Sơn Nam
Miễu Bà Chúa Xứ, Ðìa Gừa, Gò Mả Lạn... phải qua những chòm cây cổ thụ, những vùng lau sậy hoang vu ấy rồi mới đến nhà ông Tư Ðạt.
Trời đã quá chạng vạng. Ánh nắng thoi thóp, đỏ khé. Trong giây phút trở sang màu tím bầm. Muỗi dậy ổ, kêu vo ve khắp gần xa. Loài ếch nhái, côn trùng bắt đầu lên tiếng, chào mừng bóng tối đang tràn ngập quá nhanh chóng.
Cô đơn làm sao, căn nhà giữa đồng này ! Gió thổi lành lạnh. Tôi rùng mình :
- Thưa ông, cháu về.
Ông Tư Ðạt cười ngất :
- A ha ! Ðứa cháu này sợ ma. Nãy giờ tôi quên. Vô đây, đốt thêm ngọn đèn nữa. Phải rồi, đèn lu quá ! Sợ ma sao ? Ở đây chơi mà !
Tôi trả lời, ấp úng :
- Dạ, cũng hơi sợ. Thiên hạ nói ở Ðìa Gừa, ở Gò Mả Lạn nầy...
Ông Tư nói nhanh :
- Có ma hả ? Hơi đâu mà tin. Họ nói ma buông xuống lòng thòng từ cánh tay, từ bàn chơn, cái đầu rồi ráp lại. Họ nói ma ở truồng bỏ tóc xõa, đứng trên ngọn cỏ mà múa. Mình hú, nó hú trả lời. Mình chạy, nó rượt theo. Nhưng tôi nhứt quyết xứ này không có loại đó. Xứ này, cháu biết không, là xứ của ma...
Tôi trầm ngâm suy nghĩ : Tại sao ông Tư Ðạt nhìn nhận có ma rồi bảo rằng không có ? Chớ ma ở gò mả này thuộc về loại nào ? Dầu sao vẻ mặt trầm tĩnh, can đảm của ông cũng làm cho tôi được yên tâm chút ít :
- Thiên hạ đồn đãi nhiều. Cháu phải sợ theo.
Ông Tư khêu ngọn đèn rồi vào trong đem ra một chai rượu đế :
- Uống đi cháu. Thủng thỉnh tôi nói qua chuyện khác vui hơn... Ðồn đãi là một chuyện. Nhưng sự thật lại khác. Cái gì được người ta lặp đi lặp lại nhiều lần bằng câu hát đưa em ? Vậy mà có người không hiểu rõ. Thí dụ như :
Một mai thiếp có xa chàng
Ðôi bông thiếp trả, đôi vàng thiếp xin.
Tại sao đôi bông thì trả, đôi vàng thì xin ? Không lẽ người đàn bà nước mình mang thói tham lam ? Sự thiệt nó có tích như vầy : đôi bông là vật cha mẹ chồng cho nàng dâu hồi đám nói ; đôi vàng là của riêng mà hai vợ chồng trẻ nhờ dành dụm sắm được lúc sau. Nàng dâu than vãn bà mẹ chồng khắc nghiệt, sẵn sàng "trả đôi bông" lại cho mẹ chồng. Nhưng nàng vẫn thương chồng - "xin giữ đôi vàng" - nài nỉ chồng cất nhà ở riêng để thoát ách. Câu hát đó cao sâu lắm ! Hồi xưa, khách qua đường hễ nghe nó là hiểu được tánh tình của bà mẹ chồng trong nhà như thế nào. Bởi vậy người hát phải biết hát, người nghe phải biết nghe. Cái chuyện ma ở Gò Mả Lạn này cũng như câu hát đó. Lâu ngày, thiên hạ không hiểu, họ nói xàm, làm mất phẩm giá người đời xưa rồi đâm ra sợ sệt vô lý. Chung quanh nhà này có ma thiệt...
- Ghê quá vậy ông !
- Phải ! Ðó là hồn oan. Mình phải thấy rõ họ, mình phải thương họ. Thường bữa, họ tới lui, muốn làm quen với mình nữa. "Sự tử như sự sanh, sự vong như sự tồn" mà...
***
Non 80 năm về trước, hồi đó ở tại Gò Mả Lạn này xóm nhà đông đúc hơn bây giờ. Họ sống về nghề ruộng rẫy, giăng câu, bắt rắn. Giặc Tây đến. Chúng đóng binh ở ngoài huyện Kiên Giang. Binh sĩ của ông Nguyễn Trung Trực lén kéo về châu thành để công kích. Dân chúng nghe tiếng súng, nửa mừng nửa sợ. Tới một đêm đó, nhiều loạt súng nổ chát chúa ngay đầu xóm, tại Ðìa Gừa.
Không ai dám bước khỏi nhà. Họ đoán rằng có người bị giết và tiếng súng sát nhơn nọ là của Tây. Sáng hôm sau, vài người bạo dạn ra dò xét. Họ kéo mấy cái thân người dưới đìa đem lên, chôn chất kỹ lưỡng gần bờ thềm.
Từ đó, đêm nào đêm nấy giống nhau. Cứ quá nửa đêm dân chúng phải cắn răng, nuốt lệ mà nghe súng nổ. Khi thì nghe tiếng kêu rú. Khi thì nghe thêm tiếng chim bay.
Nước dưới đìa lần lần đen ngầu, hôi tanh. Cỏ bên bờ ngày một cao vì dân làng không còn ai lui tới để gánh nước như trước. Trong khi đó, con đường từ thềm đìa ra ngoài lộ cái trở nên mòn lẵn vì dấu chân của bọn đao phủ Tây tà và của những nghĩa quân, lương dân vô tội từ nơi xa lạ dẫn tới.
Dân làng quá đỗi hiền lương, hằng đêm, họ thức để chờ nghe tiếng súng đầu tiên nổ ngoài bờ giếng. Rồi họ cúi đầu lầm thầm đọc kinh vãng sanh, cầu nguyện cho người quá cố.
Trưa đó ngày mùng 7 tháng chạp, bất thường giặc kéo nhau tới bờ Ðìa Gừa. Chúng đứng lại nhìn xuống đìa, đếm mấy gò mả xung quanh. Nào ai dám hó hé ! Chập sau, chúng rút lui. Một thằng bé chăn trâu được may mắn núp ở gần bờ đìa, khi nãy. Nó về xóm thuật lại :
- Tui thấy ông Tây này cười, ông kia la hét, ông Tây nọ gật đầu. Mấy ổng dòm vô xóm mình...
Ðiềm lành, điềm dữ hay là không có điềm gì hết ? Không ai đoán trúng cả. Vì đó là một diềm dữ, nhưng dữ quá mức tưởng tượng của họ.
Ðêm ấy cả xóm đều bị bao vây.
Nhờ ngủ ngoài chuồng trâu, đứa bé chạy thoát được. Nó qua xóm kế bên cầu cứu trong khi súng nổ liên hồi, lửa bốc cháy.
Ðầu canh năm, tiếng súng vẩn còn thưa thớt. Mặt trời gần mọc, chừng đó dân làng kế bên mới dám đi qua cứu giúp.
Người chết quá nhiều. Người còn sống quá ít. Làm sao mà chôn ? Ban đầu còn bó thây bằng chiếu, mỗi hầm chôn một người. Sau cùng, cứ chôn chung một hầm, đủ già trẻ bé lớn. Khiêng nhiều chuyến quá sanh ra mệt mỏi ! Họ khiêng bằng võng, đặt hai xác chết trên một võng, người trở đầu phía trước, người trở đầu phía sau.
***
- Ðúng vậy ! Hồi đó hai người nằm một võng, theo kiểu hai đứa con nít ngủ trưa như bây giờ thiên hạ đưa con.
Ðêm về khuya. Chai rượu gần cạn. Ðứa bé chăn trâu thưở trước là ông Tư Ðạt ở Gò Mả Lạn buổi này, nói tiếp :
- Lâu quá rồi ! Thiên hạ chết oan ! Cả xóm chết giống nhau. Không một người khóc. không một miếng khăn tang. Cả tháng sau, quạ còn bay đen trời như tàn nhà cháy... Tôi là người quen với họ, họ thương tôi lắm. Tôi không sợ ma, nhờ đó mà ít gặp ma. Vậy mà không hiểu can cớ gì buổi trưa đó tôi gặp họ.
- Ban ngày hả ông ?
Ông Tư Ðạt nói :
- Chánh hiệu là... ban ngày. Ði gặt về, dọc dường tôi ghé lại bờ Ðìa Gừa. Thấy nước trong quá, tôi nhảy xuống tắm rồi ngắt một cọng bông súng. nhai vô miệng cho mát. Tôi nhớ rõ : cọng bông súng dài lắm. Nhai một hồi, bỗng nhiên thấy một ông già hiện ra, đâu mặt với tôi, miệng ổng thì nhai đầu kia của cọng bông súng. Sợ quá, tôi nhả ra nhưng không được. Hàm răng của tôi cứng lại rồi... đánh bùa cạp. Sau rốt, ông già nọ nhai lần cọng bông súng đến gần mặt tôi, hai mặt đụng nhau, sát rạt, lạnh ngắt.
Ông già nọ hỏi tôi :
- Cái thằng Ðạt chăn trâu ! Nhớ ta đây không ?
- Ông là ai ?
- Bà con mà ! Mấy chục năm nay, mày làm ăn thế nào ?
- Dạ nghèo quá !
- Vậy thì thằng Ðạt mày còn sống tới bây giờ cũng không sung sướng gì hơn mấy người chết yểu cả xóm hồi đó. Nhớ không Ðạt ? Bà con chết đêm mùng 7 tháng chạp. Phải cúng kiến chớ ! Có thịt ăn thịt. Có muối ăn muối. Rồi cất nhà cho bà con mày ở. Nhớ thắp nhang.
Ông Tư Ðạt nói tiếp câu chuyện :
- Ðêm đó, về nhà tôi ngủ không yên. Sau rốt, tôi kêu gọi bà con lối xóm cất một cái miễu. Hương chức hội tề hỏi tại sao cất miễu mà không xin phép ; tôi trả lời đó là miễu thờ Bà Chúa Xứ, nào dám nói sự thật, sợ mình bị buộc vô tội làm quốc sự. Bởi vậy cháu hiểu vì đâu tôi giữ nhang khói ở miễu này, vì sao ở sát Gò Mả Lạn mà tôi không sợ ma. Ba bốn mươi năm nay, ruộng nương thất bát, có một lần bỏ xứ mà đi nhưng buồn bực quá, tôi trở về nền nhà cũ. Tôi nghĩ : Mình ở đây nghèo, nhưng mà vui. Nhiều đêm tôi nằm nói thơ Vân Tiên một mình mà không đỡ buồn. Tôi đứng nhìn trời đất đồng ruộng ở ngoài. Tối thui vậy mà vui quá ! Cháu ra đây coi thử...
Ông Tư Ðạt bước ra cửa, đưa tay làm dấu hiệu bảo tôi đi theo. Ðồng ruộng mơ hồ. Trăng non chưa hé. Ðám lau sậy mịt mùng chạy dài như bức trường thành, nối liền Gò Mả Lạn qua Ðìa Gừa, tiếp đến miễu Bà Chúa Xứ đằng xa.
Ông lẩm bẩm :
- Không riêng gì ở Gò Mả, ở Ðìa Gừa... Rải rác đầy ruộng nương, hồi đó ở đâu cũng có mả, có xương người. Kìa, cháu thấy không ? Sao trên trời xẹt xuống một đốm... hai đốm. Rồi đất ruộng rung rinh, lúa mới cấy dợn đều như sóng dậy ngoài biển. Cháu thầy không ?
Tôi lạnh người. Gió thổi hiu hiu. Phải chăng oan hồn thuở trước đang về đây ? Họ trở thành cát bụi, đang thu hình vào rễ lúa để vươn lên mặt đất, đòi đơm bông kết trái ?
Hay là họ buồn rầu khi nhìn cậu bé chăn trâu còn sống sót thuở nọ giờ đây sống hẩm hiu. Từng vệt sao rơi, phải chăng đó là những niềm tin tưởng soi sáng quyển sử trường cửu của đất nước, một quyển sử không có số trương mà mỗi luống cày là một tờ giấy bao la, mỗi bụi lúa là một nét chữ không nhòa, muôn năm linh động ?
Ông Tư Ðạt vỗ vai, bảo với tôi :
- Bây giờ cháu thấy ma chưa ? Không thấy thì ráng đứng hoài cho tới chừng nào thấy rõ. Ông ở đây mấy chục năm rồi mà chưa biết đủ mặt người. Bởi vậy đêm nào ông cũng thức, cũng nhìn...
***
8/12/08
Cô Út về rừng
Sơn Nam
Má ơi ! Đừng gả con xa.
Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu...
Câu chuyện xảy ra tại rạch Bình Thủy, làng Long Tuyền, tỉnh Cần Thơ, đâu cũng vào khoảng năm 1939 hoặc 1940 gì đó.
Trời sáng trăng. Thường lệ cứ đến chín giờ tối là nhà ông hương Cả Ba đóng cửa ngủ sớm. Đêm ấy, có khác. Cây đèn "măng sông" cất lâu trong tủ được đem ra lau chùi, đốt sáng lên. Ông Cả nheo mắt, nhìn đăm đăm ra sân tìm một góc tối om nào đó mà định thần hòng gỡ mối tơ vò rối rắm của gia đình. Ngoài sân, trăng sáng yên lành ; lớp thủy ngân xao động, nhảy nhót, gờn gợn trên lá trên cành của vườn cam, trên ngọn tre mềm dịu đang chuyển động từng cơn.
Ông lẩm bẩm :
- Kìa... mà gió trở ngọn. Gió chướng qua gió nồm. Hết nắng sang mưa.
Bà Cả lắc đầu :
- Ông này vớ vẩn. Gả con Út hay là không ? Sáng mai mình phải trả lời cho cậu Quỳnh biết. Ở đó mà lo gió chướng, gió nồm! Hai đứa nó đâu rồi ?
- Tụi nó ở ngoài sân nói chuyện rù rì, bà không nghe sao ? Thế nào tôi với bà cũng tính cho xong xuôi nội đêm nay.
"Tính" đây là cả một bài toán. Làm thế nào có lợi cho gia đình mình ? Gả cô Út cho cậu Quỳnh, ông bà rất đỗi vui mừng vì gặp nơi môn đăng hộ đối. Nhưng về mặt tình cảm thì thiệt thòi quá. Gả con gái về chốn Cạnh Đền xa xăm ! Tháng trước, ông xuống đó để dò xét thân thế gia đình của đàng trai : căn nhà ngói vách ván, xung quanh có vườn tược lai rai, xa xa nhô lên vài nhà của người Miên. Và rừng xanh một dãy che phủ tứ phía chân trời !
Ông đáp :
- Tôi nhứt định gả. Hai đứa nó thương nhau từ hồi còn đi học ở Sài Gòn. Bên đàng trai khá giả. Mình đòi bắt rể, ai mà chịu. Thôi đành vậy...
Bà Cả thở dài :
- Tôi ngại quá. Mình có mụn con gái. Gả đi xa xôi không nói làm gì. Ngặt xứ đó kỳ quái, hiểm nguy. Nội cái tên Cạnh Đền nghe cũng dị hợm...
- Tưởng bà ngại điều gì chớ chuyện đó thì dễ. Dân ở dưới hiền lành lắm. Bộ thiên hạ ăn thịt con gái mình sao mà nguy hiểm?
- Tức chết đi ! Nói vậy mà không hiểu ! Ông không nghe người ta hát sao ?
Xứ đâu hơn xứ Cạnh Đền,
Muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội lềnh như bánh canh.
Ông Cả nghe qua, cười ngất hồi lâu. Bà Cả càng sôi gan :
- Ông cười tôi nói bậy à ? Ở xứ đó chạng vạng là ai nấy phải vô mùng để... ăn cơm
- Nhưng sự thật là họ ăn cơm sớm, hồi cỡ bốn giờ chiều để khỏi cần vô mùng. Bà nghe ai nói lại vậy ?
- Ông có tài binh vực cho xứ Cạnh Đền. Dẹp chuyện muỗi một bên, tôi bàn qua chuyện đỉa để ông có giỏi thì cãi. Nè, tôi nghe nói... phen đó cô dâu nọ ở chợ Cần Thơ gả xuống. Cổ xuống bến làm cá, xong xuôi đem trút vô chảo, nấu canh chua. Dè đâu chừng con đỉa đeo trong khứa cá. Cô dâu nọ bị đuổi vì tội... nấu canh chua bằng đỉa. Oan ức quá. Xứ đỉa nhiều, đâu ai dè trước ! Tôi sợ con Út nhà mình phải bị đuổi trở về mà mang nhục với xóm riềng.
Ông Cả cười dòn :
- Thiên hạ đồn nhưng có thiệt lần nào chưa ? Tôi nói cho bà nghe : chuyện đó dóc. Hồi xuống Cạnh Đền, tôi nhắc chuyện... "đỉa lềnh như bánh canh". Thiên hạ ở dưới đó cắt nghĩa : Cạnh Đền là nơi nước mặn gần mãn năm. Hơn nữa, ruộng ít khi cày trâu. Làm sao có đỉa ở vùng nước mặn ? Chẳng qua là mấy người đặt bài hát đưa em, thêm nhưn thêm nhụy để bắt vần. Đỉa nhiều ở là xứ nước ngọt như Bình Thủy, Ô Môn đây nè ! Bà biết chưa. Ở đây, từ hồi nào tới giờ, có ai lỡ nấu canh chua đỉa không ? Bà chỉ cho tôi coi thử.
Bà Cả đuối lý, cố suy nghĩ, tìm cách bảo thủ ý kiến của mình.
Sau rốt, bà nói :
- Gả con về rừng khổ lắm. Xưa nay, người ta hát :
Mẹ mong gả thiếp về vườn,
Ăn bông bí rợ dưa hường nấu canh.
"Đằng này mình gả con về rừng... Bao nhiêu người chịu tai nạn đó rồi".
Ông Cả hút điều thuốc, chập sau mỉm cười, đắc thắng. Bà day lại :
- Ông gả thì gả đi. Đường xá xa xôi làm sao nó về thăm mình được. Nãy giờ tôi quên nói chuyện đó.
- Dễ ợt. Miễn con gái của mình có hiếu... Gả con... ở trong nước Việt Nam chờ qua bên Tây bên Tàu gì sao ! Một khi quên cha quên mẹ thì dầu ở kế bên nhà nó cũng không thèm về thăm. Tôi thì tôi tin con Út lắm. Công cha mẹ nuôi dưỡng, cho đi ăn học lẽ nào nó quên.
Bà Cả bỏ đi chỗ khác, nói lại một câu :
- Để coi nó nhớ hay quên ! Xuống miệt Cạnh Đền, muỗi ăn thịt nó. Nó bỏ thây ở dưới, hai ba năm chưa chắc về thăm mình được một lần. Lần hồi mất gốc rễ, nó nhè lấy tên mình, đặt trùng lại cho con cháu của nó mà không hay.
- Tại sao vậy ? Bà này vô lý quá...
Tuy cãi lời bà, trong thâm tâm ông cảm thấy chút gì buồn bực đuối lý. "Ông có lý luận đúng, nhưng bà... không lẽ nói sai". Nghĩ vậy, ông lại nằm nơi ghế trường kỷ, lẩm bẩm :
- Ông Tơ xếp đặt rồi. Phận con Út vậy đành vậy.
Thế là tháng chạp năm đó, nhà ông Cả treo bông kết tuội để gả con, giữa tiếng dị nghị của bao chàng trai tơ ở rạch Bình Thủy.
***
Cô Út về làm dâu đất Cạnh Đền.
Hai năm qua.
Ba năm qua...
Chuyến đầu, đôi vợ chồng về thăm ông Cả bà Cả, đèo theo một đứa con gái nhỏ... sổ sữa dễ thương.
Chuyến sau họ về, lại thêm một đứa gái. và một đứa thứ ba nữa đang nằm trong bụng mẹ.
Hai ông bà quá đỗi vui mừng.
Nhưng liên tiếp mấy năm sau họ bặt tin, ngày Tết ngày giỗ cũng chẳng về. Lo ngại quá ! Có chuyện gì xảy ra bất lành không?
Hai ông bà muốn xuống Cạnh Đền thăm con nhưng ngại mình già sức yếu, đường xa xôi, phải vượt qua sông Cái Lớn. Nằm đêm, lắm khi bà khóc lóc mà trách ông :
- Tôi nói muỗi rừng ăn thịt hai đứa nó rồi. Xứ gì mà muỗi kêu như sáo thổi. Không đau bịnh rét thì cũng chói nước lớn bụng mà chết... Hồi đó ông cãi tôi, nhớ không ?
Ông Cả vô cùng buồn bực. Nhứt là khi nghe con nít chòm xóm hát đưa em :
Má ơi đừng gả con xa,
Chim kêu vượn hú, biết nhà má đâu ?
hoặc :
Thương chồng phải lụy cùng chồng,
Đắng cay phải chịu , mặn nồng phải theo
Mỗi khi tiết trời lập đông là cơ thể rêm nhức, tuổi già của ông càng đè nặng hai vai. Não nuột quá những câu hát :
Một mai ai đứng bên kinh,
Ai phò giá triệu, ai rinh quan tài ?
Bên kinh đã có con trai,
Giá triệu con gái, quan tài nàng dâu
Hỏi nào chàng rể ở đâu ?
Chàng rể uống rượu đi sau nói xàm...
Ông nhìn trời. Ngày nào đó ông chết, con gái không về kịp để phò giá triệu, càng không có chàng rể. Nhưng ông tin tưởng rằng đứa rể của ông ở vùng Cạnh Đền xa xôi kia, giờ phút này đang cặm cụi làm ăn nhớ cha mẹ vợ, không bao giờ uống rượu nói xàm vì chàng là kẻ có ăn học. Suốt tháng ngày, ông chống gậy đi quanh quẩn bên gốc tre già ở mé sông, mắt mòn mỏi nhìn bóng dáng các ghe thương hồ qua lại.
Trời đất nào phụ kẻ có lòng như ông !
Mãi đến buổi trưa đó, có chiếc ghe chèo chậm chậm ngang bến. Chồng trước mũi hỏi vợ sau lái :
- Phải chỗ cây mù u này không ? Cậu Quỳnh nói nhà bên vợ ở đâu đây.
Chị vợ đáp :
- Không chừng... Đúng quá, cách ngã ba, qua hai cây cầu khỉ, nhà ngói có vườn quít.
Anh chồng ngó tới ngó lui, cãi lại :
- Mình mới qua một cây cầu. Chèo tới trước chỗ cây cầu khỉ, đằng kia kìa, họa may...
Ông Cả cố gom tất cả sức già, la lớn :
- Ở đây nè, bà con ơi ! Nhà vợ thằng Quỳnh ở đây nè...
Ghe đậu lại. Hai vợ chồng nọ được mời lên ăn cơm với thịt gà tại bộ ván gõ giữa nhà ông Hương cả. Trong đời, họ chưa bao giờ được hân hạnh lớn như vậy ! Ông Cả, bà Cả, người lối xóm xúm lại hỏi nhiều câu quá. Họ bối rối, trả lời vắn tắt :
- Dạ, vợ chồng cậu Quỳnh mạnh khỏe. Nhờ trời sanh được sáu đứa con. Bốn đứa sau đều là con trai.
Bà Cả mừng quýnh :
- Úy ! Bộ con Út đẻ năm một sao ? Con nhỏ đó thiệt ...
Khách trả lời :
- Dạ, đẻ năm một. Đứa ăn thôi nôi, đứa lôi đầy tháng. Mẹ tròn con vuông. Hồi tôi đi đây, cô Út gần nằm chỗ một lần nữa. Thưa ông bà, miệt dưới ai cũng vậy. Như vợ chồng cháu đây có tám đứa con.
- Sao vậy cà ? Sao vậy cà ? Ở dưới cỡ này ra sao mà thiên hạ đẻ nhiều quá vậy ?
Khách ngượng nghịu, chập sau mới nói :
- Dạ ở miệt dưới muỗi dữ lắm. Chạng vạng là cả nhà, vợ chồng con cái rút vô mùng... nói chuyện. Ít ai đi đâu.
Ai nấy phá lên cười to. Đến lúc bấy giờ, ông Cả bà Cả mới hiểu thêm một sự bí mật quan trọng của tiếng "muỗi kêu như sáo thổi" ở Cạnh Đền. Nó làm hại sức khỏe con người. Nhưng nó gắn bó mối tình chồng vợ hơn ở xứ không có muỗi.
Để đánh trống lảng, ông nói :
- Ừ ! Phải vậy mới được. Xứ mình cần có dân đông để tạo lập thêm ruộng vườn, khai phá đất hoang.
Bà Cả nóng ruột :
- Anh chị đây có nghe vợ chồng nó nhắn chừng nào đem mấy đứa cháu ngoại của tôi về cho biết mặt ?
Khách trả lời :
- Dạ không nghe. Con cái lũ khũ cả bầy, chắc vợ chồng cậu Quỳnh khó đi xa. Năm rồi mùa màng thất bát, ai cũng lo tay làm hàm nhai để nuôi con. Sông Cái Lớn mấy năm nay lại thêm sóng gió bất thường.
Bà thở dài, nói như rên siết :
- Nhớ mấy đứa nhỏ quá. Ông ơi ! Hồi đó ông cãi tôi...
Ông Cả im lặng, nghĩ đến cái ngày gần đất xa trời của mình. Nó không còn bao xa nữa. Ngày đó, ai phò giá triệu, ai rinh quan tài ? Nhìn bụi tre già dưới bến mà ông tủi thân : Măng non mọc kề bên gốc. Phận ông có khác ; con gái, con rể và đám cháu ngoại ở chốn xa xôi kia làm sao được gần gũi để ông thấy mặt lần đầu - và cũng là lần chót - khi ông tàn hơi. Nước mắt muốn tươm ra, ông cố dằn lại. Ông hiểu đời ông chưa tới mức đen tối, còn chút ánh sáng lập lòe trong tương lai vô biên vô tận :
- Ờ... ở dưới nó có lập vườn chưa ? Lát nữa, anh chị chịu khó chở về dùm cho vợ chống con Út một gốc tre Mạnh Tông để làm giống. Chừng thấy măng non cận gốc già, mấy đứa cháu của tôi luôn luôn nhớ ông ngoại bà ngoại nó trên Bình Thủy.
***
Má ơi ! Đừng gả con xa.
Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu...
Câu chuyện xảy ra tại rạch Bình Thủy, làng Long Tuyền, tỉnh Cần Thơ, đâu cũng vào khoảng năm 1939 hoặc 1940 gì đó.
Trời sáng trăng. Thường lệ cứ đến chín giờ tối là nhà ông hương Cả Ba đóng cửa ngủ sớm. Đêm ấy, có khác. Cây đèn "măng sông" cất lâu trong tủ được đem ra lau chùi, đốt sáng lên. Ông Cả nheo mắt, nhìn đăm đăm ra sân tìm một góc tối om nào đó mà định thần hòng gỡ mối tơ vò rối rắm của gia đình. Ngoài sân, trăng sáng yên lành ; lớp thủy ngân xao động, nhảy nhót, gờn gợn trên lá trên cành của vườn cam, trên ngọn tre mềm dịu đang chuyển động từng cơn.
Ông lẩm bẩm :
- Kìa... mà gió trở ngọn. Gió chướng qua gió nồm. Hết nắng sang mưa.
Bà Cả lắc đầu :
- Ông này vớ vẩn. Gả con Út hay là không ? Sáng mai mình phải trả lời cho cậu Quỳnh biết. Ở đó mà lo gió chướng, gió nồm! Hai đứa nó đâu rồi ?
- Tụi nó ở ngoài sân nói chuyện rù rì, bà không nghe sao ? Thế nào tôi với bà cũng tính cho xong xuôi nội đêm nay.
"Tính" đây là cả một bài toán. Làm thế nào có lợi cho gia đình mình ? Gả cô Út cho cậu Quỳnh, ông bà rất đỗi vui mừng vì gặp nơi môn đăng hộ đối. Nhưng về mặt tình cảm thì thiệt thòi quá. Gả con gái về chốn Cạnh Đền xa xăm ! Tháng trước, ông xuống đó để dò xét thân thế gia đình của đàng trai : căn nhà ngói vách ván, xung quanh có vườn tược lai rai, xa xa nhô lên vài nhà của người Miên. Và rừng xanh một dãy che phủ tứ phía chân trời !
Ông đáp :
- Tôi nhứt định gả. Hai đứa nó thương nhau từ hồi còn đi học ở Sài Gòn. Bên đàng trai khá giả. Mình đòi bắt rể, ai mà chịu. Thôi đành vậy...
Bà Cả thở dài :
- Tôi ngại quá. Mình có mụn con gái. Gả đi xa xôi không nói làm gì. Ngặt xứ đó kỳ quái, hiểm nguy. Nội cái tên Cạnh Đền nghe cũng dị hợm...
- Tưởng bà ngại điều gì chớ chuyện đó thì dễ. Dân ở dưới hiền lành lắm. Bộ thiên hạ ăn thịt con gái mình sao mà nguy hiểm?
- Tức chết đi ! Nói vậy mà không hiểu ! Ông không nghe người ta hát sao ?
Xứ đâu hơn xứ Cạnh Đền,
Muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội lềnh như bánh canh.
Ông Cả nghe qua, cười ngất hồi lâu. Bà Cả càng sôi gan :
- Ông cười tôi nói bậy à ? Ở xứ đó chạng vạng là ai nấy phải vô mùng để... ăn cơm
- Nhưng sự thật là họ ăn cơm sớm, hồi cỡ bốn giờ chiều để khỏi cần vô mùng. Bà nghe ai nói lại vậy ?
- Ông có tài binh vực cho xứ Cạnh Đền. Dẹp chuyện muỗi một bên, tôi bàn qua chuyện đỉa để ông có giỏi thì cãi. Nè, tôi nghe nói... phen đó cô dâu nọ ở chợ Cần Thơ gả xuống. Cổ xuống bến làm cá, xong xuôi đem trút vô chảo, nấu canh chua. Dè đâu chừng con đỉa đeo trong khứa cá. Cô dâu nọ bị đuổi vì tội... nấu canh chua bằng đỉa. Oan ức quá. Xứ đỉa nhiều, đâu ai dè trước ! Tôi sợ con Út nhà mình phải bị đuổi trở về mà mang nhục với xóm riềng.
Ông Cả cười dòn :
- Thiên hạ đồn nhưng có thiệt lần nào chưa ? Tôi nói cho bà nghe : chuyện đó dóc. Hồi xuống Cạnh Đền, tôi nhắc chuyện... "đỉa lềnh như bánh canh". Thiên hạ ở dưới đó cắt nghĩa : Cạnh Đền là nơi nước mặn gần mãn năm. Hơn nữa, ruộng ít khi cày trâu. Làm sao có đỉa ở vùng nước mặn ? Chẳng qua là mấy người đặt bài hát đưa em, thêm nhưn thêm nhụy để bắt vần. Đỉa nhiều ở là xứ nước ngọt như Bình Thủy, Ô Môn đây nè ! Bà biết chưa. Ở đây, từ hồi nào tới giờ, có ai lỡ nấu canh chua đỉa không ? Bà chỉ cho tôi coi thử.
Bà Cả đuối lý, cố suy nghĩ, tìm cách bảo thủ ý kiến của mình.
Sau rốt, bà nói :
- Gả con về rừng khổ lắm. Xưa nay, người ta hát :
Mẹ mong gả thiếp về vườn,
Ăn bông bí rợ dưa hường nấu canh.
"Đằng này mình gả con về rừng... Bao nhiêu người chịu tai nạn đó rồi".
Ông Cả hút điều thuốc, chập sau mỉm cười, đắc thắng. Bà day lại :
- Ông gả thì gả đi. Đường xá xa xôi làm sao nó về thăm mình được. Nãy giờ tôi quên nói chuyện đó.
- Dễ ợt. Miễn con gái của mình có hiếu... Gả con... ở trong nước Việt Nam chờ qua bên Tây bên Tàu gì sao ! Một khi quên cha quên mẹ thì dầu ở kế bên nhà nó cũng không thèm về thăm. Tôi thì tôi tin con Út lắm. Công cha mẹ nuôi dưỡng, cho đi ăn học lẽ nào nó quên.
Bà Cả bỏ đi chỗ khác, nói lại một câu :
- Để coi nó nhớ hay quên ! Xuống miệt Cạnh Đền, muỗi ăn thịt nó. Nó bỏ thây ở dưới, hai ba năm chưa chắc về thăm mình được một lần. Lần hồi mất gốc rễ, nó nhè lấy tên mình, đặt trùng lại cho con cháu của nó mà không hay.
- Tại sao vậy ? Bà này vô lý quá...
Tuy cãi lời bà, trong thâm tâm ông cảm thấy chút gì buồn bực đuối lý. "Ông có lý luận đúng, nhưng bà... không lẽ nói sai". Nghĩ vậy, ông lại nằm nơi ghế trường kỷ, lẩm bẩm :
- Ông Tơ xếp đặt rồi. Phận con Út vậy đành vậy.
Thế là tháng chạp năm đó, nhà ông Cả treo bông kết tuội để gả con, giữa tiếng dị nghị của bao chàng trai tơ ở rạch Bình Thủy.
***
Cô Út về làm dâu đất Cạnh Đền.
Hai năm qua.
Ba năm qua...
Chuyến đầu, đôi vợ chồng về thăm ông Cả bà Cả, đèo theo một đứa con gái nhỏ... sổ sữa dễ thương.
Chuyến sau họ về, lại thêm một đứa gái. và một đứa thứ ba nữa đang nằm trong bụng mẹ.
Hai ông bà quá đỗi vui mừng.
Nhưng liên tiếp mấy năm sau họ bặt tin, ngày Tết ngày giỗ cũng chẳng về. Lo ngại quá ! Có chuyện gì xảy ra bất lành không?
Hai ông bà muốn xuống Cạnh Đền thăm con nhưng ngại mình già sức yếu, đường xa xôi, phải vượt qua sông Cái Lớn. Nằm đêm, lắm khi bà khóc lóc mà trách ông :
- Tôi nói muỗi rừng ăn thịt hai đứa nó rồi. Xứ gì mà muỗi kêu như sáo thổi. Không đau bịnh rét thì cũng chói nước lớn bụng mà chết... Hồi đó ông cãi tôi, nhớ không ?
Ông Cả vô cùng buồn bực. Nhứt là khi nghe con nít chòm xóm hát đưa em :
Má ơi đừng gả con xa,
Chim kêu vượn hú, biết nhà má đâu ?
hoặc :
Thương chồng phải lụy cùng chồng,
Đắng cay phải chịu , mặn nồng phải theo
Mỗi khi tiết trời lập đông là cơ thể rêm nhức, tuổi già của ông càng đè nặng hai vai. Não nuột quá những câu hát :
Một mai ai đứng bên kinh,
Ai phò giá triệu, ai rinh quan tài ?
Bên kinh đã có con trai,
Giá triệu con gái, quan tài nàng dâu
Hỏi nào chàng rể ở đâu ?
Chàng rể uống rượu đi sau nói xàm...
Ông nhìn trời. Ngày nào đó ông chết, con gái không về kịp để phò giá triệu, càng không có chàng rể. Nhưng ông tin tưởng rằng đứa rể của ông ở vùng Cạnh Đền xa xôi kia, giờ phút này đang cặm cụi làm ăn nhớ cha mẹ vợ, không bao giờ uống rượu nói xàm vì chàng là kẻ có ăn học. Suốt tháng ngày, ông chống gậy đi quanh quẩn bên gốc tre già ở mé sông, mắt mòn mỏi nhìn bóng dáng các ghe thương hồ qua lại.
Trời đất nào phụ kẻ có lòng như ông !
Mãi đến buổi trưa đó, có chiếc ghe chèo chậm chậm ngang bến. Chồng trước mũi hỏi vợ sau lái :
- Phải chỗ cây mù u này không ? Cậu Quỳnh nói nhà bên vợ ở đâu đây.
Chị vợ đáp :
- Không chừng... Đúng quá, cách ngã ba, qua hai cây cầu khỉ, nhà ngói có vườn quít.
Anh chồng ngó tới ngó lui, cãi lại :
- Mình mới qua một cây cầu. Chèo tới trước chỗ cây cầu khỉ, đằng kia kìa, họa may...
Ông Cả cố gom tất cả sức già, la lớn :
- Ở đây nè, bà con ơi ! Nhà vợ thằng Quỳnh ở đây nè...
Ghe đậu lại. Hai vợ chồng nọ được mời lên ăn cơm với thịt gà tại bộ ván gõ giữa nhà ông Hương cả. Trong đời, họ chưa bao giờ được hân hạnh lớn như vậy ! Ông Cả, bà Cả, người lối xóm xúm lại hỏi nhiều câu quá. Họ bối rối, trả lời vắn tắt :
- Dạ, vợ chồng cậu Quỳnh mạnh khỏe. Nhờ trời sanh được sáu đứa con. Bốn đứa sau đều là con trai.
Bà Cả mừng quýnh :
- Úy ! Bộ con Út đẻ năm một sao ? Con nhỏ đó thiệt ...
Khách trả lời :
- Dạ, đẻ năm một. Đứa ăn thôi nôi, đứa lôi đầy tháng. Mẹ tròn con vuông. Hồi tôi đi đây, cô Út gần nằm chỗ một lần nữa. Thưa ông bà, miệt dưới ai cũng vậy. Như vợ chồng cháu đây có tám đứa con.
- Sao vậy cà ? Sao vậy cà ? Ở dưới cỡ này ra sao mà thiên hạ đẻ nhiều quá vậy ?
Khách ngượng nghịu, chập sau mới nói :
- Dạ ở miệt dưới muỗi dữ lắm. Chạng vạng là cả nhà, vợ chồng con cái rút vô mùng... nói chuyện. Ít ai đi đâu.
Ai nấy phá lên cười to. Đến lúc bấy giờ, ông Cả bà Cả mới hiểu thêm một sự bí mật quan trọng của tiếng "muỗi kêu như sáo thổi" ở Cạnh Đền. Nó làm hại sức khỏe con người. Nhưng nó gắn bó mối tình chồng vợ hơn ở xứ không có muỗi.
Để đánh trống lảng, ông nói :
- Ừ ! Phải vậy mới được. Xứ mình cần có dân đông để tạo lập thêm ruộng vườn, khai phá đất hoang.
Bà Cả nóng ruột :
- Anh chị đây có nghe vợ chồng nó nhắn chừng nào đem mấy đứa cháu ngoại của tôi về cho biết mặt ?
Khách trả lời :
- Dạ không nghe. Con cái lũ khũ cả bầy, chắc vợ chồng cậu Quỳnh khó đi xa. Năm rồi mùa màng thất bát, ai cũng lo tay làm hàm nhai để nuôi con. Sông Cái Lớn mấy năm nay lại thêm sóng gió bất thường.
Bà thở dài, nói như rên siết :
- Nhớ mấy đứa nhỏ quá. Ông ơi ! Hồi đó ông cãi tôi...
Ông Cả im lặng, nghĩ đến cái ngày gần đất xa trời của mình. Nó không còn bao xa nữa. Ngày đó, ai phò giá triệu, ai rinh quan tài ? Nhìn bụi tre già dưới bến mà ông tủi thân : Măng non mọc kề bên gốc. Phận ông có khác ; con gái, con rể và đám cháu ngoại ở chốn xa xôi kia làm sao được gần gũi để ông thấy mặt lần đầu - và cũng là lần chót - khi ông tàn hơi. Nước mắt muốn tươm ra, ông cố dằn lại. Ông hiểu đời ông chưa tới mức đen tối, còn chút ánh sáng lập lòe trong tương lai vô biên vô tận :
- Ờ... ở dưới nó có lập vườn chưa ? Lát nữa, anh chị chịu khó chở về dùm cho vợ chống con Út một gốc tre Mạnh Tông để làm giống. Chừng thấy măng non cận gốc già, mấy đứa cháu của tôi luôn luôn nhớ ông ngoại bà ngoại nó trên Bình Thủy.
***
Chiếc ghe "Ngo"
Sơn Nam
Thiên hạ đồn rằng lục cụ Tăng Liên có phép mầu nghe được tiếng chim kêu, gió thổi và nghe cả đến tâm sự từng giọt nước, từng hạt bụi trong lòng đất.
Ngày hôm qua, theo sự hướng dẫn của cụ, chú phó hương quản Hem đã đào được một chiếc ghe ngo. Không biết ghe này chôn vùi từ bao lâu rồi ; chỉ biết là đất phù sa đã lắp lên gần một thước. Lục cụ Tăng Liên bèn thắp nhang giữa ruộng, đọc kinh lâm râm. Chập sau, cụ quì xuống trân trọng đặt tay lên mũi ghe. Ghe chưa quá mục, thân hãy còn ngời lên màu nước sơn đỏ chói. Cụ lẩm bẩm :
- Lâu lắm rồi... Hồi xưa kia, chừng năm bảy trăm năm qua, vùng này giàu có, sung túc. Cứ xem chiếc ghe kia cũng đủ biết người xưa tài giỏi hơn người nay...
Chú phó hương quản Hem nói :
- Thưa cụ, tìm được di tích này âu cũng là may mắn cho xóm mình. Không hiểu theo tục lệ mình có nên đào chiếc ghe này, đem xác nó về gần chùa mà thờ ?
- Không được. Chiếc ghe ngo dài trên năm mươi thước. Khoảng giữa, cây đã mềm, làm sao đem về chùa nguyên vẹn được. Không khéo, chúng ta hủy hoại công trình người xưa. Thà chúng ta đừng gặp chiếc ghe này còn hơn là gặp mà phá hủy. Chú biết ghe ngo là gì không ? Nó là hiện thân của rắn thần Naga, linh hiển lắm. Hồi đức Thích Ca ngồi thiền bên bờ hồ giữa rừng, rắn Naga là thần ác. Hôm ấy mưa to gió lớn, đức Thích Ca cảm hóa được rắn. Rắn bèn quấn tròn chung quanh và ngẩng đầu lên cao để che mưa gió cho đức Thích Ca. Từ đó về sau, người Miên khoét thân cây sao, theo hình rắn, hằng năm bơi đua trên sông để mừng mùa nước nổi...
