8/8/10

Phan Huy Đường - Tư-duy tự-do (4) : Tinh-thần, quan-hệ giữa người với văn-hoá

Tư-duy tự-do
I. Những quan-hệ cơ-bản của con người với thế-giới
4. Tinh-thần, quan-hệ giữa người với văn-hoá
... khi tự vấn mình, ý-thức đòi hỏi cái Thiện trong hành-động, cái Chân trong tri thức, và cái Mĩ trong sự hoàn thành các quá-trình nghiệm-sinh, qua đó ý-thức biến thế-giới tự-nhiên thành một nhân-giới, xứng đáng với con người.

Trần Đức Thảo[1]

Một thực-thể-nhờ-tha-nhân.
Con người khác con thú ở hai đặc điểm : nó sản-xuất những gì nó tiêu-thụ, nó tư-duy xuyên qua ngôn-ngữ.

Trong cuộc sống thường ngày, hầu như ta không dùng bất cứ gì có sẵn trong tự-nhiên. Nhà cửa, quần áo, ngô và giá nhân tạo bằng kỹ thuật thao-tác vào gien, gà nuôi với hocmon, bò đực biết điều hay bò cái điên[2], tất cả đều nhân-tạo, do con người chế biến, thậm chí thiết kế ra. Nếu như một đầu bếp Pháp trứ danh nói, con người là những gì nó ăn, thì con người ở cuối thế kỷ 20, trong những nước phát-triển, cơ-bản do mình sáng-tạo.

Để sinh tồn, con người sản-xuất. Trong lòng một xã-hội. Nhiều tác giả cho rằng lao-động tập-thể là nguồn gốc của ngôn-ngữ, của tư-duy. Ta không thể chứng minh luận-đề đó đối với thời xa xưa khi nhân-loại hình thành. Nhưng ta có thể quan sát, kiểm tra điều đó ngay trong cuộc sống của ta. Mỗi ngày, dưới thúc ép của sản-xuất, thương mại và những sinh hoạt xã-hội khác, con người sáng chế ngôn-từ mới để nêu danh đồ-vật và kinh-nghiệm mới mà họ khám phá, tạo ra hay che giấu đi. Họ thản nhiên làm điều đó, chẳng thèm xin phép Viện Hàn Lâm[3]. Đôi khi họ làm hơi bị quá đà, nhất là trong ngành quảng cáo. Chẳng hề chi. Những từ-ngữ không có nội-dung, những làn sóng vang động hão huyền sẽ đi ám ảnh bãi tha ma mênh mông của những khái-niệm hiện-đại phù du hay chìm đắm trong bóng tối đầy an ủi của thư viện, trong sự quên lãng của người đời.

Ta không biết ngôn-ngữ xuất-hiện ở đâu, lúc nào trên quả đất này. Nhưng ta có thể thấy nó tái-sinh trong con người ra sao bằng cách quan sát quá-trình nên-người của một đứa trẻ. Đứa trẻ chào đời trong tiếng gào thét[4]. Khi vào đời, nó không có khả-năng nói một từ nào, biểu-đạt một ý nào. Để có thể tư-duy xuyên qua một ngôn-ngữ, nó phải học nói. Nó học tha-nhân. Nó học kết-hợp một âm-thanh với một vật-thể, một cảm-giác, một thái-độ của con người... Nó học bày tỏ khái-niệm, học suy-nghĩ thế-giới[5].

Để có thể nói, nó phải có một cơ-thể thích ứng, tai nó phải biết nhận ra một số âm-thanh, miệng và lưỡi nó phải có khả-năng tái-tạo chúng. Nó phải biết phân biệt, trong những âm-thanh có trong tự-nhiên, âm-thanh nào thuộc giọng nói của con người và vô số chuyện khác. Tóm lại, nó phải thuộc loài người. Hệ gien của nó khiến nó có khả-năng nói và tư-duy. Kiến-thức của ta nghèo, hiểu-biết của ta sơ sài đối với một hiện-tượng có vẻ rất tầm thường : nghe-thấy và hiểu một từ, một câu. Con người bắt đầu nghiên cứu lĩnh-vực kiến-thức này mới đây thôi. Thỉnh thoảng, những nhà nghiên cứu cho ta biết nhiều chuyện lạ lùng về khả-năng của trẻ con, thậm chí của bào thai trong lĩnh-vực ngôn-ngữ. Một ngày nào đó, ta sẽ thấy rõ hơn.

Trong khi chờ đợi, ta ghi nhận một điều tầm thường đáng chú ý, đã tuột ra khỏi lý-trí của một người cỡ Descartes và nhiều người kế thừa ông : ngôn-ngữ, tư-duy không có trong con người khi nó chào đời. Nếu cứ để nó một mình trong tự-nhiên và nếu tình cờ nó sống sót, nó sẽ sống như một con thú. Khi chào đời, con người vốn không là người[6]. Nó phải học để nên-người và nó học điều đó ở tha-nhân. Ngôn-từ, ngôn-ngữ và, do đó, tư-duy của nó bước đầu do tha-nhân nhập vào nó. Đầu nó là một bãi tha ma từ mênh mông, một núi ý-chung có không biết từ thời nào. Thực-thể-tư-duy ở nó, chính là tha-nhân ở nó. Quan-hệ xã-hội đó bao gồm trong không-gian và thời-gian « toàn bộ » những người quá cố[7]. Đây là đặc điểm cơ-bản trong sự đào tạo, phát-triển của con người, sự chớm nở của văn-hoá, văn-minh.

Một trong những đặc điểm của con người là khả-năng tạo cho ngôn-ngữ của mình một hình-thái vật-chất cho phép ngôn-ngữ ấy tồn-tại lâu bền. Hình-thái vật-chất đầu tiên của ngôn-ngữ là giọng nói. Thoạt tiên nó không khác gì tiếng kêu của thú-vật cho lắm : nó biến đi cùng với thể-xác phát ra nó. Không tồn-tại độc-lập với thể-xác đó, nó ít khả-năng được « truyền » cho kẻ khác, ít khả-năng được « tích lũy ». Nhưng ngay ở dạng đó, nó đã khác tiếng kêu của thú-vật. Tiếng kêu của thú-vật tất nhiên « có nghĩa » đối với đồng loại. « Nghĩa » đó dường như gắn với những quan-hệ tức thời của chúng với thế-giới. Nghĩa của từ-ngữ của ta, ở bước khởi đầu cũng gắn liền với quan-hệ tức thời của ta với thế-giới và đồng loại. Nhưng, qua những quá-trình mù mờ đối với kiến-thức hiện nay, nó đạt được một hình-thái tồn-tại độc-lập trong ký-ức của ta, nó tự-biến thành một khái-niệm mà ta có thể tái-sinh tùy theo ý-muốn, ngoài những quan-hệ đã tạo nó. Qua đó, ngôn-ngữ của ta trở thành một công cụ vô cùng tận để tích lũy và truyền kinh-nghiệm và kiến-thức của con người. Ngôn-ngữ của con người cơ-bản khác tín-hiệu mà thú-vật phát ra giữa chúng khi con người tạo cho nó một hình-thái tồn-tại độc-lập với cơ-thể của mình. Hình-thái ấy, ta có thể nhận thấy ngay trong công cụ thời đồ đá. Tự chúng đã là nhân-tố của một ngôn-ngữ. Chúng « chuyên chở » một ý-nghĩa mà người khác người làm ra chúng có thể hiểu được. Họ chứng minh điều ấy bằng cách sử dụng chúng đúng theo chức-năng người làm ra chúng đã muốn[8]. Trong nghĩa đó, đồ-vật cũng có linh-hồn, nhà cửa cũng bị ma ám ảnh : chúng « lưu giấu » tâm ý của người xưa mà người đời nay đoán được, hiểu được. Ta sống trong một thế-giới ngày càng đầy đặc đồ-vật như thế. Nhìn chìa khoá là « đọc » nó, hiểu rằng có người đã cố ý làm ra nó để mở ổ khoá. Những đồ-vật ấy, như tiếng nói của ta, là vật-thể. Nhưng chúng khó tan biến hơn. Chúng tồn-tại lâu hơn đời người. Ý-nghĩa chúng « chuyên chở » có thể truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Những sản-phẩm đó cứ nhân lên và đa dạng hoá mãi cho phép con người tích lũy kiến-thức, khai sinh những nền văn-minh. Sáng-tạo chữ viết cho phép vật-thể-hoá ngôn-ngữ một cách cô đọng, ổn định, lâu dài. Công-nghệ in thúc đẩy một cách quyết định sự tích lũy kiến-thức, khiến nó tăng nhanh. Điều quan trọng ở đây là[9] : xuyên qua quá-trình nên-người của một đứa bé mù chỉ biết gào thét, mỗi con người lặp lại nhanh gấp bội, ở chính-mình, bước đường lâu dài khiến một con thú thành-người. Nó làm điều ấy với sự giúp đỡ của người khác. Ngay ở mức sinh-học, nó phải học đứng thẳng, học đi như một con người. Thế đứng thẳng không tự-nhiên chút nào đối với nó. Nếu nó được thú-vật « nuôi », nó sẽ bò hay chạy trên bốn chân. Nó học đứng thẳng trên quả đất với sự giúp đỡ của người khác[10]. Nó lại phải học-tập mới phát-triển được những khả-năng cảm-nhận của nó. Cuối cùng, nó chỉ có thể học nói, học tư-duy ở người khác. Khi nó lặp lại ngay trong thể-xác nó hành trình của muôn đời đã khiến con thú biến thành người, nó tái-sinh trong nó vô vàn thế kỷ quá cố. Chỉ qua vài năm trong đời nó, từ một đứa bé chỉ biết gào, nó biến thành một chú Tây con biết nói, biết tư-duy trong ngôn-ngữ của Voltaire. Từ đó, nó đạt khả-năng thừa hưởng gia tài kiến-thức diễn-đạt bằng tiếng Pháp mà nhân-loại đã từng tích lũy. Với tư cách một thực-thể-tư-duy, con người là một Thực-thể-nhờ-Tha-nhân.

