạn trường sau này của cuộc đời nàng. Và Vương Bà đã nói với con:
Dạy rằng “Mộng huyễn chắc đâu
Bỗng không mua não chuốc sầu nghĩ nao!
Trở lại với chàng Kim thì lòng chàng cũng
Mành tương phân phất gió đàn
Hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình
Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người
Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi.
Nhưng mấy lần tới trước cổng nhà Kiều thì:
Thâm nghiêm kín cổng cao tường
Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh
Kim Trọng bèn thuê căn nhà của một thương gia ngay sát bên nhà Kiều:
Lấy điều du học hỏi Thuê
Túi đàn cặp sách đề huề dọn sang
Nhưng đã hai tuần trăng qua mà chàng Kim vẫn chưa có dịp đươc thấy mặt nàng Kiềụ
Cho đến một hôm:
Cách tường phải buổi êm trời
Dưới đào dường có bóng ngườì thướt tha
Buông cầm xóc áo vội ra
Hương còn thơm nức người đà vắng tanh
Lần theo tường gấm dạo quanh
Trên đào nhác thấy một cành kim thoa
Kim Trọng đã vội lấy cành kim thoa chờ lúc Thúy Kiều từ trong nhà trở ra tìm mới lên tiếng:
Thoa này bắt được như không
Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về
Và vào dịp Thúy Kiều xin lại cành kim thoa, Kim Trọng mới có dịp bày tỏ nỗi lòng tương tư của chàng và xin được hứa hôn cùng nàng. Thúy Kiều đã đáp lời chàng:
Dù khi lá thắm chỉ hồng
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha
Tuy nhiên chàng Kim đã nhân dịp đó mà cùng nàng Kiều:
Sẵn tay khăn gấm quạt qùy
Với cành thoa ấy tức thì đôi trao
Sau đó nhân ngày sinh nhật ngoại gia, cả nhà đi dự duy có nàng Kiều ở nhà một mình mới có dịp
Cánh hoa sẽ đặng tiếng vàng
Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông
Và Thúy Kiều đã gặp Kim Trọng ngay tại căn phòng thuê của chàng, ngắm bức họa mới vẽ của chàng, và theo lời đề nghị của chàng, Kiều đã:
Tay tiên gió táp mưa xa
Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu
Câu chuyện cứ tiếp diễn như vậy, Kiều đã có lần đánh đàn cho Kim Trọng nghe. Lần đó Kim Trọng đã:
Xem trong âu yếm có chiều lả lơi
Và Kiều đã phải cảnh giác chàng:
Thưa rằng: Ðừng lấy làm chơi
Dễ cho thưa hết một lời đã nao
..
Ra tuồng trên Bộc trong dâu
Thì con người ấy ai cầu làm chi
Rồi sau đó Kim Trọng phải về quê Liêu Dương thọ tang chú
Vương Ngoại bị vu oan, Thúy Kiều lâm cảnh bán mình chuộc tội cho chạ Thế là bắt đầu 15 năm lưu lạc cuả nàng, bán mình cho Mã Giám Sinh – tay sai cuả mụ Tú Bà. Ði một tháng tròn mới tới Lâm Truỵ Kiều đã dùng dao tử vẫn trước Tú Bà. Trong cơn ngất bằn bặt này, Kiều đã gặp lại Ðạm Tiên và được nàng cho hay:
Rỉ Rằng: “Nhân quả dở dang
Ðã toan trả nợ đoạn trường được sao
Số còn nặng nghiệp má đào
Nàng dù muốn quyết trời nào đã cho
Hãy xin hết kiếp liễu bồ
Sông Tiền Ðường sẽ hẹn hò về sau.”
Tới đây chúng ta mới thấy Nguyễn Du đề cập tới nhân quả của nhà Phật, nghiệp cuả Nhà Phật
Trước ý chí cương quyết cuả Kiều, Tú Bà nhượng bộ, và Kiều được ra ở lầu Ngưng Bích. Tại đây Sở Khanh xuất hiện nói là sẽ ra tay tế độ cưú nàng. Nhưng khi Kiều đã ưng theo lời Sở Khanh thì Sở Khanh lẩn trốn và Tú Bà đã bắt Kiều trở lại lầu xanh tại Lâm Truỵ. Nơi đây Kiều gặp được Thúc Sinh - đã có vợ Cả là Hoạn Thư - ra tay tế độ cứu nàng ra khỏi chốn lầu xanh. Cha mẹ Thúc Sinh nổi giận đòi trả lại Kiều về chốn lầu xanh. Nhưng qua lời thú thực cuả Thúc Sinh, phủ Quan được biết Thúy Kiều tài sắc vẹn toàn, có tài làm thơ. Phủ Quan ra lệnh Kiều đề thơ và khi xem bài thơ của Kiều phủ Quan đã phải thốt lên:
Khen rằng giá đáng thịnh đường
Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân
Và Thúc Ông cũng đổi thái độ mà:
Thương vì hạnh trọng vì tài
Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba
Suốt một năm ròng hương lửa, Kiều khuyên Thúc Sinh nên về thăm vợ cả Hoạn Thư:
Xin chàng kíp liệu lại nhà
Trước người đẹp ý sau ta biết tình
Nhưng Thúc Sinh đã không làm theo lời khuyên của nàng
Vì nghĩ rằng “Nào ai có khảo mà mình lại xưng”
Sau khi đã xum họp vợ Chồng với Hoạn Thư, đã tới thời Thúc Sinh trở lại Lâm Truy gặp lại Kiềụ Thúc Sinh đi theo đường bộ, Hoạn Thư sai gia nhân đi đường biển gần hơn tới Lâm Truy trước đó để bắt Kiều về. Trong khi đó với Kiều thì:
Ðêm thu gió lọt song đào
Nửa vành trăng khuyết ba sao trên trời
Nén hương đến trước Phật đài
Nỗi lòng khấn chưả cạn lời vân vân
Dưới hoa dậy lũ ác nhân
Ầm ầm khốc quỷ Kinh thần mọc ra
Kiều bị tưới thuốc mê mang đi, và để khiến mọi người sau đây tưởng lầm là Kiều đã chết bèn bày bàn thờ:
Sẵn thây vô chủ bên sông
Ðem vào để đó lộn sòng ai hay
Quả Nhiên khi đám gia nhân cuả Thúc Ông tới dập tắt lưả cháy thì:
Chạy vào chốn cũ phòng hương
Trong tro thấy một đống xương cháy tàn
Thì ngay tình tin là Kiều đã chết cháỵ Thúc Ông bèn cho thu lượm gom lại, khâm liệm làm tang lễ. Thúc Sinh cũng vừa về tới và dĩ nhiên cũng tin là Kiều đã chết cháỵ. Nhưng gần miếu có một Thầy “Cao tay thông huyền” Thúc Sinh bèn tìm đến hỏi thì được Thầy cho biết: Kiều “Còn nhiều nợ lắm sao đà thác cho”. Hãy đợi một năm nưã thì sẽ biết tin! Và chính vào dịp này Thúc Sinh sẽ lâm vào tình trạng trớ trêu:
Hai bên giáp mặt triền triền
Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn lạ thay
Thúc Sinh không tin lời ông Thầy và nghĩ rằng
Chẳng qua đồng cốt quàng xiên
Người đâu mà lại thấy trên cõi trần
Trong khi đó Khuyển Ưng đã khiêng Kiều xuống thuyền và:
Buồm cao lèo thẳng cánh suyền
Dè chừng huyện tích băng mình vượt sang
Kiêu bị đánh đòn rồi bị chuyển thành thị tì với tên là Hoa Nô.