Chú phó hương quản Hem đứng nghe, tỏ vẻ thành kính rồi đi theo sau lục cụ mà về chùa. Chuyến về, cả hai im lặng. Nắng chang chang. Thỉnh thoảng, họ quay lại nhìn cánh đồng mênh mông, cỏ non vừa mọc xanh rờn. Nơi ruộng sâu, nước ngập lên khỏi mắt cá, lác đác vài người lo cày bừa. Lục cụ nhìn chú phó hương quản, chú phó hương quản nhìn lục cụ. Linh tính như báo trước vời họ điềm gì. Ðiềm ấy lợi hay hại ? Một chiếc ghe ngo bị chôn vùi từ năm sáu trăm năm, nay bỗng nhiên hiện ra chào ánh mặt trời !
Như thường lệ, lục cụ Tăng Liên vào liêu an nghỉ. Phó hương quản Hem tỏ vẻ bối rối. Chú ngồi không yên. Chú không muốn về nhà khi bao nhiêu lo âu còn chồng chất, xao động trong lòng. Một ý nghĩ thoáng qua, chú lập tức bước qua bên hông chùa, nơi trại lá. Dưới trại, một chiếc ghe ngo dài kê lên cao, sơn phết kỹ lưỡng. Chiếc ghe này liên tiếp bốn mùa nước, đã làm vinh diệu cho chùa ; cứ mỗi kỳ đua là thắng giải nhứt. Chú nhìn chiếc ghe từ mũi chí lái : bề ngang chừng tám tấc nhưng bề dài đến năm mươi thước. Hình ảnh con rắn thần Naga mà lục cụ giảng giải khi nãy hiện ra trước mặt chú. Hai con mắt ghe chớp lên. Toàn thân ghe như rung chuyển, ngời từng đốm xanh đỏ như vảy rắn. Lái ghe, đằng xa kìa, như quơ qua quơ lại. Gió thổi rào rạt vào trại lá. Ào ! Ào ! Hai tai chú nghe lùng bùng tiếng cồn, tiếng trống, tiếng hò reo. Ghe nọ run mình đòi phóng tới, gân cốt chuyển nghe răng rắc. Khiếp quá !
***
Lục cụ ngồi trong liêu, ngóng đợi phó hương quản Hem để ra ruộng nghiên cứu xác chiếc ghe thiên cổ nọ.
Trời quá trưa. Rồi mãi xế chiều, chú phó hương quản mới tất tả bước vào, lạy cụ hai lạy như thường lệ. Ðôi mắt chú phó hương quản sáng lên :
- Vì có lịnh ông Ðốc Phủ chủ quận nên tôi phải đi hầu, về trễ.
Lục cụ sửng sốt :
- Ðòi việc gì ?
- Dạ, ông Ðốc Phủ dạy chùa mình đúng ba ngày nữa phải đem ghe tới chợ Gò Quao mà đua với ghe của mấy chùa khác.
Không tuân thì có tội.
- Tội gì ? Mới tháng này, chưa tới mùa rước nước ! Ðua ghe như vậy trái với tục lệ.
Chú phó hương quản cố suy nghĩ :
- Dạ nghe nói lễ lớn lắm. Lễ của Tây, ngày 14 tháng 7. Theo mọi năm, ở Rạch Giá mới có lễ. Năm nay, quận Gò Quao mình bắt chước phát phần thưởng.
Lục cụ Tăng Liên nghiêm mặt lại. Ðem ghe ngo của nhà chùa để đua, ăn mừng một ngày lễ chẳng liên quan gì đến dân mình nghĩ cũng khó xử thật. Không tham dự là chống lại với nhà nước Lang Sa, còn tham dự thì mất cả ý nghĩa thiêng liêng. Lục cụ bước ra khỏi liêu, đi vòng qua trại lá để ngắm chiếc ghe ngo. Cụ nói :
- Ðua thì cũng được. Ngặt mình không sửa soạn trước. Rủi thua thì mất danh xóm này. Phải bào lại cho láng, sơn hai lớp thật kỹ. Chú phó hương quản biết không ? Ghe không trơn láng đi chậm lắm, dầu mình cố sức bơi. Cẩu thả như thế này...
Chú phó hương quản nói :
- Ðây là chuyện cực chẳng đã. Chùa nào cũng vậy, họ đâu có thời giờ sửa soạn kỹ hơn mình. Dầu muốn hay không, mình cũng phải đua. Nghe nói thì quan trên giúp mỗi người một ổ bánh mì, mười người lãnh một hộp sữa. Ai về nhứt, được giải... thưởng danh dự.
Lục cụ gật đầu :
- Phải, nhưng mà... chú chắc mình thắng kỳ này không ?
Chú phó hương quản cười dòn :
- Dạ chắc. Dân xóm mình bơi giỏi lắm ; hơn nữa, mới tìm được xác chiếc ghe ngo xưa. Ghe có hồn, lục cụ à ! Hồn chiếc ghe xưa giúp chiếc ghe đời nay. Hồi hôm qua, hèn chi tôi nghe chiếc ghe ngo này chuyển mình răng rắc như sung sức lắm.
Thế là sáng hôm sau lục cụ đích thân đọc kinh làm phép cho ghe ngo. Ghe đẩy xuống nước ; bao nhiêu trai tráng trong làng hò reo vang dậy như... lân thấy pháo. Sáu mươi bốn cây đầm nhỏ phân phát ra, mỗi người một cây. Trước mũi ghe, cây lọng đỏ giương lên che một cái khay nhỏ đầy rượu, nhang, trầu, hoa quả và một ông Phật bằng vàng lớn cỡ ngón tay cái.
Chú phó hương quản được hân hạnh lãnh trách nhiệm chỉ huy cuộc chiến đấu sắp tới. Chú lạy lục cụ rồi đến ngồi nơi mũi ghe, dưới bóng cây lọng. Ba mươi cặp thanh niên lực lưỡng từ từ bước xuống, ngồi sắp hàng hai. Bè ghe khẳm, ngang mí nước, tưởng chừng xê xích một phân nữa là chìm. Nhưng không đâu ! Chú phó hương quản đã vấn chiếc khăn nhiễu đỏ lên đầu rồi đánh vào cái cồn nhỏ :
- Môn ! Môn ! Môn !...
Ðoàn lực sĩ hạ dầm xuống khoát nước, nhịp nhàng. Chiếc ghe ngo phóng tới từng bực rồi nổi lên cao khỏi mặt nước. Nước văng trắng xóa hai bên. Ta thấy chú phó hương quản nâng cây dầm lên cao khỏi đầu, bơi trên không khí.
Tập dượt như vậy năm bảy bận, chú phó hương quản bắt đầu yên tâm. Lục cụ mỉm cười, ghé miệng vào tai chú mà căn dặn lần chót :
- Ngày mốt, khi sắp hàng, chú nhớ kỹ : nếu họ sắp cho mình ở phía bờ bên này thì mình phải lấn tới chừng một tấc. Nước ngược chảy bên này mạnh hơn. Chùa Sóc Ven có bùa. Tránh đừng cho bên họ đụng nhằm ghe mình : không khéo ghe mình đứt ra làm hai khúc. Có bề gì chú ngậm ông Phật vàng vào miệng. Nhớ dặn anh em bên mình uống rượu bớt một chút. Mỗi người, phần ba lít là vừa.
Tuy nằm nhà, lục cụ Tăng Liên vẫn theo dõi được cuộc đua ghe. Cụ nhắm mắt định trí, tai lắng nghe tiếng cồn của ghe gho chùa mình. Nó khác hẳn giọng cồn của chùa khác, cao vút hơn, thanh tao hơn.
Từ sáng đến trưa, tiếng "môn, môn, môn" nghe đều đều. Cụ nhướng mắt, cau mày rồi chập sau ngáp dài, thông cảm : ngoài kia, họ "cáp" độ chưa được. Theo thường lệ, khi xuất phát hai chiếc ghe không ở lằn mức nào nhứt định. Sông quá rộng. Hai bên cứ bơi chầm chậm lấy trớn tới. hai vị chỉ huy liếc mắt nhìn nhau, khi nào đồng ý đua thì mới bắt đầu. Họ mãi "so cựa" với nhau như vậy.
Bỗng giữa trưa, tiếng cồn thúc giục rồi im bặt. Lục cụ đứng dậy, đọc kinh lâm râm, đi tới đi lui trước sân chùa. Chao ôi ! Ngoài sông Cái Lớn, hai chiếc ghe ngo đã biến thành hai con rắn thần bay trên mặt nước. Kìa, phó hương quản Hem đỏ rực như cây đuốc : khăn đỏ, mắt đỏ và da thịt đỏ vì rượu, vì máu nóng, vì ý chí bảo tồn danh dự của chùa mình. Kìa ! ghe của đối phương đang liều mạng xắn vào hông ghe bên này để được huề vì hai bên đều chìm. Nhưng người coi lái bên này nhanh tay. lách qua được. Phó hương quản Hem vội chụp lấy cây dầm nhỏ, nâng lên cao, bơi trên gió như thu hút tất cả sức mạnh của trời, của đất. Ghe vượt qua.
Ðoàn dũng sĩ ôm cán dầm sát vào ngực, ngã mạnh tới, chuyển tất cả nhân lực vào mái dầm. Nước bay trắng xóa. Sau cùng, phó hương quản vội cầm ông Phật vàng trong khay, bỏ vào miệng mà ngậm.
Lục Cụ Tăng Liên hình dung cảnh tượng dưới sông Gò Quao như vậy. Nó có thật không ? Mồ hôi tươm xuống lưng, thấm ướt áo cà sa. Cụ chắp tay vái Trời Phật rồi vào trong liêu nằm xuống thở mệt, đợi chờ.
Chiều hôm đó, tiếng hát vang dậy, tiếng cồn nhịp nhàng đưa đến ngày một gần. Lục cụ đoán đó là điềm chiến thắng. Cụ rửa mặt, lên chùa thắp nhang để tạ ơn đức bên trên.
Nhưng phó hương quản Hem bước vào lạy cụ. Gương mặt của chú lạnh như đồng, gợn chút gì buồn bã.
Lục cụ hỏi :
- Sao vậy ? Mình thua người ta à ?
Chú đáp :
- Dạ, mình thắng. Nhưng mà...
- Sao ?
- Nhưng mà được giải thưởng...
Lục cụ trố mắt :
- Ðược giải thưởng, có gì mà chú ngại. Tiền bạc hả ? Vải bô hả ? Nhang đèn hả ? Năm nay, nhà nước cho vật gì ?
Chú phó hương quản Hem im lặng, chập sau mới bước ra ngoài đem vào một gói giấy lớn, từ từ mở ra thì ô hô ! Ðó là một lá cờ tam sắc to tướng.
Chú nói :
- Cái này của ông Ðốc Phủ tặng chùa mình, phần thưởng hạng nhứt.
Lục cụ không nói nửa tiếng, nuốt nước miếng như cố nén chút gì tủi nhục, xót xa. Hồi lâu, cụ lắc đầu, cười xòa rồi đỡ chú phó hương quản đứng dậy. Hai người bước ra sân. Một quang cảnh náo nhiệt diễn ra : bao nhiêu trai tráng đang nằm trên bãi cát, trên đất bùn. Kẻ thì hát nghêu ngao. Kẻ thì ôm ngực mửa ra nào là rượu, bánh mì, kẻ thì vói tay lên như gào thét, đòi thêm rượu nữa.
Chú phó hương quản nói :
- Dạ, bây giờ mình khiêng ghe ngo lên trại, mai mốt sợ không ai rảnh.
Lục cụ nói :
- Phải. Rồi chú ở đây với tôi. Tôi buồn quá. Có chút chuyện cần.
Chú phó hương quản sực nhớ đến chiếc ghe ngo thiên cổ vừa tìm được mấy ngày trước. Nếu hổm rày không bận việc đua ghe này, có lẽ chú xin phép đào nó lên được. Và lục cụ chắc cũng đã dạy chú nhiều bài học hay hơn.
Chú nói :
- Mình ra ruộng, tiếp tục đào chiếc ghe xưa coi thử, phải không lục cụ ?
Lục cụ đáp :
- Thôi. Mình cứ lấp đất lại cho chiếc ghe đó yên thân, khỏi bận hồn người xưa. Nay mai, vài chục năm nữa, chiếc ghe của chùa mình cũng vậy. Vạn vật đều biến đổi. Duy có nụ cười của đức Quan Âm bốn mặt... Bốn mặt của Ngài nhìn bốn phía để cứu khổ chúng sinh, khuyên ai nấy trầm tĩnh vì sự đời mãi đổi thay, thay đổi.
***
Thiên hạ đồn rằng lục cụ Tăng Liên có phép mầu nghe được tiếng chim kêu, gió thổi và nghe cả đến tâm sự từng giọt nước, từng hạt bụi trong lòng đất.
Ngày hôm qua, theo sự hướng dẫn của cụ, chú phó hương quản Hem đã đào được một chiếc ghe ngo. Không biết ghe này chôn vùi từ bao lâu rồi ; chỉ biết là đất phù sa đã lắp lên gần một thước. Lục cụ Tăng Liên bèn thắp nhang giữa ruộng, đọc kinh lâm râm. Chập sau, cụ quì xuống trân trọng đặt tay lên mũi ghe. Ghe chưa quá mục, thân hãy còn ngời lên màu nước sơn đỏ chói. Cụ lẩm bẩm :
- Lâu lắm rồi... Hồi xưa kia, chừng năm bảy trăm năm qua, vùng này giàu có, sung túc. Cứ xem chiếc ghe kia cũng đủ biết người xưa tài giỏi hơn người nay...
Chú phó hương quản Hem nói :
- Thưa cụ, tìm được di tích này âu cũng là may mắn cho xóm mình. Không hiểu theo tục lệ mình có nên đào chiếc ghe này, đem xác nó về gần chùa mà thờ ?
- Không được. Chiếc ghe ngo dài trên năm mươi thước. Khoảng giữa, cây đã mềm, làm sao đem về chùa nguyên vẹn được. Không khéo, chúng ta hủy hoại công trình người xưa. Thà chúng ta đừng gặp chiếc ghe này còn hơn là gặp mà phá hủy. Chú biết ghe ngo là gì không ? Nó là hiện thân của rắn thần Naga, linh hiển lắm. Hồi đức Thích Ca ngồi thiền bên bờ hồ giữa rừng, rắn Naga là thần ác. Hôm ấy mưa to gió lớn, đức Thích Ca cảm hóa được rắn. Rắn bèn quấn tròn chung quanh và ngẩng đầu lên cao để che mưa gió cho đức Thích Ca. Từ đó về sau, người Miên khoét thân cây sao, theo hình rắn, hằng năm bơi đua trên sông để mừng mùa nước nổi...
Chú phó hương quản Hem đứng nghe, tỏ vẻ thành kính rồi đi theo sau lục cụ mà về chùa. Chuyến về, cả hai im lặng. Nắng chang chang. Thỉnh thoảng, họ quay lại nhìn cánh đồng mênh mông, cỏ non vừa mọc xanh rờn. Nơi ruộng sâu, nước ngập lên khỏi mắt cá, lác đác vài người lo cày bừa. Lục cụ nhìn chú phó hương quản, chú phó hương quản nhìn lục cụ. Linh tính như báo trước vời họ điềm gì. Ðiềm ấy lợi hay hại ? Một chiếc ghe ngo bị chôn vùi từ năm sáu trăm năm, nay bỗng nhiên hiện ra chào ánh mặt trời !
Như thường lệ, lục cụ Tăng Liên vào liêu an nghỉ. Phó hương quản Hem tỏ vẻ bối rối. Chú ngồi không yên. Chú không muốn về nhà khi bao nhiêu lo âu còn chồng chất, xao động trong lòng. Một ý nghĩ thoáng qua, chú lập tức bước qua bên hông chùa, nơi trại lá. Dưới trại, một chiếc ghe ngo dài kê lên cao, sơn phết kỹ lưỡng. Chiếc ghe này liên tiếp bốn mùa nước, đã làm vinh diệu cho chùa ; cứ mỗi kỳ đua là thắng giải nhứt. Chú nhìn chiếc ghe từ mũi chí lái : bề ngang chừng tám tấc nhưng bề dài đến năm mươi thước. Hình ảnh con rắn thần Naga mà lục cụ giảng giải khi nãy hiện ra trước mặt chú. Hai con mắt ghe chớp lên. Toàn thân ghe như rung chuyển, ngời từng đốm xanh đỏ như vảy rắn. Lái ghe, đằng xa kìa, như quơ qua quơ lại. Gió thổi rào rạt vào trại lá. Ào ! Ào ! Hai tai chú nghe lùng bùng tiếng cồn, tiếng trống, tiếng hò reo. Ghe nọ run mình đòi phóng tới, gân cốt chuyển nghe răng rắc. Khiếp quá !
***
Lục cụ ngồi trong liêu, ngóng đợi phó hương quản Hem để ra ruộng nghiên cứu xác chiếc ghe thiên cổ nọ.
Trời quá trưa. Rồi mãi xế chiều, chú phó hương quản mới tất tả bước vào, lạy cụ hai lạy như thường lệ. Ðôi mắt chú phó hương quản sáng lên :
- Vì có lịnh ông Ðốc Phủ chủ quận nên tôi phải đi hầu, về trễ.
Lục cụ sửng sốt :
- Ðòi việc gì ?
- Dạ, ông Ðốc Phủ dạy chùa mình đúng ba ngày nữa phải đem ghe tới chợ Gò Quao mà đua với ghe của mấy chùa khác.
Không tuân thì có tội.
- Tội gì ? Mới tháng này, chưa tới mùa rước nước ! Ðua ghe như vậy trái với tục lệ.
Chú phó hương quản cố suy nghĩ :
- Dạ nghe nói lễ lớn lắm. Lễ của Tây, ngày 14 tháng 7. Theo mọi năm, ở Rạch Giá mới có lễ. Năm nay, quận Gò Quao mình bắt chước phát phần thưởng.
Lục cụ Tăng Liên nghiêm mặt lại. Ðem ghe ngo của nhà chùa để đua, ăn mừng một ngày lễ chẳng liên quan gì đến dân mình nghĩ cũng khó xử thật. Không tham dự là chống lại với nhà nước Lang Sa, còn tham dự thì mất cả ý nghĩa thiêng liêng. Lục cụ bước ra khỏi liêu, đi vòng qua trại lá để ngắm chiếc ghe ngo. Cụ nói :
- Ðua thì cũng được. Ngặt mình không sửa soạn trước. Rủi thua thì mất danh xóm này. Phải bào lại cho láng, sơn hai lớp thật kỹ. Chú phó hương quản biết không ? Ghe không trơn láng đi chậm lắm, dầu mình cố sức bơi. Cẩu thả như thế này...
Chú phó hương quản nói :
- Ðây là chuyện cực chẳng đã. Chùa nào cũng vậy, họ đâu có thời giờ sửa soạn kỹ hơn mình. Dầu muốn hay không, mình cũng phải đua. Nghe nói thì quan trên giúp mỗi người một ổ bánh mì, mười người lãnh một hộp sữa. Ai về nhứt, được giải... thưởng danh dự.
Lục cụ gật đầu :
- Phải, nhưng mà... chú chắc mình thắng kỳ này không ?
Chú phó hương quản cười dòn :
- Dạ chắc. Dân xóm mình bơi giỏi lắm ; hơn nữa, mới tìm được xác chiếc ghe ngo xưa. Ghe có hồn, lục cụ à ! Hồn chiếc ghe xưa giúp chiếc ghe đời nay. Hồi hôm qua, hèn chi tôi nghe chiếc ghe ngo này chuyển mình răng rắc như sung sức lắm.
Thế là sáng hôm sau lục cụ đích thân đọc kinh làm phép cho ghe ngo. Ghe đẩy xuống nước ; bao nhiêu trai tráng trong làng hò reo vang dậy như... lân thấy pháo. Sáu mươi bốn cây đầm nhỏ phân phát ra, mỗi người một cây. Trước mũi ghe, cây lọng đỏ giương lên che một cái khay nhỏ đầy rượu, nhang, trầu, hoa quả và một ông Phật bằng vàng lớn cỡ ngón tay cái.
Chú phó hương quản được hân hạnh lãnh trách nhiệm chỉ huy cuộc chiến đấu sắp tới. Chú lạy lục cụ rồi đến ngồi nơi mũi ghe, dưới bóng cây lọng. Ba mươi cặp thanh niên lực lưỡng từ từ bước xuống, ngồi sắp hàng hai. Bè ghe khẳm, ngang mí nước, tưởng chừng xê xích một phân nữa là chìm. Nhưng không đâu ! Chú phó hương quản đã vấn chiếc khăn nhiễu đỏ lên đầu rồi đánh vào cái cồn nhỏ :
- Môn ! Môn ! Môn !...
Ðoàn lực sĩ hạ dầm xuống khoát nước, nhịp nhàng. Chiếc ghe ngo phóng tới từng bực rồi nổi lên cao khỏi mặt nước. Nước văng trắng xóa hai bên. Ta thấy chú phó hương quản nâng cây dầm lên cao khỏi đầu, bơi trên không khí.
Tập dượt như vậy năm bảy bận, chú phó hương quản bắt đầu yên tâm. Lục cụ mỉm cười, ghé miệng vào tai chú mà căn dặn lần chót :
- Ngày mốt, khi sắp hàng, chú nhớ kỹ : nếu họ sắp cho mình ở phía bờ bên này thì mình phải lấn tới chừng một tấc. Nước ngược chảy bên này mạnh hơn. Chùa Sóc Ven có bùa. Tránh đừng cho bên họ đụng nhằm ghe mình : không khéo ghe mình đứt ra làm hai khúc. Có bề gì chú ngậm ông Phật vàng vào miệng. Nhớ dặn anh em bên mình uống rượu bớt một chút. Mỗi người, phần ba lít là vừa.
Tuy nằm nhà, lục cụ Tăng Liên vẫn theo dõi được cuộc đua ghe. Cụ nhắm mắt định trí, tai lắng nghe tiếng cồn của ghe gho chùa mình. Nó khác hẳn giọng cồn của chùa khác, cao vút hơn, thanh tao hơn.
Từ sáng đến trưa, tiếng "môn, môn, môn" nghe đều đều. Cụ nhướng mắt, cau mày rồi chập sau ngáp dài, thông cảm : ngoài kia, họ "cáp" độ chưa được. Theo thường lệ, khi xuất phát hai chiếc ghe không ở lằn mức nào nhứt định. Sông quá rộng. Hai bên cứ bơi chầm chậm lấy trớn tới. hai vị chỉ huy liếc mắt nhìn nhau, khi nào đồng ý đua thì mới bắt đầu. Họ mãi "so cựa" với nhau như vậy.
Bỗng giữa trưa, tiếng cồn thúc giục rồi im bặt. Lục cụ đứng dậy, đọc kinh lâm râm, đi tới đi lui trước sân chùa. Chao ôi ! Ngoài sông Cái Lớn, hai chiếc ghe ngo đã biến thành hai con rắn thần bay trên mặt nước. Kìa, phó hương quản Hem đỏ rực như cây đuốc : khăn đỏ, mắt đỏ và da thịt đỏ vì rượu, vì máu nóng, vì ý chí bảo tồn danh dự của chùa mình. Kìa ! ghe của đối phương đang liều mạng xắn vào hông ghe bên này để được huề vì hai bên đều chìm. Nhưng người coi lái bên này nhanh tay. lách qua được. Phó hương quản Hem vội chụp lấy cây dầm nhỏ, nâng lên cao, bơi trên gió như thu hút tất cả sức mạnh của trời, của đất. Ghe vượt qua.
Ðoàn dũng sĩ ôm cán dầm sát vào ngực, ngã mạnh tới, chuyển tất cả nhân lực vào mái dầm. Nước bay trắng xóa. Sau cùng, phó hương quản vội cầm ông Phật vàng trong khay, bỏ vào miệng mà ngậm.
Lục Cụ Tăng Liên hình dung cảnh tượng dưới sông Gò Quao như vậy. Nó có thật không ? Mồ hôi tươm xuống lưng, thấm ướt áo cà sa. Cụ chắp tay vái Trời Phật rồi vào trong liêu nằm xuống thở mệt, đợi chờ.
Chiều hôm đó, tiếng hát vang dậy, tiếng cồn nhịp nhàng đưa đến ngày một gần. Lục cụ đoán đó là điềm chiến thắng. Cụ rửa mặt, lên chùa thắp nhang để tạ ơn đức bên trên.
Nhưng phó hương quản Hem bước vào lạy cụ. Gương mặt của chú lạnh như đồng, gợn chút gì buồn bã.
Lục cụ hỏi :
- Sao vậy ? Mình thua người ta à ?
Chú đáp :
- Dạ, mình thắng. Nhưng mà...
- Sao ?
- Nhưng mà được giải thưởng...
Lục cụ trố mắt :
- Ðược giải thưởng, có gì mà chú ngại. Tiền bạc hả ? Vải bô hả ? Nhang đèn hả ? Năm nay, nhà nước cho vật gì ?
Chú phó hương quản Hem im lặng, chập sau mới bước ra ngoài đem vào một gói giấy lớn, từ từ mở ra thì ô hô ! Ðó là một lá cờ tam sắc to tướng.
Chú nói :
- Cái này của ông Ðốc Phủ tặng chùa mình, phần thưởng hạng nhứt.
Lục cụ không nói nửa tiếng, nuốt nước miếng như cố nén chút gì tủi nhục, xót xa. Hồi lâu, cụ lắc đầu, cười xòa rồi đỡ chú phó hương quản đứng dậy. Hai người bước ra sân. Một quang cảnh náo nhiệt diễn ra : bao nhiêu trai tráng đang nằm trên bãi cát, trên đất bùn. Kẻ thì hát nghêu ngao. Kẻ thì ôm ngực mửa ra nào là rượu, bánh mì, kẻ thì vói tay lên như gào thét, đòi thêm rượu nữa.
Chú phó hương quản nói :
- Dạ, bây giờ mình khiêng ghe ngo lên trại, mai mốt sợ không ai rảnh.
Lục cụ nói :
- Phải. Rồi chú ở đây với tôi. Tôi buồn quá. Có chút chuyện cần.
Chú phó hương quản sực nhớ đến chiếc ghe ngo thiên cổ vừa tìm được mấy ngày trước. Nếu hổm rày không bận việc đua ghe này, có lẽ chú xin phép đào nó lên được. Và lục cụ chắc cũng đã dạy chú nhiều bài học hay hơn.
Chú nói :
- Mình ra ruộng, tiếp tục đào chiếc ghe xưa coi thử, phải không lục cụ ?
Lục cụ đáp :
- Thôi. Mình cứ lấp đất lại cho chiếc ghe đó yên thân, khỏi bận hồn người xưa. Nay mai, vài chục năm nữa, chiếc ghe của chùa mình cũng vậy. Vạn vật đều biến đổi. Duy có nụ cười của đức Quan Âm bốn mặt... Bốn mặt của Ngài nhìn bốn phía để cứu khổ chúng sinh, khuyên ai nấy trầm tĩnh vì sự đời mãi đổi thay, thay đổi.
***
Sơn Nam : Con Bảy đưa đò
Con Bảy đưa đò
Rạch Cái Cau là ngọn sông Cái Lớn ăn qua địa phận tỉnh Cần Thơ. Trên ba mươi năm về trước, đó là nơi sầm uất, lau sậy mọc um tùm quanh mấy gốc bần to lớn cỡ hai người ôm không xuể. Sớm thì chim kêu, chiều thì vượn hú, quang cảnh buồn bã làm sao ! Thỉnh thoảng, có người bảo rằng : giữa đêm khuya nghe tiếng cọp rống. Những tin đồn đãi bất lành như vậy lần lần bị đánh tan và không còn làm cho ai sợ sệt nữa. Kìa kinh Xáng Lái Hiếu vừa múc xong ! Ngọn nước bạc mát lạnh, ngon lành đổ tuôn qua Rạch Giá, mang mấy dề lục bình lá xanh bông tím trôi phiêu lưu từ sông Hậu Giang ra ngoài khơi vịnh Xiêm La xa thẳm.
Sông rạch thông thương, vàm Cái Cau lần lần có người đến cất nhà đông đúc thành xóm nhỏ, có ông hương ấp đứng đầu. Ông hương ấp họ tên gì ? Nhà ở lối nào ? Ðiều đó khách thương hồ ít ai quan tâm đến.
Có qua đây, dầu vô tình đến cách mấy đi nữa họ cũng phải chú ý đến một cái tên, hay nói đúng hơn là một giọng hát : giọng hát của con Bảy đưa đò. Nó xa lạ nhưng quen thân, ấm áp. Khi cất lên thì cao hơn tầm bay bổng của con cò, con vạc, cao vút tận mấy vì sao đêm lấp lánh ; giọng ấy lúc buông trầm xuống thì như hơi gió xao động cả giòng sông, chuyển rung mặt nước dẫu khi thuyền đã xa khuất. Nó trở thành một lớp mù sương mờ ảo che lấp bóng dáng của người hát. Khách ngẩn ngơ nhìn theo không còn thấy gì nữa tâm trí bâng khuâng giữa cảnh sông rạch âm u với nhánh "bần gie con đốm đậu sáng ngời".
Người hát hay thường thường là có nhan sắc.
Bao nhiêu người tưởng tượng như vậy. Họ tìm tòi rồi đâm ra thất vọng. Vài người quả quyết :
- Cô lái đò này mặt rỗ hoa mè.
Nhưng rồi không nói ra, họ cũng phải nhìn nhận một sự thật : con Bảy có gương mặt chữ điền, đôi mắt đen lánh và vóc hình cao ráo.
Lý lịch của con Bảy ra sao ? Chuyện đó lại càng khó hiểu. Chính ông hương ấp cũng chưa rõ vì hồi đó đàn bà, con gái không mang giấy chứng chỉ nên không có ghi tên vào bộ sổ. Mấy người ở lâu năm tại vùng này nói lại : năm đó, đâu từ miệt Cần Thơ, con Bảy xuống đây gặt mướn. Có điều lạ là đến khi rồi mùa thì cất chòi mà ở luôn chớ không về xứ. Năm sau, người mẹ già mang bịnh mà chết. Con Bảy đành sống một mình, hằng đêm chuyên nghề bán bánh bò cho ghe xuồng qua lại để độ nhựt ; sau đó, đưa đò. Xóm này bao nhiêu trai làng gấm ghé nhưng nó không ưng ai. Lần lần thiên hạ phải dang ra.
Dạo nọ, cậu trai làng con của ông hương ấp vừa học được câu hát :
- Hò... ơ... Anh muốn gá chữ lương duyên với em trăm năm tình chồng nghĩa vợ. Mai sau anh có vô phần từ trần, xấu phước chết trước thì em ơi ! Ðừng chôn xác anh dưới nước sâu sợ e con đỉa cắn, đừng chôn anh trên gò bởi ngại con mối ăn...
Gái trong làng không ai đối được. Cậu trai nọ thích chí hát mãi một câu ấy hầu khoe tài khoe trí của mình. Nhưng đêm sau, giọng hò con Bảy trả lời :
- Hò... ơ... Em gá chữ lương duyên với anh trăm năm tình chồng nghĩa vợ. Mai sau anh có xấu phần từ trần chết trước, em rước thợ Bắc về cẩn đá lục lăng để chôn chàng.
Nghe câu đáp, ai nấy tấm tắc khen ngợi. Khi nấm mồ được cẩn đá thì sợ gì đỉa cắn, mối ăn. Ðó là cách giải quyết ổn thỏa nhất của mối tình bền như đá. Cậu trai nọ suy nghĩ tìm nhớ câu rao khác để thử tài con Bảy. Nhưng giọng con Bảy vội đuổi theo :
- Hò ơ... Gái tôi không hò đến chuyện Tây Du thì thôi, chớ hò đến chuyện Tây Du thì nhắc từ thuở xưa kia Tề Thiên Ðại Thánh loạn Thiên Cung đánh trời giành đất làm cho ông Nhạc Hoàng xang bang xấc bấc, đến chừng thác xuống đất bị Ngũ Hành Sơn chụp đè. Phật Bà có dặn : Này Tôn Hành Giả ơi ! Nằm xuống đây chờ chừng nào Tam Tạng đi thỉnh kinh mi hãy đi theo làm đệ tử, Tam Tạng đi đến chợt thấy Tề Thiên nên mau mau chạy đến gỡ hai lá bùa... Tề thiên vùng mình đứng dậy được, nhưng mình mẩy thì ôi thôi... rong rêu đóng giáp, lỗ mũi thì cỏ mọc xanh lè... Bớ trai chàng có thấy không?
Cậu trai đành chịu thua không đáp được, về nhà sanh bịnh tương tư. Trong cơn bịnh triền miên, có lần cậu đánh bạo bơi xuồng qua nhà con Bảy để tỏ nổi lòng :
- Hò... ơ... Hột châu nhỏ xuống khoang hầm,
Em ơi ! Phận em là gái phải có chồng nay mai.
Con Bảy vội đáp :
- Hộ hôn, điền thổ, đổ lửa mái nhà,
Ðứa nào muốn bậu, ông bà cháy tiêu...
Tức tối biết bao nhiêu ! Cậu trai quay trở về. Quả thật cô ta hỗn xược dám khinh rẻ cậu và cả đám trai tơ ở xóm vàm này. Cũng may, câu đáp ấy nhỏ giọng vừa đủ cho cậu nghe thôi. Câu âm thầm ôm mối hận, hằng đêm tự an ủi :
- Ðèn treo Trường án, tỏ rạng bờ kinh.
Bình Thủy lưu linh, đáo lại Long Tuyền.
Trà Niền, Kinh Xăng, Ba Láng, Cái Răng
Hơn không hơn cũng kiếm cho bằng.
Có đâu thua bạn, bạn hành cười chê...
Nhưng ở đồng quê, chuyện gì xảy ra lần lần thiên hạ đều hay biết. Họ không tiếc lời để mỉa mai con Bảy :
- Ừ, Trời cao có mắt. "Cao nhơn tắc hữu cao nhơn trị". "Trèo cao té nặng. Ngó cao đau ót".
Cái ngày ấy lại đến.
***
Như thường lệ, con Bảy sửa soạn lên bờ ngủ. Khuya ít có khách sang ngang. Hơn nửa, trời chuyển mưa đen kịt phía Nam. Nhưng kia, một ánh đèn nho nhỏ chói lềnh bềnh giữa sông, từ từ trôi lại như cố ý đón đầu :
- Hò... ơ... Thân anh như con phụng lạc bầy.
Thấy em lẻ bạn, anh muốn vầy duyên loan.
Câu rao ấy thuộc loại tầm thường ! Nhưng cảm mến cái giọng trai ấm áp, con Bảy hát lại :
- Gặp mặt anh đây, em muốn vầy hai họ,
Sợ vợ anh ở nhà tiếng nọ tiếng kia.
Khách cười to :
- Anh nói với em, anh đã có vợ nhà.
Vợ thì mặc vợ, anh xử hoà thì thôi !
Thừa lúc con Bảy đang rối trí, khách hò thêm một hơi :
- Anh thương em, thương quấn thương quít,
Bồng ra gốc mít. Bồng xít gốc chanh.
Bồng quanh đám sậy. Bồng bậy vô mui.
Bồng lủi sang lái. Bồng ngoáy trước mũi.
Ðặt em nằm xuống đây...
Kể từ hồi em đau ban cua lưỡi trắng, miệng đắng, cơm hôi.
Tiếc công anh đỡ đứng, bồng ngồi.
Bây giờ em vinh hiển... em bắt anh đi bán nồi làm chi ?
Ý trách người tình nhân bạc bẽo ! Trí nhớ của con Bảy bao giờ cũng có cách sẵn sàng ứng phó :
- Bánh bò một vốn ba bốn đồng lời, khuyên anh ở nhà cứ việc ăn chơi. Ðể em đi bán kiếm ít tiền lời, trước nuôi ba với má, sau lại nuôi mình...
Cũng là tưởng nghĩa tưởng tình. Ai dè anh bạc nghĩa em phải ở một mình bơ vơ !
Khách bên xuồng nọ lên tiếng :
- Ờ nàng ơi !
Khiến nghĩa bất vi vô dõng giã, lâm nguy bất cứu mạc anh hùng. Nàng còn nghĩ phận chữ tùng, thì trao dây xích buộc vòng sau đây.
Tức thì khách quày xuồng đi trước, rủ con Bảy tranh tài với khách. Nào chịu thua, con Bảy liền bơi theo sau.
Mái chèo phía trước nhịp nhàng :
- Ðêm khuya anh thức dậy xem trời ;
Anh thấy sao Nguyệt Bạch, ngó xuống lòng rạch, anh thấy con cá chạch nó lội đỏ đuôi.
Nước chảy xuôi, con cá buôi nó lội ngược.
Nước chảy ngược, con cá nược nó lội theo.
Anh than với em rằng số phận anh nghèo.
Ðũa tre đâu dám đánh đèo với đũa mun.
Giọng con bảy lảnh lót đuổi theo :
- Canh khuya em thức dậy, em lau nĩa rửa dĩa, dọn bàn,
Tay em san rượu chát, miệng em hát một đôi câu.
Trên lầu kia tiếng chuông đánh rộ,
Dưới nhà việc trống đổ tàn canh.
Em đây lịch sự chi đó mà đi đâu năm bảy người giành ?
Giả như con cá kia ở chợ, dạ ai đành nấy mua.
Ðến khúc sông vắng, xuồng của chàng từ từ dừng lại. Con Bảy cũng lơi mái chèo. Bên ngọn, gương mặt của chàng rõ ràng là khôi ngô, tuấn tú. Chàng nói :
- Cô Bảy hò hay quá.
Con Bảy cúi đầu :
- Anh hò hay hơn em đó chớ !
- Anh khen cái giọng hò của cô em. Nghe sao mà ngộ quá. Cô em dạy cho tôi...
- Có gì mà dạy. Ðó là điệu "hò bánh bò" bắt chước giọng rao bán bánh bò trên sông. Ở đây sông rộng, nhà cửa, ghe xuồng thưa thớt. Mình phải có giọng vừa cao vừa dài, che lấp hết, để cho ai nấy nghe được mình. Khó hơn giọng hò cấy nhiều lắm, vì hò cấy có nhiều người ở gần mình để "hòa hơi" theo. Ở đây mình hò một mình.
Ðôi mắt của chàng sáng lên, ngạc nhiên :
- Vậy sao ? Hồi nào tới giờ tôi không hiểu rành.
- Ủa ! Chàng ở xứ lạ mới đến à ?
- Phải. Tôi ở Bình Thủy-Phong Ðiền xuống đây. Nhưng ở đâu cũng là non với nước.
- Em gốc ở Ba Láng. Vậy là cũng như một quê. Em đến đây hai năm rồi. Lúc này ở trển ra sao ?
- Cũng vậy... Hồi tháng sáu, Tây ăn lễ lộc gì đó. Cụ cử Hoành ở Sa Ðéc không chịu treo cờ của nó trước nhà. Thiên hạ đồn, không biết hư thiệt... rằng ngày lễ ấy cụ treo quần trước cửa để phản đối. Ở Bình Thủy, cụ Tòng Hiên làm bài thơ tự trào. May thay, hương chức làng giấu nhẹm nhưng vẫn thấu tai quan trên. Lúc đề bài thơ ấy, cụ Tòng Hiên kẹp ngọn bút ở giữa hai ngón chân mà viết. Ngạo nghễ quá ! Khí khái quá ! Vừa rồi ở Cái Răng có người bị tình nghi vì đã chép bài thơ "Vịnh chó chết trôi sông" Của cụ Cử Trị mà dán giữa nhà. Vì vậy, tôi phải đi. Qua đây gặp cô, vui biết mấy. Thôi ta tạm biệt...
Nghe qua, con Bảy bùi ngùi tấc dạ ; Từ chỗ kính mến đến chỗ yêu thương chàng trai đó cũng không xa mấy. Con Bảy nhìn vầng trăng khuyết vừa hé lên khỏi ngọn bần.
- Bao giờ chàng trở lại. Em xin chờ.
Chàng cười mà đáp :
- Cám ơn.
- Lời em hứa là chắc. Hay chàng không tin nơi lời nguyền của gái đưa đò.
- Ðâu phải vậy. Chỉ sợ tôi không giữ đúng lời hứa của tôi. Chí trai bốn biển là nhà. Không có sức như chim bằng, như cá kình chớ phận con se sẻ, con tép, con tôm này cũng đòi học ngao du trong vòng đất nước nhỏ hẹp.
Dứt lời, chàng đứng dậy cất mái chèo. Con Bảy xúc động, rưng rưng nước mắt. Duyên may một đời chưa chắc gặp hai lần.
- Vậy thì xin chàng dạy lại cho em một đôi câu hò... để em nhớ đời.
- Cô hò đã hay mà lại có duyên. Tôi còn biết gì mà dạy thêm. Họa chăng chỉ có một tấm lòng này...
"Một tấm lòng" ! Con Bảy mãi suy nghĩ về ba tiếng đó, chừng giựt mình nhìn lại thì chàng đã khuất dạng trong lớp sương khuya.
***
Cầu cao ba mươi sáu nhịp,
Em qua không kịp,
Nhắn lại cùng chàng :
Cái nghĩa tào khang sao chàng vội dứt ?
Ðêm nằm thao thức, tưởng đó với đây,
Biết nơi nao cho phụng gặp bầy,
Cho le gặp bạn,
Ruột đau từng đoạn,
Gan thắt chín từng,
Ðôi ta như quế với gừng,
Dầu xa nhau nữa cũng đừng tiếng chi.
Bây giờ, con Bảy đưa đò đã già ; người ở chợ vàm lại kêu bằng dì Bảy Ðò. Cứ mỗi sáng, dì ngồi đó nhưng tâm trí bâng khuâng theo câu hát nói trên. Chàng trai trẻ năm xưa như con nhạn bay xa. Phận của dì ví như con le bơi lội lẩn quẩn trong ao hồ nhỏ hẹp. "Dầu xa nhau nữa cũng đừng tiếng chi". Phải chăng là dì năn nỉ chàng trai năm xưa đừng khinh dì là người kém lòng yêu non nước ? Mấy năm rồi, dì không còn đưa đò nữa. Ngang kinh Xàng đã có cây cầu sắt. Trên, xe hơi chạy. Dưới, tàu đò đưa. Ngay tại vàm xóm nhà cũ lần lần tản ra, nhường chỗ cho một nhà lồng chợ.
Hồi nào thênh thang trời rộng sông dài, giờ đây dì ngồi lì một chỗ. Hồi nào trăng trong gió mát, giờ đây dì phải chịu đựng từ hừng đông tới lúc tan chợ trưa, bên một lò lửa cháy và một nồi nước sôi ! Nãy giờ chúng tôi quên nói rõ : dì chuyên bán thịt heo luộc.
Nếu thời xưa dì nổi danh về câu hát câu hò, ngày nay món thịt heo luộc của dì cũng ngon ngọt không đâu sánh kịp. Thịt heo già, thịt heo nái mà dì luộc rồi thì cũng trở nên mềm mại, không dai, da thật dòn. Bởi vậy, lắm người ở chợ lân cận đến đây tìm mua cho được để nhậu hoặc ăn với bánh hỏi.
Lắm người khách tò mò :
- Dì Bảy à, Dượng Bảy đâu rồi ! Sao ở đây không ai biết cả ?
Dì đáp :
- Dượng Bảy đâu còn ! Cũng như không. Dì... ở góa hằng chục năm rồi mấy cháu à...
- Làm sao thịt heo của dì luộc ngon quá vậy ? Chỉ cho chúng tôi học với.
- Có khó gì đâu. Nhưng... mà khó lắm ! Phải luộc trong nồi nước có để chút xíu phèn. Ðừng cho nước quá sôi mà hại đó mấy cháu ! khi nước sôi thì đổ vô một lon nước lạnh. Cứ như vậy hoài. Dì chỉ cho nhiều người nhưng họ luộc không ngon, nói rằng dì giấu nghề...
- Ờ... nghe mấy bà già nói rằng hồi đó dì đưa đò, hò hát hay lắm phải không dì Bảy ? Dì nhớ lại, dạy dùm chúng tôi...
Thiệt là khó quá. Không dạy, e mang tiếng làm hiểm. Mà dạy thì dạy làm sao ? Ngồi đây mà nhớ đến cái thời xuân xanh năm nào ! Nó như chiếc lá già rụng, mục nát trở về lòng đất để làm phân cho nghững cây tơ khác đâm lộc nẩy hoa. Nó như một chiếc xuồng cũ kéo lên trên đất khô, phơi dưới ánh nắng day gắt. Còn đâu hơi gió cũ ? Còn đâu ánh trăng xưa ? Còn đâu hơi thở, còn đâu dáng người ? Còn đâu bến sông "nhánh bần gie con đốm đậu" ?
Buộc lòng dì Bảy nói một câu :
- Cái việc hò hát cũng như cái việc luộc thịt heo vậy. Ai làm cũng được. Cách thức dễ ợt. Nhưng mà công phu lắm.
- Công phu là thế nào dì Bảy ?
Im Lặng, chập sau dì đáp :
- Ở đây, hồi đó có người nói là cần "một tấm lòng".
***
Rạch Cái Cau là ngọn sông Cái Lớn ăn qua địa phận tỉnh Cần Thơ. Trên ba mươi năm về trước, đó là nơi sầm uất, lau sậy mọc um tùm quanh mấy gốc bần to lớn cỡ hai người ôm không xuể. Sớm thì chim kêu, chiều thì vượn hú, quang cảnh buồn bã làm sao ! Thỉnh thoảng, có người bảo rằng : giữa đêm khuya nghe tiếng cọp rống. Những tin đồn đãi bất lành như vậy lần lần bị đánh tan và không còn làm cho ai sợ sệt nữa. Kìa kinh Xáng Lái Hiếu vừa múc xong ! Ngọn nước bạc mát lạnh, ngon lành đổ tuôn qua Rạch Giá, mang mấy dề lục bình lá xanh bông tím trôi phiêu lưu từ sông Hậu Giang ra ngoài khơi vịnh Xiêm La xa thẳm.
Sông rạch thông thương, vàm Cái Cau lần lần có người đến cất nhà đông đúc thành xóm nhỏ, có ông hương ấp đứng đầu. Ông hương ấp họ tên gì ? Nhà ở lối nào ? Ðiều đó khách thương hồ ít ai quan tâm đến.
Có qua đây, dầu vô tình đến cách mấy đi nữa họ cũng phải chú ý đến một cái tên, hay nói đúng hơn là một giọng hát : giọng hát của con Bảy đưa đò. Nó xa lạ nhưng quen thân, ấm áp. Khi cất lên thì cao hơn tầm bay bổng của con cò, con vạc, cao vút tận mấy vì sao đêm lấp lánh ; giọng ấy lúc buông trầm xuống thì như hơi gió xao động cả giòng sông, chuyển rung mặt nước dẫu khi thuyền đã xa khuất. Nó trở thành một lớp mù sương mờ ảo che lấp bóng dáng của người hát. Khách ngẩn ngơ nhìn theo không còn thấy gì nữa tâm trí bâng khuâng giữa cảnh sông rạch âm u với nhánh "bần gie con đốm đậu sáng ngời".
Người hát hay thường thường là có nhan sắc.
Bao nhiêu người tưởng tượng như vậy. Họ tìm tòi rồi đâm ra thất vọng. Vài người quả quyết :
- Cô lái đò này mặt rỗ hoa mè.
Nhưng rồi không nói ra, họ cũng phải nhìn nhận một sự thật : con Bảy có gương mặt chữ điền, đôi mắt đen lánh và vóc hình cao ráo.
Lý lịch của con Bảy ra sao ? Chuyện đó lại càng khó hiểu. Chính ông hương ấp cũng chưa rõ vì hồi đó đàn bà, con gái không mang giấy chứng chỉ nên không có ghi tên vào bộ sổ. Mấy người ở lâu năm tại vùng này nói lại : năm đó, đâu từ miệt Cần Thơ, con Bảy xuống đây gặt mướn. Có điều lạ là đến khi rồi mùa thì cất chòi mà ở luôn chớ không về xứ. Năm sau, người mẹ già mang bịnh mà chết. Con Bảy đành sống một mình, hằng đêm chuyên nghề bán bánh bò cho ghe xuồng qua lại để độ nhựt ; sau đó, đưa đò. Xóm này bao nhiêu trai làng gấm ghé nhưng nó không ưng ai. Lần lần thiên hạ phải dang ra.
Dạo nọ, cậu trai làng con của ông hương ấp vừa học được câu hát :
- Hò... ơ... Anh muốn gá chữ lương duyên với em trăm năm tình chồng nghĩa vợ. Mai sau anh có vô phần từ trần, xấu phước chết trước thì em ơi ! Ðừng chôn xác anh dưới nước sâu sợ e con đỉa cắn, đừng chôn anh trên gò bởi ngại con mối ăn...
Gái trong làng không ai đối được. Cậu trai nọ thích chí hát mãi một câu ấy hầu khoe tài khoe trí của mình. Nhưng đêm sau, giọng hò con Bảy trả lời :
- Hò... ơ... Em gá chữ lương duyên với anh trăm năm tình chồng nghĩa vợ. Mai sau anh có xấu phần từ trần chết trước, em rước thợ Bắc về cẩn đá lục lăng để chôn chàng.
Nghe câu đáp, ai nấy tấm tắc khen ngợi. Khi nấm mồ được cẩn đá thì sợ gì đỉa cắn, mối ăn. Ðó là cách giải quyết ổn thỏa nhất của mối tình bền như đá. Cậu trai nọ suy nghĩ tìm nhớ câu rao khác để thử tài con Bảy. Nhưng giọng con Bảy vội đuổi theo :
- Hò ơ... Gái tôi không hò đến chuyện Tây Du thì thôi, chớ hò đến chuyện Tây Du thì nhắc từ thuở xưa kia Tề Thiên Ðại Thánh loạn Thiên Cung đánh trời giành đất làm cho ông Nhạc Hoàng xang bang xấc bấc, đến chừng thác xuống đất bị Ngũ Hành Sơn chụp đè. Phật Bà có dặn : Này Tôn Hành Giả ơi ! Nằm xuống đây chờ chừng nào Tam Tạng đi thỉnh kinh mi hãy đi theo làm đệ tử, Tam Tạng đi đến chợt thấy Tề Thiên nên mau mau chạy đến gỡ hai lá bùa... Tề thiên vùng mình đứng dậy được, nhưng mình mẩy thì ôi thôi... rong rêu đóng giáp, lỗ mũi thì cỏ mọc xanh lè... Bớ trai chàng có thấy không?
Cậu trai đành chịu thua không đáp được, về nhà sanh bịnh tương tư. Trong cơn bịnh triền miên, có lần cậu đánh bạo bơi xuồng qua nhà con Bảy để tỏ nổi lòng :
- Hò... ơ... Hột châu nhỏ xuống khoang hầm,
Em ơi ! Phận em là gái phải có chồng nay mai.
Con Bảy vội đáp :
- Hộ hôn, điền thổ, đổ lửa mái nhà,
Ðứa nào muốn bậu, ông bà cháy tiêu...
Tức tối biết bao nhiêu ! Cậu trai quay trở về. Quả thật cô ta hỗn xược dám khinh rẻ cậu và cả đám trai tơ ở xóm vàm này. Cũng may, câu đáp ấy nhỏ giọng vừa đủ cho cậu nghe thôi. Câu âm thầm ôm mối hận, hằng đêm tự an ủi :
- Ðèn treo Trường án, tỏ rạng bờ kinh.
Bình Thủy lưu linh, đáo lại Long Tuyền.
Trà Niền, Kinh Xăng, Ba Láng, Cái Răng
Hơn không hơn cũng kiếm cho bằng.
Có đâu thua bạn, bạn hành cười chê...
Nhưng ở đồng quê, chuyện gì xảy ra lần lần thiên hạ đều hay biết. Họ không tiếc lời để mỉa mai con Bảy :
- Ừ, Trời cao có mắt. "Cao nhơn tắc hữu cao nhơn trị". "Trèo cao té nặng. Ngó cao đau ót".
Cái ngày ấy lại đến.
***
Như thường lệ, con Bảy sửa soạn lên bờ ngủ. Khuya ít có khách sang ngang. Hơn nửa, trời chuyển mưa đen kịt phía Nam. Nhưng kia, một ánh đèn nho nhỏ chói lềnh bềnh giữa sông, từ từ trôi lại như cố ý đón đầu :
- Hò... ơ... Thân anh như con phụng lạc bầy.
Thấy em lẻ bạn, anh muốn vầy duyên loan.
Câu rao ấy thuộc loại tầm thường ! Nhưng cảm mến cái giọng trai ấm áp, con Bảy hát lại :
- Gặp mặt anh đây, em muốn vầy hai họ,
Sợ vợ anh ở nhà tiếng nọ tiếng kia.
Khách cười to :
- Anh nói với em, anh đã có vợ nhà.
Vợ thì mặc vợ, anh xử hoà thì thôi !
Thừa lúc con Bảy đang rối trí, khách hò thêm một hơi :
- Anh thương em, thương quấn thương quít,
Bồng ra gốc mít. Bồng xít gốc chanh.
Bồng quanh đám sậy. Bồng bậy vô mui.
Bồng lủi sang lái. Bồng ngoáy trước mũi.
Ðặt em nằm xuống đây...
Kể từ hồi em đau ban cua lưỡi trắng, miệng đắng, cơm hôi.
Tiếc công anh đỡ đứng, bồng ngồi.
Bây giờ em vinh hiển... em bắt anh đi bán nồi làm chi ?
Ý trách người tình nhân bạc bẽo ! Trí nhớ của con Bảy bao giờ cũng có cách sẵn sàng ứng phó :
- Bánh bò một vốn ba bốn đồng lời, khuyên anh ở nhà cứ việc ăn chơi. Ðể em đi bán kiếm ít tiền lời, trước nuôi ba với má, sau lại nuôi mình...
Cũng là tưởng nghĩa tưởng tình. Ai dè anh bạc nghĩa em phải ở một mình bơ vơ !
Khách bên xuồng nọ lên tiếng :
- Ờ nàng ơi !
Khiến nghĩa bất vi vô dõng giã, lâm nguy bất cứu mạc anh hùng. Nàng còn nghĩ phận chữ tùng, thì trao dây xích buộc vòng sau đây.
Tức thì khách quày xuồng đi trước, rủ con Bảy tranh tài với khách. Nào chịu thua, con Bảy liền bơi theo sau.
Mái chèo phía trước nhịp nhàng :
- Ðêm khuya anh thức dậy xem trời ;
Anh thấy sao Nguyệt Bạch, ngó xuống lòng rạch, anh thấy con cá chạch nó lội đỏ đuôi.
Nước chảy xuôi, con cá buôi nó lội ngược.
Nước chảy ngược, con cá nược nó lội theo.
Anh than với em rằng số phận anh nghèo.
Ðũa tre đâu dám đánh đèo với đũa mun.
Giọng con bảy lảnh lót đuổi theo :
- Canh khuya em thức dậy, em lau nĩa rửa dĩa, dọn bàn,
Tay em san rượu chát, miệng em hát một đôi câu.
Trên lầu kia tiếng chuông đánh rộ,
Dưới nhà việc trống đổ tàn canh.
Em đây lịch sự chi đó mà đi đâu năm bảy người giành ?
Giả như con cá kia ở chợ, dạ ai đành nấy mua.
Ðến khúc sông vắng, xuồng của chàng từ từ dừng lại. Con Bảy cũng lơi mái chèo. Bên ngọn, gương mặt của chàng rõ ràng là khôi ngô, tuấn tú. Chàng nói :
- Cô Bảy hò hay quá.
Con Bảy cúi đầu :
- Anh hò hay hơn em đó chớ !
- Anh khen cái giọng hò của cô em. Nghe sao mà ngộ quá. Cô em dạy cho tôi...
- Có gì mà dạy. Ðó là điệu "hò bánh bò" bắt chước giọng rao bán bánh bò trên sông. Ở đây sông rộng, nhà cửa, ghe xuồng thưa thớt. Mình phải có giọng vừa cao vừa dài, che lấp hết, để cho ai nấy nghe được mình. Khó hơn giọng hò cấy nhiều lắm, vì hò cấy có nhiều người ở gần mình để "hòa hơi" theo. Ở đây mình hò một mình.
Ðôi mắt của chàng sáng lên, ngạc nhiên :
- Vậy sao ? Hồi nào tới giờ tôi không hiểu rành.
- Ủa ! Chàng ở xứ lạ mới đến à ?
- Phải. Tôi ở Bình Thủy-Phong Ðiền xuống đây. Nhưng ở đâu cũng là non với nước.
- Em gốc ở Ba Láng. Vậy là cũng như một quê. Em đến đây hai năm rồi. Lúc này ở trển ra sao ?
- Cũng vậy... Hồi tháng sáu, Tây ăn lễ lộc gì đó. Cụ cử Hoành ở Sa Ðéc không chịu treo cờ của nó trước nhà. Thiên hạ đồn, không biết hư thiệt... rằng ngày lễ ấy cụ treo quần trước cửa để phản đối. Ở Bình Thủy, cụ Tòng Hiên làm bài thơ tự trào. May thay, hương chức làng giấu nhẹm nhưng vẫn thấu tai quan trên. Lúc đề bài thơ ấy, cụ Tòng Hiên kẹp ngọn bút ở giữa hai ngón chân mà viết. Ngạo nghễ quá ! Khí khái quá ! Vừa rồi ở Cái Răng có người bị tình nghi vì đã chép bài thơ "Vịnh chó chết trôi sông" Của cụ Cử Trị mà dán giữa nhà. Vì vậy, tôi phải đi. Qua đây gặp cô, vui biết mấy. Thôi ta tạm biệt...
Nghe qua, con Bảy bùi ngùi tấc dạ ; Từ chỗ kính mến đến chỗ yêu thương chàng trai đó cũng không xa mấy. Con Bảy nhìn vầng trăng khuyết vừa hé lên khỏi ngọn bần.
- Bao giờ chàng trở lại. Em xin chờ.
Chàng cười mà đáp :
- Cám ơn.
- Lời em hứa là chắc. Hay chàng không tin nơi lời nguyền của gái đưa đò.
- Ðâu phải vậy. Chỉ sợ tôi không giữ đúng lời hứa của tôi. Chí trai bốn biển là nhà. Không có sức như chim bằng, như cá kình chớ phận con se sẻ, con tép, con tôm này cũng đòi học ngao du trong vòng đất nước nhỏ hẹp.
Dứt lời, chàng đứng dậy cất mái chèo. Con Bảy xúc động, rưng rưng nước mắt. Duyên may một đời chưa chắc gặp hai lần.
- Vậy thì xin chàng dạy lại cho em một đôi câu hò... để em nhớ đời.
- Cô hò đã hay mà lại có duyên. Tôi còn biết gì mà dạy thêm. Họa chăng chỉ có một tấm lòng này...
"Một tấm lòng" ! Con Bảy mãi suy nghĩ về ba tiếng đó, chừng giựt mình nhìn lại thì chàng đã khuất dạng trong lớp sương khuya.
***
Cầu cao ba mươi sáu nhịp,
Em qua không kịp,
Nhắn lại cùng chàng :
Cái nghĩa tào khang sao chàng vội dứt ?
Ðêm nằm thao thức, tưởng đó với đây,
Biết nơi nao cho phụng gặp bầy,
Cho le gặp bạn,
Ruột đau từng đoạn,
Gan thắt chín từng,
Ðôi ta như quế với gừng,
Dầu xa nhau nữa cũng đừng tiếng chi.
Bây giờ, con Bảy đưa đò đã già ; người ở chợ vàm lại kêu bằng dì Bảy Ðò. Cứ mỗi sáng, dì ngồi đó nhưng tâm trí bâng khuâng theo câu hát nói trên. Chàng trai trẻ năm xưa như con nhạn bay xa. Phận của dì ví như con le bơi lội lẩn quẩn trong ao hồ nhỏ hẹp. "Dầu xa nhau nữa cũng đừng tiếng chi". Phải chăng là dì năn nỉ chàng trai năm xưa đừng khinh dì là người kém lòng yêu non nước ? Mấy năm rồi, dì không còn đưa đò nữa. Ngang kinh Xàng đã có cây cầu sắt. Trên, xe hơi chạy. Dưới, tàu đò đưa. Ngay tại vàm xóm nhà cũ lần lần tản ra, nhường chỗ cho một nhà lồng chợ.
Hồi nào thênh thang trời rộng sông dài, giờ đây dì ngồi lì một chỗ. Hồi nào trăng trong gió mát, giờ đây dì phải chịu đựng từ hừng đông tới lúc tan chợ trưa, bên một lò lửa cháy và một nồi nước sôi ! Nãy giờ chúng tôi quên nói rõ : dì chuyên bán thịt heo luộc.
Nếu thời xưa dì nổi danh về câu hát câu hò, ngày nay món thịt heo luộc của dì cũng ngon ngọt không đâu sánh kịp. Thịt heo già, thịt heo nái mà dì luộc rồi thì cũng trở nên mềm mại, không dai, da thật dòn. Bởi vậy, lắm người ở chợ lân cận đến đây tìm mua cho được để nhậu hoặc ăn với bánh hỏi.
Lắm người khách tò mò :
- Dì Bảy à, Dượng Bảy đâu rồi ! Sao ở đây không ai biết cả ?
Dì đáp :
- Dượng Bảy đâu còn ! Cũng như không. Dì... ở góa hằng chục năm rồi mấy cháu à...
- Làm sao thịt heo của dì luộc ngon quá vậy ? Chỉ cho chúng tôi học với.
- Có khó gì đâu. Nhưng... mà khó lắm ! Phải luộc trong nồi nước có để chút xíu phèn. Ðừng cho nước quá sôi mà hại đó mấy cháu ! khi nước sôi thì đổ vô một lon nước lạnh. Cứ như vậy hoài. Dì chỉ cho nhiều người nhưng họ luộc không ngon, nói rằng dì giấu nghề...
- Ờ... nghe mấy bà già nói rằng hồi đó dì đưa đò, hò hát hay lắm phải không dì Bảy ? Dì nhớ lại, dạy dùm chúng tôi...
Thiệt là khó quá. Không dạy, e mang tiếng làm hiểm. Mà dạy thì dạy làm sao ? Ngồi đây mà nhớ đến cái thời xuân xanh năm nào ! Nó như chiếc lá già rụng, mục nát trở về lòng đất để làm phân cho nghững cây tơ khác đâm lộc nẩy hoa. Nó như một chiếc xuồng cũ kéo lên trên đất khô, phơi dưới ánh nắng day gắt. Còn đâu hơi gió cũ ? Còn đâu ánh trăng xưa ? Còn đâu hơi thở, còn đâu dáng người ? Còn đâu bến sông "nhánh bần gie con đốm đậu" ?
Buộc lòng dì Bảy nói một câu :
- Cái việc hò hát cũng như cái việc luộc thịt heo vậy. Ai làm cũng được. Cách thức dễ ợt. Nhưng mà công phu lắm.
- Công phu là thế nào dì Bảy ?
Im Lặng, chập sau dì đáp :
- Ở đây, hồi đó có người nói là cần "một tấm lòng".
***
Ðảng "cánh buồm đen"
Sơn Nam
Từ thuở nhỏ, Sáu Bộ theo một người bạn lên núi Cô Tô để học đạo nhưng không có đạo nào quyến rũ anh được lâu dài. Hết đạo Ớt qua tới đạo Ðất ; từ giã ông đạo Ðất, anh đến thọ giới tại cốc của ông đạo Nằm. Chán ông đạo Nằm, anh đi lang thang qua núi Dài với ý định cuốc đất làm rẫy. buổi chiều đó, anh ngồi trên phiến đá, mắt đăm đăm nhìn cảnh núi rừng, chợt thấy một ông lão râu tóc bạc phơ, tay chống gậy trầm hương từ từ đi lại. Ðoán chừng đó là một trong số trăm ngàn đạo sĩ ở vùng Thất Sơn này, anh không để ý cho lắm. Nhưng ông lão nọ bỗng dừng bước trước mặt anh, nhịp gậy xuống đất ba lần, cười lên ba tiếng lớn mà rằng :
Chim bay về núi tối rồi.
Sao không lo liệu còn ngồi chi đây ?
Anh đứng dậy, chắp tay chào. Ðạo sĩ ung dung nói :
- Chưa nghe lời ta ư ? Thời kỳ này là thời kỳ mạt pháp... Chim đã bay về núi, trời đã tối.
Anh đáp :
- Con chưa hiểu rõ. Bạch đạo sĩ, mạt pháp nghĩa là thế nào ? Phải chăng mạt pháp là người Pháp tàn mạt ?
Ðạo sĩ gật đầu :
- Khá khen cho con. Hiềm vì con có chí mà thiếu tài. Nghe con nói, bần đạo vui vẻ biết mấy như giữa trưa nắng mà uống được nước Cam lồ. Mạt pháp có nghĩa là thời kỳ giáo pháp suy đồi, đạo đức của tiền nhân không còn được thịnh. Tại vì nhân tâm rối loạn ư ? Cũng phải. Tại vì bọn Phú Lang Sa ư ? Thậm phải... Con hiểu sai nhưng mà nói đúng.
- Bạch đạo sĩ, đó là chuyện quốc sự của kẻ còn nặng lòng trần tục.
- Nhưng ở đây chúng ta chưa phải là tiên. Đạo sĩ nói.
Ðuối lý, anh cố suy nghĩ để trả lời. Ðạo sĩ nói tiếp :
- Thời buổi mạt pháp nầy chưa có ai thành tiên hoặc gặp tiên được. Ai nói ngược lại tức là dối mình, dối người, dối với non cao, dối với bể rộng... Muốn thành tiên thì phải dày công tu luyện để ngày kia giữ được chức vị cao.
- Bạch đạo sĩ, công tu luyện ấy như thế nào... Chức vị ấy gọi là chi ?
Ðạo sĩ nói lớn :
- Gọi là chức vị "chặt đầu Tây". Con nghe chưa ? Con nghe chưa ? Xưa kia đức Nguyễn Trung Trực phá Kiên giang. Lúc sa cơ, Người không mảy may úy tử. Trước pháp trường, giặc khuyến dụ trăm điều, hứa ban cho... ôi thôi bao nhiêu là bạc vàng, chức vị ! Người cả cười, chỉ xin thọ lãnh một chức vị : chức nào mà Người có quyền chặt đầu tất cả bọn Tây.
Giọng đạo sĩ như nghẹn ngào :
- Hỡi ôi ! Dũng tướng đã rơi đầu mà lời vàng ngọc nọ mãi rền vang trong lòng người, khắp non cao biển rộng... Chặt đầu Tây! chặt đầu Tây !
Dứt lời, đạo sĩ quay mình. Gió thổi mạnh. Lá rừng cát núi bốc lên xoay tròn mờ mịt như khỏa dấu chân, che dáng hình của đạo sĩ. Anh Sáu Bộ tất tả chạy theo, đôi mắt chóa lòa như vừa sống trong một giấc chiêm bao mầu nhiệm.
- Sư phụ ! Cúi xin sư phụ thương con !
Giữa muôn trùng cỏ cây, anh chỉ nghe đá núi vọng lại :
- Chặt đầu Tây ! Lời ấy không phải của ta nói. Con nghe không ? Lời ấy của trời đất nói.
Thế là năm năm sau, chàng trai trẻ ấy xuống núi. Tên Sáu Bộ được sửa lại là Tư Hiền, Tư Hiền chỉ mang theo cây roi dài một thước tám, bằng cây trắc. Với cây roi ấy và đường quờn Lưu Thủy, anh nghiễm nhiên trở thành chúa đảng Cánh Buồm Ðen, hùng cứ từ mũi Cà Mau đến hải phận Hà Tiên.
Sáng tinh sương. Như thường lệ, Tư Hiền định cho ghe chạy dài theo mé biển. Vừa tách khỏi hòn Tre, gió nam thổi xuôi đưa anh về phía hòn Sơn Rái.
Kìa, một chiếc ghe trôi bềnh bồng theo sóng, lá buồm sụ xuống, cột buồm đứt hết dây chằng. Lập tức anh cập lại đoán có người vừa bị nạn. Trong ghe nọ chỉ thấy một ông lão nằm mê man bất tỉnh. Sau khi được cạy miệng uống hớp nước lạnh, ông tỉnh lại nhìn dáo dác :
- Ông đây là ai ?
Tư Hiền đáp :
- Tôi là người đi mò ngọc điệp ở hòn Nhạn.
Ông lão khóc nức nở :
- Ăn cướp đánh tôi. Cha con tôi đi Rạch Giá bán tôm khô, về ngang đây bị nó chận lại giựt hết tiền, bắt luôn con gái ; hẹn ba ngày sau đem trả lại.
Tư Hiền nói :
- Nó đi hướng nào ? Lâu mau rồi ? Tôi bắt tụi bất lương này đem về lập tức cho ông coi.
Tức thời buồm mũi và buồm lái xổ ra. Tay anh siết dây lèo thượng. Ghe phóng nhanh tới. Không mấy chút, đã thấy một đốm đen trước mặt.
Anh thét to :
- Tụi bây coi tao !
Chiếc ghe trước vẫn giương hai cánh buồm màu đen chạy ngạo nghễ, khinh thường. Anh cho ghe sát lại, nhảy qua quơ roi đánh mạnh khiến sợi dây chằng ghe nọ phải đứt. Buồm sụ xuống. Ghe chạy đảo nghiêng gần chìm. Nghe vù một tiếng, Tư Hiền vội né mình. Biết rằng gặp tay đối thủ lợi hại, anh bình tĩnh chống đỡ. Chợt liếc phía sau, thấy ngọn lao phóng tời, anh lách qua. Ngọn lao đâm trúng bẹ ghe, ghìm sâu vào, tên nọ lỡ trớn té xuống biển.
- Biết ta là ai chưa ?
Chưa dứt lời, Tư Hiền đã gài ngọn roi của tên còn lại xuống sạp. Hắn cố sức gỡ lên nhưng không xuể, rốt cuộc đành quì xuống :
- Nói thiệt với ông, tôi là ăn cướp biển. Lâu nay tôi từng gặp nhiều người tài giỏi nhưng chưa ai bằng ông. Tên thiệt tôi là Năm Bùn.
Tư Hiền đáp :
- Tại sao đánh một người già cả, nghèo hơn mình ? Con gái của người ta mày giấu ở đâu ? Mau trả lại. Ðồ du côn !
Năm Bùn năn nỉ :
- Trăm sự chỉ vì tôi chưa hiểu. Cô đó tôi giấu dưới khoang hầm.
Tư Hiền rất đỗi ngạc nhiên khi thấy nhan sắc khá lộng lẫy của cô nọ. Cô quì xuống lạy tạ ơn. Lập tức, anh bèn đưa cô sang ghe mình. Sau khi nhận lời hứa tái ngộ với Năm Bùn tại hòn Ðá Bạc, anh cho thuyền trở về gặp ông lão nọ.
Ðêm ấy anh ăn cơm ở Rạch Cóc, tại nhà ông lão. Nhơn bữa ăn, anh nhận thấy ông lão có ý tạ ơn mình bằng cách gả con gái cho, nếu anh muốn. Anh viện nhiều lẽ để từ chối. Trước lòng chân thành của gia đình, anh hứa sẽ trở về cưới, sau một thời gian hai năm.
- Kim Thoa ! Ðừng buồn nghe em. Anh thề chết sống gì cũng trở lại cưới em làm vợ. Bây giờ anh phải ra đi. Anh đi sao thì về vậy...
Từ giã xong. Tư Hiền cho ghe tách bến, nhắm hướng hòn Ðá Bạc đúng theo lời hứa với Năm Bùn.
Thấy ghe của Tư Hiền đến đúng hẹn, Năm Bùn vô cùng mừng rỡ, khâm phục và ra lịnh cho bộ hạ phải nghiêm chỉnh đón chào.
Ðể tỏ lòng thành thật của mình, Tư Hiền đi hai tay không, để cây roi dưới ghe. Chào hỏi xong xuôi anh nhờ Năm Bùn cho bộ hạ lấy roi lên giùm mình. Lúc ăn uống, Tư Hiền ao ước được thưởng thức võ nghệ của đảng Cánh Buồm Ðen. Ðể đáp tạ, anh biễn diễn cho ai nấy xem một đường roi Lưu Thủy đã học được trên núi. Lúc biểu diễn, người ở ngoài tự do ném đá hoặc phóng dao vào thử. Ngọn roi xoay chung quanh mình anh như nước chảy không dứt, không rời, chớp nhoáng như gió...
Kết quả là Năm Bùn sẵn sàng giao đảng Cánh Buồm Ðen cho Tư Hiền làm đảng trưởng. Nhờ vậy đảng được chỉnh đốn lại.
Hằng ngày, các bộ hạ phải luyện tập võ nghệ cho tinh thông, cấm tuyệt không xâm phạm tài sản của người chài lưới ở ven biển. Hai kẻ thù chánh cần đánh đổ không nương tay là đoàn tàu "đoan" của Tây và ghe buôn lậu Hải Nam.
Từ đó về sau, nhiều tin tức mới lạ được làm đầu đề bàn tán cho dân chúng miền duyên hải Rạch Giá, Cà Mau :
- Trời ơi ! Hai thằng con trai của ông X. bị ghe Hải Nam bắt, tưởng biệt tích... Ai dè mấy ông Buồm Ðen giựt lại được.
- Sáng hôm qua, có cái chưn vịt tàu của tụi "tàu cáo" để sẵn trên sân chợ. Tây hoảng hồn nhìn ra đó là chưn vịt của chiếc ca nô tuần biển đi mấy bữa rày chưa thấy về.
- Mấy ông Buồm Ðen đốt ghe Hải Nam ở hòn Nhạn. Bên này chết ba, bên kia chết trọn tàu...
Ba năm sau, có tin đảng Cánh Buồm Ðen đã rã.
Người đồn rằng : Chúa đảng vì quá giàu có nên trốn qua Xiêm. Không tán thành ý đó, kẻ khác quả quyết rằng chính mắt mình đã thấy xác chúa đảng trôi tấp vào bãi. Từ sáu tháng nay, đảng Cánh Buồm Ðen là đảng giả mạo.
Gia Ðình của cô Kim Thoa khổ tâm hơn hết. Một đêm lạnh lẽo nọ, có tiếng gõ cửa. Tư Hiền bước vào, ôm ghì lấy người hôn thê :
- Anh phải về, không bao giờ anh làm nghề này nữa.
- Tây tập nã anh, phãi không ?
- Số là anh vừa giết oan một người. Tụi ghe Hải Nam lên hòn để mua heo, chừng kéo neo chúng không chịu trả tiền ; anh đánh chết năm đứa. Nhưng rủi thay gặp một đứa biết võ nghệ khá cao. Anh đánh roi xuống. Nó đứng trên bãi, đưa roi lên đỡ trúng. Ngặt anh xuống tay mạnh quá, nó lún xuống bùn, ngã lăn trào máu miệng. Lúc hấp hối, nó ngoắc anh lại mà nói : "Tôi không phải chủ ghe. Tôi ở mướn mãn đời, giết tôi mà chi !". Cảm động quá, anh cúi xuống xin lỗi nó, nó khoát tay anh ra, nói tiếp : "Tôi tha lỗi thì được. Còn vợ con tôi ở Hải Nam cũng đương làm mướn, Làm sao anh xin lỗi được..."
Kim Thoa ! Em nghe anh nói lại chưa ? Ðây là lần đầu tiên trong đời mà anh đau đớn nhứt. Anh giết oan người ta. Ngọn roi này, anh xuống tay mạnh quá, bị ô uế rồi. Tội nghiệp, chết không nhắm mắt mà ngón tay hắn còn chỉ về phía biển khơi, nơi quê vợ con. Thấy phận người mà nhớ tới phận mình, anh vội về đây.
***
Tháng hai năm 1946. Có tin : Tây trở lại chiếm gần tới Rạch Giá, chúng đã nhảy dù xuống biên giới Việt Miên gần núi Sam, Châu Ðốc. Dân chúng sục sôi căm hờn tập trung lại ngọn Cái Bắc để bày mưu kế. Có đến trên ba mươi thanh niên tình nguyện đi bắt sống bọn Tây nhảy dù ở xa cách quê nhà hằng hai trăm cây số. Họ thiết lập một bàn thờ Tổ quốc giữa rừng, lấy củi tràm đốt thế cho trầm hương và mượn mặt đất để làm đỉnh đồng. Y phục của họ khác nhau, nhưng giống nhau ở chất vải màu luốc luốc, chứa chấp bao nhiêu rận. Giữa quang cảnh mộc mạc, thiêng liêng đó, người ta thấy một ông lão râu tóc bạc phơ chống cây gậy cao khỏi đầu bước ra.
Ai nấy thầm thì :
- Ông Năm Lập thợ câu của xóm mình !
Ông lão nọ bỗng rưng rưng nước mắt :
- Không ! tôi không phải Năm Lập. Tên thiệt của tôi là Sáu Bộ. Có mấy năm đó, tôi lấy danh hiệu Tư Hiền, cầm đầu đảng Cánh Buồm Ðen.
- Trời ! Chúa Ðảng là đây sao ?
- Nói thiệt với bà con, tôi mai danh ẩn tích. Hôm nay tôi phải ra mặt. Nếu ngồi ì ở nhà, không ai làm gì tôi, nhưng tôi cảm thấy nhục nhã như thiếu món nọ gì đối với trời đất, núi non. Nếu xét tôi có tội, anh em cứ giết tôi để tế cờ. Bằng không thì cho phép tôi truyền lại bí quyết nhiệm mầu của đường Lưu Thủy mà thầy tôi dạy hồi năm mươi năm trước. Ðường quờn này ít ai biết lắm, lúc tôi diễn, bà con cứ ném cây, phóng dao vô mà không bao giờ trúng tôi.
Ông đứng thẳng người, hai tay chắp cây roi lên bái tổ rất kính cẩn. Rồi thì vút một tiếng, ngọn roi xoay tròn che lấp thân ông như dải lụa, như nước từ trên thác tuôn xuống chấp chóa. Ðến kẻ ngỗ nghịch nhứt cũng không dám ném cây vào để thí nghiệm như ông cho phép.
Lại một cuộc bàn tán náo nhiệt, vô trật tự :
- Học được đường quờn của ổng, chắc Tây về nước rồi. Thời giờ cấp bách lắm !
- Ði bắt "Tây nhảy dù" chỉ cần thanh niên lanh lẹn. Ông đi không được đâu. Ðể tụi tôi đốn tầm vông vạt nhọn, lẹ hơn...
Giọng ông lão nói ngậm ngùi :
- Không lẽ tôi tự vận. Bà con thương tôi. Nó là cây roi có chức vị "chặt đầu Tây" của tổ sư tôi truyền lại ở núi Dài, năm đó.
- Thôi, lộn xộn quá. Ông cho tôi cây roi này để làm cán mác thì hợp thời hơn, chặt vắn lại vài tấc, đầu kia tra lưỡi mác thông. Có chất sắt thêm vô, ngọn roi của ông mới xài được. Tôi biết là hư cây roi, uổng lắm nhưng ông chịu phiền.
- Ừ. Làm gì thì làm, miễn dùng nó được thì thôi. Thiếu củi nấu cơm, chặt khúc nó mà chụm, lão đây cũng không tiếc. Mấy cháu biết không ? Ðây là thời kỳ mạt pháp.
Ðoàn quân ra đi gấp. Làm sao họ có thời giờ để hỏi han ông về một đôi danh từ xa lạ đó ? Họ tản ra bốn hướng trời, ít người được trở về xóm cũ. Sau đó vài tháng, giặc vào đốt xém. Ông lão nọ chết vì không chịu tản cư, lưu lại một tình cảm lạ lùng, khó dứt khoát đối với những ai chưa hiểu rõ hoàn cảnh đặc biệt của phần đất Cà Mau tận cùng này.
***
Từ thuở nhỏ, Sáu Bộ theo một người bạn lên núi Cô Tô để học đạo nhưng không có đạo nào quyến rũ anh được lâu dài. Hết đạo Ớt qua tới đạo Ðất ; từ giã ông đạo Ðất, anh đến thọ giới tại cốc của ông đạo Nằm. Chán ông đạo Nằm, anh đi lang thang qua núi Dài với ý định cuốc đất làm rẫy. buổi chiều đó, anh ngồi trên phiến đá, mắt đăm đăm nhìn cảnh núi rừng, chợt thấy một ông lão râu tóc bạc phơ, tay chống gậy trầm hương từ từ đi lại. Ðoán chừng đó là một trong số trăm ngàn đạo sĩ ở vùng Thất Sơn này, anh không để ý cho lắm. Nhưng ông lão nọ bỗng dừng bước trước mặt anh, nhịp gậy xuống đất ba lần, cười lên ba tiếng lớn mà rằng :
Chim bay về núi tối rồi.
Sao không lo liệu còn ngồi chi đây ?
Anh đứng dậy, chắp tay chào. Ðạo sĩ ung dung nói :
- Chưa nghe lời ta ư ? Thời kỳ này là thời kỳ mạt pháp... Chim đã bay về núi, trời đã tối.
Anh đáp :
- Con chưa hiểu rõ. Bạch đạo sĩ, mạt pháp nghĩa là thế nào ? Phải chăng mạt pháp là người Pháp tàn mạt ?
Ðạo sĩ gật đầu :
- Khá khen cho con. Hiềm vì con có chí mà thiếu tài. Nghe con nói, bần đạo vui vẻ biết mấy như giữa trưa nắng mà uống được nước Cam lồ. Mạt pháp có nghĩa là thời kỳ giáo pháp suy đồi, đạo đức của tiền nhân không còn được thịnh. Tại vì nhân tâm rối loạn ư ? Cũng phải. Tại vì bọn Phú Lang Sa ư ? Thậm phải... Con hiểu sai nhưng mà nói đúng.
- Bạch đạo sĩ, đó là chuyện quốc sự của kẻ còn nặng lòng trần tục.
- Nhưng ở đây chúng ta chưa phải là tiên. Đạo sĩ nói.
Ðuối lý, anh cố suy nghĩ để trả lời. Ðạo sĩ nói tiếp :
- Thời buổi mạt pháp nầy chưa có ai thành tiên hoặc gặp tiên được. Ai nói ngược lại tức là dối mình, dối người, dối với non cao, dối với bể rộng... Muốn thành tiên thì phải dày công tu luyện để ngày kia giữ được chức vị cao.
- Bạch đạo sĩ, công tu luyện ấy như thế nào... Chức vị ấy gọi là chi ?
Ðạo sĩ nói lớn :
- Gọi là chức vị "chặt đầu Tây". Con nghe chưa ? Con nghe chưa ? Xưa kia đức Nguyễn Trung Trực phá Kiên giang. Lúc sa cơ, Người không mảy may úy tử. Trước pháp trường, giặc khuyến dụ trăm điều, hứa ban cho... ôi thôi bao nhiêu là bạc vàng, chức vị ! Người cả cười, chỉ xin thọ lãnh một chức vị : chức nào mà Người có quyền chặt đầu tất cả bọn Tây.
Giọng đạo sĩ như nghẹn ngào :
- Hỡi ôi ! Dũng tướng đã rơi đầu mà lời vàng ngọc nọ mãi rền vang trong lòng người, khắp non cao biển rộng... Chặt đầu Tây! chặt đầu Tây !
Dứt lời, đạo sĩ quay mình. Gió thổi mạnh. Lá rừng cát núi bốc lên xoay tròn mờ mịt như khỏa dấu chân, che dáng hình của đạo sĩ. Anh Sáu Bộ tất tả chạy theo, đôi mắt chóa lòa như vừa sống trong một giấc chiêm bao mầu nhiệm.
- Sư phụ ! Cúi xin sư phụ thương con !
Giữa muôn trùng cỏ cây, anh chỉ nghe đá núi vọng lại :
- Chặt đầu Tây ! Lời ấy không phải của ta nói. Con nghe không ? Lời ấy của trời đất nói.
Thế là năm năm sau, chàng trai trẻ ấy xuống núi. Tên Sáu Bộ được sửa lại là Tư Hiền, Tư Hiền chỉ mang theo cây roi dài một thước tám, bằng cây trắc. Với cây roi ấy và đường quờn Lưu Thủy, anh nghiễm nhiên trở thành chúa đảng Cánh Buồm Ðen, hùng cứ từ mũi Cà Mau đến hải phận Hà Tiên.
Sáng tinh sương. Như thường lệ, Tư Hiền định cho ghe chạy dài theo mé biển. Vừa tách khỏi hòn Tre, gió nam thổi xuôi đưa anh về phía hòn Sơn Rái.
Kìa, một chiếc ghe trôi bềnh bồng theo sóng, lá buồm sụ xuống, cột buồm đứt hết dây chằng. Lập tức anh cập lại đoán có người vừa bị nạn. Trong ghe nọ chỉ thấy một ông lão nằm mê man bất tỉnh. Sau khi được cạy miệng uống hớp nước lạnh, ông tỉnh lại nhìn dáo dác :
- Ông đây là ai ?
Tư Hiền đáp :
- Tôi là người đi mò ngọc điệp ở hòn Nhạn.
Ông lão khóc nức nở :
- Ăn cướp đánh tôi. Cha con tôi đi Rạch Giá bán tôm khô, về ngang đây bị nó chận lại giựt hết tiền, bắt luôn con gái ; hẹn ba ngày sau đem trả lại.
Tư Hiền nói :
- Nó đi hướng nào ? Lâu mau rồi ? Tôi bắt tụi bất lương này đem về lập tức cho ông coi.
Tức thời buồm mũi và buồm lái xổ ra. Tay anh siết dây lèo thượng. Ghe phóng nhanh tới. Không mấy chút, đã thấy một đốm đen trước mặt.
Anh thét to :
- Tụi bây coi tao !
Chiếc ghe trước vẫn giương hai cánh buồm màu đen chạy ngạo nghễ, khinh thường. Anh cho ghe sát lại, nhảy qua quơ roi đánh mạnh khiến sợi dây chằng ghe nọ phải đứt. Buồm sụ xuống. Ghe chạy đảo nghiêng gần chìm. Nghe vù một tiếng, Tư Hiền vội né mình. Biết rằng gặp tay đối thủ lợi hại, anh bình tĩnh chống đỡ. Chợt liếc phía sau, thấy ngọn lao phóng tời, anh lách qua. Ngọn lao đâm trúng bẹ ghe, ghìm sâu vào, tên nọ lỡ trớn té xuống biển.
- Biết ta là ai chưa ?
Chưa dứt lời, Tư Hiền đã gài ngọn roi của tên còn lại xuống sạp. Hắn cố sức gỡ lên nhưng không xuể, rốt cuộc đành quì xuống :
- Nói thiệt với ông, tôi là ăn cướp biển. Lâu nay tôi từng gặp nhiều người tài giỏi nhưng chưa ai bằng ông. Tên thiệt tôi là Năm Bùn.
Tư Hiền đáp :
- Tại sao đánh một người già cả, nghèo hơn mình ? Con gái của người ta mày giấu ở đâu ? Mau trả lại. Ðồ du côn !
Năm Bùn năn nỉ :
- Trăm sự chỉ vì tôi chưa hiểu. Cô đó tôi giấu dưới khoang hầm.
Tư Hiền rất đỗi ngạc nhiên khi thấy nhan sắc khá lộng lẫy của cô nọ. Cô quì xuống lạy tạ ơn. Lập tức, anh bèn đưa cô sang ghe mình. Sau khi nhận lời hứa tái ngộ với Năm Bùn tại hòn Ðá Bạc, anh cho thuyền trở về gặp ông lão nọ.
Ðêm ấy anh ăn cơm ở Rạch Cóc, tại nhà ông lão. Nhơn bữa ăn, anh nhận thấy ông lão có ý tạ ơn mình bằng cách gả con gái cho, nếu anh muốn. Anh viện nhiều lẽ để từ chối. Trước lòng chân thành của gia đình, anh hứa sẽ trở về cưới, sau một thời gian hai năm.
- Kim Thoa ! Ðừng buồn nghe em. Anh thề chết sống gì cũng trở lại cưới em làm vợ. Bây giờ anh phải ra đi. Anh đi sao thì về vậy...
Từ giã xong. Tư Hiền cho ghe tách bến, nhắm hướng hòn Ðá Bạc đúng theo lời hứa với Năm Bùn.
Thấy ghe của Tư Hiền đến đúng hẹn, Năm Bùn vô cùng mừng rỡ, khâm phục và ra lịnh cho bộ hạ phải nghiêm chỉnh đón chào.
Ðể tỏ lòng thành thật của mình, Tư Hiền đi hai tay không, để cây roi dưới ghe. Chào hỏi xong xuôi anh nhờ Năm Bùn cho bộ hạ lấy roi lên giùm mình. Lúc ăn uống, Tư Hiền ao ước được thưởng thức võ nghệ của đảng Cánh Buồm Ðen. Ðể đáp tạ, anh biễn diễn cho ai nấy xem một đường roi Lưu Thủy đã học được trên núi. Lúc biểu diễn, người ở ngoài tự do ném đá hoặc phóng dao vào thử. Ngọn roi xoay chung quanh mình anh như nước chảy không dứt, không rời, chớp nhoáng như gió...
Kết quả là Năm Bùn sẵn sàng giao đảng Cánh Buồm Ðen cho Tư Hiền làm đảng trưởng. Nhờ vậy đảng được chỉnh đốn lại.
Hằng ngày, các bộ hạ phải luyện tập võ nghệ cho tinh thông, cấm tuyệt không xâm phạm tài sản của người chài lưới ở ven biển. Hai kẻ thù chánh cần đánh đổ không nương tay là đoàn tàu "đoan" của Tây và ghe buôn lậu Hải Nam.
Từ đó về sau, nhiều tin tức mới lạ được làm đầu đề bàn tán cho dân chúng miền duyên hải Rạch Giá, Cà Mau :
- Trời ơi ! Hai thằng con trai của ông X. bị ghe Hải Nam bắt, tưởng biệt tích... Ai dè mấy ông Buồm Ðen giựt lại được.
- Sáng hôm qua, có cái chưn vịt tàu của tụi "tàu cáo" để sẵn trên sân chợ. Tây hoảng hồn nhìn ra đó là chưn vịt của chiếc ca nô tuần biển đi mấy bữa rày chưa thấy về.
- Mấy ông Buồm Ðen đốt ghe Hải Nam ở hòn Nhạn. Bên này chết ba, bên kia chết trọn tàu...
Ba năm sau, có tin đảng Cánh Buồm Ðen đã rã.
Người đồn rằng : Chúa đảng vì quá giàu có nên trốn qua Xiêm. Không tán thành ý đó, kẻ khác quả quyết rằng chính mắt mình đã thấy xác chúa đảng trôi tấp vào bãi. Từ sáu tháng nay, đảng Cánh Buồm Ðen là đảng giả mạo.
Gia Ðình của cô Kim Thoa khổ tâm hơn hết. Một đêm lạnh lẽo nọ, có tiếng gõ cửa. Tư Hiền bước vào, ôm ghì lấy người hôn thê :
- Anh phải về, không bao giờ anh làm nghề này nữa.
- Tây tập nã anh, phãi không ?
- Số là anh vừa giết oan một người. Tụi ghe Hải Nam lên hòn để mua heo, chừng kéo neo chúng không chịu trả tiền ; anh đánh chết năm đứa. Nhưng rủi thay gặp một đứa biết võ nghệ khá cao. Anh đánh roi xuống. Nó đứng trên bãi, đưa roi lên đỡ trúng. Ngặt anh xuống tay mạnh quá, nó lún xuống bùn, ngã lăn trào máu miệng. Lúc hấp hối, nó ngoắc anh lại mà nói : "Tôi không phải chủ ghe. Tôi ở mướn mãn đời, giết tôi mà chi !". Cảm động quá, anh cúi xuống xin lỗi nó, nó khoát tay anh ra, nói tiếp : "Tôi tha lỗi thì được. Còn vợ con tôi ở Hải Nam cũng đương làm mướn, Làm sao anh xin lỗi được..."
Kim Thoa ! Em nghe anh nói lại chưa ? Ðây là lần đầu tiên trong đời mà anh đau đớn nhứt. Anh giết oan người ta. Ngọn roi này, anh xuống tay mạnh quá, bị ô uế rồi. Tội nghiệp, chết không nhắm mắt mà ngón tay hắn còn chỉ về phía biển khơi, nơi quê vợ con. Thấy phận người mà nhớ tới phận mình, anh vội về đây.
***
Tháng hai năm 1946. Có tin : Tây trở lại chiếm gần tới Rạch Giá, chúng đã nhảy dù xuống biên giới Việt Miên gần núi Sam, Châu Ðốc. Dân chúng sục sôi căm hờn tập trung lại ngọn Cái Bắc để bày mưu kế. Có đến trên ba mươi thanh niên tình nguyện đi bắt sống bọn Tây nhảy dù ở xa cách quê nhà hằng hai trăm cây số. Họ thiết lập một bàn thờ Tổ quốc giữa rừng, lấy củi tràm đốt thế cho trầm hương và mượn mặt đất để làm đỉnh đồng. Y phục của họ khác nhau, nhưng giống nhau ở chất vải màu luốc luốc, chứa chấp bao nhiêu rận. Giữa quang cảnh mộc mạc, thiêng liêng đó, người ta thấy một ông lão râu tóc bạc phơ chống cây gậy cao khỏi đầu bước ra.
Ai nấy thầm thì :
- Ông Năm Lập thợ câu của xóm mình !
Ông lão nọ bỗng rưng rưng nước mắt :
- Không ! tôi không phải Năm Lập. Tên thiệt của tôi là Sáu Bộ. Có mấy năm đó, tôi lấy danh hiệu Tư Hiền, cầm đầu đảng Cánh Buồm Ðen.
- Trời ! Chúa Ðảng là đây sao ?
- Nói thiệt với bà con, tôi mai danh ẩn tích. Hôm nay tôi phải ra mặt. Nếu ngồi ì ở nhà, không ai làm gì tôi, nhưng tôi cảm thấy nhục nhã như thiếu món nọ gì đối với trời đất, núi non. Nếu xét tôi có tội, anh em cứ giết tôi để tế cờ. Bằng không thì cho phép tôi truyền lại bí quyết nhiệm mầu của đường Lưu Thủy mà thầy tôi dạy hồi năm mươi năm trước. Ðường quờn này ít ai biết lắm, lúc tôi diễn, bà con cứ ném cây, phóng dao vô mà không bao giờ trúng tôi.
Ông đứng thẳng người, hai tay chắp cây roi lên bái tổ rất kính cẩn. Rồi thì vút một tiếng, ngọn roi xoay tròn che lấp thân ông như dải lụa, như nước từ trên thác tuôn xuống chấp chóa. Ðến kẻ ngỗ nghịch nhứt cũng không dám ném cây vào để thí nghiệm như ông cho phép.
Lại một cuộc bàn tán náo nhiệt, vô trật tự :
- Học được đường quờn của ổng, chắc Tây về nước rồi. Thời giờ cấp bách lắm !
- Ði bắt "Tây nhảy dù" chỉ cần thanh niên lanh lẹn. Ông đi không được đâu. Ðể tụi tôi đốn tầm vông vạt nhọn, lẹ hơn...
Giọng ông lão nói ngậm ngùi :
- Không lẽ tôi tự vận. Bà con thương tôi. Nó là cây roi có chức vị "chặt đầu Tây" của tổ sư tôi truyền lại ở núi Dài, năm đó.
- Thôi, lộn xộn quá. Ông cho tôi cây roi này để làm cán mác thì hợp thời hơn, chặt vắn lại vài tấc, đầu kia tra lưỡi mác thông. Có chất sắt thêm vô, ngọn roi của ông mới xài được. Tôi biết là hư cây roi, uổng lắm nhưng ông chịu phiền.
- Ừ. Làm gì thì làm, miễn dùng nó được thì thôi. Thiếu củi nấu cơm, chặt khúc nó mà chụm, lão đây cũng không tiếc. Mấy cháu biết không ? Ðây là thời kỳ mạt pháp.
Ðoàn quân ra đi gấp. Làm sao họ có thời giờ để hỏi han ông về một đôi danh từ xa lạ đó ? Họ tản ra bốn hướng trời, ít người được trở về xóm cũ. Sau đó vài tháng, giặc vào đốt xém. Ông lão nọ chết vì không chịu tản cư, lưu lại một tình cảm lạ lùng, khó dứt khoát đối với những ai chưa hiểu rõ hoàn cảnh đặc biệt của phần đất Cà Mau tận cùng này.
***
Bác vật xà bông Sơn Nam : Bác vật xà bông
So với các rạch khác ở ven vịnh Xiêm La, vùng Xẽo Bần thuộc vào hàng tương đối sung túc. Dân ở đấy sanh sống bằng hai nghề : phá rừng lấy củi và khi tiết trời thuận tiện, họ ra biển đánh lưới tôm. Tiền bán củi vừa đủ cho họ mua gạo ăn, thuốc hút ; nghề đi lưới thì chỉ đem lợi riêng cho một số người có ghe, có lưới. Người đi bạn thường lãnh tiền buổi, tùy theo lưới trúng hoặc thất - tay làm hàm nhai.
Ðôi mươi mái nhà lá, vài ba gốc dừa không trái : ngọn Xẽo Bần xơ rơ như vậy đó. Chung quanh là cánh đồng cò bay thẳng cánh nhưng đầy năng kim, ô rô, cỏ ống. Cò lông bông, trích, cúm núm bay lượn tối ngày.
Dân làng nào tha thiết đến vùng đất phù sa nê địa ! Vì vậy, khi ông bác vật X. đến xây nền đúc, cất nhà ngói, tự xưng là chủ đất thì không một ai xao xuyến cảm thấy quyền lợi mình bị đụng chạm.
Trái lại, họ rất vui mừng.
Trước tiên, ông bác vật đích thân đến thăm từng nhà trong xóm. Hễ gặp ai chào hỏi quá khúm núm, ông can gián :
- Bà con cứ bình đẳng, đừng nên gọi tôi bằng ông, tôi còn nhỏ tuổi lắm. Cứ gọi tôi bằng dượng Hai. Ðất này của bên vợ ; vợ tôi thứ hai.
Hỏi qua vấn đề nền nhà, ông bác vật trả lời :
- Ai lỡ cất nhà nơi đâu, cứ yên lòng ở đó. Tôi không bao giờ có ý đuổi bà con. Tôi còn muốn kêu gọi bà con đến thêm, ở đông chừng nào vui chừng nấy. thỉnh thoảng mời bà con vô nhà tôi chơi. Lúc nào tôi cũng ở nhà để lo việc khoa học. Tánh tôi bình dân lắm, ai có chuyện gì khó hiểu tôi sẵn sàng giải thích.
Kể từ đó, buổi trưa hoặc buổi tối, nhà ông bác vật luôn luôn tấp nập. Ði rừng bắt được rùa, săn được heo rừng là bà con nghĩ đến ông, đem lại tặng. Ðáp tạ thạnh tình ấy, ông bác vật dắt từng người vào phòng làm việc của mình. Trên vách, hai hàng kệ đầy sách mỗi quyển dày hơn tấc tây, lưng da mạ chữ vàng lấp lánh. Một cái bàn tròn chiếm giữa phòng. Trên đó đủ kiểu ly, hũ, bầu... Toàn bằng pha lê trong vắt : cái thì méo miệng, cái thì tròn như trái dừa, có cổ dài uốn éo như cổ cò. Lại thêm chiếc đũa bằng pha lê dựng đứng trong ống, dài theo ống có lằn đỏ như vạch đo từng phân, từng ly tỉ mỉ.
- Thứ gì ngộ quá vậy, dượng Hai.
Ðáp :
- Ðồ dùng để thí nghiệm hóa học.
- Hóa học là chi vậy, thưa dượng.
Ông bác vật mỉm cười :
- Khó cắt nghĩa lắm. Thủng thỉnh, bà con sẽ rõ. Hóa là biến hóa... Các chất hóa học hiện nay còn thiếu mới mua được chút ít. E nguy hiểm, tôi chưa dám cho bà con xem.
Mãn buổi thăm viếng, bà con xóm ngọn Xẽo Bần vô cùng thắc mắc. Ban nãy, còn biết bao nhiêu câu hỏi mà họ không dám hở môi thố lộ ra. Giờ đây, họ xúm xít lại bàn tán cho hả hơi :
- Bà con biết không ? Nghe tới hóa học tôi điếng hồn. Rủi ro nó nổ bất tử. Nội mấy cái ly, cái bầu của ổng cũng đủ ghim miểng nát bấy thi thể bà con mình.
- Ðừng nói bậy ! Người ta dùng nó được nên mới dám chứa chấp. Tôi nghi dượng Hai mình làm... Quốc sự. Nhè ổng chế tạo bom đạn, dân chúng ở đây, ắt phải liên can.
- Ừ, tôi coi ổng là người có kỳ tài.
- Kỳ tài gì ? Thực lộc chi thê. Chắc ổng có bằng cấp bên Tây. Nhờ vậy...
- Bằng cấp gì ? Có thì ổng nói rồi. Chắc là "nhảy đầm" ở bển rồi về đây. Năm ngoái tôi đi Trà Vinh gặp ông nọ xưng là bác vật canh nông. Ổng trồng mười cây đu đủ ; lớn lên toàn là đu đủ đực...
- Nói xấu thiên hạ đi ! Biết đâu ổng muốn trồng đu đủ đực để thí nghiệm.
- Ối thôi ! Hơi đâu mà cãi. Xứ mình không bao giờ có nhơn tài được. Ði qua học bên Tây, nếu người Việt Nam nào trổ tài thì Tây ám sát hết. Tụi nó "muối nước đá" bắt nhơn tài của mình đem ướp cho chết, không cần đâm chém hoặc chích thuốc cho loạn óc, tê bại... Dầu sao Dượng Hai mình cũng là người dễ thương biết chữ nghĩa nhiều hơn mình.
Rồi thì ai về nhà nầy, sáng thì đi lưới, tối lại phá rừng. Công việc sanh nhai của họ ngày thêm đình trệ. Làm ra được, ngặt bán không ai mua. Vải bô giá càng mắc, kiếm không ra. Có điều lạ là dạo ấy thuốc ký ninh mua rất rẻ, thứ ký ninh bọc đường uống ngọt ngọt. Thiên hạ bảo đó là phát minh của Nhựt Bổn, thuộc giòng giống da vàng như người Việt Nam mình, nhưng họ biết chế thứ máy bay có mặt trời đỏ sau đuôi, thường bay lượn dài theo ven biển này.
***
Dượng Hai bỗng trở nên vui vẻ lạ thường, kể từ ngày đi Bến Tre về.
Trước mặt bà con chòm xóm, dượng tuyên bố :
- Mình ở đây sống trên kho vàng mà không hay. Nay mai, ai nấy đều có công ăn chuyện làm. Tôi sẽ cất một cái xưởng lớn.Thời Trời giúp tôi.
Có người hỏi :
- Mình dùng hóa học để chế tạo ra vàng, phải không ?
Dượng im lặng mỉm cười rồi mở tủ, lấy cho mọi người xem một khối vuông, màu vàng như đất sét :
- Ðây là xà bông của tôi mới chế tạo như ở Bến Tre. Cỡ này, nó lên giá gấp ba vì không nhập cảng nguyên liệu hóa học được. Tôi hy vọng giúp bà con công ăn việc làm, xưởng xà bông của tôi sẽ cất tại đây thật gấp, cần dùng hàng trăm nhân công.
Họ trố mắt nhìn cho biết thứ xà bông mới lạ đó. Hồi nào tới giờ, ở đâu ít ai cần dùng đến xà bông nên không mua về. Họ dùng cám hoặc vỏ trái khóm chà vào bàn tay là bao nhiêu bụi bặm, dầu mỡ đều trôi hết.
Dượng Hai nói tiếp :
- Lúc này Nhựt Bổn đánh giặc với Ðồng Minh. Ðường giao thông tiếp tế bị ngăn cản. Vì vậy, thiếu xà bông. Giá xà bông từ hai cắc một kí lô đến sáu cắc. Nay mình chế tạo xà bông bổn xứ, bán chừng bốn cắc thì thiên hạ xúm lại giành mua như tôm tươi, mặc dầu xấu hơn chút ít !
- Ở Xẽo Bần nầy, làm sao đủ vật dụng ?
- Sao không đủ ! Mình cần dùng có hai món : dầu dừa với nước tro. Dầu dừa đã sẵn sàng : Ra Hòn Tre mua dừa khô về thắng lại. Nước tro thì nào là tro than đước, tro bẹ dừa, tro cây mắm. Nhứt là cây mắm, mọc đầy bãi biển, tro nó mặn hơn hết và rẻ vốn hơn hết.
- Nấu cách nào vậy dượng ? Ðể tụi tôi về nấu thử.
"Ðể tụi tôi về nấu thử". Mấy tiếng đó khiến cho vầng trán của dượng Hai nhăn lên, thoáng qua chút gì lo ngại. Nhưng chỉ thoáng qua thôi ! Dượng cười to, lấy trong tủ đem ra một cái ống thiếc.
Mở ống, bên trong ló ra một vật khác bằng thủy tinh nhỏ hơn chiếc đũa, bề dài cũng ngắn hơn, một đầu thì tròn vo. Dượng nói :
- Ðây là... Cái ống thủy. Phải có nó mới nấu xà bông được. Dùng để cân nước tro.
- Cân là làm sao dượng ?
- Cân là đo lường sức nặng của nước. Thí dụ như chén nước tro này : muốn biết mặn hay lạt, phải thả cái ống thủy vô coi thử nó mặn tới mấy độ.
Nói xong, dượng bỏ ống thủy vào nước tro. Lạ thay ! Ống thủy dựng đứng. Dượng nói :
- Số 32, bà con thấy chưa. Bây giờ tôi đổ nước lạnh từ từ. Nước tro bớt mặn, ống thủy nổi không phải ngay số 32 mà thấp hơn : con số 31, 30, 29. Phải mặn đủ chữ nước tro mới hiệp với dầu dừa để thành xà bông. Bằng không hai thứ ấy cứ lỏng bỏng. Ống thủy này bây giờ mắc lắm, bên Tây không còn gởi qua được. Bí mật của nghề làm xà bông là vậy... Thôi, mai này bà con lại đây, tôi nấu thử cho coi.
Buổi gặp gỡ khi nãy mở đầu cho bao nhiêu hậu quả tai hại mà dượng Hai không đoán trước được. Dân chúng ở ngọn Xẽo Bần suy nghĩ : nếu mình chế tạo được xà bông thì tội gì đi làm mướn cho dượng Hai. Bà con lối xóm có thể tự ý mở ra mỗi người một xưởng nhỏ. Diều quan trọng là nấu một lần coi nó có đặc không, thay vì dùng ống thủy để cân nước tro, họ dùng lưỡi mà nếm thử.
Trong khi Dượng Hai thí nghiệm xà bông tại nhà, đằng này bà con xóm Ngọn cũng bỏ hết công việc làm để... "nấu" với kiến thức tối thiểu của mình. Nước tro cây mắm, dầu dừa và nước lạnh trộn trong chảo, bắc lên bếp. Họ ngóng xem kết quả. Nhắm chừng xà bông có thể đặc, họ cho nhiễu vài giọt trên giấy hút thuốc. Nhưng lạ thay ! khi đổ ra khuôn, xà bông chỉ đặc trên mặt, lớp dưới lỏng bỏng toàn nước tro mặn đắng.
- Tại mình thiếu cái ống thủy để cân nước tro - Một người nói.
- Phải đó ! Tro cây mắm mặn không đồng đều, cây già mặn hơn cây non, khúc gốc mặn hơn khúc ngọn, tôi chắc như vậy.
Có người thỏ thẻ :
- Hay là... để tôi lại đẳng lén ăn cắp cái ống thủy đem về đây cho bà con mình xài.
Người khác can gián :
- Ở tù chết. Hơn nữa, đem về đây mình biết xài nó theo cách nào ? Ai biết số, biết chữ ? Tôi tưởng mình nên ăn cắp một chút nước tro, thứ nước tro mà ổng đã thí nghiệm, được coi là đúng chữ. Ðem chén nước đó về đây, mình cứ chế tạo một cái ống thủy khác, không cần mua ở bên Tây như ổng.
- Làm cách nào ?
- Mình kiếm cái chai dầu gió cũ, bỏ dằn vào đó một hột chì rồi đậy nút lại, để chai nọ không nằm ngang khi nổi trên mặt nước. Ðó là ống thủy của mình tạm chế tạo. Bấy giờ mình thả chai dầu gió nọ vô nước tro, thứ nước tro mà dượng Hai đã cân rồi, đúng chữ. Hễ chai dầu gió chìm xuống đến mức nào, mình ghi lằn mặt nước ấy vào hông chai.
Ý kiến đó được hoan nghinh và thi hành.
Thế là vài ngày sau mỗi người đều có một ống thủy riêng biệt. Dượng Hai nào hay biết chuyện gì, ngày hai buổi, dượng đinh ninh rằng với một kế hoạch châu đáo, theo qui mô to lớn, xóm ngọn Xẽo Bần sẽ trở thành một trung tâm quan trọng.
Nhưng có điều khiến dượng khó hiểu : Từ nửa tháng qua, bà con lối xóm ít lại đây để nói chuyện như mọi lần.
***
Một buổi sáng, chú Xồi bơi chiếc xuồng "tạp hóa" đến bến, mời dượng :
- Dượng Hai mua xà bông không ? Xóm mình chế tạo thứ này nhiều quá rồi. Ðem giặt quần áo bọt cũng nhiều như xà bông bên Tây.
Dượng Hai thất sắc :
- Ai chế tạo vậy ?
Chú Xồi đáp :
- Nhà nào cũng có nấu. Không tin dượng đi dạo coi thử.
Ðến bây giờ, dượng Hai mới hiểu tại sao hổm rày mấy người trong xóm khi gặp dượng là họ chào hỏi sơ qua rồi kiếu từ lập tức, sắc mặt không được tự nhiên.
Dượng thở dài :
- Trách ai bây giờ ! Tại mình "sanh bất phùng thời"
Bao nhiêu xà bông sản xuất ở ngọn Xẽo Bần được tung ra khắp thị trường miền Hậu Giang. Cạnh tranh có hiệu quả với loại xà bông chế tạo bằng tro dừa ở Bến Tre vì tro cây mắm ở đây mặn hơn. Mỗi khi đi bán từ xa trở về, họ không quên mua tặng cho dượng vài gói trà Kỳ Chưởng.
- Trăm sự cũng nhờ khoa học của dượng đó, dượng ạ !
Dượng Hai đáp :
- Tôi mừng giùm bà con. Bà con đi dọc đường có gặp ai nấu xà bông như xóm mình đây không ? Phải thận trọng, giấu nghề...
- Có. Nhưng xấu hơn xà bông mình nhiều. Họ bán chạy nhờ có hiệu. Kỳ này tôi tính khắc con dấu Việt Tân, Việt Hưng gì đó để đóng vô, kèm theo hình mặt trời cho cục xà bông nó "mạnh" một chút.
...Năm 1945, cả xóm ngọn Xẽo Bần không nấu xà bông nữa. Họ phải lo những chuyện khác cao cả hơn. Nhưng ý nghĩa của cuộc chiến đấu mới nào có gì lạ hơn là làm cho dân giàu nước mạnh, phát triển nội hóa. Có lẽ vì lý do đó mà họ hăng hái hơn ai hết. Vì họ đã thấy rõ một lần rồi.
***
Ðôi mươi mái nhà lá, vài ba gốc dừa không trái : ngọn Xẽo Bần xơ rơ như vậy đó. Chung quanh là cánh đồng cò bay thẳng cánh nhưng đầy năng kim, ô rô, cỏ ống. Cò lông bông, trích, cúm núm bay lượn tối ngày.
Dân làng nào tha thiết đến vùng đất phù sa nê địa ! Vì vậy, khi ông bác vật X. đến xây nền đúc, cất nhà ngói, tự xưng là chủ đất thì không một ai xao xuyến cảm thấy quyền lợi mình bị đụng chạm.
Trái lại, họ rất vui mừng.
Trước tiên, ông bác vật đích thân đến thăm từng nhà trong xóm. Hễ gặp ai chào hỏi quá khúm núm, ông can gián :
- Bà con cứ bình đẳng, đừng nên gọi tôi bằng ông, tôi còn nhỏ tuổi lắm. Cứ gọi tôi bằng dượng Hai. Ðất này của bên vợ ; vợ tôi thứ hai.
Hỏi qua vấn đề nền nhà, ông bác vật trả lời :
- Ai lỡ cất nhà nơi đâu, cứ yên lòng ở đó. Tôi không bao giờ có ý đuổi bà con. Tôi còn muốn kêu gọi bà con đến thêm, ở đông chừng nào vui chừng nấy. thỉnh thoảng mời bà con vô nhà tôi chơi. Lúc nào tôi cũng ở nhà để lo việc khoa học. Tánh tôi bình dân lắm, ai có chuyện gì khó hiểu tôi sẵn sàng giải thích.
Kể từ đó, buổi trưa hoặc buổi tối, nhà ông bác vật luôn luôn tấp nập. Ði rừng bắt được rùa, săn được heo rừng là bà con nghĩ đến ông, đem lại tặng. Ðáp tạ thạnh tình ấy, ông bác vật dắt từng người vào phòng làm việc của mình. Trên vách, hai hàng kệ đầy sách mỗi quyển dày hơn tấc tây, lưng da mạ chữ vàng lấp lánh. Một cái bàn tròn chiếm giữa phòng. Trên đó đủ kiểu ly, hũ, bầu... Toàn bằng pha lê trong vắt : cái thì méo miệng, cái thì tròn như trái dừa, có cổ dài uốn éo như cổ cò. Lại thêm chiếc đũa bằng pha lê dựng đứng trong ống, dài theo ống có lằn đỏ như vạch đo từng phân, từng ly tỉ mỉ.
- Thứ gì ngộ quá vậy, dượng Hai.
Ðáp :
- Ðồ dùng để thí nghiệm hóa học.
- Hóa học là chi vậy, thưa dượng.
Ông bác vật mỉm cười :
- Khó cắt nghĩa lắm. Thủng thỉnh, bà con sẽ rõ. Hóa là biến hóa... Các chất hóa học hiện nay còn thiếu mới mua được chút ít. E nguy hiểm, tôi chưa dám cho bà con xem.
Mãn buổi thăm viếng, bà con xóm ngọn Xẽo Bần vô cùng thắc mắc. Ban nãy, còn biết bao nhiêu câu hỏi mà họ không dám hở môi thố lộ ra. Giờ đây, họ xúm xít lại bàn tán cho hả hơi :
- Bà con biết không ? Nghe tới hóa học tôi điếng hồn. Rủi ro nó nổ bất tử. Nội mấy cái ly, cái bầu của ổng cũng đủ ghim miểng nát bấy thi thể bà con mình.
- Ðừng nói bậy ! Người ta dùng nó được nên mới dám chứa chấp. Tôi nghi dượng Hai mình làm... Quốc sự. Nhè ổng chế tạo bom đạn, dân chúng ở đây, ắt phải liên can.
- Ừ, tôi coi ổng là người có kỳ tài.
- Kỳ tài gì ? Thực lộc chi thê. Chắc ổng có bằng cấp bên Tây. Nhờ vậy...
- Bằng cấp gì ? Có thì ổng nói rồi. Chắc là "nhảy đầm" ở bển rồi về đây. Năm ngoái tôi đi Trà Vinh gặp ông nọ xưng là bác vật canh nông. Ổng trồng mười cây đu đủ ; lớn lên toàn là đu đủ đực...
- Nói xấu thiên hạ đi ! Biết đâu ổng muốn trồng đu đủ đực để thí nghiệm.
- Ối thôi ! Hơi đâu mà cãi. Xứ mình không bao giờ có nhơn tài được. Ði qua học bên Tây, nếu người Việt Nam nào trổ tài thì Tây ám sát hết. Tụi nó "muối nước đá" bắt nhơn tài của mình đem ướp cho chết, không cần đâm chém hoặc chích thuốc cho loạn óc, tê bại... Dầu sao Dượng Hai mình cũng là người dễ thương biết chữ nghĩa nhiều hơn mình.
Rồi thì ai về nhà nầy, sáng thì đi lưới, tối lại phá rừng. Công việc sanh nhai của họ ngày thêm đình trệ. Làm ra được, ngặt bán không ai mua. Vải bô giá càng mắc, kiếm không ra. Có điều lạ là dạo ấy thuốc ký ninh mua rất rẻ, thứ ký ninh bọc đường uống ngọt ngọt. Thiên hạ bảo đó là phát minh của Nhựt Bổn, thuộc giòng giống da vàng như người Việt Nam mình, nhưng họ biết chế thứ máy bay có mặt trời đỏ sau đuôi, thường bay lượn dài theo ven biển này.
***
Dượng Hai bỗng trở nên vui vẻ lạ thường, kể từ ngày đi Bến Tre về.
Trước mặt bà con chòm xóm, dượng tuyên bố :
- Mình ở đây sống trên kho vàng mà không hay. Nay mai, ai nấy đều có công ăn chuyện làm. Tôi sẽ cất một cái xưởng lớn.Thời Trời giúp tôi.
Có người hỏi :
- Mình dùng hóa học để chế tạo ra vàng, phải không ?
Dượng im lặng mỉm cười rồi mở tủ, lấy cho mọi người xem một khối vuông, màu vàng như đất sét :
- Ðây là xà bông của tôi mới chế tạo như ở Bến Tre. Cỡ này, nó lên giá gấp ba vì không nhập cảng nguyên liệu hóa học được. Tôi hy vọng giúp bà con công ăn việc làm, xưởng xà bông của tôi sẽ cất tại đây thật gấp, cần dùng hàng trăm nhân công.
Họ trố mắt nhìn cho biết thứ xà bông mới lạ đó. Hồi nào tới giờ, ở đâu ít ai cần dùng đến xà bông nên không mua về. Họ dùng cám hoặc vỏ trái khóm chà vào bàn tay là bao nhiêu bụi bặm, dầu mỡ đều trôi hết.
Dượng Hai nói tiếp :
- Lúc này Nhựt Bổn đánh giặc với Ðồng Minh. Ðường giao thông tiếp tế bị ngăn cản. Vì vậy, thiếu xà bông. Giá xà bông từ hai cắc một kí lô đến sáu cắc. Nay mình chế tạo xà bông bổn xứ, bán chừng bốn cắc thì thiên hạ xúm lại giành mua như tôm tươi, mặc dầu xấu hơn chút ít !
- Ở Xẽo Bần nầy, làm sao đủ vật dụng ?
- Sao không đủ ! Mình cần dùng có hai món : dầu dừa với nước tro. Dầu dừa đã sẵn sàng : Ra Hòn Tre mua dừa khô về thắng lại. Nước tro thì nào là tro than đước, tro bẹ dừa, tro cây mắm. Nhứt là cây mắm, mọc đầy bãi biển, tro nó mặn hơn hết và rẻ vốn hơn hết.
- Nấu cách nào vậy dượng ? Ðể tụi tôi về nấu thử.
"Ðể tụi tôi về nấu thử". Mấy tiếng đó khiến cho vầng trán của dượng Hai nhăn lên, thoáng qua chút gì lo ngại. Nhưng chỉ thoáng qua thôi ! Dượng cười to, lấy trong tủ đem ra một cái ống thiếc.
Mở ống, bên trong ló ra một vật khác bằng thủy tinh nhỏ hơn chiếc đũa, bề dài cũng ngắn hơn, một đầu thì tròn vo. Dượng nói :
- Ðây là... Cái ống thủy. Phải có nó mới nấu xà bông được. Dùng để cân nước tro.
- Cân là làm sao dượng ?
- Cân là đo lường sức nặng của nước. Thí dụ như chén nước tro này : muốn biết mặn hay lạt, phải thả cái ống thủy vô coi thử nó mặn tới mấy độ.
Nói xong, dượng bỏ ống thủy vào nước tro. Lạ thay ! Ống thủy dựng đứng. Dượng nói :
- Số 32, bà con thấy chưa. Bây giờ tôi đổ nước lạnh từ từ. Nước tro bớt mặn, ống thủy nổi không phải ngay số 32 mà thấp hơn : con số 31, 30, 29. Phải mặn đủ chữ nước tro mới hiệp với dầu dừa để thành xà bông. Bằng không hai thứ ấy cứ lỏng bỏng. Ống thủy này bây giờ mắc lắm, bên Tây không còn gởi qua được. Bí mật của nghề làm xà bông là vậy... Thôi, mai này bà con lại đây, tôi nấu thử cho coi.
Buổi gặp gỡ khi nãy mở đầu cho bao nhiêu hậu quả tai hại mà dượng Hai không đoán trước được. Dân chúng ở ngọn Xẽo Bần suy nghĩ : nếu mình chế tạo được xà bông thì tội gì đi làm mướn cho dượng Hai. Bà con lối xóm có thể tự ý mở ra mỗi người một xưởng nhỏ. Diều quan trọng là nấu một lần coi nó có đặc không, thay vì dùng ống thủy để cân nước tro, họ dùng lưỡi mà nếm thử.
Trong khi Dượng Hai thí nghiệm xà bông tại nhà, đằng này bà con xóm Ngọn cũng bỏ hết công việc làm để... "nấu" với kiến thức tối thiểu của mình. Nước tro cây mắm, dầu dừa và nước lạnh trộn trong chảo, bắc lên bếp. Họ ngóng xem kết quả. Nhắm chừng xà bông có thể đặc, họ cho nhiễu vài giọt trên giấy hút thuốc. Nhưng lạ thay ! khi đổ ra khuôn, xà bông chỉ đặc trên mặt, lớp dưới lỏng bỏng toàn nước tro mặn đắng.
- Tại mình thiếu cái ống thủy để cân nước tro - Một người nói.
- Phải đó ! Tro cây mắm mặn không đồng đều, cây già mặn hơn cây non, khúc gốc mặn hơn khúc ngọn, tôi chắc như vậy.
Có người thỏ thẻ :
- Hay là... để tôi lại đẳng lén ăn cắp cái ống thủy đem về đây cho bà con mình xài.
Người khác can gián :
- Ở tù chết. Hơn nữa, đem về đây mình biết xài nó theo cách nào ? Ai biết số, biết chữ ? Tôi tưởng mình nên ăn cắp một chút nước tro, thứ nước tro mà ổng đã thí nghiệm, được coi là đúng chữ. Ðem chén nước đó về đây, mình cứ chế tạo một cái ống thủy khác, không cần mua ở bên Tây như ổng.
- Làm cách nào ?
- Mình kiếm cái chai dầu gió cũ, bỏ dằn vào đó một hột chì rồi đậy nút lại, để chai nọ không nằm ngang khi nổi trên mặt nước. Ðó là ống thủy của mình tạm chế tạo. Bấy giờ mình thả chai dầu gió nọ vô nước tro, thứ nước tro mà dượng Hai đã cân rồi, đúng chữ. Hễ chai dầu gió chìm xuống đến mức nào, mình ghi lằn mặt nước ấy vào hông chai.
Ý kiến đó được hoan nghinh và thi hành.
Thế là vài ngày sau mỗi người đều có một ống thủy riêng biệt. Dượng Hai nào hay biết chuyện gì, ngày hai buổi, dượng đinh ninh rằng với một kế hoạch châu đáo, theo qui mô to lớn, xóm ngọn Xẽo Bần sẽ trở thành một trung tâm quan trọng.
Nhưng có điều khiến dượng khó hiểu : Từ nửa tháng qua, bà con lối xóm ít lại đây để nói chuyện như mọi lần.
***
Một buổi sáng, chú Xồi bơi chiếc xuồng "tạp hóa" đến bến, mời dượng :
- Dượng Hai mua xà bông không ? Xóm mình chế tạo thứ này nhiều quá rồi. Ðem giặt quần áo bọt cũng nhiều như xà bông bên Tây.
Dượng Hai thất sắc :
- Ai chế tạo vậy ?
Chú Xồi đáp :
- Nhà nào cũng có nấu. Không tin dượng đi dạo coi thử.
Ðến bây giờ, dượng Hai mới hiểu tại sao hổm rày mấy người trong xóm khi gặp dượng là họ chào hỏi sơ qua rồi kiếu từ lập tức, sắc mặt không được tự nhiên.
Dượng thở dài :
- Trách ai bây giờ ! Tại mình "sanh bất phùng thời"
Bao nhiêu xà bông sản xuất ở ngọn Xẽo Bần được tung ra khắp thị trường miền Hậu Giang. Cạnh tranh có hiệu quả với loại xà bông chế tạo bằng tro dừa ở Bến Tre vì tro cây mắm ở đây mặn hơn. Mỗi khi đi bán từ xa trở về, họ không quên mua tặng cho dượng vài gói trà Kỳ Chưởng.
- Trăm sự cũng nhờ khoa học của dượng đó, dượng ạ !
Dượng Hai đáp :
- Tôi mừng giùm bà con. Bà con đi dọc đường có gặp ai nấu xà bông như xóm mình đây không ? Phải thận trọng, giấu nghề...
- Có. Nhưng xấu hơn xà bông mình nhiều. Họ bán chạy nhờ có hiệu. Kỳ này tôi tính khắc con dấu Việt Tân, Việt Hưng gì đó để đóng vô, kèm theo hình mặt trời cho cục xà bông nó "mạnh" một chút.
...Năm 1945, cả xóm ngọn Xẽo Bần không nấu xà bông nữa. Họ phải lo những chuyện khác cao cả hơn. Nhưng ý nghĩa của cuộc chiến đấu mới nào có gì lạ hơn là làm cho dân giàu nước mạnh, phát triển nội hóa. Có lẽ vì lý do đó mà họ hăng hái hơn ai hết. Vì họ đã thấy rõ một lần rồi.
***
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)