Ý-nghĩa của ngôn-từ
Ai đã từng thưởng thức Ngôn-từ[11] đều biết thoát khỏi bùa phép của chúng, tránh được sự lẫn lộn giữa ngôn-từ và sự-vật khó đến thế nào. Ta biết sự-vật qua tên chúng : ngôn-từ có nghĩa. Qua phép lạ nào chúng có nghĩa ? Thử xem một từ đơn giản ám chỉ một sự-vật của thế-giới này : cây. Đương nhiên từ cây không là vật-thể-cây đang dựng đứng trước mặt ta. Cái cây-đó, không từ-ngữ nào, không thuyết-trình nào dù dài và uyên bác đến đâu có thể mô tả hết được[12]. Ta có thể dẹp vấn đề bằng cách tuyên bố rằng cây là một khái-niệm, sản-phẩm của một quá-trình trừu-tượng-hoá do bộ óc thực-hiện để ám chỉ những thuộc-tính phổ-cập nhất của loại vật-thể đó. Điều ấy không sai[13]. Nhưng điều đó không giải thích được qua đâu một từ có thể có một ý-nghĩa chung. Sự liên kết ý-nghĩa đó với một âm-thanh có thể có do một quy-ước hay do sự tình cờ[14]. Dù thế đi nữa, trong tư cách ý-nghĩa chung, ý-nghĩa kia phải có trước sự kết-hợp nọ. Khi tuyên bố ý-nghĩa là kết quả của một quá-trình trừu-tượng-hóa, ta giải thích một từ bằng những từ khác. Từ khác đó lại đòi hỏi được cắt nghĩa. Quá-trình vòng vo ấy vô tận. Người ta chấm dứt nó bằng cách ngừng lại ở một ý-chung.

Một cách phổ biến để loại bỏ một vấn đề là tránh bàn tới nó. Trong cách xử-lý ấy, người ta tuyên bố ngôn-ngữ là một sự-vật hay sự-kiện sẵn có[15]. Như thế, không cần thắc mắc về sự hiện-hữu của ngôn-từ và ý-nghĩa của nó. Trên cơ sở đó, người ta sáng-tạo những khái-niệm : « cái được biểu-đạt[16] » (cái cây) và « cái biểu-đạt[17] » (từ ám chỉ cái cây) và thốt ra những thuyết-trình vô tận về quan-hệ giữa cái biểu-đạt và cái được biểu-đạt. Cách suy-luận đó lặp lại mâu-thuẫn giữa tinh-thần với vật-chất đã khiến tư-duy của Descartes bế tắc. Đằng sau cái biểu-đạt tất-yếu phải có tinh-thần. Thiếu vắng nó, những từ-ngữ kia sẽ tứ tán thành vật-thể. Hơn thế, chỉ có tinh-thần mới có khả-năng đặt ngôn-ngữ như một sự-kiện-tự-tại và sáng-tạo khái-niệm để nghiên cứu nó. Có vấn đề chi ? Khi đặt ngôn-ngữ như một sự-vật, tinh-thần tự-đặt mình như một sự-vật vì tinh-thần không thể có được ngoài một ngôn-ngữ. Như thế, nó tự tước khả-năng tạo khái-niệm vì khái-niệm chẳng là gì khác hơn một ngôn-từ trong một ngôn-ngữ. Ít nhất về mặt lôgích. Ngoài ra, tinh-thần ta có khả-năng định-nghĩa bất cứ cái gì tùy sở-thích, có khả-năng tạo tùy hứng tất cả và bất cứ cái gì.

Ta có thể bắt chước Kant, phức tạp hoá mô hình của Descartes mà không phủ-định nó bằng cách giúi một màn ảnh giữa Thực-thể và tinh-thần : ngôn-ngữ. Trong trường hợp ấy, ta có tinh-thần như quyền-lực biểu-đạt « thuần-khiết » và đồ-vật như vật-thể được biểu-đạt. Giữa chúng, một ngôn-ngữ-hiện-tượng có chân trong cả hai thế-giới : nó vừa là vật-thể vừa là ý-nghĩa, nó là vật-thể-tạo-nghĩa[18]. Sartre dùng mô hình suy-luận này khi ông cho rằng ngôn-từ là ký-hiệu chỉ tới vật-thể và khẳng-định rằng nêu danh vật-thể nghĩa là thu nhập chúng vào sự Hiểu-biết[19].

Cũng trong tinh-thần ấy, có một cách tiếp cận vấn đề hết sức quyến rũ. Nó bắt nguồn từ những ngành khoa-học thông-tin, đặc biệt là ngành tin học[20] và ngành viễn thông. Về cơ-bản, người ta đề cập vấn đề ngôn-ngữ như sau :



phát tín-hiệu


mã-hoá
thông-điệp đã mã-hoá



kênh
giải mã


nhận tín-hiệu




Một hệ phát tín-hiệu gửi qua một kênh truyền thông một thông-điệp được mã-hoá. Một hệ nhận tín-hiệu nhận thông-điệp đã bị mã-hoá và giải mã nó. Vì hệ mã dùng để mã-hoá cũng là hệ mã dùng để giải mã nên thông-điệp nhận được tương ứng với thông-điệp đã gửi đi. Mục đích của khoa-học và kỹ thuật thông-tin là làm sao loại bỏ sự chệch choạc do âm-thanh nhiễu trong kênh gây ra.

Ứng dụng vào thông-tin giữa người với người, hệ phát tin và hệ nhận tin là con người, hệ mã là một ngôn-ngữ, thông-điệp mã-hoá là những gì ta nói với nhau, kênh là không khí, một quyển sách, hệ điện thoại… và âm-thanh nhiễu có thể là cả một thế-giới : tiếng ồn, bối-cảnh văn-hoá xã-hội, lịch-sử cá-nhân, thậm chí lỗi chính tả.

Lớp sơn khoa-học[21] của mớ lý lẽ hỗn tạp kia có thể chinh phục ta trong một lúc nào đó. Nó chẳng giải quyết được vấn đề ngữ-nghĩa, nó chôn vùi vấn đề dưới một núi từ khoa-học giả. Trong mô hình nguyên thủy[22] hoàn toàn không có chuyện truyền ý-nghĩa : hệ phát tín-hiệu, hệ nhận tín-hiệu, hệ mã, hệ mã-hoá và hệ giải mã, thông-điệp bị mã-hoá, âm-thanh nhiễu đều là vật-thể. Cái được truyền đi là tín-hiệu điện, điện tử, làn sóng điện từ... Thông-điệp có nghĩa hay không có nghĩa thì hệ thống đó vẫn vận-động y hệt. Cứ thử điện thoại cho người yêu của bạn, ngâm cho nàng nghe một bài thơ bằng tiếng Phạn, bạn sẽ thấy kết quả ra sao. Ý-nghĩa của một thông-điệp không tùy thuộc hệ mã ta dùng để biểu-đạt nó. Nó phải có trước và phải là của chung của người phát và người nhận thông-điệp. Sau khi đã có điều kiện ấy, ta mới có thể chọn một hệ mã để mã-hoá nó dưới một hình-thái thuận tiện cho việc truyền tin. Trong đối thoại qua hệ điện thoại, thông-điệp mã-hoá đó trước tiên là tiếng nói của con người rồi, xuyên qua nhiều sự biến-dạng máy-móc, những tín-hiệu vật-lý khác nhau. Xử-lý tín-hiệu vật-lý bằng máy-móc thông-tin tái lập cho hệ nhận tin tiếng nói của người phát tin. Thế thôi. Làm thế nào hiểu được ý-nghĩa của thuyết-trình mà tiếng nói kia phát ra đưa ta về khởi điểm của vấn đề. Những luận-đề về sự trao đổi tín-hiệu vật-chất giúp ta thấy rõ hơn điều kiện vật-chất liên quan tới sự cấu tạo ngôn-ngữ, chúng không tài nào giúp ta hiểu rõ quá-trình hình thành ý-nghĩa của một ngôn-từ. Nói rằng từ cây là một mã trong một hệ mã đặc biệt, tiếng Việt, và trong hệ mã ấy nó ám chỉ một loại vật-thể, là gào thét một ý-chung cũ kỹ bằng ngôn-từ uyên bác để chẳng nói gì hết về quá-trình lạ lùng khiến cho âm-thanh ấy có nghĩa ấy đối với người biết ngôn-ngữ ấy.

Trong tư cách vật-thể-tạo-nghĩa, ngôn-ngữ không thể là một đối tượng nghiên cứu khoa-học. Để nghiên cứu nó, ta không có công cụ quan sát nào ngoài... chính nó. Trong vấn đề này, người quan sát[23], vật-thể bị quan sát[24] và công cụ quan sát[25] lẫn lộn với nhau, không thể tách rời được. Vấn đề đặt ra ngay ở mức sơ đẳng nhất. Hoặc ngôn-ngữ là âm-thanh, dấu mực lem nhem, hoặc là ngôn-từ có ý-nghĩa. Làm sao định-nghĩa một ngôn-từ ? Bằng cách diễn giải nó với một ngôn-từ khác ! Cho tới lúc ta gục vào sự « đương nhiên » của một ý-chung[26]. Sự « đương nhiên » kia không thể định-nghĩa được, nó luôn luôn có ngoài ngôn-ngữ. Mọi từ-ngữ đều thuộc một ngôn-ngữ. Mọi ý-nghĩa đều nằm ngoài ngôn-ngữ. Một ngôn-từ là một hình-thái đã được vật-thể-hoá của một quan-hệ nhân-tính với thế-giới. Trong quan-hệ đó có cả vật-giới, sinh-giới và thế-giới văn-hoá. Một học thuyết về ngôn-ngữ mà coi ngôn-ngữ như một vật-thể, tất-yếu đi tới ngõ cụt vì nó bắt đầu « giết » ngôn-ngữ, tước bỏ những gì khiến nó là ngôn-ngữ, tước bỏ chiều-kích-sống và chiều-kích-văn-hoá của ngôn-ngữ. Một học thuyết về ngôn-ngữ chỉ có khả-năng thành công nếu nó coi ngôn-ngữ như một hình-thái quan-hệ giữa con người với thế-giới. Chỉ trong lòng quan-hệ đó ta mới có thể tìm ra một hình-thái hiểu-biết hữu-lý bao hàm ngữ-nghĩa. Điều đó có nghĩa là giải thích được, xuyên qua ngôn-ngữ, thể thống-nhất của vật-chất, sự-sống và tinh-thần ở con người.

Một triết gia đã từng phán, và không phải ông không có lý, rằng triết-lý là tác-động vào khái-niệm[27]. Từ đó, người ta đã « tác-động » vào khái-niệm đến mức đôi khi chúng chẳng còn ý-nghĩa gì hết. Điều đó mang lại mùi vị tuyệt vời cho nhận xét của một triết gia khác : « khái-niệm là một khái-niệm nhập nhằng[28] ! » Ngày nay, triết-lý dường như chỉ là chuyện thay đổi ngôn-từ này bằng ngôn-từ khác và đồng thời phức tạp hoá định-nghĩa của chúng. Kết quả : ta ngày càng chìm trong một khối sương mù ngày càng dày đặc trong đó mọi chuyện phản-chiếu mọi chuyện và chẳng phản-chiếu cái gì cả. Cách duy nhất để thoát khỏi thiên la địa võng đó là trở lại quan-hệ thực của con người với thế-giới, trả lại cho ngôn-từ phần xác-thịt của nó. Đôi khi triết-lý chính là cạo mỡ khái-niệm[29]. Chơi bằng thể-xác là chơi xấu ? Có thể. Nhưng, chắc chắn, chơi chữ là mẹ đẻ của mọi đớn đau vì bệnh hoạn ngôn-từ[30]. Về mặt văn-hoá, dĩ nhiên.

