13/4/09

Đường chữ U (đứt khúc) của Trung Quốc [Việt Nam gọi là đường lưỡi bò] trên biển Nam Trung Hoa: Các điểm, đường và khu vực

thời đại mới
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU & THẢO LUẬN



Số 15 - Tháng 3/2009






"The Chinese (Broken) U-shaped Line in the South China Sea:
Points, Lines, and Zones"
Contemporary Southeast Asian 25, số 3 (2003), tr. 405-30

Peter Kien-Hong Yu




Lời tòa soạn Thời Đại Mới:

Bài viết này quan trọng ở chỗ nó phản ánh các quan điểm của Trung Quốc và Đài Loan là quyết không từ bỏ chủ quyền trong đường chữ U, tức là đường lưỡi bò theo cách gọi của Việt Nam , và bản thân tác giả lập luận ủng hộ các quan điểm đó. Tác giả là Giáo Sư Đại học Ming Chuan, Trường Sau Đại học về Ngoại Giao ở Đài Loan.

Các chú thích của người dịch được để trong […] với chữ nghiêng. Các chú thích của tác giả cũng có thể có, để trong […] nhưng với chữ thẳng đứng

Xisha, đọc là Tây Sa, Việt Nam gọi là Hoàng Sa, tức nhóm đảo Paracels. Zhongsha, đọc là Trung Sa, Việt Nam cũng gọi là Trung Sa, là nhóm bãi cát ngập nước Macclesfield Bank nằm ở phía đông của nhóm đảo Hoàng Sa.

Nansha, đọc là Nam Sa, Việt Nam gọi là Trường Sa, tức nhóm đảo Spratleys. Luật Biển hay Công ước Biển 1982 được dùng trong bài là nói về cùng một bộ luật của Liên Hợp Quốc về biển.



Bài báo này phân tích các tác động tích cực và tiêu cực của đường chữ U (biên giới lãnh hải) trên Biển Nam Trung Hoa (NTH) cũng như các điểm đáng quan tâm còn chưa rõ ràng. Các tác động tích cực của đường này bao gồm nhận định cho rằng đường này không phải là chủ ý của Đài Loan và Trung Quốc nhằm gộp biên giới quốc tế vào biên giới quốc gia (national framework). Các tác động tiêu cực bao gồm những gánh nặng đối với lực lượng hải quân Trung Quốc. Bài báo này cũng sẽ trả lời những câu hỏi về bản chất mối quan hệ giữa đường chữ U và các vùng đặc quyền kinh tế của Cộng sản Trung Quốc (Communist Exclusive Economic Zones), lập luận rằng mối quan hệ phi mâu thuẫn này cần được xem như là sự bảo hiểm hai lần mà cả Đài Loan và Trung Quốc đang nỗ lực đầu tư.



Giới thiệu

Kể từ khi luật quốc tế liên quan đến đất, trời và biển ra đời, các khái niệm về điểm, đường và khu vực dù là thực hay không trở nên rất quan trọng. Mối quan hệ giữa các điểm, đường và khu vực tuân theo luật về hình học: hai điểm nối với nhau tạo thành một đường, cần ít nhất hai điểm để vẽ thành một đường và cần ít nhất một đường để hình thành nên một vùng.

Trong thuật ngữ của luật hàng hải, các điểm có thể được gọi là điểm cơ sở hoặc điểm tiếp giáp 3 bên (trijunction points) (bỏ qua những vấn đề khác nữa). Định nghĩa về đường khá phức tạp, từ các khái niệm chung chung như đường cơ sở, đường thẳng, đường xác định điểm tận cùng được đồng ý[1] (agreed closing lines) và đường lạch sâu (đường tưởng tượng cắt dọc theo phần sâu nhất của một luồng nước chính, ví dụ, của một con sông) cho đến các khái niệm cụ thể ví dụ như đường Xanh chia cắt vùng Đông và Tây Beirut của Lebanon, hoặc đường Mogadishu (hình thành từ đầu năm 1993) hoặc đường Attila chia cắt vùng Cypriot của Thổ Nhĩ Kỳ trên phần phía Bắc của đảo Síp khỏi vùng Nam Cypriot của Hy Lạp, hoặc là đường Giới hạn Phía Bắc (North Limit) đơn phương quyết định giữa Bắc và Nam Triều Tiên, hay là Đường Kiểm Soát ở vùng tranh chấp Kashmir (giữa Ấn Độ và Pakistan). Các đường có thể trở thành vùng biển ở một dạng nào đó: ví dụ, Công ước Liên Hiệp Quốc Lần Thứ Ba vào tháng 4 năm 1982 về Luật biển (dưới đây gọi là Luật biển 1982) không quy định về vùng ven bờ biển (coastal zone) và điều này cho thấy Luật biển 1982 có những chỗ chưa rõ ràng và có lỗ hổng về luật pháp.

Bài báo này tập trung phân tích đường chữ U của Trung Quốc. Đây vốn là đường ranh giới biển của Trung Quốc trên biển Nam Trung Hoa (NTH), vùng nước lớn thứ 5 trên thế giới và giao diện với các vùng nước tính từ bờ bốn nước Đông Nam Á (ĐNA). Phần đầu của bài này đề cập đến các ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của đường chữ U cũng như xem xét các điểm đáng quan tâm khác còn chưa rõ ràng. Phần hai nghiên cứu về mối quan hệ giữa đường chữ U và các khái niệm hàng hải khác.

Trước tiên, điều cần nhấn mạnh là theo quan điểm của tác giả bài này, trong bối cảnh thiếu vắng một chính phủ toàn cầu hiệu quả để thực thi các luật quốc tế và trừng phạt nước vi phạm, các hình thái chính trị khác nhau sẽ chi phối vũ đài quốc tế. Chiến tranh cũng có thể xảy ra như là một hệ quả của đấu tranh chính trị. Nhiều chuyên gia về luật quốc tế đã thừa nhận rằng ý chí chính trị là cần thiết để giải quyết các tranh chấp luật pháp trên biển, đặc biệt trong bối cảnh là không có một sự nhất quán về cách hành xử của con người trong lĩnh vực này. Vì thế, người ta lập luận rằng thay vì áp dụng luật biển, các hình thức vũ lực (chính trị và/hoặc quân sự) sẽ quyết định số phận của các điểm, đường và vùng tranh chấp trên biển; và điều này sẽ là nguyên tắc trong ít nhất vài thập kỉ tới.[2]

Một ví dụ điển hình đó là Huangyan Dao (cũng được biết tới là đảo Dân chủ hay Scarborough), là một phần của nhóm đảo Trung Sa (Macclesfiend Bank).[3] Cho đến gần đây, số phận hòn đảo này không còn quan trọng đối với hầu hết các chuyên gia Trung Quốc và nước ngoài vì nhóm đảo Trung Sa đã bị chìm (theo quan sát của Chiu Hungdah) và vì thế theo luật quốc tế, cả Trung Quốc và Đài Loan không thể nói là họ sở hữu nó.[4] Tuy vậy, việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền với Huangyan Dao, và gộp nó vào nhóm đảo Trung Sa [Việt Nam gọi là Trường Sa] vẫn bị coi là một sự gian lận. Theo quan điểm của Trung Quốc việc này cũng tương tự như trường hợp Mỹ chiếm đảo Hawaii. Tuy vậy trường hợp Huangyan Dao cần được xem xét trong sự liên quan đến vấn đề đường chữ U sẽ được đề cập chi tiết dưới đây.



Đường chữ U

Trước hết, tôi nói về căn nguyên của của đường chữ U, được Hu Jinjie, một người chuyên vẽ bản đồ người Trung Quốc, vẽ lần đầu tiên vào tháng 12 năm 1914, sau khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa giành lại nhóm đảo Dongsha (hay Pratas) từ đế quốc Nhật vào tháng 10 năm 1909 (theo lịch âm Trung Quốc). Các bản đồ của Trung Quốc xuất bản từ giai đoạn những năm 1920 và 1930 sau đó đều dựa trên bản vẽ của Hu về vùng biển này.[6]

Đường chữ U trên biển Nam Trung Hoa (NTH) được chính thức vẽ bởi Bai Meichu, một viên chức thuộc nhà nước Cộng hòa Dân Quốc (Republic of China)[7], vào tháng 12 năm 1947. Các vùng phía bên trong đường này được coi là các vùng nước lịch sử (historic waters). Lập luận của Bai về việc vẽ đường này không thực sự rõ ràng, mặc dù có một đường tương tự xuất hiện trên New China’s Construction Atlas do ông biên tập vào giữa những năm 1930.[8] Một điều cũng chưa rõ đó là liệu Bai có đủ kiến thức về luật hàng hải quốc tế trong thời điểm ông vẽ hay không. Tuy vậy có nhiều khả năng là ông chủ yếu bị thôi thúc bởi bản năng sở hữu sơ khai (nghĩa là như người ta thường nói quan điểm là 9 phần 10 của luật pháp). Thực tế là Bai nhận rằng người Pháp đã chiếm đóng (từ tháng 7 năm 1933) sáu hòn đảo trên nhóm đảo Nansha, Nam Sa (hay Spratly) [tức là Hoàng Sa theo Việt Nam] trên biển Nam Trung Hoa và anh ta nói rằng hoặc có thể cho là cảm thấy chủ quyền của Trung Quốc cần phải được bảo vệ.[9] Hiệp định tháng 6 năm 1887 giữa nhà Thanh và Pháp phân chia vịnh Bắc Bộ (Beibu) (hay Tonkin; kéo dài thêm về phía nam của vịnh Bắc Bộ để gộp thêm vào tất cả các đảo ở Biển NTH) cũng có thể đã ảnh hưởng đến ý đồ của Bai nhằm bảo vệ chủ quyền của Trung Quốc.[10] Tuy vậy, Bai chỉ đề cập đến nhóm đảo Nam Sa trong atlas của mình hoặc trên bản đồ của nhà nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và không tham chiếu tới bất cứ tài nguyên động thực vật nào trong khu vực đường chữ U. Ông cũng không hề đề cập tới không phận phía trên miền biển chữ U của Trung Quốc.

Bai có thể chỉ quan tâm về chủ quyền của Trung Quốc, nhưng có thể dựa vào lịch sử và văn hóa để giải thích tính chất đường anh ta vẽ. Trung Quốc (cho đến những thập kỉ gần đây) đã có xu hướng hướng vào lục địa, tự kỷ và vì thế muốn xây dựng những “bức tường” xung quanh mình.[11] Việc xây dựng những bức tường này là một biện pháp phòng vệ nói chung để đảm bảo sự bình yên tâm trí trong bối cảnh Trung Quốc, vốn không xa lạ gì với các cuộc nội chiến, đang ngày càng trở nên thân thiện với các nước.[12] Tôi sẽ nói kĩ hơn về sự xây dựng các bức tường trong văn hóa Trung Quốc dưới đây.

Ví dụ gần gũi nhất về bức tường là ở góc độ cá nhân hay gia đình. Một trường hợp điển hình đó là siheyuan – Tứ Hòa Viên (một cái sân trong với các ngôi nhà ở xung quanh tạo thành một hình tứ giác) thời nhà Minh và nhà Tần.[13] Một ví dụ dễ thấy ở góc độ quốc gia là Vạn lý trường thành. Harry Ying Cheng Kiang mô tả Vạn lý trường thành (hay Willow Wall) như là các “mốc” biên giới của Trung Quốc.[14] Các hình thành địa lý tự nhiên cũng tạo thành các bức tường: các sườn núi ở phía Đông bảo về vùng Trung Nguyên chiến lược (vùng đồng bằng miền trung Trung Quốc), mà trong lịch sử khi kiếm soát được vùng này sẽ đảm bảo việc kiểm soát Trung Quốc. Tương tự như vậy, vùng biển Bột Hải,[15] Hoàng Hải và Đông Hải cũng đóng vai trò là các rào chắn tự nhiên, tránh được kẻ “mọi rợ” tiến vào vùng đất thuộc các bờ biển Đông Nam Trung Quốc đại lục. Vì thế đường chữ U có thể coi là một đường ở phía Nam tương tự với Vạn lý trường thành ở phía Bắc, trải dài bao cả đảo Zengmu Ansha (hay James Shoal, bao gồm cả các bờ biển chìm) và trở thành vùng lãnh thổ xa nhất về phía Nam của Trung Quốc. Có thể lập luận rằng sự xuất hiện muộn màng của bức tường phía Nam này là do Trung Quốc trước đó vốn không tự coi mình là một quốc gia có sức mạnh về hàng hải (a maritime power) và cũng như do chưa có những đe dọa từ phía Nam cho đến khi cách mạng công nghiệp nổ ra và người châu Âu mở rộng thuộc địa.

Điều đáng nói ở đây là việc Trung Quốc vẽ đường chữ U trên Biển NTH là một hành động đối phó đón đầu (pre-emptive act) những bất ổn trong tương lai, và hơn nữa là hành động trước khi các thực thể quốc gia khác (bao gồm cả đế chế Anh) thực sự kiên quyết đặt ra để giải quyết các vấn đề chủ quyền trên biển Nam Trung Hoa. Không có bất cứ một thực thể quốc gia hay thực thể chính trị nào phản đối bằng đường ngoại giao khi Trung Quốc vẽ đường chữ U này. Vì thế, đường chữ U có thể lập luận là nó có một vị thế tốt hơn, chứ không chỉ đơn giản là yêu sách của Trung Quốc, và trong thực tế, ngụ ý của nó bao gồm cả chủ quyền của Đài Loan và Trung Quốc đại lục.

Tuy vậy, một số nước đã bắt đầu thách thức quyền sở hữu của cả Trung Quốc lẫn Đài Loan đối với vùng Biển NTH. Quyền sở hữu này được hiểu là quyền sở hữu các vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế (kể cả vùng đặc quyền khai thác đánh bắt cá) và thềm lục địa v.v. Chỉ từ khi sự việc này bắt đầu thì các học giả mới đề cập đến đường chữ U như là yêu sách của người Trung Quốc hoặc là yêu sách lãnh thổ (an areal claim).[16] Về các thách thức này, tôi sẽ mở rộng phân tích của mình về bức tường hình chữ U theo quan điểm của cả Trung Quốc và Đài Loan.



Các khía cạnh tích cực của đường chữ U

Có một số khía cạnh tích cực của đường chữ U góp phần làm tăng tính thuyết phục trong lập luận của Đài Loan và Trung Quốc. Thứ nhất, đường chữ U không phải là dụng ý của Trung Quốc trong việc biến biên giới quốc tế thành biên giới quốc gia.[17] Người Hoa vốn không mấy thích thú với việc trở thành bá chủ về hàng hải.[18] Trong khi sự thật là Trung Quốc đã thiết lập Lực lượng Kiểm soát Hàng hải Biển phía Nam (South Sea Marine Surveillance Force) vào tháng 5 năm 2000, mục đích của lực lượng hải quân này là bảo vệ các quyền lợi của Trung Quốc và tìm hiểu các nguồn tài nguyên biển và hải sản trên Biển NTH. Vào tháng 11 năm 2002, Trung Quốc đã kí quy tắc ứng xử với mười nước ĐNA nhằm tránh leo thang căng thẳng đối với vấn đề nhóm đảo Trung Sa trên Biển NTH. Sau đó cuối tháng 6 năm 2003, Trung Quốc đã kí Hiệp ước về quân sự và hợp tác với các nước ĐNA, một quy trình [giải quyết] tranh chấp do ASEAN đưa ra vào tháng 2 năm 1976, theo đó Trung Quốc đồng ý không “tham gia vào bất kì hành động nào tạo nên mối đe dọa về ổn định chính trị và kinh tế, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ” của các nước tham gia kí kết. Cùng với việc đó cũng phải lưu ý rằng trước Trung Quốc, không có bất cứ một quốc gia nào khác yêu sách chủ quyền trên một vùng rộng lớn của Biển NTH và rằng lý thuyết về biển bao bọc quốc gia (state-centric closed sea) đã xuất hiện lần đầu tiên ở châu Âu, trước khi đường chữ U được vẽ ra.

Thứ hai, đường chữ U đóng vai trò quan trọng trong các mối quan hệ dọc eo biển Đài Loan. Như Oran R. Young đề cập “…phong trào [cổ võ] vùng bao bọc liên quan đển khu vực biển sau thời hậu chiến rõ ràng đã cho thấy rằng việc định vùng (zonal arrangement) ngày càng được nhiều nước quan tâm”.[19] Những lợi ích tiềm tàng mà một sự dàn xếp vùng phía trong (và bao gồm) đường chữ U giữa Trung Quốc và Đài Loan sẽ là một quân bài quan trọng trong quá trình thương lượng (hoặc là trao đổi) trên bàn đàm phán.

Ở điểm này, chúng ta cần xem xét một số nguồn khác ủng hộ vấn đề đường chữ U. Ví dụ, một số vụ kiện do Tòa án Quốc tế xử trong đầu những năm 1950 và 1990 đã ủng hộ cho sự tồn tại của các vùng nước lịch sử (mà theo Trung Quốc thì nó giống với khái niệm “đường nội thủy”).[20] Các học giả không phải người Trung Quốc như Park Choon-ho[21] và Iain Scobbie và có thể là cả Greg Austin[22] đã có cùng quan điểm đối với vấn đề đường chữ U. Một số khác, như Mark J Valencia, thì không ủng hộ cho lắm. Ví dụ Valencia đã đề xuất là thiết lập Tổ chức Công quản Trường Sa (Spratly Authority) và hi vọng là Trung Quốc và Đài Loan sẽ từ bỏ đường chữ U đổi lấy việc sở hữu 51% Tổ chức này. Tuy vậy ông ta cũng đề cập đến việc chính phủ Cộng Hòa Nhân dân Trung Quốc vào tháng 5 năm 1992 cho phép Tập đoàn Creston Energy khai thác dầu thô giữa Wanan Tan (hay bãi ngầm Vanguard), và Guangya Tan (hay bãi ngầm Price of Wales) và cho rằng các bãi ngầm này, cách bờ biển Việt Nam 160 hải lý, không thể có riêng vùng đặc quyền kinh tế, điều này cho thấy ông ngụ ý rằng đường chữ U có thể có ích.[23]

Điểm thứ ba khi nói đến những mặt tích cực của đường chữ U là về mặt tương đối không vũ trang, không giống như trường hợp đường Maginot được dựng lên, có thể coi là một ví dụ trái ngược với đường chữ U.[24] Mục đích của đường Maginot là nhằm tránh sự xâm lăng của người Đức vào vùng Alsace-Loraine của Pháp. Được xây trong phạm vi vài kilomet gần biên giới (tiền) Đức Quốc xã, đường Maginot, như Anthony Kemp nói, là “hệ thống pháo đài lớn nhất và cũng có thể là cuối cùng được xây dựng,”. Nó bao gồm các đường khởi đầu nhằm ngăn cản kẻ thù, các đường chính được che bởi các chướng ngại chống tăng và người và một đường bảo vệ cuối cùng ở phía sau.[25] Đường Maginot với khẩu hiệu “Không ai qua nổi” (None Shall Pass) trở nên nổi tiếng như là biểu tượng của ý chí Pháp (và cũng như sự thất bại ê chề của nó).[26] “Ý chí Pháp” này rõ ràng không áp dụng cho trường hợp Biển NTH. Đường chữ U làm tăng cường quyền sở hữu của Trung Quốc và Đài Loan đối với các nguồn động thực vật trong phạm vi đường này và ngụ ý rằng các nước khác phải được phép của Trung Quốc trước khi tiếp cận các nguồn lực đó; rõ ràng đây không phải là một “Vạn lý trường thành đe dọa”.[27]



Các khía cạnh tiêu cực của đường chữ U

Việc thiếu tính liền mạch của đường chữ U cũng là điểm yếu, đặc biệt từ quan điểm của các nước đề xuất. Về mặt địa lý, có những ”đoạn hở” (breathing spaces) hoặc là “lối vào” giữa chín phân khúc của đường này (theo bản vẽ của Trung Quốc) hoặc là nằm trên các đoạn điểm chấm (dotted line) (theo bản vẽ của Đài Loan), mà theo đó các tàu thuyền hải quân hoặc phi hải quân có thể đi lại không bị ngăn cản. Nói cách khác, đường chữ U chỉ không phải là một đường liền mạch mà cũng không phải là một bức tường chắn thật như là đường Maginot hay thậm chí như là bức tường Berlin, vốn bao gồm “bê tông, dây thép gai, đài quan sát, mìn, bẫy súng máy và đường tuần tra dành cho lính bảo vệ biên giới và chó tuần tra”.[28] Cũng có thể các quá trình địa chất (ví dụ như sự xuất hiện của đảo mới, hay là sự bồi đắp tự nhiên) cuối cùng sẽ lấp đầy các khoảng trống, nhưng trong lúc chờ đợi, việc thu hẹp các khoảng trống này cũng là một vấn đề đối với Trung Quốc. Các chiến lược khả thi bao gồm việc thiết lập các vùng đặc quyền mới (có thể là dưới dạng khu bảo vệ hàng hải) giữa các phân khúc này.[29]

Trong quá khứ Trung Quốc đã sử dụng các chiến lược bao gồm việc thiết lập các khu quân sự trên Biển NTH, và (ngoại trừ một số vụ đụng độ nhỏ giữa các bên khác) Đài Loan là nước đầu tiên sử dụng vũ lực để đuổi các cư dân Philipine (gồm có Tomas Cloma và tùy tùng của ông) khỏi đảo Taiping (hay Itu Aba) trong đầu những năm 1960 (hoặc có thể là giữa những năm 1950).[30] Việc sử dụng vũ lực của Trung Quốc là khó tránh khỏi một khi họ cho rằng một phần lớn của Biển NTH là “hồ Trung Quốc”, tương tự như “các đường nội thủy”. Đường chữ U không chỉ có mặt trên vùng biển phía Nam mà còn cả phía Đông của Trung Quốc, bởi vì như một số học giả và chuyên gia nhận định “rất khó để định nghĩa về biển một cách chính xác, trừ khi những vùng biển đó đã hoàn toàn bị chiếm đóng…”.[31] Ví dụ, Sang-Myoon Rhee và James Mac Aulay cho rằng Biển NTH “vẫn được xem như là “thuộc về” Đông Nam Á”.[32] Trong trường hợp cực đoan, sự khác biệt này có thể chấm dứt khi hai bên của eo biển Đài Loan bất ngờ tuyên bố đóng các khe hở của đường chữ U và tạo thành một đường biên giới liền mạch để xóa đi sự mù mờ.[33]

Trong thực tế bối cảnh cực đoan nhất này chưa xảy ra, mà thay vào đó là các thay đổi về mặt kĩ thuật trong quá khứ. Hình thức thay đổi này không có gì lạ, và cũng không chỉ giới hạn đối với riêng Trung Quốc. Trên vùng Biển NTH, Philipine đã tham gia vào việc vẽ lại các đường biên giới trên bản đồ.[34] Xa hơn, Liên Xô cũ cũng đã từng tranh cãi thẳng thắn với Na Uy về biển Barents, đưa ra những “trường hợp đặc biệt” liên quan đến đường biên giới là đường cắt theo kinh độ chạy từ điểm cuối cùng của đường biên giới hiện tại ở Varangerfjor đến cực Bắc, nhưng có điều chỉnh lệch về phía Đông trên biển Svalbard nhằm tránh cắt qua vùng này theo định nghĩa của Điều khoản 1 của Hiệp ước Svalbard năm 1920.[35] Gần hơn nữa, các thay đổi về kĩ thuật đối với đường biên giới biển bao gồm cả việc chia cắt về giao thông được dựng lên bởi các nước có bờ biển quanh eo Malacca.[36] Ngay cả các tổ chứ phi chính phủ như Hội đồng Hợp tác An ninh Châu Á Thái Bình Dương (Council for Security Cooperation) theo hướng thứ hai tức là trên bình diện không chính thức đã tạo ra những gợi ý hành xử (guidelines) cho việc hợp tác về hàng hải trong khu vực.

Các biện pháp mà Trung Quốc sẽ thực thi nhằm giải quyết vấn đề khe hở trên đường chữ U sẽ phụ thuộc vào các đánh giá của họ đối với những hệ quả có thể xảy ra. Trung Quốc hoàn toàn ý thức rằng Mỹ sẽ chống đối nếu như các đoàn tàu thuyền của Mỹ và máy bay của Mỹ cũng như các đồng minh của Mỹ bị gây trở ngại. Các chiến lược khả thi trong tương lai có thể bao gồm việc thiết lập “trạm thu phí” (toll booth) (do cả Trung Quốc và Đài Loan thực hiện) trong các vùng hổng hoặc ở mức độ ít đe dọa hơn là tạo ra những công viên trên biển hoặc sân chơi trên biển.[37] Các đảo giả hoặc trạm nghiên cứu cũng có thể được thiết lập. Các hành động nói trên có thể được giải thích như là những biện pháp cần thiết, bao gồm cả trừng phạt về tài chính, nhằm ngăn chặn và giảm thiểu nguy cơ ô nhiễm do tàu thuyền gây ra như là dầu loang hoặc rò rỉ dầu trong khu vực đường chữ U.[38]

Thứ hai, đường chữ U đem đến quyền (và ưu tiên) cho Đài Loan và Trung Quốc, nhưng nhiều khả năng nó lại tạo ra gánh nặng, đặc biệt kể từ tháng 5 năm 1987 việc Trung Quốc lần đầu tiên cắm cờ trên quần đảo Nam Sa có nghĩa là Trung Quốc đại lục có trách nhiệm chính trong việc việc bảo vệ chủ quyền của toàn bộ Trung Quốc. Trách nhiệm của Trung Quốc gần đây đã tăng lên khi ( từ tháng 2 năm 2000) Lực lượng Kiểm soát Hải biên Đài Loan (Taiwan’s Coast Guard Command) thay vì Bộ Quốc phòng chỉ trông coi đảo Taiping Dao, và trút gánh nặng bảo vệ nhóm đảo Nam Sa cho Trung Quốc. Các học giả và chuyên gia người nước ngoài cũng không giúp cho tình hình sáng sủa hơn, kể từ tháng 4 năm 1992 sau sự sụp đổ của Liên Xô cũ, khi họ đề xuất quan điểm về “mối đe đọa Trung Quốc” (China threat).[39] Các nhà quan sát đó dường như họ đã quên mất rằng Việt Nam đã xây dựng những hòn đảo nhân tạo trên bãi ngầm Wumie (Pigeon hoặc Tennet)[40] và lo ngại một Trung Quốc hung hăng và muốn bành trướng sẽ bắn những phát súng đầu tiên trên Biển NTH.[41] Thực tế là Trung Quốc đã cam kết bỏ qua những bất đồng và cam kết tham gia vào sự phát triển vì lợi ích chung của khu vực. Hơn nữa, những người giải thích cho “mối đe dọa Trung Quốc” có vẻ như đã bỏ qua những tài liệu như là Quy tắc Ứng xử kí kết giữa Trung Quốc và Philipine tháng 8 năm 1995, theo đó (Điều khoản 2) tuyên bố rằng hai bên cần thực thi những nỗ lực nhằm tránh sử dụng vũ trang hoặc là tránh đe dọa sử dụng vũ trang để giải quyết bất đồng. Khi Trung Quốc mở rộng việc xây dựng các các cấu trúc bê tông làm chỗ trú cho dân đánh cá từ tháng 10 năm 1998 đến tháng 2 năm 1999 (có thể cho phép việc đặt căn cứ hải quân và không quân), và trong tháng 2 năm 1995, khi các cột mốc được đặt trên bãi ngầm Meiji Jiao (mischief reef), một số nhà phân tích đã cáo buộc Trung Quốc đang dần dần xâm phạm về mặt quân sự, dù rằng trước đó, Phililpine đã được thông báo trước.[42] Điều này còn chưa kể đến khó khăn về hậu cần mà Giải phóng Quân Trung Quốc (PLA) sẽ gặp phải để phục vụ số quân lớn hơn trong vùng. Thí dụ như khó tin là có đủ nước lọc đã khử muối để cung cấp liên tục từ tỉnh Hải Nam tới các đảo mà PLA chiếm đóng. Với cái gọi là “sự hung hăng Trung Quốc”, các nhà phân tích cũng phải xem xét một thực tế là Trung Quốc chưa bao giờ ngăn chặn các hoạt động diễn tập hải quân vào tháng 6 năm 1983 và vào tháng 4 năm 1999 có sự tham gia của Australia, New Zealand, Anh, Singapore và Malaysia theo Thỏa thuận Quốc phòng 5 Bên, “một thỏa thuận quân sự theo đó Australia, New Zealand và Anh sẽ cùng nhau “tham vấn” nếu như Singapore hoặc Malaysia bị tấn công và sẽ quyết định các biện pháp được thực hiện, ở mức độ hợp tác hay riêng rẽ”.[43] Xét về sức mạnh thực tế thì có thể biện luận là Trung Quốc không có khả năng hành xử quyền phủ quyết đối với các hành động quân sự này.

Yếu tố tiêu cực thứ ba của đường chữ U liên quan đến vấn đề phân chia lãnh thổ bên trong đường này giữa Đài Loan và Trung Quốc. Điều này phụ thuộc vào liệu họ có đồng ý hình thành một liên bang (với các đặc điểm Trung Quốc) như một số người cổ võ,[44] hay là đối xử theo kiểu “một chính quyền đặc biệt đối với một chính quyền” (special state to state) (như đã thực hiện vào tháng 7 năm 1999) hay là dưới những tuyên bố như “chỉ có một quốc gia ở mỗi bên của eo biển Đài Loan” (do Đài Loan tuyên bố vào tháng 8 năm 2002). Không có bên nào ở hai bên eo biển Đài Loan tuyên bố về các tọa độ địa lý trong phần sở hữu của họ (nhiều khả năng là họ không thống nhất với nhau).



Các điểm quan tâm khác

Andrew J Nathan và Robert S Ross quan sát rằng “Vạn lý trường thành là biểu tượng của sự yếu thế vì nó báo hiệu nguy cơ bị xâm lăng và cũng là biểu tượng của sức mạnh vì nó thể hiện tính siêu việt trong kinh tế và văn hóa và khả năng chống đỡ sự xâm lược với một kỳ công về kỹ thuật và tính cảnh giác”.[45] Tính nước đôi này cũng áp dụng cho vấn đề đường chữ U như là các đường vẽ trên cát mang tính tâm lý, như Cossa viết “…Trong khi tất cả các bên đều hiểu rõ rằng có những “đường trên cát” là đường vạch không nên bước qua, nhưng phần lớn các đường này không được định nghĩa một cách rõ ràng. Nước đôi về chiến lược liên quan đến phản ứng có thể xảy ra đối với hành động thù địch có thể có ích, nhưng nước đôi về chiến thuật liên quan đến đánh giá cái gì có thể coi là hành động khiêu khích có thể đưa tới những kết quả chế người. Và cần tranh luận thẳng thắn hơn…”.[46] Cossa cũng nói rằng “một số chuyên gia an ninh ĐNA bày tỏ không dấu diếm việc cần có những động thái mạnh hơn với Trung Quốc, và kể cả sẵn sàng dùng vũ lực chống vũ lực”.[47] Các học giả như Kemp, tuy vậy, lại nhắc nhở rằng luôn có tuyến cùng tồn tại: tuyến thực và tuyến tuyên truyền.[48] Vì vậy có nhiều khả năng là đường cơ sở và các đường liên quan đến đường cơ sở của Trung Quốc là tuyến thực, trong khi đường chữ U chỉ tồn tại nhằm mục đích chính là tiêu thụ nội địa ở Trung Quốc, đặc biệt là làm nguôi thành phần quá khích.

Thứ hai, không có một tọa độ địa lý cố định cho đường chữ U, trừ vĩ độ Bắc 4. Điều này đem lại cho Trung Quốc một độ tự do nhất định để thay đổi quan điểm. Họ có thể quyết định giảm diện tích vùng phía trong đường chữ U, điều này có thể xoa dịu những lo lắng của các nước cũng có yêu sách về mối đe đọa từ Trung Quốc. Mặt khác, Đài Loan và/hoặc Trung Quốc đại lục cũng chọn cách mở rộng đường chữ U, tận dụng “…sự thiếu rõ ràng và chung chung của luật quốc tế về việc phân chia ranh giới hàng hải” có nghĩa là “ luật quốc tế không mô tả một cách chính xác ranh giới này phải đặt ở đâu”.[49] Nếu điều này xảy ra, chúng ta chắc chắn một điều là các nước ĐNA sẽ trong tình trạng báo động nếu như họ không chống đối một cách thẳng thừng. Liên quan đến việc thu hẹp và mở rộng đường chữ U, điều đáng lưu ý là Trung Quốc đã bỏ đi hai đoạn trên vịnh Bắc Bộ trong 11 đoạn xác định lúc đầu của đường chữ U khi nổ ra tranh chấp.[50] Nếu như Đài Loan và/hoặc Trung Quốc mong muốn mở rộng đường này, họ sẽ chọn điểm kết thúc ở các tỉnh khác của Trung Quốc như là Triết Giang (Zhejiang) thay vì ở huyện Yilan thuộc Tỉnh Đài Loan. Tương tự như vậy, cả hai bên của eo biển Đài Loan sẽ bao gồm hoặc cắt một vài phân đoạn gần Zengmuansha khiến cho đường chữ U trông sẽ khác đi.

Thứ ba, cho đến nay, không chỉ Trung Quốc mà cả Đài Loan, vốn không có cơ hội tham gia vào việc kí kết, không thể hoàn thành mọi nghĩa vũ của họ theo luật biển 1982. Luật này (khi có hiệu lực) giảm các vùng biển cả (high seas) đi 40%,[51] tăng vùng thuộc về các nước có bờ biển, nhưng lại tạo ra những ràng buộc về hoạt động khá nặng nề cũng như các nghĩa vụ tài chính.[52] Nhiều nước đã thất bại trong việc thực thi các quy định này. Ví dụ, cả Đài Loan và Trung Quốc đều không thể kiểm soát Biển NTH trong 24 giờ một ngày (mặc dù họ có thể sử dụng vệ tinh để kiểm soát các hoạt động trên biển).

Thứ tư, dân số các vùng nước phân định bởi đường chữ U tương đối thưa thớt. Thực tế là khi đường này xuất hiện lần đầu tiên, có thể nói rằng nó là một “pháo đài trống”. Dân số trong “pháo đài trống” này tăng rất chậm.[53] Sau chiến tranh thế giới thứ 2, Hải quân Đài Loan đã đã đem lính đến đảo Taiping Dao. Nhưng mãi đến vài thập kỉ sau, tháng 8 năm 1988, lính thủy đánh bộ Trung Quốc mới xây đại bản doanh, trung tâm chỉ huy và đài quan sát hải dương trên bãi đá ngầm Yong shu Jiao (hay còn gọi là Fiery Cross hay N.W Intestigator). Đầu năm đó (tháng 5), Trung Quốc đã thiết lập các trạm quan sát, tất cả đều là ở những vùng thủy triều thấp trên bãi đá ngầm Chiqua Jiao (Johnson), Zhubi Jiao (Subi), và Meiji (cái này lớn hơn pháo đài trên bãi đá Yongshu).[54] Mặc cho những hoạt động gần đây, sự xuất hiện của Trung Quốc trên Biển NTH vẫn khá hạn chế và Trung Quốc cũng nói rõ rằng họ không sử dụng bãi đá Meiji cho mục đích quân sự.[55] Trường hợp này có thể liên hệ đến kinh nghiệm của Philipine vào những năm 1990 khi Đài Loan yêu cầu hai lạch đường tầu đi từ Philipine cho phép tàu đánh cá của Đài Loan rút ngắn chặng đường đến Biển NTH. Tuyến đường này, theo Meliton Juannico, rõ ràng là thuộc hải phận của Philipine, dù là áp dụng đường cơ sở, thuyết về quần đảo hay là luật biển 1982. Nói cách khác, Philipine cho rằng họ có toàn quyền (chứ không chỉ đơn giản là quyền tài phán) đối với hai tuyến đường này. Tuy vậy, một học giả Philipine sẽ không hiểu được tại sao nước này lại cho phép các ngư dân Đài Loan đi qua hải phận của họ.[56]



Mối quan hệ giữa đường chữ U và các khái niệm hàng hải khác

Phần này đề cập đến mối quan hệ giữa đường chữ U của Trung Quốc và các khái niệm hàng hải bằng cách giải thích về các điểm, đường, và khu vực. Nhìn từ trên xuống (từ không trung hay là ngoài vũ trụ), các đảo và thậm chí là quần đảo trở thành các điểm hoặc chấm. Một số nhà nghiên cứu thậm chí gọi các đảo (islands), đảo nhỏ (islets), bãi đá ngầm (reefs), đảo san hô (atolls) và bãi cát thấp (cays) trên Biển NTH là những cứt ruồi. Đường được hình thành từ hai điểm nối với nhau. Hai loại đường thường được đề cập đến là đường cơ sở và đường ranh giới hàng hải (ví dụ như đường trên vịnh Bắc Bộ). Khái niệm về vùng (phân định các vùng bên trong đường) đặc biệt liên quan đến việc phân chia biển cùng với sự tham gia của các yếu tố sau: chỉ kể một số như vùng (biên giới) quân sự hoặc là an ninh, vùng biển quốc phòng,[57] vùng có thể đặt chất nổ, vùng đánh cá, vùng trung lập, vùng bảo vệ cấm khai thác,[58] vùng thăm dò,[59] vùng xám[60] [chưa xác định rõ], vùng đệm,[61] vùng an toàn,[62] lối đi an toàn,[63] vùng bến đỗ cách ly,[64] vùng phi quân sự, vùng cấm võ khí hạt nhân, vùng hòa bình, tự do và trung lập, vùng sử dụng đặc biệt,[65] vùng hải dương chung.[66] Như đã nói ở phần trước, các đường bao quanh khu vực này (dù là vùng đặc quyền kinh tế hay vùng tiếp giáp) có thể được so sánh như là những bức tường bảo vệ khác nữa của Trung Quốc.[67]

Vào tháng 5 năm 1996, Trung Quốc đã thông qua luật biển 1982 và tuyên bố đường cơ sở thẳng trong các vùng như là nhóm đảo Tây Sa (hay Paracel)[68] [Hoàng Sa theo Việt Nam], thừa nhận rằng “…sự nhạy cảm về chính trị của một số vấn đề liên quan đến biên giới [theo Công ước biển 1982] buộc những nước tham gia trong một số trường hợp phải đánh đổi sự chắc chắn lấy tính linh hoạt”.[69] Bốn năm sau sự kiện này, Quốc hội Trung Quốc đã ban hành “Luật của Nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về hải phận và vùng tiếp giáp” và, hai năm sau, tháng 6 năm 1998, “Luật Nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Vùng Đặc quyền Kinh tế và Thềm Lục địa” được ban hành. Những hành động này đã cho thấy khả năng các đường cơ sở trên nhóm đảo Nam Sa sẽ được vẽ (lại). Vì vậy vào tháng 2 năm 1999, Đài Loan công bố đường cơ sở của mình dựa trên đảo Huangyan Dao, và họ đã kí gửi các bản đồ và tọa độ liên quan ở Liên Hiệp Quốc. Tuy vậy chúng ta sẽ thắc mắc đối với Trung Quốc đâu sẽ là lí do để họ vẽ (lại) đường cơ sở khi mà đường chữ U đã tồn tại.[70]

Một trong những lí do chính mà Trung Quốc quan tâm đến đường cơ sở đó là tính không chắc chắn gây ra Luật Biển 1982 đã thất bại trong việc giải quyết các tranh chấp về đảo và biên giới hàng hải, quyền tự do đi lại của naval passage, cũng như ô nhiễm trên biển (among other things). Trong bối cảnh không chắc chắn này, Trung Quốc , vừa vẽ các đường cơ sở vừa như bảo vệ quan điểm về đường chữ U, đã áp dụng hình thức bảo hiểm kép (double insurance) một cách hiệu quả để giảm thiểu các mất mát (có thể có). Khái niệm bảo hiểm kép trong thực tế tồn tại trong bảo hiểm hàng hải.[71] nếu một hợp đồng bảo hiểm không đáp ứng được, thì một hợp đồng khác sẽ được sử dụng, đặc biệt là liên quan tới các “chính sách biển linh hoạt” Luật Biển 1982 đề ra.[72]

Một lí do khác mà Trung Quốc quan tâm đến đường cơ sở có lẽ được mô tả rõ nhất khi đề cập đến một đường khác. Từ tháng 2 đến tháng 7 năm 1945, đường oder-neisse (những con sông), do Franklin Roosevelt, Winston Churchill và Joseph Stalin xây dựng tại Yalta, đã xác định các lãnh thổ Đông Đức nằm dưới quyền của Ba Lan sau khi kết thúc thế chiến thứ 2. Nó cũng được mô tả là “đường an ninh tự nhiên”[73] sau thế chiến 2 và cũng là một hình thức đền bù cho Liên Xô cũ trong việc đánh đuổi Đức Quốc xã.[74] Tương tự như vậy, việc thể chế hóa đường cơ sở cũng là một hình thức đền bù cho những gì mà Đài Loan và Trung Quốc đại lục đã mất trong phần đường chữ U trong những thập kỉ qua. Nó cũng là một dấu hiệu cho thấy rằng Trung Quốc sẽ rất cứng rắn bảo vệ các quyền lợi quốc gia của họ trong những khu vực như là khu đặc quyền kinh tế.

Bên cạnh những lí do này, một điều cũng cần lưu ý đó là tuyên bố của Trung Quốc về vị trí của đường cơ sở trên Biển NTH không có nghĩa là Trung Quốc tạm rút lui chỉ vì họ đã không thể hoàn toàn thuyết phục các nước ĐNA khác cũng có yêu sách rằng phần phía bên trong đường chữ U thuộc về cả hai phía của eo biển Đài Loan. Trung Quốc rõ rằng nhận thức được rằng “các tranh chấp biên giới luôn đem lại lợi ích cho luật sư; thường xuyên đem lại lợi ích cho người giám định; và không bao giờ mang lại lợi ích cho người sở hữu”[75] và họ sẽ không ra tòa trừ khi điều đó là rất cần thiết. Không thể nói rằng không có sự khiêu khích ở đây. Một số nước có yêu sách đã cố ý toàn bác bỏ quyền của Trung Quốc đối với đường chữ U, họ lập luận rằng (như Prescott nói) “có thể tới 10 biên giới song phương tiềm năng xung quanh các bờ của Biển NTH nhưng chỉ có 5 trong số đó là được vẽ ra và không có cái nào hoàn chỉnh cả”.[76] Một trong số những nước có yêu sách phản đối là Việt Nam (bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc vào tháng 11 năm 1991). Trước khi Sài Gòn giải phóng vào tháng 4 năm 1975, Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc thí dụ đối với nhóm đảo Nam Sa. Tuy vậy, sau khi tiếp quản miền Nam Việt Nam quan điểm của họ đã thay đổi đột ngột. Vào cuối năm 1975, một bản đồ lãnh thổ mới của Việt Nam thống nhất hai miền Bắc Nam đã được xuất bản trong đó bao gồm (và lần đầu tiên) cả nhóm đảo Nam Sa và Tây Sa.[77] Các nước khác thì sử dụng Luật Biển 1982 để đòi nhượng bộ từ phía Đài Loan và Trung Quốc.[78]

Để xác định quan điểm của Trung Quốc trong vấn đề đường chữ U, và phản bác những cáo buộc cho rằng Trung Quốc đang bành trướng, chúng ta cần phải xem xét một số trường hợp trong đó các thực thể chính trị hoặc quốc gia cũng có thể coi là có hành vi bành trướng. Đầu tiên là sự tranh cãi giữa lý thuyết mare clausum (closed sea, biển đóng) được John Selden ủng hộ, và lý thuyết mare liebrum (open sea, biển mở) được Hugao Grotius đưa ra. Cuối cùng khái niệm sau đã thắng thế, nhưng không phải là không có những nhượng bộ đáng kể đối với lý thuyết đầu về quyền đối với các khu vực bờ biển, như Johnston viết, vào cuối thế kỉ 18 “phần lớn các nước phương Tây, và tất cả các thế lực đang thắng thế, đều đồng ý xem các đặc quyền và độc quyền (special or exclusive rights) đối với vùng biển gần bờ là một vấn đề thuộc chủ quyền quốc gia (national entitlement), xuất phát từ khái niệm về chủ quyền và được công nhận bởi hư cấu pháp lý về lãnh thổ (legal fiction of territoriality)”.[79]

Ví dụ thứ hai liên quan đến đường cơ sở, mà phần lớn chúng không được vẽ một cách chính xác hoặc, ít nhất, là vẽ ra một cách đơn phương. Ví dụ Thái Lan đã phản đối đường cơ sở mà Việt Nam vẽ. Đây là một đường thẳng trừ phần tiếp giáp với bờ biển Campuchia và Trung Quốc.[80]

Vị trí của Mỹ trên Biển NTH cũng có thể xem là ví dụ thứ ba. Vào tháng 5 năm 1995, Bộ Ngoại giao Mỹ đã nhắc lại tuyên bố chính thức về quần đảo Nam Sa trong đó nói rằng Washington “rất quan ngại đối với bất cứ yêu sách biển nào, hay các việc hạn chế hoạt động hàng hải nào trên Biển NTH không nhất quán với luật quốc tế, bao gồm cả Luật Biển 1982“.[81] Điều thú vị là Mỹ đề cập đến cả luật quốc tế và luật Biển 1982, vì điều này có vẻ như sẽ là yêu sách bảo hiểm kép nhằm mục đích duy trì lợi ích quốc gia của Mỹ, đặc biệt khi mà Luật Biển 1982 không đề cập đến vấn đề chủ quyền”.[82] Như một quan chức Quốc dân Đảng ở Đài Loan nhận xét, Mỹ vẫn xem Thái Bình Dương như là “cái hồ Mỹ”.[83]

Ví dụ thứ tư liên quan đến Peta Baru (bản đồ mới) của Malaysia xuất bản vào tháng 12 năm 1979. Peta Baru không bao gồm bản vẽ khu đặc quyền kinh tế của Malaysia, một phần vì tiên đoán rằng đường cơ sở có thể được điều chỉnh lại sau Hội nghị về Luật biển 1982.[84] Tuy vậy việc Malaysia không xác nhận các tọa độ của khu vực đặc quyền kinh tế trên bản đồ nước này là một hành động cẩn trọng do cho rằng các nước khác sẽ chống lại sự xác lập các tọa độ này.[85] Việc bỏ qua các tọa độ của khu đặc quyền kinh tế rõ ràng là một hành động nhằm duy trì lợi ích quốc gia, đặc biệt khi mà trên thực tế, vào tháng 12 năm 1984, Malaysia đã thông qua luật về vùng đặc quyền kinh tế của mình theo đó (trong điều kiện không bị các nước khác phản đối) trọng tài của họ có thể sử dụng luật về khu đặc quyền kinh tế để xét xử các tàu đánh cá nước ngoài đi vào vùng đặc quyền kinh tế của Malaysia.[86]

Nếu như khái niệm bảo hiểm kép không tỏ ra thuyết phuc, người ta có thể dùng tới kết quả phân xử của Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) về sự tồn tại các đường trên biển một cách chính thức và không chính thức, hoặc trên cơ sở pháp định (de jure) hay cơ sở đương nhiên (de facto).[87] Các bên không phải là Trung Quốc có thể coi đường chữ U là không chính thức hoặc đương nhiên, và các đường cơ sở khác là chính thức hay pháp định. Như là một sự mở rộng của lập luận này, một đảo trên Biển NTH có thể được coi là nằm trong vùng nước lịch sử của Trung Quốc nhưng không thuộc vùng đặc quyền kinh tế của họ. Vì vậy nếu trong quá trình thương lượng với các nước ĐNA về một hòn đảo, Đài Loan và/hoặc Trung Quốc đại lục không đề cập về thềm lục địa (ví dụ), do vì cho rằng đảo nằm trong ở vùng nước lịch sử trong phạm vi đường chữ U.

Mối quan hệ giữa các đường cơ sở (như một ví dụ về hình thức sở hữu) và đường chữ U có thể được xem xét một cách đơn giản hơn khi xét đến tính linh hoạt của nó đối với cả hai bên của eo biển Đài Loan trong quá trình giải quyết bất đồng với các nước có yêu sách. Có thể nói rằng trong trường hợp thuận lợi, Trung Quốc sẽ thể hiện quan điểm quả quyết về đường chữ U, và khi mà nước này yếu thế về mặt chính trị và/hoặc quân sự, nó sẽ im lặng. Một ví dụ về việc sử dụng linh hoạt chính sách này là Trung Quốc đã ra lệnh cấm các ngư dân của họ không đánh bắt trên Biển NTH trong hai tháng, từ 1 tháng 6 đến 31 tháng 7 mỗi năm, bắt đầu từ năm 1999,[88] nhưng cùng lúc họ cũng từ chối chấp nhận đòi hỏi của Philipine là không xây dựng thêm các công trình xây dựng trên Biển NTH.[89] Tuy vậy cũng cần phải lưu ý rằng sự im lặng trên đường chữ U không chỉ có nghĩa là Đài Loan và Trung Quốc đã đầu hàng. (Cần nói qua cho rõ là cả Đài Loan và Trung Quốc chưa nói nhiều về biên giới trên không, vốn cũng tồn tại song song với các biên giới đất liền. Cả hai bên đều không nêu rõ ở độ cao nào không phận chấm dứt)[90]. Cũng cần phải xem xét đến sự khó khăn trong việc từ bỏ một cách chính thức đường chữ U.Về mặt luật pháp, cần có ba phần tư đại biểu trong Hội đồng quốc gia của Đài Loan biểu quyết chấp thuận từ bỏ quyền sở hữu với đường chữ U. Đối với Đài Loan ngày nay thì sự việc trở nên khó khăn hơn vì quyền lực của Quốc [dân Đại] hội [gồm đại biểu của lục địa có từ thời Tôn Trung Sơn] đã chuyển sang Lập pháp Viện (Legislative Yuan) vào tháng 5 năm 2003. Một điều chắc chắn là Viện này cũng gặp những khó khăn mà Quốc hội trước gặp phải. tức là, các đảng chính trị thân chính quyền không có nổi đa số ¾. Cũng thế, Toàn Quốc dân Đại hội Nghị Trung Quốc (NPC) [tức là Quốc hội ở lục địa] cũng sẽ phải thông qua những động thái tương tự để từ bỏ đường này. Đảng Cộng sản có thể (như một thủ thuật chính trị) yêu cầu một số thành viên NPC đưa ra vấn đề bãi bỏ đường chữ U, mà thật không bao giờ có ý định thông qua việc bãi bỏ này.

Cuối cùng là một số ý kiến về vấn đề vùng nước lịch sử và hành động xâm lấn đang xảy ra. Đường chữ U xác định vùng của Trung Quốc và vùng nước bên trong nó thành các “vùng nước lịch sử”. Các bài báo của Trung Quốc đã cáo buộc về việc các nước khác xâm lấn vùng này. Một số tính toán sơ bộ về diện tích vùng lấn chiếm như sau; Việt Nam 1,170,000 kilomet vuông, Philippines 620,000, Malaysia 170,000, Brunei 50,000. và Indonesia 35,000.[91] Đúng là khái niệm vùng nước lịch sử không được đưa ra trong Luật Biển 1982. Tuy vậy khái niệm này có được đề cập qua trong một bản ghi nhớ của Liên Hiệp Quốc vào cuối những năm 1950. Nội dung của bản ghi nhớ đó là một nước có thể sở hữu các vùng nước lịch sử chừng nào không có nước khác phản đối.[92] Rõ ràng là không thiếu yếu tố phản đối này đối với vùng nước lịch sử của Trung Quốc trên Biển NTH. Cũng cần phải nói rằng Việt Nam và Philipine có xác nhận sở hữu vùng nước lịch sử. (Nói qua, lưu ý rằng các vùng nước lịch sử của Việt Nam trên vịnh Bắc Bộ đã được công bố vào đầu những năm 1980 thông qua Tuyên bố về Đường Cơ sở Lãnh hải của Việt Nam,[93] và bỏ qua câu hỏi là liệu những vùng nước này có được coi là “lịch sử” không). Nếu như họ bác bỏ chấp nhận vùng nước lịch sử của Trung Quốc, thì đâu là quyền để họ yêu cầu Trung Quốc thừa nhận vùng nước lịch sử của mình?. Cần bao nhiều nước phản đối để có thể hủy bỏ quyền của Trung Quốc đối với vùng nước lịch sử? Một số chuyên gia như Hasjim Djalal (Đại sứ Quốc vụ khanh về Luật Biển và Vấn đề Hàng hải của Indonesia) và B.A Hamzah (cựu tổng Giám đốc Học viện Hàng hải Malaysia) cũng phản đối quyền của Trung Quốc đối với các vùng nước lịch sử.[94]

Manila và Kuala Lumpur cũng có những tranh cãi song phương, ví dụ, Manila đặt nghi vấn cách hành xử của Kuala Lumpur đối với Hiệp ước của Philipine với Mỹ và Anh trong vấn đề biên giới giữa Philipines và Malaysia. Malaysia nói rằng đường này chỉ là giới hạn (line of demarcation) vì thế không phải là một đường biên giới. Đường này chỉ ra đảo hay vùng quặng nào của Biển NTH thuộc về Malaysia hay Philipine, nhưng điều đáng nói là nó không liên quan gì với (a) các vùng nước, (b) thềm lục địa, và (c) các lãnh thổ khác.[95] Liên quan đến Biển NTH, Bộ Ngoại giao Mỹ “không có quan điểm về phải trái trị pháp lý (legal merit) đối với những yêu sách chủ quyền tranh chấp trên các đảo, bãi ngầm, đảo san hô và các bãi cát trên Biển NTH”.[96] Và nó cũng không đề cập đến các vùng nước lịch sử của Trung Quốc. Khi Philipine tìm kiếm sự hỗ trợ của Mỹ trong việc giải quyết tranh chấp đảo Nam Sa, Mỹ vẫn “duy trì một chính sách trung lập nói chung, với lí do là Hiệp ước Quốc phòng chung Mỹ-Philippines không đề cập đến vùng lãnh thổ tranh chấp [nhóm đảo Nam Sa] không đương nhiên bao gồm vùng tranh chấp [nhóm đảo Nam Sa vì] cho đến trước khi kí hiệp ước (tháng 8 năm 1951) Manila vẫn chưa tuyên bố yêu sách về vấn đề này” và quan trọng hơn, bởi vì Trung Quốc không trực tiếp xâm lăng Philippines.[97] Nói tóm lại, có thể lập luận rằng người Mỹ không cho rằng đường chữ U của Trung Quốc là quá đáng.[98] Liên quan đến điều này, cần nhớ lại là các phản ứng của Mỹ vào tháng 10 năm 1973 khi Cộng hòa Arab Libya đơn phương tuyên bố đường tận cùng trong vịnh sirte. Mỹ đã nhanh chóng không thừa nhận điều này (về mặt ngoại giao) và sau đó bằng hành động quân sự.[99] Điều dễ thấy đó là Mỹ (với những lợi ích đã xác lập của mình) không phản đối sự tồn tại cái “hồ Trung Quốc” (Chinese lake) này chừng nào mọi thứ vẫn diễn ra hòa bình đối với tàu bè thương mại và phi thương mại của họ.



Kết luận

Vào cuối những năm 1970, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã mở cửa với thương mại thế giới. Quá trình này đã được thúc đẩy sau chuyến đi của Đặng Tiểu Bình qua các tỉnh vùng nam Trung Quốc lục địa vào tháng 1 và tháng 2 năm 1992. Sang năm 1993, Trung Quốc bắt đầu trở thành một nhà nhập khẩu ròng dầu thô khi mà cầu về dầu của nước này vượt quá cung trong khi giá dầu nhập khẩu lại rẻ hơn. Trong năm 1993, Trung Quốc đã nhập 20% tổng trữ lượng dầu thô (và các sản phẩm liên quan đến dầu).[100] Có nhiều khả năng là nguồn cung ứng dầu chiến lược nhất và lớn nhất Trung Quốc là mỏ dầu Daqing cho đến hiện tại đã cạn kiện.[101] Theo đó, dự báo cho rằng đến năm 2005, tiêu thụ dầu ở châu Á sẽ vượt qua Bắc Mỹ.[102] Song song với sự tăng trưởng tiêu thụ dầu là việc tăng giá dầu, đặc biệt là các nước OPEC tiếp tục định kì cắt giảm nguồn cung toàn cầu 2 triệu thùng mỗi ngày.[103] Mặc cho khả năng này, cũng không có nhiều khả năng là ngoại thương của Trung Quốc sẽ giảm đi, đặc biệt là sau khi gia nhập WTO vào năm 2001.

Để tiếp tục tăng sản xuất các sản phẩm và dịch vụ xuất khẩu, Trung Quốc sẽ phải tiêu thụ dầu và nhu cầu này khiến cho Biển NTH trở nên cực kì quan trọng về mặt chiến lược. Vì thế, tháng 8 năm 2003, khi ở Philipine, một quan chức Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cao cấp, Wu Bangguo (Ngô Bang Quốc), đã nói rằng Trung Quốc đại lục có thể phát triển các mỏ dầu trên quần đảo Nam Sa cùng với các quốc gia khác. Philipine có thể có khả năng là nước đầu tiên tham gia vào chiến lược hợp tác này. Thậm chí nếu như Trung Quốc thành công trong việc đảm bảo nguồn cung dầu trên Biển NTH bằng cách xua đuổi quân đội các nước khác ra khỏi vùng này, việc bảo vệ nhóm đảo Nam Sa và các dự án phát triển dầu khí của họ, chống lại sự quấy rối và/hoặc phá hoại của quân đội các nước là vô cùng khó khăn. Đây là tình thế tiến thoái lưỡng nan mà hiện nay Trung Quốc đang mắc phải, và vì thế nước này không mong đợi rằng họ sẽ đề cập nhiều đến đường chữ U trong vài thập kỉ tới.[104] Tuy vậy phải nhấn mạnh rằng, nếu có cơ hội, trường hợp East Greeenland có lợi đối với vị trí của Trung Quốc, như đã chỉ ra trong báo cáo của Scobbie. Đúng là việc loại bỏ các bức tường là có thể, giống như bức tường Berlin tháng 11 năm 1989, Trung Quốc, tuy vậy, sẽ không xóa bỏ đường chữ U, trừ khi họ bị đánh bại về mặt quân sự và bị thách thức bởi cộng đồng quốc tế. Vị trí của Đài Loan cũng tương tự như như vậy mặc dù nó muốn giữ thế tránh bị chú ý trong vấn đề này, để không gây căng thẳng với các nước ĐNA. Liên quan đến quan điểm của Trung Quốc và Đài Loan về biển Đông, Fu kuen-chen cho rằng các tọa độ địa lý được hai nước này công bố không mâu thuẫn mà cũng không phải là thiếu nhất quán với nhau.[105] Điều này chỉ ra rằng cả hai bên của eo biển Đài Loan sẽ hợp tác với nhau trên Biển NTH trong dài hạn và có nhiều khả năng hợp tác về mặt chính sách, đặc biệt là khi họ đã có một sự đồng thuận về việc duy trì mối quan hệ đặc biệt của hai bên trên bình diện trong nước cũng như quốc tế.

Tuy vậy, khi chạm đến vấn đề chủ quyền và các vùng như vùng cơ sở và đặc quyền kinh tế bị đe dọa, chúng ta có thể đoán được là Trung Quốc và Đài Loan sẽ trở nên cứng rắn. Chủ nghĩa quốc gia và tình cảm đi cùng với nó sẽ đưa đến tăng cường quân sự. Điều này không có nghĩa là Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa muốn bị coi là nước côn đồ. Quả thực, như tuyên bố gần đây, vào tháng 8 năm 1990 tại Singapore, cựu Thủ tướng Li Peng (Lý Bằng) tuyên bố Trung Quốc đại lục vẫn mong muốn được coi là người chơi có tinh thần đồng đội: “Trung Quốc sẵn sàng tham gia vào các nỗ lực với các nước ĐNA để phát triển nhóm đảo Nam Sa và vào lúc này bỏ sang một bên những bất đồng”.[106] Để thúc đẩy việc này, Trung Quốc và Đài Loan đã tạm thời xác định vài lạch đường nhất định coi như hành lang trên biển khơi (high sea corridors) trong vùng chữ U. Nhật Bản, Nam Triều Tiên, và Phần Lan là một số nước chứng tỏ bằng hành động, chọn giảm lãnh thổ biển từ 12 hải lý xuống 3 hải lý nhằm tránh các vấn đề tàu thuyền qua lại.[107] Một khả năng nữa đó là bắt chước hình thức miền hải dương (maritime domain) của Peru, khi họ chấp nhận tàu thuyền và máy bay tự do đi lại. Các vùng nước không nằm trong các vùng như vùng đặc quyền kinh tế hoặc là các vùng tiếp giáp có thể thuộc miền hải dương trên Biển NTH.[108] Làm khác đi một chút, các vùng nước đó có thể tạo thành một vùng thuộc loại riêng biệt (sui generis) trong một khoảng thời gian nhất định. Các khả năng hợp tác này khá là khác với cái gọi là tiềm năng “Tây Tạng hóa biển Đông”.[109]

Sự phát triển về tài liệu liên quan đến việc hình thành biên giới bắt đầu từ 25 năm cuối của thế kỉ 19 và bài viết này có thể xem như là góp phần vào sự phát triển chung đó.[110] Valencia, trong cuốn Malaysia và Luật Biển, đã đề tặng con cháu người Malaysia, mà ông ta cho là sẽ phải gánh chịu nếu như Malaysia không quản lý các vấn đề hàng hải một cách khôn ngoan.[111] Tôi cũng muốn dành tình tự này cho người Trung Quốc trên cả hai bên của eo biển Đài Loan. Chúng ta cần phải kiểm soát các vấn đề hàng hải một cách khôn ngoan. Khi mà các nước có yêu sách vẫn nắm chặt phần họ chiếm đóng, thì không thể tưởng tượng được là Trung Quốc và Đài Loan sẽ từ bỏ đường chữ U trong tương lai trước mắt. Ngoài vấn đề lợi ích quốc gia, hành động như thế có thể coi như mở nắp hũ mắm (Pandora’s Box) là khi mà các nước khác nhau nhảy vào chỗ trống tranh giành với yêu sách chủ quyền tài nguyên thiên nhiên.

Mất 15 năm để 119 nước kí kết Luật Biển 1982. Bất cứ một hiệp định nào về Biển NTH cũng cần ít nhất cùng một khoảng thời gian như vậy, nếu không phải là lâu hơn, để tiến hành và đưa đến một thỏa thuận mới. Luật Biển 1982 không đề cập đến đường chữ U, nhưng điều này có thể liên quan tới các lỗi thủ tục (procedures) và một số lỗi khác có liên quan, mặc dù đã có 66 “nguyên tắc về thủ tục” khác nhau được áp dụng từ tháng 7 năm 1974.[112] Thậm chí nếu có thảo luận về đường chữ U, các đại biểu Trung Quốc có khả năng cao là kiểm cách xếp xó nó vì sợ rằng nó sẽ không được đa số phiếu ủng hộ. May mắn là cho đến hiện tại, không có một thế lực hàng hải nào buộc Trung Quốc phải từ bỏ đường chữ U. Vì Trung Quốc đã không mất cái gì đáng kể, việc khôi phục lãnh thổ là một bước đi không cần thiết, không giống như trường hợp Argentina trong vấn đề quần đảo Malvinas/Falkland mà mãi sau 17 năm cho đến tháng 8 năm 1999 người dân trên đảo này mới có thể quay trở lại.[113] Thay vào đó có nhiều khả năng là Trung Quốc sẽ tiếp tục dùng phương hướng thực dụng trong khi đầu tư mạnh vào “bảo hiểm kép” (double insurance), điều này nghĩa là đường chữ U sẽ vẫn mang bản chất là sự xác quyết vô hại hơn là một pháo đài đáng lo ngại.[114]


Chú thích

[1] International Maritime Boundaries, Vol.1, Jonathan I. Charney và Lewis M. Alexander biên tập (Dordrecht: Martinus Nijhoff Publishers, 1993), trang 763

[2] Senior Minister Lee Kuan Yew có quan điểm cho rằng trong 25 năm tới, vũ trang chứ không phải luật quốc tế sẽ thống trị. Xem Strait Tímes (dưới đây gọi là ST) (Singapore), 29 tháng 3 1999, trang 3 Ralph A. Cossa chỉ ra rằng “…trước đây quân sự được sử dụng nhằm tăng cường và mở rộng các xác nhận chủ quyền quốc gia và nó có thể được áp dụng trở lại, khả năng là gây ra những hậu quả nghiêm trọng hơn rất nhiều”. Xem báo cáo của ông, Security Implications of Conflict in the South China Sea: Exploring Potential Triggers of Conflict (Hawaii: Pacific Forum CSIS, tháng 3 1998), trang V. Cũng xem Bernard H. Oxman, “Political, Strategic, and Historical Considerations”, International Maritime Boundaries, trang 5-40, đặc biệt là các trang 30-34.

[3] The Collection of Names and Materials on the South China Sea Islands, Chen Shijian biên tập (Guangzhou: Guangdong Atlas Publishing House, 1987), trang 48.

[4] Rõ ràng là Trung Quốc đang chờ cho mực nước biển hạ thấp xuống, 1000 năm sau kể từ bây giờ nó mới xảy ra. Dieter Heinzig không đưa đảo Huangyan Dao thành một phần của quần đảo Zhongsha, như trường hợp của the British Admiralty Chart số 270. Xem monograph của Heinzig, Disputed Islands in the South China Sea (Hamburg, Germany: Institute of Asian Affairs, 1976), trang 17, 47 và 57. Elizabeth Van Wie Davis cũng đề cập riêng đến quần đảo Zhongsha và Huangyua Dao. Xem sách China and the Law of the Sea Convention (New York: The Edwin Mellen Press, 1995), trang 13. Trung Quốc nói rằng họ có 6,500 hòn đảo, 70% trong số đó là trong vòng bán kính 10 kilomet vùng bờ biển và 90% trên vùng thềm lục địa. Họ cũng sở hữu 180 triệu nguồn tài nguyên thiên nhiên khác nhau, xem China Times (dưới đây gọi là CT( (Đài Bắc), 7 tháng 5 1996, trang 3.

[5] Từ này được lấy từ Wolfgang Wagner. The Genesis of the Older-Neisse Line (Germany: Brentano-Verlag Stuttgart, 1957)

[6] Zou Keynan, “Chinese Traditional Maritime Boundary Line in the South China Sea: Legal Implications for the Spratly Islands Dispute”, EAI Background Brief No. 14 (Singapore, 7 May 1998, trang 5 và 7.

[7] Huang Yi và Wei Jingfen, “The Legal Status of the South China Sea,” trong Taiwan on the Move, do Jeh-hang Laivaf Goerge T. Yu (Taiwan: National Central University, tháng 10 1998), trang 213. Bai đã được mời đến Bắc Kinh vào mùa hè 1990 để giải thích tại sao ông lại vẽ đường này. Tại thời điểm đó, ông đã hơn 80 tuổi và vì tuổi cao, đã không thể nói hết được những lí do chính xác về việc vẽ đường này của ông. Tuy vậy, ông cũng nói rằng daoyu guishu xian (thực tế đường này chỉ ra quần đảo này thuộc về nước nào). Đối thoại với Zou Keyuan (vào khoảng nửa cuối năm 1998).

[8] Zou, sđd, trang 6. Vào tháng 1 năm 2000, Xinhuashe (New China News Agency) báo cáo rằng bản đồ do người Trung Quốc vẽ lần đầu tiên vào tháng 10 năm 1845 được phát hiện tại thành phố Shijianzhuang, tỉnh Hebei. Bản đồ thế giới này có đề cập đến quần đảo Nansha, Xisha, và Zhongsha. Mao Trạch Đông (Mao Zedong) đã từng nói rằng Trung Quốc không được bảo vệ trên biển. Điều này có nghĩa là Trung Quốc chỉ an toàn khi các thế lực bên ngoài không thực hiện chính sách “ngoại giao pháo hạm” (“gunboat diplomacy”), nhưng trong hoàn cảnh hiểm nguy, chính sách này có thể được áp dụng. Xem Jiefangjunbao (dưới đây gọi là JFJB) (Bắc Kinh), 9 tháng 4 2001, trang 7.

[9] Huang và Wei, sđd, trang 213. Đến tận Cách mạng mùng 4 tháng 5 năm 1919 giới trí thức Trung Quốc mới bắt đầu ủng hộ chủ nghĩa dân tộc (nationalism).

[10] Cossa, sđd, trang B-1. Vào tháng 5 1956, miền Nam Việt Nam xác nhận chủ quyền quần đảo Xisha và Nansha. Vào tháng 8 năm 1973, họ chiếm đóng 6 đảo trong hai quần đảo này. Vào ngày 14 tháng 3 năm 1983, hải quân Việt Nam đã nổ phát súng đầu tiên vào hai nhà khoa học Trung Quốc trên hai quần đảo này. Xem Liu Yanxun, Zongguojandai duiwaizuozhan zhongdashilu (Xizang: Xizang renmin chubanshe, tháng 5 2000), trang 211. Theo Robert Karniol, Jane’s Defense Weekly, “PLA đã nổ phát súng đầu tiên, và rất nhiều việc khác nữa, khi họ quyết định chiếm quần đảo Paracels từ miền Nam Việt Nam năm 1974. Điều đó có nghĩa là: họ tấn công khi họ cảm thấy cơ hội để giành chiến thắng nhanh chóng đã đến khi mà cả miền Nam Việt Nam và cộng đồng quốc tế đang bị phân tán bởi những vấn đề quan trọng hơn, sau đó coi như mọi sự đã rồi. Cuộc tranh chấp trên quần đảo Trường Sa (Spratly) không phải là chủ ý của cả hai bên nhằm tranh giành lãnh thổ, và nếu như đó là mục tiêu thực sự, thì tình thế sẽ rất khác”. (Karniol, email tới tác giả, 11 tháng 5 1999). Tuy vậy, theo như bản tháng 9 1989 của tờ Chuanjianzhishi (Bắc Kinh) (trang 24) vào tháng 1 năm 1974, bốn tàu hải quân miền Nam Việt Nam đã đồng thời bắn vào tàu hải quân của PLA. Điều này cũng cho thấy Việt Nam không hề nhút nhát. Họ nói rằng tàu khu trục (destroyer) số 134 của PRC đã hai làn bắn vào tàu số 505 của Việt Nam vào ngày 19 tháng 11 1988. Ngược lại, PRC khăng khăng cho rằng tàu khu trục của họ neo trên vùng biển thuộc quần đảo Nansha. Xem Wen Hui Pao (dưới đây gọi là WWP), ngày 25 tháng 11 1988, trang 2. Cũng có một sự trùng hợp đó là cả Bắc Kinh và Hà Nội cáo buộc lẫn nhau bắn phát súng đầu tiên. Xem CT, 16 tháng 3 1988, trang 3. Số xuất bản ngày 1 tháng 4 1988 của People’s Daily (dưới đây gọi là PD) (Bắc Kinh) cũng cáo buộc Việt Nam bắn phát súng đầu tiên vào tháng 3 năm 1988 (trang 1). Các học giả và chuyên gia Trung Quốc cũng chỉ ra rằng, kể từ khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC) thành lập, nước này đã dính líu đến chiến tranh 9 lần, nhưng tất cả đều trong tình trạng bị động. Xem Zhongguo Pinglun (China Review) (Hongkong) tháng 7 1998 trang 91.

[11] Bernard D. Cole, The Great Wall at Sea (Annapolis, MN: Naval Insitutue Press, 2001)

[12] Douglas M. Jonhston, The Theory and History of Ocean Boundary Making (Kingston, Canada: McGill-Queens’ University Press, 1988), trang 225. Sheee Pon Kim cho rằng “cái gọi là “sự đe dọa Trung Quốc” là khá rõ ràng…” Xem bài báo của ông, “Is China a Threat to the Asia-Pacific Region?” trong China’s Political Economy, do Wang Gungwu và John Wong biên tập (Singapore University Press và World Scientific, 1998) trang 355. Để hiểu cơ bản về Vạn Lý Trường Thành của Trung Quốc, xem Arthur Waldron, The Great Wall of China: From History to Myth (Cambrigde, U.K,: Cambridge University Press, 1990).

[13] Để hiểu rõ hơn về siheyuan, xem Hongkong Economic Journal (dưới đây gọi là HKEJ) (Hongkong) 25 tháng 11 2000, trang 18.

[14] Harry Ying Cheng Kiang, China’s Boundaries (Lincolnwood, III.: The Institute of China Studies, 1984), trang bìa và trang 10.

[15] Zou (chú thích 6) trang 16.

[16] Mark J. Valencia, Malaysia and the Law of the Sea (Kuala Lumpur: Institute of Stategic and International Studies, 1991), trang 62. Một ranh giới là một đường và một biên giới là một khái niệm mang tính lãnh thổ. Xem Johnston (chú thích 12), trang 226. Vào tháng 5 1994 Việt Nam tuyên bố rằng nước này đã tìm thấy những di vật cổ như là đồng tiền năm 1830 ở Sơn Tử Tây. Nước này cũng xác nhận rằng người Việt đã từng sống ở Trường Sa Lớn, Nam Yết và Sơn Tử Tây kể từ thế kỉ 15. Xem CT, ngày 26 tháng 5 1994, trang 9.

[17] Quan điểm này là của William F.S Miles trong bài “Absorbing International Boundaries Within a National Framework: Pondicherry and the French Indian Experience”, Territory Briefing 5 (Durham, U.K), 1993.

[18] Van Wie Davis (chú thích 4), trang 91 và 93. Hamzah Bin Ahmad viết “Sự tăng cường khả năng chiến đấu của Hạm đội Xoviet Thái Bình Dương đã làm cho các nhà hoạch định chiến lược quốc phòng của Malaysia đau đầu”. Xem sách Malaysia’s Exclusive Economic Zone (Kuala Lumpur: Pelanduk Publications, 1988) trang 6.

[19] Oran R. Young, International Cooperation: Building Regimes for Natural Resources and the Environment (Ithaca: Cornel University Press, 1989) trang 39.

[20] Zou (chú thích 6), trang 14. Vào tháng 12 năm 1997, The International Tribunal for the Law of the Sea (ITLS), một trong những cơ chế chính để hòa giải tranh chấp được thiết lập bởi Luật Biển tháng 4 năm 1982, đã đưa ra phán quyết đầu tiên.

[21] Park mô tả sự chiếm đóng một phần của Malaysia đối với quần đảo Nansha là “sự xâm chiếm vào vùng bờ phía Nam” của SCS. Xem Choon-ho Pak “Central Pacific và East Asian Maritime Boundaries” trong Charney và Alexander (chú thích 2) trang 299.

[22] Xem Iain Scobbie “The Spratly Islands Dispute: An Alternative View”, Oil and Gas Law and Taxation Review 14 (1996), trang 173-83. Scobbie cho rằng sự xác nhận của Trung Quốc trên quần đảo Nansha “is to be preferred to that of Vietnam (and that of any other state)” . Nếu đây đúng là vấn đề, thì có khả năng là cả hai bên Trung Quốc đại lục và Đài Loan có thể hình thành, chẳng hạn, vùng đặc quyền kinh tế xung quanh các đảo của quần đảo này. Các vùng đặc quyền kinh tế đó sẽ chồng lên các vùng nước lịch sử của Trung Quốc trong đường chữ U. Xem Greg Austin, China’s Ocean Frontier (St. Leonards, N.S.W: Allen $ Unwin, 1998), mặc dù ông có vẻ như có một quan điểm khác khi nêu ra trong hội nghị “Human and Regional Security Around the South China Sea” ở Oslo, Nauy từ mùng 2 đến mùng 4 tháng 6 năm 2000. Ở điểm này ông cho rằng đường chữ U là “một ví dụ điển hình về đặc điểm của chép sử Trung Quốc”. Qua việc chép sử, ông ngụ ý răng “đó là cách mô tả sự kiện” hoặc “…các phong cách, giả định và mục đích của người viết nhằm biến các thông tin có thể kiểm chứng được thành một câu chuyện” trong đó lòng ái quốc được dùng như một thứ nguyên liệu mạnh.

[23] Xem Mark J. Valencia, “Spratly Solution Still at Sea”, Pacific Review (sau đây gọi là PR) 6 số 2 (1993). Xem bản đầu tiên (chú thích 16) của ông, Annex 1. Xem Mark J. Valencia, J.M van Dyke và N.A Ludwig, Sharing the Resources of the South China Sea (Dordrecht: Martinus Nijhoff, 1997) trang 27.

[24] “Bức tường châu Âu” được đề cập đến bởi một học giả trong một bối cảnh khác, xem Ola Tunander “Post-Cold War Europe: Synthesis of a Biploar Friend-Foe Structure and a Hierarchic Cosmos-Chaos Structure?” In Ola Tunander, Pavel Baev, and Victoria L Einagel, Geopolitics in Post-Wall Europe: Security, Territory and Identity (London: Sage Publication, 1997), chương 2.

[25] Anthony Kemp, The Maginot Line: Myth and Reality (London: Frederick Warne, 1981), trang 9, trang 41-2 và trang 55-6.

[26] Xem J.E. Kaufmann và H.W Kaufmann, The Maginot Line: None Shall Pass (Westpoint, CONN: Praeger, 1997). Nước Pháp sụp đổ vào năm 1940. Đường này đã tham gia vào cuộc chiến vào tháng 8 năm 1939. Pháp tuyên bố chiến tranh với Đức quốc xã vào tháng 9, 1939.

[27] Cụm từ này là của Steven W. Mosher. Xem Hegemon: China’s Plan to Dominate Asia and the World (San Francisco, CA: Encounter Books, 2000), trang 160.

[28] ST, tháng 5 1999, trang 11. Đông Đức bắt đầu xây dựng bức tường vào tháng 8 năm 1961 xung quanh vùng phía Tây của Berlin với chiều dài 155 kilomet. Bức tường này bị phá bỏ vào tháng 11 năm 1989.

[29] Quan điểm này là từ Cossa (chú thích 2) trang vii.

[30] Lbid, trang 7. trong một bài báo khác, Cossa đề cập vào cuối những năm 1950, xem ST, ngày 30 tháng 11 1998, trang 28. Xem The South China Sea Disputes: Phillipine Perspectives, do Aileen San Pablo-Baviera biên tập (New Manila, Quezon City, Phillippine: The Phillippine-China Development Resource Center and the Phillippine Association for Chinese Studies, 1992) trang 20. Ji Guoxing cũng đề cập một sự cáo buộc khác. Xem trong chuyên khảo của ông, The Spratlys Disputes and Prospects for Settlement (Kuala Lumpur: 1992), trang 11-12.

[31] Robin Churchill và Geir Ulfstein, Marine Management in Disputed Areas (London: Routledge, 1992) trang 4.

[32] Sang-Myon Rhee và James Mac Aulay, “Ocean Boundary Issues in East Asia” trong Ocean Boundary Making, do Douglas M. Johnston và Phillip M. Saunders (London: Croom Helm, 1988) trang 74. Đảng cầm quyền của Cộng hòa Trung Hòa (Đài Loan), cách đây vài năm, đã cho rằng vùng thấp hơn của Đài Loan là thuộc về Đông Nam Á.

[33] Xem báo cáo của Cossa về việc đường này đã xuất hiện như thế nào (chú thích 2) trên trang 3. Một bản vẽ khác có thể tìm thấy trong báo cáo của Andrew J. Nathan và Robert S. Ross, The Great Wall and the Empty Fortress: China’s Search for Security (New York: W.W. Norton & Company, 1997) trang 114.

[34] Oxman (chú thích 2), trang 35. Manila cũng vẽ lại đường biên giới bản đồ của mình, xem ST, mùng 3 tháng 3 năm 1999, trang 24.

[35] Churchill và Ulfstein (chú thích 31) trang 63.

[36] Xem Peter Polomka, Ocean Politics in Southeast Asia (Singapore: Institute of Southeast Asian Studies, 1978) trang 223-8.

[37] Singapore, Indonesia và Malaysia đang nhắm vào việc xây dựng một sân chơi cho tới năm 2004, gọi là “Aseananrean” cung cấp những hoạt động như tuần tra, đánh bắt, và lặn. Xem ST, 20 tháng 1999, trang 39.

[38] Nhiều tàu buôn đã gặp khó khăn tại đảo Langhua Jiao thuộc quần đảo Xisha và Bei Jiao (bãi đá ngầm phía Bắc) Xem China Ocean News (sau đây gọi là CON) (Beijing) ngày 20 tháng 4 1999, trang 3.

[39] MURAI Tomohide giảng dạy tại Học viện Quân sự quốc gia tại Yokosuka, Nhật, vào tháng 5 1990, trong một bài báo tiếng Nhật, đã đóng góp một bài bàn về mối đe dọa Trung quốc. Ông cũng là người đầu tiên công khai nêu ra vấn đề. Xem Yazhouzoukan (sau đây gọi là YZZK) 17, số 39 (tháng 9 2003) 31. Theo Executive Intelligence Review (sau đây gọi là EIR), các nhà chiến lược ở London đã bắt đầu cuộc chơi này. Xem Vol. 6, số 9 (30 tháng 9 năm 1995) xuất bản bằng tiếng Trung, trang 17. Mặt khác, Reniminribao (People’s Daily) đề cập trong một bài báo rằng “mối đe dọa Trung Quốc” bắt đầu vào cuối năm 1992. Ban đầu, các nhà quan sát nước ngoài dự đoán là vào cuối những năm 1980. rằng Trung Quốc đại lục sẽ sụp đổ. Xem United Daily News (sau đây gọi là UDN) (Đài Bắc) 23 tháng 12 1995, trang 10.

[40] Victor Prescott, The South China Sea: Limits of National Claims (Kuala Lumpur: Maritime Institute of Malaysia, 1996) trang 40.

[41] Cossa (chú thích 2) pp v. 6 và 10. Cossa trích lời một học giả Trung Quốc đã mô tả SRV “as the most likely protagonist”. Xem trang C-4. Theo Robert Karniol (sống ở Thái Lan) của tờ Jane’s Defense Weekly, Trung Quốc là bên nổ phát súng đầu tiên trên quần đảo Xisha vào tháng 1 năm 1974 (Karniol đã email cho tác giả, tháng 10 1999). Về việc bên nào nổ súng đầu tiên, điều thú vị đó là vào tháng 8 2002, có một số báo cáo cho rằng hải quân Mỹ đã bắn phát súng đầu tiên vào tàu ngầm mini của Nhật một giờ trước cuộc tấn công của Hoàng gia Nhật vào ngày 7 tháng 12 1941. Xem www.straitstimes.com.sg/asia/story/0,1870,140802.00.html ngày 14 tháng 8 năm 2002. Vào tháng 7 2003, Bắc và Nam Triều Tiên đã nổ súng trở lại.

[42] Cossa (chú thích 2) trang vi, Lianhezaobao (sau đây gọi là LHZB) (Singapore), 20 tháng 1 1999, trang 20. United Daily News (sau đây gọi là UDN) (Đài Bắc) 10 tháng 11 1998, trang 13 và Far Eastern Economic Review (sau đây gọi là FEER) (Hongkong) , 24 tháng 12 1998, trang 18. Kuala Lumpur cũng xây những trạm trú cho dân đánh cá trên một đảo trong quần đảo, Yuyeansha (Investigator Shoal) đã được Manila xác nhận. Xem Straits Times 17 tháng 4 1998 trang 28 và ngày 6 tháng 7 1998 trang 9. Xem CT 17 tháng 2 1999 trang 5.

[43] Trích bởi Michael Nacht “Multinational Naval Cooperation in Northeast Asia”, Korean Journal of Defense Analysis (sau đây gọi là KJDA) VII số 1 (Summer 1995) 43.

[44] Xem bài báo của tôi nhận xét về sự ủng hộ của Chiu Hungdah trên CT, 26 tháng 2 1999, trang 15.

[45] Nathan và Ross (chú thích 33) trang 24.

[46] Cossa (chú thích 2) trang viii-ixvà trang C-6. Tôi muốn cảm ơn Andrew M. Marton vì sự làm sáng tỏ khái niệm “đường trên cát”, ngày 5 tháng 4 1999. Cùng với đó, tôi trích tài liệu dưới đây từ Ellen C. Collier, Instances of Use of United States Forces Abroad, 1798-1993 (Washington DC: Congressional Research Service, Library of Congress, 7 tháng 10 1993): “1836- Mehico, tổng tư lệnh Gaines đã chiếm đóng Nacogdoches (Tex.), tranh chấp lãnh thổ từ tháng 7 đến tháng 12 trong suốt chiến tranh giành độc lập của Texas, theo chỉ thị nhằm vượt qua “đường biên giới tưởng tượng” nếu như xuất hiện nguy cơ chiến tranh của người Ấn.

[47] Cossa (chú thích 2) trang 6.

[48] Xem Kemp (chú thích 25) trang 9.

[49] Churchill và Ulfstein (chú thích 31) trang 89.

[50] Tuy nhiên, nếu như Việt Nam và Trung Quốc có thể đạt tới thỏa thuận về việc loại bỏ đường biên giới biển trên vịnh Beibu như họ đã làm vào mấy năm vừa qua, Trung Quốc có thể lấy lại hai phân khu đã mất.

[51] Li Geping “The Latest Development in the Nansha Island Group Dispute”, Inside Information on Economic Reform (sau đây gọi là IIER) (Bắc Kinh) số 4 20 tháng 2 1998, trang 28.

[52] Valencia (chú thích 16) trang 128-9.

[53] Quan điểm này lấy từ tiêu đề sách của Nathan và Ross (chú thích 33).

[54] Far Eastern Economic Review, 24 tháng 12 1998, trang 18

[55] United Daily News (sau đây gọi là UDN) (Đài Bắc) ngày 8 tháng 1 1999, trang 13.

[56] Pablo-Baviera (chú thích 30) trang 14.

[57] Các vùng này được người Nhật xây dựng lần đầu tiên trong chiến tranh Nga-Nhật và họ yêu cầu tàu thuyền nước ngoài phải tuân theo những tuyến đường biển nhằm tránh các vùng hoạt động chính của Nhật, trong vòng khoảng cách 10 hải lý tính từ bờ biển. Vấn đề này sau này được trường Chiến tranh Hải quân Mỹ coi là một tiền lệ hợp lý. Xem D.P O’s Connell, The International Law of the Sea. Vol 2 (Oxford Claredon Press, 1984) trang 1109.

[58] Vùng bảo vệ tồn tại giữa Úc và Papua New Guinea trong vùng Torres Strait. Vùng này cho phép các hoạt động đánh bắt cá truyền thống và các hoạt động truyền thống khác như là tự do đi lại giữa cư dân. Xem Oxman (chú thích 2) trang 38-9.

[59] Vùng này ám chỉ vùng được bao bởi đường trung tuyến Nhật-Hàn, đường trung tuyến Trung-Nhật, và “đường đồi” chạy dọc đầu phía bắc của vùng lõm Okinawa. Xem Rhee và MacAulay (chú thích 32) trang 97.

[60] Ví dụ điển hình nhất là vùng xám hay khu xám biển Barent. Xem David Colson “The Legal Regime of Maritime Boundary Agreements” trong Charney và Alexander (chú thích 2) trang 67-8. Cũng xem Churchill và Ulfstein (chú thích 31) trang 64 và 66.

[61] Ví dụ rõ nhất là các đường biên giới của Chile, Ecuador, và Peru bao gồm một vùng đệm 10 hải lý cho phép các ngư dân có thể vô tình đi qua.

[62] Khái niệm này được đề cập trong Công ước Geneva về Thềm Lục Địa. Tuy vậy, một công ước tương tự cũng tuyên bố rằng “kể cả việc xây dựng hay đặt các thiết bị (ngầm) cũng như các vùng an toàn xung quanh nó đều không được phép thiết lập ở nơi mà sự can thiệp có thể dẫn đến việc sử dụng các đường quy định (sea lanes) cho việc tuần tra quốc tế”.Ross D. Eckert The Enclosure of Ocean Resources (Standford, CA: Hoover Institution Press, 1979) trang 80.

[63] Ibid. trang 81-2. Lối đi an toàn tỏ ra hiệu quả trong việc di chuyển các “lối đi” trong đó không cho phép các hoạt động khoan dầu gây ra nguy hiểm cho tàu thuyền.

[64] Vùng này được Anh sử dụng cho vùng giữa Fort San Felipe và Gibraltar’s Old Mole và mở rộng tới điểm phía Đông Bắc của San Felipe. Đường này đã bị xóa bỏ do sự chống đối của Tây Ban Nha. Xem J.G O’Reilly “Gibralta: Spanish and United Kingdom Claims”, Territory Briefing 4 (Durham, U.K:1992) trang 8.

[65] Vào tháng 4 năm 1982, Anh đã tuyên bố một đường như vậy xung quanh quần đảo Falkland/Malvinas và tuyên bố “bất cứ tàu chiến và lực lượng hỗ trợ hải quân nào của Argentina xuất hiện trong vùng này sẽ bị đối xử thô bạo và có thể bị tấn công” – trích O’Connell (chú thích 57) trang 180.

[66] Vào tháng 11 năm 1976, Mỹ, khi đang trong quá trình tranh chấp với Canada, đã công khai các tọa độ của đường chia cắt cả vùng thềm lục địa và vùng đánh bắt trên vịnh Maine. Xem Johnston (chú thích 12) tramg 180.

[67] Khái niệm “các bức tường khác” lấy từ sách của Harold H. Saunders, The Other Walls: The Arab-Israeli Peace in a Global Perspective, rev. ed.. (Princeton, N.J: Princeton University Press, 1991)

[68] Phương pháp đường cơ sở thẳng cũng được áp dụng cho việc hình thành địa lý ngầm trên quần đảo Zhongha, trừ đảo Huangyan Dao.

[69] Johnston và Saunders, mục “Introduction” trong Ocean Boundary Making (chú thích 32) trang 4.

[70] Quả thực, như một học giả Trung Quốc (một người không hề biết đến khái niệm bảo hiểm kép) đã nhận định, việc công bố các đường cơ sở trên quần đảo Xisha “cho thấy Trung Quốc không xem xét các đường truyền thống là đường biên giới biển trên biển NTH”. Ông tiếp tục “nói cách khác các đường cơ sở trên quần đảo Xisha là thừa và không cần thiết”. Xem Zou (chú thích 6) trang 2.

[71] Xem Peter Koh Soon Kwang, Marine Insurance and the New Institute Cargo Clauses (Singapore: Longman, 1989) trang 94.

[72] Valencia (chú thích 5) trang 14.

[73] Wagner (chú thích 5) trang 14.

[74] Xem Friedrich von Wilpert, The Older Neisse Problem: Towards Fair Play in Central Europe (Bonn: Edition Atlantic-Forum, 1964) chương 5.

[75] John Anstey, Boundary Disputes (London: The Royal Institute of Chartered Surveyors, 1990) trang 84.

[76] Prescott (chú thích 40) trang 22-3.

[77] Ji (chú thích 30) trang 9

[78] Ví dụ, Liên Xô cũ đã thay đổi vị trí các hạm đội tàu chiến qua các eo biển cứ khoảng 10 năm. Đầu tiên, Matxcova sẽ thông báo trước với nước đó và được phép bởi nước vùng ven biển. Sau đó, họ thay đổi vị trí ngược lại hoàn toàn. Xem Van Wie Davis (chú thích 4) trang 86.

[79] Johnston (chú thích 12) trang 78.

[80] Rhee và MacAulay (chú thích 32) trang 88. Prescott cũng đặt câu hỏi về các đường cơ sở của Trung Quốc trên biển NTH. Xem chuyên khảo của ông (chú thích 40) trang 14-20.

[81] Xem Cossa (chú thích 2) Appendix G.

[82] ST, ngày 24 tháng 11 1998, trang 17.

[83] CT, mùng 5 tháng 4 năm 1999. trang 1. Nhiều học giả và chuyên gia đã nhăc đến biển Ấn nư là một cái hồ Ấn. Ví dụ, xem UDN ngày 13 tháng 5 1998, trang 15. Xem Zhong Guo Guo Fang Bao (Bắc Kinh) ngày 10 tháng 11 năm 1998, trang 3. Một nhà sử học Trung Quốc sống ở Mỹ đã bình luận rằng Hoàng gia Nhật đã từng muốn biến biển NTH thành cái hồ nhà. Xem Straits Review (sau đây gọi là SR) (Đài Bắc) số 111 (ngày 1 tháng 3 2000) trang 16.

[84] Valencia (chú thích 16) trang 129. B.A Hamzah cũng đặt câu hỏi về cách mà đường cơ sở của Indonesia được áp dụng cho từng cơ chế biển khác nhau. Xem sách của ông, The Spratlies: What can be done to enhance confidence (Kuala Lumpur: Institute of Strategic and International Studies, 1990) trang 8. Điều thú vị là trong trang 14 ông viết “Hiệp ước cho phép hình thành các đường đa biên giới trên thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế, mặc dù một đường đơn chính giữa vẫn được khuyến nghị hơn”. Xem ibid. trang 14.

[85] R. Haller Trost, “The Spratly Inslands: A Study on the Limitations of International Law”, Centre of South-East Asian Studties Occasional Paper số 14 (University of Kent at Canterbury, tháng 10 1990) trang 1.

[86] Xem bài của tôi “Issue on the South China Sea: A Case Study”, Chinese Yearbook on the International Law and Affair, số 11 (1991-1992) trang 138-200.

[87] Oxman (chú thích 2) trang 36-7

[88] Lianhezaobao (sau đây gọi là LHZB) (Singapore) ngày 25 tháng 3 1999, trang 31.

[89] Ibid 24 tháng 3 1999, trang 29.

[90] Giới hạn thông thường là đường von Karman, độ cao khoảng 80 km nhưng thay đổi tùy theo điều kiện khi mà các máy bay khí động lực không thể bay được nữa. Xem Malcolm Anderson, Frontiers (Cambridge, U.K: Policy Press, 1996) trang 163.

[91] Chen (chú thích 3) trang 381.

[92] Ví dụ, xem Tài liệu của Liên Hợp Quốc A/CN 4./143, mùng 9 tháng 3 1962 có tên là “Juridical Regime of Historic Waters, Including Historic Bays”, Yearbook of the International Law Commission, Vol II, 1962, trang 1-26, đặc biệt là trang 6. Các học giả như Daniel P. O’Connel ủng hộ xác nhận của Tonga đối với vùng chữ nhật các đường nước ở vùng biển cao, bao gồm một số nhóm đảo thuộc quần đảo Tonga và các đường nước lịch sử kể từ cuối những năm 1880. Xem sách của ông, The International Law of the Sea, vol. 1 (Oxford: Claredon Press, 1982-1984) trang 417-18 như đã trích trong báo cáo của Huang và Wei (chú thích 6) trang 214 và Zou (chú thích 6) trang 15. Leo J Bouchez cũng đưa ra định nghĩa của ông về các đường nước lịch sử. Xem sách The Regime of Bays in International Law (Leyden; A.W Sythoff. 1964) trang 281.

[93] Zou (chú thích 6) trang 8.

[94] Huang và Wei (chú thích 7) trang 217 và Cossa (chú thích 2) trang 15-16. Huang và Wei cũng đặt câu hỏi về các đường nước lịch sử của Trung Quốc. B.A Hamzah cho rằng đường chữ U “là phù phiếm, không hợp lý và thiếu logic” và Việt Nam cũng chính thức mô tả đường chữ U là bị thổi phồng và không có căn cứ luật pháp. Xem Huynh Minh “Sovereignty of Vietnam over Hoang Sa (Paracel) and Truong Sa (Spratly) and Peaceful Settlement of Disputes in the Bien Dong Sea (South China Sea)” trong hội thảo về “Asean in the 21th Century: Opportunities and Challenges” (Hanoi: Institute of International Relations, tháng 3 1996) trang 98-9, Zou trích dẫn (chú thích 6) trang 11, Hamzah cũng viết rằng “…thế kỉ này chứng kiến sự căng thẳng ngày càng lên cao giữa các nước nhằm mở rộng vành đai biển, nhằm biến đại dương thành các vùng đặc quyền của mình”. Xem sách của ông (chú thích 18) trang 8. Hamzah cũng tự cho rằng nghiên cứu năm 1990 của ông về quần đảo Nansha là “mới là sự lướt qua những xác nhận chủ quyền đang trang chấp”. Xem sách của ông (chú thích 84) trang 1.

[95] Pablo-Baviera (chú thích 28) trang 16-17.

[96] Cossa (chú thích 2). Appendix G. Điều này có phần nào trái ngược với tuyên bố của một quan chức Bộ Ngoại giao Mỹ trước các đại biểu quốc hội Mỹ về việc hình thành các lực lượng Trung Quốc trên quần đảo Nansha: “ đó không phải là một mối đe dọa an ninh lớn. đó là xu hướng và thực tế là Trung Quốc xác nhận tất cả các vùng lãnh thổ này là có vấn đề, không phải là tình hình tại chỗ. Trích Straits Times, 15 tháng 3 1999, trang 11.

[97] Cossa (chú thích 2) p C-8 và Straits Times 15 tháng 3 1999, trang 11.

[98] Khái niệm về việc xác nhận chủ quyền biển quá đáng (excessive) lấy từ sách của J Ashley Roach và Robert W Smith, United States Responses to Excessive Maritime Claims, 2nd ed. (The Hauge: Martinus Nijhoff Publisher, 1996)

[99] Xem Stephen R Langford, “Libya: The Gulf of Sirte Closing Line”, International Boundaries Research Unite Briefing, 1990, trang 4 và 8.

[100] www.chinatimes.com.tw/news/papers/online/china/m8922804.htm

[101] ST 30 tháng 3 1999, trang 48. Trung Quốc nói rằng nước này sẽ có khoảng 10 triệu tấn dầu thô từ sản xuất ở nước ngoài vào đầu thế kỉ 20. Đến năm 2010, Trung Quốc đặt mục tiêu phát triển sản xuất dầu hàng năm ở nước ngoài lên tới 50 triệu tấn, song song với mức cung cấp gas từ nước ngoài 50 tỉ mét khối. Xem online <.hkstandard.com/today/default.asp> 1 tháng 6 1999. Vào tháng 10 năm 1998, Trung Quốc thông báo với Nhật rằng có khả năng họ sẽ giảm lượng cung cấp dầu từ mỏ Daquing cho Nhật. Vào tháng 1 năm 1999, Trung Quốc tuyên bố không xuất dầu sang Nhật từ tháng 2 1999. Theo hợp đồng, Trung Quốc đảm bảo cung cấp cho Nhật hơn 6 triệu tấn dầu. Điều dễ hiểu là Nhật không vui gì. Xem CT 7 tháng 2 1999, trang 14.

[102] ST, 1 tháng 4 1999, trang 50. ROC Đài Loan đã mất khá nhiều tiền trong các cuộc thăm dò dầu khí suốt 30 năm qua. Xem UDN, 26 tháng 3 1999, trang 15. Vào năm 2022, tiêu thụ dầu của Trung Quốc đại lục sẽ gấp 3 lần www.news.chinatimes.com/chinatimes/news/newslist-content/0,3546,110505+112003072700057 27 tháng 7 2003.

[103] ST 19 tháng 3 1999, trang 64 và 13 tháng 4 1999 trang 46. Xem http://lw9fd.law9.hotmail.msn.com/cgi_bin/getmsg?curbbox=F00000001&a=1f033115d5 2 tháng 11 2001 và Economist, 15 tháng 12 2001, trang 15-16.

[104] Do hiệu ứng nhà kính, có khả năng là tất cả các đảo trên biển NTH sẽ nằm dưới mực nước biển. Thậm chí khi điều này xảy ra, các vấn đề như vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa sẽ vẫn tồn tại.

[105] Fu Kuen-chen, “Maritime Rights of the Chinese People”, Straits Review, no. 99 (tháng 3 1999) trang 7.

[106] Trích từ Ji (chú thích 30) trang 26. Tuy vậy Trung Quốc đồng ý đồng sở hữu các đảo cùng với các nước phản đối Xem ibid. trang 28.

[107] Smith và Thomas (chú thích 31) trang 20

[108] Email từ Juan Antonio Escudero, United Nations Division for Ocean Affairs and the Law of the Sea, 23 January 1999.

[109] Barry Wain, “The “Tibetization” of the South China Sea”, Asian Wall Street Journal (sau đây gọi là AWS) (Hongkong) 12-13 tháng 2 1999, trang 10. Wain lại thúc giục Trung Quốc từ bỏ đường chữ U. Xem bài báo của ông “Beijing should Erase the U-shaped line” AWSJ 26-28 tháng 5 2000, trang 10.

[110] Johnston (chú thích 12) trang 288.

[111] Valencia (chú thích 16).

[112] Xem Eckert (chú thích 62) trang 272-89. Về một số thất bại khác của luật Biển 1982, xem Johnston và Saunders “Introduction” trong id.(chú thích 32) trang 4-8.

[113] Argentina vẫn muốn lấy lại quần đảo Malvinas/Falkland từ Anh. Xem LHZB ngày 7 tháng 4 1999, trang 2. Xem Straits Times 10 tháng 8 1999 trang 11.

[114] Tác giả rất cảm ơn Stein Tonnesson và các nhà bình luận về những đóng góp ý kiến cho bài báo này.




© Thời Đại Mới

13-4-09

Nguyễn Trung Khai thác bô-xít ở Tây Nguyên : những bất lợi lớn:

Khai thác bô-xít ở Tây Nguyên : những bất lợi lớn
Nguyễn Trung Cập nhật : 10/04/2009 22:37


Những bất lợi lớn trong các dự án khai thác bô-xít ở Tây Nguyên

Nguyễn Trung

Trong bài Mất và được trong khai thác bô-xít ở Tây Nguyên và bài Triển vọng khai thác bô-xít ở Tây Nguyên – Tìm hiểu tại chỗ 1, tôi đã trình bầy các khía cạnh “lợi và bất lợi”, “nên hay không nên” trong việc khai thác bô-xít ở Tây Nguyên qua hai dự án TKV đang triển khai là Nhân Cơ (Đắc Nông) và Tân Rai (Lâm Đồng) nói riêng và bình luận chương trình tổng thể khai thác Tây Nguyên đến năm 2025.

Trước tình hình dư luận có nhiều ý kiến lo lắng và phản đối, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã quyết định tổ chức cuộc hội thảo hôm nay để tập hợp các ý kiến và đánh giá. Tôi hoan nghênh và đánh giá cao quyết định đúng đắn này. Xin trình bầy một số vấn đề dưới đây.

Một là : Hiện nay nước ta chưa hội đủ các điều kiện cho phép khai thác bô-xít ở Tây Nguyên có lợi cho sự phát triển bền vững của đất nước.

Đúc kết kinh nghiệm về phát triển công nghiệp nhôm khắp thế giới cho đến nay, các nhà kinh tế và các nhà khoa học đã rút ra kết luận chỉ nên khai thác bô-xít khi có những điều kiện sau đây – xếp theo thứ tự tầm quan trọng :

1.

có nguồn điện dồi dào,
2.

có nguồn nước dồi dào,
3.

nơi khai thác có vị trí hoang vắng (xa khu dân cư hay vùng kinh tế) và địa thế thích hợp (thấp, trong thung lũng, không phải vùng đầu nguồn các sông suối...) thuận lợi cho giải quyết thoả đáng vấn đề bảo vệ môi trường (nước thải và bùn đỏ nhiễm hoá chất...),
4.

có khả năng giảm xuống mức thấp nhất chi phí vận tải,
5.

có trữ lượng bô-xít dồi dào với hàm lượng cho phép đạt chuẩn 4/2/1 (4 tấn quặng làm ra 2 tấn alumina rồi từ đó ra 1 tấn nhôm để có khả năng cạnh tranh trên thị trường),
6.

có nguồn lao động rẻ hoặc được cơ giới hoá cao độ khâu khai thác.


Ngoài ra thực tế công nghiệp nhôm hiện nay trên thế giới còn cho thấy phần lớn các nước phát triển (Nhật, Tây Âu...) từ hai thập kỷ nay đã liên tục giảm hoặc có nước phải bỏ hẳn công nghiệp điện phân nhôm, vì lý do môi trường và năng lượng (tốn quá nhiều điện).

Tây Nguyên chỉ có 2 điều kiện cuối cùng và cũng là 2 điều kiện thấp nhất trong 6 điều kiện cần phải có cho việc khai thác bô-xít trong thời đại kinh tế toàn cầu hoá ngày nay, đó là : (a) nguồn tài nguyên dồi dào và (b) lao động giá rẻ.

Do thiếu 4 điều kiện đầu (từ số 1 đến số 4), nên giá thành sản phẩm alumina hoặc nhôm ở Tây Nguyên sẽ rất cao. Vấn đề xử lý ô nhiễm môi trường rất tốn kém, hoặc thậm chí không khả thi trong những điều kiện nhất định (quy mô khai thác, tình hình thời tiết...). Nếu cũng với nguồn vốn như vậy bỏ ra thay vì cho khai thác bô-xít ở Tây Nguyên, đem đầu tư cho phát triển một Tây Nguyên xanh, chắc chắn lợi ích các mặt kinh tế, xã hội, văn hoá... sẽ lớn hơn nhiều.

Việc triển khai sản xuất khoảng 1,2 triệu tấn alumina/năm, rồi sẽ nâng lên khoảng 6 – 8 triệu tấn/năm trong tình hình chỉ có 2 điều kiện cuối cùng trong 6 điều kiện phải có, và được tiến hành theo cách vừa khai thác vừa tìm các giải pháp cho nhiều vấn đề còn tồn tại thuộc các điều kiện chưa có hoặc không có – được đánh số từ 1 đến 4 như vừa nêu trên. Việc xây dựng 2 nhà máy sản xuất tinh quặng alumina Nhân Cơ và Tân Rai đã được triển khai từ gần một năm nay (hoàn tất việc ký hợp đồng, san mặt bằng...), nhưng bây giờ vẫn còn đang tính và đang tìm các phương án xử lý các vấn đề thuộc kết cấu hạ tầng (giao thông vẫn tải, điện, nước...) ; còn nhiều vấn đề kinh tế cực kỳ hệ trọng vẫn còn để ngỏ : Có sản xuất nhôm không ? Nếu “có”, lấy điện ở đâu ? có phải là tối ưu không ? Nếu “không”, làm ra alumina sẽ chỉ để xuất khẩu trong tình hình phát triển của nước ta và trong tình hình kinh tế thế giới sau cuộc khủng hoảng toàn cầu hiện nay là nên hay không nên ? Ngoài khai thác bô-xít để bán tinh quặng, còn sự lựa chọn nào khác cho phát triển năng động và bền vững của Tây Nguyên nói riêng và của cả nước nói chung hay không ? Toàn bộ vấn đề khai thác bô-xít như vậy thúc đẩy hay kìm hãm chiến lược công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước theo hướng phát triển bền vững? Nước ta sẽ tiến lên, hay tụt hậu thêm, sẽ giữ được ổn định hay tiềm ẩn thêm những nguy cơ đe dọa mới đối với an ninh quốc phòng do việc khai thác bô-xít ở Tây Nguyên ? vân vân...

Hai là : 2 dự án Nhân Cơ và Tân Rai (và nói chung là chương trình khai thác bô-xít Tây Nguyên) được tiến hành với một quy trình lộn ngược, có thể “ rẻ biến thành đắt ”, với những hiểm họa lớn cho Tây Nguyên và cho các vùng chung quanh, có nguy cơ đẩy đất nước đi sâu vào một chiến lược kinh tế sai lầm.

Triển khai 2 dự án Nhân Cơ và Tân Rai trong điều kiện chưa nghiên cứu xong, chưa chuẩn bị xong các điều kiện kết cấu hạ tầng và chưa tính toán thỏa đáng vấn đề “ đầu ra ” (output), có thể ví đấy là quy trình : xây cái nhà trước khi có thiết kế móng và xây móng. Trong khi đó TKV còn dự định triển khai thêm 03 nhà máy nữa ở Đăk Nông và một số nhà máy nữa ở Gia Lai và Bình Phước...

Hãy tính toán : Để sản xuất alumina với khối lượng 5 – 6 triệu tấn/năm trở lên sẽ rất khó khăn trong việc cân đối nguồn nước và xử lý chất thải. Để sản xuất nhôm thì thiếu nguồn điện, chỉ sản xuất ra tinh quặng alumina thì hiệu quả kinh tế rất thấp, thậm chí lỗ. Nếu là alumina thì hầu như chỉ có một khả năng duy nhất là bán cho Trung Quốc, sẽ tạo ra sự lệ thuộc nguy hiểm ; bởi vì trong vùng Đông Á và Đông Nam Á ngoài Trung Quốc không nước nào nhập alumina, đi xa nữa bô-xít của ta không chịu nổi cước phí vận tải và khó cạnh tranh, nên hầu như cũng không có người mua.

Như mọi người đều biết, toàn bộ các vấn đề nước, điện, giao thông vận tải cần thiết cho hai dự án làm alumina đã bắt đầu triển khai trước mắt chủ yếu dựa trên những điều kiện có sẵn, hoặc là vừa làm vừa tính toán tiếp (vì còn đang lựa chọn, chưa ngã ngũ một phương án nhất định nào).

Dưới đây xin nêu lên từng vấn đề để xem xét :

Về vận tải : Hai dự án Tân Rai và Nhân Cơ tuy đã triển khai (ký kết xong hợp đồng, san mặt bằng, đang đẩy xúc tiến đền bù giải toả nơi khai mỏ...) nhưng đến nay vẫn chưa có lời giải dứt khoát cho vấn đề giao thông vận tải, bao gồm nguyên vật liệu các loại cho quá trình chưng tách quặng (là than, hoá chất...) và cho sản phẩm alumina làm ra. Hơn nữa than, hoá chất, alumina... đòi hỏi phải có các phương tiện vận tải chuyên dụng khác nhau, trên một chiều dài khoảng 250 - 300km đường núi, đi ngược chiều nhau, nghĩa là lượt lên núi có hàng (than, hoá chất...), lượt xuống núi không tải ; hoặc ngược lại : lượt xuống núi có hàng (alumina), lượt trở lại núi là không tải ; hệ quả sẽ rất tốn kém (tiến sỹ Nguyễn Văn Ban).

*

Theo chương trình của TKV, trong một vài năm đầu tiên, sẽ phải vận chuyển cho cả hai chiều một khối lượng tổng cộng là 3-5 triệu tấn/năm, sau đó tăng dần lên khoảng 10-15 triệu tấn/năm vào khoảng 2015, tăng dần đến năm 2025 sẽ lên tới khoảng trên 30 triệu tấn/năm hoặc hơn nữa. Đi bằng đường nào ?

Có thể hình dung kịch bản : Theo chương trình của TKV, khoảng năm 2011-2015 sản xuất alumina sẽ hoàn thành giai đoạn I với công xuất khoảng 6-8 triệu tấn/năm, tổng khối lượng vận tải cả hai chiều đi và về từ nhà máy đến cảng phải thực hiện ước tính sẽ khoảng 15-16 triệu tấn/năm. Song nếu có tiền và quyết tâm xây dựng đường sá bến cảng trong điều kiện của ta hiện nay, thì cũng phải vào năm 2020 mới thực hiện được khối lượng đường sá này. Có câu hỏi : Làm gì với 5 hay 6 năm vênh nhau này ?

*

Hiện nay còn đang tính xem sẽ là đường sắt, đường bộ, hay là đường ống? Đã có dự kiến sẽ làm đường sắt. Song với độ cao 800m, cự ly ngắn, địa thế núi non hiểm trở.., con đường sắt này phải thiết kế như thế nào? Khảo sát và xây dựng bao giờ xong?.. Nếu là đường chuyên dụng thì rất tốn kém; nếu là kết hợp với kinh tế dân sinh cũng rất phi kinh tế vì đường sắt sẽ chỉ đi qua những nơi hoang vắng dân cư và phải kéo dài thêm nhiều. Dự trù của TKV cho đường sắt là 1,3 tỷ USD, nhưng thực tế có thể lên tới 3 tỷ USD, cho đến nay tất cả các đối tác nước ngoài muốn khai thác bô-xít đều từ chối hạng mục này trong đầu tư vào alumina Tây Nguyên, nói đây là nhiệm vụ của nước chủ nhà. Như vậy chỉ còn cách nhà nước bỏ tiền ngân sách hoặc đi vay để đầu tư vào giải quyết những vấn đề này nhằm phục vụ các dự án bô-xít? Đường sắt làm nhanh cũng phải 5-7 năm !
*

Các hệ thống đường bộ hiện có ở vùng này hoàn toàn không có khả năng cáng đáng thêm lưu lượng vận tải (đi và về) cho sản xuất alumina này – dù chỉ là trong một thời gian ngắn.
*

Đến nay cũng chưa có cảng để xuất khẩu (địa điểm dự định là cảng Kê Gà, nhưng đang có nhiều vấn đề gây tranh cãi, trước hết vì tác động vào du lịch miền Trung).
*

Trước tình hình có nhiều ý kiến lo lắng về vận tải, nguồn nước và môi trường nếu sản xuất alumina ở Tây Nguyên, có ý kiến đề xuất làm đường ống đưa bô-xít xuống núi và đặt nhà máy chưng tách tại Bình Thuận, tống thải bùn đỏ ra vùng gần biển. Song đây mới chỉ là một ý tưởng, chưa hề có sự nghiên cứu, khảo sát chi tiết và sự chuẩn bị nào.
*

Vân vân...

Xin lưu ý : Nước ta nghèo, đất chật người đông, không cho phép lấy đâu ra vốn và đất đai xây dựng một hệ thống đường sắt hay đường bộ chuyên dụng chỉ để phục vụ cho một mục đích duy nhất là đào bô-xít chưng tách thành quặng sơ chế alumina đem đi bán cho nước ngoài. Trong tình hình đường sá như hiện nay, chỉ riêng tính đủ chi phí vận tải – bao gồm cả chi phí duy tu đường sá, hạch toán giá thành sản phẩm theo giá FOB (giá tại cảng) chắc chắn sẽ cao hơn giá thị trường thế giới rất nhiều2.

Về công nghệ : Hiện nay, nhà máy đầu tiên ở Bảo Lâm, Lâm Đồng đã được khởi công xây dựng. Tập đoàn CHALIECO (Trung Quốc) đã trúng thầu gói thầu và ký hợp đồng chìa khoá trao tay (EPC – Enginering - Procurement – Construction) xây dựng nhà máy với giá trị 466 triệu USD, đã bắt đầu trao tiền. Nhà máy còn lại ở Đăk Nông hợp đồng EPC ký với CHALECO làm nhà máy chưng tách alumina ở Nhân Cơ đã được phê duyệt. Như thế, cả hai nhà máy alumina đầu tiên ở Việt Nam đều do Trung Quốc trúng thầu và sử dụng công nghệ Trung Quốc.

*

Chúng ta đã có quá nhiều bài học với công nghệ của Trung Quốc trong các công trình đầu tư vào Việt Nam (các nhà máy mía đường, xi-măng lò đứng, đồng Sinh Quyền, chrome Cổ Định, các nhà máy điện...). Song các bản thuyết trình của Tập đoàn Than & khoáng sản Việt Nam (TKV) lại luôn luôn giải trình là sẽ áp dụng công nghệ tiên tiên nhất trên thế giới. Vậy sự thật 2 dự án này sẽ áp dụng công nghệ nào ? Có ý kiến của giới chuyên môn lưu ý chúng ta : Trung Quốc không phải là nước có công nghệ nguồn trong sản xuất alumina và luyện nhôm. Hơn nữa, cho đến nay công nghệ trong các nhà máy sản xuất alumina của Trung Quốc là dùng để chế biến quặng bô-xít diaspo (hydrat đơn hay quặng 1 nước) - giống như nhà máy ở Bình Quả thuộc tỉnh Quảng Tây (nơi gần đây Bộ Công Thương và tập đoàn TKV vừa tổ chức tham quan cho đại diện các ban ngành Trung ương). Trong khi đó, bô-xít ở Tây Nguyên là quặng bô-xít gipsit (hydrat 3 hay quặng 3 nước), đòi hỏi sự khác biệt về công nghệ ; vậy công nghệ của hai nhà máy Tân Rai và Nhân Cơ thích ứng cho loại quặng nào ? Vấn đề này liên quan đến chất lượng sản phẩm và giá thành.
*

Một vấn đề đáng tiếc khác là TKV ký hợp đồng dưới dạng chìa khoá trao tay (EPC), loại bỏ ngay từ đầu khả năng của ta lựa chọn công nghệ và thiết bị ; phải mua các thứ nhập của Trung Quốc từ A tới Z cho việc xây dựng và lắp ráp hoàn chỉnh nhà máy, trong khi đó có nhiều thứ nước ta có thể cung cấp – từ nguyên vật liệu, những thiết bị nhất định, nhân lực...; phải để cho Trung Quốc đưa một khối lượng lớn công nhân xây dựng và lắp ráp Trung Quốc vào Tây Nguyên (TKV cho biết khoảng 1500 công nhân TQ cho việc xây dựng và lắp ráp một nhà máy) mà phía ta hoàn toàn có khả năng cung cấp, ngọai trừ một số rất ít các chuyên gia và kỹ thuật viên chuyên về alumina ta có thể chưa có. Việc tuyển dụng một số lớn lao động nước ngoài như đang diễn ra ở Tân Rai vi phạm nhiều điều khoản trong Nghị định số 34/2008/NĐ-CP ngày 25 tháng 03 năm 2008 của Chính phủ QUY ĐỊNH VỄ TUYỂN DỤNG VÀ QUẢN LÝ NGƯỜI NƯỚC NGOÀI LÀM VIỆC TẠI VIỆT NAM3.
*

Cần lưu ý sau 25 năm phát triển đất nước trong đổi mới và thu hút FDI, ngày nay đã qua rồi thời kỳ Việt Nam phải mua nhà máy kiểu chìa khoá trao tay (EPC) với nhiều thua thiệt và bị động nhiều mặt như 2 hợp đồng TKV đã ký với CHALIECO. Ngày nay trình độ phát triển mọi mặt của đất nước – kể cả về nhân lực, tài chính và kỹ thuật chuyên môn, công nghệ, năng lực quản lý, khả năng cung ứng trong nước... – Việt Nam hoàn toàn có đủ khả năng xây dựng hai nhà máy alumina Nhân Cơ và Tân Rai dưới dạng hợp đồng liên doanh (EPCM), qua đó giành được nhiều điểm nước chủ nhà nhất thiết phải nắm lấy. Cùng với các hợp đồng EPC khác đã ký kết với Trung Quốc và đã thực hiện trong cả nước, 2 hợp đồng EPC của TKV đã ký kết và đang triển khai là những bài học cần được rút ra.

Về môi trường : Vấn đề bùn đỏ là vấn đề môi trường cần được quan tâm trong quá trình sản xuất alumina. Cách thức phổ biến về xử lý bùn đỏ trên thế giới là xây hồ chứa hoặc chôn cất bùn đỏ ở nơi hoang vắng, xa các vùng đầu nguồn các sông suối và các mạch nước ngầm.., nơi bằng phẳng, không trôi dạt đi nơi khác, nền hồ không bị thẩm thấu, không bị phong hoá qua thời gian...

*

Trong phòng thí nghiệm, về mặt khoa học kỹ thuật thuần tuý, công nghệ hiện đại ngày nay trên thế giới về cơ bản có thể xử lý các vấn đề bùn đỏ và nước bùn đỏ nhiễm hoá chất trong quá trình sản xuất alumina. Tuy nhiên trong ứng dụng, tại nhiều nước vẫn còn phát sinh nhiều vấn đề mới chưa có các biện pháp xử lý thoả đáng (tại Úc và Mỹ đã xẩy ra một số trường hợp phải đình chỉ tạm thời một số công nghệ xử lý môi trường đang ứng dụng để nghiên cứu tiếp).
*

Cho đến nay ở nước ta chưa có nghiên cứu nào của giới khoa học đánh giá mọi mặt và khuyến nghị nên lựa chọn công nghệ hiện đại nào hiện có trên thế giới là phù hợp với điều kiện địa lý tự hiên và khí hậu ở Tây Nguyên, chi phí như thế nào ? tác động vào giá thành ra sao ? vân vân... Chỉ riêng vấn đề hồ chứa chất thải là bùn đỏ nhiễm hoá chất ở Tây Nguyên sẽ rất khác so với nhiều nước trên thế giới : hồ ở trên cao, vùng đất có độ dốc lớn, đất có độ thẩm thấu cao, nơi đầu nguồn các sông suối quan trọng và nhiều mạch nước ngầm, thời tiết khắc nghiệt, bản thân Tây Nguyên hiện nay đã là vùng đông dân cư và đồng thời tiếp giáp với nhiều vùng dân cư lớn khác ở Đông Nam Bộ và Trung Bộ, vân vân... Tất cả dẫn đến hệ quả là hồ chứa chất thải bùn đỏ nhiễm hoá chất ở Tây Nguyên khó xử lý hơn và đắt hơn, tiềm tàng nhiều mối nguy lớn nhất là kể từ thời kỳ hậu khai thác (vì bùn đỏ nhiễm hoá chất tồn lại mãi mãi trong hồ). Nhà nước ta chật vật mãi vẫn xử lý chưa xong vụ Vedan, vậy có nên tự mình cho phép thai nghén một vụ Vedan mới khổng lồ và nguy hiểm hơn nhiều lần đối với toàn bộ vùng hạ lưu sông Đồng Nai và miền Đông Nam Bộ hay không ?
*

Ngoài ra còn nhiều vấn đề khác đặc biệt khó xử lý ở Tây Nguyên, như bụi đỏ, nước bùn đỏ lúc rửa quặng vùng gió nhiều và rất thiếu nước trong 6 tháng mùa khô, vân vân...
*

Xin đặc biệt lưu ý : Những hiểm họa về môi trường tự nhiên cho dù xem xét trên phương diện công nghệ và khoa học kỹ thuật là có thể khống chế được, song rất tốn kém và cũng sẽ chồng chất thêm những gánh nặng mới về kinh tế, cuối cùng sẽ là tăng thêm sự thua lỗ. Hơn nữa kiểm soát vấn đề môi trường còn phụ thuộc rất nhiều về khả năng quản lý, khả năng thực thi luật pháp – nhất là trong thời kỳ hậu khai thác. Riêng vấn đề xói mòn tại vùng cao Tây Nguyên do lớp vỏ cứng là bô-xít bị bóc đi, lại là nơi có mưa gió rất khắc nghiệt, nên sẽ để gây ra hệ quả khôn lường, không tính toán hết được (giáo sư Nguyễn Đình Hoè).

Về hoàn thổ : Hàng nghìn hecta rừng và đất trồng trọt tiêu, chè, cà-phê, điều... bị bóc đi sẽ không dễ dàng phục hồi như TKV giải trình. Ở nước ta, ngoài kinh nghiệm hoàn thổ thất bại tại những nơi khai thác than tại Quảng Ninh, kinh nghiệm ở Úc, Mỹ cho thấy việc hoàn thổ các mỏ bô-xit nếu làm tốt cũng phải mất 20 năm mới có thể tạo thành đất trồng trọt, song chủ yếu cũng sẽ chỉ thích hợp cho loại cây làm nguyên liệu, không thích hợp cho các loại cây làm ra thực phẩm – vì đất mới hoàn thổ nhiễm nhiều khoáng chất mới độc hại con người không thể hấp thụ được.

*

Cần lưu ý, trữ lượng bô-xít ở Tây Nguyên được đánh giá là lớn, song hàm lượng quặng là loại trung bình hay trung bình thấp (khoảng 0,4 đến 0,5; trong khi đó ở Úc và nhiều nơi khác là 0,6). Vỉa quặng ở Tây Nguyên nhìn chung mỏng, nhiều khi phân bổ không tập trung theo kiểu da báo, các tài liệu của TKV thừa nhận : ở Tây Nguyên để có được một lượng bô-xít tương đương thì diện tích lớp đất trầm tích trên bề mặt phải bóc đi để khai mỏ sẽ lớn gấp 3 đến 4 lần, thậm chí nhiều chỗ là 5 lần so với khai thác bô-xít ở Úc, Brasil. Điều này có nghĩa diện tích lớp đất bề mặt phải bóc đi và sau đó phải hoàn thổ đều tăng lên ít nhất gấp 3-4 lần so với các nước nói trên, do đó mức tàn phá môi trường tự nhiên sẽ lớn hơn nhiều, cảnh quan bị hủy hoại nặng vì sự phân bổ quặng theo kiểu da báo; giá thành và những tác động ngoại vi (externalities) cũng sẽ tăng lên nhiều.
*

Ngoài ra nhiều nhà khoa học trên thế giới đã cảnh báo những nguy cơ thường xảy ra ở những vùng đất đã hoàn thổ sau khi khai thác quặng : xuất hiện những cây lạ khó diệt (ví dụ : nhóm cây mimosa pigra rất độc), nguy cơ sạt lở đất... (giáo sư Nguyễn Đình Hoè).

Về điện : Điện phân để có được 1 tấn nhôm từ alumina cần tiêu thụ khoảng 14.500 đến 15.500 kwh (tương đương với lượng điện của một hộ gia đình bình thường ở nước ta tiêu thụ ở mức 100 kwh/tháng trong 15 năm !). Nói thô thiển, cứ sản xuất (điện phân) 100 nghìn tấn nhôm/năm, cần phải có một nhà máy điện với công suất là 300 - 350 Mw – tương đương với nhà máy thủy điện Trị An. Ngoài ra phải đầu tư cho nhà máy điện phân nhôm, ước tính 4500-5500 USD/tấn công suất. Giả định rằng muốn trở thành một quốc gia xuất khẩu nhôm, tối thiểu nước ta phải làm ra khoảng 0,5 triệu tấn nhôm/năm, nghĩa là cần phải có thêm một lượng điện tương đương với 5 nhà máy thủy điện Trị An cộng lại và phải đầu tư thêm 2,5 tỷ USD cho nhà máy điện phân nhôm. Lấy đâu ra nguồn lực này ? Song nếu làm được thì cũng phải vào khoảng 2020-2025 mới có nhôm, không thể sớm hơn được ; mà như vậy thì chỉ vừa đủ đáp ứng nhu cầu trong nước vào thời gian đó (hiện nay nước ta tiêu thụ khoảng 100-150 nghìn tấn nhôm/năm) ; trong khi đó thế giới hiện nay sản xuất khoảng 70-90 triệu tấn/năm, thị trường dư thừa, ta có thể nhập dễ dàng. Vậy có nên làm nhôm để tự túc một cách tốn kém như vậy không ? Làm nhôm để xuất khẩu càng lực bất tòng tâm.

*

Hiện nay nước ta đang thiếu điện và ngày càng thiếu trầm trọng, đang phải tính đến tăng giá điện và nhập điện. Trong tương lai rất gần sẽ phải nhập than và dầu, đã phải tính đến điện từ năng lượng hạt nhân. Trong tình hình như vậy, dành điện cho điện phân nhôm ở nước ta là phi kinh tế và không khả thi, chí ít là cho đến năm 2025. Điều này cũng có nghĩa từ nay đến năm 2025 Tây Nguyên chỉ có thể sản xuất được alumina mà thôi. Quyết định khai thác bô-xít ở quy mô lớn mà cuối cùng chỉ là để bán alumina sẽ gần giống như tự sát. Có nên không ?
*

TKV giải trình sẽ xúc tiến thuỷ điện Đồng Nai 5 với công suất 300 MW. Song nhà máy thủy điện (dự kiến) Đồng Nai 5 còn thiếu những tính toán cân đối nguồn nước, quy hoạch, thiết kế và vốn. Trên thực tế nhà máy thủy điện Đồng Nai 5 đã được Chính phủ giao cho TKV cách đây nhiều năm, nhưng cho đến nay vẫn chưa khởi công được. TKV nói dự kiến sẽ xây thêm 3 nhà máy nhiệt điện (để tạo ra hơi nóng, phục vụ sản xuất alumina) với công suất 30MW/1 nhà máy. Giả thiết là làm được tất cả 4 nhà máy điện này, cũng chỉ đủ điện phân khoảng 80.000 tấn / năm, hiệu quả kinh tế sẽ rất thấp, nếu như không muốn nói là lỗ. Bây giờ mới dự kiến ? Đấy là chưa nói đến việc nếu có thêm điện thì dùng làm gì trong nền kinh tế đang đói điện của nước ta là có lợi nhất!4
*

Một bài toán kinh tế khác : Để có thể cạnh tranh, TKV thừa nhận giá điện dành cho điện phân nhôm không được quá 4-4,5 cent USD/1kwh, ở nhiều nước sản xuất nhôm với giá điện chỉ là 3,5 cent USD/1kwh ; thế nhưng giá điện ở nước ta hiện nay là 6-7 cent USD và dự kiến sẽ tăng nữa, như vậy ở nước ta nếu làm điện phân nhôm thì mỗi tấn nhôm sẽ phải bù lỗ trung bình 300 - 350 USD riêng cho điện, có nên không ? Xin lưu ý : Xuất khẩu nhôm trên thực tế là xuất khẩu điện. Ngày nay ngoài Mỹ và Trung Quốc là hai nền kinh tế lớn với nhiều đặc thù không đâu có, trên thế giới hầu như không còn quốc gia nào nhập năng lượng mà lại dám sản xuất nhôm.

Nước : Để sản xuất 1 tấn alumina thời kỳ đầu cần khoảng 30m3/tấn alumina, khi có thể sử dụng lại nước tuần hoàn cần bổ sung thêm 12m3/tấn alumina. Vài năm đầu tiên hai dự án Tân Rai và Nhân Cơ dự kiến đạt tổng sản lượng khoảng 1,2 triệu tấn alumina/năm, cần phải có khoảng 24 triệu m3 nước/năm. Đến năm 2015 dự kiến tăng công suất lên gấp đôi, và cùng với các nhà máy khác sẽ được xây dựng trên Tây Nguyên nhằm đạt công suất khoảng 6 đến 8 triệu tấn alumina/ năm, nghĩa là cũng cần phải có một lượng nước khoảng 160 triệu m3/năm, lấy ở đâu ?

*

Thế nhưng việc cân đối nguồn nước ở Tây Nguyên cho việc sản xuất 6-8 triệu tấn alumina/năm hiện nay là nan giải, rất tốn kém, khó khả thi. Chính vì nguồn nước mặt ở Tây Nguyên rất khan hiếm, trồng trọt ngày càng phụ thuộc vào nước ngầm. Việc khai thác nước ngầm ở Tây Nguyên hiện nay đã tới mức báo động, nhiều nơi mực nước ngầm đã hạ thấp khoảng 5-13m so với thập kỷ trước). Tây Nguyên rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan : lấy nước cho alumina thì lại mất nước cho thủy điện và cho trồng trọt, hoặc ngược lại dành nước cho thủy điện và trồng trọt thì lại không có hay rất thiếu nước cho alumina. Quy mô sản xuất alumia càng lớn, tình trạng thiếu nước sẽ càng gay gắt. Nước cần cho 16-18 triệu tấn alumina/năm hầu như không cân dối được nguồn...
*

Vân vân...

Có thể nói trong hầu hết mọi vấn đề – từ công nghệ đến môi trường, đền bù và sử dụng đất đai, vấn đề hoàn thổ, điện, nước, hệ thống xử lý chất thải, hệ thống giao thông vận tải, vân vân.., trên thực tế cho đến nay là vẫn còn quá nhiều vấn đề để ngỏ, nghĩa là chưa có tính toán chi tiết và kết luận rõ ràng, chưa có sự lựa chọn nào dứt khoát với những quyết định cụ thể, còn nhiều vấn đề thiếu các luận chứng kinh tế, kỹ thuật khả thi và được phê duyệt bởi các cơ quan chuyên môn có năng lực.

TKV dự kiến vào khoảng năm 2015 Tây Nguyên có thể sản xuất ra 6-8 triệu tấn alumina/năm để xuất khẩu, và thị trường thế giới cho thấy chỉ có thể đem bán được cho một đối tác duy nhất là Trung Quốc. Làm như vậy, câu chuyện sẽ chẳng khác gì mua dây thắt thòng lọng rồi nhờ người đặt vào cổ mình.

Xin đừng quên những bài học trong những năm trước và ngay hiện nay: cao su, hoa quả và nhiều hàng hoá khác của ta xếp hàng nằm thối, mốc ở biên giới Việt – Trung không xuất sang được Trung Quốc, cuối cùng phải hủy bỏ, vì phía Trung Quốc gây sức ép khi thấy cần thiết.

Chú ý : Giải trình của ban Nhôm của TKV tháng 2-2009 với Hội đồng quản trị Tập đoàn TKV đã lưu ý : Nếu sản phẩm alumina của dự án nhà máy Nhân Cơ không bán được với giá 310 USD/tấn thì sẽ lỗ. Song hiện nay trong quý I/2009 giá alumina ở thị trường Úc trong dao động ở mức dưới 300 USD/tấn, giá thị trường thế giới hiện nay là 280 USD/tấn (giá FOB).

Đề nghị các chuyên gia kinh tế hãy thử dựa vào tình hình dao động giá cả alumina trên thị trường thế giới đang diễn ra và dự báo cho những năm tới để làm một vài con tính tổng quát đánh giá xem nên hay không nên khai thác bô-xít ở Tây Nguyên ?

Thuyết trình của TKV cho rằng tỷ lệ hoàn vốn nội tai (IRR) của alumina ở Tây Nguyên khoảng 10,4-11 %. Song cách hạch toán này là chính xác ? Đã tính đủ toàn bộ chi phí đầu tư các hạng mục thuộc các vấn đề nước, điện, giao thông vận tải từ khu mỏ cho đến cảng biển, các chi phí khác cho môi trường và cho những tác động ngoại vi hiển thị (lộ ra rõ ràng, thấy được) và không hiển thị (tiềm ẩn, không thấy được) (explicit and implicit externalities)... ?

Không thể không đặt ra vấn đề so sánh : Nếu đem toàn bộ các nguồn lực chi cho khai thác bô-xít Tây Nguyên vào việc phát triển Tây Nguyên theo một hướng khác, ví dụ một Tây Nguyên xanh, lợi hại sẽ ra sao ? Rất cần một đánh giá toàn diện như vậy theo phương thức “cost-benefit analysis” cho hai dự án bô-xít này nói riêng, bao gồm cả phân tích chi tiết về tài chính mà nền kinh tế của cả nước phải gánh chịu để có được alumina cập bến xuất khẩu, và cho toàn bộ chương trình khai thác bô-xít Tây Nguyên 2010-2025 nói chung.

Xin thử hình dung : Giả thiết rằng trong 5 năm đầu tiên (vào khoảng năm 2015) Tây Nguyên xuất khẩu trung bình được 3 - 4 triệu tấn alumina/năm, sẽ thu được khoảng 1-1,2 tỷ USD/năm; nghĩa là với lượng vốn đầu tư rất lớn, chiếm dụng đất đai rất lớn, gây ô nhiễm môi trường nặng nề và tác động nghiêm trọng đến nhiều vùng lân cận, tạo ra ít việc làm, cái giá phải trả cho các vấn đề môi trường xã hội và an ninh quốc gia rất cao, cũng chỉ có thể đạt được bằng kim ngạch xuất khẩu cao su hiện nay (1 -1,2 tỷ USD/năm). Nếu vào khoảng 2016-2025 muốn đưa sản xuất alumina lên khoảng 12-18 triệu tấn/năm như TKV dự kiến thì lại thiếu nước, điện, năng lực vận tải.., và vì thế khó khả thi! Đấy là chưa tính đến những thiệt hại kinh tế khác do lại thêm hàng nghìn ha vườn cây các loại và rừng bị bóc đi cùng với số việc làm bị mất theo, như vậy đã cầm chắc trong tay “lỗ đơn”, “lỗ kép”! Tác động của khai thác bô-xít vào các ngành kinh tế khác như du lịch, các sản phẩm nông nghiệp khác... ở ngay Tây Nguyên và trong các vùng chung quanh. Nghiên cứu theo hướng này, chắc chắn các chuyên gia kinh tế và các nhà khoa học còn có thể đưa ra nhiều bài toán cảnh báo khắc nghiệt khác.

Có thể nói công nghiệp bô-xít – alumina ở Tây Nguyên như đang triển khai rất nhậy cảm trên nhiều phương diện, có nguy cơ đẻ ra nhiều hệ quả xấu và nguy hiểm cho quốc gia, nhưng cách làm rất vội vã, theo một quy trình lộn ngược, thiếu những khảo sát, điều tra, tính toán vĩ mô đủ tin cậy. Mặt khác, vì còn quá nhiều hạng mục kết cấu hạ tầng cho hai dự án alumina đang triển khai mới chỉ là dự kiến, vừa làm vừa tính tiếp, nên rất dễ xảy ra những bất cập ngay trong quá trình sản xuất và dễ dẫn đến những thua lỗ, đổ vỡ, tốn kém lẽ ra không đáng có (do những mất cân đối giữa các khâu đầu vào đầu ra, tiến độ xây dựng các hạng mục lệch pha...), nhất là trong tình hình nước ta hiện nay có không ít công trình xây dựng kéo dài hay là dở dang “xuyên thế kỷ”.

Giải trình của TKV cam kết đầu tư khai thác bô-xít ở Tây Nguyên sẽ gắn với trách nhiệm phát triển kinh tế bền vững, xoá đói giảm nghèo, trí thức hoá cộng đồng dân tộc tại chỗ... (Đoàn Văn Kiển, tại Hội nghị báo cáo viên các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương ngày 25-12-2008, TPHCM, do Ban Tuyên giáo TƯ tổ chức). Thực tế ở nước ta cho thấy cho đến nay hầu như chưa có một khu mỏ hay khu công nghiệp chế biến khoáng sản nào trong cả nước có thể làm được 3 nhiệm vụ này, dù chỉ là một phần nhỏ. Vấn đề nước ngầm bị ô nhiễm nặng nề và các bãi thải như núi tại nhiều nơi khai thác than ở Quảng Ninh cho đến nay chưa có cách gì xử lý được chỉ ra một thực tế khác. Như vậy, cam kết của TKV tại hội nghị này là hiện thực ?

