Rạch Khoen Tà Tưng ngày...
Cháu x.,
Hèn lâu, bác mới nhận được thơ của cháu gởi xuống thăm bác.
Dưới này, xóm riềng đều được vạn sự bằng an. Trong thơ, cháu hỏi về sự tiêu khiển của người mình hồi mới khai thác đất hoang, năm sáu chục năm về trước. Cháu nói hồi đó dân mình ưa hát đối, hát huê tình. Không phải vậy đâu ! Hát đối cần có sông rạch thông thương để bên trai bên gái tự do bơi xuồng song song nhau mà hát. Ðằng này. "dưới sông sấu lội, trên rừng cọp đua" có ai dám bơi xuồng ban đêm bao giờ ! Việc hát đối cần có tít nhiều tiền bạc để làm tiệc tùng thết đãi tất cả những ai có mặt cho vui với nhau. Ðằng này dân mình hồi đó còn nghèo lắm, ruộng chưa hết phèn, đình chưa cất, hương chức làng chưa có.
Bởi vậy chỉ có hát bội là cách giải trí độc nhứt của người đi khai phá đất mới.
Ai hát bây giờ ? Lẽ tất nhiên không phải mấy người trong xóm. Họ không biết chữ nho, Tiền Ðường Hậu Tống gì hết.
Phải mời gánh hát bội từ xa lại hát chơi một đôi tháng. Nói đúng hơn, ông bầu gánh đích thân tới xóm mình. Năm đó nhớ kỹ lại... bác chừng mười bảy tuổi, xóm Khoen Tà Tưng mới có hai mươi căn chòi lá.
Ông bầu gánh tới bàn với mấy ông kỳ lão :
- Bà con tôi muốn lại đây hát giúp vui.
Hát bội mà ai không ham, ngặt ông bầu nọ buộc nhiều điều gắt gao quá. Như là phải nuôi cơm toàn ban nam nữ. Như là phải cất rạp sẵn cho mấy ổng hát.
Nghe qua, mấy ông kỳ lão lắc đầu vì đào kép toàn ban hát họ đông gần bằng dân số xóm này... Hơn nữa rạp cất giữa vùng cọp beo, nghĩ cũng khó bảo toàn tánh mạng cho người hát và người đi coi hát. Ông bầu đành năn nỉ :
- Bà con thương dùm, anh em tôi cực chẳng đã mới chạy xuống miệt này ! Không lẽ bà con bắt nộp cho Tây chớ anh em tôi ở miệt Vũng Liêm vô hội "Kèo Xanh" rồi bị đổ bể.
Ðộng lòng trắc ẩn, mấy ông kỳ lão đồng ý. Rồi thì mõ đánh chuyền rao cho đầu trên xóm dưới hay rằng :
"Nay mai có hát bội tới, trước mua vui sau làm nghĩa, mỗi nhà nên tùy hỷ góp vài vùa gạo để nuôi họ. Ðồng thời, tất cả thanh niên trai tráng phải vô rừng đốn tràm, vạt nhọn dưới gốc sẵn".
Hỏi :
- Hát ban ngày hay ban đêm ?
Ông kỳ lão nói :
- Hát ban đêm mới vui chớ, ban ngày để làm công việc đồng áng.
Có người cật vấn về vụ cọp ăn thịt người, ông kỳ lão nói :
- Bà con đừng lo. Cứ đốn tràm về đây, nhiều chừng nào tốt chừng nấy. Phen này, mình mời cọp và sấu tới coi hát với mình cho vui luôn thể.
Tràm đốn về chất đống. Ông kỳ lão đích thân đốc suất việc xây rạp. Cơ mưu của ông như vầy : cất một cái nhà sàn ở giữa sông, theo kiểu ba căn hai chái. Ba căn giữa dùng làm sân khấu, hai chái dành cho đào kép ăn ở, nấu cơm. Như vậy, nhứt cử lưỡng tiện chớ chòi trong xóm nhỏ quá, đâu đủ chỗ cho họ ở đậu.
Hỏi :
- Dân tụi tôi đứng đâu mà coi hát ?
Ông kỳ lão nói :
- Bà con dốt quá ! Chung quanh sân khấu nọ, mình xốc cứ làm vòng thành, gốc cừ này khít gốc kia chừng một gang tay. Ai muốn coi cứ việc bơi xuồng vô vòng rào nọ. Xong xuôi đóng cửa lại. Cọp phải bơ vơ ngồi trên bờ rạch. Sấu thì đành ngóng mỏ, ngoài vòng. Trong này, mình ngồi trên xuồng mà coi sáng đêm ăn thua. Tuồng Tàu dài lắm.
Xóm Khoen Tà Tưng rộn rịp còn hơn Tết, suốt ba bốn ngày liên tiếp họ dựng rạp, xốc nọc dưới sông. Mấy anh chị đào kép mới tới vô cùng mừng rỡ, họ cởi áo ra tiếp tay.
Nhà cất xong. Bây giờ tới lượt lợp lá, lót sàn. Lá dừa mọc sẵn dựa mé. Tràm nhỏ cây, ở đâu mà chẳng có, cứ đốn về lót thế cho ván. Ðêm hát ra mắt, vui quá đỗi là vui ! Ðào kép thì áo mão xanh đỏ, đầu giắt lông trĩ, ngặt hai bàn chân thiếu hia, thiếu hài. Trống đánh thùng thùng. Kèn thổi tò ti te.
Hai bên rạp chong bốn ngọn đuốc sáng rực.
Họ hát tuồng Phong Thần, lớp lập Bá Lạc Ðài. Tuồng nhắc lại khi Tử Nha còn hàn vi nhờ người bạn là Tống Dị Nhơn cưới vợ cho. Vợ tên là Mã Cơ. rủi thay, cô vợ này có tật thô lỗ, xúi giục chồng đi ra chợ kiếm tiền cho cô ta xài phí. Tử Nha ra chợ làm thầy bói, gặp con Tỳ Bà tinh là chị em của Ðắc Kỷ, Tử Nha biết đúng chơn tướng con yêu nọ, nên xin phép Tỷ Cang thiêu sống nó. Tỳ Bà tinh hoàn nguyên hình cây đờn tỳ bà bằng đá.
Giáo đầu là lời chúc mừng nhà vua. Sau đó, Dị Nhơn múa mà rằng :
Sông Hà Lạc, qui trình tám quẻ,
Cửa Võ Môn, cá nhảy ba từng.
Trẻ ngậm cơm ngả ngớn đền Xuân,
Già vỗ bụng chình chòng cõi Thọ,
Miêng Trì là quê ngụ,
Dị Nhơn thiệt tên già !
Tử Nha bèn bước ra, xưng danh, than thở rằng mình chưa gặp vận. Dè đâu bà vợ là Mã Cơ xắn xả chạy lại mắng Tử Nha:
Bớ ông Tử Nha này :
Tôi, cầm khỉ không tường khỉ múa,
Còn chăn voi chẳng biết voi lung.
Hay mần răng ! Này tôi nói cho :
Bảo đừng về tiên ngộ tiên khùng
Khá kiếm chỗ ở thuê ở mướn,
Ðể trả tiền đường, tiền đậu cho mụ đây... à !
Tức quá Tử Nha ra chợ ngồi làm thầy bói. Tỳ Bà tinh bèn tới thử tài. Biết chân tướng yêu tinh của mình không qua được cặp mắt thần của Tử Nha, Tỳ Bà tinh bèn tri hô lên vu cáo rằng Tử Nha toan hiếp dâm nó. Ông trùm xóm hạ lịnh cho dân chúng rượt bắt Tử Nha :
Tốc bôn trì, tốc bôn trì !
Lai ứng tiếp, lai ứng tiếp !
Lão già nào hãm hiếp, hãm hiếp !
Bắt gái trẻ hoang dâm, hoang dâm !
Quyết sanh cầm, quyết sanh cầm !
Nan dung thứ, nan dung thứ !
Tuồng này nghĩ thiệt lạ, thiệt hay. Nhiều người ba bốn chục tuổi mới được xem hát bội lần này là lần thứ nhứt. Họ thức sáng đêm ngồi dưới xuồng, khi mệt mỏi thì nằm xuống. Rồi lại ngồi dậy. Hai ba đêm đầu, cọp sấu không dám lại vì tiếng trống, phèng la, đuốc lửa.
Việc gì cũng vậy, riết rồi sanh chán. Xưa kia, ông Từ Thức cưới vợ tiên ở Bồng Lai mà còn đòi trở về dương thế, hà huống chi xem đoàn hát Bầu Tèo này biểu diễn.
Mấy đứa con nít xem một chập, ngồi ngủ gục. Chừng trống đánh giựt mình, tụi nó dụi mắt, cằn nhằn : "cái gì mà tốc bôn trì, tốc bôn trì hoài ! Cả tháng rồi không có gì mới. Cứ con yêu Tỳ Bà tinh chưn cẳng có ghẻ ngứa..." Tụi nó xúm nhau bơi xuống về. Hỡi ôi ! Hai ba ông cọp chạy dài theo bờ rạch ! Thôi thì đành trở vô vòng hàng rào nọ mà chờ đợi tới sáng.
Cũng chuyến nọ, con Tỳ Bà tinh đang hát bỗng nhiên mặt mày xanh lét, tay run run chỉ xuống sông rồi chạy trở vào buồng. Rõ ràng là Tỳ Bà tinh thấy hai con sấu đang ngóng mỏ vô hàng rào. Ông kỳ lão ra lịnh giông phèng la. Sấu lặn mất.
Lần lần, dân chúng thỏn mỏn về số gạo đóng góp nuôi đào kép. Ba chục ngày là ba chục vùa gạo ! Ông bầu tìm cách sáng chế tuồng mới nhưng quanh đi quẩn lại chỉ bấy nhiêu đào kép, bấy nhiêu áo mão. May thay, lúc đó dân xóm Khoen Tà Tưng có sáng kiến qua xóm Tà Lốc mời mấy người Miên bên đó đến xem hát trước mua vui, sau nữa là chia sớt gánh nặng lúa gạo. Người Miên rất đỗi hoan hỷ. Họ giúp sân khấu nọ vài điệu múa "rầm" lúc sửa soạn vô tuồng. Gần vãn hát, họ đưa lên một anh hề Miên diễu bằng tiếng Việt Nam. Chuyện diễu của họ như vầy : anh nọ ở bên này sông có cô tình nhân ở bên kia sông. Không biết cách nào qua được, anh dậm chân :
- Cô Hai ơi ! Sông sâu sào vắn đâm không tới ! Muốn qua thăm bậu ngặt không có chiếc "re" !
Lúc đầu nghe diễu như vậy ai nấy cười như nắc nẻ, lần hồi sanh nhàm. Vì vậy, gánh hát bội phải từ từ rút lui qua xóm gần đó, cách chừng ba chục cây số.
Trời bắt đầu sa mưa. Gánh hát ra đi, nghĩ cũng hợp thời cho dân xóm này nhưng bất lợi đối với họ. Họ rã gánh lần lần, lưu lại khắp trong vùng hoang vu này nhiều chuyện hay hay. Dân xóm Khoen Tà Tưng bị ảnh hưởng của họ đậm quá ! Mấy đứa con nít chăn trâu nhái lại giọng hát bội, thét lên inh ỏi ngoài đồng :
- Muôn tâu bệ hạ ! Muốn yên nhà lợi nước, nên trồng đước với dà. Mai sau có hư cửa hại nhà, đốn nó làm kèo làm cột....
- Muôn tâu bệ hạ ! muốn yên nhà lợi nước, nên trồng đước với su, bắt khỉ đột cầm tù, ắt yên nhà lợi nước...
Có một anh hề trong hánh hát trốn ở lại. Người đó sau này là ông Biện H. Ông biết chút ít chữa nho. Nhờ ổng mà xóm này có viết liễn. Nghe đâu chú của ổng hồi trước phò ông Phan Thanh Giản thủ thành Vĩnh Long. Ổng phải giả danh kép hát chạy xuống miệt này. Trước khi làm biện ở đình, ổng nổi danh một thời nhờ tài hát huê tình. Ổng nói : phải nhái theo lời văn của hát bội, thí dụ như : "Cả tiếng kêu... ! Ờ này em Hai ơi ! Sách có chữ Thiện ác đáo đầu..." Thì câu hát mới vui, có tinh thần.
Ý kiến đó được anh chị em hát huê tình khen là phải.
Câu chuyện hát bội hồi xưa tới đây cũng khá dài rồi. Nhưng chưa hết, vì còn mấy ông cọp nọ. Có lẽ mấy ổng mê hát bội hơn loài người. Chừng một hai tháng sau, cái sân khấu nọ tốc nóc, bao nhiêu nọc tràm làm hàng rào đã lung lay ngả nghiêng trên dòng nước, chừng đó người ta thấy một đôi ông cọp thường tới lui ngồi cú rũ dựa gốc cây gừa bên bờ rạch. Nhứt là đêm có trăng, mấy ổng le lưỡi dài thòn, như nhớ tiếc bao nhiêu con mồi ngon, bao nhiêu tiếng kèn tiếng trống. Biết đâu về sau này mấy tiếng "coi hát cọp" là do sự tích của mấy ổng hồi xưa, không chừng !
***
8/12/08
Ðóng Gông Ông Thầy Quít
Sơn Nam
Ở đâu động dao, động thớt là có ông thầy Quít tới. rượu uống ngà ngà, ông vỗ ngực, xăn tay áo mà nói trong buổi tiệc :
- Bà con ở đây không ai biết phát cỏ cho ra hồn, tôi chắc như vậy.
Có người bực tức, hỏi :
- Ra hồn nghĩa là sao ? Anh em tụi tôi đây cứ phát đều đều mỗi ngày một công. Sao Mai mọc, đâm mây ngang là ra ruộng. Mặt trời lên hai sào, tụi tôi vô nhà xong việc nằm nghỉ.
Thầy Quít nhướng mắt :
- Tôi phát ba công trong khoảng thời gian đó. Phát lẹ bằng ba lần. Ðó là buổi tôi làm biếng. Nếu siêng thì mỗi ngày tôi phát sáu công liên tiếp, không cần ăn cơm trưa.
- Thiệt hay chơi đó ? - Có người hỏi.
Ông đáp :
- Nói dóc làm gì ? Tôi còn ở xóm này chơi vài tháng nữa mà. Anh em hồ nghi, tội nghiệp tôi. Không lẽ già rồi mà tôi còn mang tật nói dóc, để tiếng xấu cho đời sau.
- Chúng tôi nào dám. Chỉ e đó là chuyện hồi ông còn trẻ. Bây giờ sức ông yếu nhiều rồi.
Thầy Quít dịu giọng :
- Hồi trai trẻ, trái lại tôi phát cỏ chậm hơn lúc về già như bây giờ. Hồi đó là tay ngang, bây giờ tôi là kẻ đắc đạo. Phát cỏ là một thứ đạo ích lợi cho sanh linh, nòi giống. Ðạo là phép mầu nhiệm. Chẳng hay bà con mình muốn học không ?
Ai nấy trố mắt nhìn nhau. Hồi nào tới giờ nghe nói đạo Phật, đạo Lão, Khổng, Mạnh... chớ nào ai nghe "Ðạo phát cỏ". Bấy lâu, xóm này và các xóm kế cận đều phát cỏ theo cách của ông bà truyền lại. Nghĩa là chém cho cây phảng chạy dài dưới nước ; phảng chạy tới đâu, cỏ đứt tới đó. Cùng lúc ấy, tay trái quờ cù nèo, gạt mớ cỏ bị hạ qua một bên cho trống trải mặt nước. Rồi thì bước tới, dở ngọn phảng lên, chém xuống pháp phảng thứ hai... Cứ như vậy đến lúc không còn cụm cỏ nào trong công đất... Nghĩ cũng nặng nhọc, phí sức ; đàn bà ít ai phát cỏ nổi. Mặc dầu phát rồi, về trước giờ ngọ nhưng ai nấy mệt nhoài, mình mẩy rêm nhức, có người uống rượu thuốc để lấy sức ngày mai... Hôm nay nghe thầy Quít bàn đến Ðạo phát cỏ, xem phát cỏ như một phép mầu nhiệm, ai lại không mừng ? Họ mừng nhưng còn nghi ngờ, e nãy giờ thầy Quít nói quá lời, vì quá chén.
Nhưng càng uống rượu, thầy Quít càng tỉnh táo. Thầy nói :
- Ai muốn thọ giáo ? Tôi sẵn sàng làm công việc ích lợi đó giúp bà con. Tôi nào thọ tiền bạc nhiều. Chỉ cần một con gà giò để cúng tổ. Vậy thôi !
Một con gà đáng giá là bao, nhà nào mà không nuôi sẵn ! Ai nấy mừng rỡ, thấy trước mặt một viễn ảnh vô cùng tốt đẹp : Bao nhiêu đất hoang của rạch Thuồng Luồng sẽ biến thành biển lúa vàng trong ngày rất gần. Mỗi mùa, thay vì dành ba chục ngày mà phát cỏ, giờ đây nhờ phép màu của thầy Quít, họ chỉ cần ra sức bốn năm ngày là xong chuyện. Mấy mươi ngày còn lại, họ tha hồ đờn ca vọng cổ, hoặc đá cá lia thia. Ai siêng thì cứ phát thêm, phát mau lẹ hàng trăm công. Chị em phụ nữ tha hồ mà cấy, mà hò hát huê tình, đối đáp. Chốn thần tiên âu cũng như chốn này !
Nhìn vẻ mặt vui tươi của mọi người, thầy Quít cũng vui lây. Vốn từng ngao du, giao thiệp nhiều nơi, thầy tỏ ra khá rành về tâm lý để thâu phục nhân tâm.
- Ngày mai này, tôi đích thân ra ruộng phát cỏ cho anh em coi thử. Anh em cứ chọn người nào phát giỏi nhứt ở đây để thi tài với tôi. Tôi chấp họ phát trước tôi nửa công ; tôi phát sau nhưng nhất định rồi trước.
***
Thầy Quít làm đúng điều đã nói. Xóm riềng không ngớt tán tụng :
- Giỏi quá. Hôm qua, ổng phát một công đất không đầy một giờ đồng hồ.
- Rõ ràng thầy Quít có phép mầu "Chém hai dao tầm rưỡi có dư" như lời tục thường nói. Thầy hạ ngọn phảng xuống một cái, tức thì một vùng đất trên hai thước rưỡi bề dài phải sạch sành sanh, cỏ ngã liệt.
Xóm Thuồng Luồng vốn hâm mộ nhân tài. Họ mời thầy Quít về nhà ngủ trên ván gõ, trải chiếu bông đàng hoàng. Nội một buổi chiều, hơn một chục người đến kính cẩn xin thọ giáo.
Thầy nói :
- Tôi có tội lớn với tổ, tôi phụ lòng anh em nhiều quá. Số là xưa kia, thầy tôi lúc lâm chung trối lại : con đừng lấy việc truyền nghề mà làm sanh kế. Như vậy lần hồi con trở thành lười biếng khác chi lũ người xôi thịt. Con thương thầy thì ra sức phát cỏ mướn như mọi người. Ngồi không... sanh bất thiện.
Người nghe bèn thở dài :
- Như vậy làm sao chúng tôi học được ? Anh em muốn ông nán lại chơi vài tháng. Khoảng thời gian đó, tiền bạc đâu để ông hút thuốc ăn trầu ? Làm thế nào giúp ông được bây giờ ?
Sau giây phút trầm ngâm, thầy Quít đáp :
- Nhờ anh em cho tôi lãnh trước chút ít tiền mai mốt tôi phát cỏ trừ lại. Như vậy tôi ở đây mãn mùa, sớm chiều ra ruộng làm lụng với anh em cho vui ; luôn tiện giúp anh em vài bí mật trong... Ðạo. Còn việc truyền phép, tôi hứa chọn một đệ tử trong đám thanh niên trai tráng trong xóm này. Cần nhất là cậu trai đó phải thành tâm, trì chí để chịu đựng một cuộc thử thách lâu dài. Thánh nhơn gọi như vậy là "tử công phu", thứ công phu khó nhọc khiến cho con người bạc tóc, nhăn trán...
Bà con cho thầy Quít lãnh trước tiền phát cỏ. Người này nhờ thầy phát dùm bốn công, người kia ba công, người nọ năm công... Nhờ vậy, thầy thủ được món tiền ăn xài dư dả.
Thằng Liệu lấy làm hân hạnh được thầy chọn làm đệ tử. Nó thức suốt đêm, mừng không ngủ được. Hôm sau thầy Quít gọi nó ra ngoài trại ruộng giữa đồng, ở chung với thầy. Ðoán trước nỗi ngạc nhiên của nó, thầy nói :
- Mình phải xa lánh mới được. Ở chốn đông người. Ðạo bị hoen ố vì lắm kẻ tò mò.
Cứ buổi sáng, thằng Liệu nấy nước pha trà. Trưa lại, nấu cơm mua rượu về cho thầy. Nó làm tất cả công việc đó với tầm lòng thành kính, còn hơn đối với cha ruột. Suốt ngày ngoài việc ăn uống, thầy Quít nằm lim dim đôi mắt, nửa thức, nửa ngủ... Ban đêm, thầy bảo nó đốt nhang cắm bốn phía trại. Thỉnh thoảng, thầy trở vào xóm. Ấy là lúc ai cũng mừng rỡ xúm nhau đặt thêm tiền để thầy phát cỏ cho. Về trại ruộng, thầy mang theo nào gà, nào rượu và một túi tiền khá đầy.
Trong xóm, vài người tò mò. Ban đêm, họ lội bì bõm ra trại nhưng không dám lại gần, e thầy biết mà có tội. Họ thấy... bốn ngọn đèn cây xanh lè. Trong bóng tối, ghê rợn làm sao ! Thấp thoáng, bóng dáng thầy Quít và thằng Liệu đi qua đi lại, co chân co tay, quơ tới quơ lui, nhảy nhót bên tả bên hữu. Dường như cả hai đều ở trần. Gió thổi từng cơn hù hù qua đồng cỏ. Lưng thằng Liệu ướt loang loáng, phải chăng vì quá tập dượt mà tháo mồ hôi ? Lâu lâu thầy Quít ngồi xuống. Người đi xem ngoài này lắm khi thấy lạnh xương sống vì mấy ngọn đèn xanh lè bên trong kia vụt tắt hết... Rồi cháy lên hai ngọn, ba ngọn, bốn ngọn... Rồi tắt bớt một ngọn. Ðột nhiên, cánh liếp che kín lại. Bên trong nổi lên tiếng sắt đá chạm nhau rổn rảng, khi thưa khi nhặt, rít lên trầm xuống. Như tiếng thợ rèn đập sắt, như tiếng mài dao của anh đồ tể sửa soạn thọc huyết heo.
Ðèn trong trại ruộng lần lần tắt hết. Ngoài này, họ lủi thủi bước về, chân không dám lội mạnh, e thầy Quít nghe được. Họ rủ nhau đi rình như vậy một ngày, hai ngày, ba ngày... riết rồi sanh chán, nhứt là khi mưa dầm, đường về trơn như thoa mỡ, gió lạnh buốt xương.
Cỡ này, rằm tháng sáu rồi ! Lệ thường, mọi năm khi thầy Quít chưa đến truyền phép... phát cỏ mầu nhiệm, họ đã dọn cỏ xong xuôi, có đâu như năm nay khắp đó đây cỏ dại còn tha hồ vươn lên đầy bịt khỏi đầu người, phải dùng tay mà rẽ để tìm lối đi vất vả.
- Chừng nào mới dọn đất để cấy ?
Mổi người đều tự hỏi như thế và mỗi người đều tự trả lời :
- Phải nhờ thầy Quít. Thầy ra tay một vài buổi là xong. Mình đã đặt cọc tiền cho thầy rồi mà.
Nhưng họ cảm thầy không được yên tâm ! Thầy Quít đâu phải lãnh tiền trước của một đôi người. Khắp xóm Thuồng Luồng, lai rai đâu cũng có thân chủ của thầy. Từ Bây giờ đến cuối tháng, hơn mười ngày nữa, liệu thầy có phát xong... trên trăm công đất ! Họ ra tận trại ruộng, xin yết kiến thầy để tỏ bày nỗi thắc mắc đó. Thầy vươn vai, đáp một cách tỉnh táo :
- Ối ! Bà con hơi đâu mà lo xa ! Bà con nhắc nhở tôi như vậy thật là chí lý. Ngặt hổm rày tôi cầu tổ chưa được. Một khi tổ về nhập vào xác tôi, bà con phải biết ; tôi phát cỏ như người lên đồng, lên bóng, phát tối ngày không mỏi. Hai ba đêm rồi, tôi "đi thiếp" xin tổ về gấp. Tổ chưa về, chỉ có vậy thôi.
***
Chủ tọa tối cao là thầy phó hương quản. Nhà ông hương ấp bỗng nhiên trở thành nơi nhóm họp, xử một vụ án quan trọng.
Tiên cáo là hầu hết dân chúng rạch Thuồng Luồng.
Chánh phạm là thầy Quít. Nhưng khiếm diện, vì đã bôn tẩu trong đêm rồi.
Thằng Liệu - đồ đệ của thầy - bị khép vào tội đồng lõa. Nó quỳ xuống lạy, khóc sướt mướt, kêu oan. Nhờ sự can thiệp của mấy ông kỳ lão nên nó khỏi bị tát tai, đấm đá. Chập sau, thầy phó hương quản mở trói cho nó. Nó khai đại khái như sau :
- Ổng cuốn gói hồi nào, tôi không hay. Chừng sáng ra thức dậy mới biết.
Thầy phó hương quản cười :
- Phải hay trước thì mày đã cuốn gói theo ổng luôn rồi. Ổng có chia tiền cho mày xài không ?
- Dạ không. Mấy lần mua gà vịt về, ổng với tui ăn chung, nhưng mà gan, mề, đùi, ổng hưởng hết... Còn bụng gà, xương cẳng... về phần tui.
- Ổng dạy mày phép gì ?
- Dạ ban đầu thì cắt cổ gà để cúng tổ. Ổng nói : "Coi máu gà phun ra kìa ! Mai chiều, nếu mày đem sự bí mật trong nghề mà nói lại với người khác thì ngọn phảng ăn vô chưn mày, máu phun ra như vậy đó". Năm ba bữa sau, ổng lấy thước tây đo dưới đất, vuông vức mỗi cạnh là một thước. Bốn góc hình vuông đó, ổng thắp bốn ngọn đèn cầy. Ban đêm, đốt đèn lên, ổng đưa cho tôi một cây sậy dài chừng chín tấc mà nói : mày cầm cây sậy mà quơ mạnh, như cầm phảng pháp cỏ. Phải làm sao khi quơ một cái thì hơi gió khiến bốn cây đèn cầy tắt một lượt.
Thằng Liệu nói tiếp :
- Thẩy nói mỗi công ruộng là một ngàn thước vuông, mình tập phát mỗi lát dao chém trọn một thước vuông. Vài bữa sau, thẩy khen tôi rồi dạy mấy câu thiệu sau đây : Tấn bộ chữ đinh. Tay vươn cánh ó, Chưn trái đá gió. Linh kiếm hạ liền... Còn dài lắm, phần sau chưa dạy là thẩy trốn.
Thầy phó hương quản vỗ bàn :
- Cây phảng mà kêu bằng linh kiếm. Thằnh này gan thiệt. Nó muốn làm giặc sao chớ ? Ngoài chuyện phát cỏ nó còn nói chuyện gì khác không ? Mày khai gian tao đóng gông bây giờ. Ðủ bằng chứng rồi ! Bắt được ổng tao cũng đóng gông luôn.
Thằng Liệu ấp úng :
- Cách đây vài ngày, thẩy khoe với tôi rằng "Sư tổ" hồi xưa phát cỏ giỏi lắm, truyền tới thẩy đây là bốn đời. Ðạo lần lần bị ố. Thẩy phát chơi một buổi chớ không bao giờ phát ngày này qua ngày kia, nhiều và lẹ như vậy được. Sự tích hồi xưa, người Mông Cổ xâm chiếm nước Tàu...
- Lập nhà Nguyên, Phải ! Thầy Quít nói gì mà người Mông Cổ ? Lạ quá !
- Thẩy nói người Mông Cổ hồi còn nghèo, lang thang trên yên ngựa thì siêng năng, mạnh khỏe. Ðến chừng chiếm được cung điện nước Tàu, họ ăn no ngồi một chỗ, mặc áo gấm. Việc cầm cung lên ngựa, họ xao lãng nên trở thành bạc nhược, gân cốt không còn dẻo dai. Tới sau, họ bị Châu Hồng Võ đánh bại. Phép phát cỏ như vậy đó. Khi xưa người dân phá rừng mở nước, họ làm lụng suốt ngày quên ăn cơm, cử nổi cây phảng nặng một yến. Bây giờ chỉ phát một buổi, cây phảng sụt xuống còn có năm cân mà lắm người than mệt ? ! Người dạy đạo phát cỏ thì lo tiền bạc rượu thịt. Nghề làm ruộng lần lần bị cạnh tranh ; nhiều người nông phu tay cầm phảng nhưng trong bụng nghĩ tới việc ra chốn thiền thị, tìm phương kế khác làm ăn có lợi hơn.
Thằng Liệu nhìn mỗi người, thở dài rồi nói tiếp :
- Tối hôm qua thầy Quít nhắc chuyện Mông Cổ đó thêm một lần nữa rồi thẩy khóc thút thít với tôi : "Liệu à, mày đừng bắt chước tao ! Tao là đứa làm biếng sau chót hết, mày phải ráng sức giữ lấy nghề nông".
Phiên nhóm trở nên yên lặng. Phải chăng là cơn oán hận đối với thầy Quít đã lần lần dịu xuống ? Ai nấy nhìn nhau, hút thuốc rồi cười lạt đành tha thứ rút lui về nhà.
Nhưng ngày qua tháng lại ! Những năm sau - năm 1930, lúa sụt giá còn một cắc một giạ - người nông phu phải trì chí lắm mới cầm nổi cây phảng mà ra ruộng phát cỏ. Họ đâm ra thương nhớ bao nhiêu lời nói và tội lỗi của thầy Quít, hồi năm trước. Thương nhớ thương nhớ một cách lạ lùng !
***
Ở đâu động dao, động thớt là có ông thầy Quít tới. rượu uống ngà ngà, ông vỗ ngực, xăn tay áo mà nói trong buổi tiệc :
- Bà con ở đây không ai biết phát cỏ cho ra hồn, tôi chắc như vậy.
Có người bực tức, hỏi :
- Ra hồn nghĩa là sao ? Anh em tụi tôi đây cứ phát đều đều mỗi ngày một công. Sao Mai mọc, đâm mây ngang là ra ruộng. Mặt trời lên hai sào, tụi tôi vô nhà xong việc nằm nghỉ.
Thầy Quít nhướng mắt :
- Tôi phát ba công trong khoảng thời gian đó. Phát lẹ bằng ba lần. Ðó là buổi tôi làm biếng. Nếu siêng thì mỗi ngày tôi phát sáu công liên tiếp, không cần ăn cơm trưa.
- Thiệt hay chơi đó ? - Có người hỏi.
Ông đáp :
- Nói dóc làm gì ? Tôi còn ở xóm này chơi vài tháng nữa mà. Anh em hồ nghi, tội nghiệp tôi. Không lẽ già rồi mà tôi còn mang tật nói dóc, để tiếng xấu cho đời sau.
- Chúng tôi nào dám. Chỉ e đó là chuyện hồi ông còn trẻ. Bây giờ sức ông yếu nhiều rồi.
Thầy Quít dịu giọng :
- Hồi trai trẻ, trái lại tôi phát cỏ chậm hơn lúc về già như bây giờ. Hồi đó là tay ngang, bây giờ tôi là kẻ đắc đạo. Phát cỏ là một thứ đạo ích lợi cho sanh linh, nòi giống. Ðạo là phép mầu nhiệm. Chẳng hay bà con mình muốn học không ?
Ai nấy trố mắt nhìn nhau. Hồi nào tới giờ nghe nói đạo Phật, đạo Lão, Khổng, Mạnh... chớ nào ai nghe "Ðạo phát cỏ". Bấy lâu, xóm này và các xóm kế cận đều phát cỏ theo cách của ông bà truyền lại. Nghĩa là chém cho cây phảng chạy dài dưới nước ; phảng chạy tới đâu, cỏ đứt tới đó. Cùng lúc ấy, tay trái quờ cù nèo, gạt mớ cỏ bị hạ qua một bên cho trống trải mặt nước. Rồi thì bước tới, dở ngọn phảng lên, chém xuống pháp phảng thứ hai... Cứ như vậy đến lúc không còn cụm cỏ nào trong công đất... Nghĩ cũng nặng nhọc, phí sức ; đàn bà ít ai phát cỏ nổi. Mặc dầu phát rồi, về trước giờ ngọ nhưng ai nấy mệt nhoài, mình mẩy rêm nhức, có người uống rượu thuốc để lấy sức ngày mai... Hôm nay nghe thầy Quít bàn đến Ðạo phát cỏ, xem phát cỏ như một phép mầu nhiệm, ai lại không mừng ? Họ mừng nhưng còn nghi ngờ, e nãy giờ thầy Quít nói quá lời, vì quá chén.
Nhưng càng uống rượu, thầy Quít càng tỉnh táo. Thầy nói :
- Ai muốn thọ giáo ? Tôi sẵn sàng làm công việc ích lợi đó giúp bà con. Tôi nào thọ tiền bạc nhiều. Chỉ cần một con gà giò để cúng tổ. Vậy thôi !
Một con gà đáng giá là bao, nhà nào mà không nuôi sẵn ! Ai nấy mừng rỡ, thấy trước mặt một viễn ảnh vô cùng tốt đẹp : Bao nhiêu đất hoang của rạch Thuồng Luồng sẽ biến thành biển lúa vàng trong ngày rất gần. Mỗi mùa, thay vì dành ba chục ngày mà phát cỏ, giờ đây nhờ phép màu của thầy Quít, họ chỉ cần ra sức bốn năm ngày là xong chuyện. Mấy mươi ngày còn lại, họ tha hồ đờn ca vọng cổ, hoặc đá cá lia thia. Ai siêng thì cứ phát thêm, phát mau lẹ hàng trăm công. Chị em phụ nữ tha hồ mà cấy, mà hò hát huê tình, đối đáp. Chốn thần tiên âu cũng như chốn này !
Nhìn vẻ mặt vui tươi của mọi người, thầy Quít cũng vui lây. Vốn từng ngao du, giao thiệp nhiều nơi, thầy tỏ ra khá rành về tâm lý để thâu phục nhân tâm.
- Ngày mai này, tôi đích thân ra ruộng phát cỏ cho anh em coi thử. Anh em cứ chọn người nào phát giỏi nhứt ở đây để thi tài với tôi. Tôi chấp họ phát trước tôi nửa công ; tôi phát sau nhưng nhất định rồi trước.
***
Thầy Quít làm đúng điều đã nói. Xóm riềng không ngớt tán tụng :
- Giỏi quá. Hôm qua, ổng phát một công đất không đầy một giờ đồng hồ.
- Rõ ràng thầy Quít có phép mầu "Chém hai dao tầm rưỡi có dư" như lời tục thường nói. Thầy hạ ngọn phảng xuống một cái, tức thì một vùng đất trên hai thước rưỡi bề dài phải sạch sành sanh, cỏ ngã liệt.
Xóm Thuồng Luồng vốn hâm mộ nhân tài. Họ mời thầy Quít về nhà ngủ trên ván gõ, trải chiếu bông đàng hoàng. Nội một buổi chiều, hơn một chục người đến kính cẩn xin thọ giáo.
Thầy nói :
- Tôi có tội lớn với tổ, tôi phụ lòng anh em nhiều quá. Số là xưa kia, thầy tôi lúc lâm chung trối lại : con đừng lấy việc truyền nghề mà làm sanh kế. Như vậy lần hồi con trở thành lười biếng khác chi lũ người xôi thịt. Con thương thầy thì ra sức phát cỏ mướn như mọi người. Ngồi không... sanh bất thiện.
Người nghe bèn thở dài :
- Như vậy làm sao chúng tôi học được ? Anh em muốn ông nán lại chơi vài tháng. Khoảng thời gian đó, tiền bạc đâu để ông hút thuốc ăn trầu ? Làm thế nào giúp ông được bây giờ ?
Sau giây phút trầm ngâm, thầy Quít đáp :
- Nhờ anh em cho tôi lãnh trước chút ít tiền mai mốt tôi phát cỏ trừ lại. Như vậy tôi ở đây mãn mùa, sớm chiều ra ruộng làm lụng với anh em cho vui ; luôn tiện giúp anh em vài bí mật trong... Ðạo. Còn việc truyền phép, tôi hứa chọn một đệ tử trong đám thanh niên trai tráng trong xóm này. Cần nhất là cậu trai đó phải thành tâm, trì chí để chịu đựng một cuộc thử thách lâu dài. Thánh nhơn gọi như vậy là "tử công phu", thứ công phu khó nhọc khiến cho con người bạc tóc, nhăn trán...
Bà con cho thầy Quít lãnh trước tiền phát cỏ. Người này nhờ thầy phát dùm bốn công, người kia ba công, người nọ năm công... Nhờ vậy, thầy thủ được món tiền ăn xài dư dả.
Thằng Liệu lấy làm hân hạnh được thầy chọn làm đệ tử. Nó thức suốt đêm, mừng không ngủ được. Hôm sau thầy Quít gọi nó ra ngoài trại ruộng giữa đồng, ở chung với thầy. Ðoán trước nỗi ngạc nhiên của nó, thầy nói :
- Mình phải xa lánh mới được. Ở chốn đông người. Ðạo bị hoen ố vì lắm kẻ tò mò.
Cứ buổi sáng, thằng Liệu nấy nước pha trà. Trưa lại, nấu cơm mua rượu về cho thầy. Nó làm tất cả công việc đó với tầm lòng thành kính, còn hơn đối với cha ruột. Suốt ngày ngoài việc ăn uống, thầy Quít nằm lim dim đôi mắt, nửa thức, nửa ngủ... Ban đêm, thầy bảo nó đốt nhang cắm bốn phía trại. Thỉnh thoảng, thầy trở vào xóm. Ấy là lúc ai cũng mừng rỡ xúm nhau đặt thêm tiền để thầy phát cỏ cho. Về trại ruộng, thầy mang theo nào gà, nào rượu và một túi tiền khá đầy.
Trong xóm, vài người tò mò. Ban đêm, họ lội bì bõm ra trại nhưng không dám lại gần, e thầy biết mà có tội. Họ thấy... bốn ngọn đèn cây xanh lè. Trong bóng tối, ghê rợn làm sao ! Thấp thoáng, bóng dáng thầy Quít và thằng Liệu đi qua đi lại, co chân co tay, quơ tới quơ lui, nhảy nhót bên tả bên hữu. Dường như cả hai đều ở trần. Gió thổi từng cơn hù hù qua đồng cỏ. Lưng thằng Liệu ướt loang loáng, phải chăng vì quá tập dượt mà tháo mồ hôi ? Lâu lâu thầy Quít ngồi xuống. Người đi xem ngoài này lắm khi thấy lạnh xương sống vì mấy ngọn đèn xanh lè bên trong kia vụt tắt hết... Rồi cháy lên hai ngọn, ba ngọn, bốn ngọn... Rồi tắt bớt một ngọn. Ðột nhiên, cánh liếp che kín lại. Bên trong nổi lên tiếng sắt đá chạm nhau rổn rảng, khi thưa khi nhặt, rít lên trầm xuống. Như tiếng thợ rèn đập sắt, như tiếng mài dao của anh đồ tể sửa soạn thọc huyết heo.
Ðèn trong trại ruộng lần lần tắt hết. Ngoài này, họ lủi thủi bước về, chân không dám lội mạnh, e thầy Quít nghe được. Họ rủ nhau đi rình như vậy một ngày, hai ngày, ba ngày... riết rồi sanh chán, nhứt là khi mưa dầm, đường về trơn như thoa mỡ, gió lạnh buốt xương.
Cỡ này, rằm tháng sáu rồi ! Lệ thường, mọi năm khi thầy Quít chưa đến truyền phép... phát cỏ mầu nhiệm, họ đã dọn cỏ xong xuôi, có đâu như năm nay khắp đó đây cỏ dại còn tha hồ vươn lên đầy bịt khỏi đầu người, phải dùng tay mà rẽ để tìm lối đi vất vả.
- Chừng nào mới dọn đất để cấy ?
Mổi người đều tự hỏi như thế và mỗi người đều tự trả lời :
- Phải nhờ thầy Quít. Thầy ra tay một vài buổi là xong. Mình đã đặt cọc tiền cho thầy rồi mà.
Nhưng họ cảm thầy không được yên tâm ! Thầy Quít đâu phải lãnh tiền trước của một đôi người. Khắp xóm Thuồng Luồng, lai rai đâu cũng có thân chủ của thầy. Từ Bây giờ đến cuối tháng, hơn mười ngày nữa, liệu thầy có phát xong... trên trăm công đất ! Họ ra tận trại ruộng, xin yết kiến thầy để tỏ bày nỗi thắc mắc đó. Thầy vươn vai, đáp một cách tỉnh táo :
- Ối ! Bà con hơi đâu mà lo xa ! Bà con nhắc nhở tôi như vậy thật là chí lý. Ngặt hổm rày tôi cầu tổ chưa được. Một khi tổ về nhập vào xác tôi, bà con phải biết ; tôi phát cỏ như người lên đồng, lên bóng, phát tối ngày không mỏi. Hai ba đêm rồi, tôi "đi thiếp" xin tổ về gấp. Tổ chưa về, chỉ có vậy thôi.
***
Chủ tọa tối cao là thầy phó hương quản. Nhà ông hương ấp bỗng nhiên trở thành nơi nhóm họp, xử một vụ án quan trọng.
Tiên cáo là hầu hết dân chúng rạch Thuồng Luồng.
Chánh phạm là thầy Quít. Nhưng khiếm diện, vì đã bôn tẩu trong đêm rồi.
Thằng Liệu - đồ đệ của thầy - bị khép vào tội đồng lõa. Nó quỳ xuống lạy, khóc sướt mướt, kêu oan. Nhờ sự can thiệp của mấy ông kỳ lão nên nó khỏi bị tát tai, đấm đá. Chập sau, thầy phó hương quản mở trói cho nó. Nó khai đại khái như sau :
- Ổng cuốn gói hồi nào, tôi không hay. Chừng sáng ra thức dậy mới biết.
Thầy phó hương quản cười :
- Phải hay trước thì mày đã cuốn gói theo ổng luôn rồi. Ổng có chia tiền cho mày xài không ?
- Dạ không. Mấy lần mua gà vịt về, ổng với tui ăn chung, nhưng mà gan, mề, đùi, ổng hưởng hết... Còn bụng gà, xương cẳng... về phần tui.
- Ổng dạy mày phép gì ?
- Dạ ban đầu thì cắt cổ gà để cúng tổ. Ổng nói : "Coi máu gà phun ra kìa ! Mai chiều, nếu mày đem sự bí mật trong nghề mà nói lại với người khác thì ngọn phảng ăn vô chưn mày, máu phun ra như vậy đó". Năm ba bữa sau, ổng lấy thước tây đo dưới đất, vuông vức mỗi cạnh là một thước. Bốn góc hình vuông đó, ổng thắp bốn ngọn đèn cầy. Ban đêm, đốt đèn lên, ổng đưa cho tôi một cây sậy dài chừng chín tấc mà nói : mày cầm cây sậy mà quơ mạnh, như cầm phảng pháp cỏ. Phải làm sao khi quơ một cái thì hơi gió khiến bốn cây đèn cầy tắt một lượt.
Thằng Liệu nói tiếp :
- Thẩy nói mỗi công ruộng là một ngàn thước vuông, mình tập phát mỗi lát dao chém trọn một thước vuông. Vài bữa sau, thẩy khen tôi rồi dạy mấy câu thiệu sau đây : Tấn bộ chữ đinh. Tay vươn cánh ó, Chưn trái đá gió. Linh kiếm hạ liền... Còn dài lắm, phần sau chưa dạy là thẩy trốn.
Thầy phó hương quản vỗ bàn :
- Cây phảng mà kêu bằng linh kiếm. Thằnh này gan thiệt. Nó muốn làm giặc sao chớ ? Ngoài chuyện phát cỏ nó còn nói chuyện gì khác không ? Mày khai gian tao đóng gông bây giờ. Ðủ bằng chứng rồi ! Bắt được ổng tao cũng đóng gông luôn.
Thằng Liệu ấp úng :
- Cách đây vài ngày, thẩy khoe với tôi rằng "Sư tổ" hồi xưa phát cỏ giỏi lắm, truyền tới thẩy đây là bốn đời. Ðạo lần lần bị ố. Thẩy phát chơi một buổi chớ không bao giờ phát ngày này qua ngày kia, nhiều và lẹ như vậy được. Sự tích hồi xưa, người Mông Cổ xâm chiếm nước Tàu...
- Lập nhà Nguyên, Phải ! Thầy Quít nói gì mà người Mông Cổ ? Lạ quá !
- Thẩy nói người Mông Cổ hồi còn nghèo, lang thang trên yên ngựa thì siêng năng, mạnh khỏe. Ðến chừng chiếm được cung điện nước Tàu, họ ăn no ngồi một chỗ, mặc áo gấm. Việc cầm cung lên ngựa, họ xao lãng nên trở thành bạc nhược, gân cốt không còn dẻo dai. Tới sau, họ bị Châu Hồng Võ đánh bại. Phép phát cỏ như vậy đó. Khi xưa người dân phá rừng mở nước, họ làm lụng suốt ngày quên ăn cơm, cử nổi cây phảng nặng một yến. Bây giờ chỉ phát một buổi, cây phảng sụt xuống còn có năm cân mà lắm người than mệt ? ! Người dạy đạo phát cỏ thì lo tiền bạc rượu thịt. Nghề làm ruộng lần lần bị cạnh tranh ; nhiều người nông phu tay cầm phảng nhưng trong bụng nghĩ tới việc ra chốn thiền thị, tìm phương kế khác làm ăn có lợi hơn.
Thằng Liệu nhìn mỗi người, thở dài rồi nói tiếp :
- Tối hôm qua thầy Quít nhắc chuyện Mông Cổ đó thêm một lần nữa rồi thẩy khóc thút thít với tôi : "Liệu à, mày đừng bắt chước tao ! Tao là đứa làm biếng sau chót hết, mày phải ráng sức giữ lấy nghề nông".
Phiên nhóm trở nên yên lặng. Phải chăng là cơn oán hận đối với thầy Quít đã lần lần dịu xuống ? Ai nấy nhìn nhau, hút thuốc rồi cười lạt đành tha thứ rút lui về nhà.
Nhưng ngày qua tháng lại ! Những năm sau - năm 1930, lúa sụt giá còn một cắc một giạ - người nông phu phải trì chí lắm mới cầm nổi cây phảng mà ra ruộng phát cỏ. Họ đâm ra thương nhớ bao nhiêu lời nói và tội lỗi của thầy Quít, hồi năm trước. Thương nhớ thương nhớ một cách lạ lùng !
***
Tình nghĩa giáo Khoa Thư
Sơn Nam
- Từ đây tới nhà ông Trần Văn Có gần hay xa vậy thầy ?
Thầy xã trưởng đáp :
- Ở xóm Cà Bây Ngọp lận ! Ðể tôi ra lịnh cho phó hương ấp đòi tên đó tới công sở...
Thầy phái viên nhà báo "Chim Trời" giựt mình.
- Tôi là phái viên, đâu có quyền hạn đó đối với quý độc giả thân mến gần xa.
Thầy xã hỏi :
- Phái viên là gì vậy thầy ?
- Là người thay mặt cho tờ báo đi cổ động và thâu tiền.
- À ! Bây giờ tôi mới biết cái thằng Tư Có. Nó thiếu tiền của nhà báo hả ? Hèn chi nó bơi xuồng lên công sở lãnh báo, đúng bảy bữa là có mặt nó. Nghèo không biết thân lại còn bày đặt làm sang mua báo không trả tiền !
Thầy phái viên cố nén sự bực tức khi nghe người độc giả thân mến của mình bị thầy xã khinh khi ; thầy hút thuốc suy nghĩ rồi lại hơi buồn buồn mà nhớ đến sự thất bại về tài chánh.
Ông độc giả Trần Văn Có thiếu sáu tháng tiền báo tức là hai đồng sáu cắc rưỡi. Từ chợ Rạch Giá vô đây, thầy đã tốn gần ba cắc rưỡi tiền tàu, tiền thuốc hút. Chuyến về lại phải xuất thêm ba cắc nữa... Ông độc giả nghèo nàn này chắc gì trả được một đồng trong số tiền thiếu chịu nhà báo !
Nhưng đã tới đây rồi mà trở về thì uổng cuộc viễn du Hậu Giang này quá ! Thầy phái viên quyết tình binh vực thể diện của người độc giả nọ :
- Không phải tôi đi đòi tiền ! Tôi đi dò hỏi ý kiến bạn đọc đối với tờ báo. Tiền bạc là quý... Nhưng ý kiến của bạn đọc lại quý hơn. Ðộc giả ở tới đâu, chúng tôi đi tới đó.
Sau vài phút đi tới đi lui, thầy xã gất đầu :
- Ðược. Ðể tôi biểu thằng "Trạo" chèo tam bản đưa thầy. Thầy nên dè chừng. Tên Trần Văn Có nói mười, thầy tin một là vừa. Anh ta công kích tờ Lục Tỉnh Tân Văn của nhà nước Lang Sa gởi xuống công sở ; đi ăn giỗ thì nói chuyện Hít Le, chuyện nước Ý đánh nước Á, chừng hỏi kỹ mấy nước đó ở đâu, anh ta bí lối nói lảng qua chuyện Tàu...
Thầy phái viên tò mò :
- Vậy thì ông độc giả của chúng tôi rành chữ nho ?
- Ai biết rõ được. Anh ta nói có dây có nhợ, tích người học trò nghèo tên là ngươì Thừa Cung gì đó... chăn heo ; ông quan đại thần Lý Tích đích thân nấu cháo cho chị ăn dè đâu bị lửa táp cháy râu. Chưa hết đâu, thầy phái viên ơi ! Hễ gặp ai say rượu anh ta nói một hơi như thầy chùa tụng kinh, có ca có kệ. Cái gì mà các anh hãy trông người kia đi ngoài đường, mặt đỏ gay, mắt lờ đờ...
Thầy phái viên cười lớn, nhịp mạnh tay xuống bàn ba bốn lần như đánh trống chầu hát bội, đôi mắt sáng ngời, chân nhảy nhót như con nít :
- Hay quá ! Hay quá ! Tôi thăm ông độc giả đó mới được. Ổng làm thầy giáo hả thầy ? Nhờ thầy đưa tôi đi tới gặp mặt. Ngộ quá hen ! Ừ ! Ừ !
Bực mình quá chừng, thầy xã nghĩ : "Ông phái viên này kêu mình bằng thầy mà lại tưng bốc kêu Tư Có bằng ông. Hay là ổng chê mình không dám xuất tiền mua báo như Tư Có. Chừng bận về, mình mua vài năm báo chơi cho biết mặt".
Thầy xã hối thúc cho chú trạo sửa soạn quai chèo đưa thầy phái viên đến ấp Cà Bây Ngọp. Thầy phái viên cám ơn một tiếng nhỏ rồi cúi đầu xuống nói rù rì như xa như gần, trong cuống họng :
- Ờ ! Ðể coi các anh hãy trông người kia đi ngoài đường, mắt đỏ gay, mắt lờ đờ, quần áo xốc xếch, chân đi xiêu bên nọ vẹo bên kia, múa chân múa tay, mồm nói lảm nhảm... Lũ trẻ theo sau reo cười chế nhạo... Ðúng vậy, QUỐC VĂN GIÁO KHOA THƯ lớp Sơ đẳng, Việt Nam Tiểu học tùng thư... Sách náy do Nha Học Chính đã giao cho ông Trần Trọng Kim, ông Ðặng Ðình Phúc và ông Ðỗ Thận soạn... Eo ơi ! Cái buổi thơ ấy đó nay còn đâu.
Ðường đi ấp Cà Bây Ngọp quá xa vời ! Chiếc tam bản nhún xuống một cái "ồ" rồi nhảy tới một cái "sạt" theo nhịp chèo hai chèo. Nắng chang chang rắc vàng trên thảm cỏ hoang xanh ngắt. Vài nhánh bình bát gie ra, quất vào bụi sột soạt. Xế chiều, cò trắng phất cờ như đón người khách lạ. Trích, cúm núm kêu ré lên. Con rạch thâu hẹp lại. Chiếc tam bản lắc nghiêng như trái dừa khô trên mặt nước đầu sóng gió. Ánh trạo chèo một chèo, nghiêng mình bên hữu. Rồi bỗng nhiên anh chụp mỗi tay một cây chèo mà chèo trên đất khô bên bờ rạch. Chiếc tam bản lại lướt nhanh trong lòng nước quá hẹp, vừa đủ lọt bề ngang.
Anh trạo mỉm cười :
- Chèo như vậy đi lẹ hơn. Mọi lần mùa hạn, nước cạn queo, dưới sông đầy bùn non, tôi cưỡi trâu trên bờ mà kéo. Chiếc tam bản đi như cộ kéo lúa...
- Chú trạo biết rành nhà Từ Có không ?
- Dạ, biết. Tư Có ở một mình, nuôi heo, giăng câu, ăn ong, nghe nói y ở xứ Vãng Long xuống đây tính bề dạy học mà xin phép chưa được...
***
Buổi cơm chiều ngon lành làm sao ! Ăn cá lóc nướng trui, uống rượu "ông cọp". Anh trạo đã về, Tư Có kềm thầy phái viên ở lại ngủ một đêm, chú hứa sáng mai bơi xuồng đưa thầy trở lại công sở mà đón tàu đò. Thếp đèn dầu cá kéo thêm một tim thứ nhì nữa, cháy khá sáng. Bếp un dưới đất tỏa lên cuồn cuộn, tỏ rõ từng sợi khói mịn màng như mành lưới tơ giăng bủa khắp căn chòi nhỏ hẹp.
Tư Có bỏ mùng xuống, chun vô tấn ba phía rồi mời :
- Thầy Hai vô trong này ngồi nói chuyện cho vui. Ở ngoài muỗi cắn. Khói như vậy mà muỗi cứ bu lại rớt lềnh bềnh trong thếp đèn dầu cá đó.
Ngượng nghịu, thầy phái viên nhà báo Chim Trời rón rén dở mí mùng, chun lẹ vào ngồi kế bên :
- Xứ gì lạ quá ! Anh Tư ở đây hoài sanh bịnh chết.
Tư Có đáp :
- Xứ Cà Bây Ngọp, tiếng Khơ Me nghĩa là trâu chết. Hồi đó nghe nói trâu "len" tới đây thất bại, phong thổ ẩm thấp trâu chết nhiều quá. Họ đặt tên kỷ niệm luôn... Bởi vậy dân tình bịnh hoạn, thưa thớt, làng này chưa cất nổi cái trường học.
Thầy phái viên trố mắt :
- Vậy à ? Còn mấy làng khác ?
- Ðông Thái, Ðông Hoà, Ðông Hưng, Vân Khánh Ðông... không làng nào có trường hết. Thầy nghĩ coi...
- Hèn chi miệt này chỉ một mình anh Tư là độc giả báo Chim Trời của chúng tôi... Báo có thích hợp không anh Tư ?
- Nói chí tình, đó là của người bà con ở Sài Gòn "đăng" dùm tôi, ban đầu tưởng nói chơi dè đâu nhà báo gởi xuống thiệt, xem cũng đỡ buồn. Phần nhiều bài vở của mấy ông viết cao quá. Tôi thường đọc cái trương Văn Uyển, có bài thơ bát cú của cô Bích Lý vịnh cảnh sông Hương. Hay quá lẽ ! về sau, ông Trần Bất Diệt ở Cầu Kè họa vận...
Thầy phái viên gật đầu, ừ lấy lệ, thật ra hồi nào tới giờ đi cổ động cho báo Chim Trời mà ít khi thầy đọc kỹ báo nhà. Tư Có hỏi tiếp :
- Nhà báo Chim Trời đông người không thầy ? Chắc là lớn lắm ? Làm sao mà thành chữ được.
- Có thợ chuyên môn ráp từ chữ a, chữ b.
- Trời thần ơi ! Biết tới chừng nào mới xong, chắc là thợ đông lắm... Còn mấy ông chủ nhiệm, chủ bút, phóng viên... Chắc làm việc rần rộ ngày đêm.
Thầy phái viên sực nhớ đến tình trạng loe hoe của toà soạn, lại gật đầu lần nữa.
- Làm báo thì cần nhiều trí óc lắm phải không thầy phái viên ? Tiếc là hồi nhỏ cha tôi chết sớm. Hồi đó, ổng làm thầy giáo cũng đặt thơ bát cú, tứ cú. Cha tôi chết, má tôi giữ mấy pho sách, dạy lại tôi. Ðó là sách Quốc Văn giáo khoa thư, thầy còn nhớ không ?
Thầy phái viên cười :
- Nhớ chớ. Làm sao mà quên được ! Hồi nhỏ tôi hớt "ca rê", tay xách tòn ten bình mực đi học ở trường làng. Hồi đó, trí óc minh sáng suốt, nhớ dai lắm. Bây giờ lớn tuổi, đầu bạc hoa râm, đi làm ăn rày đây mai đó, nhớ nhà, nhớ trường học, nhớ làng xưa.
Tư Có nói :
- Chắc là thầy muốn nói bài "chốn quê hương đẹp hơn cả" chớ gì ?
Rồi chú đọc một hơi :
- Một người đi du lịch đã nhiều nơi. Hôm về nhà, kẻ quen người thuộc, làng xóm, láng giềng đến chơi đông lắm. Một người bạn hỏi : ông đi du sơn du thủy...
- Ðó đa ! Ðó đa ! Anh Tư nhớ kỹ quá... Người du lịch mới trả lời : ở chốn quê hương... từ cái bụi tre ở xó vườn cho đến con đường khúc khuỷu trong làng, cái gì cũng gợi cho tôi những mối cảm tình chứa chan... Bài đó có hình ông già mang kiếng, chống gậy nói chuyện với mấy người khăn đóng áo dài.
- Thì hình nào cũng khăn đóng áo dài. Trừ ra cái hình thằng nhỏ chăn trâu cầm roi : ai bảo chăn trâu là khổ... Không, chăn trâu sướng lắm chứ.
Thầy phái viên phụ họa theo như cùng hợp xướng :
- Ðầu đội nón mê như lọng che, tay cầm cành tre như voi ngựa, ngất nghểu ngồi trên mình trâu, tôi nghe chim hót trong chòm cây, mắt trông bướm lượn trên đám cỏ...
Rồi thầy kéo qua những đoạn khác mà thầy nhớ :
- Hay quá ! Nhà báo bây giờ không ai bằng. Văn chương như vậy là cảm động lòng người... Như cái hình ông già đẩy xe bò lên dốc, có hai đứa học trò kéo dây tiếp sức. Trời nắng to. Ðường thì dốc. Một ông lão đẩy cái xe lợn. Trên xe có ba bốn con lợn to, chân trói bụng phơi và mồm kêu eng éc...
Tư Có vỗ trán :
- Còn ông già khuân tảng đá nữa, thấy mà thương : Trời nhá nhem, chạng vạng tối, tôi thấy một ông cụ già hì hục khuân tảng đá. Ông cụ nhắc lên để xuống đến bốn năm lần mới đem được từ giữa đường đến chỗ bụi cây mà bỏ đấy... Lão đi lỡ vấp phải tảng đá này, sầy cả chân đau lắm nên khuân bỏ vào đây, sợ có người vấp nữa chăng.
Thầy phái viên lại không chịu rằng mình kém trí nhớ :
- Ngang hình ông già đó, trương phía tay trái có bài chọn bạn mà chơi, thói thường gần mực thì đen. Cha chỉ ngón tay, con đứng khoanh tay cúi đầu mà nghe. Dưới chót lại có hàng chữ : Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài.
Tư Có gất đầu :
- Ðó là ngụ ý răn he gương tốt thói xấu. Phải siêng năng như Sửu chăm học, ngồi bên đèn mà đọc sách ; đừng lười biếng như thằng Bình đánh vòng. Phải bền chí học hành. Ờ thầy phái viên chắc nhớ cái hình con kiến tha mồi ! Văn chương nghe như đờn Nam Xuân : Nước mềm, đá rắn thế mà nước chảy mãi đá cũng phải mòn. Sợi dây nhỏ, cây gỗ lớn, vậy mà dây cưa mãi gỗ cũng đứt. Con kiến nhỏ, cái tổ to, thế mà kiến tha lâu cũng đầy tổ. Người ta cũng vậy...
***
Không ai bảo ai, hai người lại nằm xuống lim dim. Tuổi của họ đã quá ba mươi ! Nước chảy mãi mà sao đá không thấy mòn? Sợi dây cưa mãi, gỗ chưa đứt mà sợi dây sắp đứt trước. Sự nghiệp của họ nào đã có gì : Kẻ mến cái thú ở nhà quê, người lận đận với cái thú ở kẻ chợ.
Nằm mãi không ngủ được, thầy phái viên lắng nghe những tiếng động trong nhà, giữa tiếng mọt nghiến gỗ kèn kẹt như người đưa võng, bất chấp tiếng chuột chạy sột soạt và nhất là tiếng muỗi rừng lộng hành kêu vo vo, thầy mơ lại những ngày năm nay tôi lên bảy, tôi đã lớn, tôi không... lêu lổng nữa. Còn đâu mùi hương của những quyển sách mới bao bìa kỹ lưỡng nhưng vài ngày sau đã rách bìa ! Làm sao nghe được tiếng phập phồng trong ngực của đứa bé khi trời mưa to, đi học trễ, run rẩy bước vào trường rồi cổi áo phơi ngay trong lớp... Ðây, thầy giáo mặc đồ bà ba, lâu lâu bước ra khỏi lớp để chào hỏi khi thầy xã, thầy cai tổng đi ngang qua. Một đôi lúc, thầy giáo quá cay nghiệt đã dùng thước đánh vào những đầu ngón tay non yếu, hoặc hươi cây thước bảng...
Dầu sao đi nữa, những kỷ niệm xa xưa vẫn vui, vui như một lũ học trò giành nhau chụp cho được cây dùi trống, đánh thùng thùng báo hiệu giờ vào lớp.
Giọng Tư Có nói nhỏ :
- Ngủ chưa, thầy phái viên ?
Thầy phái viên yên lặng, trời mới mưa, các chỗ trũng đầy nước cả nên cóc và nhái kêu ính ỏi. Vài giọt mưa rớt nhẹ xuống đất... Và rơi trên rạch Cà Bây Ngọp trước nhà. Hồi năm nào, thầy là giọt nước trong lành đó, bây giờ nó đã trôi xa, ra sông, chứa đựng rác rến, chảy hăng ra biển. Ừ, hoạ chăng đó là con đường hiệu quả nhất là được sớm bốc thành hơi, đầu thai trở lại nguồn... Nghĩ vậy, thầy khoan khái mỉm cười ngồi dậy hỏi :
- Ngủ chưa anh Tư ?
- Chưa !
- Tôi nãy giờ cũng vậy, muốn ngủ sớm để mai về nhà, mà không thấy mệt.
Im lặng một hồi lâu, rất lâu, Tư Có nói ngậm ngùi sau một tiếng thở dài :
- Biết lấy gì làm sở phí cho thầy. Thầy nói thiệt tình nghe coi... Chắc thầy tới đây thâu tiền.
- Ðâu có ! Ðâu có ! Mình là bạn đời với nhau...
- Thầy hiểu cảnh tôi. Không lẽ gởi cá lóc, rùa, mật ong... nhờ thầy đem về Sài Gòn gọi là tiền của tôi trả cho nhà báo. Tôi "đăng" là vì ái mộ báo Chim Trời chớ ít đọc lắm. Mấy thầy viết cao quá. Tôi mua để dành về sau cho đủ bộ.
- Anh Tư đừng ngại chuyện đó. Cứ tiếp tục đọc. Lâu lâu dò nơi mục Thư tín không chừng có lời của tôi thăm hỏi anh Tư. Nếu thấy báo đăng đòi tiền các độc giả, xin anh Tư hiểu rằng đó là nhắc nhở các người khác. Tôi hứa nói lại với ông chủ nhiệm mỗi kỳ gởi tặng anh Tư một số báo, hoài hoài cho tới số chót.
Chú Tư Có vô cùng cảm động :
- Thôi thầy ngủ lấy sức để mai về bình yên. Khuya nghe chồn cáo cộc kêu, thầy đừng giựt mình : Ở đây miệt rừng, không có... xa xa thì nghe tiếng chó sủa trăng.
Thầy phái viên cười dòn, tưởng tượng cái cảnh biệt ly ngày mai "Ôi ! Cái cảnh biệt ly ở xóm Cà Bây Ngọp sao mà buồn vậy!". Vĩnh biệt thì đúng hơn. Nghe nó buồn như một giọng hò, một câu rao Vọng Cổ, nhưng thầy chưa muốn nói ra, giờ nầy.
Sơn Nam
- Từ đây tới nhà ông Trần Văn Có gần hay xa vậy thầy ?
Thầy xã trưởng đáp :
- Ở xóm Cà Bây Ngọp lận ! Ðể tôi ra lịnh cho phó hương ấp đòi tên đó tới công sở...
Thầy phái viên nhà báo "Chim Trời" giựt mình.
- Tôi là phái viên, đâu có quyền hạn đó đối với quý độc giả thân mến gần xa.
Thầy xã hỏi :
- Phái viên là gì vậy thầy ?
- Là người thay mặt cho tờ báo đi cổ động và thâu tiền.
- À ! Bây giờ tôi mới biết cái thằng Tư Có. Nó thiếu tiền của nhà báo hả ? Hèn chi nó bơi xuồng lên công sở lãnh báo, đúng bảy bữa là có mặt nó. Nghèo không biết thân lại còn bày đặt làm sang mua báo không trả tiền !
Thầy phái viên cố nén sự bực tức khi nghe người độc giả thân mến của mình bị thầy xã khinh khi ; thầy hút thuốc suy nghĩ rồi lại hơi buồn buồn mà nhớ đến sự thất bại về tài chánh.
Ông độc giả Trần Văn Có thiếu sáu tháng tiền báo tức là hai đồng sáu cắc rưỡi. Từ chợ Rạch Giá vô đây, thầy đã tốn gần ba cắc rưỡi tiền tàu, tiền thuốc hút. Chuyến về lại phải xuất thêm ba cắc nữa... Ông độc giả nghèo nàn này chắc gì trả được một đồng trong số tiền thiếu chịu nhà báo !
Nhưng đã tới đây rồi mà trở về thì uổng cuộc viễn du Hậu Giang này quá ! Thầy phái viên quyết tình binh vực thể diện của người độc giả nọ :
- Không phải tôi đi đòi tiền ! Tôi đi dò hỏi ý kiến bạn đọc đối với tờ báo. Tiền bạc là quý... Nhưng ý kiến của bạn đọc lại quý hơn. Ðộc giả ở tới đâu, chúng tôi đi tới đó.
Sau vài phút đi tới đi lui, thầy xã gất đầu :
- Ðược. Ðể tôi biểu thằng "Trạo" chèo tam bản đưa thầy. Thầy nên dè chừng. Tên Trần Văn Có nói mười, thầy tin một là vừa. Anh ta công kích tờ Lục Tỉnh Tân Văn của nhà nước Lang Sa gởi xuống công sở ; đi ăn giỗ thì nói chuyện Hít Le, chuyện nước Ý đánh nước Á, chừng hỏi kỹ mấy nước đó ở đâu, anh ta bí lối nói lảng qua chuyện Tàu...
Thầy phái viên tò mò :
- Vậy thì ông độc giả của chúng tôi rành chữ nho ?
- Ai biết rõ được. Anh ta nói có dây có nhợ, tích người học trò nghèo tên là ngươì Thừa Cung gì đó... chăn heo ; ông quan đại thần Lý Tích đích thân nấu cháo cho chị ăn dè đâu bị lửa táp cháy râu. Chưa hết đâu, thầy phái viên ơi ! Hễ gặp ai say rượu anh ta nói một hơi như thầy chùa tụng kinh, có ca có kệ. Cái gì mà các anh hãy trông người kia đi ngoài đường, mặt đỏ gay, mắt lờ đờ...
Thầy phái viên cười lớn, nhịp mạnh tay xuống bàn ba bốn lần như đánh trống chầu hát bội, đôi mắt sáng ngời, chân nhảy nhót như con nít :
- Hay quá ! Hay quá ! Tôi thăm ông độc giả đó mới được. Ổng làm thầy giáo hả thầy ? Nhờ thầy đưa tôi đi tới gặp mặt. Ngộ quá hen ! Ừ ! Ừ !
Bực mình quá chừng, thầy xã nghĩ : "Ông phái viên này kêu mình bằng thầy mà lại tưng bốc kêu Tư Có bằng ông. Hay là ổng chê mình không dám xuất tiền mua báo như Tư Có. Chừng bận về, mình mua vài năm báo chơi cho biết mặt".
Thầy xã hối thúc cho chú trạo sửa soạn quai chèo đưa thầy phái viên đến ấp Cà Bây Ngọp. Thầy phái viên cám ơn một tiếng nhỏ rồi cúi đầu xuống nói rù rì như xa như gần, trong cuống họng :
- Ờ ! Ðể coi các anh hãy trông người kia đi ngoài đường, mắt đỏ gay, mắt lờ đờ, quần áo xốc xếch, chân đi xiêu bên nọ vẹo bên kia, múa chân múa tay, mồm nói lảm nhảm... Lũ trẻ theo sau reo cười chế nhạo... Ðúng vậy, QUỐC VĂN GIÁO KHOA THƯ lớp Sơ đẳng, Việt Nam Tiểu học tùng thư... Sách náy do Nha Học Chính đã giao cho ông Trần Trọng Kim, ông Ðặng Ðình Phúc và ông Ðỗ Thận soạn... Eo ơi ! Cái buổi thơ ấy đó nay còn đâu.
Ðường đi ấp Cà Bây Ngọp quá xa vời ! Chiếc tam bản nhún xuống một cái "ồ" rồi nhảy tới một cái "sạt" theo nhịp chèo hai chèo. Nắng chang chang rắc vàng trên thảm cỏ hoang xanh ngắt. Vài nhánh bình bát gie ra, quất vào bụi sột soạt. Xế chiều, cò trắng phất cờ như đón người khách lạ. Trích, cúm núm kêu ré lên. Con rạch thâu hẹp lại. Chiếc tam bản lắc nghiêng như trái dừa khô trên mặt nước đầu sóng gió. Ánh trạo chèo một chèo, nghiêng mình bên hữu. Rồi bỗng nhiên anh chụp mỗi tay một cây chèo mà chèo trên đất khô bên bờ rạch. Chiếc tam bản lại lướt nhanh trong lòng nước quá hẹp, vừa đủ lọt bề ngang.
Anh trạo mỉm cười :
- Chèo như vậy đi lẹ hơn. Mọi lần mùa hạn, nước cạn queo, dưới sông đầy bùn non, tôi cưỡi trâu trên bờ mà kéo. Chiếc tam bản đi như cộ kéo lúa...
- Chú trạo biết rành nhà Từ Có không ?
- Dạ, biết. Tư Có ở một mình, nuôi heo, giăng câu, ăn ong, nghe nói y ở xứ Vãng Long xuống đây tính bề dạy học mà xin phép chưa được...
***
Buổi cơm chiều ngon lành làm sao ! Ăn cá lóc nướng trui, uống rượu "ông cọp". Anh trạo đã về, Tư Có kềm thầy phái viên ở lại ngủ một đêm, chú hứa sáng mai bơi xuồng đưa thầy trở lại công sở mà đón tàu đò. Thếp đèn dầu cá kéo thêm một tim thứ nhì nữa, cháy khá sáng. Bếp un dưới đất tỏa lên cuồn cuộn, tỏ rõ từng sợi khói mịn màng như mành lưới tơ giăng bủa khắp căn chòi nhỏ hẹp.
Tư Có bỏ mùng xuống, chun vô tấn ba phía rồi mời :
- Thầy Hai vô trong này ngồi nói chuyện cho vui. Ở ngoài muỗi cắn. Khói như vậy mà muỗi cứ bu lại rớt lềnh bềnh trong thếp đèn dầu cá đó.
Ngượng nghịu, thầy phái viên nhà báo Chim Trời rón rén dở mí mùng, chun lẹ vào ngồi kế bên :
- Xứ gì lạ quá ! Anh Tư ở đây hoài sanh bịnh chết.
Tư Có đáp :
- Xứ Cà Bây Ngọp, tiếng Khơ Me nghĩa là trâu chết. Hồi đó nghe nói trâu "len" tới đây thất bại, phong thổ ẩm thấp trâu chết nhiều quá. Họ đặt tên kỷ niệm luôn... Bởi vậy dân tình bịnh hoạn, thưa thớt, làng này chưa cất nổi cái trường học.
Thầy phái viên trố mắt :
- Vậy à ? Còn mấy làng khác ?
- Ðông Thái, Ðông Hoà, Ðông Hưng, Vân Khánh Ðông... không làng nào có trường hết. Thầy nghĩ coi...
- Hèn chi miệt này chỉ một mình anh Tư là độc giả báo Chim Trời của chúng tôi... Báo có thích hợp không anh Tư ?
- Nói chí tình, đó là của người bà con ở Sài Gòn "đăng" dùm tôi, ban đầu tưởng nói chơi dè đâu nhà báo gởi xuống thiệt, xem cũng đỡ buồn. Phần nhiều bài vở của mấy ông viết cao quá. Tôi thường đọc cái trương Văn Uyển, có bài thơ bát cú của cô Bích Lý vịnh cảnh sông Hương. Hay quá lẽ ! về sau, ông Trần Bất Diệt ở Cầu Kè họa vận...
Thầy phái viên gật đầu, ừ lấy lệ, thật ra hồi nào tới giờ đi cổ động cho báo Chim Trời mà ít khi thầy đọc kỹ báo nhà. Tư Có hỏi tiếp :
- Nhà báo Chim Trời đông người không thầy ? Chắc là lớn lắm ? Làm sao mà thành chữ được.
- Có thợ chuyên môn ráp từ chữ a, chữ b.
- Trời thần ơi ! Biết tới chừng nào mới xong, chắc là thợ đông lắm... Còn mấy ông chủ nhiệm, chủ bút, phóng viên... Chắc làm việc rần rộ ngày đêm.
Thầy phái viên sực nhớ đến tình trạng loe hoe của toà soạn, lại gật đầu lần nữa.
- Làm báo thì cần nhiều trí óc lắm phải không thầy phái viên ? Tiếc là hồi nhỏ cha tôi chết sớm. Hồi đó, ổng làm thầy giáo cũng đặt thơ bát cú, tứ cú. Cha tôi chết, má tôi giữ mấy pho sách, dạy lại tôi. Ðó là sách Quốc Văn giáo khoa thư, thầy còn nhớ không ?
Thầy phái viên cười :
- Nhớ chớ. Làm sao mà quên được ! Hồi nhỏ tôi hớt "ca rê", tay xách tòn ten bình mực đi học ở trường làng. Hồi đó, trí óc minh sáng suốt, nhớ dai lắm. Bây giờ lớn tuổi, đầu bạc hoa râm, đi làm ăn rày đây mai đó, nhớ nhà, nhớ trường học, nhớ làng xưa.
Tư Có nói :
- Chắc là thầy muốn nói bài "chốn quê hương đẹp hơn cả" chớ gì ?
Rồi chú đọc một hơi :
- Một người đi du lịch đã nhiều nơi. Hôm về nhà, kẻ quen người thuộc, làng xóm, láng giềng đến chơi đông lắm. Một người bạn hỏi : ông đi du sơn du thủy...
- Ðó đa ! Ðó đa ! Anh Tư nhớ kỹ quá... Người du lịch mới trả lời : ở chốn quê hương... từ cái bụi tre ở xó vườn cho đến con đường khúc khuỷu trong làng, cái gì cũng gợi cho tôi những mối cảm tình chứa chan... Bài đó có hình ông già mang kiếng, chống gậy nói chuyện với mấy người khăn đóng áo dài.
- Thì hình nào cũng khăn đóng áo dài. Trừ ra cái hình thằng nhỏ chăn trâu cầm roi : ai bảo chăn trâu là khổ... Không, chăn trâu sướng lắm chứ.
Thầy phái viên phụ họa theo như cùng hợp xướng :
- Ðầu đội nón mê như lọng che, tay cầm cành tre như voi ngựa, ngất nghểu ngồi trên mình trâu, tôi nghe chim hót trong chòm cây, mắt trông bướm lượn trên đám cỏ...
Rồi thầy kéo qua những đoạn khác mà thầy nhớ :
- Hay quá ! Nhà báo bây giờ không ai bằng. Văn chương như vậy là cảm động lòng người... Như cái hình ông già đẩy xe bò lên dốc, có hai đứa học trò kéo dây tiếp sức. Trời nắng to. Ðường thì dốc. Một ông lão đẩy cái xe lợn. Trên xe có ba bốn con lợn to, chân trói bụng phơi và mồm kêu eng éc...
Tư Có vỗ trán :
- Còn ông già khuân tảng đá nữa, thấy mà thương : Trời nhá nhem, chạng vạng tối, tôi thấy một ông cụ già hì hục khuân tảng đá. Ông cụ nhắc lên để xuống đến bốn năm lần mới đem được từ giữa đường đến chỗ bụi cây mà bỏ đấy... Lão đi lỡ vấp phải tảng đá này, sầy cả chân đau lắm nên khuân bỏ vào đây, sợ có người vấp nữa chăng.
Thầy phái viên lại không chịu rằng mình kém trí nhớ :
- Ngang hình ông già đó, trương phía tay trái có bài chọn bạn mà chơi, thói thường gần mực thì đen. Cha chỉ ngón tay, con đứng khoanh tay cúi đầu mà nghe. Dưới chót lại có hàng chữ : Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài.
Tư Có gất đầu :
- Ðó là ngụ ý răn he gương tốt thói xấu. Phải siêng năng như Sửu chăm học, ngồi bên đèn mà đọc sách ; đừng lười biếng như thằng Bình đánh vòng. Phải bền chí học hành. Ờ thầy phái viên chắc nhớ cái hình con kiến tha mồi ! Văn chương nghe như đờn Nam Xuân : Nước mềm, đá rắn thế mà nước chảy mãi đá cũng phải mòn. Sợi dây nhỏ, cây gỗ lớn, vậy mà dây cưa mãi gỗ cũng đứt. Con kiến nhỏ, cái tổ to, thế mà kiến tha lâu cũng đầy tổ. Người ta cũng vậy...
***
Không ai bảo ai, hai người lại nằm xuống lim dim. Tuổi của họ đã quá ba mươi ! Nước chảy mãi mà sao đá không thấy mòn? Sợi dây cưa mãi, gỗ chưa đứt mà sợi dây sắp đứt trước. Sự nghiệp của họ nào đã có gì : Kẻ mến cái thú ở nhà quê, người lận đận với cái thú ở kẻ chợ.
Nằm mãi không ngủ được, thầy phái viên lắng nghe những tiếng động trong nhà, giữa tiếng mọt nghiến gỗ kèn kẹt như người đưa võng, bất chấp tiếng chuột chạy sột soạt và nhất là tiếng muỗi rừng lộng hành kêu vo vo, thầy mơ lại những ngày năm nay tôi lên bảy, tôi đã lớn, tôi không... lêu lổng nữa. Còn đâu mùi hương của những quyển sách mới bao bìa kỹ lưỡng nhưng vài ngày sau đã rách bìa ! Làm sao nghe được tiếng phập phồng trong ngực của đứa bé khi trời mưa to, đi học trễ, run rẩy bước vào trường rồi cổi áo phơi ngay trong lớp... Ðây, thầy giáo mặc đồ bà ba, lâu lâu bước ra khỏi lớp để chào hỏi khi thầy xã, thầy cai tổng đi ngang qua. Một đôi lúc, thầy giáo quá cay nghiệt đã dùng thước đánh vào những đầu ngón tay non yếu, hoặc hươi cây thước bảng...
Dầu sao đi nữa, những kỷ niệm xa xưa vẫn vui, vui như một lũ học trò giành nhau chụp cho được cây dùi trống, đánh thùng thùng báo hiệu giờ vào lớp.
Giọng Tư Có nói nhỏ :
- Ngủ chưa, thầy phái viên ?
Thầy phái viên yên lặng, trời mới mưa, các chỗ trũng đầy nước cả nên cóc và nhái kêu ính ỏi. Vài giọt mưa rớt nhẹ xuống đất... Và rơi trên rạch Cà Bây Ngọp trước nhà. Hồi năm nào, thầy là giọt nước trong lành đó, bây giờ nó đã trôi xa, ra sông, chứa đựng rác rến, chảy hăng ra biển. Ừ, hoạ chăng đó là con đường hiệu quả nhất là được sớm bốc thành hơi, đầu thai trở lại nguồn... Nghĩ vậy, thầy khoan khái mỉm cười ngồi dậy hỏi :
- Ngủ chưa anh Tư ?
- Chưa !
- Tôi nãy giờ cũng vậy, muốn ngủ sớm để mai về nhà, mà không thấy mệt.
Im lặng một hồi lâu, rất lâu, Tư Có nói ngậm ngùi sau một tiếng thở dài :
- Biết lấy gì làm sở phí cho thầy. Thầy nói thiệt tình nghe coi... Chắc thầy tới đây thâu tiền.
- Ðâu có ! Ðâu có ! Mình là bạn đời với nhau...
- Thầy hiểu cảnh tôi. Không lẽ gởi cá lóc, rùa, mật ong... nhờ thầy đem về Sài Gòn gọi là tiền của tôi trả cho nhà báo. Tôi "đăng" là vì ái mộ báo Chim Trời chớ ít đọc lắm. Mấy thầy viết cao quá. Tôi mua để dành về sau cho đủ bộ.
- Anh Tư đừng ngại chuyện đó. Cứ tiếp tục đọc. Lâu lâu dò nơi mục Thư tín không chừng có lời của tôi thăm hỏi anh Tư. Nếu thấy báo đăng đòi tiền các độc giả, xin anh Tư hiểu rằng đó là nhắc nhở các người khác. Tôi hứa nói lại với ông chủ nhiệm mỗi kỳ gởi tặng anh Tư một số báo, hoài hoài cho tới số chót.
Chú Tư Có vô cùng cảm động :
- Thôi thầy ngủ lấy sức để mai về bình yên. Khuya nghe chồn cáo cộc kêu, thầy đừng giựt mình : Ở đây miệt rừng, không có... xa xa thì nghe tiếng chó sủa trăng.
Thầy phái viên cười dòn, tưởng tượng cái cảnh biệt ly ngày mai "Ôi ! Cái cảnh biệt ly ở xóm Cà Bây Ngọp sao mà buồn vậy!". Vĩnh biệt thì đúng hơn. Nghe nó buồn như một giọng hò, một câu rao Vọng Cổ, nhưng thầy chưa muốn nói ra, giờ nầy.
Sơn Nam
Một cuộc biển dâu
Sơn Nam
Linh đinh bèo nước biết về đâu ?
Ðậu bến An Giang thấy những rầu,
Bảy Núi mây liền, chim nhíp cánh,
Ba dòng nước chảy, cá vênh râu.
Có rau nội quạnh, dân xanh mặt,
Không trái bần khô, khỉ bạc đầu...
Cử nhơn PHAN VĂN TRỊ
Lão Bích day mặt qua một bên. Nắng đổ xuống từng đóm lửa đỏ như mấy cục sắt trong lò rèn mới rút ra, chóa lên rồi bay bổng xa dần, trở nên phiêu diêu, mát rượi như bầy đom đóm vô hình bay trong đêm. Ðúng ba ngày rày, lão chỉ uống nước chớ không ăn một hột cơm nào. Hai hôm đầu, lão lấy cớ lả mệt. Hôm sau, đứa con lão bới cơm đầy chén, lão hứa sẽ ăn khi khỏe người. Chờ khi nó nằm ngủ trưa, lão đổ cơm trở vào nồi, thảy xuống nước vài hột để nhìn bầy cá linh bu lại giành mồi, phóng mình lên... Giờ phút này, bụng dạ của lão thơ thới lạ thường, không biết đói là gì. hay là nó đã tê liệt rồi ? Nhịn đói năm ba ngày liên tiếp không phải là một lý do đầy đủ để chết ; sức người chịu dai lắm nếu hãy còn cảm giác biết đói. Ðằng này lão không đói nữa : phân nửa thân xác của lão, từ ngực trở xuống, dường như đã lìa. Từ ngực trở lên, qua hơi thở phơn phớt, lão ngỡ chỉ còn lớp da nhăn bọc xương khô. Bịnh lão hoành hành từ mười năm qua đã giúp lão trút nhẹ lá phổi, duy còn đôi mắt và hai lỗ tai. Nhưng hai giác quan này đã biến đổi, hư hao quá nhiều. Bây giờ là ngày hay đêm ? Ở đây là biển trần khổ hay là ở trên bồng lai ? Trong mớ ánh sáng lung linh, dường như có muôn ngàn gương mặt khác nhau hiện ra không rõ rệt, dịu hiền như ngọc nữ kim đồng, trong tiếng tiêu, tiếng sáo, tiếng đờn cò, giữa bầy phụng hoàng bay lượn.
- Quạ ! Quạ đừng !
Lão Bích giựt mình thở phì phào :
- Quạ à ? Vậy mà cha tưởng là...
Thằng Kim bò trên xuồng, hươi dầm định đập lũ quạ đang liều lĩnh bu lại mũi xuồng. Lão Bích lắc đầu :
- Nó muốn rỉa xác tao thì cứ rỉa. Coi chừng chìm xuồng... Rán bơi tới nữa... Con ơi !
Rồi lão nắm tay nó mà kéo lại sát mặt :
- Thấy chòm cây, xóm nhà nào trước mặt không ? Hừng sáng rồi hả ?
Thằng Kim hoảng hồn, đoán rằng cha nó đang hấp hối. Mặt trời sắp lặn. Nó bơi mạnh. Qua lượn sóng to này nó hồi hộp, chưa kịp nghỉ tay là lượn sóng khác tràn tới. Ðằng xa kia, ẩn hiện trên ngọn sóng ngọn lúa xanh rì. Từ hồi sáng, mặc dầu nó bơi liên tiếp, cảnh vật chung quanh vẫn y hệt. Nước chảy hăng, tràn lan từ bờ sông Hậu Giang ra vịnh Xiêm La, chảy mãi về hướng Tây. Nó thắc mắc : nước ở đâu mà nhiều quá, ngập đồng ruộng, sâu cỡ hai thước, mênh mông không bờ bến như biển khơi. Hồi hôm qua, lão Bích dẫn giải :
- Ðây vùng ruộng sạ thuộc tình Long Xuyên. Hằng năm, nước lên vài tháng rồi giựt xuống. Ði tắt như vầy hơi cực nhưng không ai xét giấy thuế thân.
Giờ đây, nó mới hiểu rõ sự thật của tiếng "hơi cực". Nhớ lúc đi qua phá Ðại Ngãi để vượt ngang sông dài Hậu Giang, nước sâu, sông rộng nhưng nó cảm thấy dễ thở hơn. Sông rộng có giới hạn, bơi non một giờ là qua khỏi ; giữa sông nhiều cù lao nổi lên giúp người đi đường vững tinh thần, rủi chìm xuồng thì lội vô cù lao. Vùng ruộng sạ này có khác ! Bờ Bến ở tận chơn trời, nước tuy cạn nhưng có thể giết người, nạn nhân dầu lội giỏi, vượt năm bảy ngàn thước cũng không tìm được một căn nhà sàn, một ngọn tre mà nương tựa.
Mặt trời xuống, ngày một thấp. Và rặng cây ban nãy biến đâu mất rồi ? Nó tự hỏi. Mặt nước xanh tươi, đám ruộng sạ của ai hiện ra hàng trăm công đất. Lạc vào đó e ngọn lúa vướng vào dầm khó bơi, nó quay xuồng qua phía tay mặt. Sóng gió đà dịu xuống. Phía trước mũi xuồng, lố nhố những đốm đen ngòm, chuyển động như giăng ngang kín chân trời.
Lão Bích nói vọng lại, yếu ớt :
- Thấy bờ bến gì chưa ?
Nó nghiêng tai nghe tiếp.
- Ba để lại cho con cái áo này... Yếu quá... ba ngồi dậy cổi áo không được. Con..
Nó trố mắt. Hai chân của cha nó im lìm như khúc gỗ bỗng nhiên cựa quậy, giãy dụa.
- Sao... sao không cha ?
Thằng Kim la rú lên, bò tới. Tay chân ba nó đã lạnh ngắt, mặt thì xanh đen. Nó khóc không nên tiếng, nước mắt nước mũi cứ tuôn xuống.
Ðằng xa... xóm nhà hiện ra. Nó rú lên. Nhưng tiếng hú nghẹn trong cuống họng. Chụp cây dầm, nó quơ lên trời làm dấu hiệu.
... Một chiếc xuống ba lá rẽ nước tiến lại, người ngồi trên xuống quát lớn :
- Gì vậy ? Té xuống ruộng hả ?
- Không ! Ba tôi chết rồi.
Khách nọ ngồi xuống, rờ vào lão Bích rồi nhìn thằng Kim :
- Ở đâu tới vậy ? Tội quá. Người này là ba của chú em à ?
- Dạ ở cù lao Ông Chưởng...
Khách lẩm bẩm :
- Thì cũng ở trong vòng tỉnh Long Xuyên... Biết sao bây giờ ! Ði đâu mà lỡ đường như vậy ? Có bà con với ai gần đây không ?
Thằng Kim chắp tay lại :
- Ông giúp dùm tôi. Không ai hết. Không ai hết.
- Ðể coi.
Khách quay lưng, đưa tay ngoắc chiếc xuồng phía sau. Thằng Kim đã hiểu những lằng đen ở chân trời khi nãy là bầy trâu vô số kể đang lặn hụp. Trâu quậy, sóng nước chuyển nghe đùng đùng. Hơi trâu thở khì khì như cây rừng khi nổi gió. Hàng trăm cặp sừng cong vòng, nhọn lễu nhô trên bộ mặt ngơ ngác ba góc, giống hệt những trái ấu khổng lồ.
Khách bảo em bé ở xuống sau :
- Ðừng cho trâu đi theo. Không khéo chìm xuống người ta bây giờ ! Mày đẫn chú này lại chòi ông Hai Tích...
Ðứa bé đáp :
- Rồi ai coi chừng trâu phía sau ?
Khách ngẫm nghĩ :
- Vậy thì mày đưa một đỗi, gần tới nhà Hai Tích thì hú một tiếng cho ổng hay. Rồi trở ra lẹ. Ngoài này tao len trâu chậm chậm chờ mày...
Rồi day lại thằng Kim :
- Chú em đi với em này lại nhà quen của tôi. Họ giúp giùm cho.
***
Em bé bơi trước. Thằng Kim theo sau, trong dạ buồn điếng nhưng cũng khuây khỏa được ít nhiều. Nó cúi đầu nhìn : tay chân cha nó đã rút lên, mặt nghiêng một bên khuất dưới cái nón lá ; có lẽ khi nãy ông khách nọ đã chú ý đậy mặt dùm cho nó.
Ông khách bỗng bơi xuống theo, kêu nó :
- Ngừng lại nghe tôi căn dặn : thằng nhỏ đó sợ ma lắm. Chiều rồi, đừng cho nó thấy. Chú em lấy cái nóp này của tôi đem về nhà ông Hai Tích. Không chừng sáng mai tôi về tới. Ðừng buồn. Ông Hai Tích cũng như tôi...
Hai căn chòi nằm lú trên mặt nước. Khói cơm bay tỏa cuồn cuộn, tản mác trở về phía mặt trời mọc. Quạ đậu sắp hàng trên nóc nhà, há mỏ kêu rồi bay bổng vòng quanh xuồng. Em bé rú lên :
- Ông Hai ơi ! Có khách của chú Tư Lập nè !
Rồi nó quày quả trở lại. Thằng Kim nói :
- Cám ơn.
Ðứa bé nhìn lại trong xuồng thằng Kim :
- Sao ông này nằm hoài... Kêu ổng thức dậy, tới bến rồi !
Thằng Kim méo mặt, nước mắt lại tuôn xuống. Như đoán được trách nhiệm giao phó nãy giờ, đứa bé rùng mình, la lên một tiếng "trời" rồi bơi đi tuốt.
Nghe thằng Kim thuật lại hoàn cảnh của cha nó, ông Hai Tích thở dài, gọi bà Hai nấu cơm thêm để thằng Kim cùng ăn. Thằng Kim nuốt không vô ; hồi xế trưa đến giờ tâm trí nó bận rộn vì một câu hỏi mà nó không dám thốt ra : "Chôn ba nó ở đâu ? Làm sao mà chôn ?". Bà Hai gọi ông Hai ra phiá sau. Hai vợ chồng nói qua lại thì thào. Ông Hai trở ra :
- Ý của cháu như thế nào ? Miệt này, mùa này ai rủi ro thì cũng vậy. Bác coi cháu như người nhà nên mới nói thiệt. Phải chôn gấp nội chiều nay, lòng vòng chờ sáng mai không lợi ích gì.
Thằng Kim hỏi :
- Thưa bác, chôn ở đâu ?
Ðoán được vẻ lo âu sợ hãi ấy, ông Hai Tích ngập ngừng :
- Nói chôn cho đúng tục lệ chớ đất ở đâu mà chôn ? Tứ bề là nước. Có hai cách : một là xóc cây tréo ở giữa đồng rồi treo lên mặt nước, chờ khi nước giựt mới đem chôn lại dưới đất. Như vậy mất công lắm, diều quạ hoành hành. Chi bằng bó xác lại rồi dằn cây dằn đá mà neo dưới đáy ruộng...
Thằng Kim đập đầu xuống sàn nhà, hai tay bứt tóc :
- Trời ơi, phải biết vậy, ba tôi đi tới xứ này làm chi...
Bà Hai Tích rưng rưng nước mắt :
- Cháu đừng khóc. Trời định vậy. Ở đây ai cũng vậy ; người có của, ai tới xứ này ? Trách cha, trách mẹ, trách trời là thêm tội. Cháu thắp nhang đi, lạy không được thì xá ba xá. Bác ra tay dùm. Trời chạng vạng, lát nữa tối tăm, khó lắm.
Bước ra sau hè để coi bóng mặt trời rồi ông Hai Tích lật đật trở lại phía trước, tay cầm chai rượu. Ông dở cái nón che mặt lão Bích, phun rượu kéo tay chân xác chết ra cho ngay ngắn.
Hai chiếc nóp gói kín xác kẻ bạc mạng. Bà Hai vào nhà rút mười sợi dây choại, chuyền xuống. Sau rốt, hai ông bà lum khum khiêng xuống suồng cái thớt trên của cây cối xay lúa cũ.
Xuồng rời khỏi nhà, mỗi lúc một xa. Thằng Kim khóc đòi đi theo... để tự vận. Bà Hai Tích nói :
- Lớn rồi, cháu không phải là con nít nữa mà đòi liều mạng dại dột như vậy. Coi như là xong một cái tai nạn...
Thỉnh thoảng, ông Hai Tích day mặt lại, khoát tay như ra dấu bảo người trong nhà đừng trông theo. Biết cử chỉ của mình vô hiệu quả, ông cho xuồng tẽ qua một bên hông trong nhà không ai nom thấy cảnh tượng đau xót cuối cùng. Ðôi mắt thằng Kim mở rộng, trừng trừng. Cả mặt nước giờ đây hiển hiện như con ác thú khổng lồ há miệng ra nuốt trọn thân xác cha nó rồi ngậm miệng lại, giận dữ vì chưa no. Nhưng chỉ giây phút thôi ! Mặt nước trở lại yên tịnh, phải chờ khi da trời tỏ rạng sao Hôm, nắng vàng chìm xuống, cơn gió Nam mới nổi lên lần nữa, triền miên đến khi gà gáy văng vẳng.
Ngay bàn thờ giữa, khói hương cháy đỏ. Ý của ông Hai và bà Hai là cầu siêu cho vong hồn người bạc mạng. Phần thằng Kim thì sau khi uống trọn gáo nước lạnh, nó nằm ngả trên sàn, mệt lịm, ngủ tự hồi nào. Nó mớ. Nó trở mình đấm tay, đạp chân nghe rầm rầm. Ông Hai, bà Hai lấy chiếc chiếu đắp cho nó.
Bà Hai nói :
- Tội nghiệp. thân nó đơn chiếc mà gặp cảnh này...
Ông Hai cau mày :
- Biết vậy thì tại sao hối nãy bà tiếc cái cối xay lúa ? Bộ bà muốn cho ba nó nổi sình lềnh bềnh trên mặt nước hay sao ?
- Ðừng nói nữa ông ơi. Tới mùa nước giựt, bề nào ông cũng rán nhớ hốt xương, chôn cất kỹ lưỡng dùm nó. Tôi khổ lắm...
Ông Hai hớp miếng rượu :
- Không cần... Ðất ruộng này rải rác, Lũ khũ... xương người ta với xương trâu, thứ trâu "len" đi xa bị bịnh mà chết dọc đường. Tới mùa cày ruộng, năm nào cũng vậy, tôi gặp xương đó hoài.
- Rồi ông làm sao ?
- Thì cày đất lấp lại cho lúa sạ mọc lên. Mình cứ tưởng đó là xương của người hồi đời Bàn Cổ... Chớ nhìn nhận rằng nó còn tươi trẻ hơn bộ xương mà mình đang mang đây thì... mình phải suy nghĩ cho phận làm người của mình quá ! Mấy bữa đó, tôi buồn, về nhà khảo tiền của bà để mua rượu uống, bà không hiểu nên rầy tôi... Bà nhớ không ?
Thằng Kim lại trở mình, đập tay xuống sàn nhà...
***
Linh đinh bèo nước biết về đâu ?
Ðậu bến An Giang thấy những rầu,
Bảy Núi mây liền, chim nhíp cánh,
Ba dòng nước chảy, cá vênh râu.
Có rau nội quạnh, dân xanh mặt,
Không trái bần khô, khỉ bạc đầu...
Cử nhơn PHAN VĂN TRỊ
Lão Bích day mặt qua một bên. Nắng đổ xuống từng đóm lửa đỏ như mấy cục sắt trong lò rèn mới rút ra, chóa lên rồi bay bổng xa dần, trở nên phiêu diêu, mát rượi như bầy đom đóm vô hình bay trong đêm. Ðúng ba ngày rày, lão chỉ uống nước chớ không ăn một hột cơm nào. Hai hôm đầu, lão lấy cớ lả mệt. Hôm sau, đứa con lão bới cơm đầy chén, lão hứa sẽ ăn khi khỏe người. Chờ khi nó nằm ngủ trưa, lão đổ cơm trở vào nồi, thảy xuống nước vài hột để nhìn bầy cá linh bu lại giành mồi, phóng mình lên... Giờ phút này, bụng dạ của lão thơ thới lạ thường, không biết đói là gì. hay là nó đã tê liệt rồi ? Nhịn đói năm ba ngày liên tiếp không phải là một lý do đầy đủ để chết ; sức người chịu dai lắm nếu hãy còn cảm giác biết đói. Ðằng này lão không đói nữa : phân nửa thân xác của lão, từ ngực trở xuống, dường như đã lìa. Từ ngực trở lên, qua hơi thở phơn phớt, lão ngỡ chỉ còn lớp da nhăn bọc xương khô. Bịnh lão hoành hành từ mười năm qua đã giúp lão trút nhẹ lá phổi, duy còn đôi mắt và hai lỗ tai. Nhưng hai giác quan này đã biến đổi, hư hao quá nhiều. Bây giờ là ngày hay đêm ? Ở đây là biển trần khổ hay là ở trên bồng lai ? Trong mớ ánh sáng lung linh, dường như có muôn ngàn gương mặt khác nhau hiện ra không rõ rệt, dịu hiền như ngọc nữ kim đồng, trong tiếng tiêu, tiếng sáo, tiếng đờn cò, giữa bầy phụng hoàng bay lượn.
- Quạ ! Quạ đừng !
Lão Bích giựt mình thở phì phào :
- Quạ à ? Vậy mà cha tưởng là...
Thằng Kim bò trên xuồng, hươi dầm định đập lũ quạ đang liều lĩnh bu lại mũi xuồng. Lão Bích lắc đầu :
- Nó muốn rỉa xác tao thì cứ rỉa. Coi chừng chìm xuồng... Rán bơi tới nữa... Con ơi !
Rồi lão nắm tay nó mà kéo lại sát mặt :
- Thấy chòm cây, xóm nhà nào trước mặt không ? Hừng sáng rồi hả ?
Thằng Kim hoảng hồn, đoán rằng cha nó đang hấp hối. Mặt trời sắp lặn. Nó bơi mạnh. Qua lượn sóng to này nó hồi hộp, chưa kịp nghỉ tay là lượn sóng khác tràn tới. Ðằng xa kia, ẩn hiện trên ngọn sóng ngọn lúa xanh rì. Từ hồi sáng, mặc dầu nó bơi liên tiếp, cảnh vật chung quanh vẫn y hệt. Nước chảy hăng, tràn lan từ bờ sông Hậu Giang ra vịnh Xiêm La, chảy mãi về hướng Tây. Nó thắc mắc : nước ở đâu mà nhiều quá, ngập đồng ruộng, sâu cỡ hai thước, mênh mông không bờ bến như biển khơi. Hồi hôm qua, lão Bích dẫn giải :
- Ðây vùng ruộng sạ thuộc tình Long Xuyên. Hằng năm, nước lên vài tháng rồi giựt xuống. Ði tắt như vầy hơi cực nhưng không ai xét giấy thuế thân.
Giờ đây, nó mới hiểu rõ sự thật của tiếng "hơi cực". Nhớ lúc đi qua phá Ðại Ngãi để vượt ngang sông dài Hậu Giang, nước sâu, sông rộng nhưng nó cảm thấy dễ thở hơn. Sông rộng có giới hạn, bơi non một giờ là qua khỏi ; giữa sông nhiều cù lao nổi lên giúp người đi đường vững tinh thần, rủi chìm xuồng thì lội vô cù lao. Vùng ruộng sạ này có khác ! Bờ Bến ở tận chơn trời, nước tuy cạn nhưng có thể giết người, nạn nhân dầu lội giỏi, vượt năm bảy ngàn thước cũng không tìm được một căn nhà sàn, một ngọn tre mà nương tựa.
Mặt trời xuống, ngày một thấp. Và rặng cây ban nãy biến đâu mất rồi ? Nó tự hỏi. Mặt nước xanh tươi, đám ruộng sạ của ai hiện ra hàng trăm công đất. Lạc vào đó e ngọn lúa vướng vào dầm khó bơi, nó quay xuồng qua phía tay mặt. Sóng gió đà dịu xuống. Phía trước mũi xuồng, lố nhố những đốm đen ngòm, chuyển động như giăng ngang kín chân trời.
Lão Bích nói vọng lại, yếu ớt :
- Thấy bờ bến gì chưa ?
Nó nghiêng tai nghe tiếp.
- Ba để lại cho con cái áo này... Yếu quá... ba ngồi dậy cổi áo không được. Con..
Nó trố mắt. Hai chân của cha nó im lìm như khúc gỗ bỗng nhiên cựa quậy, giãy dụa.
- Sao... sao không cha ?
Thằng Kim la rú lên, bò tới. Tay chân ba nó đã lạnh ngắt, mặt thì xanh đen. Nó khóc không nên tiếng, nước mắt nước mũi cứ tuôn xuống.
Ðằng xa... xóm nhà hiện ra. Nó rú lên. Nhưng tiếng hú nghẹn trong cuống họng. Chụp cây dầm, nó quơ lên trời làm dấu hiệu.
... Một chiếc xuống ba lá rẽ nước tiến lại, người ngồi trên xuống quát lớn :
- Gì vậy ? Té xuống ruộng hả ?
- Không ! Ba tôi chết rồi.
Khách nọ ngồi xuống, rờ vào lão Bích rồi nhìn thằng Kim :
- Ở đâu tới vậy ? Tội quá. Người này là ba của chú em à ?
- Dạ ở cù lao Ông Chưởng...
Khách lẩm bẩm :
- Thì cũng ở trong vòng tỉnh Long Xuyên... Biết sao bây giờ ! Ði đâu mà lỡ đường như vậy ? Có bà con với ai gần đây không ?
Thằng Kim chắp tay lại :
- Ông giúp dùm tôi. Không ai hết. Không ai hết.
- Ðể coi.
Khách quay lưng, đưa tay ngoắc chiếc xuồng phía sau. Thằng Kim đã hiểu những lằng đen ở chân trời khi nãy là bầy trâu vô số kể đang lặn hụp. Trâu quậy, sóng nước chuyển nghe đùng đùng. Hơi trâu thở khì khì như cây rừng khi nổi gió. Hàng trăm cặp sừng cong vòng, nhọn lễu nhô trên bộ mặt ngơ ngác ba góc, giống hệt những trái ấu khổng lồ.
Khách bảo em bé ở xuống sau :
- Ðừng cho trâu đi theo. Không khéo chìm xuống người ta bây giờ ! Mày đẫn chú này lại chòi ông Hai Tích...
Ðứa bé đáp :
- Rồi ai coi chừng trâu phía sau ?
Khách ngẫm nghĩ :
- Vậy thì mày đưa một đỗi, gần tới nhà Hai Tích thì hú một tiếng cho ổng hay. Rồi trở ra lẹ. Ngoài này tao len trâu chậm chậm chờ mày...
Rồi day lại thằng Kim :
- Chú em đi với em này lại nhà quen của tôi. Họ giúp giùm cho.
***
Em bé bơi trước. Thằng Kim theo sau, trong dạ buồn điếng nhưng cũng khuây khỏa được ít nhiều. Nó cúi đầu nhìn : tay chân cha nó đã rút lên, mặt nghiêng một bên khuất dưới cái nón lá ; có lẽ khi nãy ông khách nọ đã chú ý đậy mặt dùm cho nó.
Ông khách bỗng bơi xuống theo, kêu nó :
- Ngừng lại nghe tôi căn dặn : thằng nhỏ đó sợ ma lắm. Chiều rồi, đừng cho nó thấy. Chú em lấy cái nóp này của tôi đem về nhà ông Hai Tích. Không chừng sáng mai tôi về tới. Ðừng buồn. Ông Hai Tích cũng như tôi...