Bà quản gia thương Kiềụ, Hoạn Thư vào dịp nghe Kiều đàn cũng cảm thương mà nới taỵ
Thế là Kiều không được dip gặp Thúc Sinh ở Lâm Truỵ. Thúc Sinh đành rời Lâm Truy trở về gia hương. Hoạn Thư đón mừng sai Kiều ra chàọ Thúc Sinh biết mình đã mắc mưu ai rồị. Vị trí Kiều với Thúc Sinh nay đã biến đổi thành con ở và chủ nhà. Và khi Kiều bị Hoạn Thư bắt gãy đàn thì Hoạn Thư và Thúc Sinh ở hai tâm cảnh khác nhau:
Cũng trong một tiếng tơ đồng
Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm.
Sau đó Hoạn Thư nguôi ngoai cơn ghen và theo lời Thúc Sinh cho Kiều tu tại Quan Âm Các ở ngay vườn nhà với pháp danh Trạc Tuyền:
Áo xanh đổi lấy Cà Sa
Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền
Nhân dịp Hoạn Thư về nhà vấn an cha mẹ, Thúc Sinh vội tìm gặp Kiều, khuyên Kiều hãy nên cao chạy xa bay:
Liệu mà cao chạy xa bay
Ái ân ta có ngần này mà thôi
Bây giờ kẻ ngược người xuôi
Biết bao giờ lại nối lời nước non
Dẫu rằng sông cạn đá mòn
Con tằm đến thác cũng còn vương tơ
Vừa lúc đó Hoạn Thư xuất hiện, nói là:
Tìm hoa quá bước xem người viết kinh
Nhưng sau đó hỏi hoa tì Kiều được hoa tì cho hay:
Hoa rằng bà đến đã lâu
Nhón chân đứng nép độ đâu nửa giờ
Do đó Kiều hốt hoảng tự nhủ thầm:
Thân ta ta phải lo âu
Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này
Và Kiều đã trốn khỏi Quan Âm Các vào khoảng canh ba mang theo chuông vàng khánh bạc để phòng thân. Ði miệt vừa rạng sáng thì:
Chuà đâu trông thấy nẻo xa
Rành rành Chiêu Ẩn Am ba chữ bài
Tại dây Kiều đã gặp Sư Trưởng Giác Duyên nói thác là:
Tiểu thiền quê ở Bắc Kinh
Quy sư quy Phật tu hành bấy lâu
Bản sư rồi cũng đến sau
Dạy đưa pháp bảo sang hầu sư huynh
Rày vâng diện hiến rành rành
Chuông vàng khánh bạc bên mình giở ra
Trong thời gian được lưu trú lại chùa Kiều đã:
Kệ kinh câu cũ thuộc lòng
Hương đèn việc trước trai phòng quen tay
Sớm khuya lá bối phiến mây
Ngọn đèn khuê nguyệt tiếng chày nện sương
Thấy nàng thông tuệ khác thường
Sư càng nể mặt nàng càng vững chân
Chẳng may có người tới thăm chùa nói với sư trưởng “chuông vàng khánh bạc sao giống loại chuông vàng khánh bạc đã mất cắp tại chùa nhà Hoạn Thư.
Chờ đêm thanh vắng Giác Duyên hỏi Kiều, Kiều thực tình thưa lại sự tình. Giác Duyên khuyên Kiều hãy sang ở tạm nhà Bạc Bà – một Phật tử thường hay lui tới chùa nàỵ
“Ai ngờ Bạc Bà cùng với Tú Bà đồng môn”. Bạc Bà khuyên Kiều hãy lấy cháu mình là Bạc Hạnh tính tình thực thà, có cửa hàng buôn bán ở Châu Thai, 2 người lấy nhau rồi sẽ trở về Châu Thaị
Ngay phút đầu gặp mặt Kiều đã sinh nghi:
Thiếp như con én lạc đàn
Phải cung rày đã sợ làm cây cong
Quả thực sau này vỡ lẽ: Bạc Hạnh cũng là người buôn người và y đã bán Kiều vào lầu xanh. May thay lần này Kiều gặp được Từ Hải và được Từ Hải chuộc ra khỏi lầu xanh để:
Trai anh hùng gặp gái thuyền quyên
Phỉ Nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng
Nhưng:
Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Thế là Từ Hải lại ra đi mong sớm thực hiện chí lớn. Ở lại một mình Kiều nhớ nhà, nhớ các em, nhớ chàng Kim.
Từ Hải đã thành công. Binh tướng cuả Từ Hải tới đón Kiều để làm lễ vu quy. Ðây là dịp để Kiều trả ân báo oán. Trước hết Kiều báo ân Thúc Sinh, Giác Duyên…sau đó báo oán: Bạc Hạnh , Bạc Bà, Sở Khanh, Khuyển, Ưng, Tú Bà, Mã Giám Sinh.
Giác Duyên – Vì trước đó đã được gặp sư Tam Hợp có tài tiên tri nên khi từ biệt Thúy Kiều đã khẳng định với Kiều là trong 5 năm nữa sẽ lại gặp nhaụ.
Hồ Tôn Hiến thuyết Từ Hải hãy quy hàng triều đình để được hưởng công danh phú quý. Từ Hải không muốn hàng, nhưng Kiều nhẹ dạ cả tin cố thuyết phục Từ Hải. Vì nghe theo Kiều, Từ Hải đã mắc mưu Hồ Tôn Hiến. Từ Hải chết đứng vì uất ức. Kiều gắng xin Hồ Tôn Hiến một mảnh đất để chôn Từ Hải:
Xin cho tiện thổ một đời
Gọi là đắp điếm lấy người tử sinh
Tối hôm đó vào lúc tiệc mừng chiến thắng Hồ Tôn Hiến đã ép Kiều phải vào đánh đàn:
Trong quân mở tiệc hạ công
Xôn xao tơ trúc hội đồng quân quan
Bắt nàng thị yến dưới màn
Dở say lại ép cung đàn nhặt tâu
Một cung gió thảm mưa sầu
Bốn dây nhỏ Máu năm đầu ngón tay
Ve ngâm vượn hót nào hay
Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu
Và Hồ hỏi Kiều có muốn làm lại cuộc đời kết duyên cầm sắc với ai không? Kiều đã trả lời:
Thưa rằng: chút phận lạc loài
Trong mình nghĩ đã có người thác oan
Còn chi nữa cánh hoa tàn
Tơ lòng đã đứt dây đàn Tiểu Lâm
Rộng thương còn mảnh hồng quần
Hơi tàn đuốc thấy gốc phần là may
Ðến lúc rạng ngày Hồ Công hối hận việc ép Kiều đánh đàn cho mình nghe hôm trước:
Nghĩ mình phương diện quốc gia
Quan trên nhắm xuống người ta trông vào
Bèn gán ép Kiều cho một người thổ quan:
Kiệu hoa áp thẳng xuống thuyền
Và:
Triều đâu nổi tiếng đùng đùng
Hỏi ra mới biết rằng sông Tiền Ðường
Kiều sực nhớ lại lời Ðạm Tiên xưa đã nói với mình trong mộng:
Sông Tiền Ðường sẽ hẹn hò về sau
Thế là Kiều quyết định ngay:
Thôi thì 1 thác cho rồi
Tấm lòng phó mặc trên trời dưới sông
Trông vời non nước mênh mông
Ðem mình gieo xuống giữa dòng Trường Giang
Thổ quan theo vớt vội vàng
Thì đà đắm ngọc chìm hương mất rồi
Trở lại với Giác Duyên, từ thuở giã biệt Kiều để tiếp tục trên đường vân du, Sư bà đã có dịp gặp Tam Hợp đạo cô bèn hỏi Ðạo cô về trường hợp của Kiều:
Người sao hiếu nghĩa đủ đường
Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi
Sư bà được đạo cô cho hay là:
Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành
Lại mang lấy một chữ tình
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong
Khi thầy Giác Duyên nghe nói rụng rời đạo cô bèn trấn an ngay:
Sư rằng song chẳng hề chi
Nghiệp duyên cân lại nhắc đi còn nhiều
Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều
Mắc điều tình ái khỏi đường tà dâm
Lấy tình thâm trả nghĩa thâm
Bán mình đã động hiếu tâm đến trời
Hại một người cứu muôn người
Biết đường khinh trọng biết lời phải chăng
Thửa công đức ấy ai bằng
Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi
Như vậy là Kiều đã “đức năng thắng số”. Ðạo cô khuyên:
Giác Duyên dù nhớ nghĩa nhau
Tiền đường thả một bè lau rước người
Giác Duyên làm đúng theo lời chỉ dẫn của Tam Hợp đạo cô
Vì vậy đã cứu được Thúy Kiều khi nàng gieo mình xuống sông Tiền Ðường và mời Kiều về thảo lư ở với mình:
Một nhà chung chạ sớm trưa
Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng
Bốn bề bát ngát mênh mông
Triều dâng hôm sớm mây lồng trước sau
Trở về chuyện chàng Kim. Chàng ở Liêu Dương nửa năm, khi chàng trở về chốn cũ mới hay Kiều đã bán mình chuộc tội cho cha Vương Quan với Thúy Vân sống nghèo túng, may thuê viết mướn kiếm ăn lần hồi. Ông bà Viên ngoại còn sống. Thấy chàng Kim thương nhớ Kiếu, Vương Ông quyết định vội vàng sắm sưả chọn ngày để:
Duyên Vân sớm đã se dây cho chàng
Sau đó Vương Quan, Kim Trọng thi đỗ. Kim Trọng đi nhậm chức tại Lâm Truy, gặp Thúc Sinh mới hay về chuyện Từ Hải chết đứng. Và Kim Trọng quyết định đi tìm Kiều:
Rắp mong treo ấn từ quan
Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng pha
Dấn mình trong áng can qua
Vào sinh ra tử họa là có nhau
Vừa lúc đó có chiếu vua cải nhận Kim Trọng tới Nam Bình, Vương Quan tới Phú Dương. Hai chàng cùng chuẩn bị lên đường thì vưà hay thế giặc đã tan:
Sóng êm Phúc Kiến lửa tàn Chiết Giang
Và:
Ðược tin Kim mới rủ Vương
Tiện đường cùng lại tìm nàng sau xưa
Tới Hàng Châu tìm hỏi tin tức mới hay chuyện Từ Hải chết đứng, Thúy Kiều bị ép duyên cho thổ quan đã trầm mình xuông sông Tiền Ðường. Thật tội nghiệp: cả nhà vinh hiển riêng oan một nàng! Hai chàng bèn làm lễ chiêu hồn giải oan ngay bên bờ sông Tiền Ðường thì may sao:
Cơ duyên đâu bỗng lạ Sao
Giác Duyên đâu bỗng tìm vào đến nơi
Vì gặp Giác Duyên mọi người mới biết Thúy Kiều còn sống. Kiều gặp đủ mặt người thân:
Tưởng bây giờ là bao giờ
Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao
Nhưng khi Vương Ông bảo Kiều hãy theo mọi người cùng về thì Kiều đã thưa lại:
Nàng rằng: Chút phận hoa rơi
Nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay
Tính rằng mặt nước chân mây
Lòng nào còn tưởng có rày nữa không
Ðược rày tái thế tương phùng
Khát khao đã thỏa tấm lòng lâu nay
Ðã đem mình bỏ am mây
Tuổi này gởi với cỏ cây cũng vừa
Mùi thiền đã bén muối dưa
Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng
Sự đời đã tắt lửa lòng
Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi
Vương Ông vẫn khuyên Kiều hãy quay về xum họp, vì chấp kinh cũng phải tòng quyền rồi:
Ðộ Sinh nhờ đức cao dày
Lập am rồi sẽ rước Thầy ở chung
Và Kiều đã:
Nghe lời nàng phải chiều lòng
Giã sư giã cảnh đều cùng bước ra
Về tới nhà trong bữa tiệc xum họp nàng Vân tuyên bố là xưa vì nạn nhà mà mối duyên của chị với chàng Kim nàng phải đứng ra thay chị nhưng:
Bây giờ gương vỡ lại lành
Khuôn thiêng lừa lọc đã đành có nơi
Còn duyên may lại còn người
Còn vầng trăng bạc còn lời nguyền xưa
Kiều gạt phắt lời em, vì nghĩ thân mình dãi gió dầm mưa đã nhiều
Chàng Kim khăng khăng góp ý với Kiều:
Một lời đã chót thâm giao
Dưới dày có đất trên cao có trời
Dẫu rằng vật đổi sao dời
Tử Sinh cũng giữ lấy lời tử Sinh
Kiều vẫn cương quyết khước từ và thưa thẳng với chàng Kim:
Thiếp từ ngộ biến đến giờ
Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa
Bấy chầy gió táp mưa sa
Mấy trăng cũng khuyết mấy hoa cũng tàn
Và nàng đề nghị hãy từ tình duyên đổi sang tình bạn:
Chàng dù nghĩ đến tình xa
Ðem duyên cầm sắt ra duyên cầm kỳ
Chàng Kim vẫn cương quyết nói với nàng là chữ trinh kia cũng có ba bảy đường:
Như nàng lấy hiếu làm trinh
Bụi nào cho đục được mình ấy vay
Trời còn để có hôm nay
Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời
Hoa tàn mà lại thêm tươi
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa
Cả Vương Ông, Vuơng Bà cùng chàng Kim dồn Thúy Kiều vào thế hết lời khôn lẽ chối lời
Cúi đầu nàng những ngắn dài thở than
Và nàng chịu làm lễ đủ đôi với chàng.
Nhưng đêm hôm đó trong phòng chỉ còn riêng hai người nàng mới thỏ thẻ nói lại với chàng lý lẽ của mình. Em Vân đã thay nàng trả nợ tình xưa, còn mình thì:
Chữ trinh còn một chút này
Chẳng cầm cho vững lại giày cho tan
Còn nhiều ân ái chan chan
Hay gì vẫy cánh hoa tàn mà chơi
Sau cùng Kim Trọng hoàn toàn đồng ý với nàng đem duyên cầm sắt ra duyên cầm kỳ. Chàng cũng khẳng định là
Bấy lâu đáy bể mò kim
Là nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa
Ai ngờ lại họp một nhà
Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm
Và Kiều đã sửa áo cài trâm khấn đầu lạy tạ Chàng Kim:
Thân này gạn đục khơi trong
Là nhờ quân tử khác lòng người ta
Sau đó Kim Trọng lại yêu cầu cho nghe lại tiếng đàn xưa của nàng. Nàng thuận tình chiều ý chàng nhưng lần này thì
Khúc đâu đầm ấm dương hòa
Ấy là hồ điệp hay là Tráng sinh
Khúc đâu êm ái xuân tình
Ấy hồn Thục đế hay mình Ðỗ Quyên
Trông sao châu nhỏ duềnh quyên
Ấm sao hạt ngọc Lam Ðiền mới đông
Thúy Kiều cũng không quên
Nhớ lời lập một am mây
Khiến người thân tín rước Thầy Giác Duyên
Nhưng:
Ðến nơi đóng cửa cài then
Rêu trùm kẽ ngạch cỏ lên mái nhà
Sư đà hái thuốc phương xa
Mây bay hạc lánh biết là tìm đâu
Nặng vì chút nghĩa bấy lâu
Trên am cứ giữ hương dầu hôm mai
Thúy Kiều tiếp tục cuộc sống thảnh thơi hạnh phúc của kẻ đã trả nợ xong nghiệp cũ:
Một nhà phúc lộc gồm hai
Nghìn năm dằng dặc quan giai lần lần
Thừa ai chẳng hết nàng Vân
Một cây cù mộc một sân quế hòe
Và Nguyễn Du đã kết thúc Truyện Kiều với những lời thơ đề cập tới chữ tài, chữ mệnh , chữ tâm, thiện căn và nghiệp nơi con người:
Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
Có đâu thiên vị người nào
Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai
Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần
Ðã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần xa
Thiện tâm ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
Lời quê chắp nhặt dông dài
Mua vui cũng được một vài trống canh
Như vậy là đọc lại từ đầu đến cuối Truyện Kiều, chúng ta thấy cụ Tiên Ðiền đã 6 lần đề cập đến đạo Phật hoặc qua nhân vật hoặc qua tình tiết truyện.
Lần thứ nhất: Khi Kiều dùng dao tự vẫn trước Tú Bà, trong cơn ngất bằn bặt Kiều đã được Ðạm Tiên báo cho hay:
Rỉ Rằng: Nhân quả dở dang
Ðã toan trốn nợ đoạn truờng được sao
Số còn nặng nợ má đào
Người dù muốn quyết trời nào đã cho
Hãy xin hết kiếp liễu bồ
Sông Tiền Ðường sẽ hẹn hò về sau
Như vậy là lần thư nhất này qua lời báo mộng của Ðạm Tiên , Nguyễn Du đã đề cập đến luật nhân quả và chữ nghiệp cuả nhà Phật
Lần thứ hai: Khi biết Thúc Sinh “vườn mới thêm hoa” (gian díu với Thúy Kiều), Hoạn Thư đã:
Lửa tâm càng dập càng nồng
Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa
Hai chữ lửa tâm trên đây cũng đượm phần giáo lý cuả Nhà Phật
Lần thứ ba: Khi Thúc Sinh trở lại Lâm Truy bằng đường bộ để gặp lại Thúy Kiều thì Hoạn Thư đã sai lũ gia nhân đi bằng đuờng biển gần hơn bắt Thúy Kiều
Trong khi đó với Kiều khi chưa bị lũ gia nhân cuả Hoạn Thư tới bắt thì
Ðêm thu gió lọt song đào
Nửa vành trăng khuyết ba sao trên trời
Nén hương đến trước Phật đài
Nỗi lòng khấn chửa cạn lời vân vân
Theo lời bàn xưa thì hình ảnh “nửa vành trăng khuyết ba sao trên trời cũng là gián tiếp nhắc đến chữ Tâm của đạo Phật
Lần thứ tư: Khi Kiều đã bị bán mình cho Mã Giám Sinh tay sai của Mụ Tú Bà, tới đây Nguyễn Du qua lời Ðạm Tiên nói với Thúy Kiều đã đề cập tới Luật nhân quả và chữ Nghiệp trong đạo Phật:
Rỉ Rằng: Nhân quả dở dang
Ðã toan trả nợ đoạn trường được sao
Số còn nặng nghiệp má đào
Nàng đà muốn quyết trời nào đã cho
Lần thứ năm: Khi Kiều trầm mình xuống sông Tiền Ðường nàng được sư bà Giác Duyên cứu sống và Kiều đã theo về thảo lư chung sống với sư bà.
Lần thứ sáu: Với sáu câu sau cùng cuả Truyên Kiều cụ Nguyễn Du đã dùng đến chữ Nghiệp và chữ Tâm cuả Nhà Phật để hàm ý khuyên chúng ta một nếp sống tâm linh lành mạnh:
Ðã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
Lời quê chắp nhặt dông dài
Mua vui cũng được một vài trống canh.
Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni,
TVHS
Doãn Quốc Sỹ
Nói đến Nguyễn Du là nói đến Truyện Kiếu trước hết và dĩ nhiên chúng ta cũng không quên bài Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh của ngườì nữạ. Vậy tốt hơn hết chúng ta hãy “Cảo thơm lần giở trước đèn” để xem đạo Phật đã thể hiện ra sao qua nội dung truyện Kiều.
Chúng ta hãy ôn lại Truyện Kiều từ đầu tới cuối
Vào dịp: Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh
Kiều đã cùng hai em là Vương Quan và Thúy Vân đi chơi xuân, gia nhập vào cảnh:
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm
Và Kiều đã chúng kiến cảnh nấm mồ hương khói vắng tanh của nàng Ðạm Tiên, một ca nhi tài sắc một thời. Và nàng Kiều đã nói:
Ðã không kẻ đoái người hoài
Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương
Rồi đối cảnh sinh tình:
Rút trâm sẵn giắt mái đầu
Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần
Và Ðạm Tiên đã hiển linh để tạ lòng ngưới tri kỷ khiến Kiều càng xúc động:
Lòng thơ lai láng bồì hồi
Gốc cây lại vạch một bài cổ thi.
Kế đó là cuộc gặp gỡ Kim Trọng – (bạn của Vương Quan) – lần đầu tiên:
Chàng Vương quen mặt ra chào
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa
Tuy nhiên với Kiều thì tình ý có tế nhị hơn:
Người quốc sắc kẻ thiên tài
Tình trong như đã mặt ngoaì còn e
Ðêm đó Kiều mơ thấy Ðạm Tiên tới báo cho Kiều hay là:
Một mình lưỡng lự canh chầy
Ðường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh
Vương bà chợt thức giấc hỏi Thúy Kiều vì sao trằn trọc khóc thầm trong lúc canh khuya như vậỵ, và Thúy Kiều đã thành thực thưa với mẹ về việc Ðạm Tiên báo mộng cho biết số kiếp đoạn trường sau này của cuộc đời nàng. Và Vương Bà đã nói với con:
Dạy rằng “Mộng huyễn chắc đâu
Bỗng không mua não chuốc sầu nghĩ nao!
Trở lại với chàng Kim thì lòng chàng cũng
Mành tương phân phất gió đàn
Hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình
Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người
Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi.
Nhưng mấy lần tới trước cổng nhà Kiều thì:
Thâm nghiêm kín cổng cao tường
Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh
Kim Trọng bèn thuê căn nhà của một thương gia ngay sát bên nhà Kiều:
Lấy điều du học hỏi Thuê
Túi đàn cặp sách đề huề dọn sang
Nhưng đã hai tuần trăng qua mà chàng Kim vẫn chưa có dịp đươc thấy mặt nàng Kiềụ
Cho đến một hôm:
Cách tường phải buổi êm trời
Dưới đào dường có bóng ngườì thướt tha
Buông cầm xóc áo vội ra
Hương còn thơm nức người đà vắng tanh
Lần theo tường gấm dạo quanh
Trên đào nhác thấy một cành kim thoa
Kim Trọng đã vội lấy cành kim thoa chờ lúc Thúy Kiều từ trong nhà trở ra tìm mới lên tiếng:
Thoa này bắt được như không
Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về
Và vào dịp Thúy Kiều xin lại cành kim thoa, Kim Trọng mới có dịp bày tỏ nỗi lòng tương tư của chàng và xin được hứa hôn cùng nàng. Thúy Kiều đã đáp lời chàng:
Dù khi lá thắm chỉ hồng
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha
Tuy nhiên chàng Kim đã nhân dịp đó mà cùng nàng Kiều:
Sẵn tay khăn gấm quạt qùy
Với cành thoa ấy tức thì đôi trao
Sau đó nhân ngày sinh nhật ngoại gia, cả nhà đi dự duy có nàng Kiều ở nhà một mình mới có dịp
Cánh hoa sẽ đặng tiếng vàng
Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông
Và Thúy Kiều đã gặp Kim Trọng ngay tại căn phòng thuê của chàng, ngắm bức họa mới vẽ của chàng, và theo lời đề nghị của chàng, Kiều đã:
Tay tiên gió táp mưa xa
Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu
Câu chuyện cứ tiếp diễn như vậy, Kiều đã có lần đánh đàn cho Kim Trọng nghe. Lần đó Kim Trọng đã:
Xem trong âu yếm có chiều lả lơi
Và Kiều đã phải cảnh giác chàng:
Thưa rằng: Ðừng lấy làm chơi
Dễ cho thưa hết một lời đã nao
..
Ra tuồng trên Bộc trong dâu
Thì con người ấy ai cầu làm chi
Rồi sau đó Kim Trọng phải về quê Liêu Dương thọ tang chú
Vương Ngoại bị vu oan, Thúy Kiều lâm cảnh bán mình chuộc tội cho chạ Thế là bắt đầu 15 năm lưu lạc cuả nàng, bán mình cho Mã Giám Sinh – tay sai cuả mụ Tú Bà. Ði một tháng tròn mới tới Lâm Truỵ Kiều đã dùng dao tử vẫn trước Tú Bà. Trong cơn ngất bằn bặt này, Kiều đã gặp lại Ðạm Tiên và được nàng cho hay:
Rỉ Rằng: “Nhân quả dở dang
Ðã toan trả nợ đoạn trường được sao
Số còn nặng nghiệp má đào
Nàng dù muốn quyết trời nào đã cho
Hãy xin hết kiếp liễu bồ
Sông Tiền Ðường sẽ hẹn hò về sau.”
Tới đây chúng ta mới thấy Nguyễn Du đề cập tới nhân quả của nhà Phật, nghiệp cuả Nhà Phật
Trước ý chí cương quyết cuả Kiều, Tú Bà nhượng bộ, và Kiều được ra ở lầu Ngưng Bích. Tại đây Sở Khanh xuất hiện nói là sẽ ra tay tế độ cưú nàng. Nhưng khi Kiều đã ưng theo lời Sở Khanh thì Sở Khanh lẩn trốn và Tú Bà đã bắt Kiều trở lại lầu xanh tại Lâm Truỵ. Nơi đây Kiều gặp được Thúc Sinh - đã có vợ Cả là Hoạn Thư - ra tay tế độ cứu nàng ra khỏi chốn lầu xanh. Cha mẹ Thúc Sinh nổi giận đòi trả lại Kiều về chốn lầu xanh. Nhưng qua lời thú thực cuả Thúc Sinh, phủ Quan được biết Thúy Kiều tài sắc vẹn toàn, có tài làm thơ. Phủ Quan ra lệnh Kiều đề thơ và khi xem bài thơ của Kiều phủ Quan đã phải thốt lên:
Khen rằng giá đáng thịnh đường
Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân
Và Thúc Ông cũng đổi thái độ mà:
Thương vì hạnh trọng vì tài
Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba
Suốt một năm ròng hương lửa, Kiều khuyên Thúc Sinh nên về thăm vợ cả Hoạn Thư:
Xin chàng kíp liệu lại nhà
Trước người đẹp ý sau ta biết tình
Nhưng Thúc Sinh đã không làm theo lời khuyên của nàng
Vì nghĩ rằng “Nào ai có khảo mà mình lại xưng”
Sau khi đã xum họp vợ Chồng với Hoạn Thư, đã tới thời Thúc Sinh trở lại Lâm Truy gặp lại Kiềụ Thúc Sinh đi theo đường bộ, Hoạn Thư sai gia nhân đi đường biển gần hơn tới Lâm Truy trước đó để bắt Kiều về. Trong khi đó với Kiều thì:
Ðêm thu gió lọt song đào
Nửa vành trăng khuyết ba sao trên trời
Nén hương đến trước Phật đài
Nỗi lòng khấn chưả cạn lời vân vân
Dưới hoa dậy lũ ác nhân
Ầm ầm khốc quỷ Kinh thần mọc ra
Kiều bị tưới thuốc mê mang đi, và để khiến mọi người sau đây tưởng lầm là Kiều đã chết bèn bày bàn thờ:
Sẵn thây vô chủ bên sông
Ðem vào để đó lộn sòng ai hay
Quả Nhiên khi đám gia nhân cuả Thúc Ông tới dập tắt lưả cháy thì:
Chạy vào chốn cũ phòng hương
Trong tro thấy một đống xương cháy tàn
Thì ngay tình tin là Kiều đã chết cháỵ Thúc Ông bèn cho thu lượm gom lại, khâm liệm làm tang lễ. Thúc Sinh cũng vừa về tới và dĩ nhiên cũng tin là Kiều đã chết cháỵ. Nhưng gần miếu có một Thầy “Cao tay thông huyền” Thúc Sinh bèn tìm đến hỏi thì được Thầy cho biết: Kiều “Còn nhiều nợ lắm sao đà thác cho”. Hãy đợi một năm nưã thì sẽ biết tin! Và chính vào dịp này Thúc Sinh sẽ lâm vào tình trạng trớ trêu:
Hai bên giáp mặt triền triền
Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn lạ thay
Thúc Sinh không tin lời ông Thầy và nghĩ rằng
Chẳng qua đồng cốt quàng xiên
Người đâu mà lại thấy trên cõi trần
Trong khi đó Khuyển Ưng đã khiêng Kiều xuống thuyền và:
Buồm cao lèo thẳng cánh suyền
Dè chừng huyện tích băng mình vượt sang
Kiêu bị đánh đòn rồi bị chuyển thành thị tì với tên là Hoa Nô.
Bà quản gia thương Kiềụ, Hoạn Thư vào dịp nghe Kiều đàn cũng cảm thương mà nới taỵ
Thế là Kiều không được dip gặp Thúc Sinh ở Lâm Truỵ. Thúc Sinh đành rời Lâm Truy trở về gia hương. Hoạn Thư đón mừng sai Kiều ra chàọ Thúc Sinh biết mình đã mắc mưu ai rồị. Vị trí Kiều với Thúc Sinh nay đã biến đổi thành con ở và chủ nhà. Và khi Kiều bị Hoạn Thư bắt gãy đàn thì Hoạn Thư và Thúc Sinh ở hai tâm cảnh khác nhau:
Cũng trong một tiếng tơ đồng
Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm.
Sau đó Hoạn Thư nguôi ngoai cơn ghen và theo lời Thúc Sinh cho Kiều tu tại Quan Âm Các ở ngay vườn nhà với pháp danh Trạc Tuyền:
Áo xanh đổi lấy Cà Sa
Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền
Nhân dịp Hoạn Thư về nhà vấn an cha mẹ, Thúc Sinh vội tìm gặp Kiều, khuyên Kiều hãy nên cao chạy xa bay:
Liệu mà cao chạy xa bay
Ái ân ta có ngần này mà thôi
Bây giờ kẻ ngược người xuôi
Biết bao giờ lại nối lời nước non
Dẫu rằng sông cạn đá mòn
Con tằm đến thác cũng còn vương tơ
Vừa lúc đó Hoạn Thư xuất hiện, nói là:
Tìm hoa quá bước xem người viết kinh
Nhưng sau đó hỏi hoa tì Kiều được hoa tì cho hay:
Hoa rằng bà đến đã lâu
Nhón chân đứng nép độ đâu nửa giờ
Do đó Kiều hốt hoảng tự nhủ thầm:
Thân ta ta phải lo âu
Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này
Và Kiều đã trốn khỏi Quan Âm Các vào khoảng canh ba mang theo chuông vàng khánh bạc để phòng thân. Ði miệt vừa rạng sáng thì:
Chuà đâu trông thấy nẻo xa
Rành rành Chiêu Ẩn Am ba chữ bài
Tại dây Kiều đã gặp Sư Trưởng Giác Duyên nói thác là:
Tiểu thiền quê ở Bắc Kinh
Quy sư quy Phật tu hành bấy lâu
Bản sư rồi cũng đến sau
Dạy đưa pháp bảo sang hầu sư huynh
Rày vâng diện hiến rành rành
Chuông vàng khánh bạc bên mình giở ra
Trong thời gian được lưu trú lại chùa Kiều đã:
Kệ kinh câu cũ thuộc lòng
Hương đèn việc trước trai phòng quen tay
Sớm khuya lá bối phiến mây
Ngọn đèn khuê nguyệt tiếng chày nện sương
Thấy nàng thông tuệ khác thường
Sư càng nể mặt nàng càng vững chân
Chẳng may có người tới thăm chùa nói với sư trưởng “chuông vàng khánh bạc sao giống loại chuông vàng khánh bạc đã mất cắp tại chùa nhà Hoạn Thư.
Chờ đêm thanh vắng Giác Duyên hỏi Kiều, Kiều thực tình thưa lại sự tình. Giác Duyên khuyên Kiều hãy sang ở tạm nhà Bạc Bà – một Phật tử thường hay lui tới chùa nàỵ
“Ai ngờ Bạc Bà cùng với Tú Bà đồng môn”. Bạc Bà khuyên Kiều hãy lấy cháu mình là Bạc Hạnh tính tình thực thà, có cửa hàng buôn bán ở Châu Thai, 2 người lấy nhau rồi sẽ trở về Châu Thaị
Ngay phút đầu gặp mặt Kiều đã sinh nghi:
Thiếp như con én lạc đàn
Phải cung rày đã sợ làm cây cong
Quả thực sau này vỡ lẽ: Bạc Hạnh cũng là người buôn người và y đã bán Kiều vào lầu xanh. May thay lần này Kiều gặp được Từ Hải và được Từ Hải chuộc ra khỏi lầu xanh để:
Trai anh hùng gặp gái thuyền quyên
Phỉ Nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng
Nhưng:
Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Thế là Từ Hải lại ra đi mong sớm thực hiện chí lớn. Ở lại một mình Kiều nhớ nhà, nhớ các em, nhớ chàng Kim.
Từ Hải đã thành công. Binh tướng cuả Từ Hải tới đón Kiều để làm lễ vu quy. Ðây là dịp để Kiều trả ân báo oán. Trước hết Kiều báo ân Thúc Sinh, Giác Duyên…sau đó báo oán: Bạc Hạnh , Bạc Bà, Sở Khanh, Khuyển, Ưng, Tú Bà, Mã Giám Sinh.
Giác Duyên – Vì trước đó đã được gặp sư Tam Hợp có tài tiên tri nên khi từ biệt Thúy Kiều đã khẳng định với Kiều là trong 5 năm nữa sẽ lại gặp nhaụ.
Hồ Tôn Hiến thuyết Từ Hải hãy quy hàng triều đình để được hưởng công danh phú quý. Từ Hải không muốn hàng, nhưng Kiều nhẹ dạ cả tin cố thuyết phục Từ Hải. Vì nghe theo Kiều, Từ Hải đã mắc mưu Hồ Tôn Hiến. Từ Hải chết đứng vì uất ức. Kiều gắng xin Hồ Tôn Hiến một mảnh đất để chôn Từ Hải:
Xin cho tiện thổ một đời
Gọi là đắp điếm lấy người tử sinh
Tối hôm đó vào lúc tiệc mừng chiến thắng Hồ Tôn Hiến đã ép Kiều phải vào đánh đàn:
Trong quân mở tiệc hạ công
Xôn xao tơ trúc hội đồng quân quan
Bắt nàng thị yến dưới màn
Dở say lại ép cung đàn nhặt tâu
Một cung gió thảm mưa sầu
Bốn dây nhỏ Máu năm đầu ngón tay
Ve ngâm vượn hót nào hay
Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu
Và Hồ hỏi Kiều có muốn làm lại cuộc đời kết duyên cầm sắc với ai không? Kiều đã trả lời:
Thưa rằng: chút phận lạc loài
Trong mình nghĩ đã có người thác oan
Còn chi nữa cánh hoa tàn
Tơ lòng đã đứt dây đàn Tiểu Lâm
Rộng thương còn mảnh hồng quần
Hơi tàn đuốc thấy gốc phần là may
Ðến lúc rạng ngày Hồ Công hối hận việc ép Kiều đánh đàn cho mình nghe hôm trước:
Nghĩ mình phương diện quốc gia
Quan trên nhắm xuống người ta trông vào
Bèn gán ép Kiều cho một người thổ quan:
Kiệu hoa áp thẳng xuống thuyền
Và:
Triều đâu nổi tiếng đùng đùng
Hỏi ra mới biết rằng sông Tiền Ðường
Kiều sực nhớ lại lời Ðạm Tiên xưa đã nói với mình trong mộng:
Sông Tiền Ðường sẽ hẹn hò về sau
Thế là Kiều quyết định ngay:
Thôi thì 1 thác cho rồi
Tấm lòng phó mặc trên trời dưới sông
Trông vời non nước mênh mông
Ðem mình gieo xuống giữa dòng Trường Giang
Thổ quan theo vớt vội vàng
Thì đà đắm ngọc chìm hương mất rồi
Trở lại với Giác Duyên, từ thuở giã biệt Kiều để tiếp tục trên đường vân du, Sư bà đã có dịp gặp Tam Hợp đạo cô bèn hỏi Ðạo cô về trường hợp của Kiều:
Người sao hiếu nghĩa đủ đường
Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi
Sư bà được đạo cô cho hay là:
Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành
Lại mang lấy một chữ tình
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong
Khi thầy Giác Duyên nghe nói rụng rời đạo cô bèn trấn an ngay:
Sư rằng song chẳng hề chi
Nghiệp duyên cân lại nhắc đi còn nhiều
Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều
Mắc điều tình ái khỏi đường tà dâm
Lấy tình thâm trả nghĩa thâm
Bán mình đã động hiếu tâm đến trời
Hại một người cứu muôn người
Biết đường khinh trọng biết lời phải chăng
Thửa công đức ấy ai bằng
Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi
Như vậy là Kiều đã “đức năng thắng số”. Ðạo cô khuyên:
Giác Duyên dù nhớ nghĩa nhau
Tiền đường thả một bè lau rước người
Giác Duyên làm đúng theo lời chỉ dẫn của Tam Hợp đạo cô
Vì vậy đã cứu được Thúy Kiều khi nàng gieo mình xuống sông Tiền Ðường và mời Kiều về thảo lư ở với mình:
Một nhà chung chạ sớm trưa
Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng
Bốn bề bát ngát mênh mông
Triều dâng hôm sớm mây lồng trước sau
Trở về chuyện chàng Kim. Chàng ở Liêu Dương nửa năm, khi chàng trở về chốn cũ mới hay Kiều đã bán mình chuộc tội cho cha Vương Quan với Thúy Vân sống nghèo túng, may thuê viết mướn kiếm ăn lần hồi. Ông bà Viên ngoại còn sống. Thấy chàng Kim thương nhớ Kiếu, Vương Ông quyết định vội vàng sắm sưả chọn ngày để:
Duyên Vân sớm đã se dây cho chàng
Sau đó Vương Quan, Kim Trọng thi đỗ. Kim Trọng đi nhậm chức tại Lâm Truy, gặp Thúc Sinh mới hay về chuyện Từ Hải chết đứng. Và Kim Trọng quyết định đi tìm Kiều:
Rắp mong treo ấn từ quan
Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng pha
Dấn mình trong áng can qua
Vào sinh ra tử họa là có nhau
Vừa lúc đó có chiếu vua cải nhận Kim Trọng tới Nam Bình, Vương Quan tới Phú Dương. Hai chàng cùng chuẩn bị lên đường thì vưà hay thế giặc đã tan:
Sóng êm Phúc Kiến lửa tàn Chiết Giang
Và:
Ðược tin Kim mới rủ Vương
Tiện đường cùng lại tìm nàng sau xưa
Tới Hàng Châu tìm hỏi tin tức mới hay chuyện Từ Hải chết đứng, Thúy Kiều bị ép duyên cho thổ quan đã trầm mình xuông sông Tiền Ðường. Thật tội nghiệp: cả nhà vinh hiển riêng oan một nàng! Hai chàng bèn làm lễ chiêu hồn giải oan ngay bên bờ sông Tiền Ðường thì may sao:
Cơ duyên đâu bỗng lạ Sao
Giác Duyên đâu bỗng tìm vào đến nơi
Vì gặp Giác Duyên mọi người mới biết Thúy Kiều còn sống. Kiều gặp đủ mặt người thân:
Tưởng bây giờ là bao giờ
Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao
Nhưng khi Vương Ông bảo Kiều hãy theo mọi người cùng về thì Kiều đã thưa lại:
Nàng rằng: Chút phận hoa rơi
Nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay
Tính rằng mặt nước chân mây
Lòng nào còn tưởng có rày nữa không
Ðược rày tái thế tương phùng
Khát khao đã thỏa tấm lòng lâu nay
Ðã đem mình bỏ am mây
Tuổi này gởi với cỏ cây cũng vừa
Mùi thiền đã bén muối dưa
Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng
Sự đời đã tắt lửa lòng
Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi
Vương Ông vẫn khuyên Kiều hãy quay về xum họp, vì chấp kinh cũng phải tòng quyền rồi:
Ðộ Sinh nhờ đức cao dày
Lập am rồi sẽ rước Thầy ở chung
Và Kiều đã:
Nghe lời nàng phải chiều lòng
Giã sư giã cảnh đều cùng bước ra
Về tới nhà trong bữa tiệc xum họp nàng Vân tuyên bố là xưa vì nạn nhà mà mối duyên của chị với chàng Kim nàng phải đứng ra thay chị nhưng:
Bây giờ gương vỡ lại lành
Khuôn thiêng lừa lọc đã đành có nơi
Còn duyên may lại còn người
Còn vầng trăng bạc còn lời nguyền xưa
Kiều gạt phắt lời em, vì nghĩ thân mình dãi gió dầm mưa đã nhiều
Chàng Kim khăng khăng góp ý với Kiều:
Một lời đã chót thâm giao
Dưới dày có đất trên cao có trời
Dẫu rằng vật đổi sao dời
Tử Sinh cũng giữ lấy lời tử Sinh
Kiều vẫn cương quyết khước từ và thưa thẳng với chàng Kim:
Thiếp từ ngộ biến đến giờ
Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa
Bấy chầy gió táp mưa sa
Mấy trăng cũng khuyết mấy hoa cũng tàn
Và nàng đề nghị hãy từ tình duyên đổi sang tình bạn:
Chàng dù nghĩ đến tình xa
Ðem duyên cầm sắt ra duyên cầm kỳ
Chàng Kim vẫn cương quyết nói với nàng là chữ trinh kia cũng có ba bảy đường:
Như nàng lấy hiếu làm trinh
Bụi nào cho đục được mình ấy vay
Trời còn để có hôm nay
Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời
Hoa tàn mà lại thêm tươi
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa
Cả Vương Ông, Vuơng Bà cùng chàng Kim dồn Thúy Kiều vào thế hết lời khôn lẽ chối lời
Cúi đầu nàng những ngắn dài thở than
Và nàng chịu làm lễ đủ đôi với chàng.
Nhưng đêm hôm đó trong phòng chỉ còn riêng hai người nàng mới thỏ thẻ nói lại với chàng lý lẽ của mình. Em Vân đã thay nàng trả nợ tình xưa, còn mình thì:
Chữ trinh còn một chút này
Chẳng cầm cho vững lại giày cho tan
Còn nhiều ân ái chan chan
Hay gì vẫy cánh hoa tàn mà chơi
Sau cùng Kim Trọng hoàn toàn đồng ý với nàng đem duyên cầm sắt ra duyên cầm kỳ. Chàng cũng khẳng định là
Bấy lâu đáy bể mò kim
Là nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa
Ai ngờ lại họp một nhà
Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm
Và Kiều đã sửa áo cài trâm khấn đầu lạy tạ Chàng Kim:
Thân này gạn đục khơi trong
Là nhờ quân tử khác lòng người ta
Sau đó Kim Trọng lại yêu cầu cho nghe lại tiếng đàn xưa của nàng. Nàng thuận tình chiều ý chàng nhưng lần này thì
Khúc đâu đầm ấm dương hòa
Ấy là hồ điệp hay là Tráng sinh
Khúc đâu êm ái xuân tình
Ấy hồn Thục đế hay mình Ðỗ Quyên
Trông sao châu nhỏ duềnh quyên
Ấm sao hạt ngọc Lam Ðiền mới đông
Thúy Kiều cũng không quên
Nhớ lời lập một am mây
Khiến người thân tín rước Thầy Giác Duyên
Nhưng:
Ðến nơi đóng cửa cài then
Rêu trùm kẽ ngạch cỏ lên mái nhà
Sư đà hái thuốc phương xa
Mây bay hạc lánh biết là tìm đâu
Nặng vì chút nghĩa bấy lâu
Trên am cứ giữ hương dầu hôm mai
Thúy Kiều tiếp tục cuộc sống thảnh thơi hạnh phúc của kẻ đã trả nợ xong nghiệp cũ:
Một nhà phúc lộc gồm hai
Nghìn năm dằng dặc quan giai lần lần
Thừa ai chẳng hết nàng Vân
Một cây cù mộc một sân quế hòe
Và Nguyễn Du đã kết thúc Truyện Kiều với những lời thơ đề cập tới chữ tài, chữ mệnh , chữ tâm, thiện căn và nghiệp nơi con người:
Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
Có đâu thiên vị người nào
Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai
Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần
Ðã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần xa
Thiện tâm ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
Lời quê chắp nhặt dông dài
Mua vui cũng được một vài trống canh
Như vậy là đọc lại từ đầu đến cuối Truyện Kiều, chúng ta thấy cụ Tiên Ðiền đã 6 lần đề cập đến đạo Phật hoặc qua nhân vật hoặc qua tình tiết truyện.
Lần thứ nhất: Khi Kiều dùng dao tự vẫn trước Tú Bà, trong cơn ngất bằn bặt Kiều đã được Ðạm Tiên báo cho hay:
Rỉ Rằng: Nhân quả dở dang
Ðã toan trốn nợ đoạn truờng được sao
Số còn nặng nợ má đào
Người dù muốn quyết trời nào đã cho
Hãy xin hết kiếp liễu bồ
Sông Tiền Ðường sẽ hẹn hò về sau
Như vậy là lần thư nhất này qua lời báo mộng của Ðạm Tiên , Nguyễn Du đã đề cập đến luật nhân quả và chữ nghiệp cuả nhà Phật
Lần thứ hai: Khi biết Thúc Sinh “vườn mới thêm hoa” (gian díu với Thúy Kiều), Hoạn Thư đã:
Lửa tâm càng dập càng nồng
Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa
Hai chữ lửa tâm trên đây cũng đượm phần giáo lý cuả Nhà Phật
Lần thứ ba: Khi Thúc Sinh trở lại Lâm Truy bằng đường bộ để gặp lại Thúy Kiều thì Hoạn Thư đã sai lũ gia nhân đi bằng đuờng biển gần hơn bắt Thúy Kiều
Trong khi đó với Kiều khi chưa bị lũ gia nhân cuả Hoạn Thư tới bắt thì
Ðêm thu gió lọt song đào
Nửa vành trăng khuyết ba sao trên trời
Nén hương đến trước Phật đài
Nỗi lòng khấn chửa cạn lời vân vân
Theo lời bàn xưa thì hình ảnh “nửa vành trăng khuyết ba sao trên trời cũng là gián tiếp nhắc đến chữ Tâm của đạo Phật
Lần thứ tư: Khi Kiều đã bị bán mình cho Mã Giám Sinh tay sai của Mụ Tú Bà, tới đây Nguyễn Du qua lời Ðạm Tiên nói với Thúy Kiều đã đề cập tới Luật nhân quả và chữ Nghiệp trong đạo Phật:
Rỉ Rằng: Nhân quả dở dang
Ðã toan trả nợ đoạn trường được sao
Số còn nặng nghiệp má đào
Nàng đà muốn quyết trời nào đã cho
Lần thứ năm: Khi Kiều trầm mình xuống sông Tiền Ðường nàng được sư bà Giác Duyên cứu sống và Kiều đã theo về thảo lư chung sống với sư bà.
Lần thứ sáu: Với sáu câu sau cùng cuả Truyên Kiều cụ Nguyễn Du đã dùng đến chữ Nghiệp và chữ Tâm cuả Nhà Phật để hàm ý khuyên chúng ta một nếp sống tâm linh lành mạnh:
Ðã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
Lời quê chắp nhặt dông dài
Mua vui cũng được một vài trống canh.
Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni,
TVHS
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)