Còn hai vấn đề cực kỳ quan trọng khác trong khai thác bô-xít ở Tây Nguyên không thể bỏ qua, đó là : (a) vấn đề an ninh quốc gia, và (b) tác động đối với quê hương nơi sinh tồn của đồng bào các dân tộc ít người. Đã có nhiều ý kiến phản biện rất xác đáng, nêu lên tầm quan trọng chiến lược của Tây Nguyên đối với an ninh của cả nước. Những bài này cho thấy khai thác bô-xít như TKV đang triển khai có những sơ hở vi phạm nguyên tắc phải kết hợp kinh tế với an ninh quốc phòng, đồng thời có nguy cơ xáo trộn nguy hiểm đời sống mọi mặt của các cộng đồng dân tộc ít người tại đây.

Nói khai thác bô-xít sẽ mang lại việc làm, giàu có và văn minh cho đồng bào các dân tộc Tây Nguyên như trong các giải trình của TKV phải chăng là quá văn hoa ! Xin nhớ lại : Trong 34 năm vừa qua, với sự nỗ lực của cả nước, đã có không biết bao nhiêu chương trình quốc gia, bao nhiêu chính sách phát triển Tây Nguyên bền vững, với đủ mọi kinh phí các loại (từ ngân sách nhà nước, đầu tư trong nước, ODA, FDI...), tổng cộng lên tới hàng chục tỷ USD, song cho đến nay vẫn chưa giải quyết xong vấn đề phát triển Tây Nguyên như mong muốn. Xáo trộn dân cư hiện nay vẫn tiếp diễn một cách nguy hiểm, rừng Tây Nguyên tiếp tục bị phá và nghèo kiệt. Khai thác bô-xít của TKV sẽ tạo ra sự phát triển bền vững ở Tây Nguyên mà 34 năm qua chúng ta với nỗ lực của cả nước chưa làm được ? Xin đặt một câu hỏi khác : Hơn 60 năm khai thác than ở Quảng Ninh đã đóng góp được gì vào giầu có văn minh của đất nước ? Triển vọng hiện thực hơn của các mỏ bô-xít như cách đang triển khai trong bối cảnh nền kinh tế và tình hình phát triển đất nước hiện nay chỉ có thể là : Sẽ tạo thêm một sự huỷ hoại mới về mọi mặt ở Tây Nguyên không cứu chữa được.

Chỉ xin nêu lên một nhận xét khái quát : Trong vấn đề an ninh quốc gia và trong vấn đề gìn giữ quê hương các dân tộc anh em, nếu để xảy ra sơ suất, có thể sẽ mang trọng tội đối với đất nước. Thời nào cũng vậy, giữ lòng dân bao giờ cũng là đòi hỏi quan trọng hàng đầu đối với an ninh quốc gia.

Có thể kết luận : Hai dự án khai thác bô-xít như TKV đang triển khai không tuân thủ quan điểm thăm dò, khai thác và chế biến quặng bô-xít như đã nêu trong quyết định số 167/2007/QĐ-TTg ngày 01 tháng 11 năm 2007 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (điểm 1, phần Quan điểm), không đúng với chủ trương Đại hội X của Đảng về việc hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thô.

Ba là : Các ý tưởng và lộ trình triển khai công nghiệp bô-xít và luyện nhôm đang được TKV tiến hành theo quy trình lộn ngược, mới chỉ dựa trên cơ sở tài nguyên bô-xít dồi dào của đất nước có thể khai thác, nhưng lại thiếu hẳn sự cân đối các mặt năng lượng, giao thông vận tải, khả năng xử lý môi trường, hạch toán kinh tế. Đặc biệt đáng lo ngại là còn nhiều bài toán kinh tế vỹ mô khác liên quan đến chiến lược phát triển đất nước chưa được đề cập tới. Khai thác bô-xít Tây Nguyên như đang tiến hành là phiêu lưu và là sự lựa chọn kéo dài sự tụt hậu của đất nước.

Toàn bộ ý tưởng và chương trình phát triển công nghiệp bô-xít – nhôm như TKV đang triển khai được thiết kế theo lối tư duy : Đất nước giầu tài nguyên bô-xit thì đặt vấn đề khai thác tài nguyên này để tận dụng, thiếu hẳn sự phân tích thấu đáo mất/được mọi mặt. Đấy là cách tư duy kinh tế làm cái gì ta có, không xuất phát từ tư duy làm cái gì thị trường cần mà nước ta có khả năng đáp ứng tối ưu nhất cho sự nghiêp phát triển đất nước, không được đặt trong bối cảnh Việt Nam là nước đi sau và đã hội nhập toàn diện vào nền kinh tế thế giới toàn cầu hoá, có khả năng huy động nguồn lực từ mọi nơi và đồng thời phải cạnh tranh quyết liệt và toàn diện với mọi nơi, không coi Việt Nam là một bộ phận của kinh tế thế giới.

Cách tiếp cận công nghiệp bô-xít – nhôm như TKV đang làm là cách tiếp cận cổ điển ở đầu thế kỷ trước, lạc hậu so với tư duy khai thác lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh và lợi thế nước đi sau trong bối cảnh tiến bộ khoa học kỹ thuật đã đạt được ở thời đại ngày nay, lạc hậu so với trình độ quốc tế hoá và toàn cầu hoá của nền kinh tế thế giới trong hiện tại.

Trong thế giới hiện tại, không có một quốc gia nào có thể trở thành nước công nghiệp tiên tiến và phát triển nhờ khai thác tài nguyên thiên nhiên không tái tạo được để đem bán cho nước ngoài (cứ nhìn các quốc gia Ả-rập hay nhiểu nước khác sống chủ yếu bằng thu nhập từ dầu lửa thì thấy rõ điều này ; Nga hiện nay là nước xuất khẩu tài nguyên rất lớn, nhưng kinh tế vẫn nghèo và lạc hậu hơn Hàn Quốc, v.v...). Thậm chí quốc gia nào ngày nay càng lún sâu vào khai thác tài nguyên thiên nhiên không tái tạo được thì càng chìm sâu vào lạc hậu hoặc trở nên tụt hậu. Trong khi đó trên thế giới hôm nay ngày càng nhiều quốc gia trở nên giầu có và phát triển nhờ có nền kinh tế “carbon thấp”, kinh tế có nhiều hàm lượng công nghệ và chất xám, kinh tế tri thức.

Nước ta đất chật người đông, nguồn tài nguyên hay nguồn lực lớn nhất, quý báu nhất và hợp với xu thế thời đại nhất để phát triển đất nước là con người và khả năng phát triển kỹ năng lao động và chất xám của nó. Đấy còn là nguồn lực thích hợp nhất, tối ưu nhất để phát triển đất nước trong thế giới hiện tại, phù hợp với xu thế phát triển của thế giới, đồng thời cũng là con đường từng bước đưa nước ta vào hàng ngũ các nước phát triển tiên tiến trên thế giới.

Nguồn lực to lớn thứ hai của nước ta sau nguồn lực con người là quỹ đất đai không thể nói là giầu có của đất nước, nếu nhìn dưới góc độ mật độ dân số của nước ta cao hơn mật độ dân số của thế giới, của châu Á và của Trung Quốc !

Vị trí địa kinh tế và địa chính trị của nước ta càng đòi hỏi phải sớm dứt khoát lựa chọn con đường phát triển dựa trên phát huy tối ưu nguồn lực con người. Dồn sức đầu tư vào phát triển nguồn lực con người, và phát triển kết cấu hạ tầng (bao gồm kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng xã hội), cải cách thể chế để thực hiện được phát huy nguồn lực con người, đó mới là lối ra cho nước ta thoát khỏi số phận nước nghèo và lạc hậu.

Trong khi đó khai thác bô-xít như đang triển khai thực tế là con đường bán tài nguyên thiên nhiên không tái tạo được, bán sức lao động cơ bắp, bán không gian sống và bán môi trường. Đấy là sự tiếp tục con đường trở thành đất nước của những người đi làm thuê và đất nước cho thuê bãi thải công nghiệp. Con đường này đang kìm hãm sự phát triển năng động của đất nước, đẩy đất nước dấn sâu thêm vào tụt hậu.

Giả định rằng nước ta đã tìm ra được kết luận đúng đắn, chủ trương vào lúc nào đó và bằng cách nào đó sẽ phát triển công nghiệp bô-xít – nhôm, thì kết luận này chỉ được phép hình thành : (a) sau khi nghiên cứu đầy đủ lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh, lợi thế nước đi sau của nước ta trong nền kinh tế thế giới toàn cầu hoá ngày nay, đã xây dựng xong chương trình phát triển công nghiệp nhôm trong khuôn khổ chiến lược phát triển chung của quốc gia, (b) sau khi đã tính xong và quy hoạch xong phát triển kết cấu hạ tầng và nguồn nhân lực cần thiết cho việc triển khai ngành công nghiệp bẩn và giá trị gia tăng thấp này. Thậm chí việc đi vào triển khai công nghiệp này cần phải đi sau một bước sự chuẩn bị mọi mặt về kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, công nghệ và luật pháp có liên quan – sự chuẩn bị này phải chia thành các bước, bước một, bước hai, vân vân... Nói việc khai thác bô-xít sẽ được làm như thế nào ? và sẽ triển khai vào khi nào ? là có lợi nhất cho quốc gia, chính là nói theo tinh thần này.

Là nước đi sau, đồng thời là một bộ phận của kinh tế thế giới với tất cả những lợi và bất lợi do vị thế địa kinh tế và địa chính trị của nước đem lại, nước ta cần tìm câu trả lời thoả đáng : Phát triển sản phẩm thượng nguồn, nói rộng ra nữa là phát triển kinh tế thượng nguồn như thế nào, vào lúc nào, và đến mức nào là tối ưu nhất ? Công nghiệp bô-xít – alumina – nhôm như TKV đang tiến hành không đếm xỉa đến câu hỏi này.

Nhôm chưa bao giờ là mặt hàng khan hiếm trên thế giới, một vài thập kỷ tới chắc chắn cũng sẽ như vậy. Thậm chí một số nước châu Âu và Mỹ hiện nay đang phải giảm sản xuất nhôm vì trên thị trường thế giới cung vượt cầu, và vì các lý do năng lượng, môi trường. Một số nước phải bỏ hẳn cả công nghiệp điện phân nhôm, mặc dù họ đã làm chủ được công nghệ cao. Toàn bộ khối lượng nhôm nước ta tiêu thụ hàng năm hiện nay chỉ khoảng 100-150 nghìn tấn. Nếu trong vòng một hai thập kỷ tới mức tiêu thụ này tăng lên tới ba bốn trăm nghìn hay nửa triệu tấn cũng không thấm tháp gì so với khả năng cung ứng của thị trường thế giới, hiện nay là khoảng 70-90 triệu tấn. Thực tế này cho phép nước ta từ nay cho đến 2025-2030 có thể thoả sức phát triển các ngành hay các sản phẩm công nghiệp có sử dụng nhôm mà không cần tính tới việc phải khai thác bô-xít ở nước ta để tự túc. Công nghiệp nhôm ở khâu thượng nguồn như TKV đang triển khai cần được đặt cho cái tên gọi chính xác là công nghiệp alumina đầy rủi ro.

Trong tình hình nguồn cung nhôm hiện nay trên thị trường thế giới còn dồi dào một thời gian dài, nước ta dù đang ở trình độ thấp, song sau 25 năm phát triển trong đổi mới đã hội đủ mọi khả năng và những điều kiện cơ bản để lựa chọn ngay từ bây giờ con đường tiếp cận công nghiệp nhôm ở khâu hạ nguồn, vừa tạo ra được sự phát triển bền vững, đồng thời làm ra nhiều hơn giá trị gia tăng, không phải chờ và cũng không cần phải bắt đầu từ việc mở ra công nghiệp alumina trong nước.

Câu chuyện còn lại ở nước ta chỉ là tầm nhìn, ý chí và sự lựa chọn chiến lược.

Hàn Quốc cho đến hôm nay vẫn không làm ra nổi lấy một tấn alumina, nhưng họ đang có một loạt các loại sản phẩm công nghiệp có sử dụng nhôm chỉ đứng sau Mỹ, Nhật... Cũng xin đừng quên trong xu thế phát triển công nghiệp hiện nay trên thế giới, nguyên liệu nhôm đang dần dần phải nhường chỗ cho nhiều nguyên liệu thay thế khác, đồng thời mặt khác xuất hiện ngày càng nhiều loại hợp kim quý có nhôm – vì vậy, sớm tìm đường đi thẳng vào công nghiệp hạ nguồn ngày càng trở thành vấn đề sống còn đối với các nước đi sau.

Trung Quốc, với nghĩa nào đó cũng là một nước đi sau trong công nghiệp nhôm. Song với 1,3 tỷ dân, tự thân Trung Quốc là một nền kinh tế hoàn chỉnh với nghĩa bắt buộc phải phát triển mọi dạng nguyên liệu. Trung Quốc hiện nay nước thứ hai trên thế giới về sản xuất nhôm (ước 16 triệu tấn/năm). Tuy vậy, Trung Quốc làm nhôm chủ yếu không phải là để có nhôm hay dành cho xuất khẩu, mà trước hết là để phục vụ các ngành công nghiệp sử dụng nhôm, nhất là những ngành công nghiệp cao cấp mà Trung Quốc đang quyết tâm giành lấy như máy bay, ô-tô vv..

Các nước Tây Âu, Nhật... ngày nay gần như bỏ hẳn công nghiệp điện phân nhôm, để chuyên sâu vào công nghiệp luyện nhôm tinh khiết và hợp kim nhôm cao cấp cần thiết cho công nghiệp hiện đại. Nghĩa là họ ngày càng đi sâu vào công nghiệp các sản phẩm hạ nguồn.

Bốn là : cần đặt vấn đề khai thác bô-xít trong bối cảnh chung của cả nền kinh tế nước ta hiện nay và những đòi hỏi phát triển của đất nước.

Ngày 04-02-2009, phát biểu với báo chí Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nêu rõ : Nền kinh tế nước ta đứng trước đòi hỏi đẩy nhanh quá trình cải cách và chuyển đổi mô hình tăng trưởng, từ mô hình tăng trưởng chủ yếu là dựa vào các yếu tố theo chiều rộng sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu trên cơ sở phát huy nguồn lực và tính năng động của khu vực dân doanh, khai thác lợi thế so sánh, tăng đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp nhằm tạo ra năng lực cạnh tranh mới trong từng doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế (xem Vietnamnet 04-02-2009).

Hiển nhiên các dự án bô-xít ở Tây Nguyên đang triển khai hoàn toàn đi ngược lại quan điểm nói trên của Thủ tướng !

Thực tế đời sống kinh tế đất nước cũng cho thấy xu thế phát triển theo chiều rộng đã đạt tới cái ngưỡng không được phép vượt qua5. Tuy nhiên bên cạnh vấn đề bô-xít, còn nhiều biểu hiện cho thấy quá trình cải cách và chuyển đổi mô hình tăng trưởng này chưa diễn ra, nếu không muốn nói rằng xu thế phát triển theo chiều rộng vẫn đang lấn lướt như một quán tính.

Ví dụ, theo báo chí, với 23 dự án thép trong quy hoạch và với 32 dự án ngoài quy hoạch đã được cấp giấy phép, và nếu chúng sẽ được xây dựng đúng như ký kết, cộng lại tất cả vào khoảng năm 2020 hoặc sớm hơn một chút nước ta sẽ sản xuất ra 40 triệu tấn thép/năm (có bài báo nói là 60 triệu tấn), nghĩa là bằng 4/5 sản lượng thép hàng năm của nước Đức (hiện nay sản xuất khoảng 47 triệu tấn/năm) và bằng khoảng 45% sản lượng thép hàng năm của Nhật (hiện nay sản xuất khoảng 90 triệu tấn/năm). Hiện nay nước ta tiêu thụ mỗi năm khoảng 3-4 triệu tấn, vào năm 2020 ước tính tối đa sẽ lên tới 10-15 triệu tấn/năm, giả thiết rằng trong khoảng thời gian từ nay đến năm 2020 tiêu thụ thép ở nước ta có tốc độ tăng trưởng gấp 2-3 lần tốc độ tăng trưởng GDP. Như vậy sẽ dôi ra trên 20 triệu tấn/năm. Việt Nam định trở thành cường quốc xuất khẩu thép ?6

Xin lưu ý : Sát nách ta, Trung Quốc trong những năm gần đây sản xuất khoảng 400-450 triệu tấn thép/năm, trong đó dành cho xuất khẩu khoảng 45-55 triệu tấn/năm. Từ vài năm nay thép nước ta ế và lỗ vì không cạnh tranh nổi với thép Trung Quốc ngay trên thị trường nước ta. Hiện nay Trung Quốc đang giảm sản lượng và tổ chức lại ngành thép (dẹp bỏ số lượng quá nhiều các nhà máy hay công ty nhỏ để chuyển sang các lò luyện lớn và những tập đoàn lớn để nâng cao hiệu quả kinh tế). Ngay từ bây giờ đã nhìn thấy trước Chương trình 40 triệu tấn thép/năm của nước ta đang được triển khai sẽ đứng trước tình huống :

Kịch bản 1 : Cứ cho con số 40 triệu tấn thép/năm ở nước ta vào khoảng năm 2020 là hiện thực, có thể hình dung thép Việt Nam vào thời điểm ấy (2020) sẽ phải cạnh tranh gay gắt như thế nào. Đến nay chưa một quốc gia trên thế giới có thể thắng nổi sản phẩm giá rẻ của Trung Quốc ! Kể cả trong tình huống có ngoại thương lành mạnh. Vậy điều gì sẽ chờ đợi đối với thép của nước ta ? Song có điều là kịch bản 1 này hầu như chắc chắn là không thể diễn ra – vì khá nhiều dự án thép đã ký chắc sẽ chỉ nằm trên giấy.

Kịch bản 2 : Nếu con số 40 triệu tấn/năm trong quá trình thực hiện từ nay đến năm 2020 là không hiện thực (kịch bản 1 phá sản), nghĩa là nhiều dự án bỏ dở, chỉ là “xí chỗ”..., thì hậu quả xảy ra cũng sẽ nặng nề không kém, vì những tổn thất khó lường hết được do tình trạng dang dở của các dự án này gây ra cho nước ta. Kịch bản 2 này hầu như chắc chắn sẽ xảy ra ; với kết quả lạc quan nhất cũng chỉ có thể đạt được một hai chục triệu tấn thép/năm, lôm côm mọi chủng loại, thép thô là chủ yếu, giá thành cao, ô nhiễm môi trường nặng, lãng phí ghê gớm về mọi mặt do quy hoạch dở dang, vào năm 2020 thép nước ta sẽ vừa thừa, vừa thiếu, vừa ế... Cứ nhìn vào Trung Quốc hiện nay đang nai lưng dẹp bỏ không thương tiếc hàng trăm xí nghiệp sản xuất và chế biến thép loại lạc hậu trong cả nước để hiện đại hoá ngành thép của mình thì dự báo như vậy về kịch bản 2 của thép nước ta không phải là hoang tưởng.

Con số “ 40 triệu tấn thép/năm ” như vậy cho thấy : Với cách làm thép như đang tiến hành, dù kịch bản nào xảy ra cũng chỉ đem lại một màu xám cho đất nước. Tình hình này đặt ra nhiều vấn đề phải suy nghĩ. Một khi đã lao sâu vào công nghiệp thép, việc xoay trở để chuyển hướng sang ngành khác sẽ vô cùng chật vật và tốn kém. Một lần nữa lại có câu hỏi : Nước Việt Nam công nghiệp hoá không thể thiếu thép, nhưng phải có thép và làm thép như thế nào ?

Đi sâu vào công nghiệp thượng nguồn như cách đang tiến hành, nền kinh tế đất nước từ nay đến năm 2020 rơi vào tính huống : Cả hai ngành “alumina” và “thép” sẽ giành giật nhau căng thẳng mọi nguồn lực khan hiếm của đất nước (vốn, năng lượng, kết cấu hạ tầng, nhân lực, các dịch vụ về thể chế, năng lực quản lý quốc gia, vân vân...) ; đồng thời cả 2 ngành công nghiệp này sẽ cùng nhau hành hạ nền kinh tế đất nước bằng cách đẩy đất nước vào những căng thẳng mới, những mất cân đối lớn, tăng thêm gánh nặng cho môi trường, đồng thời giảm thiểu lợi thế cạnh tranh của ta.

Hiển nhiên, nền kinh tế nước ta đi theo cách này sẽ không chỉ có một vài gánh nặng khác toát mồ hôi như alumina và thép. Ngay hiện nay đã có không ít những công trình hiệu quả kinh tế thấp. Ví dụ :

*

Vinashin có vốn vay rất lớn, nhưng tỉ suất lợi nhuận 2008 chỉ vào khoảng 0,5%, thậm chí đứng trước nguy cơ lớn – (tham khảo : Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 05-02-2009).
*

Số lượng quá lớn các sân golf cho một nước nghèo đông dân vẫn còn tới 70% dân số trong lĩnh vực nông nghiệp.
*

Sự thiệt hại chưa có điều tra của phần vốn nhà nước tham gia vào thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản – cả hai thị trường này trong năm 2008 mất vào khoảng 50-60% giá trị.
*

Sắp tới nước ta còn là nhà xuất khẩu lớn về xi-măng, giấy.., mặc dù thiếu năng lượng, nghĩa là tiếp tục đi sâu vào xu thế phát triển công nghiệp sử dụng tài nguyên không tái tạo được, không thân thiện với môi trường, giá trị gia tăng thấp.
*

Vân vân... Chưa nói đến những tổn thất do biết bao nhiêu cái bất cập khác (dự án treo, quy hoạch sai...) và do tình trạng quan liêu tham nhũng gây ra.

Tất cả những gánh nặng nêu trên đang kìm hãm sự phát triển năng động của nền kinh tế quốc gia, làm gay gắt thêm tình trạng “thắt cổ chai” – (3 bất cập lớn về kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, năng lực quản trị quốc gia trong nền kinh tế quốc gia), lại đang thời kỳ suy thoái. Vì thế, càng nên từ bối cảnh toàn cục hiện tại của nền kinh tế cả nước xem xét lại vấn đề khai thác bô-xít Tây Nguyên, nhất là vào lúc này công việc mới ở thời kỳ bắt đầu, còn kịp dừng lại để tránh những tổn thất lớn gấp bội có thể xảy ra.

Trong khi đó nền kinh tế nước ta một mặt vẫn còn quá nhiều sản phẩm ở dạng thô, sơ chế, hàm lượng chế biến và hàm lượng giá trị gia tăng đều thấp, yêu cầu phải tái cơ cấu lại nền kinh tế ngày càng trở nên gay gắt. Tình hình kinh tế đất nước hiện nay đòi hỏi phải quan tâm dồn nguồn lực mọi mặt cho tăng thêm sản phẩm “tinh”, để nâng cao hàm lượng chế biến và hàm lượng giá trị gia tăng của các sản phẩm trong mọi lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Một thực tế khác là nguồn lực dành cho phát triển kết cấu hạ tầng để có tăng trưởng kinh tế năng động, bền vững, chất lượng cao và mở đường cho những bước phát triển thiếp theo lại càng khan hiếm! Nguyên nhân hàng đầu của những cái “khan hiếm”, cái “thiếu” này trước hết là sự phân bổ không hợp lý mọi nguồn lực đất nước có trong tay, do tầm nhìn và sự lựa chọn chiến lược phát triển không đúng. Không thể một bề đổ lỗi cho cái nghèo, càng không thể đổ lỗi cho thiếu FDI, ODA hay bất kỳ cái gì khác. Càng tăng thêm đầu tư theo kiểu alumina Tây Nguyên và 40 triệu tấn thép, càng tăng thêm những ách tắc khó cứu vãn.

“ Như tôi đã nêu, điều quan trọng đối với nước ta hiện nay là phải đẩy nhanh quá trình cải cách, đổi mới đưa nền kinh tế nước ta hiện nay từ khai thác tài nguyên, sử dụng nhiều lao động sang mô hình phát triển theo chiều sâu...”

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Hà Nội ngày 04-02-2009

Đầu tư vào bô-xít cần được xem xét dưới góc độ : Lúc này thêm một gánh nặng mới trong bối cảnh khó khăn như hiện nay của đất nước có thể đồng nghĩa như đánh thêm một đòn chí tử vào cả nền kinh tế. Song bớt một gánh nặng cho kinh tế đất nước vào lúc này, có thể đồng nghĩa tăng thêm một cơ may đi vào phục hồi.

Xin đừng quên trong những năm gần đây thiên tai, dịch bệnh ngày một nhiều và tăng thêm những gánh nặng mới cho đất nước. Những yếu kém xảy ra trong quá trình công nghiệp hoá ngày càng nhiều và đang góp phần làm gay gắt thêm tình hình này. Vì vậy, mọi quyết định kinh tế càng phải nhìn dài hạn và đắn đo nhiều chiều, phải nỗ lực giảm thiểu từng khó khăn nhỏ, tiết kiệm để nuôi dưỡng sức phát triển, càng không nên tự mình gây thêm khó khăn mới.

Cái may duy nhất trong cái rủi lớn của công nghiệp alumina Tây Nguyên đang triển khai là : Những nguy cơ của nó đang thúc giục phải nhìn lại toàn bộ thực trạng nền kinh tế đất nước để tìm đường chuyển hướng sang một mô hình, một giai đoạn phát triển mới: bền vững hơn, thân thiện với môi trường hơn, cạnh tranh tốt hơn, và nhiều giá trị gia tăng hơn7: con đường phát triển theo chiều sâu.

Kết luận

Nguồn tài nguyên bô-xít Tây Nguyên rất lớn, song lúc này nước ta chưa hội đủ các điều kiện để khai thác một cách tối ưu nhất ; chương trình khai thác bô-xít đến năm 2025 đang triển khai thiếu hẳn một chiến lược tổng thể phát triển Tây Nguyên làm nền tảng, nên chứa đựng nhiều nguy hiểm ; hai dự án sản xuất alumina Nhân Cơ và Tân Rai do tiến hành theo quy trình lộn ngược nên còn quá nhiều vấn đề chưa được làm rõ và mang tính phiêu lưu cao; còn nhiều hệ quả kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng chưa được tính toán hết, lại vào thời điểm giá alumina trên thế giới xuống thấp khoảng -30 – -50% so với trước khi xảy ra khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay, vì vậy cần được dừng lại để nghiên cứu tiếp.

Câu hỏi lớn đặt ra cho quốc gia để nghiên cứu tiếp là bô-xít Tây Nguyên cần được khai thác lúc nào và cách nào là có lợi nhất. Cái được nào cũng phải có sự đánh đổi, phải chấp nhận như vậy. Song quyết định kinh tế nào cũng phải tuân thủ nguyên tắc được nhiều hơn mất.

So sánh mọi mặt thiệt/hơn, cả trên phương diện quốc gia và quốc tế, chương trình khai thác bô-xít ở Tây Nguyên như TKV đang triển khai sẽ đẩy đất nước tiếp tục phát triển theo chiều rộng một cách nguy hiểm, kéo dài sự tụt hậu của đất nước với nhiều rủi ro mới trên cả 4 phương diện: phát triển kinh tế, môi trường, an ninh quốc phòng, văn hoá xã hội, khiến lòng dân không yên. Khai thác bô-xít một cách thiếu tính toán chi li như vậy sẽ mang lại cho đất nước một sự lệ thuộc mới nguy hiểm, có nguy cơ thua lỗ, giữa lúc kinh tế thế giới đang chuyển hướng rất bất lợi cho các quốc gia dựa quá nhiều vào khai thác tài nguyên thiên nhiên để bán.

Vì vậy, dứt khoát lúc này không nên đặt vấn đề xuất khẩu alumina. Còn sau này, nếu tính toán kỹ mọi mặt định sản xuất và xuất khẩu nhôm để phát huy nguồn tài nguyên bô-xít của đất nước, thì phải chuẩn bị mọi điều kiện, lựa chọn cách làm khác (bước một, bước hai...) và thời gian thích hợp.

Hơn nữa, nhìn vào bức tranh kinh tế chung của cả nước, chỉ số ICOR ở nước ta cao nhất trong vùng châu Á – các năm vừa qua là >5, riêng trong năm 2008 vọt lên 6.9 (tính chi li chỉ số này năm 2009 có thể là 9 -10) – nghĩa là ở mức nguy hiểm không thể chấp nhận được8, lại trong tình hình kinh tế nước ta đang suy thoái trầm trọng, yêu cầu phải tạo ra một mô hình phát triển, một cơ cấu kinh tế khác hiệu quả hơn, chất lượng hơn đối với nước ta ngày càng trở nên bức xúc. Lợi ích quốc gia đòi hỏi phải tìm đường sớm thoát khỏi nền kinh tế lao động cơ bắp, bán tài nguyên, bán môi trường, chứ không phải là ngày một dấn sâu thêm vào con đường này !

Vì lợi ích sống còn nền kinh tế cả nước, xin kiến nghị :

1.

Bám sát quan điểm nêu trong quyết định 167 (điểm 1) của Thủ tướng Chính phủ, nghiên cứu lại chương trình bô-xít – alumina – nhôm 2025 trong cả nước, tập trung xoay quanh câu hỏi : Làm như thế nào và lúc nào là có lợi nhất ?
2.

Khảo sát và đánh giá lại 2 dự án alumina Nhân Cơ (Đắc Nông) và Tân Rai (Lâm Đồng) đang triển khai.
3.

Huy động lực lượng chất xám trong cả nước làm tốt 2 việc nói trên, nếu cần có thể thuê thêm chuyên gia nước ngoài cho những công việc nhất định. Tổ chức tranh luận và thẩm định công khai để rút ra những nhận định, kết luận xác đáng nhất, có lợi nhất cho đất nước.
4.

Tạm dừng triển khai cả hai dự án alumina nói trên ở Tây Nguyên cho đến khi có kết luận rõ ràng và có các kiến nghị xử lý khả dĩ nhất được Nhà nước chấp thuận về hai dự án này.
5.

Vạn bất đắc dĩ chỉ triển khai sản xuất alumina theo kiểu làm “pilot” một dự án, để đánh giá và đối chứng các kết quả nghiên cứu, phục vụ cho mục đích xây dựng quyết định cuối cùng về vấn đề khai thác bô-xít ở Tây Nguyên.
6.

Tổ chức điều tra nghiên cứu trả lời câu hỏi: Nếu không lựa chọn bô-xít cho Tây Nguyên, nên lựa chọn sản phẩm gì ? phương thức phát triển ? So sánh với phương án bô-xít.
7.

Nghiên cứu xây dựng chiến lược tổng thể phát triển kinh tế Tây Nguyên làm nền tảng cho mọi quyết định kinh tế liên quan đến Tây Nguyên.

Trước khi kết thúc tham luận này tôi xin chia sẻ hai điều lo lắng trong thâm tâm mình với tư cách là một công dân :

Một là : Nước ta có dân số đứng thứ 12 trên thế giới, mật độ dân số nước ta cao gần gấp 5 lần của thế giới, gấp 2,5 lần các nước Đông Nam Á, gấp 2 lần Trung Quốc. Nguy cơ biến đổi khí hậu sẽ còn làm cho nước ta mất thêm nhiều đất, không gian sinh sống sẽ còn bị thu hẹp nữa. Vì vậy ngay từ bây giờ phải trân trọng từng thước vuông đất của quốc gia, gìn giữ cảnh quan và môi trường sống, không được để lại hậu họa cho các thế hệ con cháu chúng ta. Đào bô-xít lên đem bán sẽ được bao nhiêu tiền ? Tiêu được bao lâu ? Nhưng môi trường sống bị hủy hoại và cảnh quan hoang tàn sẽ còn lại đời đời. Ai sẽ phải chịu trách nhiệm ?

Hai là : Cách đây đúng 151 năm, năm 1858, thực dân Tây Ban Nha và thực dân Pháp nã súng đánh thành Đà Nẵng, dẫn đến 80 năm mất nước, dân tộc ta phải chịu ách nô lệ. Nguyên nhân chủ yếu không phải vì dân tộc ta và triều Nguyễn hồi đó yêu nước kém ngày nay, chiến đâu kém dũng cảm hơn ngày nay ! Muôn ngàn lần không phải như vậy ! Song mất nước có thể coi như là tất yếu, bởi lẽ nước ta so với kẻ địch tụt hậu hẳn một giai đoạn phát triển. Ngày nay, kinh tế nước ta nếu tiếp tục đi sâu vào cơ cấu sản phẩm thượng nguồn như đang làm bô-xít, sớm muộn sẽ rơi vào nguy cơ thành bãi thải công nghiêp. Đồng thời nước ta đang phải đối phó với 3 nguy cơ khác nữa, đó là : sự o ép từ bên ngoài, sự xâm lăng về văn hoá, sự tàn phá của môi trường tự nhiên do không được bảo vệ thoả đáng. Cả 4 nguy cơ này có thể dấn nước ta vào một tình trạng tụt hậu nguy hiểm, đến lúc nào đó có thể sẽ tạo ra cho nước ta một sự nô dịch mới – sự nô dịch của nghèo nàn và lạc hậu, của lệ thuộc, sự nô dịch không có chủ nghĩa thực dân. Đừng để cho việc khai thác bô-xít góp phần làm tăng thêm những nguy cơ này.

Hà Nội, 27-01-2009
Tết Kỷ Sửu
NGUYỄN TRUNG

NGUỒN : bản do tác giả cung cấp
nội dung đã được phát biểu trong cuộc hội thảo
ngày 9.4.2009 tại Hà Nội


1 Tìm xem trên VietnamNet – trang “Thông tin đa chiều” 02-12-2008 và 07-01-2009

2 Cước phí vận tải bằng ô-tô trên đường bộ miền Trung dao động giữa 2000 – 3000 VNĐ cho 1km/tấn, như vậy riêng tiền vận tải bằng ô-tô để đưa được 1 tấn alumina khoảng 200 - 300 km từ mỏ tới cảng biển miền Trung (bao gồm cả chi phí hai chiều: lượt lên núi mang nguyên liệu phục vụ sản xuất alumina, lượt xuống núi chở sản phẩm alumina) ước tính tối thiểu khoảng 50 – 60 USD, không thấy khoản chi phí này trong hạch toán giá thành! TKV còn giải trình sẽ dự trù vấn đề giao thông vận tại cho cả vùng bô-xít ở Campuchia (và có thể cho cả Nam Lào). Cần có cái nhìn như vậy, tuy nhiên trong khi đó TKV chưa giải quyết xong vấn đề giao thông vận tải cho alumina của chính mình ở Tây Nguyên!

3 Tham khảo bài báo “Hàng vạn công nhân Trung Quốc đã vào VN”, Tuổi trẻ ngày 28-03-2009.

4 Tham khảo thêm bài “Giải bài toán về an ninh năng lượng quốc gia”, báo điện tử Tạp chí Cộng Sản ngày 31-01-2009.

5 Tham khảo thêm bài “Ngã ba 2007”, trong cuốn “Bàn về công tác kế hoạch hoá ở nước ta trong thời kỳ đổi mới”, do Bộ Kế hoạch & Đầu tư xuất bản, Hà Nội 07-2008, trang 288 – 320.

6 Tham khảo bài “Ngành thép đang vỡ kế hoạch” – VietnamNet 08-01-2009.

7 Tham khảo thêm bài “Ngã ba 2007”, Nguyễn Trung, trong cuốn “Bàn về công tác kế hoạch hoá ở nước ta trong thời kỳ mới”, do Bộ Kế hoạch và Đầu tư xuất bản, Hà nội tháng 7-2008.

8 Tham khảo thêm bài “Ngã ba 2007”, sách đã dẫn.

Copyright © 2006 by Dien Dan Forum, BP 50, 92340 Bourg-La-Reine, France
diendan@diendan.org

Nguyên Ngọc : Ý nghĩa văn hoá xã hội của chương trình bôxit Tây Nguyên

Ý nghĩa văn hoá xã hội của chương trình bôxit Tây Nguyên
Nguyên Ngọc Cập nhật : 12/04/2009 11:41

Chấp nhận chương trình này là chúng ta chấp nhận không còn Tây Nguyên, không còn cái mái nhà phải giữ cho kỳ được để đảm bảo phát triển bền vững, không chỉ cho Tây Nguyên mà cho cả nước ; là chấp nhận phát triển bằng bất cứ giá nào, chấp nhận hy sinh tương lai cho hôm nay. Cũng là không còn coi trọng sự tồn tại của các tộc người bản địa như những thực thể văn hoá xã hội từng là chủ nhân của vùng đất có ý nghĩa sinh tử này của tổ quốc ta.


Ý nghĩa văn hoá xã hội
của chương trình bô-xít Tây Nguyên


Nguyên Ngọc



Trong những năm qua, chưa có chương trình kinh tế xã hội nào gây nhiều quan tâm và lo lắng trong nhân dân, từ các giới chuyên môn thuộc nhiều ngành, cả tự nhiên lẫn xã hội, các bậc lão thành cách mạng, những người đã từng giữ các trọng trách của đất nước trong nhiều thời kỳ, cho đến người dân thường, khắp nước, như chương trình bôxit mà chúng ta bàn hôm nay. Sẽ rất thiếu trách nhiệm nếu chúng ta tự cho phép coi thường sự quan tâm và lo lắng đó, nhất là khi dư luận biết rằng đây có thể là cuộc hội thảo cuối cùng trước khi cấp cao nhất của đất nước đi đến quyết định dứt khoát. Chắc không ai muốn vô trách nhiệm, trước nhân dân, trước lịch sử, nên tôi đề nghị trong hội thảo này cần được nói hết, cần thiết thì tranh luận đến cùng, những ý kiến được nói ra hôm nay cần được ghi lại đầy đủ, để rồi sẽ được phán xét, cả hiện tại và trong tương lai. Và cũng không nên chỉ hạn chế trong một phạm vi nào, trong khi hệ quả của chương trình chắc chắn rất rộng lớn, nghiêm trọng, cả trên các khía cạnh dân tộc, an toàn xã hội, an ninh quốc phòng, là những lĩnh vực không hề nhỏ và thuộc quyền có tiếng nói của mỗi người dân của đất nước này.

Các chuyên gia đã nói về nhiều mặt, tôi chỉ xin nói thêm về một mặt, thường được gọi là mặt văn hoá. Tôi nói là “ thường gọi là văn hoá ”, bởi vì theo tôi lâu nay văn hoá đã được hiểu và được đề cập đến trong các chương trình như thế này rất hời hợt, như một thứ trang sức phụ, một khía cạnh bổ sung, cho “ phải phép ”, cho “ có vẻ ”. Trong khi, nhất là ở Tây Nguyên, có thể nói văn hoá lại là tất cả, nó nằm ở nền tảng của tất cả, không nhìn thấy và không giải quyết mọi việc trong quan hệ chặt chẽ với nó, một cách thật sự nghiêm túc, coi nó là trung tâm của mọi cân nhắc cho mọi quyết định, thì không những khó thành công, mà hơn thế nhiều, sự đổ vỡ sớm hay muộn theo nhiều kịch bản khác nhau gần như là chắc chắn. Mấy mươi năm qua chúng ta cũng đã từng có kinh nghiệm nhãn tiền về điều này rồi (nhãn tiền, mà tiếc thay, lại không được nghiêm túc nhìn nhận cho rõ !)

Quan điểm cơ bản về phát triển của chúng ta, đã được xác định trong tất cả các văn kiện của Đảng và Nhà nước, là phát triển bền vững. Phát triển bền vững, như ai cũng biết, nhất thiết phải là phát triển có văn hoá. Phát triển mà giữ được cho xã hội ổn định, ngày càng ổn định chứ không rối loạn, đất nước an toàn, ngày càng an toàn chứ không phải càng bị uy hiếp, rước thêm nguy cơ vào, con người sống được an lành, hạnh phúc. Phát triển có tính đến hôm nay và mai sau, thế hệ này và các thế hệ tiếp theo, người sống hôm nay có trách nhiệm với quá khứ và cả với tương lai, phát triển hôm nay phải làm sao để cho các thế hệ tương lai còn, càng phát triển được tốt hơn, lâu dài hơn, phát triển mà tiềm lực của đất nước và xã hội ngày càng giàu có, phong phú hơn lên chứ không cạn kiệt đi hay bị huỷ diệt... Nếu trên cả nước đã vậy, thì ở Tây Nguyên càng vậy. Sở dĩ chương trình bô-xit được cả xã hội quan tâm lo lắng nhiều đến thế thì một phần quan trọng là do nó được tiến hành ở Tây Nguyên chứ không phải ở nơi nào khác. Qua điều này, có thể thấy trong tâm khảm của mỗi người Việt Nam, đặc biệt trải kinh nghiệm của các cuộc chiến tranh giành và giữ nước trong thời hiện đại, Tây Nguyên chiếm một vị trí cả về nhận thức và tình cảm rất sâu sắc, thậm chí liên quan đến tâm tư về vận mệnh của tổ quốc, tuyệt đối không thể coi thường.

Mặt khác, cũng nên biết rằng Tây Nguyên, các dân tộc Tây Nguyên đã đứng vững, tồn tại, phát triển bền vững được suốt trong quá trình lịch sử dài đầy thử thách chính là bằng văn hoá, sức mạnh văn hoá. Phá vỡ văn hoá ở đây thì cũng có nghĩa là phá vỡ cả xã hội này, với tất cả các hậu quả không thể lường.

Tôi xin nói rằng trong chương trình bô-xit Tây Nguyên, vấn đề văn hoá đã không được đặt ra một cách nghiêm túc, đúng tầm. Đây là một trong những mặt bất cập quan trọng nhất của chương trình này.

Vậy ở Tây Nguyên, văn hoá là gì ?

Trong một số cuộc hội thảo trước đây, nhiều lần các đại biểu của TKV, của một vài địa phương cũng đã nói đến văn hoá, bày tỏ sự quan tâm đến văn hoá, nói đến việc gìn giữ cồng chiêng, sử thi, lễ hội v.v… Tôi xin được nói, vâng, đấy đúng là văn hoá, cần yêu quý và gìn giữ, nhưng cũng rất cần hiểu đấy chỉ là những biểu hiện ra bên ngoài, những hoa lá của văn hoá. Cái chính, cốt lõi, gốc rễ của văn hoá (từ đó mới có những hoa lá nọ) nằm ở một tầng sâu hơn rất nhiều, mà nếu ta hiểu không đúng, không kỹ, không nghiêm, thì tất cả những thứ nói trên kia sẽ chỉ là văn hoá dỏm, giả, hoa lá giả chế tạo bằng nhựa thôi chứ không phải là văn hoá thật, cốt lõi của mọi xã hội và mọi con người. Văn hoá, đặc biệt văn hoá ở Tây Nguyên, thể hiện chính trong cơ cấu độc đáo, vững chãi của xã hội này, mà mọi tác động của chúng ta, nhất là những chương trình to lớn như chương trình bô-xit đang được chủ trương, sẽ phá vỡ nếu thiếu chỉ một chút thận trọng, gây ra những hậu quả sâu sắc, lâu dài, khôn lường, – dù lạ vậy và khó vậy, đấy lại thường là những hậu quả không nhìn thấy ngay được. Văn hoá Tây Nguyên nảy sinh, tồn tại, phát triển trên nền tảng của cơ cấu xã hội đó. Và cơ cấu xã hội đó thì lại được kết thành bằng mối quan hệ hài hoà, nhuần nhuyễn, được con người sáng tạo nên để tồn tại thân thiết, bền vững với tự nhiên, cụ thể là với rừng, với đất, với nước, với thảm thực vật và hệ động vật đặc trưng, với khí hậu và thời tiết do tất cả những yếu tố kia tạo ra. Vậy nên ở Tây Nguyên, rừng, đất, nước, và làng của con người khắng khít giữa tự nhiên đó chính là văn hoá, chứ không phải chỉ là tài nguyên để cho con người khai phá và tiêu xài như được hiểu trong các xã hội thường tự xưng là văn minh. Nếu đến Tây Nguyên mà không hiểu được những điều đó, đối xử với Tây Nguyên không trên sự hiểu biết sâu sắc và tôn trọng thật sự đó thì tất yếu sẽ dẫn đến tàn phá, tàn phá không chỉ tự nhiên, mà là tàn phá xã hội và con người, cũng tất yếu sẽ gây ra rối loạn, đến một mức nào đó thì không còn cứu chữa được. Đấy chính là điều đã diễn ra mấy chục năm nay, nếu đến nay có ai đó cho rằng đã cơ bản ổn định thì theo tôi là rất hời hợt, chủ quan, nếu không nói là vô trách nhiệm. Cần nói rõ tình hình cho đến nay còn rất âm ỉ, vì những vết thương gây ra vào nền tảng văn hoá và xã hội mấy mươi năm qua chưa hề được chữa trị một cách căn bản, trái lại đang từng ngày tiếp tục bị khoét sâu thêm, dẫu âm thầm, mà càng âm thầm thì càng nguy hiểm.

Chương trình bô-xit được triển khai chính trên một vùng đất như vậy. Và tất cả các mũi nhọn của nó lại chĩa vào đúng những vết thương chưa lành kia : rừng, đất, nước, làng, con người, đặc biệt người bản địa ; không chỉ tiếp tục sự tàn phá đã diễn ra từ nhiều năm trước, mà còn đưa thêm những nhân tố gây phức tạp, thậm chí đảo lộn nặng nề hơn, chẳng hạn như nhân tố ngoại lai mà bằng một sự nhạy cảm sâu sắc nhiều tầng lớp nhân dân đã tỏ rõ sự lo lắng và bức xúc lớn, không được phép ngang nhiên coi thường. Chính bằng sự nhạy cảm đó mà đất nước này đã được bảo vệ và tồn tại mấy nghìn năm nay.

Tôi rất nhất trí với những tính toán về cái giá phải trả cho thua lỗ kinh tế, cái giá nặng nề về môi trường, về công nghệ lạc hậu… của chương trình này do các chuyên gia nêu ra. Nhưng tôi muốn nói thêm, ở Tây Nguyên, nhất là trong tình hình hiện nay, tất cả những cái giá đó đều trở thành những cái giá về văn hoá và xã hội, nặng nề đến mức có thể đây sẽ là cú đấm cuối cùng đối với Tây Nguyên, với không gian sinh tồn thiết yếu của người Tây Nguyên.

Chấp nhận chương trình này là chúng ta chấp nhận không còn Tây Nguyên, không còn cái mái nhà phải giữ cho kỳ được để đảm bảo phát triển bền vững, không chỉ cho Tây Nguyên mà cho cả nước ; là chấp nhận phát triển bằng bất cứ giá nào, chấp nhận hy sinh tương lai cho hôm nay. Cũng là không còn coi trọng sự tồn tại của các tộc người bản địa như những thực thể văn hoá xã hội từng là chủ nhân của vùng đất có ý nghĩa sinh tử này của tổ quốc ta.

Đây là cuộc lựa chọn quyết định.

Mỗi tiếng nói ở đây hôm nay là trách nhiệm lịch sử của mỗi chúng ta đối với lựa chọn đó.

NGUYÊN NGỌC

NGUỒN : bài do tác giả cung cấp
đã được đọc tại hội thảo 9.4.2009 ở Hà Nội
PHỤ CHÚ
Trong cuộc thảo luận, nhà văn Nguyên Ngọc đã nói thêm mấy ý :

“ Về mặt chiến lược phát triển, nó đã chọn hướng phát triển dở nhất : khai thác và xuất khẩu tài nguyên thô, hoàn toàn ngược với tinh thần của báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ 10 “ Có chính sách hạn chế xuất khẩu tài nguyên thô ”. Báo cáo đó cũng hoàn toàn không nhắc gì đến bôxit ”.

“ Về quyết định của Chính phủ, cũng có chỗ không ổn. Thủ tướng đã tuyên bố đây là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, vậy mà chủ trương lớn đó đến nay không hề được trình ra Quốc hội, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất ”.

“ Về kinh tế chắc chắn thua lỗ nặng ”.

Trả lời phỏng vấn của đài BBC, Nguyên Ngọc nói rõ thêm :

“ Tôi cho rằng một cái chương trình mà chính ông Thủ tướng đã tuyên bố rằng đây là chủ trương lớn của Đảng và của nhà nước, vậy thì vì sao mà không đưa ra trước Quốc hội ? Phải trình Quốc hội chứ. Tôi có đặt vấn đề về cái tính hợp pháp của quyết định này. Tôi cho như thế là không hợp pháp (...) Thực ra hôm qua một cái hội thảo như thế thời gian nó cũng chỉ đến thế thôi mà, cho nên họ trả lời đến thế thôi. Chúng tôi sẽ tiếp tục có ý kiến. ” (xem toàn văn bài phỏng vấn ngày 10.4.2009)

Copyright © 2006 by Dien Dan Forum, BP 50, 92340 Bourg-La-Reine, France
diendan@diendan.org

11/4/09

Khai thác bauxite là 'không hợp pháp'

Khai thác bauxite là 'không hợp pháp'

Việc khai thác bauxite nhôm ở Tây Nguyên vừa "không hợp pháp", vừa gây nhiều tác hại khôn lường về nhiều mặt - theo nhà văn Nguyên Ngọc, một trong các chuyên gia về Tây Nguyên, sau khi tham dự hội thảo về bauxite hôm 9/4.

Nói chuyện với đài BBC, nhà văn Nguyên Ngọc nhận định Việt Nam nên thay đổi chiến lược phát triển lâu dài, thay vì lối tư duy "đào tài nguyên lên bán mà ăn" như hiện nay.

Phản bác lại kết luận của phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải - vốn lặp lại lời của cấp trên Nguyễn Tấn Dũng khi trước - rằng khai thác bauxite nhôm ở Tây Nguyên là chủ trương "đúng đắn", nhà văn Nguyên Ngọc nói:


Nhà văn Nguyên Ngọc: Theo tôi, cân nhắc tất cả các mặt của chương trình này, thì tôi có nói trong hội thảo là tôi đồng ý với ý kiến của đại tướng Võ Nguyên Giáp, là không nên khai thác, không nên làm cái đó. Nó là về nhiều mặt.

Về chiến lược phát triển lâu dài, thì có lẽ Việt Nam cũng đã đến lúc không nên đi theo cái lối khai thác tài nguyên, cứ đào tài nguyên lên bán mà ăn nữa. Cái giai đoạn đó có thể là một thời gian đầu nào đó, nhưng mà bây giờ đã đến lúc mình phải nghĩ đến phát triển kiểu khác, chứ không phải cứ đào tài nguyên lên bán mà ăn.

Cái thứ hai là tính toán về hiệu quả kinh tế, thì như trong hội thảo nhiều chuyên gia đã nói, và tôi theo dõi chương trình này tôi cũng biết, tức là hiệu quả kinh tế của nó là rất tiêu cực, thậm chí là lỗ.

Thứ ba nữa là về vấn đề môi trường, công nghệ là không đảm bảo được; nhất là về môi trường: những cái ô nhiễm, đối với rừng, với đất đai - đặc biệt đối với nước ở Tây Nguyên rất là khó khăn, rất là thiếu. Thì giải đáp của các chủ đầu tư về những vấn đề đó hiện nay là không thuyết phục.

Về mặt xã hội thì cũng không ổn, tại vì nó sẽ làm xáo trộn và phức tạp thêm cái xã hội Tây Nguyên, nhất là đối với các dân tộc bản địa ở đấy.

Về an ninh quốc phòng thì đấy là cái vùng như người xưa đã từng nói: ai làm chủ được Tây Nguyên thì sẽ làm chủ được Nam Đông Dương. Về mặt địa lý thì nó là nóc nhà của Đông Dương.

Thế cho nên theo tôi, triển khai chương trình bauxite trên Tây Nguyên xét về tất cả các mặt đều không có lợi, thậm chí là có hại. Nói rằng triển khai chương trình bauxite là đúng đắn thì đối với tôi, tôi không đồng ý.

BBC:Tiếng nói phản bác của ông cũng như của những người khác đã được nêu lên trong thời gian vừa qua, nhưng nhìn lại thì ông thấy hội thảo bauxite này thực ra có tác động gì tới chính phủ hay không, hay chỉ mang tính hình thức mà thôi?

Nhà văn Nguyên Ngọc: Tôi nghĩ có lẽ cái mặt tích cực của hội thảo là ở chỗ này: đây là lần đầu tiên một số nhà khoa học độc lập, một số nhà hoạt động xã hội độc lập - chúng tôi chả có tổ chức gì cả, chúng tôi vì trách nhiệm xã hội chung - thì chúng tôi lên tiếng thôi, và như vậy buộc chính phủ phải giải trình trước dư luận.

Ngay cả ông Hoàng Trung Hải (phó Thủ tướng) hôm qua cũng tuyên bố là nhiều cái mặt cần cân nhắc trở lại, và bây giờ người ta bảo sẽ làm theo hình thức tức là thí điểm hai cái. Bây giờ triển khai thí điểm một cái, chỗ Tân Rai ở Lâm Đồng thì tôi biết là họ đã triển khai rồi. Thì có thể lấy cái đó làm thí điểm. Còn cái chỗ thứ hai ở Đắc Nông thì còn phải tiếp tục kiểm tra, đánh giá môi trường chiến lược, thì mới được khởi công.

Như vậy tức là họ cũng có cân nhắc trở lại đấy. Theo tôi, tiếng nói phản biện của xã hội, của các nhà khoa học và của dư luận nói chung đã có tác động, mặc dù chưa buộc người ta phải dừng hẳn lại, nhưng mà như thế đã là tác động.

Và chúng tôi nghĩ rằng cần phải tiếp tục tác động để đạt được kết quả tốt nhất là ngừng hẳn lại; còn nếu không thì thí điểm rất nhỏ, để xem toàn bộ cái hậu quả, hệ quả của nó như thế nào. Mà tôi tin rằng nếu làm thí điểm sẽ bộc lộ ra tất cả những cái không thể giải quyết được.
'KHÔNG HỢP PHÁP'

BBC:Thưa ông, một vấn đề lớn và gây tranh cãi như thế tại sao lại không được đưa ra trước Quốc hội? Ông có đồng ý rằng vai trò của Quốc hội là hết sức mờ nhạt trong chuyện này?

Nhà văn Nguyên Ngọc: Hôm qua chính tôi có đặt cái câu hỏi đó. Tôi cho rằng một cái chương trình mà chính ông Thủ tướng đã tuyên bố rằng đây là chủ trương lớn của Đảng và của nhà nước, vậy thì vì sao mà không đưa ra trước Quốc hội? Phải trình Quốc hội chứ. Tôi có đặt vấn đề về cái tính hợp pháp của quyết định này. Tôi cho như thế là không hợp pháp.

Thế thì người ta cũng trả lời, và theo tôi câu trả lời là không thuyết phục. Người ta bảo đây là chuyện nói về từng cái nhà máy. Bây giờ cái nhà máy Tân Rai (Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đắc Nông), thì từng cái nhà máy nó nhỏ, nó không đủ qui mô mà theo quy định, Quốc hội cần phải giám sát, phải có ý kiến. Thế nhưng mà thế này: cái đó phải đặt trong toàn bộ chương trình chung chứ. Thì người ta trả lời theo cái lối đối với tôi là không thuyết phục.

Thực ra hôm qua một cái hội thảo như thế thời gian nó cũng chỉ đến thế thôi mà, cho nên họ trả lời đến thế thôi. Chúng tôi sẽ tiếp tục có ý kiến.

BBC:Được biết các nhà thầu Trung Quốc cũng đến hội thảo để giải trình, ông đánh giá thế nào về các luận cứ người ta đưa ra?

Nhà văn Nguyên Ngọc: Có nhà thầu Trung Quốc và một số chuyên gia của tập đoàn alumina lớn trên thế giới, như là Alcoa của Mỹ cũng có giải trình. Họ nói chủ yếu là về những công nghệ của họ, và đảm bảo có thể giải quyết những vấn đề về an toàn môi trường, về rừng, về hoạch thổ, về xử lý bùn đỏ..vv...

Cái này thì ai cũng biết thôi, tức là theo lý thuyết thì những vấn đề đó ai cũng có thể giải quyết được. Nhưng mà có hai cái điều mà hôm qua tôi có nêu câu hỏi mà họ không trả lời.

Một là giải quyết trong những điều kiện như thế nào. Ví dụ cái mỏ Bình Quả ở Trung Quốc là một cái loại alumina rất khác, một loại bauxite khác hẳn ở Việt Nam, khác hẳn ở Tây Nguyên. Cho nên cái kinh nghiệm của Bình Quả không thể nói được cho cái kinh nghiệm ở Tây Nguyên.

Cái thứ hai nữa, ví dụ họ làm ở Úc, thì Úc là cả một lục địa, dân số rất ít, lại làm giữa một hoang mạc, trong khi điều kiện của Tây Nguyên là ở trên đỉnh cao, cái nóc nhà, trong cái vùng dân cư đông đúc như thế. Thì tôi có hỏi câu hỏi như thế này: anh giải quyết tất cả những cái đó - mà họ trình bày với những công nghệ rất là hiện đại, bức tranh rất đẹp, rất là sạch sẽ - nhưng mà những cái đó thì nó sẽ chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng vốn đầu tư? Và như vậy nó sẽ nâng giá thành của sản phẩm lên như thế nào?

Với cái giá thành của sản phẩm mà như tập đoàn Than Khoáng sản - là nhà đầu tư VN tham gia vào đấy - tính là đã lỗ rồi, so với giá alumina trên thế giới hiện nay. Vậy nếu mà làm với cái công nghệ theo sách đẹp đẽ như thế, mà người ta cũng đã làm ở những nơi khác đẹp đẽ như thế, thì cái giá thành không biết sẽ tăng lên bao nhiêu lần nữa?

Và như vậy thì hiệu quả kinh tế là hoàn toàn không có. Hiệu quả rất âm.

Theo tôi thấy những cái trình bày đó nghe thì hay thôi, nhưng hoàn toàn không thuyết phục đối với cái điều kiện làm bauxite ở Tây Nguyên.

BBC:Cá nhân ông có nghĩ là Việt Nam sẽ phải trả giá cho dự án này?

Nhà văn Nguyên Ngọc: Tất nhiên. Tôi phản đối là vì tôi thấy sẽ phải trả giá rất nặng nề.

10/4/09

Trần Vũ : Nặng kiếp nhân sinh

Nặng kiếp nhân sinh

10/04/2009
Tác giả: Trần Vũ

Gửi Trịnh Y Thư, một người bạn ở xa

Bàn về dịch thuật, các thế hệ dịch giả Việt Nam trong thế kỷ 19, thế hệ của Pétrus Ký, Paulus Của, Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh, đã dịch hai từ République và Communisme thật xuất sắc.

Chữ République mà người xưa dịch thành Cộng hòa là một cách dịch uyên bác, vừa sát nghĩa, vừa giữ được nội dung chính: Sự bình đẳng tuyệt đối trong quyền công dân và quyền tư lợi quốc gia. Cộng lại và san sẻ, chia đồng đều cho công chúng. Không còn phân biệt, tất cả hòa đồng vào vị trí công dân. Nếu publique là công cộng, Ré vô cùng khó dịch, người xưa phải hiểu được tinh thần của nền Cộng hòa mới có thể dịch Ré thành Hòa. Khởi đi từ gốc Res publica, nhưng Res publica không rõ nghĩa, chỉ bắt đầu sáng sủa khi publica tương đồng Civitas/Civitatis/Dân sự. Một xã hội dân sự được chính quyền điều phối và chính quyền đó phải do tập thể số đông công dân bầu ra cho mục đích san hòa các giá trị, chính là tinh thần Cộng hòa.

Chữ Communisme được dịch thành Cộng sản càng cho thấy sự khác biệt với Cộng hòa. Chung từ Cộng, nhưng một bên Hòa/đồng đều, không đặt dấu nhấn lên vật chất vì muốn sự hòa đồng quyền lợi phải trải rộng trên cả những phạm vi trừu tượng như tôn giáo, bác ái/y tế, quyền làm người… còn một bên đặt dấu nhấn lên Của cải/Sản, khiến từ Cộng sản mang âm hưởng trưng thâu, tịch thâu, xung công nhiều hơn là chia đều. Và thực tế đã chứng minh như vậy.

Sẽ có người tin thế hệ Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của đã vay mượn cách dịch của Trung Hoa khi dịch từ Pháp văn. Có thể không sai, và càng khiến chúng ta thêm tiếc nuối sự cắt đứt với Hán học đã khiến lớp dịch giả ngày nay giảm nguồn tra cứu. Không ngẫu nhiên mà nền dịch thuật xưa đã vun bồi chữ Quốc ngữ, vì thế hệ xưa am tường Hán-Việt và giỏi chữ Nôm, rồi đến thế hệ 54-75 trong miền Nam hãy còn biết Pháp văn, cộng thêm Anh văn, đã kế thừa. Trước 1975 trong Nam, người ta không dịch L’Etranger thành Người dưng mà là Kẻ xa lạ đúng với từ Étranger. Nếu là những dịch giả bây giờ, có thể Communisme đã được địch thành Chủ nghĩa Công xã, hoặc trừu tượng hơn nữa: Chủ nghĩa Tập thể, vì mang dáng dấp của những từ Commun/Chung, Commune/Làng, Communauté/Cộng đồng xuất phát từ gốc La tinh Communis.

Hôm qua dịch Chuông gọi hồn ai. Hôm nay nay dịch: Chuông nguyện hồn ai. Người nay sai. Vì Pour qui sonne le glas là tiếng chuông báo tử. Trong tiếng Pháp: Sonner le glas ám chỉ kết liễu/mất mạng/mệnh chung/qua đời/tiêu vong, kẻ nghe tiếng chuông biết thần chết đã đến sát bên giường. Tiếng chuông này không cầu nguyện cho linh hồn kẻ sắp mạng vong, mà điểm giờ chết, do vậy không thể dịch nguyện. Dịch Gọi mới thỏa ý Pour qui mà ở đây Pour quan trọng vô cùng. Sonne trong Pour qui sonne le glas còn là một động từ âm vang, ngân vang, vì là tiếng chuông gióng đổ. Trong lúc nguyện là tiếng rì rầm. Dịch Chuông nguyện hồn ai, không nghe được âm thanh của quả chuông như trong nguyên tác For whom tolls the bell. Trước 1975, Huỳnh Phan Anh tài hoa khi đảo ngược mệnh đề For whom ra đằng sau.

Tương tự, Đỉnh gió hú của Emily Bronte đã được văn hào Nhất Linh dịch thuật. Vì sao cần dịch lại? Mà dịch thành Đồi gió hú? Đồi không chắc đã cao, trong lúc tựa tiểu thuyết Les Hauts de hurlevents/Wuthering Heights của Emily Bronte mang nghĩa Những điểm cao gió gào. Khi dịch Đỉnh gió hú, Nhất Linh đã chứng minh ông còn là một nhà văn, biết đem vào tựa sách không chỉ ý nghĩa của tựa gốc mà còn cả một không khí tối ám, rờn rợn, sắc buốt.

Trước 75, tiểu thuyết Chiến hữu của Erich Maria Remarque chinh phục độc giả miền Nam. Sinh viên, học sinh say mê mệnh đề: Tình bạn vượt qua giới hạn, sẽ thành tình yêu, và tình yêu thăng hoa đến mức cao nhất sẽ hóa thành tình bạn. Tài hoa của Remarque là đã không viết ra thành công thức mà bàng bạc khắp tác phẩm, người đọc cảm trên từng trang giấy, tình bạn và tình yêu hòa quyện này. Không phải Camus, không phải Sartre, không phải Saint Exupéry, càng không phải Alphonse Daudet, André Maurois, hay Somerset Maugham, mà chính Remarque, tiểu thuyết gia được ưa chuộng suốt thời kỳ này.

tv24Thập niên 90, Chiến hữu của Erich Maria Remarque được dịch lại thành Ba người bạn. Dịch giả về sau dường như đã lúng túng với tựa gốc Die Kameraden, vì không muốn dịch thành Đồng chí mang âm hưởng quá Cộng sản. Năm 1972, Vũ Kim Thư dịch Chiến hữu đã hiểu ra tầm quan trọng của chữ Camarades trong tác phẩm Remarque. Không chỉ thuần là những người bạn mà Gottfried Lenz, Robert Lohkamp (Robby), Otto Koster còn là những đồng đội đã sống chết trong chiến hào. Koster từng là đại đội trưởng của Lenz và Lohkamp. Đồng đội là cách dịch sát nhất của Camarades, vì họ tiếp tục sống chết với nhau ở hậu phương sau chiến tranh, trong cuộc tranh sống giữa một nước Đức đang tan vỡ. Nhưng Đồng đội mang âm hưởng quân đội, đội hình, nhiệm vụ trong lúc Otto, Gottfried, Robert, Alphonse, Ferdinand đã ra khỏi quân ngũ, đã trở về với đời sống dân sự, và nhóm đã thêm Jupp chưa bao giờ đi lính, thêm Patricia Hollmann người yêu của Lohkamp, và thêm cả Karl, chiếc xe đua thần tốc cũng được xem là một chiến hữu. Vũ Kim Thư chọn dịch Chiến hữu, mà không dịch Đồng chí vì hiểu rõ các nhân vật của Remarque không còn lý tưởng, không còn chí hướng, không còn tin vào tương lai, xa lánh những chủ thuyết, đảng phái chính trị. Giống như Lohkamp đã tự hỏi: ”Qui donc compte avec l’avenir?” (Còn ai nữa tin vào tương lai?). Chiến hữu trong tiếng Việt còn gộp chứa được số nhiều, không duy nhất ba người bạn mà nguyên cả một nhóm khá đông, những cựu binh thân thiết, đã từng sát cánh ngoài mặt trận. Dịch Chiến hữu, Vũ Kim Thư giữ được nội dung chủ yếu: Chiến tranh và tình bằng hữu. Vì tất cả đã bắt nguồn từ chiến tranh, từ thế chiến thảm khốc tiêu hủy các giá trị truyền thống của nước Đức đang dần bị Phát-xít hóa. Chỉ còn lại tình bạn tồn tại, một tình bạn vượt trên tình yêu khi Otto và Gottfried đã nhường Pat cho Robby. Rồi Pat cũng được xem là một chiến hữu, khi tất cả cố gắng giúp Pat kéo dài sự sống, kéo dài hạnh phúc với Robby. Dịch Ba người bạn, từ tựa Three Comrades, theo cách dịch của Hoa Kỳ, không hết ý và chưa hết vai trò quan trọng của Pat, của Karl, cũng quan trọng ngang với Koster và Lenz.

Tương tự, Bản du ca cuối cùng của loài người không còn đất sống của Vũ Kim Thư dịch từ bản Pháp văn Les Exilés (Những kẻ lưu vong) của Remarque, được dịch lại thành Bản du ca cuối cùng. Một lặp lại ”thoáng gọn” nói theo cách của Hoàng Ngọc Hiến, nhưng không đủ nghĩa, bản du ca gì? của ai? vì sao du ca? Tựa Loài người không còn đất sống của Vũ Kim Thư trả lời những câu hỏi này. Chính là bản trầm ca, của những con người bị tước quyền công dân, bị đẩy bật ra khỏi tổ quốc mà không một quốc gia nào dung chứa, phải di chuyển từ biên giới Áo, Tiệp Khắc, Ba Lan, Hung Gia Lợi, đến Thụy Sĩ, đến Pháp rồi bị trả về, rồi lại bị trục xuất, rồi lại bị trao trả, lẩn quẩn giữa mùa đông đến độ phải chọn nhà tù nào có hệ thống sưỡi tốt nhất để nộp mình, hy vọng chút hơi ấm qua đêm… Bi thảm vì không đất sống.

tv31Không phải tất cả dịch giả thời nay đều bất cẩn. Vẫn còn những dịch giả cẩn trọng. Bản dịch Người tình của Phạm Việt Cường giữ được giọng trầm độc thoại gợi cảm của Marguerite Duras. Bản dịch Nhẹ kiếp nhân sinh của Trịnh Y Thư là một thao tác kỹ lưỡng. Tuy tựa thứ nhì Đời nhẹ khôn kham của cùng dịch giả này có thể gây tranh luận. Từ tựa tiếng Anh The Unbearable Lightness of Being, Trịnh Y Thư đã đặt trọng tâm vào hai chữ Lightness/nhẹ và Being/hiện hữu. Do Being còn mang thêm khái niệm triết học về sự tồn tại của con người, dịch kiếp nhân sinh là thỏa ý. Nhưng thiếu Unbearable. Mà trong câu văn chính sự không chịu đựng nổi/Unbearable mới đặt vấn đề. Vì nhìn thấy khiếm khuyết này, nên khi in thành sách, Trịnh Y Thư đã thay tựa Đời nhẹ khôn kham.

Đến đây nghi vấn có thể bắt đầu.

Nhìn qua bản dịch Pháp văn, L’insoutenable légèreté de l’être dường như mang thêm nghĩa khác: Insoutenable/không chịu nổi/không thể chống đỡ/không thể biện hộ/không bênh được/không cãi được. Légèreté: Sự nhẹ nhàng/lẳng lơ/tục tĩu/hở hang/khinh bạc/dễ dãi chăn gối… Nhìn lại tĩnh từ Unbearable cũng còn có nghĩa không thể dung thứ. Và Lightness còn tương đồng với Lightsomeness/tính nhẹ dạ/lông bông… Rồi đọc lại tiểu thuyết của Milan Kundera, xem lại phim của Philip Kaufman, dường như nội dung của tác phẩm và ý nghĩa của tựa sách không hàm ý Không chịu đựng nổi mà ngược lại, không thể dung thứ. Và cũng không hẳn là sự nhẹ hẫng đến không kham được mà chính là sự buông thả dục tình khó biện hộ trong kiếp người. Văn nghiệp của Kundera nổi bật lên hai chủ đề chính: tính đạo đức cứng nhắc đến giả tạo của chủ nghĩa thanh giáo Sô Viết, và dục tính quá trớn ở phương Tây. Một bên nặng nề chì chiết và một bên dâm ô đến khó biện bạch tà dâm là một chân lý sống. Vế đầu Kundera trình bày trong La Pesanteur, vế sau xuất hiện trong L’insoutenable légèreté de l’être. Như vậy, nếu hiểu như dân Pháp, trên đất Pháp, quê hương thứ hai của Kundera, nơi xuất hiện bản dịch sớm nhất của Nesnesitelná lehkost bytí (mà do không hiểu tiếng Tiệp Khắc nên chúng ta không đoán được nghĩa), tựa Đời nhẹ khôn kham chưa thật sát nội dung.

Nhưng khó mà dịch hết ngần ấy ngữ nghĩa trong một tựa sách. Vừa nghĩa đen, vừa nghĩa bóng. Vậy, kết luận ra sao? Trước nhất, Trịnh Y Thư không sai, cũng không bất cẩn, vì đã cố gắng tối đa tái tạo ngữ cảnh trong một tựa tiểu thuyết vắn tắt. Duy tựa Anh ngữ không rõ ý bằng tựa Pháp ngữ. Đọc tựa Pháp, có thể hồ nghi tác giả đang phê phán cứu cánh sinh lý (Insoutenable légèreté = Mœurs injustifiables), trong lúc Unbearable Lightness không dễ suy ra chuyện tình dục. Sau hết, giữa hai tựa Việt ngữ của Trịnh Y Thư, dường như những ai yêu thích tính cách tiểu thuyết, văn chương, đã chọn Nhẹ kiếp nhân sinh vì khả năng khái quát trừu tượng, cho phép hàm chứa một nội dung rộng lớn. Còn ”sự buông thả dục tình khó biện hộ trong kiếp người”? Chỉ có thể trả lời là Kundera đã thành công mỹ mãn chức năng nhập trùng ngôn ngữ của nhà văn.

Ra khỏi thế giới tiểu thuyết, ảnh hưởng của dịch thuật còn bàng bạc khắp cuộc sống. Người Việt xa xứ khi trở về quê nhà, trông thấy tấm bảng ghi ”Ga đi quốc tế Tân Sơn Nhất”, thường tự hỏi: Vì sao không viết ”Phi cảng Khởi hành Quốc tế Tân Sơn Nhất”? Vì ước muốn thuần Việt, từ bỏ Hán-Việt để làm trong sáng tiếng Việt? Nhưng trong ”Ga đi quốc tế Tân Sơn Nhất” chỉ có một chữ ”Đi” là thuần Việt, ”Ga” đã là Tây lai, còn lại là Hán-Việt.

Dân Việt không chế tạo máy bay, do vậy tất cả những từ liên quan đến không gian, phi hành, phi đạo, trạm, cảng, đều thông qua dịch thuật trước khi nhập vào kho tàng ngôn ngữ dân tộc. Ở đây giới hữu trách không nên viết ”Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất”, cũng không nên viết ”Phi trường quốc tế Tân Sơn Nhất”, vì như vậy là tự giới hạn tầm vóc của phi cảng này. Thời Pháp, ban đầu quân đội Pháp dùng chữ Piste d’envol mà dân Việt dịch là Sân bay. Về sau Tân Sơn Nhất mở rộng, quân đội Pháp dùng chữ Aérodrome, dân Việt dịch Phi trường. Cả hai đều ổn thỏa. Sau 1954, trong Nam viết Phi cảng Tân Sơn Nhất, vì sân bay này đã được quân đội Hoa Kỳ tân trang, tái kiến tạo và nâng cấp có thể xem là một Aéroport/Airport. Đột nhiên sau 1975, từ Sân bay tái xuất hiện, và rồi bây giờ là Cụm cảng Hàng không. Nếu đã là Cụm cảng thì vì sao không viết Phi cảng Khởi hành Quốc Tế Tân Sơn Nhất ở cổng vào đường bay quốc ngoại? Khi quyết định gắn bảng Ga đi quốc tế Tân Sơn Nhất, có lẽ giới chức thẩm quyền đã nghĩ đến chữ Aérogare trong tiếng Pháp, vẫn còn dùng cho đến ngày nay ở các phi trường Tây. Nhưng từ Aérogare dịch là Ga không chuẩn. Ga là ga xe lửa và dịch như vậy làm thô thiển tiếng Việt. Ở đây Aérogare phải dịch là Phi trạm, vì mỗi Phi cảng/Aéroport có nhiều Phi trạm/Aérogare, mà mỗi Phi trạm mang một chức năng khác nhau: quốc ngoại, quốc nội, khởi hành, khứ hồi, v.v…

Nhiều người sẽ trách lạm dụng Hán-Việt sẽ bị Hán hóa. Câu trả lời là Không. Hán-Việt với yếu tố Việt đã không còn là phương ngữ Trung Hoa. Một sinh ngữ khác với một tử ngữ ở khả năng dung nạp các từ mới và khả năng kiến tạo nhiều từ đồng nghĩa. Sự trù phú của một ngôn ngữ còn là sự sống chưa mai một của nhiều danh từ. Chính Hán-Việt đem đến khả năng giàu có này cho Việt ngữ, ngay cả khi phải thông qua gốc Hán. Hãy nhìn người Pháp bây giờ viết Pipole/People, Cédérom/CD Rom, hay Nous voulons que vous delètiez ceci afin de canceler cela (Chúng tôi muốn các anh hủy thứ này hầu bỏ thứ kia… delètiez/To Delete chia ở dạng subjontif và canceler/To Cancel chia ở thể infinitif. Một cách ký âm tội nghiệp. So với delètiez và canceliez, Hán-Việt cho phép dân Việt không duy nhất ký âm mà còn ký nghĩa, và đứng về ngữ âm, đem đến thêm thẩm mỹ. Dân chúng chỉ có thể tiếc nuối các cơ quan truyền thông đã không tiếp tục viết Liêu Đông, Lữ Thuận khẩu, Vọng Các, Nam Vang, Vạn Tượng, Nhã Điển, Mạc Tư Khoa, Ba Lê, Bá Linh, Luân Đôn, Gia Nã Đại, Nam Dương, Tân Gia Ba, Bảo Gia Lợi, Mễ Tây Cơ, Chí Lợi, Á Căn Đình, A Phú Hãn, v.v… theo cách phiên âm của thế hệ Đào Duy Anh, hay trước nữa. Mà vì sao không viết Cựu Kim Sơn? Vì sao đổi Hòa Lan thành Hà Lan? Hòa Lan mới đúng với âm Hollande. Phiên âm Hà Lan, đến một ngày nào đó sẽ thành “Hà Nan”. Điều chắc chắn, Phi Luật Tân nghe hay hơn Phi líp pin, Á Căn Đình thẩm mỹ hơn Ác hen ti na, Nữu Ước thanh lịch hơn Niu Óc, và Hương Cảng đem đến làn hương huyền diệu của một giấc mơ viễn du.

Trở lại truyện xưa, người xưa dịch nhuyễn vô cùng. Điển hình The Godfather, bản dịch Bố già của Ngọc Thứ Lang, càng đọc càng mê, rồi đọc lại bản dịch Pháp văn Le Parrain của Jean Perrier mới thấy Ngọc Thứ Lang tài tình. Y chang giọng mafia đểu cáng, nửa khinh mạn, vừa tay anh chị, đầy cao bồi mà cũng thật văn hóa Mỹ, pha mì ống Italô dữ dằn. Dù không phải sách văn học, chỉ thuần giải trí, nhưng là sách giải trí được phiên dịch kỳ tài. Đọc lại đoạn Michael Corleone thanh toán thằng đường Thổ Sollozzo rồi quất sụm luôn viên đại úy cảnh sát Mac Closkey ngay giữa nhà hàng Ý, ở trang 171, Jean Perrin dịch:

A cet instant, le serveur vint prendre commande du deuxième plat. Sollozzo tourna la tête pour lui parler. Michael repoussa la table de la main gauche et, de la droite, pressa le revolver presque contre la tête de Sollozzo. D’instinct, le Turc eut un mouvement de recul dès le premier mouvement de Michael. Mais Michael, plus jeune, avait des réflexes plus rapides: Il appuya juste à temps sur la détente. La balle pénétra entre l’œil et l’oreille de Sollozzo. Sa sortie, de l’autre côté, fit jaillir un énorme jet de sang et des morceaux d’os qui éclaboussèrent la veste du serveur pétrifié. (…) Très froidement, très délibérément, Michael tira une seconde balle, cette fois à la verticale sur le sommet du crâne couvert de cheveux blancs.

Trong bản tiếng Việt, ở trang 161, Ngọc Thứ Lang dịch:

tv4”Đúng lúc đó gã bồi bước tới, đứng bên chờ và Sollozzo quay mặt ra kêu thức ăn. Michael lập tức đứng lên tay trái hất bàn, tay mặt đưa khẩu súng kê sát đầu thằng đường Thổ. Phản ứng của nó đã lẹ, Michael vùng đứng lên thì nó đã né. Không kịp. Làm sao chơi lại tuổi trẻ? Michael nhấn cò. Viên đạn đi ngay màng tang và lúc chui ra phía bên kia đã phá một lỗ toang hoác. Máu, óc, xương sọ nó văng tùm lum đầy áo gã bồi. (…) Rất tỉnh táo, Michael thản nhiên đẩy tới phát nữa, nhằm giữa cái đỉnh đầu có mớ tóc bạc phất phơ.”

Không phải chuyển ngữ, Ngọc Thứ Lang không làm công việc chữ đối chữ, mà dịch-thuật. Và ở đây, những ai biết Pháp văn nhận ra tức khắc câu ”Không kịp. Làm sao chơi lại tuổi trẻ?” hay hơn hẳn ”Mais Michael, plus jeune, avait des réflexes plus rapides.” mà nếu dịch sát sẽ trở thành ”Nhưng Michael, trẻ hơn, nên có phản xạ nhanh hơn.” Đến câu ”Rất tỉnh táo, Michael thản nhiên đẩy tới phát nữa”, chữ ”đẩy” sao mà hay! Ngọc Thứ Lang thay động từ Tirer/bắn bằng một chữ đẩy khơi khơi mà đầy hình dung từ.

Gần đây, một học giả Việt ở Hoa Kỳ, trên trang web cá nhân, khi giới thiệu Linda Lê, đã tâm đắc nhắc lại một câu văn xưa: ”Les grands livres donnent l’impression d’avoir été écrits dans une langue étrangère.”, rồi sảng khoái khẳng quyết: ”Văn hay phải được viết bằng tiếng ngoại quốc.” Người Việt sinh sống ở Pháp cảm thấy kỳ quặc, câu văn trên, của Richard Millet nhắc lại ý của Marcel Proust. Không phải một mình Millet mà Lacan cũng từng nhắc lại. Mà Proust lặp lại tư tưởng của Aristote. Mà câu văn trên không thể dịch ”Những tác phẩm lớn gây ấn tượng được viết bằng ngoại ngữ.” Chữ étrangère ở đây phải dịch là Lạ lùng/stranger, thay vì foreigner. ”Những tác phẩm lớn gây ấn tượng được viết bằng một ngôn ngữ lạ.” mới chính là ý của Proust.

Nhưng có thật văn hay phải viết bằng tiếng nước ngoài? Điều này khá tương đối. Aristote định nghĩa văn hay vô cùng rõ rệt:

La qualité de l’expression, c’est d’être claire sans être plate: or la plus claire est celle qui se compose de noms courants, mais elle est plate: l’exemple en est la poésie de Cléophon ou celle de Sthénélos. L’expression noble qui échappe à la banalité, est celle qui a recours à des termes étranges. Par “terme étrange”, j’ entends un nom rare, une métaphore, un allongement et tout ce qui s’écarte de l’usage courant.

(Poétique, Aristote, Introduction, Traduction et Annotation de Michel Magnien, 1458a, XXII, page 142, Collection Livre de Poche).

Dịch sang tiếng Việt, định nghĩa văn hay của Aristote có thể được hiểu như sau:

Phẩm chất của văn, là phải sáng sủa mà không tầm thường: mà văn trong sáng nhất là văn phối kết với các từ thông dụng, mà như vậy lại tầm thường: ví dụ điển hình là thơ Cléophon hay thơ Sthénélos. Văn quý tộc thoát ra khỏi sự dung tục, là văn vận dụng các từ lạ. Qua chữ “từ lạ”, tôi muốn nói từ hiếm, phép ẩn dụ, sự mở rộng và tất cả những gì tách khỏi lối viết thông thường.

(Thi ca, Aristote, Dẫn nhập, Diễn Giảng và Ghi chú của Michel Magnien, 1458a, XXII, trang 142, tủ sách Livre de Poche).

Như vậy, cách suy diễn của vị học giả Việt Nam khi trích dẫn Lacan đã xa vạn dặm tư duy ban đầu.

Dịch phản, dịch chưa sát, không quá trầm trọng vì rồi bản gốc cũng sẽ được tìm đến. Điều quan trọng là dịch giả phải trút tất cả sự say mê, niềm hân hoan vào việc tái tạo một tác phẩm qua ngôn ngữ đang chảy trong huyết quản của mình, như McPherson, dịch giả của Dương Thu Hương đã từng sống thao tác này như sống một truyện tình:

”Dịch thuật là câu chuyện riêng tư đầy mê hoặc giữa một con người với một văn bản.”

(Nina McPherson)

Sức mạnh của ngôn ngữ nằm trong sức mê hoặc vượt lý trí. Sức mạnh của văn bản nằm trong khả năng quyến rũ đến tận cùng một con người.

Văn hay, phải là văn ám ảnh.

6 tháng 4-2009

© talawas 2009