Hai căn chòi nằm lú trên mặt nước. Khói cơm bay tỏa cuồn cuộn, tản mác trở về phía mặt trời mọc. Quạ đậu sắp hàng trên nóc nhà, há mỏ kêu rồi bay bổng vòng quanh xuồng. Em bé rú lên :
- Ông Hai ơi ! Có khách của chú Tư Lập nè !
Rồi nó quày quả trở lại. Thằng Kim nói :
- Cám ơn.
Ðứa bé nhìn lại trong xuồng thằng Kim :
- Sao ông này nằm hoài... Kêu ổng thức dậy, tới bến rồi !
Thằng Kim méo mặt, nước mắt lại tuôn xuống. Như đoán được trách nhiệm giao phó nãy giờ, đứa bé rùng mình, la lên một tiếng "trời" rồi bơi đi tuốt.
Nghe thằng Kim thuật lại hoàn cảnh của cha nó, ông Hai Tích thở dài, gọi bà Hai nấu cơm thêm để thằng Kim cùng ăn. Thằng Kim nuốt không vô ; hồi xế trưa đến giờ tâm trí nó bận rộn vì một câu hỏi mà nó không dám thốt ra : "Chôn ba nó ở đâu ? Làm sao mà chôn ?". Bà Hai gọi ông Hai ra phiá sau. Hai vợ chồng nói qua lại thì thào. Ông Hai trở ra :
- Ý của cháu như thế nào ? Miệt này, mùa này ai rủi ro thì cũng vậy. Bác coi cháu như người nhà nên mới nói thiệt. Phải chôn gấp nội chiều nay, lòng vòng chờ sáng mai không lợi ích gì.
Thằng Kim hỏi :
- Thưa bác, chôn ở đâu ?
Ðoán được vẻ lo âu sợ hãi ấy, ông Hai Tích ngập ngừng :
- Nói chôn cho đúng tục lệ chớ đất ở đâu mà chôn ? Tứ bề là nước. Có hai cách : một là xóc cây tréo ở giữa đồng rồi treo lên mặt nước, chờ khi nước giựt mới đem chôn lại dưới đất. Như vậy mất công lắm, diều quạ hoành hành. Chi bằng bó xác lại rồi dằn cây dằn đá mà neo dưới đáy ruộng...
Thằng Kim đập đầu xuống sàn nhà, hai tay bứt tóc :
- Trời ơi, phải biết vậy, ba tôi đi tới xứ này làm chi...
Bà Hai Tích rưng rưng nước mắt :
- Cháu đừng khóc. Trời định vậy. Ở đây ai cũng vậy ; người có của, ai tới xứ này ? Trách cha, trách mẹ, trách trời là thêm tội. Cháu thắp nhang đi, lạy không được thì xá ba xá. Bác ra tay dùm. Trời chạng vạng, lát nữa tối tăm, khó lắm.
Bước ra sau hè để coi bóng mặt trời rồi ông Hai Tích lật đật trở lại phía trước, tay cầm chai rượu. Ông dở cái nón che mặt lão Bích, phun rượu kéo tay chân xác chết ra cho ngay ngắn.
Hai chiếc nóp gói kín xác kẻ bạc mạng. Bà Hai vào nhà rút mười sợi dây choại, chuyền xuống. Sau rốt, hai ông bà lum khum khiêng xuống suồng cái thớt trên của cây cối xay lúa cũ.
Xuồng rời khỏi nhà, mỗi lúc một xa. Thằng Kim khóc đòi đi theo... để tự vận. Bà Hai Tích nói :
- Lớn rồi, cháu không phải là con nít nữa mà đòi liều mạng dại dột như vậy. Coi như là xong một cái tai nạn...
Thỉnh thoảng, ông Hai Tích day mặt lại, khoát tay như ra dấu bảo người trong nhà đừng trông theo. Biết cử chỉ của mình vô hiệu quả, ông cho xuồng tẽ qua một bên hông trong nhà không ai nom thấy cảnh tượng đau xót cuối cùng. Ðôi mắt thằng Kim mở rộng, trừng trừng. Cả mặt nước giờ đây hiển hiện như con ác thú khổng lồ há miệng ra nuốt trọn thân xác cha nó rồi ngậm miệng lại, giận dữ vì chưa no. Nhưng chỉ giây phút thôi ! Mặt nước trở lại yên tịnh, phải chờ khi da trời tỏ rạng sao Hôm, nắng vàng chìm xuống, cơn gió Nam mới nổi lên lần nữa, triền miên đến khi gà gáy văng vẳng.
Ngay bàn thờ giữa, khói hương cháy đỏ. Ý của ông Hai và bà Hai là cầu siêu cho vong hồn người bạc mạng. Phần thằng Kim thì sau khi uống trọn gáo nước lạnh, nó nằm ngả trên sàn, mệt lịm, ngủ tự hồi nào. Nó mớ. Nó trở mình đấm tay, đạp chân nghe rầm rầm. Ông Hai, bà Hai lấy chiếc chiếu đắp cho nó.
Bà Hai nói :
- Tội nghiệp. thân nó đơn chiếc mà gặp cảnh này...
Ông Hai cau mày :
- Biết vậy thì tại sao hối nãy bà tiếc cái cối xay lúa ? Bộ bà muốn cho ba nó nổi sình lềnh bềnh trên mặt nước hay sao ?
- Ðừng nói nữa ông ơi. Tới mùa nước giựt, bề nào ông cũng rán nhớ hốt xương, chôn cất kỹ lưỡng dùm nó. Tôi khổ lắm...
Ông Hai hớp miếng rượu :
- Không cần... Ðất ruộng này rải rác, Lũ khũ... xương người ta với xương trâu, thứ trâu "len" đi xa bị bịnh mà chết dọc đường. Tới mùa cày ruộng, năm nào cũng vậy, tôi gặp xương đó hoài.
- Rồi ông làm sao ?
- Thì cày đất lấp lại cho lúa sạ mọc lên. Mình cứ tưởng đó là xương của người hồi đời Bàn Cổ... Chớ nhìn nhận rằng nó còn tươi trẻ hơn bộ xương mà mình đang mang đây thì... mình phải suy nghĩ cho phận làm người của mình quá ! Mấy bữa đó, tôi buồn, về nhà khảo tiền của bà để mua rượu uống, bà không hiểu nên rầy tôi... Bà nhớ không ?
Thằng Kim lại trở mình, đập tay xuống sàn nhà...
***
Hương rừng
Sơn Nam
Sống ở rừng U Minh Hạ từ lâu rồi mà Hoàng Mai hãy còn có cảm giác như lạc loài tận đâu đâu, bước chân đi không vướng đất. Ví nàng như cánh bèo rày đây mai đó thì không đúng lắm : có lẽ nàng như đoá hoa sen, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Nhưng loại hoa sen thông tục quá, lại thường lọt vào tay phàm ! Ðằng này, bẩm sinh nàng thuộc về một phẩm chất thanh cao hơn.
- Tằng tổ nhà ta vốn họ Trần, nhờ dày công phò chúa từ Thuận Hoá đến đây nên được cải ra họ Nguyễn, Niên mỗ, ngoạt mỗ, quân Tây Sơn đến mãi tận chốn rừng già này, chúa Nguyễn đành ra khơi tìm nơi cứu viện. Thảm hại thay ! Tằng tổ nhà ta tuổi già, nhuốm bịnh không vượt biển hộ giá được, đành cam lỗi đạo quân thần, giả dạng lê dân, nương náu nơi chốn thanh lâm u cốc. Người được phong đến chức ngự y. Gia phổ ghi chép rành rành, nói xứ này, chỉ dòng họ ta là có gia phổ, đó con.
Cha của nàng thường nhắc nhở như vậy.
- Là quan ngự y, cớ sao tằng tổ ta không tự chữa bịnh được. Hẳng là bệnh nan y ! thưa cha...
Bao lần nàng ướm hỏi như vậy nhưng không dám. "Thuộc dòng hoàng phái nhưng sao triều đình không chú ý tới mà ban cho chút bổng lộc ?". Ðó là nỗi thắc mắc triền miên của nàng khi thấy cha già chuốt tre đan giỏ mà độ nhựt hoặc ngồi buông cán câu bên bờ trúc, giữa trăm bầy muỗi rừng.
Thỉnh thoảng, cha nàng nói khẽ như thanh minh, tự an ủi :
- Hoàng đế đang tức vị thuộc dòng ngụy, do tân trào dựng lên. Giọt máu hùng anh của tiên vương này đã bị lưu đày nơi hải đảo Bòn Bon, bặt tăm nhàn cá. Nhận chức hương giáo trong ban hội tề làng Khánh Lâm sở tại, chẳng qua là cha muốn bưng bít dư luận. Bổng lộc của tân trào, cha nào màng, chỉ nguyện làm bạn bầu với cây cỏ, gió trăng.
Ngày ngày lớn khôn, Hoàng Mai càng yên tâm tin tưởng nơi dòng máu quí phái của mình. Cội hoàng mai cổ thụ trước sân, há chẳng là một bằng cớ ? Bao năm rồi, nó vẫn bền gan khoe sắc khi gió Tết thổi về ; vùng U Minh này mấy ai biết thưởng thức giống hoa vương giả lạc loài ! Bản Nam Bình réo rắt trong ruột cây đàn thập lục chỉ để riêng cho nàng thông cảm đó thôi... Nhưng cơ trời không ai ngờ được, tránh được. Mây đẹp của đỉnh Ngự còn có khi tan, nước yên lành của dòng Hương thường bị gợn những làn sóng nhỏ. Năm ngoái, năm kia, khi vừa quá tuổi trăng tròn, một buổi chợt soi mặt vào lu nước mưa, nàng bắt gặp cái màu trắng trong leo lẻo của dàn da mình. Miệng chúm chím hàm tiếu, nàng vuốt mớ tóc đen huyền ; bàn tay ngà đặt trên má đỏ hây hây, mơn man chuyền suối tóc về trên sau lưng gầy. Nhưng... lạ kìa ! Hàng chục sợi tóc thi nhau tuôn xuống.
Gió nhẹ thoảng qua ; chân tóc lấm tấm đung đưa, vướng bận chưa chịu bay đi như còn than van niềm biệt ly vô cớ. Nàng cau mày trở vào phòng, cầm lược chải kỹ. Nàng toan rú lên. Lược đùa đến đâu là tóc rụng đến đó như lá úa trên cành đến độ gió trở mùa. Nàng e thẹn. Nàng giận dỗi.
Thân phụ nàng - Ông hương giáo - chạy tới. Nàng soi gương, không day lại rồi trả lời về tiếng rú khi nãy :
- Không gì lạ đâu, thưa cha.
Ông hương giáo đã hiểu nguồn cơn. Mớ tóc rối nằm cuộng đống trên bàn khiến ông xúc cảm, không che giấu được cơn buồn. Chiếc gương mờ soi đôi má ửng của Hoàng Mai, màu ửng đỏ lạ thường, không biến đổi dầu khi nàng sợ hãi.
- Từ hồi tấm bé, làn da của Hoàng Mai mịn quá, bóng quá. Trăm sự đều do đó mà ra...
Ông thở dài, cũng như ông đã thở dài hồi mấy năm trước, tuy gió bấc về không lạnh lắm nhưng Hoàng Mai đòi đốt lửa để sưởi rồi dẫm chân lên than hồng mà cưòi. Ðêm đến, ông nghe tiếng rên khe khẽ. Ngỡ là con gái nhuốm bịnh, ông đến gọi cửa đôi ba lần. Hoàng Mai nằm đó, tỉnh mà như say, hơi thở hổn hển, đôi mắt úp vào chiếc gối mềm như trốn tránh mấy sợi tơ trăng buông xuống từng hồi, khi gió rạt rào khẽ rung làm hở ra mấy mí lá che trên đầu vách.
Bịnh của nàng, ông doán được, ngặt không muốn nói rõ tên ra : bịnh nan y - bịnh cùi. Ông chỉ khuyên con gái năng đi duốc vì ở rừng này... "phong" nhiều lắm. Quyển gia phổ ngủ từ lâu đời dưới lớp bụi trên bàn thờ được vời xuống. Lật ra kính cẩn dưới ánh nến bạch lạp. Hơn trăm năm qua, kiếng họ Nguyễn chưa ai nhiễm chứng ấy, rõ ràng không phải bịnh di truyền. Ông suy luận :
- Có thể nhà mình đắp nền trên ngôi mộ xưa của ai. Và tự ngày xưa, ai dám, chối rằng khu rừng này không là bãi sa trường mà người thắng kẻ bại đều lẫn lộn trong đống xương Vô Ðịnh đã hóa ra cát bụi :
Trang phụ lục thứ sáu của quyển gia phổ thứ nhứt còn thố lộ vài chi tiết khó hiểu, viết bằng chữ nôm :
"Ðến Ngạc Ngư Ðàm tức Ðầm Sầu, Ao Sấu, hơi sương lạnh buốt, chướng khí xây thành. Khách hỏi : loại Ngạc Ngư (cá sấu), từ đâu lạc vào đầm ? Kẻ thổ dân thưa : không ai rõ. Chúng đến đây như án ngữ nẻo đường qua truông quỉ. Nơi ấy, muôn nghìn ma quái như ẩn, như hiện. Lại có loài ong dị thường năng về làm ổ ; loại ong này lưng nhuộm ngũ sắc, vượt thiên lý để hái nhụy trăm hoa đem về luyện Ngọc. Người phàm chưa ai đến gần được.
Chúng không sợ khói, hửi nhằm hơi kim khí ô trược là chúng ào ra như giông tố giết cho kỳ được kẻ ngạo mạn. Quan ngư y họ Trần biết được tin ấy bèn sai quân sĩ bày mưu kế hòng cướp ổ ong nọ, đoạt loại Ngọc thiên nhiên hiếm có đem về luyện thuốc trường sinh..."
Tư Lập, tay thanh niên khét tiếng về nghề ăn ong ở xóm Cán Gáo được ông hương giáo mời về nhà, bày rượu thịt thết đãi, đối xử như thượng khách.
Trang gia phổ lại giở ra, đọc nho nhỏ vừa đủ cho Tư Lập nghe. Tư Lập gật đầu.
Trong rừng già này, bên kia Ao Sấu, thỉnh thoảng loài ong ngũ sắc ấy trở về. Ban đầu chú Tư dùng con dao xương nai mà cạo lấy mật nhưng không hiệu quả. Lần sau, chú mài miếng xương người, dẹp như cây dao, theo ý muốn của ông hương giáo. Ngọc ong đã lấy được, đem về. Chú bán tín bán nghi vì thấy "ngọc" chỉ là mớ nhụy bông quến lại thành ké mà loài ong dự trữ bên góc ổ. Từ đấy, ông hương giáo mời Tư Lập ở luôn trong nhà cho có bạn. Ngày đêm, ông chong hàng chục ngọn nến bạch lạp chung quanh mớ "ngọc" để luyện, hy vọng rằng khi đúng một ngàn ngày nó sẽ trị được bịnh nan y của Hoàng Mai. Tư Lập như không chú ý đến điều vô lý đó, cứ ra vào nhìn trộm hình dáng giai nhân rồi nằm trằn trọc... mãi đến một đêm nọ, lúc đứng ngắm thẫn thờ cội mai già trước sân, chú nghe hơi thở nào ấm nồng, nhồn nhột sau gáy :
- Anh Tư ở đây vui chớ ? Nãy giờ em không dám hỏi.
Chú nhìn kỹ : không phải là dạng hồ ly tinh trêu cợt, chính là Hoàng Mai cô gái con ông hương giáo mà bấy lâu nay chú trộm nhớ thầm thương.
Nàng nói tiếp :
- Cha của em dặn em gọi bằng anh. và đừng làm gì anh buồn.
Chú hiểu ý. "À té ra bấy lâu nay ông hương giáo thương mình". Chú đánh bạo tìm bàn tay nàng. Nàng lắc đầu :
- Em hơi mệt, như vậy...
Rồi nàng nâng tay áo lên, thứ tay áo lỏng thỏng quá rộng quá dài :
- Anh nắm cái chéo tay áo này, em cũng đủ vui rồi.
Cảm động làm sao ! Ngạc nhiên làm sao ! Một mùi hôi hám từ trong tay áo bay ra. Khi níu cái chéo tay áo của người đẹp. Tư Lập thấy rõ ràng bên trong : ngón tay của nàng rụng mất hồi nào, chỉ có năm cuộn vải nhỏ vấn khéo léo thay thế.
Hôm sau, chú viện cớ ra đi lúc mùa bông tràm nở trắng rực. Chú không thèm làm nghề ăn ong nữa. Hàng trăm tấm kèo bằng cây mun, chú giao lại cho ông hương giáo. Chú về ở Long Xuyên. Nhưng hương rừng có ma lực quyến rũ. Lúc mới đến thì vui. Ở lâu lại sanh buồn. Xa cách lâu ngày thì đâm ra nhớ không nguôi, không trở lại thì không được.
Chú lại trở về.
***
Sông Trèm Trẹm bắt nguồn từ xóm Cán Gáo chảy về phía Nam, qua xóm Tân Bằng rồi đổ ra sông Ông Ðốc, hòa mình vào vịnh Xiêm La.
Thằng Kim nóng lòng, không biết Tư Lập muốn dừng lại làm ăn ở khúc nào. Giây lâu, Tư Lập nói :
- Rừng U Minh còn nhiều bí mật ! Ðừng lo mà. Tao hứa dẫn mày tới chỗ này vui lắm, đừng sợ chết đói. Có tao.
Xuồng ngừng lại giây lát nghỉ trưa rồi mái dầm lại tiếp tục khoát dòng nước đỏ ngòm, tuy chảy mạnh nhưng tứ bề khuất gió nên không gợn sóng. Ðôi bờ quanh co, hoa lá nghiêng mình lại, giao đầu, bắt tay nhau che kín bóng mặt trời.
Khách đi đường ngỡ mình lạc lối trong hang, thứ hang thiên nhiên, bất tận. Có tiếng vượn hú. Từ bên này, con vượn bồng con, nắm sợi dây rau câu, lấy trớn đu mình sang nhánh ở bờ bên kia để hái trái rừng. Trái quá chát, vỏ quá dày, vượn nhăn mặt, bực tức ném mạnh. Trái vừng sa vào giữa lưới nhện giăng hờ, lơ lửng. Lưới rung rinh không đứt hẳn ; con nhện hoảng hốt, thả sợi tơ dài, sa xuống. Chợt thấy mặt nước, nó toan rút lên. Nhưng trể quá rồi ! Con cá bông phóng mỏ theo, táp mạnh. Thằng Kim ngỡ đó là con trăn. Cá lớn bằng cây cột nhà, vảy xanh vảy trắng thêu từng vòng ngời lên khắp thân mình. No mồi, cá lặn sát đáy, lội nhanh. Bầy cá con hối hả di chuyển theo mẹ, hàng trăm con lấm tấm như rắc cườm đầy mặt nước, mất dạng trong bóng mát đằng kia. Bờ sông im lìm, mặt nước thẫn thờ trả lại bóng dáng hiền hòa của cây chồi mọc sát mé bãi ; bông vừng buông thõng xuống từng xâu chuỗi hường, chen lấn, nối tiếp nhau như bức mành mành. Nhánh vừng khó cắn, lá vàng rụng mất hẳn. Ðôi đọt non nhú lên, mỏng mịn, chưa nhuốm được màu xanh vì thiếu nắng ; ở xa, trông như những cánh bướm khổng lồ đang phập phồng, ngứa ngáy, chưa đậu yên chỗ là đã chớm bay.
- Kim, mày biết nước sông này màu gì không ?
- Ở dưới sông, giống như màu máu bầm. Múc lên tay coi thì như nước trà pha đậm.
Tư Lập day lại :
- Hồi xưa, có người nói nó giống như cà phê đen. Ờ... mày uống cà phê lần nào chưa ?
- Chưa, chú Tư à.
- Bán thiếu gì, tại chợ Thới Bình. Dân ở chợ là người mới tới mua bán lập nghiệp, họ chưa dám đi sâu vô rừng làm ăn như tụi mình bây giờ. Họ nể nang dân phía này lắm.
- Sao vậy, chú Tư ?
- Vì dân này là dân cố cựu, phá sơn lâm, đâm Hà Bá dọn đường cho họ tới sau làm ăn. Con nhà tướng đi mở đường máu mà!
Tư Lập vừa nói vừa vói tay đập sau lưng. Thằng Kim đã hiểu nghĩa mấy tiếng "mở đường máu". Ba bốn đốm máu đỏ ngời : mấy con muỗi vừa bị đè nhẹp xác.
Nó sực nhớ tới bầy muỗi bu quanh nó từ mấy ngày rày. Ban đầu, nó bực mình, đập giết thẳng tay, phải buông dầm khiến xuồng lủi vô bờ. Mổi lần như vậy, Tư Lập day lại :
- Cứ bơi lẹ, muỗi cắn ít hơn. Ở lầy quầy mình bị cắn nhiều mà không đi tới đâu hết. Xuống xuồng để bơi chứ đâu phải để đập muỗi !
Nghe lời Tư Lập, thằng Kim bấm môi chịu đựng.
Vài tiếng gà gáy văng vẳng, hưởng ứng nhau phá tan bầu không khí tĩnh mịch. Vòm cây lần lần trống trải nắng rớt từng mảng, ngưng đọng không chịu trôi theo dòng nước ngày càng chảy hăng. Bên bờ, nước đổ róc rách theo con lạch nhỏ, vỏ tràm trôi lềnh bềnh trắng. Thằng Kim nôn nức :
- Tới chỗ nghỉ chưa, chú Tư ?
- Chưa. Hai voi nữa. Mày nhớ không, hồi sáng tới giờ mới qua có sáu voi.
Hai voi, đường còn xa. Thằng Kim yên lòng vì sẽ đến chỗ nghỉ trước khi trời sụp tối :
- Chú có bà con ở đây hả ?
Tư Lập cau mày không trả lời, mở gói thuốc ra vấn hút. Ðó là gói thuốc mà chú hứa tiết kiệm, để dành hút khi tới nơi.
Thằng Kim đoán chừng Tư Lập đang suy nghĩ nhiều. Chú lẩm bẩm :
- Ừ, bà con hay là người dưng, chuyện đó không quan hệ. Nhắc tới tao buồn quá, muốn quày trở lại bây giờ. Nhưng đã tới đây rồi không lẽ lại trở về. Tao không muốn kiếm nhà quen. Ở gần xóm đông thì bất lợi, ở xa quá cũng hại. Mày tin tao. Tao không dại gì trở lại đây mà tìm cái chết... Ờ, mày họ gì ? Mấy ngày rày, tao quên hỏi.
- Họ Trương hay họ Trần gì đó, tôi quên rồi. Nghe nói hồi đó ba tôi đổi họ.
- Ối ! Họ gì cũng được, miễn tới chừng người ta hỏi thì đừng trả lời lập dập. Nói vậy chớ ai xét hỏi. Tao có quen với vua. Hồi xưa, có người ở xóm này được cải ra họ Nguyễn cho giống với họ vua... Họ nói vậy hay lắm.
Thằng Kim ngơ ngác hỏi :
- Bà con với vua sao lại ở đây ?
Tư Lập không trả lời. Chú bơi mạnh, mũi xuồng quẹo vô bờ, phía trái. Vàm mương nhỏ hiện ra. Chú nói :
- Mày nghỉ tay đi. Tới phiên tao rồi...
Ngồi trước mũi, chú bơi phía mặt vài dầm rồi trở lẹ qua bên trái, bơi vài dầm. Xuồng lướt tới ồ ồ. Gặp dây, gặp nhánh cây cản mũi, chú bứt, bẻ rôm rốp. Gặp nước cạn, chú đứng mà chống hoặc quì trên sạp xuồng, ngả mình tới lấy trớn. Thằng Kim vui sướng quá. Lúc này nó khỏe tay, dầu muốn tiếp sức với Tư Lập cũng không được. Mũi xuồng quá nhỏ, nào đủ chỗ để hai người cùng ngồi ngang nhau. Hơn nữa, bơi xuồng theo lối mới này nó chưa quen. Mặt trời sụp xuống thấp, rọi thẳng từ trước mặt. Con rạch quá nhỏ, uốn ngoằn ngoèo như ruột ngựa nối liền qua những lung, bào, tròn tròn méo méo như hình mấy cái bao tử, gan, lá lách... Sậy mọc khỏi đầu.
Hương rừng ngào ngạt, mùi hương xa lạ nhưng rất quen thuộc. Thằng Kim hít mạnh để hửi cho kỹ, để nhớ cho rõ nhưng nhớ mãi không ra. Chợt ngẩng đầu lên, nó trố mắt. Rừng cơ hồ không còn chiếc lá nào cả ! Trên hàng vạn nhánh nhỏ, bàn tay thần nào rắc lấm tấm hằng hà sa số đợt bông gòn, không phải riêng trước mặt mà khắp các tứ phía. Rừng sáng lạn, ai dám nói là rừng âm u ? Bông kết oằn sai, mịn màng, trắng tuyết ; đài, cánh đâu không thấy chỉ thấy toàn là nhụy ngọt.
Nó buột miệng :
- Rừng cây gì vậy ? Chú Tư.
Tư Lập day lại cười vang :
- Thằng quỉ ! Hửi mà không biết mùi mật ong sao ? Tràm chớ giống gì ! Muôn ngàn hũ mật ong của trời ban xuống cho trần gian còn treo lủng lẳng như mù sương trên nửa lừng đó. Hửi vô thì say. Say thì không tỉnh được. Có người toan dùng nó mà luyện thuốc trường sinh, từ trăm năm nay...
***
Tư Lập ngâm mình dưới bưng nãy giờ khá lâu rồi. Nước dâng lên nửa ngục. Hai tay chú quậy dưới bùn, chân bò tới lui, bọt nước sôi ùng ục. Chú rút lên một cây búa to tướng, nói huyên thiên :
- Nó còn nguyên, mới tinh. Bộ trái đất xoay tròn sao mà ! Hồi năm ngoái tao nhớ rõ ràng, nhận ở gần gốc cây tràm bên kia. Bây giờ nó chạy qua bên này. Ðể tao rửa sạch cho mày coi. Cam đoan không có một bợn sét, khuất dưới lớp bùn non, mưa nắng không sao thấu tới. Sét ăn hư hỏng là khi nào mình giữ không kín. Lòng người cũng vậy... Mày chưa hiểu hả ?
Thằng Kim thật tình không hiểu câu nói lắc léo của Tư Lập. Nó không cần tìm hiểu. Cây búa khiến nó ngạc nhiên hơn : cán dài cỡ năm tấc, lưỡi cao hơn hai tấc, bề ngang lưỡi búa trên một tấc rưỡi, lớn như mấy cây búa thần mà các ông tướng hát bội thường vác ra khi đánh trận.
- Cầm thử coi nặng không ? Tay anh hùng mới cử nó được. Tạo ra lúa gạo, xuồng, chèo là nhờ nó. Nên nhà nên cửa, nên đất nên vườn, nên chồng nên vợ, xưng hùng xưng bá cũng nhờ nó.
Tư Lập nói tiếp :
- Ðói bụng chưa ?
- Hơi đói. Nãy giờ tôi lưỡng lự ; gạo còn chừng hai nắm, không lẽ nấu cháo. Hay là mình kiếm nhà nào mượn đỡ.
- Mượn gạo mà ăn, xưa quá ! Ở xứ này, tao không muốn gặp mặt ai hết. Con người ta chết... không phải vì thiếu gạo. Tới lớn, mày hiểu câu nói đó. Bây giờ đi với tao tìm nhà quen, bảnh thì mày đi trước một lần coi !
Nói vậy chớ tư Lập bước trước, đạp lên choại, lên dớn nghe sột soạt. Thay vì đi thẳng lại phía rừng tràm trắng tinh, thơm ngào ngạt, Tư Lập quẹo trở về phía rừng thấp lè tè, cây cối mọc so le hỗn loạn. Bùn non ngập mắt cá. Muỗi bay lợn cợn, vướng vít dưới chân cây còn u tối. Tư Lập khuyên nhủ :
- Ráng chịu cực vậy ! "Lô" rừng tràm đằng kia là của người ta. Rừng chồi phía này mới là của mình. Vắng hai năm nay, tao ngán rồi, không muốn nhớ lại cái mùi nhụy tràm.
- Sao vậy ?
- Ðừng hỏi nữa. Tao muốn lánh mặt người quen. Mai chiều, có lẽ mình qua nơi khác. Gió thổi hiu hiu, buồn quá.
Tư Lập thẫn thờ đôi mắt rồi bỗng nhiên khoát tay, ra dấu im lặng. Chú ngồi nép xuống. Thằng Kim cũng bắt chước, cúi đầu, ái ngại. Tư Lập cầm tay nó mà nói khẽ :
- Ðừng động đậy, thở nhè nhẹ. Nó kìa...
Thằng Kim ngớ ngẩn, liên tưởng đến thứ tai nạn khủng khiếp :
- Co... ọp hả ?
- Nói bậy xui xẻo ! Ong mật.
Và nó định thần khi Tư Lập nói rõ thêm :
- Ong mật... đi ăn bông. Bay rề qua rề lại, thấy chưa, thấp chủn trên đọt sậy kìa.
Thằng Kim mừng rỡ :
- Ngộ quá ! Ổ nó ở đây đây, hả chú. Làm sao kiếm được ? Ý ! Nó lớn bằng hai con ruồi.
Om sòm cái miệng ! Về chống xuồng lại đây mau, tao chờ ! Nhớ cái hộp quẹt máy. Thằng Kim hối hả làm y lời. Trở lại chỗ cũ, nó chợt nghe tiếng "hì" ở phía rừng tràm. Té ra nãy giờ Tư Lập lội tắt qua mương đi lại đằng ấy.
Chú vội ngồi lên xuồng, chụp cây dầm, hờm sẵn :
- Bậy quá ! Nó "đi bông" tới đây rồi mất dạng. Chờ một hồi nữa coi.
- Ði bông là gì ? Chú Tư.
- Là đi hút nhụy bông... kìa mê quá !
***
Một con ong rồi hai con ong bay qua sát ngọn cỏ, lưng ngời những rằn xanh đỏ, hai chân sau quặp lại kẹp hai đốm vàng sậm mà thằng Kim đoán là nhụy bông. Ong vừa qua khỏi chừng mươi thước. Tư Lập hối hả bơi xuồng theo. Nhưng hai con ong nọ lại đáp xuống, mất dạng. Chú nói :
- Ðây là trạm thứ nhì của tụi nó. Rán chờ chút nữa. Chém chết tao cũng ăn được ổ này.
Sau đôi ba lần theo dõi rồi dừng lại như vậy, Tư Lập bỗng cười vang, múa men tay chưn như đứa trẻ thấy kẹo. Hàng trăm con ong bay chập chờn trước mặt, đáp xuống, vọt lên cao, không dời chỗ. Chú ngóng xem hướng gió trên ngọn cây, ra lịnh cho thằng Kim đứng im rồi chú đi khuất, chập sau mang về một nắm rễ cây gừa.
Hộp quẹt bật lửa lên. Nắm rễ gừa ngún cháy, khói bay đều. Chú nói nhỏ :
- Ði theo tao, đừng chạy bất tử nghe !
Chú phồng má thổi mạnh, khói tung bay mịt mù chưa tan là chú thổi thêm lần nữa, chân bước nhanh tới. Hiển hiện sau lớp khói mỏng kia, vật gì lạ thường như một trái cây khổng lổ, lớn bằng cái nia, đen ngòm rực rỡ như nạm muôn ngàn hột thủy tinh chấp chóa...
Thằng Kim há miệng :
- Ổ ong hả ? Ong đâu hết rồi ?
- Cả triệu con kết lại, nằm sắp lớp đen ngời, chớp cánh lia lịa đó, không thấy sao ! Ổ ở bên trong. Lên xuồng đi. Rủi bề gì tao với mày thối lui, lặn dưới mương, úp chiếc xuồng này lại mà che...
Tư Lập cầm nhánh cây khô gạt mạnh vào ổ ; ong rớt xuống cỏ từng mảng, lần lần tan ra. Ổ ong khoe mày trắng tinh như sáp, treo trên khúc cây gác nghiêng ; cây kèo.
Chú quát :
- Chống xuồng lại. Tao với mày khiêng nguyên ổ xuống. Dầu sao mình cũng mang tiếng ăn cắp của thiên hạ rồi.
Ðặt dưới xuồng, ổ ong nứt ra, mật vàng tươi chảy đọng vũng. Tư Lập chụp cây dầm, bơi trối chết, lướt qua sậy, qua năn. Thằng Kim cúi đầu sát ván, nhắm mắt, e nhánh hai bên quật nhằm. Nó cười tươi khi thấy mái chòi hoang hiện ra trước mặt, Tư Lập trao cây dầm cho nó thò tay xé tàn ong :
- Trời ơi ! Tao hại tao ! Tao ăn cắp... của tao.
- Chú nói gì ?
- Miếng kèo bằng cây nhum. Hồi năm ngoái tao gởi nó lại cho người quen. Chữ "điền" tao khắc làm dấy rành rành.
Cây rừng chuyển răng rắc. Ðâu đây có tiếng chưởi thề ỏm tỏi, xen vào tiếng dầm khuấy nước. Tư Lập cau mày.
- Họ đi theo dấu bắt tụi mình. Không khéo lại xảy ra đâm chém, uổng mạng. Nhiều khi họ mạo nhận là của họ để hăm dọa mình. Lát nữa, mày đứng yếu bóng vía... Cứ cãi lại cho tao.
Thằng Kim giựt mình :
- Chú đi đâu ? Một mình tôi không dám...
- Tao núp sau hè. Họ tới kìa ! Cầm búa lên ! Ðụng độ thì tao ra ăn thua.
Nhanh như chớp, Tư Lập bước lui, ngồi khuất sau bụi mật cật. Thằng Kim nhìn trước mặt. Hàng cây rung rinh, rẽ ra. Một người vạm vỡ cầm búa, bước tới :
- Khôn thì chịu tội. Thằng kia, mày ở xóm nào tới ?
Thằng Kim cố giữ sắc trầm tĩnh :
- Tôi ở đây, mần ăn...
- Ăn cắp chớ mần ăn ? Tao theo dấu tụi bây nãy giờ. Công trình mấy tháng nay tao tạo sẵn để mày hưởng ! Ðã ăn cắp mà lại còn gỡ luôn tấm kèo, chẳng khác nào ăn trộm rồi đốt luôn nhà của tài gia.
- Tôi không biết gì hết...
- Chém chết mẹ chớ không biết !
Lưỡi búa của khách hươi lên. Thằng Kim cũng nâng cây búa một cách vụng về. Khách nhìn nó, ngạc nhiên rồi nhìn cây búa :
- Mày ăn trộm búa nữa hả ? Ráng mà đỡ. Nè !
Hoảng hốt, Tư Lập nhảy ra, nắm cườm tay người khách lạ :
- Tao ở nhà ông hương giáo hồi xưa đây mà. Chú mày đến sau nên không biết rõ tao là ai.
Khách trố mắt :
- Trời ! Cậu Tư. Về hồi nào ! Trời... nãy giờ thấy cây búa, tôi hồ nghi là của cậu. Sao không lại thăm cô Hoàng Mai ?
Tư Lập vuốt mồ hôi trán :
- Thôi ! Về đi. Nhắn với ông hương giáo rằng tối nay tao tới.
Khách nói :
- Buồn lắm ! Cô Hoàng Mai yếu nhiều.
Tư Lập thở dài :
- Vậy hả ? Ðừng nói nữa. Về trước đi.
Khách rút lui. Tư Lập nói ngậm ngùi :
- Trốn mà không khỏi. Trốn Tây ta là chuyện dễ ; trốn người quen là chuyện khó hơn. Ta ăn cắp ổ ong khi nãy mà chi ? Nghề ăn ong có nghiệp chướng... Ðây là ổ ong cuối cùng của tao trong nghề...
Thằng Kim hỏi :
- Sao vậy ? Ai đau nhiều vậy chú ? Cô Hoàng Mai là người bà con...
- Bà con không phải bà con. Người dưng không phải người dưng. Tối nay mày thay mặt tao, lại đó mà thăm ông hương giáo. Phần tao, tao phải xa rừng này. Ở lại đây, mày có dịp học khôn. Ðừng buồn. Ðể tao nói lại đầu đuôi sự tích, hồi năm trước...
***
Nghe xong thằng Kim đi từng bước chậm rãi đến nhà ông hương giáo. Câu chuyện tình của Tư Lập hãy còn lâng lâng trong trí nó. Gió chiều nhẹ thổi. Mùi bông tràm ngào ngạt. Nó nhìn từng gốc cây, lắng nghe từng tiếng lá trở mình mà khoan khoái trong lòng. Rừng U Minh này đối với nó cơ hồ không còn gì là bí mật khó hiểu nữa.
Ðến nhà ông hương giáo, nó được thết đãi cơm nước tử tế. Ông hương giáo không nói chuyện nhiều. Nó nói dối rằng... chừng lát nữa Tư Lập sẽ đến. Nhưng Tư Lập có đến đâu ! Ðêm đó, nó được nằm ngủ trên ván gõ, trải chiếu bông, giăng mùng rộng rãi. Nửa đêm, nó chợt tỉnh vì ánh đèn chói mắt.
Ông hương giáo nói :
- Chú em thức hả ? Kìa ! Trên bàn thờ, từ bao năm rồi, tôi luyện "ngọc ong" để trị bịnh. Bịnh gì, chắc Tư Lập nói sơ cho chú em hiểu rồi. Tôi buồn quá. Tư Lập không trở lại nhà này nữa đâu. Chú em cứ nói thiệt. Phải vậy không ?
Thằng Kim nói :
- Dạ cháu không biết. Chú Tư không nói rõ...
- Ta hiểu lắm. Dầu sao, trở về lần này, Tư Lập cũng đã tỏ ra có nghĩa ! Ai nỡ câu thúc chí trai của mình trong một xó để đổi lấy chữ nhàn ? Ai nỡ bỏ cái danh dự để mua chuộc một chức tước quí phái huyền hão. Từ xưa, tằng tổ của ta cũng vì khí khái ấy mà phò Chúa, xiêu lạc đến đây ! Bây giờ ta yếu lắm rồi. Dầu muốn bắt chước Tư Lập, ta cũng không còn đủ sức lực mà bắt chước. Gia thế của ta, thiên hạ đã rõ. Câu thúc Tư Lập ở mãi tại đây chăng ? Ta chỉ là người hương giáo, quyền hạn gì ? Ừ ! Tội là tội cho Hoàng Mai. Năm nay, nó ngồi một chỗ, không còn đủ sức mà ra thăm cội hoàng mai trước ngõ như hồi Tư Lập biết.
Sáng hôm sau, thằng Kim từ giã ông hương giáo rồi đến ngồi bên mé rạch. Bông vừng tươi thắm, cây cối hai bên bờ giao đầu lại, mát mẻ. Nó chờ đón bất cứ xuồng ghe ai, đi về đâu cũng được, để quá giang. Sau lưng nó, trên thềm nhà, trong bóng mát, hình dáng của Hoàng Mai với đôi mắt và mớ tóc trùm kín trong chiếc khăn. Chiếc tay áo của nàng lòng thòng che khuất mấy ngón tay, từ từ nâng lên như tiễn đưa một hình bóng...
***
Sống ở rừng U Minh Hạ từ lâu rồi mà Hoàng Mai hãy còn có cảm giác như lạc loài tận đâu đâu, bước chân đi không vướng đất. Ví nàng như cánh bèo rày đây mai đó thì không đúng lắm : có lẽ nàng như đoá hoa sen, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Nhưng loại hoa sen thông tục quá, lại thường lọt vào tay phàm ! Ðằng này, bẩm sinh nàng thuộc về một phẩm chất thanh cao hơn.
- Tằng tổ nhà ta vốn họ Trần, nhờ dày công phò chúa từ Thuận Hoá đến đây nên được cải ra họ Nguyễn, Niên mỗ, ngoạt mỗ, quân Tây Sơn đến mãi tận chốn rừng già này, chúa Nguyễn đành ra khơi tìm nơi cứu viện. Thảm hại thay ! Tằng tổ nhà ta tuổi già, nhuốm bịnh không vượt biển hộ giá được, đành cam lỗi đạo quân thần, giả dạng lê dân, nương náu nơi chốn thanh lâm u cốc. Người được phong đến chức ngự y. Gia phổ ghi chép rành rành, nói xứ này, chỉ dòng họ ta là có gia phổ, đó con.
Cha của nàng thường nhắc nhở như vậy.
- Là quan ngự y, cớ sao tằng tổ ta không tự chữa bịnh được. Hẳng là bệnh nan y ! thưa cha...
Bao lần nàng ướm hỏi như vậy nhưng không dám. "Thuộc dòng hoàng phái nhưng sao triều đình không chú ý tới mà ban cho chút bổng lộc ?". Ðó là nỗi thắc mắc triền miên của nàng khi thấy cha già chuốt tre đan giỏ mà độ nhựt hoặc ngồi buông cán câu bên bờ trúc, giữa trăm bầy muỗi rừng.
Thỉnh thoảng, cha nàng nói khẽ như thanh minh, tự an ủi :
- Hoàng đế đang tức vị thuộc dòng ngụy, do tân trào dựng lên. Giọt máu hùng anh của tiên vương này đã bị lưu đày nơi hải đảo Bòn Bon, bặt tăm nhàn cá. Nhận chức hương giáo trong ban hội tề làng Khánh Lâm sở tại, chẳng qua là cha muốn bưng bít dư luận. Bổng lộc của tân trào, cha nào màng, chỉ nguyện làm bạn bầu với cây cỏ, gió trăng.
Ngày ngày lớn khôn, Hoàng Mai càng yên tâm tin tưởng nơi dòng máu quí phái của mình. Cội hoàng mai cổ thụ trước sân, há chẳng là một bằng cớ ? Bao năm rồi, nó vẫn bền gan khoe sắc khi gió Tết thổi về ; vùng U Minh này mấy ai biết thưởng thức giống hoa vương giả lạc loài ! Bản Nam Bình réo rắt trong ruột cây đàn thập lục chỉ để riêng cho nàng thông cảm đó thôi... Nhưng cơ trời không ai ngờ được, tránh được. Mây đẹp của đỉnh Ngự còn có khi tan, nước yên lành của dòng Hương thường bị gợn những làn sóng nhỏ. Năm ngoái, năm kia, khi vừa quá tuổi trăng tròn, một buổi chợt soi mặt vào lu nước mưa, nàng bắt gặp cái màu trắng trong leo lẻo của dàn da mình. Miệng chúm chím hàm tiếu, nàng vuốt mớ tóc đen huyền ; bàn tay ngà đặt trên má đỏ hây hây, mơn man chuyền suối tóc về trên sau lưng gầy. Nhưng... lạ kìa ! Hàng chục sợi tóc thi nhau tuôn xuống.
Gió nhẹ thoảng qua ; chân tóc lấm tấm đung đưa, vướng bận chưa chịu bay đi như còn than van niềm biệt ly vô cớ. Nàng cau mày trở vào phòng, cầm lược chải kỹ. Nàng toan rú lên. Lược đùa đến đâu là tóc rụng đến đó như lá úa trên cành đến độ gió trở mùa. Nàng e thẹn. Nàng giận dỗi.
Thân phụ nàng - Ông hương giáo - chạy tới. Nàng soi gương, không day lại rồi trả lời về tiếng rú khi nãy :
- Không gì lạ đâu, thưa cha.
Ông hương giáo đã hiểu nguồn cơn. Mớ tóc rối nằm cuộng đống trên bàn khiến ông xúc cảm, không che giấu được cơn buồn. Chiếc gương mờ soi đôi má ửng của Hoàng Mai, màu ửng đỏ lạ thường, không biến đổi dầu khi nàng sợ hãi.
- Từ hồi tấm bé, làn da của Hoàng Mai mịn quá, bóng quá. Trăm sự đều do đó mà ra...
Ông thở dài, cũng như ông đã thở dài hồi mấy năm trước, tuy gió bấc về không lạnh lắm nhưng Hoàng Mai đòi đốt lửa để sưởi rồi dẫm chân lên than hồng mà cưòi. Ðêm đến, ông nghe tiếng rên khe khẽ. Ngỡ là con gái nhuốm bịnh, ông đến gọi cửa đôi ba lần. Hoàng Mai nằm đó, tỉnh mà như say, hơi thở hổn hển, đôi mắt úp vào chiếc gối mềm như trốn tránh mấy sợi tơ trăng buông xuống từng hồi, khi gió rạt rào khẽ rung làm hở ra mấy mí lá che trên đầu vách.
Bịnh của nàng, ông doán được, ngặt không muốn nói rõ tên ra : bịnh nan y - bịnh cùi. Ông chỉ khuyên con gái năng đi duốc vì ở rừng này... "phong" nhiều lắm. Quyển gia phổ ngủ từ lâu đời dưới lớp bụi trên bàn thờ được vời xuống. Lật ra kính cẩn dưới ánh nến bạch lạp. Hơn trăm năm qua, kiếng họ Nguyễn chưa ai nhiễm chứng ấy, rõ ràng không phải bịnh di truyền. Ông suy luận :
- Có thể nhà mình đắp nền trên ngôi mộ xưa của ai. Và tự ngày xưa, ai dám, chối rằng khu rừng này không là bãi sa trường mà người thắng kẻ bại đều lẫn lộn trong đống xương Vô Ðịnh đã hóa ra cát bụi :
Trang phụ lục thứ sáu của quyển gia phổ thứ nhứt còn thố lộ vài chi tiết khó hiểu, viết bằng chữ nôm :
"Ðến Ngạc Ngư Ðàm tức Ðầm Sầu, Ao Sấu, hơi sương lạnh buốt, chướng khí xây thành. Khách hỏi : loại Ngạc Ngư (cá sấu), từ đâu lạc vào đầm ? Kẻ thổ dân thưa : không ai rõ. Chúng đến đây như án ngữ nẻo đường qua truông quỉ. Nơi ấy, muôn nghìn ma quái như ẩn, như hiện. Lại có loài ong dị thường năng về làm ổ ; loại ong này lưng nhuộm ngũ sắc, vượt thiên lý để hái nhụy trăm hoa đem về luyện Ngọc. Người phàm chưa ai đến gần được.
Chúng không sợ khói, hửi nhằm hơi kim khí ô trược là chúng ào ra như giông tố giết cho kỳ được kẻ ngạo mạn. Quan ngư y họ Trần biết được tin ấy bèn sai quân sĩ bày mưu kế hòng cướp ổ ong nọ, đoạt loại Ngọc thiên nhiên hiếm có đem về luyện thuốc trường sinh..."
Tư Lập, tay thanh niên khét tiếng về nghề ăn ong ở xóm Cán Gáo được ông hương giáo mời về nhà, bày rượu thịt thết đãi, đối xử như thượng khách.
Trang gia phổ lại giở ra, đọc nho nhỏ vừa đủ cho Tư Lập nghe. Tư Lập gật đầu.
Trong rừng già này, bên kia Ao Sấu, thỉnh thoảng loài ong ngũ sắc ấy trở về. Ban đầu chú Tư dùng con dao xương nai mà cạo lấy mật nhưng không hiệu quả. Lần sau, chú mài miếng xương người, dẹp như cây dao, theo ý muốn của ông hương giáo. Ngọc ong đã lấy được, đem về. Chú bán tín bán nghi vì thấy "ngọc" chỉ là mớ nhụy bông quến lại thành ké mà loài ong dự trữ bên góc ổ. Từ đấy, ông hương giáo mời Tư Lập ở luôn trong nhà cho có bạn. Ngày đêm, ông chong hàng chục ngọn nến bạch lạp chung quanh mớ "ngọc" để luyện, hy vọng rằng khi đúng một ngàn ngày nó sẽ trị được bịnh nan y của Hoàng Mai. Tư Lập như không chú ý đến điều vô lý đó, cứ ra vào nhìn trộm hình dáng giai nhân rồi nằm trằn trọc... mãi đến một đêm nọ, lúc đứng ngắm thẫn thờ cội mai già trước sân, chú nghe hơi thở nào ấm nồng, nhồn nhột sau gáy :
- Anh Tư ở đây vui chớ ? Nãy giờ em không dám hỏi.
Chú nhìn kỹ : không phải là dạng hồ ly tinh trêu cợt, chính là Hoàng Mai cô gái con ông hương giáo mà bấy lâu nay chú trộm nhớ thầm thương.
Nàng nói tiếp :
- Cha của em dặn em gọi bằng anh. và đừng làm gì anh buồn.
Chú hiểu ý. "À té ra bấy lâu nay ông hương giáo thương mình". Chú đánh bạo tìm bàn tay nàng. Nàng lắc đầu :
- Em hơi mệt, như vậy...
Rồi nàng nâng tay áo lên, thứ tay áo lỏng thỏng quá rộng quá dài :
- Anh nắm cái chéo tay áo này, em cũng đủ vui rồi.
Cảm động làm sao ! Ngạc nhiên làm sao ! Một mùi hôi hám từ trong tay áo bay ra. Khi níu cái chéo tay áo của người đẹp. Tư Lập thấy rõ ràng bên trong : ngón tay của nàng rụng mất hồi nào, chỉ có năm cuộn vải nhỏ vấn khéo léo thay thế.
Hôm sau, chú viện cớ ra đi lúc mùa bông tràm nở trắng rực. Chú không thèm làm nghề ăn ong nữa. Hàng trăm tấm kèo bằng cây mun, chú giao lại cho ông hương giáo. Chú về ở Long Xuyên. Nhưng hương rừng có ma lực quyến rũ. Lúc mới đến thì vui. Ở lâu lại sanh buồn. Xa cách lâu ngày thì đâm ra nhớ không nguôi, không trở lại thì không được.
Chú lại trở về.
***
Sông Trèm Trẹm bắt nguồn từ xóm Cán Gáo chảy về phía Nam, qua xóm Tân Bằng rồi đổ ra sông Ông Ðốc, hòa mình vào vịnh Xiêm La.
Thằng Kim nóng lòng, không biết Tư Lập muốn dừng lại làm ăn ở khúc nào. Giây lâu, Tư Lập nói :
- Rừng U Minh còn nhiều bí mật ! Ðừng lo mà. Tao hứa dẫn mày tới chỗ này vui lắm, đừng sợ chết đói. Có tao.
Xuồng ngừng lại giây lát nghỉ trưa rồi mái dầm lại tiếp tục khoát dòng nước đỏ ngòm, tuy chảy mạnh nhưng tứ bề khuất gió nên không gợn sóng. Ðôi bờ quanh co, hoa lá nghiêng mình lại, giao đầu, bắt tay nhau che kín bóng mặt trời.
Khách đi đường ngỡ mình lạc lối trong hang, thứ hang thiên nhiên, bất tận. Có tiếng vượn hú. Từ bên này, con vượn bồng con, nắm sợi dây rau câu, lấy trớn đu mình sang nhánh ở bờ bên kia để hái trái rừng. Trái quá chát, vỏ quá dày, vượn nhăn mặt, bực tức ném mạnh. Trái vừng sa vào giữa lưới nhện giăng hờ, lơ lửng. Lưới rung rinh không đứt hẳn ; con nhện hoảng hốt, thả sợi tơ dài, sa xuống. Chợt thấy mặt nước, nó toan rút lên. Nhưng trể quá rồi ! Con cá bông phóng mỏ theo, táp mạnh. Thằng Kim ngỡ đó là con trăn. Cá lớn bằng cây cột nhà, vảy xanh vảy trắng thêu từng vòng ngời lên khắp thân mình. No mồi, cá lặn sát đáy, lội nhanh. Bầy cá con hối hả di chuyển theo mẹ, hàng trăm con lấm tấm như rắc cườm đầy mặt nước, mất dạng trong bóng mát đằng kia. Bờ sông im lìm, mặt nước thẫn thờ trả lại bóng dáng hiền hòa của cây chồi mọc sát mé bãi ; bông vừng buông thõng xuống từng xâu chuỗi hường, chen lấn, nối tiếp nhau như bức mành mành. Nhánh vừng khó cắn, lá vàng rụng mất hẳn. Ðôi đọt non nhú lên, mỏng mịn, chưa nhuốm được màu xanh vì thiếu nắng ; ở xa, trông như những cánh bướm khổng lồ đang phập phồng, ngứa ngáy, chưa đậu yên chỗ là đã chớm bay.
- Kim, mày biết nước sông này màu gì không ?
- Ở dưới sông, giống như màu máu bầm. Múc lên tay coi thì như nước trà pha đậm.
Tư Lập day lại :
- Hồi xưa, có người nói nó giống như cà phê đen. Ờ... mày uống cà phê lần nào chưa ?
- Chưa, chú Tư à.
- Bán thiếu gì, tại chợ Thới Bình. Dân ở chợ là người mới tới mua bán lập nghiệp, họ chưa dám đi sâu vô rừng làm ăn như tụi mình bây giờ. Họ nể nang dân phía này lắm.
- Sao vậy, chú Tư ?
- Vì dân này là dân cố cựu, phá sơn lâm, đâm Hà Bá dọn đường cho họ tới sau làm ăn. Con nhà tướng đi mở đường máu mà!
Tư Lập vừa nói vừa vói tay đập sau lưng. Thằng Kim đã hiểu nghĩa mấy tiếng "mở đường máu". Ba bốn đốm máu đỏ ngời : mấy con muỗi vừa bị đè nhẹp xác.
Nó sực nhớ tới bầy muỗi bu quanh nó từ mấy ngày rày. Ban đầu, nó bực mình, đập giết thẳng tay, phải buông dầm khiến xuồng lủi vô bờ. Mổi lần như vậy, Tư Lập day lại :
- Cứ bơi lẹ, muỗi cắn ít hơn. Ở lầy quầy mình bị cắn nhiều mà không đi tới đâu hết. Xuống xuồng để bơi chứ đâu phải để đập muỗi !
Nghe lời Tư Lập, thằng Kim bấm môi chịu đựng.
Vài tiếng gà gáy văng vẳng, hưởng ứng nhau phá tan bầu không khí tĩnh mịch. Vòm cây lần lần trống trải nắng rớt từng mảng, ngưng đọng không chịu trôi theo dòng nước ngày càng chảy hăng. Bên bờ, nước đổ róc rách theo con lạch nhỏ, vỏ tràm trôi lềnh bềnh trắng. Thằng Kim nôn nức :
- Tới chỗ nghỉ chưa, chú Tư ?
- Chưa. Hai voi nữa. Mày nhớ không, hồi sáng tới giờ mới qua có sáu voi.
Hai voi, đường còn xa. Thằng Kim yên lòng vì sẽ đến chỗ nghỉ trước khi trời sụp tối :
- Chú có bà con ở đây hả ?
Tư Lập cau mày không trả lời, mở gói thuốc ra vấn hút. Ðó là gói thuốc mà chú hứa tiết kiệm, để dành hút khi tới nơi.
Thằng Kim đoán chừng Tư Lập đang suy nghĩ nhiều. Chú lẩm bẩm :
- Ừ, bà con hay là người dưng, chuyện đó không quan hệ. Nhắc tới tao buồn quá, muốn quày trở lại bây giờ. Nhưng đã tới đây rồi không lẽ lại trở về. Tao không muốn kiếm nhà quen. Ở gần xóm đông thì bất lợi, ở xa quá cũng hại. Mày tin tao. Tao không dại gì trở lại đây mà tìm cái chết... Ờ, mày họ gì ? Mấy ngày rày, tao quên hỏi.
- Họ Trương hay họ Trần gì đó, tôi quên rồi. Nghe nói hồi đó ba tôi đổi họ.
- Ối ! Họ gì cũng được, miễn tới chừng người ta hỏi thì đừng trả lời lập dập. Nói vậy chớ ai xét hỏi. Tao có quen với vua. Hồi xưa, có người ở xóm này được cải ra họ Nguyễn cho giống với họ vua... Họ nói vậy hay lắm.
Thằng Kim ngơ ngác hỏi :
- Bà con với vua sao lại ở đây ?
Tư Lập không trả lời. Chú bơi mạnh, mũi xuồng quẹo vô bờ, phía trái. Vàm mương nhỏ hiện ra. Chú nói :
- Mày nghỉ tay đi. Tới phiên tao rồi...
Ngồi trước mũi, chú bơi phía mặt vài dầm rồi trở lẹ qua bên trái, bơi vài dầm. Xuồng lướt tới ồ ồ. Gặp dây, gặp nhánh cây cản mũi, chú bứt, bẻ rôm rốp. Gặp nước cạn, chú đứng mà chống hoặc quì trên sạp xuồng, ngả mình tới lấy trớn. Thằng Kim vui sướng quá. Lúc này nó khỏe tay, dầu muốn tiếp sức với Tư Lập cũng không được. Mũi xuồng quá nhỏ, nào đủ chỗ để hai người cùng ngồi ngang nhau. Hơn nữa, bơi xuồng theo lối mới này nó chưa quen. Mặt trời sụp xuống thấp, rọi thẳng từ trước mặt. Con rạch quá nhỏ, uốn ngoằn ngoèo như ruột ngựa nối liền qua những lung, bào, tròn tròn méo méo như hình mấy cái bao tử, gan, lá lách... Sậy mọc khỏi đầu.
Hương rừng ngào ngạt, mùi hương xa lạ nhưng rất quen thuộc. Thằng Kim hít mạnh để hửi cho kỹ, để nhớ cho rõ nhưng nhớ mãi không ra. Chợt ngẩng đầu lên, nó trố mắt. Rừng cơ hồ không còn chiếc lá nào cả ! Trên hàng vạn nhánh nhỏ, bàn tay thần nào rắc lấm tấm hằng hà sa số đợt bông gòn, không phải riêng trước mặt mà khắp các tứ phía. Rừng sáng lạn, ai dám nói là rừng âm u ? Bông kết oằn sai, mịn màng, trắng tuyết ; đài, cánh đâu không thấy chỉ thấy toàn là nhụy ngọt.
Nó buột miệng :
- Rừng cây gì vậy ? Chú Tư.
Tư Lập day lại cười vang :
- Thằng quỉ ! Hửi mà không biết mùi mật ong sao ? Tràm chớ giống gì ! Muôn ngàn hũ mật ong của trời ban xuống cho trần gian còn treo lủng lẳng như mù sương trên nửa lừng đó. Hửi vô thì say. Say thì không tỉnh được. Có người toan dùng nó mà luyện thuốc trường sinh, từ trăm năm nay...
***
Tư Lập ngâm mình dưới bưng nãy giờ khá lâu rồi. Nước dâng lên nửa ngục. Hai tay chú quậy dưới bùn, chân bò tới lui, bọt nước sôi ùng ục. Chú rút lên một cây búa to tướng, nói huyên thiên :
- Nó còn nguyên, mới tinh. Bộ trái đất xoay tròn sao mà ! Hồi năm ngoái tao nhớ rõ ràng, nhận ở gần gốc cây tràm bên kia. Bây giờ nó chạy qua bên này. Ðể tao rửa sạch cho mày coi. Cam đoan không có một bợn sét, khuất dưới lớp bùn non, mưa nắng không sao thấu tới. Sét ăn hư hỏng là khi nào mình giữ không kín. Lòng người cũng vậy... Mày chưa hiểu hả ?
Thằng Kim thật tình không hiểu câu nói lắc léo của Tư Lập. Nó không cần tìm hiểu. Cây búa khiến nó ngạc nhiên hơn : cán dài cỡ năm tấc, lưỡi cao hơn hai tấc, bề ngang lưỡi búa trên một tấc rưỡi, lớn như mấy cây búa thần mà các ông tướng hát bội thường vác ra khi đánh trận.
- Cầm thử coi nặng không ? Tay anh hùng mới cử nó được. Tạo ra lúa gạo, xuồng, chèo là nhờ nó. Nên nhà nên cửa, nên đất nên vườn, nên chồng nên vợ, xưng hùng xưng bá cũng nhờ nó.
Tư Lập nói tiếp :
- Ðói bụng chưa ?
- Hơi đói. Nãy giờ tôi lưỡng lự ; gạo còn chừng hai nắm, không lẽ nấu cháo. Hay là mình kiếm nhà nào mượn đỡ.
- Mượn gạo mà ăn, xưa quá ! Ở xứ này, tao không muốn gặp mặt ai hết. Con người ta chết... không phải vì thiếu gạo. Tới lớn, mày hiểu câu nói đó. Bây giờ đi với tao tìm nhà quen, bảnh thì mày đi trước một lần coi !
Nói vậy chớ tư Lập bước trước, đạp lên choại, lên dớn nghe sột soạt. Thay vì đi thẳng lại phía rừng tràm trắng tinh, thơm ngào ngạt, Tư Lập quẹo trở về phía rừng thấp lè tè, cây cối mọc so le hỗn loạn. Bùn non ngập mắt cá. Muỗi bay lợn cợn, vướng vít dưới chân cây còn u tối. Tư Lập khuyên nhủ :
- Ráng chịu cực vậy ! "Lô" rừng tràm đằng kia là của người ta. Rừng chồi phía này mới là của mình. Vắng hai năm nay, tao ngán rồi, không muốn nhớ lại cái mùi nhụy tràm.
- Sao vậy ?
- Ðừng hỏi nữa. Tao muốn lánh mặt người quen. Mai chiều, có lẽ mình qua nơi khác. Gió thổi hiu hiu, buồn quá.
Tư Lập thẫn thờ đôi mắt rồi bỗng nhiên khoát tay, ra dấu im lặng. Chú ngồi nép xuống. Thằng Kim cũng bắt chước, cúi đầu, ái ngại. Tư Lập cầm tay nó mà nói khẽ :
- Ðừng động đậy, thở nhè nhẹ. Nó kìa...
Thằng Kim ngớ ngẩn, liên tưởng đến thứ tai nạn khủng khiếp :
- Co... ọp hả ?
- Nói bậy xui xẻo ! Ong mật.
Và nó định thần khi Tư Lập nói rõ thêm :
- Ong mật... đi ăn bông. Bay rề qua rề lại, thấy chưa, thấp chủn trên đọt sậy kìa.
Thằng Kim mừng rỡ :
- Ngộ quá ! Ổ nó ở đây đây, hả chú. Làm sao kiếm được ? Ý ! Nó lớn bằng hai con ruồi.
Om sòm cái miệng ! Về chống xuồng lại đây mau, tao chờ ! Nhớ cái hộp quẹt máy. Thằng Kim hối hả làm y lời. Trở lại chỗ cũ, nó chợt nghe tiếng "hì" ở phía rừng tràm. Té ra nãy giờ Tư Lập lội tắt qua mương đi lại đằng ấy.
Chú vội ngồi lên xuồng, chụp cây dầm, hờm sẵn :
- Bậy quá ! Nó "đi bông" tới đây rồi mất dạng. Chờ một hồi nữa coi.
- Ði bông là gì ? Chú Tư.
- Là đi hút nhụy bông... kìa mê quá !
***
Một con ong rồi hai con ong bay qua sát ngọn cỏ, lưng ngời những rằn xanh đỏ, hai chân sau quặp lại kẹp hai đốm vàng sậm mà thằng Kim đoán là nhụy bông. Ong vừa qua khỏi chừng mươi thước. Tư Lập hối hả bơi xuồng theo. Nhưng hai con ong nọ lại đáp xuống, mất dạng. Chú nói :
- Ðây là trạm thứ nhì của tụi nó. Rán chờ chút nữa. Chém chết tao cũng ăn được ổ này.
Sau đôi ba lần theo dõi rồi dừng lại như vậy, Tư Lập bỗng cười vang, múa men tay chưn như đứa trẻ thấy kẹo. Hàng trăm con ong bay chập chờn trước mặt, đáp xuống, vọt lên cao, không dời chỗ. Chú ngóng xem hướng gió trên ngọn cây, ra lịnh cho thằng Kim đứng im rồi chú đi khuất, chập sau mang về một nắm rễ cây gừa.
Hộp quẹt bật lửa lên. Nắm rễ gừa ngún cháy, khói bay đều. Chú nói nhỏ :
- Ði theo tao, đừng chạy bất tử nghe !
Chú phồng má thổi mạnh, khói tung bay mịt mù chưa tan là chú thổi thêm lần nữa, chân bước nhanh tới. Hiển hiện sau lớp khói mỏng kia, vật gì lạ thường như một trái cây khổng lổ, lớn bằng cái nia, đen ngòm rực rỡ như nạm muôn ngàn hột thủy tinh chấp chóa...
Thằng Kim há miệng :
- Ổ ong hả ? Ong đâu hết rồi ?
- Cả triệu con kết lại, nằm sắp lớp đen ngời, chớp cánh lia lịa đó, không thấy sao ! Ổ ở bên trong. Lên xuồng đi. Rủi bề gì tao với mày thối lui, lặn dưới mương, úp chiếc xuồng này lại mà che...
Tư Lập cầm nhánh cây khô gạt mạnh vào ổ ; ong rớt xuống cỏ từng mảng, lần lần tan ra. Ổ ong khoe mày trắng tinh như sáp, treo trên khúc cây gác nghiêng ; cây kèo.
Chú quát :
- Chống xuồng lại. Tao với mày khiêng nguyên ổ xuống. Dầu sao mình cũng mang tiếng ăn cắp của thiên hạ rồi.
Ðặt dưới xuồng, ổ ong nứt ra, mật vàng tươi chảy đọng vũng. Tư Lập chụp cây dầm, bơi trối chết, lướt qua sậy, qua năn. Thằng Kim cúi đầu sát ván, nhắm mắt, e nhánh hai bên quật nhằm. Nó cười tươi khi thấy mái chòi hoang hiện ra trước mặt, Tư Lập trao cây dầm cho nó thò tay xé tàn ong :
- Trời ơi ! Tao hại tao ! Tao ăn cắp... của tao.
- Chú nói gì ?
- Miếng kèo bằng cây nhum. Hồi năm ngoái tao gởi nó lại cho người quen. Chữ "điền" tao khắc làm dấy rành rành.
Cây rừng chuyển răng rắc. Ðâu đây có tiếng chưởi thề ỏm tỏi, xen vào tiếng dầm khuấy nước. Tư Lập cau mày.
- Họ đi theo dấu bắt tụi mình. Không khéo lại xảy ra đâm chém, uổng mạng. Nhiều khi họ mạo nhận là của họ để hăm dọa mình. Lát nữa, mày đứng yếu bóng vía... Cứ cãi lại cho tao.
Thằng Kim giựt mình :
- Chú đi đâu ? Một mình tôi không dám...
- Tao núp sau hè. Họ tới kìa ! Cầm búa lên ! Ðụng độ thì tao ra ăn thua.
Nhanh như chớp, Tư Lập bước lui, ngồi khuất sau bụi mật cật. Thằng Kim nhìn trước mặt. Hàng cây rung rinh, rẽ ra. Một người vạm vỡ cầm búa, bước tới :
- Khôn thì chịu tội. Thằng kia, mày ở xóm nào tới ?
Thằng Kim cố giữ sắc trầm tĩnh :
- Tôi ở đây, mần ăn...
- Ăn cắp chớ mần ăn ? Tao theo dấu tụi bây nãy giờ. Công trình mấy tháng nay tao tạo sẵn để mày hưởng ! Ðã ăn cắp mà lại còn gỡ luôn tấm kèo, chẳng khác nào ăn trộm rồi đốt luôn nhà của tài gia.
- Tôi không biết gì hết...
- Chém chết mẹ chớ không biết !
Lưỡi búa của khách hươi lên. Thằng Kim cũng nâng cây búa một cách vụng về. Khách nhìn nó, ngạc nhiên rồi nhìn cây búa :
- Mày ăn trộm búa nữa hả ? Ráng mà đỡ. Nè !
Hoảng hốt, Tư Lập nhảy ra, nắm cườm tay người khách lạ :
- Tao ở nhà ông hương giáo hồi xưa đây mà. Chú mày đến sau nên không biết rõ tao là ai.
Khách trố mắt :
- Trời ! Cậu Tư. Về hồi nào ! Trời... nãy giờ thấy cây búa, tôi hồ nghi là của cậu. Sao không lại thăm cô Hoàng Mai ?
Tư Lập vuốt mồ hôi trán :
- Thôi ! Về đi. Nhắn với ông hương giáo rằng tối nay tao tới.
Khách nói :
- Buồn lắm ! Cô Hoàng Mai yếu nhiều.
Tư Lập thở dài :
- Vậy hả ? Ðừng nói nữa. Về trước đi.
Khách rút lui. Tư Lập nói ngậm ngùi :
- Trốn mà không khỏi. Trốn Tây ta là chuyện dễ ; trốn người quen là chuyện khó hơn. Ta ăn cắp ổ ong khi nãy mà chi ? Nghề ăn ong có nghiệp chướng... Ðây là ổ ong cuối cùng của tao trong nghề...
Thằng Kim hỏi :
- Sao vậy ? Ai đau nhiều vậy chú ? Cô Hoàng Mai là người bà con...
- Bà con không phải bà con. Người dưng không phải người dưng. Tối nay mày thay mặt tao, lại đó mà thăm ông hương giáo. Phần tao, tao phải xa rừng này. Ở lại đây, mày có dịp học khôn. Ðừng buồn. Ðể tao nói lại đầu đuôi sự tích, hồi năm trước...
***
Nghe xong thằng Kim đi từng bước chậm rãi đến nhà ông hương giáo. Câu chuyện tình của Tư Lập hãy còn lâng lâng trong trí nó. Gió chiều nhẹ thổi. Mùi bông tràm ngào ngạt. Nó nhìn từng gốc cây, lắng nghe từng tiếng lá trở mình mà khoan khoái trong lòng. Rừng U Minh này đối với nó cơ hồ không còn gì là bí mật khó hiểu nữa.
Ðến nhà ông hương giáo, nó được thết đãi cơm nước tử tế. Ông hương giáo không nói chuyện nhiều. Nó nói dối rằng... chừng lát nữa Tư Lập sẽ đến. Nhưng Tư Lập có đến đâu ! Ðêm đó, nó được nằm ngủ trên ván gõ, trải chiếu bông, giăng mùng rộng rãi. Nửa đêm, nó chợt tỉnh vì ánh đèn chói mắt.
Ông hương giáo nói :
- Chú em thức hả ? Kìa ! Trên bàn thờ, từ bao năm rồi, tôi luyện "ngọc ong" để trị bịnh. Bịnh gì, chắc Tư Lập nói sơ cho chú em hiểu rồi. Tôi buồn quá. Tư Lập không trở lại nhà này nữa đâu. Chú em cứ nói thiệt. Phải vậy không ?
Thằng Kim nói :
- Dạ cháu không biết. Chú Tư không nói rõ...
- Ta hiểu lắm. Dầu sao, trở về lần này, Tư Lập cũng đã tỏ ra có nghĩa ! Ai nỡ câu thúc chí trai của mình trong một xó để đổi lấy chữ nhàn ? Ai nỡ bỏ cái danh dự để mua chuộc một chức tước quí phái huyền hão. Từ xưa, tằng tổ của ta cũng vì khí khái ấy mà phò Chúa, xiêu lạc đến đây ! Bây giờ ta yếu lắm rồi. Dầu muốn bắt chước Tư Lập, ta cũng không còn đủ sức lực mà bắt chước. Gia thế của ta, thiên hạ đã rõ. Câu thúc Tư Lập ở mãi tại đây chăng ? Ta chỉ là người hương giáo, quyền hạn gì ? Ừ ! Tội là tội cho Hoàng Mai. Năm nay, nó ngồi một chỗ, không còn đủ sức mà ra thăm cội hoàng mai trước ngõ như hồi Tư Lập biết.
Sáng hôm sau, thằng Kim từ giã ông hương giáo rồi đến ngồi bên mé rạch. Bông vừng tươi thắm, cây cối hai bên bờ giao đầu lại, mát mẻ. Nó chờ đón bất cứ xuồng ghe ai, đi về đâu cũng được, để quá giang. Sau lưng nó, trên thềm nhà, trong bóng mát, hình dáng của Hoàng Mai với đôi mắt và mớ tóc trùm kín trong chiếc khăn. Chiếc tay áo của nàng lòng thòng che khuất mấy ngón tay, từ từ nâng lên như tiễn đưa một hình bóng...
***
Mùa "len" trâu - Sơn Nam
Nước tràn bờ sông Hậu chảy qua. Nước trên trời tuôn xuống. Gió biển triền miên thổi lộng về. Từ Sáng đến chiều, mặt trời biến dạng sau lớp mưa : ánh nắng pha loãng đều đều không làm chóa mắt kẻ ưu tư đang ngồi hút thuốc mà ngắm mấy lượn sóng chạy dài tiếp lưng trời. Núi Ba Thê bên này, núi Cấm trước mặt, hòn Sóc, hòn Ðất bên kia bình thường xem hùng vĩ, thơ mộng thì nay trở thành lè tè, bé bỏng trong cảnh bao la trời nước.
Chú Tư Ðinh lại vấn điếu thuốc thứ nhì, mỉm cười khi thấy từ chân trời một cơn mưa to hơn sắp kéo đến.
- Ừ ! Mưa hoài đi. Ông trời năm nay biết điệu, thuận mùa, thuận tiết...
Thiếm Tư như phản đối ý chồng :
- Mưa vài đám nữa thì có môn leo lên nóc nhà mà ở. Ba cái lu, ba cái hũ trôi lểnh nghểnh trong nhà rồi, ba nó chưa hay sao ? Gạo hết, tiền hết.
- Mình đừng trách trời. Hồi nào tới giờ, trời cứ vậy hoài, hết mùa hạn thì phải tới mùa nước lụt chớ.
Chú Tư muốn giải nghĩa sự lạc quan của mình dài dòng hơn để thiếm Tư nghe. "Ðàn bà giỏi tài chú ý lặt vặt chuyện bếp núc. Nhìn ra đồng thì họ chỉ thấy những chuyện trên mặt nước, hơi đâu mà cãi". Nghĩ vậy, chú im lặng, vấn thêm điếu thuốc nữa. Giờ này, dưới đáy nước, sát mặt ruộng, mớ đất cày mềm nhũn, trở mình trắng phau. Gió thổi mạnh, trôi nhà trôi cửa nhưng lúa còn lì gan đứnh chịu. Cứ qua ngày đêm, nước ngập lên một tấc ; thân lúa đuối sức cố nằm dài trên mặt nước, vừa hấp hối ngột thở là nhánh non nứt ra trong nháy mắt để chào đón cuộc sống.
Sau hè nhà, nước dậy đùng đùng, sóng gợn từng lượn lớn, vỗ lát chát vào vách. Chú Tư bước nhè nhẹ trên sàn tay vịn mái nhà, tay che mắt rồi cau mày ; thằng Nhi đứa con trai của chú đang cưỡi trâu về.
Ðôi trâu bước lên nền chuồng trâu lúc trước, tuy đã đắp cao thêm gần một thước vậy mà nước leo lên lé đé.
Chú Tư chờ thằng Nhi vào nhà. Nó cổi cái áo ướt mem quăng trên sân :
- Xung quanh đây hết cỏ rồi. Làm sao bây giờ hả ba ? Trâu đói nữa, con mắt nó đổ ghèn hoài.
Chú nói :
- Bên giồng cát Sóc Xoài... Mày có qua tới đó không ?
- Có. Mà hết cỏ rồi. Mấy lõm cỏ sau chùa không đủ cho trâu bò ở đó ăn, đâu có dư tới mình. Trâu mình ốm nhiều. Từ Ðây tới nước giựt còn trên ba tháng nữa, làm sao chịu nổi ?
- Hồi đầu mùa, tao biểu giao trâu mình họ len đi miệt khác kiếm cỏ. Má mày ngăn cản. Bây giờ tới nước này rồi...
Thiếm Tư trầm ngâm suy nghĩ, nhìn đôi trâu đã mòn sức, be sườn lòi rõ rệt từng hàng như vòng cung. Ðể ở nhà, trâu chết đói ; giao cho thiên hạ len đi thì làm sao bảo đảm được ? Trâu của trăm chủ khác nhau gom lại chung một bầy, tha hồ lấn hiếp, chém lộn bầy trâu gần bốn trăm con mà chỉ có năm sáu người chăn giữ.
Ðường dài thăm thẳm, lội nước băng rừng, rủi khi bịnh hoạn thì trâu đành bỏ mạng nơi xứ lạ quê người. Thật là tấn thối lưỡng nan ! Ðôi trâu nhà đứng khúm núm đó, trên nền chuồng, như hai pho tượng bằng đồng đen dựng lên mặt nước. Thiếm nói :
- Ba nó tính sao thì tính. Tôi rối trí quá rồi.
Chú Tư chép miệng :
- Không nên cãi mạng trời. Muốn cãi cũng không được. Không lẽ họ giết trâu mình ? Trăm con, chết chừng đôi ba con là nhiều. Muốn vững bụng hơn, mình cho thằng Nhi theo coi chừng.
Thằng Nhi há miệng ngạc nhiên không dè mùa nước năm nay nó lại được đi du lịch bất ngờ như vầy. Chú Tư hỏi :
- Muốn đi không mậy ? Chặng đầu, họ mới len trâu tới chân núi Ba Thê, mình đuổi theo nhập bầy còn kịp, đây qua đó chừng nửa ngày đường. Lấy cái nóp mới của tao mà đem theo. Dọc đường muỗi mòng, mưa gió nhớ đi theo sát hai con trâu của mình, đừng ham chơi lêu lổng. Nói với tằn khạo rằng mình chịu đóng cho y mười giạ lúa tiền công len trâu, mùa này.
***
Mưa cứ mưa trút xuống. Gió cứ dậy sóng lên. Từ lúc thằng Nhi dẫn trâu đi, nhà cửa lần lần trở nên vắng lạnh. Thiếm Tư cằn nhằn :
- Giao sanh mạnh hai con trâu cho họ, ba nó chưa vừa bụng sao ? Lại còn bày đặt cho thằng Nhi đi theo ! Rủi bề gì...
Chú Tư nói :
- Má nó khéo lo thì thôi ! Trâu hễ tới số thì dẫu cầm ở nhà nó cũng không sống. Tôi buồn lắm. Trâu giúp mình tạo ra hột lúa; bù lại, mình không kiếm đủ cỏ cho nó ăn no. Như vậy là mình bất nhân . Còn thằng Nhi... dịp này để nó học nghề với người ta.
Thiếm Tư hơi giận :
- Nghề gì ? Nghề chăn trâu mà cũng học nữa à ? Tôi không ham cái nghề đó.
- Má nó nói giỡn sao chớ ! Chăn trâu còn khó hơn diều binh khiển tướng. Ðời xưa, nhiều người nhờ lúc nhỏ chăn trâu mà tới lớn được làm vua. Con nít chăn trâu ca hát nghe bậy bạ nhưng nhiều khi linh nghiệm như sấm truyền, đoán trúng những chuyện quốc sự. Tôi nhớ coi... Trong truyện Phong Thần gì đó nhắc cái tích ông Nịnh Thích ngồi trên lưng trâu, gõ sừng mà hát công kích vua đời... Liệt Quốc Ðông Châu ! Vua giựt mình, mời ông Nịnh Thích về làm quân sư. Nghe đâu lúc về hưu trí, ông Nịnh Thích lại cỡi trâu mà du sơn ngoạn thủy. Ngư, tiều, canh, mục là bốn điều sang trọng mà.
Thiếm Tư vẫn chưa nguôi cơn buồn :
- Ba nó nói chuyện đời xưa. Chăn trâu theo kiểu ở xứ mình có khác, tối ngày đeo đuôi trâu mà lặn hụp dưới nước, ăn không no, ngủ không yên...
- Nhưng mà học khôn nhiều chuyện. Mà nó hồi nào tới giờ chưa từng tới núi Ba Thê, vậy mà bây giờ thằng Nhi nó rành đó ! Cảnh núi non thanh lịch, trâu ăn cỏ ngẩng đầu coi mây bay lui tới ; ngứa lưng thì trâu cọ mình vô cột của đền vua chúa mà gãi sốn sột. Má nó biết không ? Ở núi Ba Thê, trâu len ăn cỏ trên đền vua đời xưa... Vua chúa mất hết, trâu đời đời kiếp kiếp còn đứng dửng dưng trên mặt đất này hoài !
Thiếm Tư bực bội :
- Ðói, không đủ cỏ ăn mà cũng sang trọng. Thôi ông ơi ! Ðừng nói nữa.
- Hết cỏ thì qua chỗ khác, má nó đừng lo. Từ Ba Thê cả bầy trâu len qua miệt Bảy Núi. Oai vệ lắm kìa ! Voi đi một lần đôi ba chục con là cùng, cọp đi hai ba con là nhiều ; cảnh đó ở miệt rừng ai cũng thấy. Ðằng này, trâu lội nước năm ba trăm con, đen đầu, đặc nước. Kiếm bạc trăm là dễ chớ muốn thấy được cảnh đó không phải dễ, giống như hồi thiên hạ sơ khai, càn khôn hỗn độn... Mấy ông thầy chùa, bà vãi ẩn mình trong cốc trên núi, chán cảnh trần tục vậy mà họ còn bước ra ngóng mắt theo bầy trâu len dữ dội...
Càng nhắc tới, chú Tư càng thích chí, thiếm Tư trái lại ngồi buốn xo, không tin nơi lời chồng , cho rằng đó là kiểu an ủi gượng của kẻ túng cùng. Chú Tư lại vấn thuốc, hỏi vợ :
- Má nó ngủ hay thức ? Nãy giờ có nghe không ? Sao không ừ hử gì ráo, hay là ngủ rối...
- Tôi nằm nghe đây mà. Nghe bằng lỗ tai chớ nghe bằng miệng sao mà phải ừ hử từng chập ?
Chú Tư lại nói tiếp :
- Ở Bảy Núi thanh khiết hơn ở Ba Thê. Trâu ăn toàn cỏ lạ hoa thơm ; lắm thứ cỏ phảng phất mùi gì giống như vị thuốc Bắc. Ban đêm, muỗi mòng cũng ít, tiếng chuông chùa, tiếng tụng kinh gõ mõ thì nhiều... Mặc dầu ăn cỏ ở dưới chân núi, trâu cũng được phong làm chúa sơn lâm. Cọp beo trên núi quì xuống mà đầu hàng chớ không dám xáp lại.
Bên kia sàn nhà, thiếm Tư bắt đầu thở nhẹ rồi ngáy pho pho. Chú Tư mỉm cười, không chút hờn giận. "Vợ mình chán không thèm nghe nữa vì nãy giờ mình nói toàn những chuyện vui tươi, sung sướng, giấu giếm những nỗi cực nhọc trong nghề chăn trâu. Nhưng cần gì ? Cốt ý là mình nhắc lại cuộc đời len trâu của mình hồi thuở con nhỏ cho riêng mình nghe mà thôi". Chú lại vấn thuốc hút. Bên ngoài trời vẫn mưa, sóng nước vẫn chạy ùa tới đập vào vách nhà. Khói thuốc phun mờ mờ, bay thoảng lên cao. Chân trời lại hiện ra, lúa nằm dài xanh rờn, nhấp nhô trên ngọn sóng. Và... Ðằng xa kia là Bảy Núi, nơi mà giờ này thằng Nhi và hai con trâu của chú đang tung hoành, sắp lội nước hằng mươi cây số để vượt ra mé biển đến vùng rừng tràm miệt Linh Quỳnh.
Rừng tràm xanh đậm, rọi xuống mặt nước đỏ ngầu, rung rinh. Nhứt là về đêm khi trăng chiếu, đom đóm bay về đậu khắp nhánh tràm như họp chợ phiên ! Hồi thuở nhỏ, chú đến đó nhiều lần. Cảnh ấy bây giờ thay đổi vì nhà nước đã đào thêm con kinh Xáng Rạch Giá - Hà Tiên và đắp xong con lộ đá. Trâu vượt qua lộ xe hoặc ngủ tạm trên lộ cho tới sáng. Lội dưới nước lâu ngày, móng trâu trở nên mềm, đứng trên đá, trâu đau chân. Chú Tư bỗng hình dung trước mặt một cảnh tượng oai hùng, khi mặt trời vừa lố dạng, đàn trâu phải rút vào rừng tìm nơi ăn nằm. Nhà nước đắp lộ xe nào phải để cho trâu đứng, phá hoại... Trâu chạy ầm ầm. Không mấy chút, tràm gãy rôm rốp ngã liệt xuống, lõm rừng trở thành một cái đầm rộng lớn. Người len trâu tạm nghỉ ngơi vài ngày. Mấy "tay riều" đốn củi gần đó tụ họp lại làm quen, đánh bài cào, uống rượu, đốt lửa lên bàn chuyện tiếu lâm. Lắm khi họ sắp đặt công việc đi ăn cướp, ăn cướp kẻ khác và ăn cướp lẫn nhau. Mấy tay len trâu giựt tiền của tay riều ; mấy tay riều xúm nhau giựt trâu của mấy tay len. Rừng lại đẫm máu... Trong cuộc xô xát dao búa đó, sanh mạng của con người như con kiến, hà huống chi đứa trẻ bé bỏng như thằng Nhi, con trai chú !
Chú Tư giựt mình, e ngại.
Trong giấc mơ, có lẽ thiếm Tư không tưởng tượng được tới cảnh chém giết rùng rợn đó. Thiếm nói lảm nhảm rồi lại trở mình, ngáy khò khò.
***
Tháng mười, nước giựt xuống. Ðến cuối tháng, mặt ruộng lộ ra, cỏ non nhú mọc xanh tươi đến tận chân trời. Mưa dứt sớm. Núi non lại trở nên hùng vĩ. Suốt mùa, lúa nương theo nước mà vươn lên đến bốn năm thước ; bây giờ lúa nằm rạp xuống đất, chồng chất cao ngùn ngụt. Cái sàn nhà của chú Tư cũng hạ xuống. Cuộc sống trở lại bình thường.
Ðêm ấy, quá canh ba, có tiếng kêu vang dội :
- Ba ơi ba ! Má ơi má ! Trâu mình nè...
Chú Tư, thiếm Tư mừng quýnh, tốc mùng chạy ra : Thằng Nhi về đó, coi dị hợm hơn mọi ngày, máng trên vai một đống gì cao nghệu. Chú Tư xanh mặt. Nó thảy đống ấy xuống đất :
- D.m. chết hết một con. Ðem cặp sừng bộ da của nó về nè ! Nặng gần chết. Ð.m. không lẽ bỏ luôn.
Thiếm Tư mếu máo, mừng vì gặp được con, buồn vì mất hết phân nửa gia sản :
- Mô Phật. Mạnh giỏi hả con ? Trời ơi ! Con đi theo coi chừng mà làm sao nó chết ? Dọc đường con có đau ốm gì không... Con, Con...
Chú Tư im lặng, buồn buồn. Mừng con, tiếc của là một lẽ. Nhưng còn lẽ khác đáng lo ngại hơn... Hồi nào tới giờ, thằng Nhi ăn nói đàng hoàng mà chuyến về này, trong câu nói hồi nãy, nó pha vô hai lần chửi thề mà nó không hay.
Thiếm Tư nhìn cặp sừng và bộ da trâu mà rơi nước mắt :
- Thôi ! Lần này lần chót. Năm tới bán con trâu còn lại, không làm ruộng nữa. Ðất nước gì kỳ cục quá, cái xứ này...
Chú Tư nghiêm mặt :
- Nói bậy nữa đi. Ðất của mình, nước của mình mà bà dám nguyền rủa hả ? Hồi nào cúng vái, bà nói bà phục ông bà đất nước lắm mà...
Thiếm Tư đi ra sân lo đốt lửa để un trâu. Chú Tư cũng đến vuốt ve con trâu còn lại rồi trở vô thấy thằng Nhi đang chụp gói thuốc rê trên bàn ; nó mở ra, xé giấy vấn hút phì phà một cách tự nhiên, ngon lành.
- Ghiền rồi hả mậy ? Chú hỏi.
- Hai ba bữa rày, hút có mấy điếu. Ở rừng, họ hút kịch liệt lắm kìa... ba.
Chú Tư đem chai rượu đế ra, rót vào chén. Chú thấy thằnh Nhi hít mũi lia lịa.
- Nhậu thì nhậu một chút cho ấm đi ! Cỡ này mày sanh nhiều tật lạ.
Rồi chú day ra sân mỉm cười :
- Bà nó ơi ! Coi thằng con của bà nè ! Nó giống hệt tôi hồi nhỏ quá chừng.
Thiếm Tư chạy vào, không hiểu rõ đầu đuôi. Thiếm lau nước mắt rồi nấu cơm cho thằng Nhi ăn, dọn mùng cho nó ngủ... Chú Tư thức mãi tới khuya, thỉnh thoảng hé mùng dòm thằng Nhi. Mùng rộng rãi nhưng nó vẫn co rút như hồi nằm trong nóp chật hẹp. Tay và bụng của nó xăm đầy những chữ nho, chữ quốc ngữ. Không cần đọc kỹ, chú đoán đó là "ngũ hồ tứ hải giai huynh đệ" hoặc "ái tình vạn tuế" mà một tay hảo hớn nào đã xăm cho nó.
- Mình không lỗ lã gì đâu ! Chú Tư lẩm bẩm một mình.
Chuyến đi len trâu này, đứa con của chú mhiễm nhiều tật xấu nhưng nó khôn lớn hơn, nghe thấy được nhiều việc mà ở nhà chú không nghe thấy. Chú ra sân. Dưới ánh trăng suông, con trâu Pháo bước tung tăng, nhịp móng xuống lớp phù sa mát rượi, đứng trên mặt đất hôm nay mà sao thấy hơi khác lạ hơn mặt đất hôm nao, cũng ở chốn này. Nó hinh hỉnh lỗ mũi như cố phân biệt mùi thơm của cỏ núi hoa rừng với mùi thơm của mùi lúa sạ đang độ chín.
***
Chú Tư Ðinh lại vấn điếu thuốc thứ nhì, mỉm cười khi thấy từ chân trời một cơn mưa to hơn sắp kéo đến.
- Ừ ! Mưa hoài đi. Ông trời năm nay biết điệu, thuận mùa, thuận tiết...
Thiếm Tư như phản đối ý chồng :
- Mưa vài đám nữa thì có môn leo lên nóc nhà mà ở. Ba cái lu, ba cái hũ trôi lểnh nghểnh trong nhà rồi, ba nó chưa hay sao ? Gạo hết, tiền hết.
- Mình đừng trách trời. Hồi nào tới giờ, trời cứ vậy hoài, hết mùa hạn thì phải tới mùa nước lụt chớ.
Chú Tư muốn giải nghĩa sự lạc quan của mình dài dòng hơn để thiếm Tư nghe. "Ðàn bà giỏi tài chú ý lặt vặt chuyện bếp núc. Nhìn ra đồng thì họ chỉ thấy những chuyện trên mặt nước, hơi đâu mà cãi". Nghĩ vậy, chú im lặng, vấn thêm điếu thuốc nữa. Giờ này, dưới đáy nước, sát mặt ruộng, mớ đất cày mềm nhũn, trở mình trắng phau. Gió thổi mạnh, trôi nhà trôi cửa nhưng lúa còn lì gan đứnh chịu. Cứ qua ngày đêm, nước ngập lên một tấc ; thân lúa đuối sức cố nằm dài trên mặt nước, vừa hấp hối ngột thở là nhánh non nứt ra trong nháy mắt để chào đón cuộc sống.
Sau hè nhà, nước dậy đùng đùng, sóng gợn từng lượn lớn, vỗ lát chát vào vách. Chú Tư bước nhè nhẹ trên sàn tay vịn mái nhà, tay che mắt rồi cau mày ; thằng Nhi đứa con trai của chú đang cưỡi trâu về.
Ðôi trâu bước lên nền chuồng trâu lúc trước, tuy đã đắp cao thêm gần một thước vậy mà nước leo lên lé đé.
Chú Tư chờ thằng Nhi vào nhà. Nó cổi cái áo ướt mem quăng trên sân :
- Xung quanh đây hết cỏ rồi. Làm sao bây giờ hả ba ? Trâu đói nữa, con mắt nó đổ ghèn hoài.
Chú nói :
- Bên giồng cát Sóc Xoài... Mày có qua tới đó không ?
- Có. Mà hết cỏ rồi. Mấy lõm cỏ sau chùa không đủ cho trâu bò ở đó ăn, đâu có dư tới mình. Trâu mình ốm nhiều. Từ Ðây tới nước giựt còn trên ba tháng nữa, làm sao chịu nổi ?
- Hồi đầu mùa, tao biểu giao trâu mình họ len đi miệt khác kiếm cỏ. Má mày ngăn cản. Bây giờ tới nước này rồi...
Thiếm Tư trầm ngâm suy nghĩ, nhìn đôi trâu đã mòn sức, be sườn lòi rõ rệt từng hàng như vòng cung. Ðể ở nhà, trâu chết đói ; giao cho thiên hạ len đi thì làm sao bảo đảm được ? Trâu của trăm chủ khác nhau gom lại chung một bầy, tha hồ lấn hiếp, chém lộn bầy trâu gần bốn trăm con mà chỉ có năm sáu người chăn giữ.
Ðường dài thăm thẳm, lội nước băng rừng, rủi khi bịnh hoạn thì trâu đành bỏ mạng nơi xứ lạ quê người. Thật là tấn thối lưỡng nan ! Ðôi trâu nhà đứng khúm núm đó, trên nền chuồng, như hai pho tượng bằng đồng đen dựng lên mặt nước. Thiếm nói :
- Ba nó tính sao thì tính. Tôi rối trí quá rồi.
Chú Tư chép miệng :
- Không nên cãi mạng trời. Muốn cãi cũng không được. Không lẽ họ giết trâu mình ? Trăm con, chết chừng đôi ba con là nhiều. Muốn vững bụng hơn, mình cho thằng Nhi theo coi chừng.
Thằng Nhi há miệng ngạc nhiên không dè mùa nước năm nay nó lại được đi du lịch bất ngờ như vầy. Chú Tư hỏi :
- Muốn đi không mậy ? Chặng đầu, họ mới len trâu tới chân núi Ba Thê, mình đuổi theo nhập bầy còn kịp, đây qua đó chừng nửa ngày đường. Lấy cái nóp mới của tao mà đem theo. Dọc đường muỗi mòng, mưa gió nhớ đi theo sát hai con trâu của mình, đừng ham chơi lêu lổng. Nói với tằn khạo rằng mình chịu đóng cho y mười giạ lúa tiền công len trâu, mùa này.
***
Mưa cứ mưa trút xuống. Gió cứ dậy sóng lên. Từ lúc thằng Nhi dẫn trâu đi, nhà cửa lần lần trở nên vắng lạnh. Thiếm Tư cằn nhằn :
- Giao sanh mạnh hai con trâu cho họ, ba nó chưa vừa bụng sao ? Lại còn bày đặt cho thằng Nhi đi theo ! Rủi bề gì...
Chú Tư nói :
- Má nó khéo lo thì thôi ! Trâu hễ tới số thì dẫu cầm ở nhà nó cũng không sống. Tôi buồn lắm. Trâu giúp mình tạo ra hột lúa; bù lại, mình không kiếm đủ cỏ cho nó ăn no. Như vậy là mình bất nhân . Còn thằng Nhi... dịp này để nó học nghề với người ta.
Thiếm Tư hơi giận :
- Nghề gì ? Nghề chăn trâu mà cũng học nữa à ? Tôi không ham cái nghề đó.
- Má nó nói giỡn sao chớ ! Chăn trâu còn khó hơn diều binh khiển tướng. Ðời xưa, nhiều người nhờ lúc nhỏ chăn trâu mà tới lớn được làm vua. Con nít chăn trâu ca hát nghe bậy bạ nhưng nhiều khi linh nghiệm như sấm truyền, đoán trúng những chuyện quốc sự. Tôi nhớ coi... Trong truyện Phong Thần gì đó nhắc cái tích ông Nịnh Thích ngồi trên lưng trâu, gõ sừng mà hát công kích vua đời... Liệt Quốc Ðông Châu ! Vua giựt mình, mời ông Nịnh Thích về làm quân sư. Nghe đâu lúc về hưu trí, ông Nịnh Thích lại cỡi trâu mà du sơn ngoạn thủy. Ngư, tiều, canh, mục là bốn điều sang trọng mà.
Thiếm Tư vẫn chưa nguôi cơn buồn :
- Ba nó nói chuyện đời xưa. Chăn trâu theo kiểu ở xứ mình có khác, tối ngày đeo đuôi trâu mà lặn hụp dưới nước, ăn không no, ngủ không yên...
- Nhưng mà học khôn nhiều chuyện. Mà nó hồi nào tới giờ chưa từng tới núi Ba Thê, vậy mà bây giờ thằng Nhi nó rành đó ! Cảnh núi non thanh lịch, trâu ăn cỏ ngẩng đầu coi mây bay lui tới ; ngứa lưng thì trâu cọ mình vô cột của đền vua chúa mà gãi sốn sột. Má nó biết không ? Ở núi Ba Thê, trâu len ăn cỏ trên đền vua đời xưa... Vua chúa mất hết, trâu đời đời kiếp kiếp còn đứng dửng dưng trên mặt đất này hoài !
Thiếm Tư bực bội :
- Ðói, không đủ cỏ ăn mà cũng sang trọng. Thôi ông ơi ! Ðừng nói nữa.
- Hết cỏ thì qua chỗ khác, má nó đừng lo. Từ Ba Thê cả bầy trâu len qua miệt Bảy Núi. Oai vệ lắm kìa ! Voi đi một lần đôi ba chục con là cùng, cọp đi hai ba con là nhiều ; cảnh đó ở miệt rừng ai cũng thấy. Ðằng này, trâu lội nước năm ba trăm con, đen đầu, đặc nước. Kiếm bạc trăm là dễ chớ muốn thấy được cảnh đó không phải dễ, giống như hồi thiên hạ sơ khai, càn khôn hỗn độn... Mấy ông thầy chùa, bà vãi ẩn mình trong cốc trên núi, chán cảnh trần tục vậy mà họ còn bước ra ngóng mắt theo bầy trâu len dữ dội...
Càng nhắc tới, chú Tư càng thích chí, thiếm Tư trái lại ngồi buốn xo, không tin nơi lời chồng , cho rằng đó là kiểu an ủi gượng của kẻ túng cùng. Chú Tư lại vấn thuốc, hỏi vợ :
- Má nó ngủ hay thức ? Nãy giờ có nghe không ? Sao không ừ hử gì ráo, hay là ngủ rối...
- Tôi nằm nghe đây mà. Nghe bằng lỗ tai chớ nghe bằng miệng sao mà phải ừ hử từng chập ?
Chú Tư lại nói tiếp :
- Ở Bảy Núi thanh khiết hơn ở Ba Thê. Trâu ăn toàn cỏ lạ hoa thơm ; lắm thứ cỏ phảng phất mùi gì giống như vị thuốc Bắc. Ban đêm, muỗi mòng cũng ít, tiếng chuông chùa, tiếng tụng kinh gõ mõ thì nhiều... Mặc dầu ăn cỏ ở dưới chân núi, trâu cũng được phong làm chúa sơn lâm. Cọp beo trên núi quì xuống mà đầu hàng chớ không dám xáp lại.
Bên kia sàn nhà, thiếm Tư bắt đầu thở nhẹ rồi ngáy pho pho. Chú Tư mỉm cười, không chút hờn giận. "Vợ mình chán không thèm nghe nữa vì nãy giờ mình nói toàn những chuyện vui tươi, sung sướng, giấu giếm những nỗi cực nhọc trong nghề chăn trâu. Nhưng cần gì ? Cốt ý là mình nhắc lại cuộc đời len trâu của mình hồi thuở con nhỏ cho riêng mình nghe mà thôi". Chú lại vấn thuốc hút. Bên ngoài trời vẫn mưa, sóng nước vẫn chạy ùa tới đập vào vách nhà. Khói thuốc phun mờ mờ, bay thoảng lên cao. Chân trời lại hiện ra, lúa nằm dài xanh rờn, nhấp nhô trên ngọn sóng. Và... Ðằng xa kia là Bảy Núi, nơi mà giờ này thằng Nhi và hai con trâu của chú đang tung hoành, sắp lội nước hằng mươi cây số để vượt ra mé biển đến vùng rừng tràm miệt Linh Quỳnh.
Rừng tràm xanh đậm, rọi xuống mặt nước đỏ ngầu, rung rinh. Nhứt là về đêm khi trăng chiếu, đom đóm bay về đậu khắp nhánh tràm như họp chợ phiên ! Hồi thuở nhỏ, chú đến đó nhiều lần. Cảnh ấy bây giờ thay đổi vì nhà nước đã đào thêm con kinh Xáng Rạch Giá - Hà Tiên và đắp xong con lộ đá. Trâu vượt qua lộ xe hoặc ngủ tạm trên lộ cho tới sáng. Lội dưới nước lâu ngày, móng trâu trở nên mềm, đứng trên đá, trâu đau chân. Chú Tư bỗng hình dung trước mặt một cảnh tượng oai hùng, khi mặt trời vừa lố dạng, đàn trâu phải rút vào rừng tìm nơi ăn nằm. Nhà nước đắp lộ xe nào phải để cho trâu đứng, phá hoại... Trâu chạy ầm ầm. Không mấy chút, tràm gãy rôm rốp ngã liệt xuống, lõm rừng trở thành một cái đầm rộng lớn. Người len trâu tạm nghỉ ngơi vài ngày. Mấy "tay riều" đốn củi gần đó tụ họp lại làm quen, đánh bài cào, uống rượu, đốt lửa lên bàn chuyện tiếu lâm. Lắm khi họ sắp đặt công việc đi ăn cướp, ăn cướp kẻ khác và ăn cướp lẫn nhau. Mấy tay len trâu giựt tiền của tay riều ; mấy tay riều xúm nhau giựt trâu của mấy tay len. Rừng lại đẫm máu... Trong cuộc xô xát dao búa đó, sanh mạng của con người như con kiến, hà huống chi đứa trẻ bé bỏng như thằng Nhi, con trai chú !
Chú Tư giựt mình, e ngại.
Trong giấc mơ, có lẽ thiếm Tư không tưởng tượng được tới cảnh chém giết rùng rợn đó. Thiếm nói lảm nhảm rồi lại trở mình, ngáy khò khò.
***
Tháng mười, nước giựt xuống. Ðến cuối tháng, mặt ruộng lộ ra, cỏ non nhú mọc xanh tươi đến tận chân trời. Mưa dứt sớm. Núi non lại trở nên hùng vĩ. Suốt mùa, lúa nương theo nước mà vươn lên đến bốn năm thước ; bây giờ lúa nằm rạp xuống đất, chồng chất cao ngùn ngụt. Cái sàn nhà của chú Tư cũng hạ xuống. Cuộc sống trở lại bình thường.
Ðêm ấy, quá canh ba, có tiếng kêu vang dội :
- Ba ơi ba ! Má ơi má ! Trâu mình nè...
Chú Tư, thiếm Tư mừng quýnh, tốc mùng chạy ra : Thằng Nhi về đó, coi dị hợm hơn mọi ngày, máng trên vai một đống gì cao nghệu. Chú Tư xanh mặt. Nó thảy đống ấy xuống đất :
- D.m. chết hết một con. Ðem cặp sừng bộ da của nó về nè ! Nặng gần chết. Ð.m. không lẽ bỏ luôn.
Thiếm Tư mếu máo, mừng vì gặp được con, buồn vì mất hết phân nửa gia sản :
- Mô Phật. Mạnh giỏi hả con ? Trời ơi ! Con đi theo coi chừng mà làm sao nó chết ? Dọc đường con có đau ốm gì không... Con, Con...
Chú Tư im lặng, buồn buồn. Mừng con, tiếc của là một lẽ. Nhưng còn lẽ khác đáng lo ngại hơn... Hồi nào tới giờ, thằng Nhi ăn nói đàng hoàng mà chuyến về này, trong câu nói hồi nãy, nó pha vô hai lần chửi thề mà nó không hay.
Thiếm Tư nhìn cặp sừng và bộ da trâu mà rơi nước mắt :
- Thôi ! Lần này lần chót. Năm tới bán con trâu còn lại, không làm ruộng nữa. Ðất nước gì kỳ cục quá, cái xứ này...
Chú Tư nghiêm mặt :
- Nói bậy nữa đi. Ðất của mình, nước của mình mà bà dám nguyền rủa hả ? Hồi nào cúng vái, bà nói bà phục ông bà đất nước lắm mà...
Thiếm Tư đi ra sân lo đốt lửa để un trâu. Chú Tư cũng đến vuốt ve con trâu còn lại rồi trở vô thấy thằng Nhi đang chụp gói thuốc rê trên bàn ; nó mở ra, xé giấy vấn hút phì phà một cách tự nhiên, ngon lành.
- Ghiền rồi hả mậy ? Chú hỏi.
- Hai ba bữa rày, hút có mấy điếu. Ở rừng, họ hút kịch liệt lắm kìa... ba.
Chú Tư đem chai rượu đế ra, rót vào chén. Chú thấy thằnh Nhi hít mũi lia lịa.
- Nhậu thì nhậu một chút cho ấm đi ! Cỡ này mày sanh nhiều tật lạ.
Rồi chú day ra sân mỉm cười :
- Bà nó ơi ! Coi thằng con của bà nè ! Nó giống hệt tôi hồi nhỏ quá chừng.
Thiếm Tư chạy vào, không hiểu rõ đầu đuôi. Thiếm lau nước mắt rồi nấu cơm cho thằng Nhi ăn, dọn mùng cho nó ngủ... Chú Tư thức mãi tới khuya, thỉnh thoảng hé mùng dòm thằng Nhi. Mùng rộng rãi nhưng nó vẫn co rút như hồi nằm trong nóp chật hẹp. Tay và bụng của nó xăm đầy những chữ nho, chữ quốc ngữ. Không cần đọc kỹ, chú đoán đó là "ngũ hồ tứ hải giai huynh đệ" hoặc "ái tình vạn tuế" mà một tay hảo hớn nào đã xăm cho nó.
- Mình không lỗ lã gì đâu ! Chú Tư lẩm bẩm một mình.
Chuyến đi len trâu này, đứa con của chú mhiễm nhiều tật xấu nhưng nó khôn lớn hơn, nghe thấy được nhiều việc mà ở nhà chú không nghe thấy. Chú ra sân. Dưới ánh trăng suông, con trâu Pháo bước tung tăng, nhịp móng xuống lớp phù sa mát rượi, đứng trên mặt đất hôm nay mà sao thấy hơi khác lạ hơn mặt đất hôm nao, cũng ở chốn này. Nó hinh hỉnh lỗ mũi như cố phân biệt mùi thơm của cỏ núi hoa rừng với mùi thơm của mùi lúa sạ đang độ chín.
***
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)