Tiếp cận vấn đề một cách biện-chứng có thể giúp ta thấy rõ hơn. Ta chỉ cần quan sát quá-trình khiến từ cây đạt ý-nghĩa trong đầu một đứa trẻ. Mẹ chỉ một vật-thể cho con và nói : Cây, đó là cái cây. Đứa trẻ lặp lại : Cây, đó là cái cây. Nó thiết lập trong ký-ức của nó một mối liên-hệ giữa vật-thể đó và âm cây. Nó tái-tạo trong nó một ngôn-từ có nghĩa, một khái-niệm[31]. Trong quá-trình ấy, quan-hệ cá-nhân của nó với thế-giới đã bị môi-giới-hoá[32], bị bao phủ bởi quan-hệ của nó với người mẹ đã thổi ngôn-từ đó vào tai nó. Xuyên qua tiếng nói của nàng, nó quan-hệ với toàn bộ những người nói tiếng Việt, người đang sống cũng như người đã chết. Cuối cùng chính họ đã tạo ra sự kết-hợp một ý-nghĩa với một âm-thanh. Sự kết-hợp đó là một phần di sản của những người nói tiếng Việt, một trong những ý-chung của họ. Ngày nào đến lượt nó dùng ngôn-từ kia để nói chuyện với tha-nhân, ý-chung đó có sẵn trong đầu nó và trong đầu người đối thoại với nó. Lúc đó, họ có thể sử dụng ký-hiệu latinh hay ngữ âm như một hệ mã để mã-hoá và giải mã, chuyển nó xuyên qua kênh chuyển tin của bưu điện hay hệ truyền thông. Thông thường, hệ ấy giải quyết khá tốt vấn đề âm-thanh nhiễu. Nó học nói tới đâu, nó phát-triển từ vựng và kiến-thức của nó tới đó. Nó thực-hiện chuyện ấy trong khuôn khổ của một ngôn-ngữ, trong sự cưỡng bức của ngôn-ngữ ấy, trong chiều rộng cũng như giới hạn của những gì ngôn-ngữ ấy có khả-năng biểu-đạt.

Ba bộ mặt của văn-hoá
Con người nên-người bằng cách tái-sinh ở mình những ý-chung của một nền văn-hoá. Qua đó, cùng với khả-năng tư-duy về thế-giới và về chính-mình, nó tiếp thụ một số niềm-tin chắc chắn về một số điều được coi như hiển nhiên, làm nền tảng cho sự-thật của nó trong tư cách người do người khác tạo ra. Những ý-chung đó liên quan tới toàn bộ quan-hệ đã qua của loài người với vật-chất, sự-sống, tha-nhân và chính-mình. Như thế, văn-hoá có ba bộ mặt. Nó bao gồm toàn bộ kiến-thức khoa-học[33] do người xưa để lại, một nhạy-cảm nào đó đối với phẩm-chất của sự-sống, một số giá-trị trong quan-hệ giữa người với người. Đối với một người thừa kế gia tài của Descartes, đương nhiên rằng đồ-vật là cái gì nó là, là vật-thể, rằng tinh-thần phi-vật-chất, rằng sự-thật phải khách-quan, rằng có quy-luật trong tự-nhiên, rằng nghiên cứu khoa-học không là sáng-tạo chúng mà là tìm kiếm chúng, rằng toán và vật-lý là những môn khoa-học chính-xác, cao quý... Cũng như thế, một khi ta đã có đệ tử của Rabelais trong hàng ngũ tổ tiên, ta sẽ thấy cuộc đời nhàm chán nếu, thỉnh thoảng, ta không tô điểm được nó với vài miếng phomát thật chín mùi, tưới chút rượu Bordeaux được nuôi nấng tử tế trong thùng gỗ sồi, sau khi mút cạn tủy cơ-bản và bổ béo[34] của một anh vịt quay lương thiện trong một trạm săn xưa của vua Henri đệ tứ. Cuối cùng, không sảng khoái nào tinh khiết hơn là nếm bánh mađơlen và tán về thời-gian đã đánh mất khi khoa-học, văn-chương, nghệ-thuật còn ưa liếc Paris, khi những giá-trị phổ-cập của con người và công-dân còn là chân trời không vượt được của văn-minh, thậm chí khi nổi loạn là chuyện hữu-lý[35].

Nếu chỉ có vậy, chán chết. May thay, không thể chỉ có vậy. Những ý-chung ta tái-sinh ở ta chỉ là quan-hệ với thế-giới của người đã chết. Đương nhiên, có nhiều quan-hệ xưa ấy vẫn còn tính thời sự vì thế-giới chẳng thay đổi bao nhiêu từ khi ta bắt đầu suy-luận. Ngay trong trường hợp ấy, quan-hệ cá-biệt của ta với thế-giới thoát khỏi chúng. Chưa kể rằng trong vũ trụ này, mỗi lúc mọi sự đều thay đổi, mỗi lúc ta đều có khả-năng ngây thơ tái-sinh trước sự mới lạ của thế-giới này. Sẽ có ngày, ta khao khát biểu-đạt quan-hệ cá-biệt của ta với thế-giới trong lĩnh-vực này hay lĩnh-vực khác, trong nghiên cứu khoa-học, trong cách sáng-tạo một nghệ-thuật thụ hưởng cuộc sống, trong một quan-điểm mới về quan-hệ giữa ta với tha-nhân, giữa ta với chính ta. Khao khát đó có lúc lay chuyển niềm-tin cũ mèm của ta, khuyến khích ta xô đẩy một vài ý-chung. Nhu-cầu tự-giải-phóng mình khỏi cõi nhân gian vĩnh-cửu của người chết[36] để tái-sinh vào tương-lai của người sống, thỉnh thoảng biểu-hiện dưới hình-thái nổi loạn : ta chán ngắt rồi, ta muốn xoá sạch quá-khứ. Phải bảo vệ khả-năng ấy. Thái-độ ấy biểu lộ một bế tắc tư-tưởng mà ta nên ý-thức. Cơn giận hờn ấy thường thường chỉ là một thoảng gió nhẹ. Nhưng lâu dài mà không giải quyết nó, nó có thể biến thành cơn lốc.

Thỉnh thoảng đòi hỏi trên thể-hiện bằng cách cố gắng mở cũi của người chết để đón nhận tương-lai của người sống. Ta không muốn xoá sạch quá-khứ, nhưng ta không chấp nhận tan mình trong nó. Lúc đó, trên cơ sở một nền văn-hoá ta chấp nhận, vui lòng gánh vác, nhú lên một chân trời tự-do mới. Nếu con người từ chối chỉ là máy tái-tạo niềm-tin của người chết, một mặt nó phải cáng đáng những ý-chung đã giúp nó nên-người và, mặt khác, phải tự-giải-phóng mình khỏi chúng. Trong chừng mực mà, khi nó tự-giải-phóng, nó đồng thời giải-phóng đồng loại khỏi sự nô-lệ chung và họ cùng nhau vươn tới tương-lai bấp bênh của nhân-cách, họ tự biến mình thành người tự-do.

Ba chân trời của tự-do
Rất lâu, cuộc tranh luận về tự-do bị nhốt trong thế-giới-quan nhị-nguyên-biệt-lập[37] của Descartes. Con người tự-do tới mức nào đối với quy-luật của tự-nhiên và, nói chung hơn, đối với thế-giới bên ngoài ? Tùy niềm-tin hay khẩu vị của nó, con người sắp đặt tất cả hay một phần những gì không trực thuộc tinh-thần cô-đơn của Descartes trong thế-giới ấy : quy-luật vật-lý, quy-luật của sự-sống, « quy-luật xã-hội[38] ». Trong tư-duy đó quan-hệ giữa người với thế-giới bị khái-niệm như một quan-hệ loại trừ lẫn nhau[39], do đó nó hiện lên như một đối kháng không thể dung hoà được giữa tất-yếu và tự-do. Tùy ta chọn cực này hay cực kia của quan-hệ đó làm hệ-quy-chiếu, ta sẽ thấy quan-hệ đó hoàn toàn tất-yếu hay hoàn toàn tự-do. Nhưng ta vừa bước ra khỏi sự xung đột mệt mỏi, chán chường, giả tạo giữa hai thế-giới loại trừ nhau kia, mọi chuyện trở nên lu mờ và con người dường như vừa tuyệt-đối lệ-thuộc vừa tuyệt-đối tự-do.

Ta hãy thử phân-tích một hành-động mà, đối với nhiều người, là bằng chứng không thể phủ-nhận rằng con người hoàn toàn tự-do. Tự-sát là một khả-năng con người có thể hình dung và thực-hiện một cách có ý-thức. Điều ấy minh hoạ sự độc-lập tuyệt-đối của nó với tất cả các quyết-định-luận[40]. Qua hành-động đó, nó chứng minh rằng nó tuyệt-đối tự-do. Thật thế chăng ? Điều đó chỉ thật trong trí tưởng tượng về một cuộc tự-sát giả tưởng. Điều đó không đúng đối với một hành-động thực. Để có thể tự-sát, ta phải tuân theo quy-luật của tự-nhiên. Trước tiên phải biết sử dụng đúng đắn khẩu súng lục. Bản thân súng lục là một biểu-hiện nho nhỏ, cô đọng, tuyệt vời của sự vận dụng quy-luật vật-lý. Sau đó, ta nên nhắm cho đúng, chế ngự cái tay run rẩy của ta. Nếu ta bắn hụt, ta rất có thể trở thành một người tật nguyền, thậm chí một kẻ tuyệt-đối lệ-thuộc thế-giới bên ngoài. Để hiện-thực-hoá tự-do của ta, không những ta phải tuân theo quy-luật vật-lý, ta còn phải tuân theo quy-luật của sự-sống. Ta tưởng rằng hành-động kia biểu-hiện một cách không thể phủ-nhận được tự-do tuyệt-đối của ta, nhưng đột nhiên nó biểu lộ sự lệ-thuộc tuyệt-đối của ta đối với vật-giới và sinh-giới. Bắt chước Marx, ta có thể nói rằng đặt vấn đề tự-do ngoài quan-hệ cụ-thể giữa con người với thế-giới, ngoài hành-động chỉ là một trò cãi vã kinh-viện. Mỗi khi ta đặt vấn đề ấy trong quan-hệ cụ-thể, xuyên qua hành-động, vấn đề ấy tự biểu lộ dưới ba bộ mặt khác nhau tuy thống-nhất với nhau. Có một hình-thái tự-do của con người trong quan-hệ của nó với vật-chất, có một hình-thái khác trong quan-hệ của nó với sự-sống và lại có một hình-thái khác nữa trong quan-hệ của nó với tha-nhân và với chính-mình. Tự-do ấy là một, duy nhất, nhưng nó có những nội-dung khác nhau và khai triển trong những chân trời khác nhau.

Bằng cách phát-triển khoa-học và công-nghệ, con người sáng-tạo khả-năng và giới hạn của tự-do trong quan-hệ giữa mình với vật-chất. Càng ngày nó càng biết thay đổi cấu trúc của sự-vật, điều khiển quỹ đạo vận-động của chúng trong vũ trụ, kết-hợp chúng theo nghìn cách khác nhau. Nhưng nó không thể tiêu diệt vật-chất-năng-động được. Trong giới hạn kiến-thức của nó, nó tuyệt-đối tự-do : xây dựng một ngôi trường hay phát động sự hủy diệt bằng chiến tranh hạt nhân, vĩnh-viễn chấm dứt mọi câu hỏi. Phát-triển khoa-học tạo ra một chân trời di-động của tự-do của ta. Kiến-thức của ta càng phát triển khả-năng tác-động vào vật-giới, càng khiến khả-năng nhận thức nó tinh vi, chân trời ấy càng mở rộng. Trong quan-hệ ấy, tự-do của con người tùy thuộc kiến-thức khoa-học và kỹ năng công-nghệ. Ta gặp lại một ý-chung của những thế kỷ trong đó khoa-học tự-nhiên thống-trị tư-duy của con người. Khi ta bất chấp quy-luật của tự-nhiên, ta không hành-động như một người tự-do, ta hành-động như một thằng ngu hay một thằng dốt. Và luôn luôn phải trả giá. Chỉ khi nào ta « tuân lệnh » những quy-luật đó ta mới có thể dùng chúng để phục vụ con người. Mọi ý-chung đều chứa đựng một sự-thật nào đó : ta không thể đảm bảo hiệu quả hành-động của ta vào thế-giới tự-nhiên nếu ta không hiểu-biết nó, tồi nhất qua kinh-nghiệm hoặc tốt nhất nhờ khoa-học. Nhưng không có chuyện con người tuân lệnh vật-thể[41]. Con người chịu đựng chúng khi nó không hiểu quy-luật vận-động của chúng hay không có khả-năng ngăn trở hoặc tác-động vào sự vận-động ấy. Khi con người hiểu quy-luật ấy, nó có thể sử dụng hay không sử dụng kiến-thức đó để thực-hiện những mục đích chỉ do nó quyết định. Sự tiến-bộ nhờ khoa-học không là một ý hão. Hiện nay, có một thời trang : trịnh trọng suy ngẫm về khái-niệm tiến-bộ[42], ngờ-vực rằng cuối cùng nó sẽ mang hạnh phúc cho nhân-loại. Không có gì biểu lộ rõ nét hơn sự tự-bế-tắc tư-tưởng hiện nay. Vấn đề gì vậy ? Vấn đề tiến-bộ khoa-học và công-nghệ ? Người ta nhắc tới Hiroshima, Nagasaki, Tchernobyl, dân trong một làng Nhật bị nhiễm độc bởi chất thủy ngân, bệnh bò cái điên, lớp ozon thủng, những tai biến môi-sinh, những hỗn loạn của kinh-tế và tài-chính bị gán cho tin học... Và người ta kết luận rằng sự tiến-bộ nhờ khoa-học không nhất thiết mang lại hạnh phúc cho nhân-loại, có thể còn ngược lại. Khoa-học, một sản-phẩm tiêu biểu vào bực nhất của con người, đột nhiên có một quyền-năng độc-lập bí hiểm để tiêu diệt con người và môi-sinh của nó. Dĩ nhiên, ai lại nói thô bạo như thế. Ta thừa biết, chính nhờ khoa-học và công-nghệ mà đa số người sống trong những xã-hội phát-triển suốt mấy chục năm nay được ăn no, mặc ấm, sống trong ánh sáng đèn điện, với nước chảy tới tận nhà, hệ thống sưởi nhà tập trung, và đạt một trình độ học vấn cao. Vì thế, người ta tránh trực tiếp tấn công khoa-học, nhất là khi giá-trị thị-trường của mỗi người tùy thuộc nhãn hiệu khoa-học của mình. Tấn công khái-niệm tiến-bộ mù mờ, không có định-nghĩa, chắc ăn hơn. Ta nên chấm dứt nghiên cứu khoa-học chăng ? Dĩ nhiên không. Ta nên thay đổi chế độ chính-trị chăng ? Dứt khoát không ! Không có gì tốt hơn chế độ dân-chủ hiện hữu. Ta nên thay đổi hệ thống kinh-tế chăng ? Càng không nên : Thị-trường là chân trời không thể vượt qua được của nhân-tính. Điều duy nhất nên đặt lại vấn đề là ý-niệm tiến-bộ : ta nên bỏ nó đi hay đành chấp nhận những điều tệ nhất do nó gây ra ? Buồn thay, triết-lý ! Điều gì ngăn cấm con người sử dụng kiến-thức để phục vụ con người, mang lại cho nhân-loại một cuộc sống dễ chịu hơn thay vì dùng nó để phá hủy những nền văn-hoá, văn-minh, phá hủy môi-sinh, nô-lệ-hoá con người, loại trừ hàng loạt người ra khỏi xã-hội ? Không điều gì cả, ngoài sự phục-tùng của ta đối với những kẻ chiếm-hữu những phương-tiện cho phép sử dụng kiến-thức mà nhân-loại đã chinh phục được, và do đó có toàn quyền sử dụng chúng để vụ lợi và, khi cần, dồn tha-nhân vào sự hủy hoại.

Muốn tác-động vào thế-giới, phải có một cơ-thể vật-chất. Nhưng con người không tác-động vào thế-giới như mặt trăng tác-động vào thủy triều. Như mọi sinh-vật, hành-sự của nó có ý-hướng, nhắm một mục đích, một cứu cánh : tái sản-xuất sự-sống ở nó và ngoài nó trong con cái. Cứu cánh ấy vạch ra giới hạn sinh-tính của tự-do. Ta không tự-do thở trong nước cũng như cá không tự-do thở trong khí trời. Nếu ta ứng-xử hoàn toàn như sinh-vật, ta sẽ không biết tự-sát, không biết giết đồng loại. Nói gì thì nói, chó sói không làm thịt nhau. Đương nhiên, như mọi sinh-vật, ta biết giết những sinh-vật khác để có ăn nhưng ta sẽ không biết giết nhiều hơn nhu-cầu tiêu-thụ tức thì để sống. Với tư cách sinh-vật, bản-năng sống, tôn trọng sự-sống của đồng loại, khuynh hướng không giết nhiều hơn sự cần-thiết, dựng một chân trời khác cho tự-do.

Sự phát-triển của ngành sinh-học mở rộng rất nhiều tầm hiểu-biết và hành-động của con người vào sinh-giới. Ta đã biết tạo ra những con quái-vật-ảo có ít nhiều khả-năng sống, thao-tác vào hệ gien của cỏ cây để tạo giống mới, dùng ống nghiệm để khởi động quá trình thụ thai. Hiện nay, ta có khả-năng sao chép một con người. Ta lại phải đương đầu với những câu hỏi tương tự như câu hỏi mà con người đặt ra khi nó sáng-tạo bom nguyên tử : có nên sản-xuất nó không ? Ta tự-do đến mức nào trong chuyện sử dụng vũ khí tiêu diệt hàng loạt như thế ? Như trong trường hợp này, ta không thể tìm trong khoa-học hay sự-sống một câu trả lời thỏa đáng. Ta chỉ có thể đặt và giải quyết câu hỏi loại này trong khuôn khổ quan-hệ giữa người với người. Con người đời nay muốn sống với nhau như thế nào ? Họ muốn thành lập kiểu quan-hệ nào giữa họ trong thế-giới này, cho cuộc đời này, cho những thế hệ tương-lai ? Với nhịp độ nào ? Trong sự tôn trọng hay khinh miệt ai, cái gì, điều gì ? Trên cơ sở đó, một cách có ý-thức hay vô-thức, họ sẽ sử dụng kiến-thức, kỹ-năng và công cụ mà nhân-loại đã tích lũy để thay đổi thế-giới. Vấn đề này tùy thuộc sự lựa-chọn một nền văn-minh, không tùy thuộc kiến-thức phiêu lưu của những chuyên-gia. Tự bản-chất, nó là một vấn đề văn-hoá-xã-hội, một vấn đề chính-trị. Nó đòi hỏi dũng cảm. Dũng cảm làm-người, tự làm-người xuyên qua tha-nhân, làm chính-trị[43].

Vật-thể tự thành hình, tự-biến-dạng, tự thay đổi đúng theo quy-luật vật-lý. Sinh-vật chết đi vì tai nạn hay vì đã hoàn thành quá-trình sống ghi trong hệ gien của chúng. Chỉ có người mới biết tự-sát và thỉnh thoảng nó làm thế thật. Qua hành-động đó, trong một nghĩa nào đó, nó tự-hiện-thực như một « thực-thể » tuyệt-đối tự-do. Khi nó tự-nguyện, tỉnh táo đâm đầu vào Hư-vô, nó biểu thị ở mức tột cùng rằng nó tự-do. Ý-nghĩa của tự-do ấy là gì ? Vấn đề chỉ phức tạp vì ta suy-luận với một ngôn-ngữ đã bị vật-thần-hoá[44]. Nó trở thành đơn giản hễ ta đặt rõ câu hỏi : làm như thế, con người tỏ ra mình tự-do đối với cái gì[45], đối với ai ? Điều đáng chú ý ở đây là tự-động-từ : tự-sát. Tự-sát là một hành-động của con người đối với chính-mình. Như mọi hành-động, nó hiện-thực thể thống-nhất của vật-chất, sự-sống và tinh-thần ở con người. Khi tự-sát, con người giết sự-sống ở chính-mình, phá hủy vật-thể mà mình là. Sự phá hủy đó chỉ khác cái chết tự-nhiên hay do tai nạn của một sinh-vật ở động cơ của hành-động. Động cơ đó không là động cơ của một con thú. Thú-vật, như ta, là « thực-thể » có ý-hướng, nhưng ý-hướng của nó bị hệ gien của nó giới hạn vào chuyện thực-hiện cứu cánh sinh-tính : sống và sinh đẻ. Do đó, nói chung, nó không biết tự-sát, bất kể rủi ro của cuộc sống hay hành-động của con người dồn nó vào hoàn cảnh ghê tởm đến đâu đi nữa. Động cơ đó là động cơ của một thực-thể-tư-duy. Tự-sát cơ-bản là một quan-hệ giữa con người với chính-mình trong tư cách trí-thể. Người ta có lý khi đề cập tới tự-do nội-tại của con người[46]. Tự-do đó có ba bộ mặt : tự-do đối với chính-mình trong tư-cách vật-thể, sinh-thể và trí-thể. Điều đó chỉ có thể có được nếu con người-tinh-thần không hoàn toàn lệ-thuộc vật-tính hay sinh-tính của nó và không hoàn toàn lệ-thuộc tha-nhân[47]. Nó không lệ-thuộc những quan-hệ đó nhờ tính cá-biệt[48] của nó.

Với tư cách vật-thể, ta là một đồ-vật duy-nhất trong không-thời-gian và hành trình của ta không-thể-đảo-ngược. Là cát bụi, ta sẽ trở về cát bụi. Cát bụi ấy sẽ không bao giờ sinh ra sự-sống. Với tư cách sinh-thể, trong khoảnh khắc một đời, ta là một sự trở-về-chính-mình liên miên và, xuyên qua chủng-loại, một quá-trình vĩnh-viễn tái-tạo giống người. Với tư cách trí-thể, ta là một cuộc phiêu lưu qua đó toàn bộ quan-hệ giữa người với thế-giới, tích lũy qua những thời đại và kết tinh trong một hay nhiều ngôn-ngữ, tái-sinh trong tính cá-biệt của một người. Mỗi con người là một thể tổng-hợp đặc biệt của tất cả những người đã tạo ra ngôn-ngữ và văn-hoá qua đó nó tư-duy. Nó là nhân-loại đang trở thành và nhân-loại tự-hiện-thực xuyên qua nó. Tự-sát tức là chấm dứt cuộc phiêu lưu đó nhân danh chính nó vì con người, trong tư cách người, là cuộc phiêu lưu ấy. Nhưng chấm dứt cuộc phiêu-lưu đó ở nó không ngăn cản cuộc phiêu lưu ấy tiếp tục ở người khác. Nó không là tác giả duy nhất, cũng chẳng là tác giả chính của nhân-tính ở nó. Nhân-tính ấy đến với nó từ đáy thời-gian qua thủy triều nhân-loại. Nhưng một khi nó đã hiện-sinh cuộc phiêu lưu ấy, một khi nó đã nên-người qua cuộc phiêu lưu ấy, nó trách-nhiệm cuộc phiêu lưu ấy đối với người đời xưa, người đời nay và người đời sau. Dù muốn dù không, nó phải quyết định tiếp tục hay chấm dứt cuộc phiêu lưu ấy. Trong nhân-tính kia có toàn bộ những giá-trị mà loài người đã sáng-tạo để điều hành cuộc chung sống như sự-thật, sự giả-dối, sự dũng cảm, sự hèn hạ, danh dự, sự đê nhục, phẩm cách, sự lương thiện, tình-yêu, tình bạn, tình đồng chí, tình đoàn kết, sự sạch sẽ, sự dơ bẩn... Nhân danh một số giá-trị ấy, trong một số hoàn cảnh, một người bám chặt cuộc sống hay chấm dứt nó. Người tự-sát là người đánh giá rằng đời mình không đáng sống nữa, rằng chút nhân-tính còn tồn-tại ở mình đòi hỏi mình chết để khỏi chìm đắm hoàn toàn, cả thể-xác lẫn tinh-thần, vào cõi phi-nhân. Nó tự-sát để cứu vớt phần nhân-tính ở mình. Quan-hệ giữa con người với chính-mình tức khắc là quan-hệ của mình với nhân-loại. Kẻ tự-sát để cứu vớt phần nhân-tính ở chính-mình cũng tự-sát để cứu vãn nhân-tính ở mọi người. Tự-sát là tuyên bố tự-do của mình đối với những người hiện tại nhân danh người xưa, vì người của mai sau. Điều đó có cơ sở : nhân-tính ở con người có khả-năng sống-tiếp vượt sự-sống của bản thân nó, tái-sinh trong ký-ức của loài người, trở-lại cuộc sống. Qua đó, tự-do nội-tại của con người hé mở cho nó một chân trời tự-do thứ ba : ngày nào loài người còn tồn-tại, tự-do kia còn có khả-năng tồn-tại, vượt không-gian và thời-gian, xuyên qua người khác, xuyên qua hành trình lâu đời vươn tới chính-mình của nhân-loại.

Trong lĩnh-vực giá-trị, nhân-loại chỉ phải đương đầu với chính-mình thôi, hoặc xuyên qua quan-hệ giữa người với người, hoặc xuyên qua quan-hệ của một người với chính-mình. Con người chỉ có thể thực-hiện tự-do của mình xuyên qua quan-hệ của mình với tha-nhân hay xuyên qua quan-hệ của mình với chính-mình. Trong nghĩa đó và chỉ trong lĩnh-vực đó thôi, tự-do của ta không có giới hạn. Một « thực-thể » chỉ phải đương đầu với chính-mình thôi đương nhiên là một « thực-thể » hoàn toàn tự-do.

Vì thương con, một người mẹ có thể thịt đứa này để nuôi những đứa khác, vứt bớt từng đứa một trên vỉa đường khi chúng từ từ đói lả hay bóp chúng chết hết trong tay mình để tránh cho chúng phải chết dần chết mòn quá lâu. Đó là vài biểu-hiện có-thể của tự-do. Và đây là một biểu-hiện khác : một thế-giới trong đó sản-xuất của cải và dịch vụ đã được nhân lên gấp sáu lần nội trong 50 năm qua, 20% nhân-loại tiêu-thụ 86% sản-phẩm và dịch vụ kia, hơn 1 tỷ người không đáp ứng được nhu-cầu tiêu-thụ tối thiểu của con người, chưa tới 4% của cải của 225 người giàu nhất đã đủ để cung cấp cho cư dân của địa cầu này nhu yếu phẩm và dịch vụ xã-hội cơ-bản (ăn, học, giữ gìn sức khoẻ)[49] ; ở đó ta chứng kiến liên tục trên màn ảnh TV những đứa trẻ chỉ còn da bọc xương trong khi chuyên-gia và chính-trị-gia của chúng[50] thay nhau đè bẹp ta với niềm-tin sắt đá của họ : « Đó là thế-giới khả-thi duy nhất » và những trí thức xuất sắc nhất của chúng ta thì tán về chuyện khác. Phải là người có khoái cảm đau để nghĩ tới, nhớ tới. Nhưng luật rừng xua đuổi mọi người về rừng xanh, kẻ mạnh và kẻ yếu, kẻ giàu và người nghèo, bác học và người dốt-nát. Màn đêm len lỏi vào những vết thương trong khu rác rưởi của dân nghèo, âm thầm dày xéo tâm can của con người trong những ngoại ô mục nát, vào giấc ngủ no nê trong những biệt thự, lâu đài, là một. Đó là sự sợ hãi và hận thù trong ánh mắt con người khi nhìn nhau. Chúng vạch ra giới hạn của tự-do trong quan-hệ giữa người với người. Bên kia ranh giới ấy, là đêm đen của cầm thú. Vì mỗi người nên-người bằng cách tái-sinh ở mình nhân-tính của người đời xưa để trao lại cho người đời nay và người đời sau, đoàn-kết là hình-thái tối cao, là chân trời của tự-do. Con người xa nó bao nhiêu, lún bấy nhiêu vào thế-giới sống sượng của sự-sống, của thú-tính. « Người ta chỉ có thể áp-bức một thực-thể tự-do[51] », Sartre đã viết như thế. Con người chỉ có thể tự-do đối với những con người tự-do. Nó không tự-do đối với sỏi đá hay chó sói. Tự-do là một giá-trị trong quan-hệ giữa người với người. Khi nó khai triển xuyên qua ba chiều-kích của con người, nó tự-hiện-thực trong những quan-hệ mà con người trực tiếp hay gián tiếp thiết lập với nhau xuyên qua hành-động của họ vào thế-giới. Để thực-hiện điều đó, nó cần sự « chính xác » của khoa-học trong quan-hệ với vật-giới, cần yêu và tôn trọng sự-sống trong quan-hệ với sinh-giới, cần nhận thấy mình ở tha-nhân và tha-nhân ở mình trong quan-hệ với người khác, với chính-mình. Tóm lại, để giải-phóng ta một lúc khỏi ngôn-ngữ gỗ nặng khuynh hướng vật-thể-hoá này[52], ta càng hiểu-biết thế-giới vật-chất, ta càng yêu càng tôn trọng sự-sống dưới mọi hình-thái của nó, ta càng cảm-thấy đoàn-kết hay liên đới trách-nhiệm với người đời trong mọi hành-động của nó, kể cả những tội ác[53], thì ta càng tự-do. Nếu ta không an phận với tự-do của một cái bóng trong một thế-giới sương mù, ta kiểm-nghiệm điều ấy mỗi khi ta hành-động vào thế-giới này cùng với đồng loại, mỗi khi ta thực-hiện nhân-tính của ta bằng cách nhân-cách-hoá cuộc đời của tha-nhân và của chính ta, mỗi khi ta ứng-xử như một người tự-do. Trong quá-trình nên-người của mình, con người là gốc-gác, cứu-cánh và phương-tiện duy-nhất của con người. Nó nên-người bằng cách hành-động vào thế-giới và hành-động đó, để hoàn tất, đòi hỏi kiến-thức khoa-học, tình-yêu sự-sống và tình đoàn-kết giữa người với người. Suy-luận về quan-hệ vật-chất một cách chính-xác, về quan-hệ-sống một cách trìu mến, về quan-hệ tinh-thần như thấy tha-nhân ở mình và kêu gọi tha-nhân thấy mình ở tha-nhân, suy-luận về con người như thể thống-nhất năng-động của những quan-hệ đó, tôn trọng sự toàn vẹn vật-lý của nó, trìu mến sinh-tính cá-biệt của nó, biết ơn trí-tính phổ-cập ở nó, suy-luận như thế gọi là suy-luận biện-chứng.

Thời-gian để nên-người và thời-gian để làm-người
Khi chào đời, con người chưa là người. Nó phải trở-thành-người và nó chỉ có thể trở-thành-người nhờ người khác. Việc đó đòi hỏi thời-gian. Thời-gian để nên-người, để tiếp tục làm-người ngang tầm thời đại, không ngừng tiếp thu văn-hoá, và thời-gian để dạy-làm-người, truyền lại văn-hoá đó cho tha-nhân.

Một đứa trẻ cần ngót một năm để học đứng, học đi. Nó lại cần vài năm nữa để tiếp thu kiến-thức sơ đẳng về một ngôn-ngữ, làm chủ cách sử dụng những công cụ có đầy rẫy trong thế-giới, học đọc học viết. Cuối cùng, nó phải học nhiều năm mới tiếp thu được văn-hoá cần-thiết để sống một cách nhân-bản trong một xã-hội phát-triển. Trong thời-gian ấy, đứa trẻ cần được bảo vệ đối với những tấn công của thế-giới. Nó cần một môi-trường ổn định mang lại cho nó sự yên lành, an ninh, thanh thản và tình-yêu. Nó cần một gia đình[54]. Nó cần người lớn cho nó thời giờ để dạy nó làm-người. Nó bắt đầu học-tập điều ấy với thân nhân, với thầy cô, bè bạn ở trường tiểu học, trung học, rồi đại học... Thời-gian người lớn dành cho nó quyết định nội-dung nên-người của nó : ngôn-ngữ, kiến-thức, phép ứng-xử trong đời sống xã-hội và, trên cơ sở đó, khả-năng sống tự-do. Không có những điều kiện ấy, đứa trẻ không trở-về thú-giới như người ta tưởng, nó không có ngay cả khả-năng ra khỏi thú-giới[55]. Ngược lại xã-hội thực sự trở-về thời hoang dã khi nó ép ngày càng nhiều người phải tiếp tục hay trở lại hoàn cảnh sống dã man. Chẳng ai muốn điều đó, nhất là những chính-trị-gia, ít nhất họ nói vậy. Ta nên tin họ thành thật, dù chỉ để giữ cho ngôn-ngữ của ta một phẩm cách tối thiểu. Tuy vậy, điều ấy vẫn xảy ra. Ngày nay, sự xáo trộn hỗn loạn điều kiện sinh sống của con người trong xã-hội đẩy một phần của nó vào tình cảnh bấp bênh, vào tình trạng bị đào thải, nghiền tan điều kiện vật-chất và xã-hội của quá-trình nên-người của con em ta. Đối với những người còn kiếm được đồng lương, điều kiện lao-động, sinh sống, khả-năng phương-tiện của họ khiến sức lực và thời-gian họ dành cho việc giáo dục con cái làm-người, tự-nhân-hoá mình ngang tầm nền văn-minh của mình, ngày càng giới hạn. Làm sao những người lớn mệt lử, ngày ngày lo âu trước ngày mai, luôn luôn bị nợ nần ngắn hay dài hạn giày vò, nghi-ngờ đồng loại và bản thân mình, có thể dạy con cái tự-làm-người ? Tất nhiên, đa số vẫn kháng cự trong khả-năng của mình, dưới mái nhà gia đình và trường học, cố khắc sâu vào ký-ức của trẻ con một số giá-trị của nền văn mình họ thừa kế. Làm vậy, họ bảo vệ văn-hoá của ta đối với sự tiêu diệt đang uy hiếp nó. Ngày nào họ buông tay, ta sẽ đứng trước nguy cơ chớp nhoáng trở-về cõi hoang dã.

Có người tin rằng sự xáo trộn hỗn loạn trong điều kiện sinh sống là do sự phát-triển chóng mặt của khoa-học và công-nghệ. Người ta rùng mình trước những giao dịch tài-chính nhanh gần bằng tốc độ ánh sáng, những cơn lốc hình ảnh, âm-thanh... trước mạng của những mạng, trước sự nhập nhằng giữa thế-giới thực và những thế-giới ảo, v.v. và người ta nghiêm trọng suy ngẫm về sự tác-động của tin học vào nền văn-minh, về khả-năng một xã-hội dã man xuất-hiện dưới bộ mặt khoa-học[56]. Ở đây cũng thế, người ta suy ngẫm về một vấn đề giả. Tất nhiên, sử dụng tin học là cách-mạng công-nghệ của thế kỷ 20. Lần đầu trong lịch-sử, ta có thể vật-thể-hoá một cách rẻ tiền hầu hết kiến-thức của con người, tập trung chúng trong rất ít bàn tay và, tính cách-mạng ở đây, vận dụng chúng mà không cần tới lý-trí của con người[57]. Tự động hoá những quá-trình vật-chất loại người lao-động tay chân ra khỏi quá-trình sản-xuất. Tin học hoá kiến-thức sẽ loại những người lao-động tri thức. Để thiết kế và sản-xuất hàng triệu xe hơi, người ta không cần một đội ngũ đông đảo kỹ sư và công nhân chuyên nghiệp trong các ngành khác nhau. Một phần lớn kiến-thức cần-thiết, thậm chí những kỹ năng[58] đã được lưu trữ trong những định trình, những căn cứ dữ liệu. Tất nhiên, người ta vẫn thuê kỹ sư được chọn-lọc khắt khe, được đào tạo trong trường kỹ sư lớn, nhưng thường thường người ta không sử dụng tới 10% kiến-thức của họ[59]. Trong nhiều trường hợp, người ta biến họ thành anh đi buôn, dùng bằng cấp của họ để tô điểm sự quyến rũ lờ mờ của những anh chuyên-gia « thông-tin »[60]. Tự nó, tin học hoá kiến-thức của con người chẳng có gì tai hại cả. Ngược lại, nó tạo một khả-năng tuyệt diệu để giải-phóng hơn nữa con người khỏi sự lệ-thuộc vật-giới, thậm chí sinh-giới[61], mở đường cho một thế-giới đặc-thù nhân-tính, một thế-giới văn-hoá. Xét cho cùng, những hệ thống xử-lý thông-tin và viễn thông chỉ là đống sắt, giây cáp, mạch điện tử. Làm sao chúng có thể, tự chúng, làm xáo trộn điều kiên sinh sống của con người ? Vấn đề đích thực là xã-hội muốn sử dụng chúng để phục vụ ai, để làm gì, với nhịp độ nào, nhân danh giá-trị nhân-bản nào ?[62] Vấn đề này, nhất thiết ta không được nêu ra ! Nếu mọi người đều nêu nó lên, thưa bệ hạ, đây không phải một cuộc nổi loạn, đây là một cuộc cách-mạng ![63] Nên suy ngẫm vớ vẩn hết hơi về tác-động của những thế-giới ảo vào thế-giới thực thì hơn ! Điều đó lợi ở chỗ nó để mặc kệ thế-giới thực tiếp tục đi tới nơi nó đang đi tới : rừng xanh. Tôi không muốn hạ thấp tầm quan trọng của những suy-luận về những thế-giới « có-thể » do sự phát-triển của khoa-học và công-nghệ mở ra. Điều ấy ngu xuẩn. Tôi muốn nói : điều cấp bách nhất hiện nay là bảo tồn ngay tại đây, ngay lúc này, trong đời sống cụ-thể, hàng ngày của con người, một số giá-trị mà những nền văn-minh đã tạo ra xuyên qua biết bao thế kỷ u mê, tàn bạo, đau khổ, nhưng đồng thời cũng có lý-trí, sự trìu mến, nỗi hân hoan, bằng cách cho phép đồng loại của ta tìm lại được chúng trong cuộc sống thường ngày, gánh vác chúng trong khoảnh khắc họ lướt qua thế-gian này, từ từ thích-nghi chúng cho bản thân họ và cho con cái của họ sao cho phù hợp với kích-thước của nền văn-minh tương-lai giàu có hơn về vật-chất và tinh-thần, cởi mở hơn về văn-hoá. Điều đó cấp bách. Quá-trình nhân-hoá hay phi-nhân-hoá của một đứa trẻ, mặt nào đó, không-thể-đảo-ngược. Một đứa trẻ không được học đứng thẳng, học nói trước khi những cấu-trúc cơ-bản trong bộ óc của nó « đọng lại », sẽ không bao giờ học được nữa. Một con người chưa hề được dịp học yêu thương, tôn trọng con người, trong tuổi thơ của nó, sẽ chỉ có khả-năng hiểu ngôn-ngữ của bạo liệt, căm thù, khinh miệt. Không phải vận dụng gian thuật chính-trị, tiếng la thét, câu bỏ nhỏ[64], thuyết-trình thông thái hay lộng lẫy mà có thể dẹp được phong trào cực hữu kỳ thị chủng tộc ở xứ sở của Descartes, Voltaire, Hugo và Sartre[65]. Phải mang lại cho mọi công-dân – với sự đóng góp của chính họ – điều kiện sinh sống đàng hoàng giải-phóng họ khỏi sự sợ hãi và căm thù, mang lại cho họ khả-năng tiếp thu một nền văn-hoá khiến họ mở rộng tấm lòng đoàn kết, nhìn nhận tha-nhân, nếu chưa thể nói tới yêu thương. Trí thức, chính-khách là những người chịu trách-nhiệm chính trong chuyện này. Xưa kia họ đã từng là nhân-phẩm của nước Pháp và, qua ánh sáng nền văn-hoá đó tạo ra, là nhân-phẩm của rất nhiều người. Họ đã như thế, họ đã làm được chuyện ấy vì họ đã tự nhận thấy mình trong nền văn-hoá của mình và trong những con người hiện-sinh nó, đa số người Pháp trong đời sống thường ngày. Hôm nay, họ còn khả-năng làm chuyện ấy mà không nhại như khỉ đám người kỳ thị chủng tộc chăng, kể cả khi họ núp sau « mức chịu đựng không vượt qua được[66] » ?

Chỉ nội trong hai hay ba thế hệ, một xã-hội có thể trở-về thời hoang dã. Thế mà hiện nay, có hơn một tỷ người, một người trên năm trong nhân-loại, phải sống trong sự bần cùng, áp-bức, bạo liệt. Họ sẽ truyền những giá-trị nào cho con họ và những đứa con ấy sẽ truyền những giá-trị nào cho cháu họ ? Phải chăng đã đến lúc ta phải sáng-tạo những con đường và phương thức từ từ thay đổi thế-giới, cho mọi người thời-gian cần-thiết để nên-người, để làm-người và, bắt đầu từ tuổi suy tàn, làm việc, già đi và chết một cách nhân-đạo ?





--------------------------------------------------------------------------------

[1]...la conscience dans son appel à soi-même pose l'exigence du bien dans l'action, du vrai dans la connaissance, et du beau dans l'achèvement des processus vécus. Par-là, la conscience fait du monde naturel un monde humain, valable pour l'homme. Un itinéraire. Một hành trình. Tác giả tự xuất bản, Paris 1992. Kiến Văn chuyển ngữ.

[2] Maladie de la vache folle. Bệnh bò cái điên. Trong tiếng Pháp, người ta gán bệnh điên cho bò cái, tha bò đực !

[3] Ghẹo mấy vị Bất-tử (Immortels) trong Viện Hàn Lâm Pháp, có lúc làm việc cả chục năm mới tới vân E cho từ điển tiếng Pháp. Đây là từ điển « chính thức » của Pháp, không ai biết tới.

[4] Có lẽ đứa khốn khổ đó đã tuyệt vời linh-cảm được những gì chờ đón nó !

[5] penser le monde.

[6] Simone de Beauvoir có lý khi viết : « Lúc chào đời, ta vốn không là đàn bà, ta trở thành đàn bà. » Quá-trình trở thành đàn bà, cũng như quá-trình trở thành đàn ông, là những hình-thái lịch-sử của quá-trình trở-thành-người. Quá-trình trở-thành-người là kết quả của hành-động chung của con người để xây dựng những quan-hệ xã-hội giữa họ. Chính vì thế mà ta có thể và ta phải – một cách duy ý-chí – thay đổi nội-dung cụ-thể của quá-trình đó để sáng-tạo một thế-giới trong đó đàn ông, đàn bà, nam dạng nữ, người thích nhục tình với người khác giới hay với người đồng giới, sư, sãi, những người khắc kỷ của đủ mọi học phái và tôn-giáo, đều có chỗ đứng của mình. Điều ấy đòi hỏi một quan-điểm ba-chiều-kích về con người. Vì thiếu một quan-điểm như thế mà cuộc tranh luận hiện nay để khiến số nữ ngang với số nam trong những cơ cấu chính-trị của Nhà nước và các đảng đâm ra mù mờ. Chỉ dựa vào giới tính để thay đổi tổ chức xã-hội là lấy thú-tính làm nền tảng cho văn-hoá. Giữ nguyên tổ chức cũ hay thay đổi nó với lý lẽ tôn trọng một nguyên tắc bình-đẳng phổ-cập trừu-tượng là ép buộc con người tuân theo những giá-trị chỉ hiện-thực xuyên qua nhục-thể của nó. Và nhục-thể ấy có giới tính. Đàn ông hay đàn bà, chẳng ai điên tới mức muốn xoá bỏ sự khác biệt giới tính. Làm thế, cuộc đời ta sẽ chán chết. Vấn đề ở đây là cách xây dựng quan-hệ xã-hội rất bất-công của chúng ta. Phải thay đổi nó. Chúng ta có thể làm chuyện đó vì chính chúng ta, đàn ông cũng như đàn bà, xây dựng những quan-hệ đó. Để thực-hiện chuyện ấy, ta không cần lôi sinh-học hay siêu-hình-học ra để biện minh. Chỉ cần tôn trọng và yêu quý con người trong tất cả những chiều-kích của nó, chỉ cần hiểu rằng, với tư cách người, ta đúng là toàn bộ quan-hệ xã-hội của ta, rằng mọi quan-hệ thống-trị, làm nhục, hạ nhân-phẩm của người khác đều khiến ta hèn hạ đi.

[7] Đã tạo ra, duy trì và phát-triển ngôn-ngữ mà nó thừa hưởng và dùng để tư-duy.

[8] Đây là một luận-điểm nữa để gắn liền sự sinh nở và phát-triển ngôn-ngữ của con người với lao-động sản-xuất, đặc biệt trong chuyện sản-xuất cộng cụ của loài Homo Faber (người biết làm công cụ).

[9] Ý-kiến này đã được Hegel trình bày và Trần Đức Thảo nói rõ thêm trong một số văn bản ông tự xuất bản ngay trước khi ông mất [Quá trình hình thành con người. La formation de l’homme, tác giả tự xuất bản, Paris 1991.] Là người nắm rõ hiện-tượng-luận của Husserl và học thuyết của Marx, triết gia Viêt Nam này suốt đời tìm cách thống-nhất hiện-tượng-luận với học thuyết duy-vật biện-chứng bằng cách dựa vào sinh-học. Tiếc thay, ông không có dịp tiếp cận những kết quả mới nhất của ngành sinh-học.

[10] Nguyễn Huy Thiệp đã viết một truyện ngắn thống thiết liên quan tới đề tài này, Cún, một viên ngọc trong văn-chương hiện-đại Việt Nam.

[11] Les mots. J-P Sartre.

[12] Điều này đúng cả về mặt khoa-học lẫn văn-chương.

[13] Đó là trường hợp của rất nhiều từ-ngữ mà người ta sáng-tạo ra trong nghiên cứu khoa-học. Để nêu danh một hiện-tượng mới, nhà nghiên cứu sáng-tạo một ngôn-từ đúng là sản-phẩm của một quá-trình trừu-tượng-hoá. Bước đầu, ngôn-từ ấy chỉ có nghĩa đối với người sáng-tạo nó. Để người khác hiểu mình, tác giả của nó phải ghép vào nó một định-nghĩa. Định-nghĩa đó dựa vào những ngôn-từ khác và, cứ thế, dẫn đến những ý-chung. Thí dụ : lượng-tử là năng-lượng nhỏ nhất mà một hạt cơ-bản có thể phát ra hay hấp thụ. Một ngày nào đó, từ-ngữ mới kia cũng trở thành một ý-chung.

[14] Người Việt đặt tên chích chòe cho một con chim nhỏ kêu : chích chòe. Những từ tượng thanh cho ta hé thấy ngôn-từ dưới hình-thái quan-hệ nguyên thủy của con người với thế-giới. Tiếng Việt, mặt nào đó vẫn rất cổ. Ta ngạc nhiên trước dục-tính, sự phong phú của nó về âm điệu, những đặc-tính khơi những quan-hệ đầy nhục-cảm giữa con người với thiên-nhiên. Đó là một ngôn-ngữ thơ tuyệt vời. Hiện nay, thơ vẫn là hình-thái tuyệt đỉnh trong văn-chương Viêt Nam.

[15] Une donnée.

[16] le signifié.

[17] le signifiant.

[18] objet signifiant.

[19] Le Savoir.

[20] Informatique.

[21] Ở thời buổi này, ai dám ngờ-vực hiệu-lực của những khoa-học thông-tin và tin học ?

[22] Do Shannon, kỹ sư viễn thông, tạo ra.

[23] suy-luận bằng ngôn-ngữ.

[24] văn bản hay lời nói, những hình-thái ghi chép ngôn-ngữ.

[25] nghe hay đọc tức là diễn-giải ngôn-ngữ bằng tư-duy, nghĩa là bằng ngôn-ngữ nốt.

[26] Biện luận rằng ý-nghĩa của một từ tùy thuộc bối-cảnh sử dụng nó, câu văn... chẳng giải quyết gì hết. Chốn tránh giải quyết vấn đề bằng cách lách qua vấn đề khác không tạo ra lối thoát nào cả. Điều trên chỉ đúng khi ngôn-từ đã có ít nhất một nghĩa. Nếu tất cả từ trong một câu, thậm chí nếu chỉ đa số từ trong câu, đều không tự chúng có nghĩa thì toàn bộ câu cũng chẳng thể có nghĩa.

[27] La philosophie, c’est le travail du concept, Kant, theo trí-nhớ. Trong nghĩa : lao-động để thay đổi định-nghĩa của những khái-niệm.

[28] « Concept » est un concept flou. Wittgenstein. Theo trí-nhớ.

[29] Ghẹo anh Tây. Ở Pháp, bộ trưởng bộ Quốc gia giáo dục nào dám cải cách ngành giáo dục ắt bỏ mạng. Ông Allègre đã nêu yêu cầu ấy với hình ảnh : phải cạo mỡ con voi thiên cổ (dégraisser le mammouth). Và bị đá văng.

[30] Ghẹo tiếng Pháp. Jeu de main, jeu de vilain. Jeu de mots est mère de tous les maux. Mot (ngôn-từ) và maux (sự đau đớn, bệnh tật…) phát âm như nhau.

[31] Hành-động có trước tư-duy, Malraux đã từng nói vậy. Điều đó đúng trong chừng mực bản thân tư-duy được xây dựng hay xây dựng lại xuyên qua quá-trình học-tập ngôn-ngữ. Một khi điều đó đã được thực-hiện, không có hành-động nào của con người lại không gắn liền với một nền văn-hoá, ngay cả hành-động đi đái : nó đòi hỏi con ngưòi biết và hiểu cách sử dụng cả một thế-giới công cụ. Trong nghĩa đó, mọi người đều trách-nhiệm hành-động của mình đối với người khác vì, với tư cách trí-thể, nó là cộng đồng người đang hành-động. Tuy vậy, trong một kiếp người, luôn luôn xuất-hiện những thời điểm ở đó, một lần nữa, hành-động đi trước tư-duy. Đó là thời điểm một cá-nhân thiết lập với thế-giới một quan-hệ mới tới mức nó không diễn tả được : nó không có cả ngôn-từ cần-thiết để biểu-đạt quan-hệ đó. Điều đó không có nghĩa là chưa ai đã từng làm chuyện ấy. Đơn giản hơn, nó chưa hề nghe nói tới.

[32] médié, médiation.

[33] cũng như những câu hỏi, những tín ngưỡng của con người về thế-giới vật-chất.

[34] Substantifique moelle. Một ý nổi tiếng của Rabelais về nghệ-thuật đọc sách.

[35] Đùa sự hãnh diện của anh Tây về nghệ-thuật ăn uống, đọc sách, hành văn, về những giá-trị văn-hoá của Thế kỷ Khai sáng và về triết-lý cuối đời của Sartre.

[36] Chính chúng ta là cõi nhân vĩnh-cửu của người chết ! Cứ ngâm thơ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương thì thấy.

[37] vision duale du monde. Sẽ trình bày chi tiết trong chương sau.

[38] Ở đây, tôi đề cập tới tất cả những « luật » và lệ mà loài người đã tạo ra để điều hành quan-hệ giữa người với người trong những lĩnh-vực khác nhau như luật pháp, kinh-tế, xã-hội, tâm-lý, tôn-giáo... Từ quy-luật được dùng ở đây để khơi ý bó buộc trong nghĩa một sự áp chế phủ-nhận tự-do của ta.

[39] Một đằng, có tôi đang suy-luận trong nỗi cô-đơn ngạo mạn của cogito và đằng khác có một thế-giới bên ngoài trong đó không có tôi.

[40] Déterminisme.

[41] Ta không thể tuân lệnh cái ghế và cũng chẳng thể thống-trị nó. Ta chỉ có thể đặt hay không đặt đít lên nó, thế thôi.

[42] Le progrès.

[43] Chứ không làm diễn viên, kịch sĩ, con rối.

[44] fétichisme.

[45] Điều đáng chú ý trong câu hỏi này là khái-niệm cái gì (quoi). Ở đây nó ám chỉ vật-giới và sinh-giới. Trong tiếng Pháp không có từ dành riêng cho sinh-giới có nghĩa tương đương với ai và cái gì. Quá ý-nghĩa.

[46] Liberté intérieure.

[47] Đã là một Thực-thể-do-Tha-nhân, mặt nào đó, ta lệ-thuộc tha-nhân. Đó là ý-nghĩa sâu sắc của giới luật cấm tự-sát : khi con người dám tự-sát, không thế lực nào có thể thống trị nó.

[48] Singularité, individualité.

[49] Le Monde, 10/09/98.

[50] Tôi ngụ ý : về mặt lý-trí, họ đều đã phục-tùng cái mà người ta gọi là « tư-duy độc-nhất » của thời đại này. « La pensée unique », khái-niệm do Ignatio Ramonet tạo ra trong nguyệt san Le Monde Diplomatique.

[51] On n’opprime qu’une liberté. Theo trí nhớ.

[52] langue de bois chosiste.

[53] Những tội ác đó thuộc lịch-sử của nhân-loại, là một thời điểm của quá-trình nên-người hay trở thành phi-nhân của nó. Ta đã nghiệm-sinh thời điểm ấy thì ta trách-nhiệm nó, dù chỉ ở hình-thái ký-ức.

[54] Bất kể hình-thái của gia đình ấy như thế nào.

[55] Những đứa trẻ lang thang từng đàn suốt tháng ngày rỗng-tuếch trong sa mạc của những ngoại ô chẳng học nên-người ngang tầm thời đại của chúng. Ngược lại chúng có khuynh hướng tái-lập theo bản-năng những quan-hệ bày đàn của thời hoang dã. Đây là một hiện-tượng nhức nhói của xã-hội Pháp đương đại.

[56] Đây là những đề tài văn-hoá, văn-học thời thượng ở Pháp trong suốt thập niên 1990.

[57] Tất nhiên không hoàn toàn như thế, nhưng đã thực sự như thế với một tỷ lệ ngày càng lớn. Khả-năng ấy là tiếng chuông báo tử của sự thừa nhận xã-hội, dưới hình-thức tiền, dựa vào kiến-thức. Tú tài + 5 năm đại học = có thể thất nghiệp. Những học sinh trung học năm 1998 đã thừa biết điều ấy.

[58] Tôi đã từng có dịp tham khảo một đề án liên quan tới việc sơn xe hơi bằng súng bắn sơn. Người ta sai người thợ giỏi nhất trong xí nghiệp sơn một chiếc xe. Người ta ghi động tác của người ấy với đủ thứ máy ghi nhận tín-hiệu. Chỉ cần sử dụng lại những dữ liệu đó để điều khiển một automat nhại y hệt động tác của con người mà không bao giờ mệt mỏi hay lầm lẫn, là xong chuyện.

[59] Ngược với những điều người ta ngày ngày búa vào đầu ta, những người có bằng cấp của các trường kỹ sư và các đại học của Pháp thường có kiến-thức quá cao so với công việc mà thị-trường có khả-năng cung cấp cho họ. Từ 20 năm nay, những ông chủ lớn và chính-trị-gia của họ không ngừng than phiền về hệ giáo dục của ta : nó không đáp ứng được nhu-cầu của những doanh nghiệp. Phải điên hay xinic mới muốn cải tổ hệ thống giáo dục của ta theo dự đoán bấp bênh của những ông chủ : chính họ cũng lái mò, không biết tương-lai sẽ ra sao, họ sẽ cần loại người nào trong hai ba năm tới. Thậm chí, họ cũng không biết doanh nghiệp của họ sẽ tồn-tại tới lúc đó không.

Cải cách hệ thống giáo dục nhà nước là đề tài nhức nhói của Pháp từ hơn 20 năm nay. Anh bộ trưởng giáo dục nào đụng tới là bị nguy cơ xô cả triệu người xuống đường phản đối. Một trong những lý do cơ-bản : nền dân-chủ của Pháp đuợc xây dựng trên nền tảng giáo dục phổ-cập bình-đẳng, đến mức người Pháp gọi Nền cộng hoà thứ ba của họ là nền Cộng hoà của những giáo viên (République des instituteurs). Trong xã-hội ấy, học thức là bước thang cơ-bản để thăng tiến và, trên lý-thuyết, mọi người bình-đẳng về điều kiện tiếp thu kiến-thức. Ngày nay, cơ chế ấy đã bắt đầu khủng hoảng.

[60] Năm 1998, một khoá học sinh nhập vào một trường kỹ sư lớn nổi tiếng của Pháp, đã theo một lớp « thông-tin » trong đó giáo sư của họ, một thằng nhãi con độ 30 tuổi, đã khẳng-định với họ : « Tôi có khả-năng đánh giá các bạn nội trong 60 giây và Bernard Tapie có khả-năng làm chuyện ấy nội trong 5 giây. » Sau một bài học như thế, có lẽ cách tốt nhất để « tự bán mình » là dám tuyên bố mình có khả-năng đánh giá tha-nhân nội vài phần tỷ giây.

« chuyên-gia thông-tin » là một « khái-niệm » thời thượng hiện nay ở Âu Tây, có nội-dung sau : dàn cảnh thế nào cũng được, nói gì cũng được, miễn sao quyến rũ được người khác là được. Những anh này giữ vai trò đặc biệt quan trong trong những vụ tranh cử, cũng như trong thương mại. Bernard Tapie là một anh chàng nhiều người Pháp coi như bịp bợm, đã làm giàu nhanh chóng, đã từng làm tài tử chính trị, và đã bị đưa ra toà... Khả-năng « tự bán mình », trong ngôn-ngữ thời thượng, được coi như một phẩm-chất.

[61] Sự khéo léo của anh thợ sơn chẳng hạn.

[62] Thí dụ, nhân danh ai, nhân danh điều gì mà người ta bắt buộc một anh nông dân độ 40 tuổi ở nông thôn của một nước lạc hậu về kinh-tế, hôm trước hôm sau phải đâm đầu vào sự khốn cùng tinh-thần và vật-chất của thế-giới gọi là hiện-đại, trong khi anh ấy chỉ có nguyện vọng cầy cấy thửa ruộng của mình, ăn đủ no, mặc đủ ấm và cung cấp cho con cái khả-năng học hành ? Tất nhiên, đó là một cuộc sống giới hạn, về vật-chất cũng như tinh-thần và ta nên, cuối cùng, cố gắng giải-phóng cả nhân-loại khỏi cuộc sống kiểu ấy. Nhưng cuộc sống ấy vẫn đậm nhân-cách, vẫn còn khả-năng bảo tồn và truyền lại một vài giá-trị của một nền văn-hoá rất lâu đời. Dù sao đi nữa, đối với anh ấy thì đã quá muộn : anh không thể lấy bằng tú tài toán, trở thành kỹ sư để xen chân vào thế-giới hiện-đại ! Tại sao không cho anh ta sống một cách nhân-cách tới mãn kiếp, cải thiện chút đỉnh cuộc sống ấy với điện, nước, xà phòng, kem đánh răng, một chút thịt mỗi tuần, vài bộ quần áo bớt vá víu hơn mỗi năm, và khả-năng chuẩn bị cho con cái một cuộc sống ít vất vả hơn. Nhân-loại hôm nay có thừa khả-năng làm chuyện ấy. Nhờ sự phát-triển của khoa-học và công-nghệ, con người đời nay có khả-năng đảm bảo cho mọi người một cuộc sống ít nhọc nhằn hơn, nhân-cách hơn so với hoàn cảnh hiện tại của họ và lập ra những chương trình phát-triển xã-hội với một nhịp độ tiến hoá chú trọng tới sự khác biệt trong mức phát-triển giữa những xã-hội khác nhau, chú trọng tới những chu kỳ nhân-tính. Người ta đã chứng minh điều đó ngay tại Pháp khi người ta đã lập chương trình hủy diệt từ từ, một cách không quá phi-nhân, giai cấp nông dân và giai cấp công nhân.

[63] Một câu nói nổi tiếng trong lịch-sử Pháp về ý-nghĩa khác nhau giữa khái-niệm nổi loạn (révolte) và khái-niệm cách-mạng (révolution). Khái-niệm cách-mạng tương-đối mới trong lịch-sử nước Pháp, chỉ xuất-hiện với sự trưởng thành của giai cấp tư-sản. Lúc cách-mạng tư-sản Pháp bùng nổ, vua Louis 16 hỏi cận thần : Có loạn hả ? Cận thần trả lời như trên.

[64] Đây là một truyền thống bệnh hoạn trong đời sống chính-trị của Pháp. Những chính-trị-gia, nhất là những kẻ nắm quyền-lực, thường hay bỏ nhỏ những câu nói lập lờ, nước đôi, nước ba, khiến nhân dân cũng như chính giới phải đoán mò ý-đồ của họ, tự lừa mình.

[65] Năm 2002, nhân cuộc bầu cử tổng thống, lãnh tụ cực hữu, fátxít Le Pen, thắng ứng cử viên của Đảng xã-hội, về nhì, tham gia đợt hai cuộc bầu cử. Đối với xã-hội Pháp, đó là một cuộc động đất chính-trị. Thế-giới ban cho nước Pháp danh hiệu không mấy vinh hiển : con người bệnh hoạn của Châu Âu.

[66] Đây là một « khái-niệm khoa-học nhân-văn » tồi tệ về mặt lý-trí, đê hèn về mặt luân-lý, đã thịnh hành trong mấy năm liền tại Pháp trong những cuộc tranh luận về vấn đề người di dân tại Pháp. Một số nhà « khoa-học » xã-hội, tâm-lý, v.v. đưa ra « quy-luật » sau : tỷ lệ người di dân đạt tới một mức nào đó thì sẽ gây ra sự chống đối của dân bản xứ (seuil de tolérance). Khi ra tranh cử tổng thống nhiệm kỳ hai, ông Mitterrand, trong một phát biểu, đã bỏ nhỏ cụm từ đó để liếc tình với đám người kỳ thị chủng tộc, vớt vát ít lá phiếu. Trong thực tế, từ 30 năm nay, tỷ lệ nói trên không tăng mà giảm.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét