Khai thác bô-xít ở Tây Nguyên : những bất lợi lớn
Nguyễn Trung Cập nhật : 10/04/2009 22:37
Những bất lợi lớn trong các dự án khai thác bô-xít ở Tây Nguyên
Nguyễn Trung
Trong bài Mất và được trong khai thác bô-xít ở Tây Nguyên và bài Triển vọng khai thác bô-xít ở Tây Nguyên – Tìm hiểu tại chỗ 1, tôi đã trình bầy các khía cạnh “lợi và bất lợi”, “nên hay không nên” trong việc khai thác bô-xít ở Tây Nguyên qua hai dự án TKV đang triển khai là Nhân Cơ (Đắc Nông) và Tân Rai (Lâm Đồng) nói riêng và bình luận chương trình tổng thể khai thác Tây Nguyên đến năm 2025.
Trước tình hình dư luận có nhiều ý kiến lo lắng và phản đối, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã quyết định tổ chức cuộc hội thảo hôm nay để tập hợp các ý kiến và đánh giá. Tôi hoan nghênh và đánh giá cao quyết định đúng đắn này. Xin trình bầy một số vấn đề dưới đây.
Một là : Hiện nay nước ta chưa hội đủ các điều kiện cho phép khai thác bô-xít ở Tây Nguyên có lợi cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Đúc kết kinh nghiệm về phát triển công nghiệp nhôm khắp thế giới cho đến nay, các nhà kinh tế và các nhà khoa học đã rút ra kết luận chỉ nên khai thác bô-xít khi có những điều kiện sau đây – xếp theo thứ tự tầm quan trọng :
1.
có nguồn điện dồi dào,
2.
có nguồn nước dồi dào,
3.
nơi khai thác có vị trí hoang vắng (xa khu dân cư hay vùng kinh tế) và địa thế thích hợp (thấp, trong thung lũng, không phải vùng đầu nguồn các sông suối...) thuận lợi cho giải quyết thoả đáng vấn đề bảo vệ môi trường (nước thải và bùn đỏ nhiễm hoá chất...),
4.
có khả năng giảm xuống mức thấp nhất chi phí vận tải,
5.
có trữ lượng bô-xít dồi dào với hàm lượng cho phép đạt chuẩn 4/2/1 (4 tấn quặng làm ra 2 tấn alumina rồi từ đó ra 1 tấn nhôm để có khả năng cạnh tranh trên thị trường),
6.
có nguồn lao động rẻ hoặc được cơ giới hoá cao độ khâu khai thác.
Ngoài ra thực tế công nghiệp nhôm hiện nay trên thế giới còn cho thấy phần lớn các nước phát triển (Nhật, Tây Âu...) từ hai thập kỷ nay đã liên tục giảm hoặc có nước phải bỏ hẳn công nghiệp điện phân nhôm, vì lý do môi trường và năng lượng (tốn quá nhiều điện).
Tây Nguyên chỉ có 2 điều kiện cuối cùng và cũng là 2 điều kiện thấp nhất trong 6 điều kiện cần phải có cho việc khai thác bô-xít trong thời đại kinh tế toàn cầu hoá ngày nay, đó là : (a) nguồn tài nguyên dồi dào và (b) lao động giá rẻ.
Do thiếu 4 điều kiện đầu (từ số 1 đến số 4), nên giá thành sản phẩm alumina hoặc nhôm ở Tây Nguyên sẽ rất cao. Vấn đề xử lý ô nhiễm môi trường rất tốn kém, hoặc thậm chí không khả thi trong những điều kiện nhất định (quy mô khai thác, tình hình thời tiết...). Nếu cũng với nguồn vốn như vậy bỏ ra thay vì cho khai thác bô-xít ở Tây Nguyên, đem đầu tư cho phát triển một Tây Nguyên xanh, chắc chắn lợi ích các mặt kinh tế, xã hội, văn hoá... sẽ lớn hơn nhiều.
Việc triển khai sản xuất khoảng 1,2 triệu tấn alumina/năm, rồi sẽ nâng lên khoảng 6 – 8 triệu tấn/năm trong tình hình chỉ có 2 điều kiện cuối cùng trong 6 điều kiện phải có, và được tiến hành theo cách vừa khai thác vừa tìm các giải pháp cho nhiều vấn đề còn tồn tại thuộc các điều kiện chưa có hoặc không có – được đánh số từ 1 đến 4 như vừa nêu trên. Việc xây dựng 2 nhà máy sản xuất tinh quặng alumina Nhân Cơ và Tân Rai đã được triển khai từ gần một năm nay (hoàn tất việc ký hợp đồng, san mặt bằng...), nhưng bây giờ vẫn còn đang tính và đang tìm các phương án xử lý các vấn đề thuộc kết cấu hạ tầng (giao thông vẫn tải, điện, nước...) ; còn nhiều vấn đề kinh tế cực kỳ hệ trọng vẫn còn để ngỏ : Có sản xuất nhôm không ? Nếu “có”, lấy điện ở đâu ? có phải là tối ưu không ? Nếu “không”, làm ra alumina sẽ chỉ để xuất khẩu trong tình hình phát triển của nước ta và trong tình hình kinh tế thế giới sau cuộc khủng hoảng toàn cầu hiện nay là nên hay không nên ? Ngoài khai thác bô-xít để bán tinh quặng, còn sự lựa chọn nào khác cho phát triển năng động và bền vững của Tây Nguyên nói riêng và của cả nước nói chung hay không ? Toàn bộ vấn đề khai thác bô-xít như vậy thúc đẩy hay kìm hãm chiến lược công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước theo hướng phát triển bền vững? Nước ta sẽ tiến lên, hay tụt hậu thêm, sẽ giữ được ổn định hay tiềm ẩn thêm những nguy cơ đe dọa mới đối với an ninh quốc phòng do việc khai thác bô-xít ở Tây Nguyên ? vân vân...
Hai là : 2 dự án Nhân Cơ và Tân Rai (và nói chung là chương trình khai thác bô-xít Tây Nguyên) được tiến hành với một quy trình lộn ngược, có thể “ rẻ biến thành đắt ”, với những hiểm họa lớn cho Tây Nguyên và cho các vùng chung quanh, có nguy cơ đẩy đất nước đi sâu vào một chiến lược kinh tế sai lầm.
Triển khai 2 dự án Nhân Cơ và Tân Rai trong điều kiện chưa nghiên cứu xong, chưa chuẩn bị xong các điều kiện kết cấu hạ tầng và chưa tính toán thỏa đáng vấn đề “ đầu ra ” (output), có thể ví đấy là quy trình : xây cái nhà trước khi có thiết kế móng và xây móng. Trong khi đó TKV còn dự định triển khai thêm 03 nhà máy nữa ở Đăk Nông và một số nhà máy nữa ở Gia Lai và Bình Phước...
Hãy tính toán : Để sản xuất alumina với khối lượng 5 – 6 triệu tấn/năm trở lên sẽ rất khó khăn trong việc cân đối nguồn nước và xử lý chất thải. Để sản xuất nhôm thì thiếu nguồn điện, chỉ sản xuất ra tinh quặng alumina thì hiệu quả kinh tế rất thấp, thậm chí lỗ. Nếu là alumina thì hầu như chỉ có một khả năng duy nhất là bán cho Trung Quốc, sẽ tạo ra sự lệ thuộc nguy hiểm ; bởi vì trong vùng Đông Á và Đông Nam Á ngoài Trung Quốc không nước nào nhập alumina, đi xa nữa bô-xít của ta không chịu nổi cước phí vận tải và khó cạnh tranh, nên hầu như cũng không có người mua.
Như mọi người đều biết, toàn bộ các vấn đề nước, điện, giao thông vận tải cần thiết cho hai dự án làm alumina đã bắt đầu triển khai trước mắt chủ yếu dựa trên những điều kiện có sẵn, hoặc là vừa làm vừa tính toán tiếp (vì còn đang lựa chọn, chưa ngã ngũ một phương án nhất định nào).
Dưới đây xin nêu lên từng vấn đề để xem xét :
Về vận tải : Hai dự án Tân Rai và Nhân Cơ tuy đã triển khai (ký kết xong hợp đồng, san mặt bằng, đang đẩy xúc tiến đền bù giải toả nơi khai mỏ...) nhưng đến nay vẫn chưa có lời giải dứt khoát cho vấn đề giao thông vận tải, bao gồm nguyên vật liệu các loại cho quá trình chưng tách quặng (là than, hoá chất...) và cho sản phẩm alumina làm ra. Hơn nữa than, hoá chất, alumina... đòi hỏi phải có các phương tiện vận tải chuyên dụng khác nhau, trên một chiều dài khoảng 250 - 300km đường núi, đi ngược chiều nhau, nghĩa là lượt lên núi có hàng (than, hoá chất...), lượt xuống núi không tải ; hoặc ngược lại : lượt xuống núi có hàng (alumina), lượt trở lại núi là không tải ; hệ quả sẽ rất tốn kém (tiến sỹ Nguyễn Văn Ban).
*
Theo chương trình của TKV, trong một vài năm đầu tiên, sẽ phải vận chuyển cho cả hai chiều một khối lượng tổng cộng là 3-5 triệu tấn/năm, sau đó tăng dần lên khoảng 10-15 triệu tấn/năm vào khoảng 2015, tăng dần đến năm 2025 sẽ lên tới khoảng trên 30 triệu tấn/năm hoặc hơn nữa. Đi bằng đường nào ?
Có thể hình dung kịch bản : Theo chương trình của TKV, khoảng năm 2011-2015 sản xuất alumina sẽ hoàn thành giai đoạn I với công xuất khoảng 6-8 triệu tấn/năm, tổng khối lượng vận tải cả hai chiều đi và về từ nhà máy đến cảng phải thực hiện ước tính sẽ khoảng 15-16 triệu tấn/năm. Song nếu có tiền và quyết tâm xây dựng đường sá bến cảng trong điều kiện của ta hiện nay, thì cũng phải vào năm 2020 mới thực hiện được khối lượng đường sá này. Có câu hỏi : Làm gì với 5 hay 6 năm vênh nhau này ?
*
Hiện nay còn đang tính xem sẽ là đường sắt, đường bộ, hay là đường ống? Đã có dự kiến sẽ làm đường sắt. Song với độ cao 800m, cự ly ngắn, địa thế núi non hiểm trở.., con đường sắt này phải thiết kế như thế nào? Khảo sát và xây dựng bao giờ xong?.. Nếu là đường chuyên dụng thì rất tốn kém; nếu là kết hợp với kinh tế dân sinh cũng rất phi kinh tế vì đường sắt sẽ chỉ đi qua những nơi hoang vắng dân cư và phải kéo dài thêm nhiều. Dự trù của TKV cho đường sắt là 1,3 tỷ USD, nhưng thực tế có thể lên tới 3 tỷ USD, cho đến nay tất cả các đối tác nước ngoài muốn khai thác bô-xít đều từ chối hạng mục này trong đầu tư vào alumina Tây Nguyên, nói đây là nhiệm vụ của nước chủ nhà. Như vậy chỉ còn cách nhà nước bỏ tiền ngân sách hoặc đi vay để đầu tư vào giải quyết những vấn đề này nhằm phục vụ các dự án bô-xít? Đường sắt làm nhanh cũng phải 5-7 năm !
*
Các hệ thống đường bộ hiện có ở vùng này hoàn toàn không có khả năng cáng đáng thêm lưu lượng vận tải (đi và về) cho sản xuất alumina này – dù chỉ là trong một thời gian ngắn.
*
Đến nay cũng chưa có cảng để xuất khẩu (địa điểm dự định là cảng Kê Gà, nhưng đang có nhiều vấn đề gây tranh cãi, trước hết vì tác động vào du lịch miền Trung).
*
Trước tình hình có nhiều ý kiến lo lắng về vận tải, nguồn nước và môi trường nếu sản xuất alumina ở Tây Nguyên, có ý kiến đề xuất làm đường ống đưa bô-xít xuống núi và đặt nhà máy chưng tách tại Bình Thuận, tống thải bùn đỏ ra vùng gần biển. Song đây mới chỉ là một ý tưởng, chưa hề có sự nghiên cứu, khảo sát chi tiết và sự chuẩn bị nào.
*
Vân vân...
Xin lưu ý : Nước ta nghèo, đất chật người đông, không cho phép lấy đâu ra vốn và đất đai xây dựng một hệ thống đường sắt hay đường bộ chuyên dụng chỉ để phục vụ cho một mục đích duy nhất là đào bô-xít chưng tách thành quặng sơ chế alumina đem đi bán cho nước ngoài. Trong tình hình đường sá như hiện nay, chỉ riêng tính đủ chi phí vận tải – bao gồm cả chi phí duy tu đường sá, hạch toán giá thành sản phẩm theo giá FOB (giá tại cảng) chắc chắn sẽ cao hơn giá thị trường thế giới rất nhiều2.
Về công nghệ : Hiện nay, nhà máy đầu tiên ở Bảo Lâm, Lâm Đồng đã được khởi công xây dựng. Tập đoàn CHALIECO (Trung Quốc) đã trúng thầu gói thầu và ký hợp đồng chìa khoá trao tay (EPC – Enginering - Procurement – Construction) xây dựng nhà máy với giá trị 466 triệu USD, đã bắt đầu trao tiền. Nhà máy còn lại ở Đăk Nông hợp đồng EPC ký với CHALECO làm nhà máy chưng tách alumina ở Nhân Cơ đã được phê duyệt. Như thế, cả hai nhà máy alumina đầu tiên ở Việt Nam đều do Trung Quốc trúng thầu và sử dụng công nghệ Trung Quốc.
*
Chúng ta đã có quá nhiều bài học với công nghệ của Trung Quốc trong các công trình đầu tư vào Việt Nam (các nhà máy mía đường, xi-măng lò đứng, đồng Sinh Quyền, chrome Cổ Định, các nhà máy điện...). Song các bản thuyết trình của Tập đoàn Than & khoáng sản Việt Nam (TKV) lại luôn luôn giải trình là sẽ áp dụng công nghệ tiên tiên nhất trên thế giới. Vậy sự thật 2 dự án này sẽ áp dụng công nghệ nào ? Có ý kiến của giới chuyên môn lưu ý chúng ta : Trung Quốc không phải là nước có công nghệ nguồn trong sản xuất alumina và luyện nhôm. Hơn nữa, cho đến nay công nghệ trong các nhà máy sản xuất alumina của Trung Quốc là dùng để chế biến quặng bô-xít diaspo (hydrat đơn hay quặng 1 nước) - giống như nhà máy ở Bình Quả thuộc tỉnh Quảng Tây (nơi gần đây Bộ Công Thương và tập đoàn TKV vừa tổ chức tham quan cho đại diện các ban ngành Trung ương). Trong khi đó, bô-xít ở Tây Nguyên là quặng bô-xít gipsit (hydrat 3 hay quặng 3 nước), đòi hỏi sự khác biệt về công nghệ ; vậy công nghệ của hai nhà máy Tân Rai và Nhân Cơ thích ứng cho loại quặng nào ? Vấn đề này liên quan đến chất lượng sản phẩm và giá thành.
*
Một vấn đề đáng tiếc khác là TKV ký hợp đồng dưới dạng chìa khoá trao tay (EPC), loại bỏ ngay từ đầu khả năng của ta lựa chọn công nghệ và thiết bị ; phải mua các thứ nhập của Trung Quốc từ A tới Z cho việc xây dựng và lắp ráp hoàn chỉnh nhà máy, trong khi đó có nhiều thứ nước ta có thể cung cấp – từ nguyên vật liệu, những thiết bị nhất định, nhân lực...; phải để cho Trung Quốc đưa một khối lượng lớn công nhân xây dựng và lắp ráp Trung Quốc vào Tây Nguyên (TKV cho biết khoảng 1500 công nhân TQ cho việc xây dựng và lắp ráp một nhà máy) mà phía ta hoàn toàn có khả năng cung cấp, ngọai trừ một số rất ít các chuyên gia và kỹ thuật viên chuyên về alumina ta có thể chưa có. Việc tuyển dụng một số lớn lao động nước ngoài như đang diễn ra ở Tân Rai vi phạm nhiều điều khoản trong Nghị định số 34/2008/NĐ-CP ngày 25 tháng 03 năm 2008 của Chính phủ QUY ĐỊNH VỄ TUYỂN DỤNG VÀ QUẢN LÝ NGƯỜI NƯỚC NGOÀI LÀM VIỆC TẠI VIỆT NAM3.
*
Cần lưu ý sau 25 năm phát triển đất nước trong đổi mới và thu hút FDI, ngày nay đã qua rồi thời kỳ Việt Nam phải mua nhà máy kiểu chìa khoá trao tay (EPC) với nhiều thua thiệt và bị động nhiều mặt như 2 hợp đồng TKV đã ký với CHALIECO. Ngày nay trình độ phát triển mọi mặt của đất nước – kể cả về nhân lực, tài chính và kỹ thuật chuyên môn, công nghệ, năng lực quản lý, khả năng cung ứng trong nước... – Việt Nam hoàn toàn có đủ khả năng xây dựng hai nhà máy alumina Nhân Cơ và Tân Rai dưới dạng hợp đồng liên doanh (EPCM), qua đó giành được nhiều điểm nước chủ nhà nhất thiết phải nắm lấy. Cùng với các hợp đồng EPC khác đã ký kết với Trung Quốc và đã thực hiện trong cả nước, 2 hợp đồng EPC của TKV đã ký kết và đang triển khai là những bài học cần được rút ra.
Về môi trường : Vấn đề bùn đỏ là vấn đề môi trường cần được quan tâm trong quá trình sản xuất alumina. Cách thức phổ biến về xử lý bùn đỏ trên thế giới là xây hồ chứa hoặc chôn cất bùn đỏ ở nơi hoang vắng, xa các vùng đầu nguồn các sông suối và các mạch nước ngầm.., nơi bằng phẳng, không trôi dạt đi nơi khác, nền hồ không bị thẩm thấu, không bị phong hoá qua thời gian...
*
Trong phòng thí nghiệm, về mặt khoa học kỹ thuật thuần tuý, công nghệ hiện đại ngày nay trên thế giới về cơ bản có thể xử lý các vấn đề bùn đỏ và nước bùn đỏ nhiễm hoá chất trong quá trình sản xuất alumina. Tuy nhiên trong ứng dụng, tại nhiều nước vẫn còn phát sinh nhiều vấn đề mới chưa có các biện pháp xử lý thoả đáng (tại Úc và Mỹ đã xẩy ra một số trường hợp phải đình chỉ tạm thời một số công nghệ xử lý môi trường đang ứng dụng để nghiên cứu tiếp).
*
Cho đến nay ở nước ta chưa có nghiên cứu nào của giới khoa học đánh giá mọi mặt và khuyến nghị nên lựa chọn công nghệ hiện đại nào hiện có trên thế giới là phù hợp với điều kiện địa lý tự hiên và khí hậu ở Tây Nguyên, chi phí như thế nào ? tác động vào giá thành ra sao ? vân vân... Chỉ riêng vấn đề hồ chứa chất thải là bùn đỏ nhiễm hoá chất ở Tây Nguyên sẽ rất khác so với nhiều nước trên thế giới : hồ ở trên cao, vùng đất có độ dốc lớn, đất có độ thẩm thấu cao, nơi đầu nguồn các sông suối quan trọng và nhiều mạch nước ngầm, thời tiết khắc nghiệt, bản thân Tây Nguyên hiện nay đã là vùng đông dân cư và đồng thời tiếp giáp với nhiều vùng dân cư lớn khác ở Đông Nam Bộ và Trung Bộ, vân vân... Tất cả dẫn đến hệ quả là hồ chứa chất thải bùn đỏ nhiễm hoá chất ở Tây Nguyên khó xử lý hơn và đắt hơn, tiềm tàng nhiều mối nguy lớn nhất là kể từ thời kỳ hậu khai thác (vì bùn đỏ nhiễm hoá chất tồn lại mãi mãi trong hồ). Nhà nước ta chật vật mãi vẫn xử lý chưa xong vụ Vedan, vậy có nên tự mình cho phép thai nghén một vụ Vedan mới khổng lồ và nguy hiểm hơn nhiều lần đối với toàn bộ vùng hạ lưu sông Đồng Nai và miền Đông Nam Bộ hay không ?
*
Ngoài ra còn nhiều vấn đề khác đặc biệt khó xử lý ở Tây Nguyên, như bụi đỏ, nước bùn đỏ lúc rửa quặng vùng gió nhiều và rất thiếu nước trong 6 tháng mùa khô, vân vân...
*
Xin đặc biệt lưu ý : Những hiểm họa về môi trường tự nhiên cho dù xem xét trên phương diện công nghệ và khoa học kỹ thuật là có thể khống chế được, song rất tốn kém và cũng sẽ chồng chất thêm những gánh nặng mới về kinh tế, cuối cùng sẽ là tăng thêm sự thua lỗ. Hơn nữa kiểm soát vấn đề môi trường còn phụ thuộc rất nhiều về khả năng quản lý, khả năng thực thi luật pháp – nhất là trong thời kỳ hậu khai thác. Riêng vấn đề xói mòn tại vùng cao Tây Nguyên do lớp vỏ cứng là bô-xít bị bóc đi, lại là nơi có mưa gió rất khắc nghiệt, nên sẽ để gây ra hệ quả khôn lường, không tính toán hết được (giáo sư Nguyễn Đình Hoè).
Về hoàn thổ : Hàng nghìn hecta rừng và đất trồng trọt tiêu, chè, cà-phê, điều... bị bóc đi sẽ không dễ dàng phục hồi như TKV giải trình. Ở nước ta, ngoài kinh nghiệm hoàn thổ thất bại tại những nơi khai thác than tại Quảng Ninh, kinh nghiệm ở Úc, Mỹ cho thấy việc hoàn thổ các mỏ bô-xit nếu làm tốt cũng phải mất 20 năm mới có thể tạo thành đất trồng trọt, song chủ yếu cũng sẽ chỉ thích hợp cho loại cây làm nguyên liệu, không thích hợp cho các loại cây làm ra thực phẩm – vì đất mới hoàn thổ nhiễm nhiều khoáng chất mới độc hại con người không thể hấp thụ được.
*
Cần lưu ý, trữ lượng bô-xít ở Tây Nguyên được đánh giá là lớn, song hàm lượng quặng là loại trung bình hay trung bình thấp (khoảng 0,4 đến 0,5; trong khi đó ở Úc và nhiều nơi khác là 0,6). Vỉa quặng ở Tây Nguyên nhìn chung mỏng, nhiều khi phân bổ không tập trung theo kiểu da báo, các tài liệu của TKV thừa nhận : ở Tây Nguyên để có được một lượng bô-xít tương đương thì diện tích lớp đất trầm tích trên bề mặt phải bóc đi để khai mỏ sẽ lớn gấp 3 đến 4 lần, thậm chí nhiều chỗ là 5 lần so với khai thác bô-xít ở Úc, Brasil. Điều này có nghĩa diện tích lớp đất bề mặt phải bóc đi và sau đó phải hoàn thổ đều tăng lên ít nhất gấp 3-4 lần so với các nước nói trên, do đó mức tàn phá môi trường tự nhiên sẽ lớn hơn nhiều, cảnh quan bị hủy hoại nặng vì sự phân bổ quặng theo kiểu da báo; giá thành và những tác động ngoại vi (externalities) cũng sẽ tăng lên nhiều.
*
Ngoài ra nhiều nhà khoa học trên thế giới đã cảnh báo những nguy cơ thường xảy ra ở những vùng đất đã hoàn thổ sau khi khai thác quặng : xuất hiện những cây lạ khó diệt (ví dụ : nhóm cây mimosa pigra rất độc), nguy cơ sạt lở đất... (giáo sư Nguyễn Đình Hoè).
Về điện : Điện phân để có được 1 tấn nhôm từ alumina cần tiêu thụ khoảng 14.500 đến 15.500 kwh (tương đương với lượng điện của một hộ gia đình bình thường ở nước ta tiêu thụ ở mức 100 kwh/tháng trong 15 năm !). Nói thô thiển, cứ sản xuất (điện phân) 100 nghìn tấn nhôm/năm, cần phải có một nhà máy điện với công suất là 300 - 350 Mw – tương đương với nhà máy thủy điện Trị An. Ngoài ra phải đầu tư cho nhà máy điện phân nhôm, ước tính 4500-5500 USD/tấn công suất. Giả định rằng muốn trở thành một quốc gia xuất khẩu nhôm, tối thiểu nước ta phải làm ra khoảng 0,5 triệu tấn nhôm/năm, nghĩa là cần phải có thêm một lượng điện tương đương với 5 nhà máy thủy điện Trị An cộng lại và phải đầu tư thêm 2,5 tỷ USD cho nhà máy điện phân nhôm. Lấy đâu ra nguồn lực này ? Song nếu làm được thì cũng phải vào khoảng 2020-2025 mới có nhôm, không thể sớm hơn được ; mà như vậy thì chỉ vừa đủ đáp ứng nhu cầu trong nước vào thời gian đó (hiện nay nước ta tiêu thụ khoảng 100-150 nghìn tấn nhôm/năm) ; trong khi đó thế giới hiện nay sản xuất khoảng 70-90 triệu tấn/năm, thị trường dư thừa, ta có thể nhập dễ dàng. Vậy có nên làm nhôm để tự túc một cách tốn kém như vậy không ? Làm nhôm để xuất khẩu càng lực bất tòng tâm.
*
Hiện nay nước ta đang thiếu điện và ngày càng thiếu trầm trọng, đang phải tính đến tăng giá điện và nhập điện. Trong tương lai rất gần sẽ phải nhập than và dầu, đã phải tính đến điện từ năng lượng hạt nhân. Trong tình hình như vậy, dành điện cho điện phân nhôm ở nước ta là phi kinh tế và không khả thi, chí ít là cho đến năm 2025. Điều này cũng có nghĩa từ nay đến năm 2025 Tây Nguyên chỉ có thể sản xuất được alumina mà thôi. Quyết định khai thác bô-xít ở quy mô lớn mà cuối cùng chỉ là để bán alumina sẽ gần giống như tự sát. Có nên không ?
*
TKV giải trình sẽ xúc tiến thuỷ điện Đồng Nai 5 với công suất 300 MW. Song nhà máy thủy điện (dự kiến) Đồng Nai 5 còn thiếu những tính toán cân đối nguồn nước, quy hoạch, thiết kế và vốn. Trên thực tế nhà máy thủy điện Đồng Nai 5 đã được Chính phủ giao cho TKV cách đây nhiều năm, nhưng cho đến nay vẫn chưa khởi công được. TKV nói dự kiến sẽ xây thêm 3 nhà máy nhiệt điện (để tạo ra hơi nóng, phục vụ sản xuất alumina) với công suất 30MW/1 nhà máy. Giả thiết là làm được tất cả 4 nhà máy điện này, cũng chỉ đủ điện phân khoảng 80.000 tấn / năm, hiệu quả kinh tế sẽ rất thấp, nếu như không muốn nói là lỗ. Bây giờ mới dự kiến ? Đấy là chưa nói đến việc nếu có thêm điện thì dùng làm gì trong nền kinh tế đang đói điện của nước ta là có lợi nhất!4
*
Một bài toán kinh tế khác : Để có thể cạnh tranh, TKV thừa nhận giá điện dành cho điện phân nhôm không được quá 4-4,5 cent USD/1kwh, ở nhiều nước sản xuất nhôm với giá điện chỉ là 3,5 cent USD/1kwh ; thế nhưng giá điện ở nước ta hiện nay là 6-7 cent USD và dự kiến sẽ tăng nữa, như vậy ở nước ta nếu làm điện phân nhôm thì mỗi tấn nhôm sẽ phải bù lỗ trung bình 300 - 350 USD riêng cho điện, có nên không ? Xin lưu ý : Xuất khẩu nhôm trên thực tế là xuất khẩu điện. Ngày nay ngoài Mỹ và Trung Quốc là hai nền kinh tế lớn với nhiều đặc thù không đâu có, trên thế giới hầu như không còn quốc gia nào nhập năng lượng mà lại dám sản xuất nhôm.
Nước : Để sản xuất 1 tấn alumina thời kỳ đầu cần khoảng 30m3/tấn alumina, khi có thể sử dụng lại nước tuần hoàn cần bổ sung thêm 12m3/tấn alumina. Vài năm đầu tiên hai dự án Tân Rai và Nhân Cơ dự kiến đạt tổng sản lượng khoảng 1,2 triệu tấn alumina/năm, cần phải có khoảng 24 triệu m3 nước/năm. Đến năm 2015 dự kiến tăng công suất lên gấp đôi, và cùng với các nhà máy khác sẽ được xây dựng trên Tây Nguyên nhằm đạt công suất khoảng 6 đến 8 triệu tấn alumina/ năm, nghĩa là cũng cần phải có một lượng nước khoảng 160 triệu m3/năm, lấy ở đâu ?
*
Thế nhưng việc cân đối nguồn nước ở Tây Nguyên cho việc sản xuất 6-8 triệu tấn alumina/năm hiện nay là nan giải, rất tốn kém, khó khả thi. Chính vì nguồn nước mặt ở Tây Nguyên rất khan hiếm, trồng trọt ngày càng phụ thuộc vào nước ngầm. Việc khai thác nước ngầm ở Tây Nguyên hiện nay đã tới mức báo động, nhiều nơi mực nước ngầm đã hạ thấp khoảng 5-13m so với thập kỷ trước). Tây Nguyên rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan : lấy nước cho alumina thì lại mất nước cho thủy điện và cho trồng trọt, hoặc ngược lại dành nước cho thủy điện và trồng trọt thì lại không có hay rất thiếu nước cho alumina. Quy mô sản xuất alumia càng lớn, tình trạng thiếu nước sẽ càng gay gắt. Nước cần cho 16-18 triệu tấn alumina/năm hầu như không cân dối được nguồn...
*
Vân vân...
Có thể nói trong hầu hết mọi vấn đề – từ công nghệ đến môi trường, đền bù và sử dụng đất đai, vấn đề hoàn thổ, điện, nước, hệ thống xử lý chất thải, hệ thống giao thông vận tải, vân vân.., trên thực tế cho đến nay là vẫn còn quá nhiều vấn đề để ngỏ, nghĩa là chưa có tính toán chi tiết và kết luận rõ ràng, chưa có sự lựa chọn nào dứt khoát với những quyết định cụ thể, còn nhiều vấn đề thiếu các luận chứng kinh tế, kỹ thuật khả thi và được phê duyệt bởi các cơ quan chuyên môn có năng lực.
TKV dự kiến vào khoảng năm 2015 Tây Nguyên có thể sản xuất ra 6-8 triệu tấn alumina/năm để xuất khẩu, và thị trường thế giới cho thấy chỉ có thể đem bán được cho một đối tác duy nhất là Trung Quốc. Làm như vậy, câu chuyện sẽ chẳng khác gì mua dây thắt thòng lọng rồi nhờ người đặt vào cổ mình.
Xin đừng quên những bài học trong những năm trước và ngay hiện nay: cao su, hoa quả và nhiều hàng hoá khác của ta xếp hàng nằm thối, mốc ở biên giới Việt – Trung không xuất sang được Trung Quốc, cuối cùng phải hủy bỏ, vì phía Trung Quốc gây sức ép khi thấy cần thiết.
Chú ý : Giải trình của ban Nhôm của TKV tháng 2-2009 với Hội đồng quản trị Tập đoàn TKV đã lưu ý : Nếu sản phẩm alumina của dự án nhà máy Nhân Cơ không bán được với giá 310 USD/tấn thì sẽ lỗ. Song hiện nay trong quý I/2009 giá alumina ở thị trường Úc trong dao động ở mức dưới 300 USD/tấn, giá thị trường thế giới hiện nay là 280 USD/tấn (giá FOB).
Đề nghị các chuyên gia kinh tế hãy thử dựa vào tình hình dao động giá cả alumina trên thị trường thế giới đang diễn ra và dự báo cho những năm tới để làm một vài con tính tổng quát đánh giá xem nên hay không nên khai thác bô-xít ở Tây Nguyên ?
Thuyết trình của TKV cho rằng tỷ lệ hoàn vốn nội tai (IRR) của alumina ở Tây Nguyên khoảng 10,4-11 %. Song cách hạch toán này là chính xác ? Đã tính đủ toàn bộ chi phí đầu tư các hạng mục thuộc các vấn đề nước, điện, giao thông vận tải từ khu mỏ cho đến cảng biển, các chi phí khác cho môi trường và cho những tác động ngoại vi hiển thị (lộ ra rõ ràng, thấy được) và không hiển thị (tiềm ẩn, không thấy được) (explicit and implicit externalities)... ?
Không thể không đặt ra vấn đề so sánh : Nếu đem toàn bộ các nguồn lực chi cho khai thác bô-xít Tây Nguyên vào việc phát triển Tây Nguyên theo một hướng khác, ví dụ một Tây Nguyên xanh, lợi hại sẽ ra sao ? Rất cần một đánh giá toàn diện như vậy theo phương thức “cost-benefit analysis” cho hai dự án bô-xít này nói riêng, bao gồm cả phân tích chi tiết về tài chính mà nền kinh tế của cả nước phải gánh chịu để có được alumina cập bến xuất khẩu, và cho toàn bộ chương trình khai thác bô-xít Tây Nguyên 2010-2025 nói chung.
Xin thử hình dung : Giả thiết rằng trong 5 năm đầu tiên (vào khoảng năm 2015) Tây Nguyên xuất khẩu trung bình được 3 - 4 triệu tấn alumina/năm, sẽ thu được khoảng 1-1,2 tỷ USD/năm; nghĩa là với lượng vốn đầu tư rất lớn, chiếm dụng đất đai rất lớn, gây ô nhiễm môi trường nặng nề và tác động nghiêm trọng đến nhiều vùng lân cận, tạo ra ít việc làm, cái giá phải trả cho các vấn đề môi trường xã hội và an ninh quốc gia rất cao, cũng chỉ có thể đạt được bằng kim ngạch xuất khẩu cao su hiện nay (1 -1,2 tỷ USD/năm). Nếu vào khoảng 2016-2025 muốn đưa sản xuất alumina lên khoảng 12-18 triệu tấn/năm như TKV dự kiến thì lại thiếu nước, điện, năng lực vận tải.., và vì thế khó khả thi! Đấy là chưa tính đến những thiệt hại kinh tế khác do lại thêm hàng nghìn ha vườn cây các loại và rừng bị bóc đi cùng với số việc làm bị mất theo, như vậy đã cầm chắc trong tay “lỗ đơn”, “lỗ kép”! Tác động của khai thác bô-xít vào các ngành kinh tế khác như du lịch, các sản phẩm nông nghiệp khác... ở ngay Tây Nguyên và trong các vùng chung quanh. Nghiên cứu theo hướng này, chắc chắn các chuyên gia kinh tế và các nhà khoa học còn có thể đưa ra nhiều bài toán cảnh báo khắc nghiệt khác.
Có thể nói công nghiệp bô-xít – alumina ở Tây Nguyên như đang triển khai rất nhậy cảm trên nhiều phương diện, có nguy cơ đẻ ra nhiều hệ quả xấu và nguy hiểm cho quốc gia, nhưng cách làm rất vội vã, theo một quy trình lộn ngược, thiếu những khảo sát, điều tra, tính toán vĩ mô đủ tin cậy. Mặt khác, vì còn quá nhiều hạng mục kết cấu hạ tầng cho hai dự án alumina đang triển khai mới chỉ là dự kiến, vừa làm vừa tính tiếp, nên rất dễ xảy ra những bất cập ngay trong quá trình sản xuất và dễ dẫn đến những thua lỗ, đổ vỡ, tốn kém lẽ ra không đáng có (do những mất cân đối giữa các khâu đầu vào đầu ra, tiến độ xây dựng các hạng mục lệch pha...), nhất là trong tình hình nước ta hiện nay có không ít công trình xây dựng kéo dài hay là dở dang “xuyên thế kỷ”.
Giải trình của TKV cam kết đầu tư khai thác bô-xít ở Tây Nguyên sẽ gắn với trách nhiệm phát triển kinh tế bền vững, xoá đói giảm nghèo, trí thức hoá cộng đồng dân tộc tại chỗ... (Đoàn Văn Kiển, tại Hội nghị báo cáo viên các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương ngày 25-12-2008, TPHCM, do Ban Tuyên giáo TƯ tổ chức). Thực tế ở nước ta cho thấy cho đến nay hầu như chưa có một khu mỏ hay khu công nghiệp chế biến khoáng sản nào trong cả nước có thể làm được 3 nhiệm vụ này, dù chỉ là một phần nhỏ. Vấn đề nước ngầm bị ô nhiễm nặng nề và các bãi thải như núi tại nhiều nơi khai thác than ở Quảng Ninh cho đến nay chưa có cách gì xử lý được chỉ ra một thực tế khác. Như vậy, cam kết của TKV tại hội nghị này là hiện thực ?
Còn hai vấn đề cực kỳ quan trọng khác trong khai thác bô-xít ở Tây Nguyên không thể bỏ qua, đó là : (a) vấn đề an ninh quốc gia, và (b) tác động đối với quê hương nơi sinh tồn của đồng bào các dân tộc ít người. Đã có nhiều ý kiến phản biện rất xác đáng, nêu lên tầm quan trọng chiến lược của Tây Nguyên đối với an ninh của cả nước. Những bài này cho thấy khai thác bô-xít như TKV đang triển khai có những sơ hở vi phạm nguyên tắc phải kết hợp kinh tế với an ninh quốc phòng, đồng thời có nguy cơ xáo trộn nguy hiểm đời sống mọi mặt của các cộng đồng dân tộc ít người tại đây.
Nói khai thác bô-xít sẽ mang lại việc làm, giàu có và văn minh cho đồng bào các dân tộc Tây Nguyên như trong các giải trình của TKV phải chăng là quá văn hoa ! Xin nhớ lại : Trong 34 năm vừa qua, với sự nỗ lực của cả nước, đã có không biết bao nhiêu chương trình quốc gia, bao nhiêu chính sách phát triển Tây Nguyên bền vững, với đủ mọi kinh phí các loại (từ ngân sách nhà nước, đầu tư trong nước, ODA, FDI...), tổng cộng lên tới hàng chục tỷ USD, song cho đến nay vẫn chưa giải quyết xong vấn đề phát triển Tây Nguyên như mong muốn. Xáo trộn dân cư hiện nay vẫn tiếp diễn một cách nguy hiểm, rừng Tây Nguyên tiếp tục bị phá và nghèo kiệt. Khai thác bô-xít của TKV sẽ tạo ra sự phát triển bền vững ở Tây Nguyên mà 34 năm qua chúng ta với nỗ lực của cả nước chưa làm được ? Xin đặt một câu hỏi khác : Hơn 60 năm khai thác than ở Quảng Ninh đã đóng góp được gì vào giầu có văn minh của đất nước ? Triển vọng hiện thực hơn của các mỏ bô-xít như cách đang triển khai trong bối cảnh nền kinh tế và tình hình phát triển đất nước hiện nay chỉ có thể là : Sẽ tạo thêm một sự huỷ hoại mới về mọi mặt ở Tây Nguyên không cứu chữa được.
Chỉ xin nêu lên một nhận xét khái quát : Trong vấn đề an ninh quốc gia và trong vấn đề gìn giữ quê hương các dân tộc anh em, nếu để xảy ra sơ suất, có thể sẽ mang trọng tội đối với đất nước. Thời nào cũng vậy, giữ lòng dân bao giờ cũng là đòi hỏi quan trọng hàng đầu đối với an ninh quốc gia.
Có thể kết luận : Hai dự án khai thác bô-xít như TKV đang triển khai không tuân thủ quan điểm thăm dò, khai thác và chế biến quặng bô-xít như đã nêu trong quyết định số 167/2007/QĐ-TTg ngày 01 tháng 11 năm 2007 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (điểm 1, phần Quan điểm), không đúng với chủ trương Đại hội X của Đảng về việc hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thô.
Ba là : Các ý tưởng và lộ trình triển khai công nghiệp bô-xít và luyện nhôm đang được TKV tiến hành theo quy trình lộn ngược, mới chỉ dựa trên cơ sở tài nguyên bô-xít dồi dào của đất nước có thể khai thác, nhưng lại thiếu hẳn sự cân đối các mặt năng lượng, giao thông vận tải, khả năng xử lý môi trường, hạch toán kinh tế. Đặc biệt đáng lo ngại là còn nhiều bài toán kinh tế vỹ mô khác liên quan đến chiến lược phát triển đất nước chưa được đề cập tới. Khai thác bô-xít Tây Nguyên như đang tiến hành là phiêu lưu và là sự lựa chọn kéo dài sự tụt hậu của đất nước.
Toàn bộ ý tưởng và chương trình phát triển công nghiệp bô-xít – nhôm như TKV đang triển khai được thiết kế theo lối tư duy : Đất nước giầu tài nguyên bô-xit thì đặt vấn đề khai thác tài nguyên này để tận dụng, thiếu hẳn sự phân tích thấu đáo mất/được mọi mặt. Đấy là cách tư duy kinh tế làm cái gì ta có, không xuất phát từ tư duy làm cái gì thị trường cần mà nước ta có khả năng đáp ứng tối ưu nhất cho sự nghiêp phát triển đất nước, không được đặt trong bối cảnh Việt Nam là nước đi sau và đã hội nhập toàn diện vào nền kinh tế thế giới toàn cầu hoá, có khả năng huy động nguồn lực từ mọi nơi và đồng thời phải cạnh tranh quyết liệt và toàn diện với mọi nơi, không coi Việt Nam là một bộ phận của kinh tế thế giới.
Cách tiếp cận công nghiệp bô-xít – nhôm như TKV đang làm là cách tiếp cận cổ điển ở đầu thế kỷ trước, lạc hậu so với tư duy khai thác lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh và lợi thế nước đi sau trong bối cảnh tiến bộ khoa học kỹ thuật đã đạt được ở thời đại ngày nay, lạc hậu so với trình độ quốc tế hoá và toàn cầu hoá của nền kinh tế thế giới trong hiện tại.
Trong thế giới hiện tại, không có một quốc gia nào có thể trở thành nước công nghiệp tiên tiến và phát triển nhờ khai thác tài nguyên thiên nhiên không tái tạo được để đem bán cho nước ngoài (cứ nhìn các quốc gia Ả-rập hay nhiểu nước khác sống chủ yếu bằng thu nhập từ dầu lửa thì thấy rõ điều này ; Nga hiện nay là nước xuất khẩu tài nguyên rất lớn, nhưng kinh tế vẫn nghèo và lạc hậu hơn Hàn Quốc, v.v...). Thậm chí quốc gia nào ngày nay càng lún sâu vào khai thác tài nguyên thiên nhiên không tái tạo được thì càng chìm sâu vào lạc hậu hoặc trở nên tụt hậu. Trong khi đó trên thế giới hôm nay ngày càng nhiều quốc gia trở nên giầu có và phát triển nhờ có nền kinh tế “carbon thấp”, kinh tế có nhiều hàm lượng công nghệ và chất xám, kinh tế tri thức.
Nước ta đất chật người đông, nguồn tài nguyên hay nguồn lực lớn nhất, quý báu nhất và hợp với xu thế thời đại nhất để phát triển đất nước là con người và khả năng phát triển kỹ năng lao động và chất xám của nó. Đấy còn là nguồn lực thích hợp nhất, tối ưu nhất để phát triển đất nước trong thế giới hiện tại, phù hợp với xu thế phát triển của thế giới, đồng thời cũng là con đường từng bước đưa nước ta vào hàng ngũ các nước phát triển tiên tiến trên thế giới.
Nguồn lực to lớn thứ hai của nước ta sau nguồn lực con người là quỹ đất đai không thể nói là giầu có của đất nước, nếu nhìn dưới góc độ mật độ dân số của nước ta cao hơn mật độ dân số của thế giới, của châu Á và của Trung Quốc !
Vị trí địa kinh tế và địa chính trị của nước ta càng đòi hỏi phải sớm dứt khoát lựa chọn con đường phát triển dựa trên phát huy tối ưu nguồn lực con người. Dồn sức đầu tư vào phát triển nguồn lực con người, và phát triển kết cấu hạ tầng (bao gồm kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng xã hội), cải cách thể chế để thực hiện được phát huy nguồn lực con người, đó mới là lối ra cho nước ta thoát khỏi số phận nước nghèo và lạc hậu.
Trong khi đó khai thác bô-xít như đang triển khai thực tế là con đường bán tài nguyên thiên nhiên không tái tạo được, bán sức lao động cơ bắp, bán không gian sống và bán môi trường. Đấy là sự tiếp tục con đường trở thành đất nước của những người đi làm thuê và đất nước cho thuê bãi thải công nghiệp. Con đường này đang kìm hãm sự phát triển năng động của đất nước, đẩy đất nước dấn sâu thêm vào tụt hậu.
Giả định rằng nước ta đã tìm ra được kết luận đúng đắn, chủ trương vào lúc nào đó và bằng cách nào đó sẽ phát triển công nghiệp bô-xít – nhôm, thì kết luận này chỉ được phép hình thành : (a) sau khi nghiên cứu đầy đủ lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh, lợi thế nước đi sau của nước ta trong nền kinh tế thế giới toàn cầu hoá ngày nay, đã xây dựng xong chương trình phát triển công nghiệp nhôm trong khuôn khổ chiến lược phát triển chung của quốc gia, (b) sau khi đã tính xong và quy hoạch xong phát triển kết cấu hạ tầng và nguồn nhân lực cần thiết cho việc triển khai ngành công nghiệp bẩn và giá trị gia tăng thấp này. Thậm chí việc đi vào triển khai công nghiệp này cần phải đi sau một bước sự chuẩn bị mọi mặt về kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, công nghệ và luật pháp có liên quan – sự chuẩn bị này phải chia thành các bước, bước một, bước hai, vân vân... Nói việc khai thác bô-xít sẽ được làm như thế nào ? và sẽ triển khai vào khi nào ? là có lợi nhất cho quốc gia, chính là nói theo tinh thần này.
Là nước đi sau, đồng thời là một bộ phận của kinh tế thế giới với tất cả những lợi và bất lợi do vị thế địa kinh tế và địa chính trị của nước đem lại, nước ta cần tìm câu trả lời thoả đáng : Phát triển sản phẩm thượng nguồn, nói rộng ra nữa là phát triển kinh tế thượng nguồn như thế nào, vào lúc nào, và đến mức nào là tối ưu nhất ? Công nghiệp bô-xít – alumina – nhôm như TKV đang tiến hành không đếm xỉa đến câu hỏi này.
Nhôm chưa bao giờ là mặt hàng khan hiếm trên thế giới, một vài thập kỷ tới chắc chắn cũng sẽ như vậy. Thậm chí một số nước châu Âu và Mỹ hiện nay đang phải giảm sản xuất nhôm vì trên thị trường thế giới cung vượt cầu, và vì các lý do năng lượng, môi trường. Một số nước phải bỏ hẳn cả công nghiệp điện phân nhôm, mặc dù họ đã làm chủ được công nghệ cao. Toàn bộ khối lượng nhôm nước ta tiêu thụ hàng năm hiện nay chỉ khoảng 100-150 nghìn tấn. Nếu trong vòng một hai thập kỷ tới mức tiêu thụ này tăng lên tới ba bốn trăm nghìn hay nửa triệu tấn cũng không thấm tháp gì so với khả năng cung ứng của thị trường thế giới, hiện nay là khoảng 70-90 triệu tấn. Thực tế này cho phép nước ta từ nay cho đến 2025-2030 có thể thoả sức phát triển các ngành hay các sản phẩm công nghiệp có sử dụng nhôm mà không cần tính tới việc phải khai thác bô-xít ở nước ta để tự túc. Công nghiệp nhôm ở khâu thượng nguồn như TKV đang triển khai cần được đặt cho cái tên gọi chính xác là công nghiệp alumina đầy rủi ro.
Trong tình hình nguồn cung nhôm hiện nay trên thị trường thế giới còn dồi dào một thời gian dài, nước ta dù đang ở trình độ thấp, song sau 25 năm phát triển trong đổi mới đã hội đủ mọi khả năng và những điều kiện cơ bản để lựa chọn ngay từ bây giờ con đường tiếp cận công nghiệp nhôm ở khâu hạ nguồn, vừa tạo ra được sự phát triển bền vững, đồng thời làm ra nhiều hơn giá trị gia tăng, không phải chờ và cũng không cần phải bắt đầu từ việc mở ra công nghiệp alumina trong nước.
Câu chuyện còn lại ở nước ta chỉ là tầm nhìn, ý chí và sự lựa chọn chiến lược.
Hàn Quốc cho đến hôm nay vẫn không làm ra nổi lấy một tấn alumina, nhưng họ đang có một loạt các loại sản phẩm công nghiệp có sử dụng nhôm chỉ đứng sau Mỹ, Nhật... Cũng xin đừng quên trong xu thế phát triển công nghiệp hiện nay trên thế giới, nguyên liệu nhôm đang dần dần phải nhường chỗ cho nhiều nguyên liệu thay thế khác, đồng thời mặt khác xuất hiện ngày càng nhiều loại hợp kim quý có nhôm – vì vậy, sớm tìm đường đi thẳng vào công nghiệp hạ nguồn ngày càng trở thành vấn đề sống còn đối với các nước đi sau.
Trung Quốc, với nghĩa nào đó cũng là một nước đi sau trong công nghiệp nhôm. Song với 1,3 tỷ dân, tự thân Trung Quốc là một nền kinh tế hoàn chỉnh với nghĩa bắt buộc phải phát triển mọi dạng nguyên liệu. Trung Quốc hiện nay nước thứ hai trên thế giới về sản xuất nhôm (ước 16 triệu tấn/năm). Tuy vậy, Trung Quốc làm nhôm chủ yếu không phải là để có nhôm hay dành cho xuất khẩu, mà trước hết là để phục vụ các ngành công nghiệp sử dụng nhôm, nhất là những ngành công nghiệp cao cấp mà Trung Quốc đang quyết tâm giành lấy như máy bay, ô-tô vv..
Các nước Tây Âu, Nhật... ngày nay gần như bỏ hẳn công nghiệp điện phân nhôm, để chuyên sâu vào công nghiệp luyện nhôm tinh khiết và hợp kim nhôm cao cấp cần thiết cho công nghiệp hiện đại. Nghĩa là họ ngày càng đi sâu vào công nghiệp các sản phẩm hạ nguồn.
Bốn là : cần đặt vấn đề khai thác bô-xít trong bối cảnh chung của cả nền kinh tế nước ta hiện nay và những đòi hỏi phát triển của đất nước.
Ngày 04-02-2009, phát biểu với báo chí Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nêu rõ : Nền kinh tế nước ta đứng trước đòi hỏi đẩy nhanh quá trình cải cách và chuyển đổi mô hình tăng trưởng, từ mô hình tăng trưởng chủ yếu là dựa vào các yếu tố theo chiều rộng sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu trên cơ sở phát huy nguồn lực và tính năng động của khu vực dân doanh, khai thác lợi thế so sánh, tăng đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp nhằm tạo ra năng lực cạnh tranh mới trong từng doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế (xem Vietnamnet 04-02-2009).
Hiển nhiên các dự án bô-xít ở Tây Nguyên đang triển khai hoàn toàn đi ngược lại quan điểm nói trên của Thủ tướng !
Thực tế đời sống kinh tế đất nước cũng cho thấy xu thế phát triển theo chiều rộng đã đạt tới cái ngưỡng không được phép vượt qua5. Tuy nhiên bên cạnh vấn đề bô-xít, còn nhiều biểu hiện cho thấy quá trình cải cách và chuyển đổi mô hình tăng trưởng này chưa diễn ra, nếu không muốn nói rằng xu thế phát triển theo chiều rộng vẫn đang lấn lướt như một quán tính.
Ví dụ, theo báo chí, với 23 dự án thép trong quy hoạch và với 32 dự án ngoài quy hoạch đã được cấp giấy phép, và nếu chúng sẽ được xây dựng đúng như ký kết, cộng lại tất cả vào khoảng năm 2020 hoặc sớm hơn một chút nước ta sẽ sản xuất ra 40 triệu tấn thép/năm (có bài báo nói là 60 triệu tấn), nghĩa là bằng 4/5 sản lượng thép hàng năm của nước Đức (hiện nay sản xuất khoảng 47 triệu tấn/năm) và bằng khoảng 45% sản lượng thép hàng năm của Nhật (hiện nay sản xuất khoảng 90 triệu tấn/năm). Hiện nay nước ta tiêu thụ mỗi năm khoảng 3-4 triệu tấn, vào năm 2020 ước tính tối đa sẽ lên tới 10-15 triệu tấn/năm, giả thiết rằng trong khoảng thời gian từ nay đến năm 2020 tiêu thụ thép ở nước ta có tốc độ tăng trưởng gấp 2-3 lần tốc độ tăng trưởng GDP. Như vậy sẽ dôi ra trên 20 triệu tấn/năm. Việt Nam định trở thành cường quốc xuất khẩu thép ?6
Xin lưu ý : Sát nách ta, Trung Quốc trong những năm gần đây sản xuất khoảng 400-450 triệu tấn thép/năm, trong đó dành cho xuất khẩu khoảng 45-55 triệu tấn/năm. Từ vài năm nay thép nước ta ế và lỗ vì không cạnh tranh nổi với thép Trung Quốc ngay trên thị trường nước ta. Hiện nay Trung Quốc đang giảm sản lượng và tổ chức lại ngành thép (dẹp bỏ số lượng quá nhiều các nhà máy hay công ty nhỏ để chuyển sang các lò luyện lớn và những tập đoàn lớn để nâng cao hiệu quả kinh tế). Ngay từ bây giờ đã nhìn thấy trước Chương trình 40 triệu tấn thép/năm của nước ta đang được triển khai sẽ đứng trước tình huống :
Kịch bản 1 : Cứ cho con số 40 triệu tấn thép/năm ở nước ta vào khoảng năm 2020 là hiện thực, có thể hình dung thép Việt Nam vào thời điểm ấy (2020) sẽ phải cạnh tranh gay gắt như thế nào. Đến nay chưa một quốc gia trên thế giới có thể thắng nổi sản phẩm giá rẻ của Trung Quốc ! Kể cả trong tình huống có ngoại thương lành mạnh. Vậy điều gì sẽ chờ đợi đối với thép của nước ta ? Song có điều là kịch bản 1 này hầu như chắc chắn là không thể diễn ra – vì khá nhiều dự án thép đã ký chắc sẽ chỉ nằm trên giấy.
Kịch bản 2 : Nếu con số 40 triệu tấn/năm trong quá trình thực hiện từ nay đến năm 2020 là không hiện thực (kịch bản 1 phá sản), nghĩa là nhiều dự án bỏ dở, chỉ là “xí chỗ”..., thì hậu quả xảy ra cũng sẽ nặng nề không kém, vì những tổn thất khó lường hết được do tình trạng dang dở của các dự án này gây ra cho nước ta. Kịch bản 2 này hầu như chắc chắn sẽ xảy ra ; với kết quả lạc quan nhất cũng chỉ có thể đạt được một hai chục triệu tấn thép/năm, lôm côm mọi chủng loại, thép thô là chủ yếu, giá thành cao, ô nhiễm môi trường nặng, lãng phí ghê gớm về mọi mặt do quy hoạch dở dang, vào năm 2020 thép nước ta sẽ vừa thừa, vừa thiếu, vừa ế... Cứ nhìn vào Trung Quốc hiện nay đang nai lưng dẹp bỏ không thương tiếc hàng trăm xí nghiệp sản xuất và chế biến thép loại lạc hậu trong cả nước để hiện đại hoá ngành thép của mình thì dự báo như vậy về kịch bản 2 của thép nước ta không phải là hoang tưởng.
Con số “ 40 triệu tấn thép/năm ” như vậy cho thấy : Với cách làm thép như đang tiến hành, dù kịch bản nào xảy ra cũng chỉ đem lại một màu xám cho đất nước. Tình hình này đặt ra nhiều vấn đề phải suy nghĩ. Một khi đã lao sâu vào công nghiệp thép, việc xoay trở để chuyển hướng sang ngành khác sẽ vô cùng chật vật và tốn kém. Một lần nữa lại có câu hỏi : Nước Việt Nam công nghiệp hoá không thể thiếu thép, nhưng phải có thép và làm thép như thế nào ?
Đi sâu vào công nghiệp thượng nguồn như cách đang tiến hành, nền kinh tế đất nước từ nay đến năm 2020 rơi vào tính huống : Cả hai ngành “alumina” và “thép” sẽ giành giật nhau căng thẳng mọi nguồn lực khan hiếm của đất nước (vốn, năng lượng, kết cấu hạ tầng, nhân lực, các dịch vụ về thể chế, năng lực quản lý quốc gia, vân vân...) ; đồng thời cả 2 ngành công nghiệp này sẽ cùng nhau hành hạ nền kinh tế đất nước bằng cách đẩy đất nước vào những căng thẳng mới, những mất cân đối lớn, tăng thêm gánh nặng cho môi trường, đồng thời giảm thiểu lợi thế cạnh tranh của ta.
Hiển nhiên, nền kinh tế nước ta đi theo cách này sẽ không chỉ có một vài gánh nặng khác toát mồ hôi như alumina và thép. Ngay hiện nay đã có không ít những công trình hiệu quả kinh tế thấp. Ví dụ :
*
Vinashin có vốn vay rất lớn, nhưng tỉ suất lợi nhuận 2008 chỉ vào khoảng 0,5%, thậm chí đứng trước nguy cơ lớn – (tham khảo : Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 05-02-2009).
*
Số lượng quá lớn các sân golf cho một nước nghèo đông dân vẫn còn tới 70% dân số trong lĩnh vực nông nghiệp.
*
Sự thiệt hại chưa có điều tra của phần vốn nhà nước tham gia vào thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản – cả hai thị trường này trong năm 2008 mất vào khoảng 50-60% giá trị.
*
Sắp tới nước ta còn là nhà xuất khẩu lớn về xi-măng, giấy.., mặc dù thiếu năng lượng, nghĩa là tiếp tục đi sâu vào xu thế phát triển công nghiệp sử dụng tài nguyên không tái tạo được, không thân thiện với môi trường, giá trị gia tăng thấp.
*
Vân vân... Chưa nói đến những tổn thất do biết bao nhiêu cái bất cập khác (dự án treo, quy hoạch sai...) và do tình trạng quan liêu tham nhũng gây ra.
Tất cả những gánh nặng nêu trên đang kìm hãm sự phát triển năng động của nền kinh tế quốc gia, làm gay gắt thêm tình trạng “thắt cổ chai” – (3 bất cập lớn về kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, năng lực quản trị quốc gia trong nền kinh tế quốc gia), lại đang thời kỳ suy thoái. Vì thế, càng nên từ bối cảnh toàn cục hiện tại của nền kinh tế cả nước xem xét lại vấn đề khai thác bô-xít Tây Nguyên, nhất là vào lúc này công việc mới ở thời kỳ bắt đầu, còn kịp dừng lại để tránh những tổn thất lớn gấp bội có thể xảy ra.
Trong khi đó nền kinh tế nước ta một mặt vẫn còn quá nhiều sản phẩm ở dạng thô, sơ chế, hàm lượng chế biến và hàm lượng giá trị gia tăng đều thấp, yêu cầu phải tái cơ cấu lại nền kinh tế ngày càng trở nên gay gắt. Tình hình kinh tế đất nước hiện nay đòi hỏi phải quan tâm dồn nguồn lực mọi mặt cho tăng thêm sản phẩm “tinh”, để nâng cao hàm lượng chế biến và hàm lượng giá trị gia tăng của các sản phẩm trong mọi lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Một thực tế khác là nguồn lực dành cho phát triển kết cấu hạ tầng để có tăng trưởng kinh tế năng động, bền vững, chất lượng cao và mở đường cho những bước phát triển thiếp theo lại càng khan hiếm! Nguyên nhân hàng đầu của những cái “khan hiếm”, cái “thiếu” này trước hết là sự phân bổ không hợp lý mọi nguồn lực đất nước có trong tay, do tầm nhìn và sự lựa chọn chiến lược phát triển không đúng. Không thể một bề đổ lỗi cho cái nghèo, càng không thể đổ lỗi cho thiếu FDI, ODA hay bất kỳ cái gì khác. Càng tăng thêm đầu tư theo kiểu alumina Tây Nguyên và 40 triệu tấn thép, càng tăng thêm những ách tắc khó cứu vãn.
“ Như tôi đã nêu, điều quan trọng đối với nước ta hiện nay là phải đẩy nhanh quá trình cải cách, đổi mới đưa nền kinh tế nước ta hiện nay từ khai thác tài nguyên, sử dụng nhiều lao động sang mô hình phát triển theo chiều sâu...”
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Hà Nội ngày 04-02-2009
Đầu tư vào bô-xít cần được xem xét dưới góc độ : Lúc này thêm một gánh nặng mới trong bối cảnh khó khăn như hiện nay của đất nước có thể đồng nghĩa như đánh thêm một đòn chí tử vào cả nền kinh tế. Song bớt một gánh nặng cho kinh tế đất nước vào lúc này, có thể đồng nghĩa tăng thêm một cơ may đi vào phục hồi.
Xin đừng quên trong những năm gần đây thiên tai, dịch bệnh ngày một nhiều và tăng thêm những gánh nặng mới cho đất nước. Những yếu kém xảy ra trong quá trình công nghiệp hoá ngày càng nhiều và đang góp phần làm gay gắt thêm tình hình này. Vì vậy, mọi quyết định kinh tế càng phải nhìn dài hạn và đắn đo nhiều chiều, phải nỗ lực giảm thiểu từng khó khăn nhỏ, tiết kiệm để nuôi dưỡng sức phát triển, càng không nên tự mình gây thêm khó khăn mới.
Cái may duy nhất trong cái rủi lớn của công nghiệp alumina Tây Nguyên đang triển khai là : Những nguy cơ của nó đang thúc giục phải nhìn lại toàn bộ thực trạng nền kinh tế đất nước để tìm đường chuyển hướng sang một mô hình, một giai đoạn phát triển mới: bền vững hơn, thân thiện với môi trường hơn, cạnh tranh tốt hơn, và nhiều giá trị gia tăng hơn7: con đường phát triển theo chiều sâu.
Kết luận
Nguồn tài nguyên bô-xít Tây Nguyên rất lớn, song lúc này nước ta chưa hội đủ các điều kiện để khai thác một cách tối ưu nhất ; chương trình khai thác bô-xít đến năm 2025 đang triển khai thiếu hẳn một chiến lược tổng thể phát triển Tây Nguyên làm nền tảng, nên chứa đựng nhiều nguy hiểm ; hai dự án sản xuất alumina Nhân Cơ và Tân Rai do tiến hành theo quy trình lộn ngược nên còn quá nhiều vấn đề chưa được làm rõ và mang tính phiêu lưu cao; còn nhiều hệ quả kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng chưa được tính toán hết, lại vào thời điểm giá alumina trên thế giới xuống thấp khoảng -30 – -50% so với trước khi xảy ra khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay, vì vậy cần được dừng lại để nghiên cứu tiếp.
Câu hỏi lớn đặt ra cho quốc gia để nghiên cứu tiếp là bô-xít Tây Nguyên cần được khai thác lúc nào và cách nào là có lợi nhất. Cái được nào cũng phải có sự đánh đổi, phải chấp nhận như vậy. Song quyết định kinh tế nào cũng phải tuân thủ nguyên tắc được nhiều hơn mất.
So sánh mọi mặt thiệt/hơn, cả trên phương diện quốc gia và quốc tế, chương trình khai thác bô-xít ở Tây Nguyên như TKV đang triển khai sẽ đẩy đất nước tiếp tục phát triển theo chiều rộng một cách nguy hiểm, kéo dài sự tụt hậu của đất nước với nhiều rủi ro mới trên cả 4 phương diện: phát triển kinh tế, môi trường, an ninh quốc phòng, văn hoá xã hội, khiến lòng dân không yên. Khai thác bô-xít một cách thiếu tính toán chi li như vậy sẽ mang lại cho đất nước một sự lệ thuộc mới nguy hiểm, có nguy cơ thua lỗ, giữa lúc kinh tế thế giới đang chuyển hướng rất bất lợi cho các quốc gia dựa quá nhiều vào khai thác tài nguyên thiên nhiên để bán.
Vì vậy, dứt khoát lúc này không nên đặt vấn đề xuất khẩu alumina. Còn sau này, nếu tính toán kỹ mọi mặt định sản xuất và xuất khẩu nhôm để phát huy nguồn tài nguyên bô-xít của đất nước, thì phải chuẩn bị mọi điều kiện, lựa chọn cách làm khác (bước một, bước hai...) và thời gian thích hợp.
Hơn nữa, nhìn vào bức tranh kinh tế chung của cả nước, chỉ số ICOR ở nước ta cao nhất trong vùng châu Á – các năm vừa qua là >5, riêng trong năm 2008 vọt lên 6.9 (tính chi li chỉ số này năm 2009 có thể là 9 -10) – nghĩa là ở mức nguy hiểm không thể chấp nhận được8, lại trong tình hình kinh tế nước ta đang suy thoái trầm trọng, yêu cầu phải tạo ra một mô hình phát triển, một cơ cấu kinh tế khác hiệu quả hơn, chất lượng hơn đối với nước ta ngày càng trở nên bức xúc. Lợi ích quốc gia đòi hỏi phải tìm đường sớm thoát khỏi nền kinh tế lao động cơ bắp, bán tài nguyên, bán môi trường, chứ không phải là ngày một dấn sâu thêm vào con đường này !
Vì lợi ích sống còn nền kinh tế cả nước, xin kiến nghị :
1.
Bám sát quan điểm nêu trong quyết định 167 (điểm 1) của Thủ tướng Chính phủ, nghiên cứu lại chương trình bô-xít – alumina – nhôm 2025 trong cả nước, tập trung xoay quanh câu hỏi : Làm như thế nào và lúc nào là có lợi nhất ?
2.
Khảo sát và đánh giá lại 2 dự án alumina Nhân Cơ (Đắc Nông) và Tân Rai (Lâm Đồng) đang triển khai.
3.
Huy động lực lượng chất xám trong cả nước làm tốt 2 việc nói trên, nếu cần có thể thuê thêm chuyên gia nước ngoài cho những công việc nhất định. Tổ chức tranh luận và thẩm định công khai để rút ra những nhận định, kết luận xác đáng nhất, có lợi nhất cho đất nước.
4.
Tạm dừng triển khai cả hai dự án alumina nói trên ở Tây Nguyên cho đến khi có kết luận rõ ràng và có các kiến nghị xử lý khả dĩ nhất được Nhà nước chấp thuận về hai dự án này.
5.
Vạn bất đắc dĩ chỉ triển khai sản xuất alumina theo kiểu làm “pilot” một dự án, để đánh giá và đối chứng các kết quả nghiên cứu, phục vụ cho mục đích xây dựng quyết định cuối cùng về vấn đề khai thác bô-xít ở Tây Nguyên.
6.
Tổ chức điều tra nghiên cứu trả lời câu hỏi: Nếu không lựa chọn bô-xít cho Tây Nguyên, nên lựa chọn sản phẩm gì ? phương thức phát triển ? So sánh với phương án bô-xít.
7.
Nghiên cứu xây dựng chiến lược tổng thể phát triển kinh tế Tây Nguyên làm nền tảng cho mọi quyết định kinh tế liên quan đến Tây Nguyên.
Trước khi kết thúc tham luận này tôi xin chia sẻ hai điều lo lắng trong thâm tâm mình với tư cách là một công dân :
Một là : Nước ta có dân số đứng thứ 12 trên thế giới, mật độ dân số nước ta cao gần gấp 5 lần của thế giới, gấp 2,5 lần các nước Đông Nam Á, gấp 2 lần Trung Quốc. Nguy cơ biến đổi khí hậu sẽ còn làm cho nước ta mất thêm nhiều đất, không gian sinh sống sẽ còn bị thu hẹp nữa. Vì vậy ngay từ bây giờ phải trân trọng từng thước vuông đất của quốc gia, gìn giữ cảnh quan và môi trường sống, không được để lại hậu họa cho các thế hệ con cháu chúng ta. Đào bô-xít lên đem bán sẽ được bao nhiêu tiền ? Tiêu được bao lâu ? Nhưng môi trường sống bị hủy hoại và cảnh quan hoang tàn sẽ còn lại đời đời. Ai sẽ phải chịu trách nhiệm ?
Hai là : Cách đây đúng 151 năm, năm 1858, thực dân Tây Ban Nha và thực dân Pháp nã súng đánh thành Đà Nẵng, dẫn đến 80 năm mất nước, dân tộc ta phải chịu ách nô lệ. Nguyên nhân chủ yếu không phải vì dân tộc ta và triều Nguyễn hồi đó yêu nước kém ngày nay, chiến đâu kém dũng cảm hơn ngày nay ! Muôn ngàn lần không phải như vậy ! Song mất nước có thể coi như là tất yếu, bởi lẽ nước ta so với kẻ địch tụt hậu hẳn một giai đoạn phát triển. Ngày nay, kinh tế nước ta nếu tiếp tục đi sâu vào cơ cấu sản phẩm thượng nguồn như đang làm bô-xít, sớm muộn sẽ rơi vào nguy cơ thành bãi thải công nghiêp. Đồng thời nước ta đang phải đối phó với 3 nguy cơ khác nữa, đó là : sự o ép từ bên ngoài, sự xâm lăng về văn hoá, sự tàn phá của môi trường tự nhiên do không được bảo vệ thoả đáng. Cả 4 nguy cơ này có thể dấn nước ta vào một tình trạng tụt hậu nguy hiểm, đến lúc nào đó có thể sẽ tạo ra cho nước ta một sự nô dịch mới – sự nô dịch của nghèo nàn và lạc hậu, của lệ thuộc, sự nô dịch không có chủ nghĩa thực dân. Đừng để cho việc khai thác bô-xít góp phần làm tăng thêm những nguy cơ này.
Hà Nội, 27-01-2009
Tết Kỷ Sửu
NGUYỄN TRUNG
NGUỒN : bản do tác giả cung cấp
nội dung đã được phát biểu trong cuộc hội thảo
ngày 9.4.2009 tại Hà Nội
1 Tìm xem trên VietnamNet – trang “Thông tin đa chiều” 02-12-2008 và 07-01-2009
2 Cước phí vận tải bằng ô-tô trên đường bộ miền Trung dao động giữa 2000 – 3000 VNĐ cho 1km/tấn, như vậy riêng tiền vận tải bằng ô-tô để đưa được 1 tấn alumina khoảng 200 - 300 km từ mỏ tới cảng biển miền Trung (bao gồm cả chi phí hai chiều: lượt lên núi mang nguyên liệu phục vụ sản xuất alumina, lượt xuống núi chở sản phẩm alumina) ước tính tối thiểu khoảng 50 – 60 USD, không thấy khoản chi phí này trong hạch toán giá thành! TKV còn giải trình sẽ dự trù vấn đề giao thông vận tại cho cả vùng bô-xít ở Campuchia (và có thể cho cả Nam Lào). Cần có cái nhìn như vậy, tuy nhiên trong khi đó TKV chưa giải quyết xong vấn đề giao thông vận tải cho alumina của chính mình ở Tây Nguyên!
3 Tham khảo bài báo “Hàng vạn công nhân Trung Quốc đã vào VN”, Tuổi trẻ ngày 28-03-2009.
4 Tham khảo thêm bài “Giải bài toán về an ninh năng lượng quốc gia”, báo điện tử Tạp chí Cộng Sản ngày 31-01-2009.
5 Tham khảo thêm bài “Ngã ba 2007”, trong cuốn “Bàn về công tác kế hoạch hoá ở nước ta trong thời kỳ đổi mới”, do Bộ Kế hoạch & Đầu tư xuất bản, Hà Nội 07-2008, trang 288 – 320.
6 Tham khảo bài “Ngành thép đang vỡ kế hoạch” – VietnamNet 08-01-2009.
7 Tham khảo thêm bài “Ngã ba 2007”, Nguyễn Trung, trong cuốn “Bàn về công tác kế hoạch hoá ở nước ta trong thời kỳ mới”, do Bộ Kế hoạch và Đầu tư xuất bản, Hà nội tháng 7-2008.
8 Tham khảo thêm bài “Ngã ba 2007”, sách đã dẫn.
Copyright © 2006 by Dien Dan Forum, BP 50, 92340 Bourg-La-Reine, France
diendan@diendan.org
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét