Ký ( trích )
Vũ Bằng
Thương nhớ mười hai: Tháng Chạp, nhớ ơi chợ Tết!
Đáng lý ra thì công lên việc xuống như thế, vợ phải mệt đừ, nhưng tài thực, không những đã chẳng sao mà lại còn tươi hẳn lên là khác. Ấy là vì làm việc nhiều mà quên mệt? Ấy là vì thời tiết? Ấy là vì thương chồng, thương con mà không quản ngại vất vả chăng? Đã đành là vào cữ tháng Chạp ở Bắc Việt người ta thấy trong người khỏe mạnh hơn cả những tháng vừa qua; đã đành có khi lòng yêu thương làm cho người ta quên mọi nỗi buồn phiền cực khổ khi thấy những người thân yêu của mình vui sướng; đã đành là có nhiều khi ham mê công việc quá mà quên mệt mỏi; nhưng bao nhiêu cái đó chưa thấm vào đâu với cái vui của người đàn bà khi thấy năm hết Tết đến, nhà cửa bình an, vui vẻ mà trong mình lại có một số tiền dành dụm được từ trong năm, tạm đủ để mua bán cho bằng chị bằng em hầu ăn một cái Tết không to nhưng cũng không lúi xùi.
Năm nào chồng cũng bảo vợ:
- Thôi nhé, năm nay ăn thế nào xong thôi, chứ bày vẽ ra lắm chỉ tổ ốm người, em ạ.
Và năm nào vợ cũng trả lời:
- Thì nào có sắm sửa gì đâu. Chỉ có vài con gà con qué và một nồi cá kho xì xằng...
Ấy thế mà từ đầu tháng Chạp, nhà chẳng có lúc nào rỗi rãi. Vấn đề quần áo Tết đã giải quyết xong xuôi từ cuối tháng Một rồi - vì sợ để đến gần Tết mới lo thì không có người nhận may - người vợ ngày nào cũng dậy từ tinh mơ đi chợ để bắt đầu mua các thứ đồ nấu cất sẵn một chỗ, vì sợ đến rằm tháng Chạp mới mua thì đã kém ngon mà lại đắt. Hầu sì, bong bóng, bào ngư, bột ngọt, măng tây, vây cá... tất cả những thứ đó cất sẵn cả vào trong chạn. Tuy vậy, cũng chửa yên tâm. Nhiều khi sực nhớ ra điều gì lại lấy cuốn sổ ra ghi.
- Phải thế mới được. Dạo này em nói trước quên sau, hỏng quá.
Này, còn phải mua mấy cái tranh gà lợn và hai ông “Tiến tài, Tiến lộc” để dán ở hai cánh cửa chính này; mua một hộp thuốc đánh đồ đồng này; lên trên phố Lò Rèn lấy hai con dao gọt thủy tiên đặt đánh này; mua thêm mộc nhĩ để gói giò thủ này... À, nếu em quên, anh nhớ nhắc nhé: mai, thể nào cũng phải xuống ông Cả ở Khâm Thiên xin một ít lan chân cua về trồng.
Ở Hà Nội, đến Tết, nhà nào cũng phải có một cành đào hay cây mai, một chậu cúc, cụm hồng nhung hoặc một cặp đỗ quyên có hoa nở đỏ chói để cho vui nhà vui cửa; nhưng có những nhà đặc biệt quan niệm rằng Tết mà không có hai chậu lan chân cua để trưng bày thì cái Tết kém hẳn phần rực rỡ. Bởi thế năm nào cứ vào đầu tháng Chạp, người vợ cũng tự tay trồng hai khúc xương rồng vào hai cái chậu sứ Giang Tây rồi lấy con dao nhọn khía cây xương rồng ra để ghép những cánh lan chân cua vào cho lan hút lấy nhựa xương rồng mà sống. Ghép lan như thế, phải làm từ đầu tháng Chạp. Chừng một tuần, những lá lan trông như chân con cua bể căng nhựa, tươi lên trông thấy, và thường thường vào cuối tháng Chạp thì hoa nở sum sê, đỏ chói - nhưng đỏ một màu đỏ đặc biệt, nửa như màu chu sa mà nửa lại như màu cánh sen.
Người chồng vụng chân tay, chịu chết không thể làm được công việc đó, đành là phải đứng ở bên cạnh để xem có đỡ đần được việc gì chăng. Tủ chè sập gụ và bộ sa lông bằng gụ cẩn đá hoa đánh bằng xi không được, phải đánh bóng bằng lá chuối khô, đồ đồng đánh bằng tro và trấu, đã lau sạch rồi mới bôi thuốc đánh đồng; sàn gạch cứ đổ dầu lạc một đêm rồi lau đi, đợi đến hai mươi chín, ba mươi cọ bằng nước thì mới bóng; mi môn, quần màn đem phơi sẵn một vài nắng chứ không thì mốc đấy. Lăng ơi, con xem giùm mẹ cái tranh “Đông Phương Sóc ăn trộm đào” cuộn lại cất ở đâu, lấy xuống phơi nhân thể để nay mai treo ở ngoài phòng khách nhé.
Bao nhiêu màn ở bàn thờ đã thay hết rồi, còn cái mâm ngũ quả nhớ đem rửa sạch, Khanh ơi! Còn Khoái, con nhớ hai cái đèn lục lăng treo ở hai bên bàn thờ Phật, phải hạ xuống rửa các miếng kính bằng xà phòng chứ cứ lau không, không sạch. Ấy đó, quanh đi quẩn lại chỉ rặt những công việc vặt như thế mà hết cả ngày. Hết cả ngày mà cũng không hết việc. Cứ vào khoảng mồng mười trở đi, người vợ lại phải thức khuya để quét dọn bàn thờ, bày biện lại mấy bộ đồ trà, mấy bình rượu thúy lục, thúy hồng bày ở trên đầu tủ rồi đem hộp mứt ra rửa, cắt những miếng trang kim để bày dưới những miếng kính ở cơi trầu, rồi ra sân vặn đèn thay nước của từng cốc, uốn lá và lấy những cái tăm tách những cái giò thủy tiên ra để cho đừng chạm nhau. Nhiều khi đến lúc ấy thì người chồng đã chợp được một giấc ngắn rồi. Nhìn xuống nhà thấy còn đèn, biết là vợ chưa đi ngủ, người chồng đằng hắng rồi xuống thang, nhăn mặt:
- Làm gì mà đến giờ này vẫn chưa ngủ?
Biết là chồng khó tính, người vợ cười:
- Em sắp xong đây. Chỉ còn một tí nữa thôi: em để chậu thủy tiên này ra sân cho có sương rồi lên ngay đây mà.
- Một giờ hơn rồi đấy. Em cứ thức thế này ốm mất. Đã bảo cái tục ăn Tết phiền lắm, phải giản tiện đi một chút, cứ theo đúng thủ tục thì theo làm sao cho được.
Ngọn đèn đêm bật lên rồi, gian phòng ngủ chìm vào trong một bóng tối xanh biêng biếc. Bấy giờ người vợ mới thủ thỉ bên tai chồng:
- Thì em cũng muốn giản tiện lắm đấy chứ, nhưng cũng chỉ giản tiện được có chừng thôi. Tết mà không trang hoàng một tí cho vui cửa vui nhà và sắm sửa lệ bộ mỗi thứ một tí, lòng nó không yên, anh ạ.
Có lẽ là vì từ bao nhiêu đời nay tổ tiên mình, rồi đến ông cha mình tin tưởng, rồi đến mình đây tin tưởng là đất đai cũng như sinh vật, ngưng hoạt động trong những ngày cuối năm, lại bắt đầu sống lại, với sự trở về sắp tới của khí ấm. Từ quan niệm đó, người ta vui mừng trông đợi lúc cây cối và muôn vật trở lại cuộc sống bình thường và ao ước năm mới phải có một cái gì mới, một tiến bộ mới.
Người nông dân ao ước sản xuất nhiều, người thị thành ao ước khôn ngoan hơn, giàu có hơn, trưởng thành hơn. Bao nhiêu thù oán xếp lại, tình đoàn kết được đề cao, sự lo buồn lộn xộn quẳng đi một xó. Người ta thăm hỏi nhau, kiêng mắng chửi chó mèo, kiêng hốt rác, rồi trồng nêu, vạch vôi vẽ cung tên, chẳng qua chỉ là để hy vọng năm sắp tới bản thân mình, gia đình mình, làng nước mình sẽ khôn ngoan hơn, khỏe mạnh hơn, sinh sản nhiều hơn. Người ta chúc mừng nhau, cầu Trời khấn Phật, chỉ là để xin các sức huyền bí viện trợ cho mình. Sự hoang đường mê tín thường phát xuất từ một nhu cầu thực tế. Không theo như thế thì không yên dạ. Không yên dạ vì sợ rông, vì sợ xúi quẩy cả năm, mà không yên dạ còn vì sợ việc này hay việc nọ trong năm sẽ không được bằng năm cũ.
Em nghe thấy nói trước đây, ở chợ Đồng (Hà Nam), chợ Phủ Giầy (Nam Định), có những người đến phiên chợ cuối năm thường cố mang một thứ hàng, bất kỳ nhiều ít, bất kỳ tốt xấu đi bán, chỉ mong bán chạy chứ không mong lấy tiền. Bán như thế là bán cái xúi quẩy của năm cũ đi.
Cũng vậy, ở Nghệ Tĩnh trở vào Thừa Thiên ngày trước cũng có tục đến phiên chợ Tết thì đem đồ đi bán và rao “Có ai mua dại ra mua” và không cần bán mà cũng không cần ai trả lời mua hay là không mua.
Tất cả những tục lệ ấy, truy tầm ý nghĩa sâu xa của nó, chỉ là biểu hiện nguyện vọng của dân tộc muốn cho mọi sự trong năm mới phải hơn năm cũ.
Em thiết nghĩ nếu ta có chỉnh trang nhà cửa, mua bán sắm sửa cái này cái nọ, cho cửa nhà vui vẻ chẳng qua cũng chỉ là theo truyền thống của dân tộc, lập lại cái nguyện vọng chung của dân tộc, nếu không có lợi thì cũng chẳng có gì là hại.
- Nhưng mà mệt mỏi, bận rộn, ốm người!
- Đó là ý nghĩ của anh, chứ em thì thấy mình có bận rộn mấy ngày này thì đến Tết nghỉ ngơi, mình mới càng thấy sự nghỉ ngơi thanh thản là quý báu. Anh bảo người ở xa nhà xa cửa đến Tết lôi thôi lếch thếch vợ con kéo về quê ăn Tết còn mệt mỏi và tốn kém đến đâu, sao mà họ vẫn cứ về quê ăn Tết? Không về là không ăn Tết, không ăn Tết thì không thể yên tâm được. Có ai bắt buộc họ đâu, nhưng họ cứ về, vì cách gì trong một năm họ cũng phải trở về nhìn lại bàn thờ, ngôi mộ, cây cau, cúng ông bà, thăm họ hàng làng nước một lần, mà lần đó phải là ngày Tết. Về quê ăn Tết, đối với tất cả người Việt Nam tức là trở về nguồn cội để cảm thông với ông bà tổ tiên, với anh em họ hàng, với đồng bào thôn xóm; về quê ăn Tết tức là để tỏ cái tinh thần lạc quan ra chung quanh mình, tỏ tình thương yêu cởi mở và biểu dương những tinh thần, những kỷ niệm thắm thiết vì lâu ngày mà quên đi mất.
Riêng cái quan niệm về Tết đó đã cao thượng lắm rồi, nó khác hẳn đạo Phật, đạo Lão, nó không tách ra khỏi cuộc sống mà lại đi vào cuộc sống, dựa vào cuộc sống mà vươn lên, nó thực tiễn và tiến bộ, anh ơi, mình chỉ thông cảm sơ sơ cũng đã thấy khỏe rồi. Thú thực với anh, em không thấy mệt một phút nào và em nói thẳng là em yêu Tết, mong Tết y như lúc em còn nhỏ vậy.
Chẳng lẽ em của anh yêu Tết, thích Tết, ham sắm Tết và trưng bày ngày Tết, anh yêu lại ngăn cấm em sao?
Nghe vợ nói thế, người chồng ớ người ra, không còn biết nói năng sao. Ờ thôi, em muốn làm gì mặc, nhưng có mệt mỏi, đừng than phiền đấy! Nhưng cùng lúc nói câu ấy, người chồng thấy vợ đột nhiên đẹp trội hẳn lên, y như thể một thiên thần. Nghĩ cũng kỳ: ăn thì khểnh, ngủ thì ít, mà làm sao trong những ngày gần Tết, vợ mình lại nhanh nhẹn hơn, đôi mắt sáng hơn mà má cũng hồng hơn? Người chồng cảm thấy rõ rệt như thế; hơn nữa, trong những buổi chiều theo vợ đi chợ Mới Mơ, chợ Bằng, chợ Ô Cầu Dền, chợ Đồng Xuân, chợ Đần, chợ Ngăm, chợ Đệp... đông quá, chen chân không được mà sao vợ mình cứ đi dẻo quẹo, không tỏ vẻ gì mệt mỏi, dừng chỗ này mua một thứ, rẽ ra dãy kia mua thứ khác, ôm đồm trăm thứ mà vẫn cứ tươi như thường.
Đất thì lầy lội, người thì đông, chen chúc xô đẩy ồn ào, mình mệt muốn đứt hơi, đứt ruột mà cứ phải đi theo xách làn mây lẽo đẽo, lắm lúc muốn thở hắt ra đi về; nhưng nghĩ thế mà thôi, chớ chợ Tết có một sức hấp dẫn hết sức kỳ lạ, muốn về nhưng lại cứ muốn đi, đi để xem thiên hạ mua bán, đi để xem bao nhiêu cái ngon, cái đẹp của quê hương, đi để xem... chợ Tết.
Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc,
Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon.
Vài cụ già chống gậy bước lom khom,
Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ.
Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ,
Hai người thôn gánh lợn chạy đi đâu.
Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau,
Sương trắng đổ đầu cành như giọt sữa.
Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa,
Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh.
Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh,
Người mua bán ra vào đầy cổng chợ.
Con trâu đứng vờ dim hai mắt ngủ,
Để lắng nghe người khách nói bô bô.
Anh hàng tranh kĩu kịt quẩy đôi bồ,
Tìm đến chỗ đông người ngồi giở bán.
Mấy thầy khóa gò lưng trên cánh phản,
Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân.
Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm,
Miệng lẩm nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ.
Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ,
Nước thời gian gội tóc trắng phau phau.
Chú Hoa man đầu chít chiếc khăn nâu,
Ngồi xếp lại đống vàng trên mặt chiếu.
Áo cụ Lý bị người chen sau kéo,
Khăn trên đầu đương chít cũng tung ra.
Lũ trẻ con mải ngắm bức tranh gà,
Quên cả chị bên đường đang đứng gọi.
Mấy cô gái ôm nhau cười rũ rượi,
Cạnh anh chàng bán pháo dưới cây đa.
Những mẹt cam đỏ chói tựa son pha,
Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết.
Con gà trống mào thâm như cục tiết,
Một người mua cầm cẳng dốc lên xem.
Chợ tưng bừng như thế đến gần đêm...
Không nhớ nhà thơ nào đã tả chợ Tết như thế nhỉ! Mệt quá, anh ta cũng chẳng buồn nghĩ xem là ai nữa, thì vừa lúc ấy vợ lại từ dãy hàng hoa quả xách một cặp gà sống thiến bảo mình ngồi canh để còn đi mua thêm mấy chục cam sành nữa rồi về.
Ngồi trên cái ghế dài thấp lè tè, làm một khói thuốc hãm với nước trà tươi nóng, người chồng lại lim dim con mắt nhìn qua làn khói thì thấy người lố nhố đi lại y như trong một bức phim màu vậy. Cái yếm sồi của cô gái quê khéo đa tình lại đeo một lá bùa vàng; chiếc quần là ống sớ của chàng trai chống chiếc gậy tre làm nổi bật cái áo tam giang của cô gái bán dừa; ông thầy bói chít khăn nhiễu nước dưa có nhìn thấy quái gì đâu mà sao cứ nghển nghển trông vào những bức câu đối đỏ của ông đồ bán chữ? Đây là tiếng ới, đó nọ câu cười; mấy ông lái trâu nói thứ tiếng gì mà nghe như tiếng xạ phang, còn các bà bán cây sao hôm nay ăn trầu tươi thế? Nhưng tất cả... tất cả đều thua hai chị em cô hàng bán chiếu cạp điều cười đã xinh, ăn nói lại tình, ô hay, sao chiếu chất cao gần nóc chợ mà mình lại thấy như có hoa nở ở chung quanh?
Thì ra chợ Tết có một sức hấp dẫn kỳ lạ thật: nhìn vào cái gì mình cũng thấy đẹp, trông người nào mình cũng thấy tươi, thấy cái gì mình cũng muốn mua. Cái ống bương cắt chéo góc, ngày thường ai mà thèm để ý, ấy thế mà mình cũng muốn mua để về trồng mấy giò lan “đồng tiền”; cái chút chít bằng đất ra cái chết gì, ấy thế mà mình cũng muốn mua cho trẻ vì bây giờ ở phố phường không có bán, mà cả đến hai chị em cô bán chiếu nọ mình cũng muốn mua luôn đem về vì ngộ quá, y như thể một cặp búp bê Nhật Bản. Nhưng mà nghĩ một cách tội lỗi thế thôi, và chỉ tán láo tán lếu tí thôi, chớ đâu dám đi sâu quá...
Phải chi đây là “phiên chợ cưới” thì mình đâu có ngán.
Phiên chợ cưới... Phiên chợ cưới... Ờ phải rồi, nhớ lại lúc vợ chồng chưa lấy nhau, người chồng rộng cẳng thường vẫn bỏ nhà đi ăn Tết lang thang, có khi ở nhà con hát đàn, có khi ở một vùng quê, lại cũng có khi ở một vùng sơn cước. Anh ta nhớ có một năm lên vùng Tam Đảo chia tỉnh Vĩnh Yên với Thái Nguyên, anh đã đi một phiên chợ đặc biệt của đồng bào người Mán ở mấy tỉnh Vĩnh Yên, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Phú Thọ, phiên chợ cưới. Chợ cưới họp vào ngày hai mươi nhăm tháng Chạp tại xã Tam Long, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Yên, ở ngay cổng làng Tam Long, giữa cánh đồng, bên một con sông đào nhỏ nước trong văn vắt.
Từ mười giờ sáng đến năm giờ chiều, các trai gái, hoặc là đi một mình hoặc là cùng đi với bà con thân thích, kéo nhau đến chợ - nơi mà ngày thường mấy xã ở quanh vùng vẫn họp nhau buôn bán. Nhưng hôm nay thì một con cá, một lá rau cũng không có, vì đồng bào ở đây đã mua bán xong xuôi từ mấy hôm trước rồi. Hôm nay, trai gái ăn mặc tề chỉnh, đến đây là để giao duyên và tình tự với nhau. Có cặp thề sông hẹn núi; có đôi ước hẹn một ngày chồng vợ vuông tròn; lại có những tình nhân trao đổi cho tình nhân những món quà kỷ niệm. Khe suối, bụi tre, đồi cây, bờ ruộng, chứng kiến bao nhiêu mối tình thơ mộng, dường như cũng rung động một cách khác thường, tươi lên một cách khác thường. Những cái phá sặc sỡ, những cái khăn, những đôi hài sảo thêu xanh viền đỏ với bao nhiêu hoa tai bạc, vòng cổ vàng, vòng tay đen, vòng chân tím giao hoan với mây ngàn trắng màu bạc cũ, gió núi biêng biếc màu bằng lăng làm cho phiên chợ cưới và bao nhiêu cảnh vật ở chung quanh có một vẻ huyền ảo lung linh như một buổi quần tiên đại hội trong một thửa vườn thần thánh trên Thiên Đình.
Phiên chợ cưới... Chớ sao? Tiên cũng lấy nhau chớ đâu chỉ có người phàm trần mà thôi. Cô sơn nữ và chàng trai vùng Tam Đảo quanh năm vất vả vì ma chay, giỗ chạp, nuôi trâu bò, gà lợn và đi rừng cắt đông trùng hạ thảo, mộc nhĩ, hái lá kim giao, quên làm sao được phiên chợ cưới cuối năm; hết năm nọ đến năm kia, bọn này thành vợ thành chồng thì bọn khác lại kế tiếp đi chợ cưới Tam Long để gắn bó keo sơn, kết nên những cuộc ân ái đẹp như trăng thu, trắng như tuyết núi.
Thả hồn về chợ Tết ở Kinh, người chồng tiếc không biết bao nhiêu là cái đẹp đã qua và cảm thấy tức bực con người ở đây sao vất vả tấm thân vì nhiều thứ phù hoa quá. Năm hết Tết đến rồi, mình lì đến mấy đi nữa cũng cứ là thấy sốt ruột vì nhiều công việc chờ đợi quá. Hôm qua, vợ đã gióng lên là nhớ việc gì thì phải làm ngay, chớ để dồn lại đến ngày chót, làm sao cho kịp: lần này về, cách gì thì cũng phải lo “gửi Tết”. Mình là ngành thứ phải đem đồ lễ đến nhà gia trưởng: gà vịt, hoa quả, vàng hương; những ngành trực thống phải “gửi” vàng hoa; còn những ngành khác thì dùng vàng hồ hoặc vàng lá. Vàng hồ là một thứ vàng gốm, một phần ba những thoi vàng ở lớp trên làm bằng giấy bồi vàng, còn hai phần ba lớp dưới là những thoi bạc làm bằng giấy bồi trắng có dính mặt kính, trang kim. Vàng hoa làm toàn bằng giấy màu vàng, cũng có dính mặt kính, trang kim như vàng hồ nhưng nhiều hơn, tượng trưng cho vàng thoi, do đó mỗi nghìn vàng là một nghìn thoi nhỏ. “Gửi Tết” nhà gia trưởng mà không có vàng, không được.
Gửi Tết rồi lại còn phải lo biếu Tết. Bao nhiêu bạn bè, thân thích xa gần buôn bán, giao thiệp với mình, làm ơn làm huệ cho mình, nhất thiết phải moi trí óc ra mà nhớ cho kỳ hết để đem đồ đến biếu. Biếu như thế không phải là đút lót, mà chỉ là để tỏ cái tinh thần thương yêu, cởi mở, thực thi quan niệm “thêm bạn bớt thù”, san bằng những mâu thuẫn để cho người ta có dịp biểu thị những tình cảm, những ý niệm thắm thiết mà người ta không biểu thị được trong những ngày thường trong năm phải làm ăn vất vả, đầu tắt mặt tối không có thời giờ viếng thăm nhau, trò chuyện với nhau lâu.
Xong được mấy công việc đó thì cũng đã đến rằm, mười sáu rồi. Đến cái ngày ấy, anh thấy thời giờ đi nhanh một cách tệ hại. Dù anh lơ là với Tết cách nào đi nữa, anh cũng cứ thấy tim anh rộn ràng lên, anh không biết phải làm việc gì trước, việc gì sau và anh thấy rằng mặc dầu là bỏ giấc ngủ trưa, những ngày cuối năm ấy quả là đi nhanh quá, nhanh như “bóng câu qua cửa sổ” - cái danh từ rất sáo mà lúc nhỏ anh vẫn viết trong tờ “com-pờ-li-măng” đọc chúc mừng thầy giáo trong buổi học tất niên viết trên một tờ giấy rất trắng vẽ một bó hoa buộc bằng một cái băng tam tài!
Thì ra mình trách vợ bận rộn về Tết, ốm cả người, mà chính mình từ rằm tháng Chạp trở đi cũng bận rộn, vất vả y như vợ vậy. Cái việc mua giấy hồng điều rắc vàng để nhờ ông Cả Nam viết câu đối dán ở cột trước cửa và ngoài sân; cái việc mua trầm để đốt trên bàn thờ; cái việc đi chọn pháo Công Tường Cát để đốt đêm giao thừa và ba ngày Tết, nhất định mình không đảm trách thì không được. Cũng không được, nếu sắm sửa Tết tàm tạm xong xuôi mà mình lại không cùng với vợ đi thăm mộ gia tiên nội ngoại để viếng các cụ, đắp lại mộ các cụ và thắp nhang mời các cụ về ăn Tết với con cháu trong nhà. Trước đây, làng Đáp Cầu, huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh có cái lệ đi thăm mộ gia tiên hàng năm ấn định vào ngày ba mươi tháng Chạp nếu là tháng đủ, hay hai mươi chín nếu là tháng thiếu. Nhiều làng khác cũng theo như thế. Nhưng sau này, đời sống xô bồ, có thay đi chút ít, người thành thị đi thăm mộ ông bà cha mẹ sớm hơn một chút, có khi trước ngày ông Táo lên chầu Trời, có khi sau vài ngày.
Thực tình, cái giống nhà văn, nhà báo có lúc đáng yêu thật, nhưng có một vài khi cũng làm cho đàn bà bực cả mình. Cái gì lại đem cả ông Táo ra chế nhạo là "đội mũ đi hia chẳng mặc quần"? Cái gì lại đề nghị bỏ tục lễ ông Táo mà cho như thế là dị đoan? Cái gì mà năm nào cũng nhạo ông Táo "lập bô" lên với Trời về các việc xảy ra dưới trần?
Muốn nói gì thì nói, người vợ, đúng ngày hai mươi ba tháng Chạp, cứ phải đủ lệ bộ lễ tiễn ông Táo lên Trời thì mới yên lòng.
- Mình là người trần mắt thịt, biết thế nào là dị đoan hay không dị đoan, biết thế nào là Tây phương có lý hay Đông phương có lý? Ai bảo phản khoa học em chịu, mà ai bảo cái tục này do quan lại phong kiến đặt ra để ngu dân, lại cũng chịu luôn; nhưng lễ tiễn ông Táo vẫn cứ lễ tiễn như thường vì không làm như thế thì em ăn Tết không ngon. Tội gì mình lại khổ thân mình như thế?
- Nhưng mà nó buồn cười, em ạ. Tiễn một ông vua bếp cưỡi ngựa cá chép lên chầu Trời, còn có cái gì nực cười bằng!
- Nói như thế, thật hay, thật đúng. Nhưng mà ta cũng nên biết rằng ta thờ kính ông Táo có phải là ta thờ kính cái ông vua bếp cưỡi cá chép lên chầu Trời đâu! Cũng như ta trồng nêu, vẽ vôi bột, gói bánh chưng, dọn cửa lau nhà, kiêng cữ chửi mèo mắng chó, ta tiễn ông Táo là để chứng tỏ tính chất đồng nhất của xã hội, vì biết ăn Tết tức là tầm mắt ta đã vượt được cái tổ chức thị tộc bộ lạc chật hẹp để sống với nhau rộng rãi hơn trong sự đoàn kết của nhiều thị tộc bộ lạc thống nhất với nhau về quan niệm, nghi lễ cũng như về thời gian.
Đấy là lúc tổ chức gia đình đã có cơ thay thế cho tổ chức thị tộc. Sự thờ cúng ông Táo và sự tiễn đưa ông Táo lên Trời hôm hai mươi ba tháng Chạp chứng tỏ rằng người mình lúc ấy đã tổ chức thành gia đình nhỏ, mà cái bếp của ông Táo là tượng trưng cho gia đình, cái bếp là đơn vị nhỏ nhất của xã hội. Cái gia đình ấy, cái đơn vị ấy đồng nhất từ Bắc vào Nam cho nên không có kẻ nào chia rẽ được Nam với Bắc.
Nếu bảo tiễn ông Táo là mê tín dị đoan thì cả nước ta đoàn kết ngay cả trong sự dị đoan, mê tín: ông Táo ở Bắc, hôm hai mươi ba tháng Chạp, lên chầu Trời cưỡi một con cá chép thì cũng ngày ấy ở Trung, ông Táo cưỡi một con ngựa yên cương chĩnh chạc, còn ở trong Nam thì giản dị hơn, đồng bào ta cúng ông một cặp giò - cặp hia để cho ông đi lên Thiên Đình cho lẹ!
Người chồng đùa dai, chọc nữa:
- Người ta bảo ông Táo tham nhũng lắm, chẳng biết có đúng không? Ai mà lễ ông chu đáo, ông tâu tốt, ai không có gì, ông truy...
- Đấy là nói đùa. Nhưng nếu căn cứ truyền thuyết mà bàn thì ông Táo nếu ăn tiền có muốn tâu bậy cũng không thể được. Là vì - lại theo thần thoại - các cụ ngày xưa chống tham nhũng triệt để chứ đâu có như bây giờ. Anh quên mất rồi ư? Tháng Mười ta có lễ Song Thập là ngày lễ gần cuối năm, có tên là Hạ Nguyên.
“Đó là theo tục lệ nhà Phật.
“Nhưng theo truyền thuyết thì ngày song thập, tức là mồng mười tháng Mười, trên Thiên Đình, Ngọc Hoàng Thượng đế sai một sứ thần là Tam Thanh xuống kinh lý trần gian để kết toán những điều lành hay dữ trong một năm qua để làm biên bản tâu lên Ngọc Hoàng minh xét. Vì thế vào ngày ấy, dân chúng lập bàn thờ hương án để rước điều lành, tránh điều dữ trong dịp thăm viếng của sứ thần Tam Thanh, đồng thời sửa cơm canh cúng ông bà cha mẹ qua đời và cầu Trời Phật phù hộ cho mạnh khỏe, ăn nên làm ra, tai qua nạn khỏi.
“Như vậy là trước ngày ông Táo lên chầu Trời hai tháng thì đã có một phái đoàn điều tra xuống dưới trần để xem xét tình hình rồi, các ông Táo của các gia đình gan có bằng gan cóc tía cũng không dám khai gian nói bậy.
Nói câu này, nhất định có người sẽ bảo là mình nịnh vợ, nhưng có thế nào cứ nói thế, không sao: tôi thích nghe những truyện truyền kỳ như thế, nhưng từ buổi di cư vào miền Nam ít được ai nói tới thành thử lắm khi cũng nhớ, mà đời hình như cũng kém thơ mộng đi một chút. Có lẽ cũng chính vì thế mà ăn mười tám, mười chín cái Tết ở đây, vào ngày ông Táo chầu Trời, không thấy ai cúng cá chép, mình có khi cảm thấy như nhớ cái gì đẹp lắm mà mất đi không còn thấy nữa. Tôi nhớ Bắc Việt vào những ngày hai mươi ba tháng Chạp, tiễn ông Táo lên Thiên Đình, cái không khí nó khang khác chớ không như thế này... Từ sáng tinh sương, chưa bước chân xuống giường, tôi đã nghe thấy rao ơi ới ở khắp các nẻo đường: "Ai mua cá ông Táo không?", "Cá ông Táo không nào?". Nghe như thế, tự nhiên lòng mình bỗng nao nao vì biết rằng có cá ông Táo là sắp đến Tết rồi. Không thể nào nằm được nữa. Mình ra xem thì thấy những bà bán hàng gánh hai cái thúng sơn đi vắt vẻo đôi tay, như chạy, để bán vội cho hết hàng, kẻo còn phải về sớm để sắm sửa tiễn ông Công lên chầu Trời tâu việc hàng năm của mỗi gia đình. Ông Công đó là thần Trương Đàn hay Tử Quách, chỉ phụ trách riêng về việc bếp núc, còn Thổ Địa trông nom việc nhà, Thổ Kỳ có nhiệm vụ coi về chợ búa và tăng gia sản xuất cho đàn bà.
Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ là ba nhân vật trong truyện truyền kỳ "hai ông một bà" mà dân gian đều biết: hai ông là Trọng Cao và Phạm Lang, còn một bà là Thị Nhi cùng chết trong một đống rơm. Để kỷ niệm ba người cùng chết một lần vào ngày gần Tết, dân chúng làm cái bếp ghép bằng ba hòn gạch đều nhau bắt góc. Ở giữa, có để một hòn đá: đó là tên đầy tớ xông vào đám cháy để cứu chủ không được mà cũng bị chết lây. Thường thường, ai cũng tưởng lễ tiễn ông Táo là ngày lễ cuối cùng trong một năm, thật ra sau đó hai ngày còn lễ tiễn ông vải, lễ tạ trường và lễ tất niên.
Trong lễ tiễn ông vải, người ta đem hết cả những chân nhang trong bát hương đốt quanh năm ra đổ xuống sông hồ hay đốt đi và thay tro khác vào bát hương. Nhân lúc con cháu dọn dẹp, bày biện lại bàn thờ, ông vải thừa dịp đi chơi vài ngày để chờ lễ giao thừa lại trở về ăn Tết với con cháu trong nhà.
Ít lâu sau này, lễ tạ trường đã bỏ vì chữ Hán hết thời, nhưng lễ tất niên thì vẫn giữ nguyên cò bay ngựa chạy từ đồng ruộng đến thị thành: đúng ngày ba mươi tháng Chạp, dân chúng làm cỗ ăn mừng và gọi là cỗ tất niên. Ăn xong bữa cỗ này buổi sáng, đến mười hai giờ đêm là lễ giao thừa đánh dấu lúc hai năm mới cũ giao tiễn nhau, pháo nổ đì đùng, thiên hạ lũ lượt kéo nhau đi lễ đầu năm hái lộc.
Em ở mình đây, trời nắng lắm
Sài thành không biết có xuân sang.
Xuân này xứ Bắc ra sao nhỉ,
Đào có hây hây? Cúc có vàng?
Câu đối có còn ôm đỏ cột,
Nêu dài tiếng khánh có khua vang?
Nói đến Tết ở miền Bắc thì trăm nhớ nghìn thương, chớ đâu chỉ có đào, câu đối và cây nêu như nhà thơ xa cố quận nhờ nhạn đưa thư về hỏi thăm chị Trúc? Nằm ở nơi đây là đất mà có người ca ngợi là mỗi khi Tết đến "dưa hấu chất cao hơn nóc chợ", người xa nhà nhớ nhất cái mưa xuân bay nhè nhẹ như hôn vào môi, vào má người ta, thay thế cho cái mưa phùn đem buốt lạnh thấm vào da vào thịt; nhớ những con đường hoa láng láng, thơm thơm như có bàn tay ai lau rửa thay thế cho cái lầy lội, ướt át kéo dài từ tháng Một sang đến thượng tuần và trung tuần tháng Chạp; nhớ những hoa mận, hoa đào đú đởn múa may trước gió hiu hiu thay thế cho những cành khô nghèo nhựa nằm chết chóc trong giá rét trước ngày đông chí.
Tài thế, lập xuân rồi là thời tiết đổi thay liền! Thảo nào sách Thích Danh giải nghĩa Xuân tức là xuẩn, nghĩa là cựa động, muôn vật đến mùa xuân ấy cựa động mà sống dậy. Người đàn bà Trời đã cho đẹp, lập xuân rồi tự mình cũng thấy mắt biếc hơn, má hồng hơn, ngực tròn hơn và cảm thấy như nhấp một thứ men nồng làm cho lòng phơi phới.
Đêm qua hoa nở nhị vàng,
Sáng ngày thiếp thấy bóng chàng áo xanh.
Chàng áo xanh về quê ăn Tết thấy cô gái đa tình, mấy mà không thấy lòng rạo rực thương yêu và thốt ra lời tình tứ:
Vườn em có choẻn cau non,
Nhà anh có chiếc cơi son đợi chờ.
Thậm chí đến bậc lão đại, bạc cả mái đầu, thấy hoa xuân hé miệng ra cười cũng cảm như thấy con tim muốn nói lên những lời yêu thê thiết:
Ai ơi, chơi lấy kẻo chầy
Xem hoa bốn mắt đi giày ba chân.
Yêu tháng Chạp không biết bao nhiêu, nhưng yêu nhất là những ngày giáp Tết, thời tiết sao mà đĩ thế, con mắt tấm lòng sao mà đong đưa thế, lời nói, tiếng chào sao mà duyên dáng tơ mơ thế.
Tôi yêu hết và tôi nói là tôi yêu hết: yêu ngọn cỏ gió đùa, mây trôi lãng đãng, ngọn núi đồi sim, nhựa cây mạch đất, yêu con sâu cái kiến nằm co ro trong tổ bấy giờ trỗi lên tìm lá mới hoa non, yêu cô gái mặc quần lĩnh hoa chanh lại cài một cánh hoa hồng trên mái tóc, yêu con bướm đa tình bay lượn trên giàn hoa thiên lý, cái áo nhung xanh nổi bật lên trong vườn quýt đỏ, cam vàng, trông mới lại càng yêu những giọt mưa bé tỉ ti đọng lại trên nhung mướt làm cho người đẹp óng a óng ánh như thiên thần trong mộng. Cũng may mà cứ vào tháng Chạp, ở đây, thỉnh thoảng lại có những đêm xanh gió thổi hiu hiu làm cho người thức khuya cảm thấy da tê tê, lành lạnh mà nghe như thấy Tết đến xuân về trước ngõ nên cũng nguôi ngoai được phần nào, chớ cứ nắng chói chang, khô héo liền liền thì chỉ thương nhớ mà héo hắt đi, sống làm sao cho nổi.
Tết ở đây thiếu gì vải lụa của Thái Lan, Đại Hàn, thiếu gì đồ ăn thức uống của Nhật, của Mỹ, thiếu gì trái ngon, gái đẹp "lô can", nhưng cơn cớ làm sao mỗi khi có sự giao tiễn đôi mùa thì lòng lại hướng về quê cũ xa xưa, mơ lại ngày nào cùng vợ đi mua đôi ba chậu cúc vàng, quất đỏ, rồi về ăn quấy quá cho xong để lại đi ù lên Ngọc Hà mua mấy cánh mẫu đơn về để cắm bình, không quên vài tấm giấy đỏ để gói tiền mở hàng cho trẻ, một chai Mai Quế Lộ hay Sử Quốc Công, hai vợ chồng đi dưới mưa riêu riêu dặn nhau phải nhớ mua một hộp trà Thiết Quan Âm vỏ thiếc và xẻ vài chai rượu nếp cẩm hạ thổ từ tháng Tám!
Nhớ lại như thế thì quên làm sao được vào những ngày hai mươi bốn, hai mươi lăm vợ thức từ bốn năm giờ sáng, khoác một cái áo lạnh trên mình ngồi giữa sập sắp xếp các món đồ đem đi biếu Tết những bạn bè thân thiết. Đó là cả một vấn đề phức tạp: hộp trà Thiết Quan Âm vỏ thiếc để biếu ông Long đã đành rồi, nhưng ông Luận hôm qua đã cho rượu, chả lẽ mình lại biếu rượu nữa, thôi hay là biếu cân mứt và chục cam Xã Đoài. Hộp kẹo này đưa sang bác Thanh Châu. Chị Sen ơi, hai hộp trà mạn sen tự tay mợ ướp đây là để dành cho ông Chung, ông Chước. Nhưng đến Nguyễn Dân Giám thì quả là khó nghĩ. Hôm hai mươi ba mới rồi, để đánh dấu tập "Dưới rặng thông" in làm phụ bản số Tết, anh ta sai người làm đội một cái quả to bằng cái nia từ Hàng Cân đến Hàng Da, đầy đủ bún thang, chả quế, giò lụa, nước xuýt, bào ngư, hầu sì, cuốn; bây giờ biết đem biếu gì đây? Ấy, chỉ có thế mà nghĩ mãi không biết làm ăn ra thế nào.
Ôi chao, cứ suy nghĩ vơ vẩn mãi thế này, bực lắm. Người chồng nại cớ đi lấy "cái phong bì" của nhà báo tạ ơn nhân dịp cuối năm, rủ bạn hữu đi ra ngồi "Lơ Lắc" uống lót dạ vài cái "pun sô" và trông mưa bay trên hồ Hoàn Kiếm, ngâm bài thơ điên.
Có linh hồn, tôi đem cho trọn vẹn,
Vốn nhà nghèo, không quen cảnh bán buôn,
Đến những kẻ mới vờ duyên hứa hẹn,
Tôi cũng cho trọn vẹn cả linh hồn.
....
Điên! Điên! Điên! Và say nữa, xin say,
Điên đến chết và say cho đến khóc.
Say thêm nữa! Phút giây điên ngà ngọc!
... Dốc máu buồng tim, giết hồn lấy xác!
Ta cao dâng tế lễ đấng Thiêng Liêng.
Nhạc đâu rồi! Lễ vật sắp đưa lên,
Xin mau nổi cho hồn ta rung động...
Yêu Tết không biết bao nhiêu, nhưng yêu nhất là những ngày hai mươi chín, ba mươi, anh em say suốt ngày, tơ lòng rung động như điên, chè chén ở quán này chưa đã lại sang tiệm khác đập phá ầm ầm. Mà để làm gì? Chỉ là để tỏ rằng mình là những người văn nghệ bị đời bạc đãi nhưng nỏ cần ai cả, mục hạ vô nhân...
Quan niệm đời một cách sai lầm như thế, chúng tôi tuy vậy vẫn tự cao tự đại và thỉnh thoảng lại lên cái mặt sầu đời, bỏ cả lễ giao thừa, đi một mình ở ngoài đường để suy tư, và suy tư mãi chẳng thấy tòi ra cái gì thì tìm một cái gì trác táng để liều thân hoại thể. Thuốc phiện. Trai gái. Rượu chè. Chúng tôi không chê bất cứ một thứ gì làm cho con người sa đọa. Nhiều khi đi đến gần sáng mới về mà vẫn thấy người vợ còn thức với con để xem lại nồi cá kho, gói mấy cái giò gà, thái củ cải, cà rốt để sáng hôm sau nêm vào đồ nấu hoặc vừa quấy một sanh chè đậu vừa ngồi trông nồi bánh chưng luộc ở ngoài sân, người chồng cũng cảm thấy hơi se lòng một chút nhưng lại tự mình tha thứ mình liền, chỉ vì lẽ là ngày Tết, người đàn ông có thể tự cho phép sống ra ngoài vòng kiềm tỏa từ ngàn xưa ấn định, mà cũng là để giải phóng bao nhiêu trói buộc, với hy vọng năm mới sẽ đưa lại nhiều may mắn hơn năm cũ.
Về khuya, bắt tay bạn hữu ra về, đi thơ thẩn trên đường hoa một mình, anh thấy lòng anh cũng căng lên một thứ nhựa như cây cỏ và hình như có những bàn tay bé nhỏ mơn man, trái tim anh lúc ấy đập mạnh hơn vì máu chảy dồn dập và nóng hổi.
Lúc ấy, nhà đã trang trí xong xuôi. Đèn nến thắp la liệt trên bàn thờ. Nhìn vào chỗ nào cũng thấy khói hương nghi ngút. Cây đào và những cánh mẫu đơn in bóng lên tường làm cho anh ngỡ mình đương đứng trước một bức tranh cổ của Tàu. Ở ngoài kia, có tiếng gì nhỏ bé như tiếng sóng xa xa mà lại như tiếng đàn hát của thần tiên, tiếng chuyển mình của sông hồ, của lộc cây, của giàn hoa thiên lý?
Người chồng ngờ đó là tiếng của mùa xuân, nhưng không nói cho ai biết, lẳng lặng mở bình Mai Quế Lộ, rót ra hai cốc nhỏ mời vợ một, còn mình uống một. Thỉnh thoảng, ở ngoài sân lại có tiếng tạch, tiếng đùng: ấy là lúc các trẻ trong nhà bắt đầu "đốt pháo một" tung lên trời. Mùi thuốc pháo thơm thơm bay vào trong nhà, làm cho cả vợ cả chồng hơi ngột, nhưng ngột một cách du dương.
Trong khi ấy, từ xa xa vọng lại tiếng ống bương nện xuống đất đều đều, hòa với những tiếng hát trầm trầm, bổng bổng của những em đi "súc sắc súc sẻ" ca ngợi sự hòa ấm của gia đình "có rồng ấp trên giường cao, có rồng chầu dưới giường thấp" và chúc cho ai nấy "sinh đẻ những con tốt lành, những con như tranh, những con như vẽ", sống lâu một trăm tuổi lẻ mà lại giàu có đề đa, có voi buộc trong tàu, có ngựa giỡn nhau trên cỏ...
Cái Tết đẹp nhất, mê ly nhất chính là ở vào giây phút thần tiên đó. Lát nữa, cúng kiếng trời đất tổ tiên xong rồi, người vợ thoa tí phấn, điểm một giọt hồng lên má rồi bận cái áo nhung màu hoa sim cùng chồng và con mở cửa đi ra đền Ngọc Sơn, rẽ sang đình Hàng Trống, đi lên Hồ Tây, vào đền Quán Thánh lễ giao thừa, rồi người thì cầm cành lộc, người cầm hương lộc, đi thong thả về nhà, sự mê ly còn gấp trăm gấp ngàn lần nữa.
Những đêm như thế thường thức cho đến gần sáng bạch cả nhà mới đi nằm. Là vì về đến nhà, còn bao nhiêu việc nữa chớ đã được nghỉ ngay đâu. Mở cửa vào xông đất lấy. Khoái và Lăng chạy ngay vào buồng khách lấy bánh pháo Điện Quang ròng từ trên mái xuống đốt lấy may; vợ thì lễ sì sà sì sụp; xong rồi cả nhà quay ra ăn uống, nếm thứ này một tí, nếm thứ kia một tí, rồi trò chuyện, rồi lập chương trình đánh tam cúc và rút bất, bắt đầu từ tối mồng hai, rồi chồng mở hàng cho vợ, vợ mở hàng cho con... Ối, cứ thức đến sáng bạch cũng vẫn cứ được đi, nhưng sợ là mai mệt nên hai ba giờ sáng phải đi ngủ cả.
Chẳng biết lũ trẻ đi nằm như thế thì có ngủ được không, chớ người chồng mơ lại lúc mình còn nhỏ, nhớ mang máng rằng giấc ngủ đêm ba mươi Tết chập chờn, không mấy khi ngon. Ấy là tại vào cái thuở thanh bình ấy, pháo đốt suốt cả đêm không ngớt một phút nào, người đi lễ đông nườm nượp, lại thêm có những người có lẽ vì vui quá cứ ngửa mặt lên trời đi ngâm thơ bô bô ở ngoài đường!
Ôi những đêm giao thừa xa xôi, những đêm giao thừa cực lạc, đi không bao giờ trở lại, ta chẳng còn thấy thần thánh xuống trần để vui cuộc đời trần tục, ta chẳng còn thấy Đức Tin ngời lên trong ánh mắt của muôn người... Cố nhân ơi, cố nhân đem theo biết bao nhiêu hương vị đậm đà của kiếp sống khiến cho những giao thừa còn lại chỉ là thừa mà thôi...
... Em ở mình đây, trời nắng lắm,
Sài thành không biết có xuân sang.
Một đêm trăng khuyết đầy thương nhớ,
Đất Bắc xa vời không tiếng vang.
... Ôi, vườn dâu cũ ai cười đó,
Xào xạc bên sông tiếng chợ tàn.
Mưa bay đầy ngõ hoa đào rụng,
Này đã giao thừa pháo nổ ran...
Ờ phải, ở đây pháo cũng nổ giao thừa, nhưng còn đâu là bầu không khí dịu hiền của những ngày trước nữa. Bao nhiêu bè bạn giờ này đây đã về với gia đình. Người chồng cô chích cảm thấy mình lẻ loi, xa vắng hơn cả bao giờ hết, đi tha thẩn một mình trên các đường phố giới nghiêm, thỉnh thoảng lại có bóng một gã công an chìm và cảnh sát cùng quân cảnh bảo vệ an ninh trong bóng tối.
Xa xa, tiếng súng nổ như điên.
Không đâu, năm nào đến Tết cũng ngưng bắn vài chục tiếng đồng hồ: thừa đạn thì nổ thay pháo chớ không phải là đánh nhau, cứ yên tâm uống rượu và tán láo, đừng có sợ! Chao ôi, chơi bời láo lếu như thế, mình lại càng thấy yêu Sài Gòn không biết chừng nào. Có những nhà hàng mở cửa suốt đêm. Có những quán cà phê bày bàn ghế ra hè nhiều gái chơi bời ngồi đợi khách hơn là khách vào uống rượu. Lại cũng có những phòng trà có ca nhạc hai ba giờ sáng mà vẫn có người vào nghe.
Kỳ chưa, thế thì họ không lễ giao thừa à? Họ không kiêng cữ gì à? Họ không cần biết xông đất là gì à? Họ khoa học như Mỹ, không tin dị đoan chăng? Hay là khói lửa và sự chật vật trong cuộc sống đã làm lệch lạc đầu óc họ? Người mắc bệnh sầu thương cố lý, không lệch lạc đầu óc, mà cũng không bài xích dị đoan, ngồi ở đầu ngọn gió lạnh giao mùa, nhìn hàng tiếng đồng hồ vào trong bóng tối đêm ba mươi không nói không rằng, đứng dậy, trả tiền, đi thong thả trên con đường vắng ngắt. Đèn Sài Gòn sáng lắm, nhưng đêm ba mươi tháng Chạp thì ngửng lên trời làm sao thấy được mây lưu lạc, mà tiếng nhạc "sun" ầm ĩ như thế thì nghe làm sao thấy "tiếng sóng nhỡ nhàng ở bến cũ cây đa"?
Đêm ấy, trên căn gác nhỏ leo lét một ánh đèn mệt nhọc, có một người nhớ da diết giao thừa Bắc Việt, ngồi giở những trang sách cũ xem lại những tranh con gà con lợn. Tội nghiệp, sinh vào cái thời loạn, ở ngay trên chính đất nước mình mà không có lấy mấy bức tranh con gà con lợn thực để mà coi, phải giở đồ giả chụp lại đem ra ngắm! Tự nhiên anh cảm thấy có một cái gì làm cho da dẻ tê tê, gờn gợn lạnh. Đã mấy chục năm nay, anh ta không còn được trông thấy những bức tranh gà lợn thực, đưa lên mũi ngửi mùi giấy, mùi mực, mùi màu thực của những bức tranh ấy nữa! Đêm nay, nghe tiếng pháo của nhà ai nổ vang ở chung quanh, người tương tư Bắc Việt không biết làm gì, giở lại những bức tranh gà lợn giả lên coi, cảm thấy da dẻ tê tê, lành lạnh chính là vì anh thấy hiện lên ở trên những bức tranh chụp lại, vẽ lại đó không biết bao nhiêu kỷ niệm xa xưa đã được khâm liệm trong trí óc.
Đó là những kỷ niệm lúc còn nhỏ bé ở căn nhà thấp lụp xụp phố Hàng Gai, còn cụ tổ, còn bà nội, bà ngoại, còn cha mẹ, còn đông đủ anh em chú bác.
Năm nào cũng vậy, cứ vào những ngày cuối năm mẹ tôi đi sắm Tết về cũng mua cho anh em chúng tôi một cuộn chừng chín mười tờ tranh vẽ trên giấy Đáp Cầu, dọc chừng một gang tay rưỡi, ngang chừng bốn gang tay hơn một chút. Những bức tranh ấy mang những hình vẽ khác nhau: hái dừa, gà mẹ gà con, chuột vinh quy bái tổ, Phúc Lộc Thọ, Thần Trà, Uất Lũy, cóc đi học, Ngưu Lang Chức Nữ, Đinh Tiên Hoàng cưỡi rồng v.v... Bức nào cũng xanh đỏ lòe loẹt, bức nào cũng có những nét hóm hỉnh mà ngây thơ, bức nào cũng làm cho chúng tôi thích thú. Và năm nào cũng vậy, anh em chúng tôi cũng tranh giành nhau những bức tranh gà lợn đó, có khi đến đánh nhau; nhưng rút cuộc thì anh em thỏa thuận dán đầy cả lên tường để ngắm chung và làm như thế thì nhà tôi, đương bình thường, vụt hiện ngay ra một quang cảnh Tết vui tươi khác thường, tưng bừng nhộn nhịp không chịu được.
Sau này, lớn lên một chút, đi học Tây, tôi lên mặt hợm, coi thường những tranh ấy và cho là "quê một cục" vì hằng ngày học sử Hy Lạp, tôi thường thấy những bức họa của Gauguin, Léonardo de Vinci... và tôi nghĩ rằng tranh như thế mới là tranh, vẽ như thế mới là vẽ, chớ cứ quanh đi quẩn lại chỉ có mấy chú chuột thổi kèn tàu, Chức Nữ mặt méo xẹo, mà lại có đuôi gà, cóc đi học quạt lò mà cái ấm lại to hơn cóc... thương làm sao cho nổi! Ấy là cái lúc tôi... lai Tây, học sử địa "Nước tôi tên là xứ Gaulle, tổ tiên tôi là người Gaulois" và tôi tưởng rằng cái quan niệm mới mẻ ấy sẽ cứ tồn tại mãi, rồi trưởng thành, rồi già nua trong đầu óc tôi như thế mãi. Hóa ra tôi lầm. Thôi trường ra, đi lang bạt nay đó mai đây, xa nhà cửa ông bà, xa quê hương bác mẹ, cái gì làm cho tôi nhớ nhất, ấy là cái Tết, cái mà tôi không thể nào quên được, ấy là những bức tranh gà lợn.
Kế đó là thời kỳ chè rượu bê tha, nằm ở một cái phòng chật hẹp ở phố Hàng Đồng hút thuốc phiện, bị cả họ khinh khi, nằm bẹp dí trên một cái giường mệt nhọc, hút thuốc tối ngày rồi đợi đến đúng trưa ngày ba mươi thì trở dậy đi mua một cành mai vàng về cắm trong cái cốc dơ và dán ở đầu giường bức tranh "Chức Nữ Ngưu Lang" để mỗi khi hút xong một điếu lại lơ mơ ngắm bức tranh, tự ví mình với Ngưu Lang bị trời đày, chư tiên ở trên trời khinh bỉ "nhưng đây nỏ có cần", một ngày kia làm chuyện lớn, khối anh xúm lại mà nịnh như nịnh Tô Tần ngày trước.
Một thời gian qua đi nữa rồi đến thời kỳ bỏ thuốc, sống với vợ con theo đúng một anh "chân chỉ hạt bột": cứ mỗi khi Tết đến thì vợ, không do ai bảo hết, cũng làm đúng như mẹ mình ngày trước, cứ mỗi khi Tết đến thì lại mua mấy bức tranh gà lợn về để cho con dán lên trên tường.
Thì ra những bức tranh gà lợn đó không phải chỉ hòa đồng với tôi, mà hòa đồng với vợ, với con tôi như thế, có lẽ vì chúng tượng trưng cho tinh thần dân tộc Việt Nam mà chúng tôi không biết. Tường Tết mà vắng những tranh ấy thì cảm thấy nhớ nhung. Tết mà không mua tranh ấy dán lên tường, mình thấy chưa phải hoàn toàn Tết.
Tôi nhớ có nhiều khi cứ suy nghĩ vẩn vơ như thế và nói mãi cho con nghe ý nghĩa những bức tranh gà lợn, mình thành ra bị ám ảnh và đến lúc nhắm mắt ngủ thì nằm mê - mê thấy hiện ra những cảnh chuột đi hai chân như người thật, lợn con lội qua sông, mê thấy Đinh Tiên Hoàng đứng điểm binh như một ông tướng Đức, mê thấy cá chép đi cà kheo lộc cộc trên cầu Thê Húc. Tất cả những thứ đó hiện ra rồi biến đi trong một thế giới kỳ ảo lạ lùng mà người cảm thông với vật, chuyện trò thân ái với nhau chớ không có một tí ti gì là thù ghét...
Thôi rồi, bây giờ còn làm sao mà thấy lại được những giấc mơ thơ mộng như thế nữa, bao giờ mới lại được sống ngày thanh bình mà người ta lấy tay vuốt ve từng cái lá, nương gót chân đi sợ làm đau từng ngọn cỏ, mà cũng đến bao giờ Nam, Bắc mới hết qua phân để cho người ly hương lại được trở lại quê nhà vui dưới mái nghèo, kể lại tình kiều tử mười mấy năm đằng đẵng và cùng nhau nhắc lại hồn quan sơn trong lửa đạn dãi dầu.
Người đàn ông sầu nhớ giao thừa Bắc Việt gục đầu xuống những trang sách cũ, chợp mắt đi lúc nào không biết và y cũng không biết rằng những ý nghĩ vừa hiện ra trong trí óc đều là những ý nghĩ hiện lên trong khi y ngủ. Mệt quá chừng là những phút buồn khổ một mình, không biết than cùng ai, khóc với ai, nhất là chính mình lại biết rằng trong khi buồn khổ như thế thì trăm họ ở chung quanh lại vui tươi - dù là cái vui tươi mù lòa giả tạo, cái vui tươi chửi rủa những người lương thiện bị coi là ngu ngốc vì không biết khuây khỏa trăm sầu ngàn giận mà lại đi sụt sùi thở ngắn than dài.
Cách đây mươi mười lăm năm, đúng như nhà thi sĩ "nấn ná ở nơi xa" đã nói, Sài thành không biết có xuân sang và ăn cái giao thừa không bằng vui cái đêm lễ Giáng sinh. Nhưng bây giờ đã khác: xa xa, có tiếng giày dép người ta đi lễ giao thừa. Súng nổ ầm ầm thay tiếng pháo. Tivi và truyền thanh hát oang oang những khúc vui xuân...
Người khách ly hương cúi xuống đường, nhìn xem cái giao thừa ở đây khác cái giao thừa ở Bắc ra sao thì vừa vặn có một người lê bước trên đường, nhìn một cành mai cầm ở tay mà đưa lên câu sầu xứ:
Nhớ nhà quăng chén rượu,
Thôi rồi, những ngày vui!
Đâu đây rền lửa đạn,
Có tiếng ai sụt sùi...
Vàng bay năm lại hết,
Lại vẫn không giao thừa...
Ới bạn trăm năm cũ,
Hồn ở đâu bây giờ?
TẾT, HỠI CÔ MẶC CÁI YẾM XANH...
Nhưng tại sao cứ đến ngày Tết chẳng ai bảo ai mà thiên hạ cứ tự động kiêng như thế? Kiêng theo tập tục? Kiêng vì mê tín? Hay kiêng như thế thì có may mắn thực?
Tôi không biết. Chỉ thấy rằng ông bà tôi kiêng, rồi cha mẹ tôi kiêng thì đến tôi, tôi cũng cứ theo thế mà kiêng luôn. Và tôi chắc rằng con tôi, cháu tôi, có thể có óc khoa học hơn tôi, nhưng rồi cũng cứ sẽ kiêng như thế.
Lúc ấy, lễ giao thừa đã xong rồi. Giấc ngủ lúc hai ba giờ sáng ngon lành hơn cả bao giờ. Gặp ngày thường thì năm giờ sáng đã có người đi lại ở ngoài đường rộn rã, nhưng sáng ngày mồng một Tết, người ta ngủ muộn mà không sợ ai kinh động giấc ngủ của mình. Bảy giờ, và có khi hơn bảy giờ mới dậy.
Nằm ở trên giường mở mắt nhìn thì thấy cả cái nhà mình mới hẳn ra, cửa vẫn đóng kín mà lại sáng như cái động. Thì ra đèn nến ở trên các bàn thờ để suốt đêm không tắt, nhang vòng vẫn cháy đưa ra một mùi thơm ngạt ngào hòa với hương hoa, hòa với gió đàn của những cánh đồng bao la lùa qua cửa sổ, hòa với tiếng đàn của mùa xuân về trong ý nhạc lời thơ. Rõ ràng anh mở mắt nhưng cảm như thấy tổ tiên mình về ngự ở trên bàn thờ trò chuyện với nhau, và phù hộ cho con cháu thực. Âm dương không còn cách biệt xa vời nữa. Dương quang không chỉ đầm ấm trong hơi sương ngọt ở ngoài kia, mà ngay ở trong mạch máu của mình. Anh thấy sinh khí len khắp nhựa cây mạch đất và thấm cả vào trong da trong thịt của anh. Khúc nhạc hồn non nước thấm nhuần anh, thử hỏi anh không yêu Việt Nam, nghĩ Việt Nam và cảm Việt Nam sao được?
Từ mấy hôm trước, người vợ đã dặn đi dặn lại các con: ngày Tết không được quét nhà, vì sợ đuổi thần tài ra cửa, không được đánh vỡ chén bát để tránh đổ vỡ suốt năm, không được khâu vá vì kim chỉ tượng trưng cho công việc làm ăn vất vả.
- Bây giờ kiêng thế là giản tiện nhiều rồi đấy, chớ ngày xưa các cụ còn kiêng gọi tên con khỉ, con chó, con lợn vì nói đến tên chúng thì không may mắn; người làm ruộng kiêng nói đến tên "cầy" trước khi cúng bái cày; các gia đình lễ giáo kiêng viết lách trước khi làm lễ khai bút; còn các nhà buôn bán thì kiêng bán hàng trước khi làm lễ tiên sư ở quầy hàng để xin trời đất phù hộ cho buôn may bán đắt.
Tất cả những sự kiêng kỵ đó, chồng con đã biết quá đi nhưng năm nào người vợ cũng cứ phải nhắc đi nhắc lại như thế, tuồng như không nhắc thì không chịu được.
Con cái trong nhà mà tỏ vẻ hoài nghi về các sự kiêng kỵ đó thì gọi là còn lôi thôi, rầy rà. Là vì người vợ cho rằng tất cả những sự kiêng kỵ đó không phải là dị đoan, mà là tin tưởng.
Phải. Tại sao Tết lại đặt vào ngày cuối và đầu năm âm lịch, mà không đặt vào ngày nào ấm áp như Đoan Ngọ hay Thất Tịch? Ấy là vì tổ tiên ta lúc chọn ngày để đặt Tết Nguyên Đán đã có một ý định là đem lại cho Tết Nguyên Đán một sự phù hợp với tính chất sinh hoạt dân tộc: các cụ chọn một ngày rảnh nhất, một ngày có ý nghĩa nhất trong một năm để tưởng nhớ đến ông bà, rước xách thờ cúng và nghỉ ngơi cho khỏe.
Đặt vào ngày cuối Đông đầu Xuân, ngày Tết Nguyên Đán còn có một thâm ý sâu xa hơn nữa: theo Từ Nguyên, xuân có nghĩa là "trai gái vừa lòng nhau", xuân là cựa động, băng giá tan hết, muôn vật đến mùa xuân đều cựa động mà sống lại. Từ quan niệm ấy, người mình tiến đến tín ngưỡng thờ Thần Đất. Họ tin rằng trong thời gian mà Thần Đất vắng mặt trên trần thì không ai được động chạm đến đất, như cày bừa cuốc xới đất lên hay giã gạo làm cho vang động đất. Ngày Tết, do đó, có ý nghĩa là đón sự trở về của Thần Đất: người ta chờ lúc cây cối đâm lộc nảy mầm, muôn vật trở lại cuộc sống bình thường, chỉ sợ vì một cớ gì bí mật, không phồn thịnh và sản xuất như xưa nữa. Họ tin rằng nếu không kiêng kỵ thì Thần Đất sẽ không phù hộ cho loài người và sẽ làm cho cây cối, con người, súc vật, của cải không thể nào phát triển. Đến bây giờ, người Tây mặc dầu có tiếng là văn minh đáo để cũng vẫn có những sự tin tưởng như vậy, thế thì ta tin tưởng nếu kiêng thì Thần Đất phù hộ cho mọi vật tăng gia sản xuất, chẳng có chi là kỳ quặc.
Tục tiễn ông Táo, tục không quét nhà, tục xông đất thoát thai từ sự tin tưởng đó. Có người bảo rằng sự tin tưởng đó có từ lúc dân ta bắt đầu định cư và sống về nghề nông. Có từ lúc nào cũng được, nhưng tựu trung thì cũng chẳng có hại gì, vì tin Thần Đất như thế cũng như thờ cúng ông bà cha mẹ, ai cũng phải nhận là một tục hay mà người phương Tây không thể cho là dị đoan, mê tín.
Người chồng không có ý kiến gì hết, nhưng cảm thấy rằng ngày Tết, mọi người đều kiêng cữ mà mình không kiêng thì mình không được yên tâm. Vì thế, mặc dầu viết báo đôi khi chế giễu tục này tục nọ của ngày Tết, mà về với gia đình anh ta vẫn kiêng kỵ như ai và cảm thấy có một thích thú nhẹ nhàng, kín đáo trong sự kiêng kỵ đó. Kiêng như thế có "ăn tiền" không, cái đó không cần lắm; nhưng cần là làm như thế mình hòa đồng với đồng bào, mình tự động đoàn kết với anh em và, cũng như mọi người, mình cũng nuôi một hoài bão là năm mới có tiến bộ mới và sự tiến bộ đó, muốn đạt, phải nghiêm chỉnh nghênh đón một cách trang trọng từ ngày đầu năm.
Người ta thăm viếng nhau, chúc tụng nhau chính là để thi hành nghiêm chỉnh sự tiến bộ đó và, làm như thế, họ muốn cho năm mới không xúi quẩy, trái lại, tươi tốt bằng năm bằng mười năm cũ. Tục cắm nêu, vạch vôi vẽ cung tên nhắm không cho quỷ ma quấy nhiễu là mong cho sức khỏe tốt hơn, tục quẩy nước sáng mồng một đổ đầy chum vại là mong cho của cải đề đa, còn tục "bán dại" ở Nghệ Tĩnh trở vào Thừa Thiên ngày trước là mong cho trí óc mở mang, khôn ngoan, minh mẫn hơn năm cũ.
Cứ tin như thế, người ta thấy đời đẹp hơn, đáng yêu hơn. Vừa lúc đó, ở ruộng khoai lại nở những bông hoa tím, ở vườn cải lại có những búp vàng, mưa xanh gió tím ôn hòa, người dân vui sướng đến tận độ sáng lên mắt biếc, hồng xuống làn môi cũng là lẽ đương nhiên, không có chi đáng lạ.
Có ai ở tỉnh thành ăn Tết ngày mồng một rồi đến mồng hai, mồng ba đi về những vùng đất thơm ngát hoa đồng cỏ nội mới thật thấy cái Tết của ta đẹp biết ngần nào, êm ái biết ngần nào. Người nông dân vất vả quanh năm, được mấy ngày ấy nhất định nghỉ không ra đồng. Chè chén đã đành rồi, nhưng tội gì mà chẳng vui chơi để giải quyết sự thèm khát giải trí mà vua quan ngày trước không hề nghĩ tổ chức bao giờ. Vì thế, nghe thấy đầu xuân có hát tuồng "Quan Vân Trường quá ngũ quan trảm lục tướng" hay "Dự Nhượng tam đả long bào", ở cách xa nơi họ ở dăm mười cây số, họ cũng cố đi xem cho kỳ được. Tuy vậy, vẫn cứ "tưng tức thế nào" cho nên tại vài làng mát mặt ở Bắc Việt, các đàn anh vào dịp Tết vẫn rủ nhau rước ả đào, tuồng cổ, phường chèo về diễn cho mọi người xem và được người ta nhớ mãi:
Sang xuân đình đám vui như Tết
Hết đám làng bên lại đám làng...
Em nhớ đào Nhâm phường Đặng Xá
Đóng bà Thị Kính mắc hàm oan,
Thị Mầu chòng ghẹo mà không chuyển,
- Nhâm có đôi bàn tay rất ngoan.
Phần tôi nhớ nhất là một năm ăn Tết ở Huế, đánh bài chòi nghe hát hôm mồng hai rồi đến mồng ba đi Hà Tĩnh, thăm một người bạn làng Thượng, được em gái bạn dắt đi xem tuồng "Triệu Tử Long phò A Đẩu" rút trong Tam Quốc. Thế thì có gì lạ? Quảng Lạc, Sán Nhiên Đài lại không thủ tuồng đó hay sao mà lại phải lặn lội đến tỉnh Hà Tĩnh để xem?
Không bao giờ tôi quên được đặc trưng của vở tuồng cổ đó, mà theo người em gái của bạn tôi kể lại thì Tết nào làng này cũng chỉ diễn một đoạn ấy thôi - kỳ hơn nữa là diễn ban ngày, trong khi mọi người đi lại nhộn nhịp trên bờ sông thật. Bởi vì khung cảnh toàn là thật cả, chớ không phải vẽ như ở trong rạp hát: sông thật, người thật, thằng nhỏ thật, thuyền thật... Diễn viên, từ ở trong đám người đi lại trên sông tiến ra, làm điệu bộ và hát, rồi nhảy từ thuyền nọ sang thuyền kia thực, múa gươm, chuyển từ hát khách sang tẩu mã trước những lời khen lao nức nở của các o đứng nấp đàng sau những cột đình cười tít cả mắt đi.
Thôi thì ngày Tết ở đâu mà chẳng vậy, trai gái dù là theo lễ giáo đến mấy đi nữa cũng có quyền đùa giỡn, chuyện trò ve vãn nhau, ai cấm! Có chàng trai tán tỉnh xa xôi:
Xuân về nở thắm muôn đào,
Xuân về nở thắm lòng ta, lòng nàng.
Có cô thiếu nữ đa tình khuyến khích:
Mẫu đơn nở cạnh nhà thờ,
Đôi ta trinh tiết đợi chờ lấy nhau.
Nhưng cũng có chàng trai ngổ ngáo "dăng dện" sát sạt hơn:
Hỡi cô mặc cái yếm hồng,
Đi trong đám hội có chồng hay chưa?
Có cô mặc cái yếm xanh,
Đứng trong vườn quýt cho anh phải lòng!
Bao nhiêu lời tán tỉnh khéo léo nhất, thanh niên nam nữ đều đưa ra hết và họ chơi đùa thả cửa, chơi bất cần luân lý của quan lại phong kiến đưa ra để giam giữ họ trong tù ngục của tình yêu: ở đâu cũng có hát ví, kéo co, đánh cờ người, đá cầu; ở Phủ Quỳ (Nghệ An), Lang Chánh (Thanh Hóa), Bảo Lạc (Hưng Hóa), trai gái dắt nhau đi chơi một đêm một ngày ở trong hang, thổi khèn, hát đúm, uống rượu, tung còn, tìm nơi thanh vắng để tỏ tình yêu thương mùi mẫn; ở Vĩnh Yên có thi vật; ở Bắc Ninh, Phú Thọ có món đánh phết; ở Tích Sơn (Hưng Hóa), làng Yên Đổ (Hà Nam) có trò đuổi lợn, đuổi cuốc trong ngày Tết; ở Thụ Cấm (Hà Đông) có thổi cơm thi, thổi xôi thi; ở Thanh Hóa có "Tết cơm cá"; ở hầu hết Bắc Việt có lễ "trâu", lễ "tróc ngư"... Trong bất cứ cuộc vui nào, trai gái cũng kề vai sát cánh, và công nhiên đú đởn với nhau mà không sợ ai dị nghị. Theo tôi, tình tứ nhất và hứng lòng nhất là dún đu.
Dún mình như thể dún đu
Càng dún càng dẻo, càng đu càng mềm.
Ngày Tết, bước ra khỏi Hà Nội một hai cây số ta có thể thấy ở bất cứ làng nào cũng có trồng một vài cây đu để cho trai gái trong làng hay những vùng quanh đấy đến dún dẩy với nhau. Thường thường các cụ trong làng cứ khoảng hai mươi nhăm, hai mươi sáu tháng Chạp đã cho tuần tráng đi đẵn tre để trồng đu. Tết đến, trai gái nhún với nhau từ bảnh mắt cho đến tối.
Cây đu làm bằng tám cọc tre trồng rất chắc chắn dưới đất vì trồng càng chắc thì dún càng khỏe. Cái ngáng đu vận bằng rơm, giữa hai hàng cột gioãng ra hai bên. Trên đỉnh, phất phới một hai lá cờ đuôi nheo. Thường thường, đu trồng không đủ để cho trai gái dún, thành ra đúng như lời thơ của nhà nữ thi sĩ:
Người thời lên đánh kẻ ngồi trông.
Trông cho thích mắt đã đành, nhưng nhiều khi là đợi đến phiên mình dún. Đu càng cao, các cô, các cậu càng đưa mạnh. Các cậu cố dún. Các cô ưỡn thêm lên.
Trai du gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng...
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,
Hai hàng chân ngọc duỗi song song (...)
Đu lên bổng, chiếc áo nâu non của cô gái dan díu với chiếc áo the thâm của chàng trai, đôi dải yếm lụa quấn quít lấy chiếc quần hồ trắng bốp... Hai lá cờ đuôi nheo cũng phải rung lên một cách đa tình. Yêu mấy ơi cô gái tuyết trinh chưa biết trăng gió là gì, thế mà đứng chờ bắt đu trông thấy dải yếm cô nàng và tà áo của chàng trai quấn quít lấy nhau cũng đỏ hồng đôi má và lờ đờ cặp mắt lá khoai...
Đến bây giờ tôi vẫn không hiểu rõ tại sao nước ta bị đặt dưới ngàm của vua quan phong kiến mà những phong tục Tết đó, chống đối luân lý phong kiến ra mặt, vẫn cứ tồn tại mà phong kiến không làm gì diệt được. Có người bảo rằng vì họ tàn ác nhưng lại giả đạo đức nên không dám diệt trừ thẳng tay vì đó là tàn dư của chế độ tạp giao thời nguyên thủy mà lại nặng về phần tín ngưỡng - nếu nhất thiết ngăn cấm thì ảnh hưởng ngay đến mùa màng sản xuất của tập thể và đời sống hàng ngày của nhân dân.
Có lẽ vì thế các nhà luân lý phong kiến thấy trai gái, vào ngày xuân, giao du thân mật đành cứ phải làm ngơ; hơn nữa, họ lại phải làm ngơ luôn nhiều tập tục cổ khác còn "hăng" hơn thế, như bắt chạch, tung còn, rước cái nõn nường.
Tôi tiếc không được biết trò bắt chạch vốn là một trò chơi cổ ngày nay không còn nữa, nhưng theo một vài cổ lão thì "lúc Tây chưa hạ thành" ở một vài tỉnh như Bắc Ninh, Bắc Giang, Phủ Lạng, có tổ chức trò ấy trong ngày Tết. Muốn dự cuộc chơi này, trai gái phải đi từng cặp, trai ôm lấy vai gái, gái quàng lấy cổ trai thắm thiết ân tình, còn một tay thì thò vào một cái kiệu(1) để khoắng nước tìm chạch. Cặp nào bắt được chạch thì được thưởng nhiễu điều, trầu cau hoặc tiền.
Hội tung còn cũng bắt buộc phải có cặp: một trai, một gái. Còn tức là cầu: quả cầu làm bằng vải màu, trong độn rơm hoặc trấu. Hai bên trai gái xếp hàng chữ nhất, đứng cách nhau chừng vài mươi bước, một bên tung lên, bên kia bắt lấy, rồi lại tung trả lại. Bên nào không bắt được, bị coi là thua và thua là phải tháo gỡ một vật gì mang trong người để đưa cho bên được. Có người thua quá, phải tháo gỡ hết để đưa cho bên thắng, rút cục tháo cả yếm ra và chỉ còn một cái quần... Nhưng sau chót, định đoạt xong được thua rồi, người được cũng trả lại đồ cho bên thua và cả hai bên cùng uống rượu say sưa trong một tình thương yêu bát ngát.
Tung còn như thế, bắt chạch là như thế, nhưng đến rước cái nõn nường thì quả là... cúng được.
Ai đã ở Bắc vui mấy ngày xuân, thế nào mà chẳng có lúc đã nghe thấy người ta hát:
Bơi Đăm, rước Giá, hội Thầy,
Vui thì vui vậy chẳng tầy Giã La...
Tục truyền rằng ở làng La (Hà Đông), vào ngày rã đám, dân làng tổ chức một ngày rước rất long trọng rồi đến một giờ nhất định tắt đèn đi để cho ông già bà cả và thanh niên, thiếu nữ thả cửa sờ soạng nhau. Hồi gần đây, những làng như Khúc Lạc (Phú Thọ) và Di Hậu (Hưng Hóa) giữ tục "rước cái nõn nường" trong những ngày Tết cũng là nằm ở trong tinh thần khuyến khích đoàn kết, cầu nguyện cho sinh sản tăng gia, phồn thịnh. Theo mấy cố lão ở Phú Thọ còn sống hiện nay thì vào một ngày tốt lành đầu năm - không nhất định ngày nào - các bực đàn anh trong làng tổ chức một cuộc lễ nõn nường hết sức long trọng. Ta thường nói "ba mươi sáu cái nõn nường". Thành ngữ ấy do ở đây ra. Nõn là bộ phận sinh dục đàn ông, nường là bộ phận sinh dục của đàn bà. Trong cuộc lễ, dân làng để nõn và nường làm bằng gỗ lên kiệu rước, có nam đồng quan và nữ đồng quan đi giật lùi trước kiệu vừa đi vừa hát "Ba mươi sáu cái nõn nường, cái để đầu giường, cái để đầu tay". Cuối cùng, các vị chủ tế tung nõn nường lên trên trời, trai gái đổ xô ra cướp, gái mà được cái nõn, trai mà được cái nường thì may mắn vô cùng và nếu có sự trục trặc hay không tổ chức được buổi rước vì nguyên nhân gì đó thì cả làng lo sợ vì có nhiều phần chắc chắn là năm ấy không may mắn.
Không. Ngày Tết ở Bắc, rỗi rãi mà đi xem hết hội này đến lễ kia như thế, phải nói thật quả là mình sung sướng như tiên. Tết đi thăm nhau, chúc mừng nhau, uống rượu ăn mứt, ăn kẹo với nhau, đánh cờ đánh kiệu với nhau, vui quá thể, ai mà lại còn không biết; nhưng vui thấm thía, vui ý nghĩa, vui sâu xa thì phải nói thực, đó là nhờ những đám rước, những tục cổ, những trò chơi như thế.
Các trò chơi như thế có một ý nghĩa xã hội rõ rệt. Tết xiết chặt tình yêu hơn lên, Tết là ngày giải lao, Tết là ngày vui vẻ đoàn kết, đoàn kết người sống với người chết và đoàn kết người sống với người sống.
Ăn Tết ở đây, tôi tự hỏi hàng trăm ngàn lần cái ý nghĩa đó có hay không? Ấy là vì vào cái cữ này ở đây trời nắng tan vàng nứt đá, đi ngoài đường một lúc mắt cứ hoa lên. Thử tưởng tượng vào khoảng mười giờ ngày mồng một Tết, trời nắng chói chang mà đóng bộ "đồ lớn" vào - cho trịnh trọng - đi một quãng đường độ ba cây số để mừng Tết người bạn thân thì mồ hôi mồ kê ra nhễ nhại đến chừng nào! Đi tắc xi thì xót ruột - trèo lên xe là đi đứt sáu chục đồng rồi - đi xe lam thì mệt, mà đi xe gắn máy thì rất có thể thành heo quay; ấy thế mà đến nơi thì bạn lại đi vắng, đành để lại tấm cạc với bốn chữ "Chúc mừng năm mới" nhạt phèo! Về đến nhà, người bạn thấy tấm cạc thở hắt ra: nếu không đáp lễ thì mang tiếng, mà đến thăm bạn thì mệt, tốn tiền xe, mà chắc gì bạn đã có nhà! Nhưng mà cứ phải đi! Và người nào cũng cứ phải làm như thế cho đủ "lệ bộ", cho trọn "ân tình". Rốt cuộc, anh nào anh nấy mệt phờ râu, tốn thêm tí tiền nguyên đã hiếm hoi, khó kiếm từ khi có thuế kiệm ước và kiểm kê huê lợi.
Nhưng đôi khi người khách cũng may mà gặp chủ nhân ở nhà. Cả hai cùng cười ha hả như những kẻ suốt đời sung sướng, nhưng thâm tâm thì cả chủ lẫn khách đều lo. Khách lo vì đến nhà nào cũng phải nhắc lại mấy câu sáo cũ và uống chén rượu nhạt mừng xuân; còn chủ cũng lo là vì theo tập tục, ai đến cũng phải mời ly rượu, mà rót ly rượu cho khách mình cũng phải uống một ly, vì không như thế thì khách buồn, có khi lại lầm tưởng mình là... kẹo. Thành thử ra phải uống. Ông khách nào đến, cũng phải uống, cũng phải chuyện trò.
Liền ba ngày Tết mà cứ tái diễn mãi cái trò như thế thì sức mấy mà không quỵ mà không chán mớ đời. Vì thế, có nhiều người ở đây sợ Tết, cứ sắp hết năm thì lại xếp một số tiền đem cả gia đình đi Đà Lạt hay Vũng Tàu, Nha Trang với thâm ý "bế môn tạ khách".
Theo trí nhớ của tôi, ngày trước ở Bắc Việt hình như không có tình trạng thương tâm đó. Ấy có lẽ một phần vì các đường phố không xa lắc xa lơ và dài thườn thượt hàng chục cây số ngàn. Có lẽ cũng còn vì từ tháng Mười trở ra cho đến Tết, trời đã bắt đầu lạnh mà thường thì vào cuối chạp, đầu giêng trời lại có mưa xuân, đàn ông thì khỏe ra mà đàn bà thì tươi hơn hớn, ví có phải tiếp vài chục người khách, uống vài chục chung rượu, người vẫn cứ mạnh như thường - ấy là chưa kể đến đêm lại còn thức tới một hai giờ sáng đánh bài, rút được ông cụ rồi lên cửu sừng hay "nuôi lợn" tốt đỏ đè tốt đen, thiết tưởng chính thuốc bổ nào cũng không bằng!
Ở miền Nam, làm gì có cái mùa xuân đó, có cái lạnh riêu riêu đó! Vào cữ Tết, nắng ở đây gọi là vỡ đầu xát tai, nhưng cần gì, có lẽ một phần nhờ cái nắng vỡ đầu xát tai đó mà đồng bào trong này có bao nhiêu trái cây lạ để ăn Tết; mà như thế cũng có một cái thú riêng, đố Trung Việt hay Bắc Việt có thể tìm được đấy.
Này, từ khoảng hai mươi tháng Chạp, dưa được người ta đưa về bằng ghe, bằng cam nhông, bằng xe thổ mộ tràn đầy cả chợ lớn chợ nhỏ, tràn đầy các sạp, các vỉa hè, anh có thấy không? Muốn ăn Tết bằng dưa hấu bao nhiêu cũng có, anh đừng sợ, nhưng ngại ăn nhiều nóng thì Tết ở Sài thành còn sầu riêng, măng cụt, vú sữa tím hồng, vú sữa trắng xanh; sa-bô-chê ở đây ngọt sắc mà mềm, cắn một miếng thì nó quện lấy chân răng (Tết ở Bắc chắc chắn là không có i-chi-ma bóc vỏ trông y như lòng đỏ trứng gà); còn cốc, còn "chùm ruột", còn bao nhiêu loại bưởi, bao nhiêu loại bòng và mới đây ta lại còn trái "thầy kiện" ăn cũng ngon ra phết.
Hoa trái miền Nam nhiều quá, ngon quá, cứ gì phải bày ra đĩa cho đẹp ăn mới thấy ngon. Tôi đã thấy có nhiều người vào những ngày Tết chói chang nắng lửa, sà vào một cái quán cóc, uống ực một ly đế rồi đưa cay một miếng thơm hay vài quả chùm ruột chấm mắm nêm cũng đã ngon "quá xá" rồi. Bày vẽ nhiều, mệt lắm. Nhưng ít lâu trở lại đây, mệt thì mệt, đồng bào ở đây ăn Tết cũng đã "kỳ kèo" hơn trước rất nhiều. Cùng với những cái áo dài may kiểu mới thay thế cho những cái áo bà ba cũn cỡn, anh em ta ở đây, ngày Tết, đã tỏ ra trang trọng hơn trước trong việc trang trí nhà cửa và ăn uống cũng như sửa soạn. Mà người Nam mỗi khi đã sửa soạn thì đẹp như tiên. Anh xa nhà, nhớ cái Tết Bắc Việt thân yêu mà được thưởng thức những cái đẹp muôn màu ngàn sắc như thế, lòng nguôi ngoai hẳn được hơn phân nửa. Đàn bà uống xá xị, nước cam, nước sâm ngọt xớt, còn đàn ông thì ít nhất cũng biết uống lave, nhưng đa số nói thực thì quả là những cái "cốc tay" bằng da bằng thịt... cứ trông thấy họ uống mà bắt tởn! Này anh Ba, đưa cay một miếng bánh tét chơi. Bánh chưng ngoài Bắc có thứ nhân mặn, có thứ nhân đường thì ở đây cũng có bánh tét nhân thịt và bánh tét nhân chuối; trẻ con ngày mồng một đã dắt nhau đi ăn hủ tiếu, mì thì người lớn xót ruột cũng khéo nghĩ ra ăn Tết bằng bánh xèo, gỏi cuốn, bún bò giò heo; nhưng Tết mà muốn ăn một món ra gì, đố ai không phải chịu món thịt bò nhúng giấm, món suông và bánh ú! Ăn xong rồi đi dạo dưới trời nắng, mệt thì vào nhà hát ngồi máy lạnh, rồi đến lúc ra về mỗi người làm một ly nước trái cây: sướng quá đi! Sướng cái bao tử đã đành, nhưng sướng cả con mắt nữa vì miền Nam có một cái đặc biệt là có rất nhiều mai: mai vàng, mai trắng, mai tứ thời. Người xa nhà thấy mai nở nhiều như thế cũng dịu được phần nào lòng nhớ quê hương nhưng chân không vì thế mà ngừng bước: giữa ngày Tết, trong đám thiên hạ vui xuân, y cứ đi như một người bị chứng thụy du, đầu óc mông lung, nhớ cái Tết Bắc Việt không thể nào chịu được.
Còn nhớ có một năm chùa Phổ Quang, trong Bắc Việt Nghĩa Trang làm lễ kỷ niệm pho tượng Địa Tạng vừa mới đúc xong. Trời xui khiến làm sao anh lại lạc bước đến Tân Sơn Nhất, qua sân vận động.
Thấy người ta lũ lượt kéo nhau rẽ vào một đường hẹp ở bên tay phải, anh cũng theo vào. Ồ này, Tết Sài Gòn vẫn còn ghi dấu tích ở ngoài phố trong nhà, vậy mà chỉ đi một quãng đường, anh ta được hưởng một cái Tết Bắc Việt ở cách Sài Gòn có tám cây số - thế có tài tình không?
Lúc đó, chừng mười giờ. Trang chật ních người, tưởng như không còn chỗ mà chen chân nữa. Lạ thay là cái trực giác của người ta, mắt cũng mắt ấy, miệng cũng miệng ấy mà quần áo cũng quần áo ấy, vậy mà vừa nhìn thấy, ta đã biết ngay là người Bắc.
Người ta nhìn nhau với những con mắt âu yếm như chào; miệng không nói với nhau mà như kể không biết bao nhiêu tâm sự. Thôi mà, nói làm gì. Mười tám, mười chín năm nay bỏ Bắc Việt ra đi, ở đầu lưỡi người nào cũng chỉ có một câu hỏi "Bao giờ về? Phải, bao giờ về?". Chẳng ai trả lời được cho ai cả.
Người xa nhà đành giấu kín câu hỏi trong lòng và mỗi khi đi lễ giao thừa là tự an ủi, bằng sự trông vào một Đấng Tối Cao trong cõi vô hình chỉ huy kiếp con người.
Lạy Trời Đất Quỷ Thần! Xin phù hộ cho chúng con mạnh chân khỏe tay để một ngày kia được trở về chốn chôn nhau cắt rốn.
Những ngày Tết trước, ở đất Bắc xa xưa, dưới nhang khói của Trấn Vũ, đền Ngọc Sơn, hay là đền Bạch Mã, tôi đã trông thấy người ta lễ thành khẩn, lễ xuýt xoa và cảm thấy lòng thích thú vì thấy người ta tin tưởng. Nhưng ở chùa Phổ Quang, trong Bắc Việt Nghĩa Trang ở Sài Gòn Tết ấy, thấy đồng bào chen nhau lễ, từ ngoài sân lễ vào chùa, lễ bên phải, lễ bên trái, lễ từ trên gác chuông lễ xuống, lễ từ dưới pho tượng Địa Tạng lễ lên, tôi rờn rợn cảm thấy nếu đồng bào cúng lễ như thế này mà mình đóng vai bàng quan, không cúi đầu thông cảm thì mình quả là một thứ người gỗ đá.
Thương biết bao nhiêu những người ngồi phệt xuống cỏ ngoài vườn mà cầu nguyện, những cô đầm lai trẻ tuổi vận áo nâu tụng kinh với các cụ già, những thanh niên sung sức tay cầm lá sớ, tay cầm bó nhang vừa lễ mà lại vừa rưng rưng nước mắt.
Thương biết chừng nào những bà cụ mắt kém còn cố dò dẫm đi vào chánh điện để cắm hương vào bát nhang cầu cho những con cháu ở xa xôi; những cô em gái khấn khứa cho những người anh đi "giết giặc" bây giờ còn sống hay đã chết, những tình nhân cầu xin phù trợ cho những tình nhân trôi nổi dậm cát đồi cây, chân trời góc bể...
Nhưng tất cả cái đó không màu nhiệm bằng việc xin xâm. Có ai đứng xem những người xuýt xoa lễ bái xin "Ngài" một quẻ thẻ đầu năm để biết "kiết hung", theo dõi từ lúc lấy xâm cho đến lúc nhờ thầy đoán thẻ xong rồi, mới biết ở đời chỉ một câu nói, một nụ cười, một mảnh giấy không to bằng bàn tay mà có thể tạo vui, buồn, sướng, khổ cho người ta nhiều quá.
Tôi đã thấy những ông mặt trông ngổ ngáo run lên như tàu lá khi biết là mình đã xin phải quẻ xấu "mọi việc đều không nên"; nhưng trái lại, lại có những cô mặn mà mắt lé, cười tươi đáo để khi cầm một que thẻ "thượng", Ngài báo cho biết là trong năm sẽ khỏi bịnh, người đi xa sẽ về và lại gặp "lương duyên".
Ước gì mình là Trời để cho ai cũng được một phút vui ra phết, sướng lạ lùng như thế! Ước gì mình có phép làm cho vợ được gặp chồng, anh được gặp em, tình nhân được gặp tình nhân, ở đời không còn bao giờ có sự chia cây rụng lá, tan cửa nát nhà, sinh ly tử biệt...
Ờ mà phải, một năm cũng nên có vài ngày Tết để cho người ta đem đầu đi lễ như thế này. Ai cũng phải nhận riêng người Bắc với nhau ở đây lắm khi cư xử với nhau cũng không ra gì. Đừng bảo là tại họ xấu, đó chính là vì họ đau đớn quá, xót xa quá nên sinh ra gay gắt...
Nhưng có ngày Tết, hội họp như thế này, ta mới thấy rằng không lúc nào họ không mến thương nhau cũng như họ mến thương đồng bào Trung, Nam; người lạ này mời người lạ kia uống nước; cô hàng bún chả chăm chút mẹt bún cho người con trai đi lễ một thân một mình; một bọn bốn cô tay bắt mặt mừng mời nhau ăn bún riêu, ngắt rau húng cho nhau và lấy quạt đuổi giúp từng con ruồi, con muỗi.
Này, lễ xong ra sân ngoài xem họ làm gì mà đông đảo thế kia? Thì ra đó là một cuộc giải trí hoàn toàn Bắc: cờ bỏi và cờ tướng. Tung tung! Lá cờ đỏ phất đi. Tung tung! Lá cờ vàng phất lại!
Hòa bình lắm! Ngồi uống một bát nước trà tươi nấu với nước mưa, trong như hổ phách, nhẩn nha hút một điếu thuốc lào, khách nhìn ra trước mặt thì thấy sau chùa có một rặng cây dương cao ngất, còn bốn xung quanh thì là những cây đa cố hữu của đền đài Bắc Việt; khách nghe thấy tiếng trống, tiếng chuông; khách ngửi thấy mùi nhang, mùi trầm và mơ về một ngày nào ở vườn xưa quê cũ có những ngày như thế này, có nêu, có khánh, có pháo, có cờ người, có kéo co, có đánh vật, có chọi gà, có trai gái đẹp như thơ lấy nón che nửa mặt hoa để ví von, hò hẹn. Ngày ấy bây giờ đâu? Và bao giờ còn ngày ấy?
Tôi nghĩ đến bao nhiêu người sợ hãi những bộ mặt xâm lăng dữ dội, mơ về một ngày êm ả thanh bình xưa cũ, và chỉ mơ có vậy, mà mộng không thành phải mang một sự tiếc hận ra đi mãi mãi ở "quê người đất khách".
Thương biết bao nhiêu, đau xót biết chừng nào cho những người xây mộng ước mơ, bây giờ đang nằm yên dưới những nấm đất sè sè ở trong trang quạnh quẽ! Này là một nhà buôn bán ở Vân Đình thất lộc năm sáu mươi bảy tuổi; bên kia, một em nhỏ mới hưởng dương mười bốn và bên nọ là mộ một thiếu nữ mất vào giữa ngày trùng cửu năm nàng hai mươi mốt.
Ở dưới bóng cây, mộ nằm la liệt. Tôi thẫn thờ đọc những chữ ghi trên từng mộ chí và tôi tưởng tượng đến những người ra đi mong có ngày về, mà không may giữa đường bị tử thần cướp đi, những người chồng lúc lâm chung còn cầu Phật khấn Trời run rủi cho được gặp con thơ vợ dại và những người đàn bà tình duyên trắc trở không được sống với người thương "mong cho ai kia xét thấu nỗi lòng để yên tâm nhắm mắt nơi chín suối...".
Thôi, bây giờ thì bao nhiêu oán hận, buồn thương, bao nhiêu mộng ước mơ, bao nhiêu sầu ly biệt đều tan theo khói sóng, bóng mây, tàn với lau tàn, trăng úa. Mộng đẹp chôn cả ở dưới đất: thế là xong!
Rồi thì ngày rằm, mồng một hiện về mà nghe kinh cứu khổ và những ngày xuân như ngày này được những người nặng một tấm lòng thương cảm dừng chân đứng lại, đọc vài hàng trên mộ chí và cảm nghĩ: "Ngày xưa, đã có một người bị chiến tranh chia rẽ, mỏi mắt chờ trông...".
Không ai còn khóc ai nữa. Một gia đình đông đàn con cháu cắm một bó huệ lên trên một nấm mồ mới xây và giăng hoa giấy lên cái giàn kết bằng dây kẽm. Đây, một chàng trai thắp mấy nén nhang ở gần bên, đứng chắp hai tay lại, lâm râm khấn nguyện trước một ngôi mộ có cẩn bức hình một thiếu nữ tóc bỏ xõa xuống hai vai. Và đây nữa là một cặp vợ chồng đi thăm mộ xong rồi, dùng dằng không muốn trở về, chồng ngồi ở bên mộ đọc sách, vợ giở giỏ ra đan, bên cạnh có hai trẻ nhỏ lăng xăng đuổi bướm!
Tôi thấy có những gia đình đem chiếu ra trải ở bên cạnh mộ người thân rồi vợ chồng con cái quây quần lại với nhau ăn uống. Chợt một lúc tôi nghĩ đến cái lẽ sống ở chết về, âm phù dương trợ. Tôi tin rằng chết không phải là hết mà dương trần và âm cảnh vẫn có tương quan và tôi thấy cảnh người sống và người chết thông cảm với nhau có một cái gì làm cho ta xúc động và kính cẩn.
Càng thấy như thế, tôi lại càng không hiểu tại sao chính những người sống lại có thể oán ghét nhau "để cho mùa xuân kia có trở lại cũng bằng thừa".
Xin Trời Phật phù hộ cho không bao giờ có những ngày xuân, ngày Tết không có hoa và bướm, không bao giờ có những người không được thương yêu, không bao giờ có những cây không nảy lộc, những cặp mắt không sáng ngời và cũng không bao giờ lại có những con người xảo trá, tham tàn, độc ác...
Bắt đầu viết tháng Giêng 1960
Tiếp tục năm 1965
Viết hết năm 1970-1971
Rút từ Tuyển tập Vũ Bằng, Tập II - Nhà xuất bản Văn học, năm 2000.
Nguồn: Vũ Bằng Toàn tập, Tập I. Triệu Xuân sưu tầm, biên soạn và giới thiệu - Nhà xuất bản Văn học, 1-2006.
www.trieuxuan.info
--------------------------------------------------------------------------------
(1) Một thứ chum, vại lớn.
19/1/10
13/1/10
Nguyễn Văn Xuân : Hương Máu
Nguyễn Văn Xuân
Hương Máu
Quả như lời viên đại tá, ông Hường có xuất hiện. Và hình như ông xuất hiện cốt để bị bắt chứ không thể để thực hiện một kế hoạch quân sự như viên đại tá hốt hoảng lầm tưởng. Ông tự để bị bắt trong một cái miếu giữa đường Hội An - Ðà Nẵng. Trường hợp của ông thuộc "quân quốc trọng sự" nên phải tống giao ngay cho viện Cơ Mật và Tòa Khâm xét xử. Lính tập Hội An lập tức tăng cường việc canh gác. Người ta tíu tít đóng cũi - một cái cũi khá lớn - để giải ông và người con trai bị bắt trước ông. Cậu này mới khoảng mười lăm, mười sáu . Cả tỉnh đều xôn xao, bàn tán về biến cố quan trọng mà họ không chờ đợi này vì họ vẫn còn nuôi khá nhiều ảo vọng về ông. Tối hôm giải ông ra Huế, ông cử Lê gọi tôi vào mật phòng và trầm ngâm khá lâu trước khi bảo tôi:
- Cậu chắc hiểu được cái cảm tình sâu xa của thầy đối với ông Phan, ông Nguyễn. Bấy giờ, ông Nguyễn bị bắt như thế, thật là mối thương tâm, tuyệt vọng chung cho cả quốc dân. Nhưng thầy không muốn để Triều đình tra tấn ông và không muốn con người cao qúi, anh hùng , cương trực nhường ấy, can đảm nhường ấy phải chết nhục dưới lưỡi gươm của tụi đao phủ hèn kém. Vậy, cậu hãy giúp thầy một việc...
Ông rút từ dưới gối một cái dùi nhọn, bén ngọt, dài chừng hơn một tấc, ở chuôi có cái cán bằng gỗ.
- Cậu hãy tùy nghi giao cái này cho ông để ông tự xử trên đường, khi cậu cùng đi ra Huế với ông.
- Con sẽ đi Huế ?
- Cả thầy, thầy cũng đi mang hồ sơ theo. Nhưng nếu thầy lại gần tù xa thì không tiện vậy chỉ có cậu là lui tới dễ dàng theo sự điều khiển của thầy. Cậu cứ đưa và rủi có chuyện gì, thầy đã có cách.
Tôi lặng lẽ cất cái dùi nhọn trong mình. Trên đường đi, tôi chờ cơ hội thuận tiện. Kể ra cơ hội thuận tiện thật nhiều vì mọi công việc cung cấp thức ăn, nước uống...đều do ông Lê định đoạt. Nhưng tôi vẫn chờ một buổi nào đó mà hành động của tôi không thể bị tiết lộ. Vào một bữa ăn tối, khi mấy người lính được ông Lê gọi lại để cho thuốc hút, tôi kẹp mũi dùi xuống dưới cái mâm gỗ đựng các thức ăn rồi mang lên cho ông Hường. Ông lơ đễnh đỡ cái mân, không nhìn tôi. Tôi đằng hắng cốt để cho ông chú ý rồi đỡ cái mâm lên, đặt mũi dùi chạm tay ông. Ông hiểu ý ngay, ngạc nhiên quay phắt sang nhìn tôi. Trái tim tôi đập thình thịch. Không hiểu vì tôi sợ quá, hãi hùng như chưa bao giờ, hay vì đó là lần đầu, sau ba năm trường ao ước mà không toại nguyện thì bất thần được sở nguyện: Ông nhìn tôi ! Ông nhìn tôi ! Nhưng chỉ một giây, hình như hiểu là không nên để lộ những tình cảm đáng nghi giữa hoàn cảnh này nên ông vội vàng nhận ngay mâm cơm, gật đầu ra vẽ cảm ơn, nhưng rõ ràng là để có cớ nhìn lại tôi . Trong cái nhìn sau này, tôi bắt chợt đôi mắt dịu dàng trái ngược với lối nhìn xẳng xớm, nảy lửa thường ngày. Và trong cái ánh sáng của mắt đó, tôi nghe như ông ngầm báo là hình như ông đã nhận ra tôi, hình như có biết tôi là ai, đã gặp ở đâu rồi và ông rất tin cẩn tôi. Ôi nói làm sao cho hết những xúc động, những xao xuyến rờn rợn trên ót, dưới lòng bàn chân và trên da thịt tôi. Ba năm tranh đấu cũa tôi đâu phải vô ích. Nếu không có ba năm nằm gai mếm mật đó, làm sao giờ phút lớn lao này của lịch sử, tôi được vị anh hùng đó nhìn thông cảm bằng cái nhìn sâu tự đáy lòng. Như thế, đâu có phải là cuộc sống sau này, về lâu về dài, tôi chẳng có cái gì để kể cho lũ con cháu nghe đâu ! Khi ông ăn xong, tôi đến mang cái mâm đi. Ông vờ cầm cây quạt lông lên phe phẩy, úp liền xuống chỗ cái mâm mới đỡ lên rồi đưa tay sữa soạn lại cái khăn đen "chữ nhân" cho nghiêm chỉnh. Tôi bước đi và có cái cảm tưởng cái nhìn đó đang lượn ở phía sau.
Trong đêm ấy, nghĩa là suốt đoạn cuối cuộc hành trình ấy, tôi và ông Lê cùng hồi hộp chờ đợi một vụ án mạng, một vụ tự sát thảm khốc nhưng hết sức oanh liệt. Tôi có cái nôn nao vừa hãi hùng, vừa tự hào của người tạo dựng lịch sử. Tôi chỉ chờ tiếng kêu tiếng thét để trở nên con người gắn liền với lịch sử. Nhưng lạ lùng và chẳng có việc gì xảy ra. Cuối cùng khi rời thuyền lên viện Cơ Mật, người ta bắt gặp cái dùi ấy từ cũi rớt ra ngoài...Người ta đoán là ông đã thủ cái dùi ấy từ trước, muốn dùng nó để tự sát như hầu hết các bậc phi thường trong tưởng tượng và bây giờ bị bại lộ, phải vứt ra ngoài. Lúc tôi mang chén nước lên cho ông lần cuối cùng, ông lại nhìn tôi và khẻ lắc đầu.
Sau này, tôi mới sực nhớ và hiểu tại sao không không tự sát. Quả tự sát là ngu muội hèn nhát, và phản bội. Ngày ở trên Tân Tỉnh, ông đã chuẩn bị cái chết này như một kế hoạch trọng đại vừa bảo toàn sinh mạng các đảng nhân, vừa biểu lộ ý chí cứu quốc công khai, chứ không phải là chọn cái chết hèn mọn, dễ dàng. Chính ông cử Lê sau này cũng thở dài hối hận đã tính một nước cờ trẻ con, đã đem cái chí mỏng cạn của kẻ phàm phu để so với tư tưởng cao cả của nhà lãnh tụ. Vì sau khi dự buổi xét xử tại viện Cơ Mật - buổi ấy tôi không được dự - Ông cử Lê đã nhận thức một cách đầy đủ về hành trạng của ông Hường. Ông Cử Lê cho biết ông Hường đã khẳng khái nhận hết cả những việc ông và tất cả kẻ khác đã làm. Ông cho rằng lấy tư cách là quan phụ đạo của vua, bậc thầy cũ của vua không thể bỏ vua mà không dẫn dắt, lấy tư cách một vị phó bảng, tức là nhà nho ông không thể không đặt chữ trung lên trên và quyết phải sống chết vì giáo điều ấy, lấy tư cách là quan địa phương, ông phải bảo vệ và phải chết với địa phương đã được vua ủy nhiệm . Như thế là ông thừa mệnh vua và bắt tất cả kẻ khác phải theo ông. Kẻ nào không theo, ông xử tử và đốt hết nhà cửa để răn chúng, thị chúng. Tất cả mọi người đều khiếp sợ mà theo, dầu không muốn theo cũng không được. Sau khi trình bày những lý lẽ chắc nịch ấy ông bằng lòng chịu chết vì trách cả trách nhiệm thuộc về ông và chỉ xin các quan là đừng theo dõi và hành hạ trả thù những kẻ khác vì họ chỉ bị động và họ đã quá đau khổ rồi.
Các quan lại ở triều đình nói cho đúng chỉ là bọn vô lý tưởng, chúa nào chúng thờ cũng được, thời nào chúng theo cũng xuôi. Chúng vốn ngầm sợ nhất là Nguyễn Hiệu. Nay bắt được Nguyễn Hiệu tức là phương Nam đã tạm bình định xong, chúng có thể yên tâm về mặt đó. Chặt đầu Nguyễn Hiệu, đó là một thắng lợi quyết định, và người ấy đã tự nhận hết tội lỗi thì cũng đủ lắm rồi. Hơi đâu mà bới bèo ra bọ, không chừng rồi dân chúng lại nổi lên lung tung thì càng thêm khốn. Thế là bản án xử trảm đã lập thành.
Buổi sáng đưa ông ra pháp trường, người ta đặt ông vào một cái cũi khác, lớn hơn cái cũ. Ông ngồi trên một tấm cót tre, bên cạnh có bày sẵn hộp trầu, thuốc và theo yêu cầu của ông, cả một tờ giấy bạch và cây bút lông thượng hạng. Người con trai ông đã được đưa vào đề lao để chờ phát vãng làm lính ở Quảng Ngãi.
Dân chúng nghe tin bắt được đại thủ lĩnh "phiến loạn" và đem hành quyết thì từ nguồn chí biển đều đổ xô về tới tấp. Họ dàn sẵn từ sáng sớm trên con đường tù nhân sẽ đi qua với tất cả nghêm trang của giờ lịch sử trọng đại. Họ chờ một con người như thế nào ? Hình như vóc dáng, kích thước và tư thế một bậc anh hùng phải khác. Vì ở đây, họ chỉ gặp một nhà nho tuấn tú, phương phi, trắng trẻo. Nhà nho đó không nhìn một ai, không một chú ý đến mọi động tĩnh chung quanh của đám dân chúng vốn quen ồn ào giờ bỗng trở nên im lặng, kính cẩn và nhiều kẻ khóe mắt rưng rưng...Ông đang lo nghĩ những vần thơ tuyệt bút và muôn vạn con mắt đều trố nhìn vào ngọn bút lông đứng sựng và thoăn thoắt chạy trên tờ giấy. Ðiều này khiến người ta phải nghĩ là ông lầm tưởng mình đang thảo hịch giữa buổi tinh sương chứ không phải làm thơ tuyệt mệnh trong khi đi đến pháp trường.
Tôi không cần tả lại dông dài cái giờ phút ông chấm dứt những bài thơ tuyệt bút để mỉm cười thọ hình. Nó cũng diễn ra theo cái truyền thống oanh oanh liệt liệt với nụ cười lặng lẽ của các chí sĩ Việt Nam. Cái chết không còn có tính cách bị chặt đầu một cách thảm hại mà cốt đạt cho được bốn chữ " trung dung tựu nghĩa" để gây một xúc động bất tuyệt trong lòng kẻ hậu sinh, cốt truyền tiếp một niềm tin tưởng không bao giờ dứt.
Lòng tin ấy quả không thể dứt được , nhất là khi tôi thấy nó trong đôi mắt ông Cử Lê hôm sau khi ở Viện Cơ Mật về và ông bí mật gọi tôi vào phòng riêng. Ông vừa ứa nước mắt vừa mừng rỡ bảo tôi :
- Quả là vận nước còn may lắm, cậu ạ. Thầy có được xem tận mắt hai bài thơ tuyệt mệnh thi của Nguyễn đại nhân. Chà ! cậu mà được thấy cái nét chữ vững vàng cứng cỏi như viết bằng mũi đinh, mũi thép đó, cậu mới hiểu. Chữ viết đẹp một cách ngang tàng mà không tỏ ra chỗ nào ẩn một nét rối loạn. Tiếc quá ! không biết làm sao cho cậu xem qua, liếc qua một chút thôi cũng được để cho cậu vững lòng tin vào vận nước còn tốt lắm ! tốt lắm ! Nhưng mất cái nọ cậu lại được bù cái kia. Ðây, thầy thuộc lòng hết cả hai bài thơ, cậu lấy giấy bút để thầy đọc cho cậu chép. Nhớ lấy cây bút thầy mới mua và đừng run tay nghe.
Tôi đã chép hai bài thơ và tôi xúc động nhất khi nghe đọc tới bốn câu chót của bài thứ hai và cũng là bài cuối cùng :
Hàn sơn kỷ đắc cô tùng cán
Ðại hạ yên năng nhất mộc chi
Hảo bả đan tâm triều liệt thánh
Trung thu minh nguyệt bạn ngô qui
(Núi lạnh, tùng côi xơ xác đứng
Nhà to, cột một khó ngăn ngừa
Về chầu liệt thánh lòng son đấy
Tháng tám trăng rằm sẵn nhịp đưa
Huỳnh Thúc Kháng dịch )
Tôi có cảm tưởng thấy cây tùng cao vút mọc trên những dãy núi lạnh tôi từng đi qua, từng chiêm ngưỡng bỗng đỗ nhào xuống.
Ðêm ấy , tôi ngủ chiêm bao thấy hàng trăm kỵ sĩ rong ruỗi khắp xóm làng tỉnh Quảng Nam mang theo những lá đại kỳ viết bằng chữ lớn, báo tin thủ lãnh phiến loạn dã chết.
Nhưng đột nhiên những kỹ sĩ rực rỡ sắc màu kia biến mất nhường chỗ cho những người gầy gò xanh xao. Họ chạy qua mặt tôi, lớn tiếng gọi tôi và vẫy tay. Tôi sững sốt chạy lại thì thấy toàn những bộ mặt quen mà tôi đã gặp suốt ba năm trời ở núi rừng. Nhưng khi họ trưng thẳng lá cờ, tôi không thấy hung tín mà chỉ thấy một chữ " Tiệp" rất lớn. Rồi tôi lại thấy đoàn kỵ sĩ áo quần sặc sỡ hiện ra và tất cả cùng đua nhau chạy về phía sương mù.
Nguyễn Văn Xuân
Hương Máu
Quả như lời viên đại tá, ông Hường có xuất hiện. Và hình như ông xuất hiện cốt để bị bắt chứ không thể để thực hiện một kế hoạch quân sự như viên đại tá hốt hoảng lầm tưởng. Ông tự để bị bắt trong một cái miếu giữa đường Hội An - Ðà Nẵng. Trường hợp của ông thuộc "quân quốc trọng sự" nên phải tống giao ngay cho viện Cơ Mật và Tòa Khâm xét xử. Lính tập Hội An lập tức tăng cường việc canh gác. Người ta tíu tít đóng cũi - một cái cũi khá lớn - để giải ông và người con trai bị bắt trước ông. Cậu này mới khoảng mười lăm, mười sáu . Cả tỉnh đều xôn xao, bàn tán về biến cố quan trọng mà họ không chờ đợi này vì họ vẫn còn nuôi khá nhiều ảo vọng về ông. Tối hôm giải ông ra Huế, ông cử Lê gọi tôi vào mật phòng và trầm ngâm khá lâu trước khi bảo tôi:
- Cậu chắc hiểu được cái cảm tình sâu xa của thầy đối với ông Phan, ông Nguyễn. Bấy giờ, ông Nguyễn bị bắt như thế, thật là mối thương tâm, tuyệt vọng chung cho cả quốc dân. Nhưng thầy không muốn để Triều đình tra tấn ông và không muốn con người cao qúi, anh hùng , cương trực nhường ấy, can đảm nhường ấy phải chết nhục dưới lưỡi gươm của tụi đao phủ hèn kém. Vậy, cậu hãy giúp thầy một việc...
Ông rút từ dưới gối một cái dùi nhọn, bén ngọt, dài chừng hơn một tấc, ở chuôi có cái cán bằng gỗ.
- Cậu hãy tùy nghi giao cái này cho ông để ông tự xử trên đường, khi cậu cùng đi ra Huế với ông.
- Con sẽ đi Huế ?
- Cả thầy, thầy cũng đi mang hồ sơ theo. Nhưng nếu thầy lại gần tù xa thì không tiện vậy chỉ có cậu là lui tới dễ dàng theo sự điều khiển của thầy. Cậu cứ đưa và rủi có chuyện gì, thầy đã có cách.
Tôi lặng lẽ cất cái dùi nhọn trong mình. Trên đường đi, tôi chờ cơ hội thuận tiện. Kể ra cơ hội thuận tiện thật nhiều vì mọi công việc cung cấp thức ăn, nước uống...đều do ông Lê định đoạt. Nhưng tôi vẫn chờ một buổi nào đó mà hành động của tôi không thể bị tiết lộ. Vào một bữa ăn tối, khi mấy người lính được ông Lê gọi lại để cho thuốc hút, tôi kẹp mũi dùi xuống dưới cái mâm gỗ đựng các thức ăn rồi mang lên cho ông Hường. Ông lơ đễnh đỡ cái mân, không nhìn tôi. Tôi đằng hắng cốt để cho ông chú ý rồi đỡ cái mâm lên, đặt mũi dùi chạm tay ông. Ông hiểu ý ngay, ngạc nhiên quay phắt sang nhìn tôi. Trái tim tôi đập thình thịch. Không hiểu vì tôi sợ quá, hãi hùng như chưa bao giờ, hay vì đó là lần đầu, sau ba năm trường ao ước mà không toại nguyện thì bất thần được sở nguyện: Ông nhìn tôi ! Ông nhìn tôi ! Nhưng chỉ một giây, hình như hiểu là không nên để lộ những tình cảm đáng nghi giữa hoàn cảnh này nên ông vội vàng nhận ngay mâm cơm, gật đầu ra vẽ cảm ơn, nhưng rõ ràng là để có cớ nhìn lại tôi . Trong cái nhìn sau này, tôi bắt chợt đôi mắt dịu dàng trái ngược với lối nhìn xẳng xớm, nảy lửa thường ngày. Và trong cái ánh sáng của mắt đó, tôi nghe như ông ngầm báo là hình như ông đã nhận ra tôi, hình như có biết tôi là ai, đã gặp ở đâu rồi và ông rất tin cẩn tôi. Ôi nói làm sao cho hết những xúc động, những xao xuyến rờn rợn trên ót, dưới lòng bàn chân và trên da thịt tôi. Ba năm tranh đấu cũa tôi đâu phải vô ích. Nếu không có ba năm nằm gai mếm mật đó, làm sao giờ phút lớn lao này của lịch sử, tôi được vị anh hùng đó nhìn thông cảm bằng cái nhìn sâu tự đáy lòng. Như thế, đâu có phải là cuộc sống sau này, về lâu về dài, tôi chẳng có cái gì để kể cho lũ con cháu nghe đâu ! Khi ông ăn xong, tôi đến mang cái mâm đi. Ông vờ cầm cây quạt lông lên phe phẩy, úp liền xuống chỗ cái mâm mới đỡ lên rồi đưa tay sữa soạn lại cái khăn đen "chữ nhân" cho nghiêm chỉnh. Tôi bước đi và có cái cảm tưởng cái nhìn đó đang lượn ở phía sau.
Trong đêm ấy, nghĩa là suốt đoạn cuối cuộc hành trình ấy, tôi và ông Lê cùng hồi hộp chờ đợi một vụ án mạng, một vụ tự sát thảm khốc nhưng hết sức oanh liệt. Tôi có cái nôn nao vừa hãi hùng, vừa tự hào của người tạo dựng lịch sử. Tôi chỉ chờ tiếng kêu tiếng thét để trở nên con người gắn liền với lịch sử. Nhưng lạ lùng và chẳng có việc gì xảy ra. Cuối cùng khi rời thuyền lên viện Cơ Mật, người ta bắt gặp cái dùi ấy từ cũi rớt ra ngoài...Người ta đoán là ông đã thủ cái dùi ấy từ trước, muốn dùng nó để tự sát như hầu hết các bậc phi thường trong tưởng tượng và bây giờ bị bại lộ, phải vứt ra ngoài. Lúc tôi mang chén nước lên cho ông lần cuối cùng, ông lại nhìn tôi và khẻ lắc đầu.
Sau này, tôi mới sực nhớ và hiểu tại sao không không tự sát. Quả tự sát là ngu muội hèn nhát, và phản bội. Ngày ở trên Tân Tỉnh, ông đã chuẩn bị cái chết này như một kế hoạch trọng đại vừa bảo toàn sinh mạng các đảng nhân, vừa biểu lộ ý chí cứu quốc công khai, chứ không phải là chọn cái chết hèn mọn, dễ dàng. Chính ông cử Lê sau này cũng thở dài hối hận đã tính một nước cờ trẻ con, đã đem cái chí mỏng cạn của kẻ phàm phu để so với tư tưởng cao cả của nhà lãnh tụ. Vì sau khi dự buổi xét xử tại viện Cơ Mật - buổi ấy tôi không được dự - Ông cử Lê đã nhận thức một cách đầy đủ về hành trạng của ông Hường. Ông Cử Lê cho biết ông Hường đã khẳng khái nhận hết cả những việc ông và tất cả kẻ khác đã làm. Ông cho rằng lấy tư cách là quan phụ đạo của vua, bậc thầy cũ của vua không thể bỏ vua mà không dẫn dắt, lấy tư cách một vị phó bảng, tức là nhà nho ông không thể không đặt chữ trung lên trên và quyết phải sống chết vì giáo điều ấy, lấy tư cách là quan địa phương, ông phải bảo vệ và phải chết với địa phương đã được vua ủy nhiệm . Như thế là ông thừa mệnh vua và bắt tất cả kẻ khác phải theo ông. Kẻ nào không theo, ông xử tử và đốt hết nhà cửa để răn chúng, thị chúng. Tất cả mọi người đều khiếp sợ mà theo, dầu không muốn theo cũng không được. Sau khi trình bày những lý lẽ chắc nịch ấy ông bằng lòng chịu chết vì trách cả trách nhiệm thuộc về ông và chỉ xin các quan là đừng theo dõi và hành hạ trả thù những kẻ khác vì họ chỉ bị động và họ đã quá đau khổ rồi.
Các quan lại ở triều đình nói cho đúng chỉ là bọn vô lý tưởng, chúa nào chúng thờ cũng được, thời nào chúng theo cũng xuôi. Chúng vốn ngầm sợ nhất là Nguyễn Hiệu. Nay bắt được Nguyễn Hiệu tức là phương Nam đã tạm bình định xong, chúng có thể yên tâm về mặt đó. Chặt đầu Nguyễn Hiệu, đó là một thắng lợi quyết định, và người ấy đã tự nhận hết tội lỗi thì cũng đủ lắm rồi. Hơi đâu mà bới bèo ra bọ, không chừng rồi dân chúng lại nổi lên lung tung thì càng thêm khốn. Thế là bản án xử trảm đã lập thành.
Buổi sáng đưa ông ra pháp trường, người ta đặt ông vào một cái cũi khác, lớn hơn cái cũ. Ông ngồi trên một tấm cót tre, bên cạnh có bày sẵn hộp trầu, thuốc và theo yêu cầu của ông, cả một tờ giấy bạch và cây bút lông thượng hạng. Người con trai ông đã được đưa vào đề lao để chờ phát vãng làm lính ở Quảng Ngãi.
Dân chúng nghe tin bắt được đại thủ lĩnh "phiến loạn" và đem hành quyết thì từ nguồn chí biển đều đổ xô về tới tấp. Họ dàn sẵn từ sáng sớm trên con đường tù nhân sẽ đi qua với tất cả nghêm trang của giờ lịch sử trọng đại. Họ chờ một con người như thế nào ? Hình như vóc dáng, kích thước và tư thế một bậc anh hùng phải khác. Vì ở đây, họ chỉ gặp một nhà nho tuấn tú, phương phi, trắng trẻo. Nhà nho đó không nhìn một ai, không một chú ý đến mọi động tĩnh chung quanh của đám dân chúng vốn quen ồn ào giờ bỗng trở nên im lặng, kính cẩn và nhiều kẻ khóe mắt rưng rưng...Ông đang lo nghĩ những vần thơ tuyệt bút và muôn vạn con mắt đều trố nhìn vào ngọn bút lông đứng sựng và thoăn thoắt chạy trên tờ giấy. Ðiều này khiến người ta phải nghĩ là ông lầm tưởng mình đang thảo hịch giữa buổi tinh sương chứ không phải làm thơ tuyệt mệnh trong khi đi đến pháp trường.
Tôi không cần tả lại dông dài cái giờ phút ông chấm dứt những bài thơ tuyệt bút để mỉm cười thọ hình. Nó cũng diễn ra theo cái truyền thống oanh oanh liệt liệt với nụ cười lặng lẽ của các chí sĩ Việt Nam. Cái chết không còn có tính cách bị chặt đầu một cách thảm hại mà cốt đạt cho được bốn chữ " trung dung tựu nghĩa" để gây một xúc động bất tuyệt trong lòng kẻ hậu sinh, cốt truyền tiếp một niềm tin tưởng không bao giờ dứt.
Lòng tin ấy quả không thể dứt được , nhất là khi tôi thấy nó trong đôi mắt ông Cử Lê hôm sau khi ở Viện Cơ Mật về và ông bí mật gọi tôi vào phòng riêng. Ông vừa ứa nước mắt vừa mừng rỡ bảo tôi :
- Quả là vận nước còn may lắm, cậu ạ. Thầy có được xem tận mắt hai bài thơ tuyệt mệnh thi của Nguyễn đại nhân. Chà ! cậu mà được thấy cái nét chữ vững vàng cứng cỏi như viết bằng mũi đinh, mũi thép đó, cậu mới hiểu. Chữ viết đẹp một cách ngang tàng mà không tỏ ra chỗ nào ẩn một nét rối loạn. Tiếc quá ! không biết làm sao cho cậu xem qua, liếc qua một chút thôi cũng được để cho cậu vững lòng tin vào vận nước còn tốt lắm ! tốt lắm ! Nhưng mất cái nọ cậu lại được bù cái kia. Ðây, thầy thuộc lòng hết cả hai bài thơ, cậu lấy giấy bút để thầy đọc cho cậu chép. Nhớ lấy cây bút thầy mới mua và đừng run tay nghe.
Tôi đã chép hai bài thơ và tôi xúc động nhất khi nghe đọc tới bốn câu chót của bài thứ hai và cũng là bài cuối cùng :
Hàn sơn kỷ đắc cô tùng cán
Ðại hạ yên năng nhất mộc chi
Hảo bả đan tâm triều liệt thánh
Trung thu minh nguyệt bạn ngô qui
(Núi lạnh, tùng côi xơ xác đứng
Nhà to, cột một khó ngăn ngừa
Về chầu liệt thánh lòng son đấy
Tháng tám trăng rằm sẵn nhịp đưa
Huỳnh Thúc Kháng dịch )
Tôi có cảm tưởng thấy cây tùng cao vút mọc trên những dãy núi lạnh tôi từng đi qua, từng chiêm ngưỡng bỗng đỗ nhào xuống.
Ðêm ấy , tôi ngủ chiêm bao thấy hàng trăm kỵ sĩ rong ruỗi khắp xóm làng tỉnh Quảng Nam mang theo những lá đại kỳ viết bằng chữ lớn, báo tin thủ lãnh phiến loạn dã chết.
Nhưng đột nhiên những kỹ sĩ rực rỡ sắc màu kia biến mất nhường chỗ cho những người gầy gò xanh xao. Họ chạy qua mặt tôi, lớn tiếng gọi tôi và vẫy tay. Tôi sững sốt chạy lại thì thấy toàn những bộ mặt quen mà tôi đã gặp suốt ba năm trời ở núi rừng. Nhưng khi họ trưng thẳng lá cờ, tôi không thấy hung tín mà chỉ thấy một chữ " Tiệp" rất lớn. Rồi tôi lại thấy đoàn kỵ sĩ áo quần sặc sỡ hiện ra và tất cả cùng đua nhau chạy về phía sương mù.
Nguyễn Văn Xuân
NGUYỄN VĂN XUÂN : Quảng Nam có văn học, văn chương từ bao giờ ?
Quảng Nam có văn học, văn chương từ bao giờ!
Written by Nguyễn Văn Xuân (1921-2007)
Saturday, 15 April 2006
Nguyễn Văn Xuân
Câu hỏi đó rất khó trả lời.
Vì người Quảng Nam thật sự xuất hiện và được biết tới là vào những thời Trần, Hồ, Lê, Mạc trong hai vùng Điện Bàn và Thăng Hoa (tên hai phủ của Quảng Nam xưa). Tên Quảng Nam chỉ xuất hiện để chỉ một xứ: xứ Quảng Nam bao gồm từ Thăng Hoa đến vùng nay là Bình Định - Điện Bàn thuộc về xứ Thuận Hoá (nay là Thừa Thiên Huế) bên kia Hải Vân.
Cho đến thời Nguyễn Hoàng mới rút Điện Bàn ra khỏi Thuận Hoá để thành Thăng - Điện. Sau 1802, khi lập tỉnh mới gộp hai phủ ấy lại thành tỉnh Quảng Nam.
Khi còn là Thăng, Điện, ở đây sự học chưa thực sự mở mang và những chức vụ lớn đều ở trong tay người Đàng Ngoài. Tuy vậy, theo các sách do người Pháp viết để lại, bấy giờ đã có diễn tuồng. Mà muốn diễn phải có tuồng bản. Sự thật văn tuồng có thể được xem là văn học cổ nhất, nhưng không thấy lưu lại bản nào. Còn văn học dân gian thì chắc đã có từ lâu, nào hò, nào vè, hò khoan, ca dao, tục ngữ. Ví dụ những câu sau đây cho biết tình trạng Hội An khi còn nghèo:
Hội An bán gánh, bán lều
Kim Bồng bán cải, Trà Nhiêu bán hành.
Cho tới khi Hội An giàu có thịnh vượng:
Hội An bán gấm, bán điều
Kim Bồng bán cải, Trà Nhiêu bán hành.
Kim Bồng là vùng cách Hội An một con sông. Vùng ấy về sau chuyên về xây dựng và nghề mộc khá tinh xảo. Còn Trà Nhiêu là một đầm rộng lớn để tàu thuyền ngoại quốc vào đậu. Cửa Đà Nẵng chỉ dành cho các tàu thuyền lớn có tính cách tiền cảng. Vào thời xa xưa, chưa có tàu thuyền lớn thì chắc chắn Hội An giữ vai trò chuyên biệt thương mại của Hội An.
Sự lớn mạnh của thương mại và xuất nhập của tỉnh Quảng Nam (chứ không còn là xứ Quảng Nam) bắt đầu từ triều Nguyễn.
Biết bao giờ trả cho hết nợ Cao Hoàng.
Đào sông Cao Nhí, đắp đàng Bông Miêu.
Câu ca dao nói lên thực tế xa xưa đó. Dưới thời Minh Mạng, đào sông Vĩnh Điện, sông này mở khẩu từ làng Câu Nhí nên cũng mang tên ấy và rất thuận lợi tiếp nối với sông Hàn, biến nơi này thành nơi tụ hội một hải đội chuyên xuất khẩu.
Từ Hội An ra cửa Hàn, sao bạn lại không lên đường đi chơi đèo Hải Vân và Hải Vân Quan. Tôi thấy mấy ông nhà văn, nhà thơ ngày trước như Nguyễn Tuân, Đoàn Phú Tứ, Lưu Trọng Lư... thỉnh thoảng vào Quảng Nam, lại rủ nhau lên đỉnh đèo uống rượu trước trời cao, biển rộng và mây trắng bay sau các lùm cây. Các tiệc rượu như thế thanh tao và thanh cao biết bao nhiêu. Các du khách còn được xem lại cửa ải xưa, nơi lập ra để ngăn chặn quân địch đổ bộ vào Đà Nẵng để kéo quân ra Huế đánh kinh đô.
Cũng tại con đèo núi tiếp núi này, nơi:
Chiều chiều ra đứng Hải Vân
Chim kêu ghềnh đá gẫm thân lại buồn.
Chắc đây là tiếng than thở của dân làng bị định cư tại lưng đèo để bảo vệ đèo hoặc của một phụ nữ nào đó sống trong quạnh quẽ, cô đơn. Tuy vậy, vào ngày nắng sáng mùa hè, chính mắt tôi đã từng trông thấy những lẵng hoa vĩ đại rực rỡ chói chang. Đó là một loại hoa màu mát dịu như hoa rau muống nhưng lớn hơn, trải khắp hết cụm núi này sang cụm núi nọ, dưới chân lại có loại hoa vàng đậm như để đan viền cho những tấm thảm khổng lồ, bất tận kia.
Tôi mời bạn đến với Ngũ Hành Sơn. Thời xa xưa, trước Minh Mạng có tên cúng cơm Non Nước trải qua nhiều thế kỷ. Cuối thế kỷ XVII, chúa Hiển Tông Nguyễn Phước Chu (1691 - 1725) có mời một đại sư Trung Quốc sang xứ Đàng Trong. Nhà sư đến Non Nước chơi và khi trở về có viết tập Hải ngoại ký sự - Viện đại học Huế ấn hành bản dịch năm 1963. Ông khen cảnh đẹp, cảm hứng làm nhiều bài thơ ca tụng Tam Thai (tức Non Nước). Ông cũng trách thi nhân ta đã không biết thưởng thức cảnh đẹp, không dùng đề tài ấy để ngâm vịnh.
Khi tôi lớn lên, không cần ông động viên (vì sách của ông chưa ai biết) thấy các sườn núi đã đầy ngập những thơ Hán, Nôm, dở hay, làng nhàng cũng đều có, thường dân, danh sĩ cũng có. Những người Quảng Nam thường thích đọc hai bài (không rõ có đục vào sườn núi hay không) của bà Bang Nhãn và ông Thái Duy Thanh.
Bài của bà Bang Nhãn có khẩu chí chân tình:
Núi chen sắc đá màu phơi gấm
Chùa nực hơi hương khói lộn mây
Bài của Thái Duy Thanh độc đáo:...
Ngó lại, ngó qua năm đống đá
Tu lên, tu xuống mấy ông thầy
Lên đài Vọng Hải trông xa tít;
Vào động Huyền Không ngó trống quầy
Lếu láo ngâm đưa đôi chén rượu,
Cõi trần khi cũng có tiên đây.
Ngũ Hành Sơn là cái tên mới đặt thời vua Minh Mạng. Đó là nơi vua Minh Mạng, Thành Thái đến xây dựng hoặc vãn cảnh. Lại có một bà công chúa đến tu. Đây là nơi người Quảng Nam rất tôn trọng, xem như “Địa linh nhân kiệt”, nơi tạo ra những nhân tài xuất chúng. Học trò thời trước thường đến vãn cảnh và trước khi ra Huế thi Hương, thi Hội vẫn có mặt ở đây để xin được phù trì. Những cảnh đẹp nào Huyền Không động, động Chiêm Thành, nào Vọng Hải Đài, Vọng Giang Đài, nào các chùa danh tiếng, nào những bậc cấp khéo xây, huyền thoại ly kỳ về con rắn biển đã tạo nên cửa Đà Nẵng, sông Hàn rồi đẻ trứng tại đây hoá thành núi... Một thi nhân cũ tặng cho Ngũ Hành Sơn một câu thơ đầy ý nghĩa “Núi thấp hơn hết mà danh cao hơn hết” (dịch).
Bạn đã biết các khu vực nổi tiếng qua ca dao. Nhưng thiếu sót biết bao nếu không ngược dòng Thu Bồn, viếng xem những cảnh trí khác cũng rất nổi tiếng thời xưa - chúng ta có thể từ Hội An ngược lên. Bạn sẽ thấy, trước hết cùng nước bao la xa đổ về biển. Ấy là vùng Trà Nhiêu. Cũng tại cái đầm vĩ đại mà chắc chắn thời Chiêm Thành lập kinh đô tại đây, nó cũng đóng vai trò Chiêm cảng. Ngược sông Thu Bồn đến cầu Câu Lâu, nhìn qua hướng bên phải là một dải đất rộng, nơi có những làng Phú Chiêm, Thanh Chiêm vốn rút từ Chiêm của Chiêm động ra.
Lại ngược sông nữa, bạn sẽ gặp một vùng gọi là Gò Nổi. Đây là vùng trù phú nổi tiếng về dệt các mặt hàng vải, tơ lụa. Cũng vì có tơ lụa nên có những ruộng dâu xanh ngắt. Các cô con gái làm nghề tằm tang quen ở trong bóng mát nên có tiếng xinh đẹp nhất.
Cũng vì có dâu xanh lúa tốt, nên Gò Nổi sản xuất biết bao danh nhân lững lẫy trong học vấn, trong chính trị - từ Hoàng Diệu đến Phạm Phú Thứ, từ Trần Cao Vân đến Phan Thành Tài. Riêng một họ Phan, về lớp sau cũng sản sinh những Phan Khôi, Phan Thanh... thú vị hơn nữa là những cô gái Bảo An xinh đẹp một thời.
Lại ngược dòng nữa, trải qua những di tích cũ-mới, ở đây có lễ hội hằng năm ở miếu thờ bà Thu Bồn - và các địa danh nổi tiếng.
Rồi bạn đến nơi có ca dao ai cũng biết:
Ngó lên Hòn Kẽm, Đá Dừng
Thương cha nhớ mẹ quá chừng bạn ơi!
Từ nguồn xa xôi, nước đổ về đây rồi dừng lại, chậm lại ở Hòn Kẽm, hai bên có đá dựng. Nước tạo nên một dải giống hệt một cái hồ tuyệt đẹp gợi cho chúng ta cảm tưởng “Non bồng, nước Nhược” cực kỳ êm ả. Nếu có một con thuyền nhỏ, bạn cùng người yêu đưa nhau đi trên hồ thiên tạo này, bạn sẽ cảm thấy thế giới “Kinh tế thị trường” dưới kia sao mà ồn ào, trần tục đến thế. Ở đây có bãi cát đẹp, bạn có thể đóng trại một hai hôm để thưởng thức tinh tuý tươi mát trong lành của trời đất.
Nói đến cảnh đẹp Quảng Nam mà quên “Hòn Kẽm Đá Dừng” cũng như quên “Mỹ Sơn thánh địa” của Chiêm Thành thì phải nói là chưa đủ đấy! Nhất là quần Tháp và các di vật lưu lại ở vùng thung lũng dưới sự chứng kiến đời đời của ngọn núi Quắp độc đáo mang tính thiêng liêng khó hiểu. Có đến Mỹ Sơn bạn mới có sự thông cảm sâu sắc hơn với cổ viện Chàm tại Đà Nẵng, một cổ viện không đồ sộ nhưng danh tiếng lớn. Một thi sĩ xưa vịnh câu này và Huỳnh Thúc Kháng coi là tuyệt hay “Núi thấp nhất nhưng danh vọng cao nhất” như đã nói, ta cũng có thể gán câu đó cho cổ viện Chàm.
Nói đến Quảng Nam, người ta hay nhắc chuyện học. Người Quảng Nam cũng tự tin, tự hào về mặt này.
Họ lại cũng hay nhắc về “Ngũ phụng tề phi”. Tôi nhớ trước kia, các sinh viên Quảng Nam có đề nghị tôi phát biểu về sự kiện này. Tôi cũng cho đó là điều đáng quan tâm qua những kỳ thi Hội, thi Đình ở một vài tỉnh. Ba tiến sĩ, hai phó bảng cùng đỗ một khoa thi thì cũng đúng là “năm con phượng cùng bay”. Nhưng trong việc học, bằng cấp cao đến đâu cũng chỉ đánh dấu sự khởi đầu... Điều quan trọng nhất của việc học hành, chính là đậu để làm gì? Để lập sự nghiệp. Năm nhà đại khoa đó có sự nghiệp chính trị, văn hoá, học thuật nào? Tôi không thấy. Vậy ta nên coi đó là giai thoại giúp cho các bạn trẻ phấn chấn hơn trong việc học hành. Học giỏi, đậu cao, phụng sự đất nước, có sự nghiệp xứng đáng, lưu danh là điều đáng quý, đáng trân trọng, noi gương. Song đã có “Lục phụng bất tề phi”. Phạm Phú Thứ (tiến sĩ), Phan Châu Trinh, Nguyễn Duy Hiệu (phó bảng), Trần Qúy Cáp, Huỳnh Thúc Kháng (tiến sĩ), Phạm Như Xương (Hoàng Giáp) và ngoại trừ Phạm Như Xương ít hiểu biết nên cho dù ông bỏ quan để theo Nghĩa hội Quảng Nam rồi sau đó là chỗ dựa bí mật và là cố vấn cho Quang Phục Hội (phong trào Đông Du của Tiểu La và Phan Bội Châu). Nếu nói học thì ông có học vị cao nhất khắp miền Nam, còn hành thì ông hành động như một đại trí thức.
“Lục phụng bất tề phi” mới thực sự nêu gương cho người Quảng Nam và Việt Nam để tuổi trẻ biết thế nào là học và hành”, bây giờ và cả trường kỳ lịch sử. Ví như Phạm Phú Thứ, đỗ song nguyên (cử nhân, tiến sĩ đầu) khi sang Pháp chuộc ba tỉnh miền Đông Nam Bộ, đã chuyên tâm viết bộ Du ký lừng lẫy (Tây hành nhật ký) đến nay còn giá trị đối với lịch sử trong nước và thế giới. Vậy mà lúc về, không quên mang theo về cái xe đạp nước kéo bằng trâu theo kiểu mẫu Ai Cập, gọi là xe trâu. Phan Châu Trinh khi ở Côn Đảo là tay câu cá giỏi, sang Pháp là “xếp” một câu lạc bộ câu cá và kiếm sống bằng nghề thợ ảnh đồng thời là tác giả bao nhiêu bộ sách chính trị vang động giới chính trị Pari (Việt và Pháp). Trần Quý Cáp chuyên nghề bút canh (Cày ruộng bằng bút) là thầy đồ tiếng tăm, cả các tỉnh Nam ra học và nhờ đó ông mới hướng đạo được cuộc Nam du của ba chí sĩ (Phan, Huỳnh và Trần) đã là bậc giáo thọ tử vì đạo. Ông Nguyễn Ái Quốc trong Bản án chế độ thực dân Pháp đã đề cao “Ông nghè Trần Quý Cáp, một nhà nho thanh cao ai cũng kính phục”. Ông là nhà hùng văn và hùng biện. Huỳnh Thúc Kháng (cũng song nguyên) là người học trò nức tiếng thuở trẻ. Khi đi tù Côn Đảo, ông học làm đồi mồi và quản lý sở buôn. Ông trở về đất liền trên tay có bộ từ điển Pháp Việt mà người ta bảo ông học thuộc lòng từ đầu chí cuối. Với nghề đồi mồi, ông đã thực hành và đưa các mặt hàng mỹ nghệ nữ trang đi chào để xuất khẩu sang Pháp và sau này, ông tự đứng làm quản lý cho công ty Huỳnh Thúc Kháng (nhà in và báo Tiếng Dân). Cũng cần nhắc thêm 1905, ba nhà đại khoa này đã giúp Phan Thiết lập công ty nước mắm Liên Thành đầu tiên. Học như thế mới gọi là học, và nêu cái gương học vấn cho dân, cho nước. Lục phụng này mới thật là phụng hoàng không thẹn cùng nhật nguyệt.
Còn không học đúng ra là không có bằng cấp thì cũng có nhiều tay cự phách: Tiểu La, Trần Cao Vân, Thái Phiên, Phan Thành Tài, Phan Khôi…
“Đất Quảng quê tôi” còn nhiều điều để nói, với tính đặc thù của nó, hầu góp phần vào kho tàng văn hoá nước nhà, đang đi lên trong sự nghiệp đổi mới.
GS Nguyễn Văn Xuân
© 2010 www.xuquang.com
Written by Nguyễn Văn Xuân (1921-2007)
Saturday, 15 April 2006
Nguyễn Văn Xuân
Câu hỏi đó rất khó trả lời.
Vì người Quảng Nam thật sự xuất hiện và được biết tới là vào những thời Trần, Hồ, Lê, Mạc trong hai vùng Điện Bàn và Thăng Hoa (tên hai phủ của Quảng Nam xưa). Tên Quảng Nam chỉ xuất hiện để chỉ một xứ: xứ Quảng Nam bao gồm từ Thăng Hoa đến vùng nay là Bình Định - Điện Bàn thuộc về xứ Thuận Hoá (nay là Thừa Thiên Huế) bên kia Hải Vân.
Cho đến thời Nguyễn Hoàng mới rút Điện Bàn ra khỏi Thuận Hoá để thành Thăng - Điện. Sau 1802, khi lập tỉnh mới gộp hai phủ ấy lại thành tỉnh Quảng Nam.
Khi còn là Thăng, Điện, ở đây sự học chưa thực sự mở mang và những chức vụ lớn đều ở trong tay người Đàng Ngoài. Tuy vậy, theo các sách do người Pháp viết để lại, bấy giờ đã có diễn tuồng. Mà muốn diễn phải có tuồng bản. Sự thật văn tuồng có thể được xem là văn học cổ nhất, nhưng không thấy lưu lại bản nào. Còn văn học dân gian thì chắc đã có từ lâu, nào hò, nào vè, hò khoan, ca dao, tục ngữ. Ví dụ những câu sau đây cho biết tình trạng Hội An khi còn nghèo:
Hội An bán gánh, bán lều
Kim Bồng bán cải, Trà Nhiêu bán hành.
Cho tới khi Hội An giàu có thịnh vượng:
Hội An bán gấm, bán điều
Kim Bồng bán cải, Trà Nhiêu bán hành.
Kim Bồng là vùng cách Hội An một con sông. Vùng ấy về sau chuyên về xây dựng và nghề mộc khá tinh xảo. Còn Trà Nhiêu là một đầm rộng lớn để tàu thuyền ngoại quốc vào đậu. Cửa Đà Nẵng chỉ dành cho các tàu thuyền lớn có tính cách tiền cảng. Vào thời xa xưa, chưa có tàu thuyền lớn thì chắc chắn Hội An giữ vai trò chuyên biệt thương mại của Hội An.
Sự lớn mạnh của thương mại và xuất nhập của tỉnh Quảng Nam (chứ không còn là xứ Quảng Nam) bắt đầu từ triều Nguyễn.
Biết bao giờ trả cho hết nợ Cao Hoàng.
Đào sông Cao Nhí, đắp đàng Bông Miêu.
Câu ca dao nói lên thực tế xa xưa đó. Dưới thời Minh Mạng, đào sông Vĩnh Điện, sông này mở khẩu từ làng Câu Nhí nên cũng mang tên ấy và rất thuận lợi tiếp nối với sông Hàn, biến nơi này thành nơi tụ hội một hải đội chuyên xuất khẩu.
Từ Hội An ra cửa Hàn, sao bạn lại không lên đường đi chơi đèo Hải Vân và Hải Vân Quan. Tôi thấy mấy ông nhà văn, nhà thơ ngày trước như Nguyễn Tuân, Đoàn Phú Tứ, Lưu Trọng Lư... thỉnh thoảng vào Quảng Nam, lại rủ nhau lên đỉnh đèo uống rượu trước trời cao, biển rộng và mây trắng bay sau các lùm cây. Các tiệc rượu như thế thanh tao và thanh cao biết bao nhiêu. Các du khách còn được xem lại cửa ải xưa, nơi lập ra để ngăn chặn quân địch đổ bộ vào Đà Nẵng để kéo quân ra Huế đánh kinh đô.
Cũng tại con đèo núi tiếp núi này, nơi:
Chiều chiều ra đứng Hải Vân
Chim kêu ghềnh đá gẫm thân lại buồn.
Chắc đây là tiếng than thở của dân làng bị định cư tại lưng đèo để bảo vệ đèo hoặc của một phụ nữ nào đó sống trong quạnh quẽ, cô đơn. Tuy vậy, vào ngày nắng sáng mùa hè, chính mắt tôi đã từng trông thấy những lẵng hoa vĩ đại rực rỡ chói chang. Đó là một loại hoa màu mát dịu như hoa rau muống nhưng lớn hơn, trải khắp hết cụm núi này sang cụm núi nọ, dưới chân lại có loại hoa vàng đậm như để đan viền cho những tấm thảm khổng lồ, bất tận kia.
Tôi mời bạn đến với Ngũ Hành Sơn. Thời xa xưa, trước Minh Mạng có tên cúng cơm Non Nước trải qua nhiều thế kỷ. Cuối thế kỷ XVII, chúa Hiển Tông Nguyễn Phước Chu (1691 - 1725) có mời một đại sư Trung Quốc sang xứ Đàng Trong. Nhà sư đến Non Nước chơi và khi trở về có viết tập Hải ngoại ký sự - Viện đại học Huế ấn hành bản dịch năm 1963. Ông khen cảnh đẹp, cảm hứng làm nhiều bài thơ ca tụng Tam Thai (tức Non Nước). Ông cũng trách thi nhân ta đã không biết thưởng thức cảnh đẹp, không dùng đề tài ấy để ngâm vịnh.
Khi tôi lớn lên, không cần ông động viên (vì sách của ông chưa ai biết) thấy các sườn núi đã đầy ngập những thơ Hán, Nôm, dở hay, làng nhàng cũng đều có, thường dân, danh sĩ cũng có. Những người Quảng Nam thường thích đọc hai bài (không rõ có đục vào sườn núi hay không) của bà Bang Nhãn và ông Thái Duy Thanh.
Bài của bà Bang Nhãn có khẩu chí chân tình:
Núi chen sắc đá màu phơi gấm
Chùa nực hơi hương khói lộn mây
Bài của Thái Duy Thanh độc đáo:...
Ngó lại, ngó qua năm đống đá
Tu lên, tu xuống mấy ông thầy
Lên đài Vọng Hải trông xa tít;
Vào động Huyền Không ngó trống quầy
Lếu láo ngâm đưa đôi chén rượu,
Cõi trần khi cũng có tiên đây.
Ngũ Hành Sơn là cái tên mới đặt thời vua Minh Mạng. Đó là nơi vua Minh Mạng, Thành Thái đến xây dựng hoặc vãn cảnh. Lại có một bà công chúa đến tu. Đây là nơi người Quảng Nam rất tôn trọng, xem như “Địa linh nhân kiệt”, nơi tạo ra những nhân tài xuất chúng. Học trò thời trước thường đến vãn cảnh và trước khi ra Huế thi Hương, thi Hội vẫn có mặt ở đây để xin được phù trì. Những cảnh đẹp nào Huyền Không động, động Chiêm Thành, nào Vọng Hải Đài, Vọng Giang Đài, nào các chùa danh tiếng, nào những bậc cấp khéo xây, huyền thoại ly kỳ về con rắn biển đã tạo nên cửa Đà Nẵng, sông Hàn rồi đẻ trứng tại đây hoá thành núi... Một thi nhân cũ tặng cho Ngũ Hành Sơn một câu thơ đầy ý nghĩa “Núi thấp hơn hết mà danh cao hơn hết” (dịch).
Bạn đã biết các khu vực nổi tiếng qua ca dao. Nhưng thiếu sót biết bao nếu không ngược dòng Thu Bồn, viếng xem những cảnh trí khác cũng rất nổi tiếng thời xưa - chúng ta có thể từ Hội An ngược lên. Bạn sẽ thấy, trước hết cùng nước bao la xa đổ về biển. Ấy là vùng Trà Nhiêu. Cũng tại cái đầm vĩ đại mà chắc chắn thời Chiêm Thành lập kinh đô tại đây, nó cũng đóng vai trò Chiêm cảng. Ngược sông Thu Bồn đến cầu Câu Lâu, nhìn qua hướng bên phải là một dải đất rộng, nơi có những làng Phú Chiêm, Thanh Chiêm vốn rút từ Chiêm của Chiêm động ra.
Lại ngược sông nữa, bạn sẽ gặp một vùng gọi là Gò Nổi. Đây là vùng trù phú nổi tiếng về dệt các mặt hàng vải, tơ lụa. Cũng vì có tơ lụa nên có những ruộng dâu xanh ngắt. Các cô con gái làm nghề tằm tang quen ở trong bóng mát nên có tiếng xinh đẹp nhất.
Cũng vì có dâu xanh lúa tốt, nên Gò Nổi sản xuất biết bao danh nhân lững lẫy trong học vấn, trong chính trị - từ Hoàng Diệu đến Phạm Phú Thứ, từ Trần Cao Vân đến Phan Thành Tài. Riêng một họ Phan, về lớp sau cũng sản sinh những Phan Khôi, Phan Thanh... thú vị hơn nữa là những cô gái Bảo An xinh đẹp một thời.
Lại ngược dòng nữa, trải qua những di tích cũ-mới, ở đây có lễ hội hằng năm ở miếu thờ bà Thu Bồn - và các địa danh nổi tiếng.
Rồi bạn đến nơi có ca dao ai cũng biết:
Ngó lên Hòn Kẽm, Đá Dừng
Thương cha nhớ mẹ quá chừng bạn ơi!
Từ nguồn xa xôi, nước đổ về đây rồi dừng lại, chậm lại ở Hòn Kẽm, hai bên có đá dựng. Nước tạo nên một dải giống hệt một cái hồ tuyệt đẹp gợi cho chúng ta cảm tưởng “Non bồng, nước Nhược” cực kỳ êm ả. Nếu có một con thuyền nhỏ, bạn cùng người yêu đưa nhau đi trên hồ thiên tạo này, bạn sẽ cảm thấy thế giới “Kinh tế thị trường” dưới kia sao mà ồn ào, trần tục đến thế. Ở đây có bãi cát đẹp, bạn có thể đóng trại một hai hôm để thưởng thức tinh tuý tươi mát trong lành của trời đất.
Nói đến cảnh đẹp Quảng Nam mà quên “Hòn Kẽm Đá Dừng” cũng như quên “Mỹ Sơn thánh địa” của Chiêm Thành thì phải nói là chưa đủ đấy! Nhất là quần Tháp và các di vật lưu lại ở vùng thung lũng dưới sự chứng kiến đời đời của ngọn núi Quắp độc đáo mang tính thiêng liêng khó hiểu. Có đến Mỹ Sơn bạn mới có sự thông cảm sâu sắc hơn với cổ viện Chàm tại Đà Nẵng, một cổ viện không đồ sộ nhưng danh tiếng lớn. Một thi sĩ xưa vịnh câu này và Huỳnh Thúc Kháng coi là tuyệt hay “Núi thấp nhất nhưng danh vọng cao nhất” như đã nói, ta cũng có thể gán câu đó cho cổ viện Chàm.
Nói đến Quảng Nam, người ta hay nhắc chuyện học. Người Quảng Nam cũng tự tin, tự hào về mặt này.
Họ lại cũng hay nhắc về “Ngũ phụng tề phi”. Tôi nhớ trước kia, các sinh viên Quảng Nam có đề nghị tôi phát biểu về sự kiện này. Tôi cũng cho đó là điều đáng quan tâm qua những kỳ thi Hội, thi Đình ở một vài tỉnh. Ba tiến sĩ, hai phó bảng cùng đỗ một khoa thi thì cũng đúng là “năm con phượng cùng bay”. Nhưng trong việc học, bằng cấp cao đến đâu cũng chỉ đánh dấu sự khởi đầu... Điều quan trọng nhất của việc học hành, chính là đậu để làm gì? Để lập sự nghiệp. Năm nhà đại khoa đó có sự nghiệp chính trị, văn hoá, học thuật nào? Tôi không thấy. Vậy ta nên coi đó là giai thoại giúp cho các bạn trẻ phấn chấn hơn trong việc học hành. Học giỏi, đậu cao, phụng sự đất nước, có sự nghiệp xứng đáng, lưu danh là điều đáng quý, đáng trân trọng, noi gương. Song đã có “Lục phụng bất tề phi”. Phạm Phú Thứ (tiến sĩ), Phan Châu Trinh, Nguyễn Duy Hiệu (phó bảng), Trần Qúy Cáp, Huỳnh Thúc Kháng (tiến sĩ), Phạm Như Xương (Hoàng Giáp) và ngoại trừ Phạm Như Xương ít hiểu biết nên cho dù ông bỏ quan để theo Nghĩa hội Quảng Nam rồi sau đó là chỗ dựa bí mật và là cố vấn cho Quang Phục Hội (phong trào Đông Du của Tiểu La và Phan Bội Châu). Nếu nói học thì ông có học vị cao nhất khắp miền Nam, còn hành thì ông hành động như một đại trí thức.
“Lục phụng bất tề phi” mới thực sự nêu gương cho người Quảng Nam và Việt Nam để tuổi trẻ biết thế nào là học và hành”, bây giờ và cả trường kỳ lịch sử. Ví như Phạm Phú Thứ, đỗ song nguyên (cử nhân, tiến sĩ đầu) khi sang Pháp chuộc ba tỉnh miền Đông Nam Bộ, đã chuyên tâm viết bộ Du ký lừng lẫy (Tây hành nhật ký) đến nay còn giá trị đối với lịch sử trong nước và thế giới. Vậy mà lúc về, không quên mang theo về cái xe đạp nước kéo bằng trâu theo kiểu mẫu Ai Cập, gọi là xe trâu. Phan Châu Trinh khi ở Côn Đảo là tay câu cá giỏi, sang Pháp là “xếp” một câu lạc bộ câu cá và kiếm sống bằng nghề thợ ảnh đồng thời là tác giả bao nhiêu bộ sách chính trị vang động giới chính trị Pari (Việt và Pháp). Trần Quý Cáp chuyên nghề bút canh (Cày ruộng bằng bút) là thầy đồ tiếng tăm, cả các tỉnh Nam ra học và nhờ đó ông mới hướng đạo được cuộc Nam du của ba chí sĩ (Phan, Huỳnh và Trần) đã là bậc giáo thọ tử vì đạo. Ông Nguyễn Ái Quốc trong Bản án chế độ thực dân Pháp đã đề cao “Ông nghè Trần Quý Cáp, một nhà nho thanh cao ai cũng kính phục”. Ông là nhà hùng văn và hùng biện. Huỳnh Thúc Kháng (cũng song nguyên) là người học trò nức tiếng thuở trẻ. Khi đi tù Côn Đảo, ông học làm đồi mồi và quản lý sở buôn. Ông trở về đất liền trên tay có bộ từ điển Pháp Việt mà người ta bảo ông học thuộc lòng từ đầu chí cuối. Với nghề đồi mồi, ông đã thực hành và đưa các mặt hàng mỹ nghệ nữ trang đi chào để xuất khẩu sang Pháp và sau này, ông tự đứng làm quản lý cho công ty Huỳnh Thúc Kháng (nhà in và báo Tiếng Dân). Cũng cần nhắc thêm 1905, ba nhà đại khoa này đã giúp Phan Thiết lập công ty nước mắm Liên Thành đầu tiên. Học như thế mới gọi là học, và nêu cái gương học vấn cho dân, cho nước. Lục phụng này mới thật là phụng hoàng không thẹn cùng nhật nguyệt.
Còn không học đúng ra là không có bằng cấp thì cũng có nhiều tay cự phách: Tiểu La, Trần Cao Vân, Thái Phiên, Phan Thành Tài, Phan Khôi…
“Đất Quảng quê tôi” còn nhiều điều để nói, với tính đặc thù của nó, hầu góp phần vào kho tàng văn hoá nước nhà, đang đi lên trong sự nghiệp đổi mới.
GS Nguyễn Văn Xuân
© 2010 www.xuquang.com
11/1/10
Đọc Thơ Di Cảo Mới Của Lưu Quang Vũ
Đọc Thơ Di Cảo Mới Của Lưu Quang Vũ
PHẠM XUÂN NGUYÊN Chủ Nhật, Ngày 22 tháng 3-2009
Những câu thơ âm thầm
Muốn nói hết sự thực
Về đất nước của mình
(Lưu Quang Vũ)
"Mới" đây là mới được công bố. Trong sự nghiệp sáng tạo nhiều mặt của mình, Lưu Quang Vũ ký thác tâm sự sâu nặng nhất, thể hiện mình rõ nhất ở thơ. Nhưng sinh thời anh chỉ mới có một tập thơ in chung với Bằng Việt (Hương cây- Bếp lửa, 1968). Mãi đến khi anh mất (1988), di cảo thơ của anh được công bố một phần (Mây trắng đời tôi, Bầy ong trong đêm sâu) người đọc mới biết rõ hơn khuôn mặt nhà thơ của Lưu Quang Vũ và hiểu vì sao thơ anh viết nhiều những năm tháng ấy nhưng không in ra được. Năm nay, nhân kỷ niệm hai mươi năm ngày mất của anh, thêm những bài thơ Lưu Quang Vũ viết từ giữa thập niên 1970 được in ra trong sách "Lưu Quang Vũ – Di cảo, thơ và nhật ký" (Nxb Lao Động, 2008). Trong khối thơ di cảo mới này, tôi đặc biệt quan tâm tới những bài thơ nói về chiến tranh của anh và xin ghi nhanh lại đây những cảm nhận ban đầu, như một nén hương tưởng niệm một tiếng thơ khác biệt.
Lưu Quang Vũ sinh năm 1948, và như mọi thanh niên thế hệ mình, anh nhập ngũ ở độ tuổi hai mươi, khi đất nước có chiến tranh. Thời Vũ nhập ngũ là giữa những năm sáu mươi của thế kỷ hai mươi.
Thời đoạn 1968 – 1972 ở Việt Nam là gì? Là chiến tranh. Chiến tranh ở hồi bi kịch nhất và bi tráng nhất. Nhưng Vũ, như các chàng trai cùng thời, khi mới nhập ngũ là vào bộ đội - trường học lớn của cách mạng, là đi đánh Mỹ, là tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ của anh khi mới khoác bộ quân phục màu xanh lên mình là mang chở nhận thức và tình cảm chung của thời cuộc hồi đầu.
Công sự pháo
Phủ đầy ngụy trang xanh
Trong những chùm cây dại
Có vài cành bưởi cành chanh
Cả quê nhà
Cùng ta chiến đấu
Từng viên đạn lắp vào nòng pháo
Bồi hồi nghe hương bưởi lá chanh
(Lá bưởi lá chanh, 1965)
Cám ơn thời gian cám ơn hôm nay
Người chiến đấu mang nụ cười đẹp nhất
Ngày ấy ta chưa thấy hết tầm đất nước
Ngày ấy ta chưa hiểu rõ lòng ta
Anh chưa biết yêu em như bây giờ
(Ngày ấy..., 1967)
Thơ Tố Hữu ngày ấy từng viết: "Hoan hô anh giải phóng quân! Kính chào anh con người đẹp nhất!".
Thời cuộc hồi sau khắc nghiệt hơn, tàn nhẫn hơn. Giai đoạn "vào bộ đội" chuyển nhanh sang giai đoạn "đi lính". Người lính Lưu Quang Vũ trải đời quân ngũ và cuộc chiến đã thấy ra "Giữa chiến tranh hiểu đời thực hơn nhiều / Rách tan cả những làn sương đẹp phủ". Không phải từ những bi kịch đời riêng của Vũ mà anh có cái nhìn sẽ bị coi là "u ám, đen tối" như vậy về đất nước, nhân dân. Đọc hết thơ anh thì thấy có một cái gì đấy từ thẳm sâu trong anh đã khiến anh sớm và nhanh nhìn cuộc đời ở phía "viển vông, cay đắng, u buồn". Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, một người bạn cùng thời Vũ, trong một bài viết có nhắc lại câu thơ như đã thất lạc của Vũ: "tuổi hai mươi khốn khổ của tôi ơi / tuổi tai ương dằng dặc trận mưa dài". Cuộc chiến với sự chết chóc đổ vỡ của nó chỉ mài sắc và đào sâu thêm nhiều nữa, mạnh nữa cảm quan ấy trong anh và của anh. Từ đây, với Vũ, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã là cuộc chiến tranh Việt Nam mà đối tượng bị tàn phá là đất nước Việt Nam và nạn nhân là con người Việt Nam. Lưu Quang Vũ đã đi lính và đã bỏ lính. Hành động bị coi là "đào ngũ" của anh, có thể, là do phản ứng của tuổi trẻ nơi anh đối với những bó buộc, cứng nhắc của hoàn cảnh quân ngũ. Nhưng trong thơ anh thì lý do không đơn giản như vậy, không phải chỉ do ngoại cảnh, nó đi từ tâm thức. Đọc di cảo thơ Vũ thấy khẳng định điều này. Những bài thơ lạc thời cuộc chiến được viết ra để bày tỏ một cách nhìn, một thái độ, biết là không thể đăng được nhưng không thể nào không viết ra, chúng tập hợp thành một di cảo để khi đưa ra dưới ánh mặt trời phát lộ một điều là Lưu Quang Vũ đã thay đổi nhận thức và tình cảm của mình khi đi qua cuộc chiến. Đất nước nhân dân trở thành cảm hứng lớn của thơ Lưu Quang Vũ thời chiến, được anh trình bày dưới cái nhìn thời chiến đầy khắc khoải đau đớn, tuyệt vọng và bi quan. Điều quan trọng đáng nói ở đây là anh viết những điều đó ngay khi đang trong cuộc chiến, và ngay ở tuổi đời rất trẻ.
Anh gọi những người trẻ nối nhau ra trận là "những đứa trẻ buồn ướt lạnh". Họ đi với tâm trạng "lòng chỉ muốn yêu thương / mà cứ phải suốt đời căm giận", cho nên "giết xong quân giặc / chẳng thấy lòng thảnh thơi nhẹ nhõm / chỉ nỗi buồn trĩu nặng / dâng lên như đá trên mồ". Và trong mắt những đứa trẻ buồn cầm vũ khí giết người ấy kẻ thù hiện ra thế này:
xác ngụy nằm ruồi muỗi bâu đầy
những đôi mắt bệch màu hoa dại
những gương mặt trẻ măng xanh tái
những bàn tay đen đủi chai dầy
các anh ơi, đừng trách chúng tôi
các bà mạ, tha thứ cho chúng tôi
chúng tôi chẳng thể làm khác được
quả đồi cháy như một phần quả đất
bao đời người ta đã giết nhau
với các anh tôi oán hận gì đâu
nhưng còn có cách nào khác được
Đó chính là nỗi buồn có thực đau buốt ngực Vũ. Và dù anh có nói theo truyền thông thời cuộc là phải bắn giết nhau thế để "con người được làm con người trở lại" thì thực chất anh đã hiểu khác: "nhưng mãi mãi chẳng bao giờ sống dậy / những tháng năm đã mất / những nhịp cầu gẫy gục / những toa tàu đã sụp đổ tan hoang". Sau đổ máu, tất cả đã nhuốm máu.
Cùng thời gian Lưu Quang Vũ viết những câu thơ để trong sổ tay này, ở bên kia chiến tuyến có một người lính và một nhà thơ là Nguyễn Bắc Sơn in tập thơ "Chiến tranh Việt Nam và tôi", trong đó có những câu thơ đồng vọng tâm tưởng với Vũ: "Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước / Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi". Cũng cùng thời gian này, Tố Hữu có tập thơ "Ra trận": "Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận / Có Đảng ta đây, có Bác Hồ".
Từ Hiệp định Paris về kết thúc chiến tranh Việt Nam 1973 đến kết thúc chiến tranh Việt Nam 1975, thơ Lưu Quang Vũ vừa trần trụi hiện thực vừa mong manh dự cảm. "Hòa bình đến mong manh / Nhiều tin đồn mà chẳng có gì ăn". Trong một bài thơ viết năm 1973 nhan đề "Nơi tận cùng", Vũ viết:
Nơi tận cùng mọi con đường
Một chiếc mũ rách
Úp trên nấm mồ sỏi cát
Nơi tận cùng mọi con đường
Pho tượng đá cụt đầu đứng sững
Nơi tận cùng hoàng hôn
Trên vỏ chai trống rỗng
Trước đó, Vũ đã lập hồ sơ mùa hạ 1972, đã dựng một Guernica bằng thơ về Khâm Thiên dưới bom B52. Cái năm 1972 kinh hoàng, một mùa hè đỏ lửa. Bản hồ sơ ngày đó của anh đến hôm nay vẫn còn là một tài liệu lịch sử của tư tưởng và tâm hồn, không chỉ của một con người, một nhà thơ, mà còn của một thời đại, một giống nòi.
những siêu nhân vĩ đại
những tư tưởng lớn lao nghe đến kinh người
những thần tượng tiêu vong những đứa trẻ ra đời
bóng tối nắm tay nhau, tình yêu chưa hợp lại
thế giới lo âu đầy xấu xa phản bội
ngày càng ít những điều đáng để ta tôn trọng
nền văn minh lạ lùng của những trái bom
những đám mây gây mưa những mìn nổ từ trường
dân tộc mấy mươi năm giết và bị giết
mỗi phút sống của tôi đều có người đang chết
(Bài thơ "Hồ sơ mùa hạ 1972" này không nằm trong tập sách).
Anh sẽ nói lại những điều này trong phiên tòa anh muốn lập ra để xét xử những kẻ đã gây ra thảm họa Khâm Thiên 1972.
những kẻ nào đã gây ra tội ác
những kẻ nào để tội ác gây ra
những chính khách những nhà thơ
những bộ óc chế súng bom hủy diệt
các tư tưởng cầm quyền các nước
lãnh tụ tối cao của mọi đảng trên đời
các ông kêu: vì hạnh phúc con người
nay con người chết đi
cái phúc ấy ai dùng được nữa!
chục chiếc B-52
không đổi được một trẻ nghèo Ngõ Chợ
không thể nhân danh bất-cứ-cái-gì
bắt máu vạn dân lành phải đổ
Tôi trích thơ nhiều. Nhưng không có gì hùng hồn và thuyết phục hơn những câu thơ Lưu Quang Vũ tự nói lên những suy tư nhà thơ đã nung nấu dằn vặt từ trong cuộc chiến, nói lên ở thời tuổi trẻ không còn là trẻ nữa khi đã cầm khẩu súng lên tay và bóp cò.
Tất cả nỗi đau đớn của anh cho dân tộc dồn lại trong hai tiếng gọi tên đất nước: Việt Nam! Âm hưởng tiếng gọi này trong thơ Vũ không phải ngợi ca mà là xót xa. Có phải câu thơ anh kết bài thơ "Tiếng Việt" nguyên là "Tiếng Việt ơi, tiếng Việt xót xa tình" chứ không phải "thiết tha tình"? Tố Hữu ngợi ca: "Ôi Việt Nam tổ quốc thương yêu / Trong khổ đau người đẹp hơn nhiều". Chế Lan Viên ngợi ca: "Ta mọc dậy trước mắt nhìn nhân loại / Hai tiếng Việt Nam đồng nghĩa với anh hùng". Lưu Quang Vũ thì xót xa: "Nước Việt thân yêu nước Việt của ta / sao người phải chịu nhiều đau đớn thế / thân quằn quại mọi tai ương rách xé". Anh kêu lên "Việt Nam ơi" với cõi lòng rách nát khi thấy tổ quốc mình bị trở thành miếng mồi cho các thế lực xâu xé, băm vằm. "Tất cả sẽ ra sao / Mảnh đất nghèo máu ứa? / Người sẽ đi đến đâu / Hả Việt Nam khốn khổ? / Đến bao giờ bông lúa / Là tình yêu của Người?". Những câu hỏi của anh không chỉ đặt ra trong cuộc chiến, khi chúng được đọc hôm nay. Bởi từ tháng 5. 1975 Lưu Quang Vũ đã tỉnh táo, rất tỉnh táo, giữa cơn nồng nàn cảm xúc chứng kiến cuộc chiến cuối cùng cũng đã chấm dứt, dự báo công việc thời hậu chiến: "Sắp tới là những ngày khó nhất". Khó, vì sau đổ vỡ phải dựng xây, sau ngăn cách phải hàn gắn, và nhất là sau máu đổ không được để nhạt máu, "máu con người không phải thứ bán mua".
Lưu Quang Vũ nhìn cuộc chiến như vậy là với tất cả tinh thần công dân và thi sĩ. Người công dân trong anh không cho anh lảng tránh sự thật đau thương của đất nước mình. Người thi sĩ trong anh không cho anh viết những câu thơ nhàn nhạt, dửng dưng trước nỗi đau của nhân dân mình. Thơ Vũ nồng nàn, có lúc là nồng nã, nhưng ở những bài thơ viết trực diện cuộc chiến giọng thơ anh đã nhiều khi nấc lên, uất nghẹn và uất hận. Những bài thơ di cảo của anh thường dài, đọc chúng thấy như một tiếng nói thốt ra liền một mạch, nói gấp gáp, dồn dập, dâng lên cao trào, đạt đến nốt cao nhất của cảm xúc rồi vỡ ra gay gắt, và đọng lại ở cuối bài là một nỗi niềm tê tái và xót xa. Con chữ của anh ở đây trực diện và thẳng băng, không còn những hình ảnh bóng bẩy, những từ ngữ đẹp đẽ. Anh nói và anh nói, tiếng thơ nằm trong cung bậc của giọng nói và cường độ của cảm xúc. Đọc những câu thơ, bài thơ đó, ngỡ như dừng lại giữa chừng là gục ngã, là đau đớn không thể nào chịu nổi, cứ phải đọc tiếp, đọc hết, để nỗi đau thấm sâu vào tận tâm can. Anh có một tâm hồn nhạy cảm và dễ tổn thương, "anh muốn ác mà không sao ác được / cứ yêu thương chờ đợi ích gì không?". Trong cuộc chiến, hơn một lần, anh thú nhận trong thơ mình bất lực không cách gì che chở, cứu đỡ được cho đất nước, nhân dân trước cơn đổ máu không biết để làm gì. Nhưng anh xác nhận tư cách nhà thơ của mình là người đập cửa, người đi mở những cánh cửa, cho con người đến với/đến bên con người, không hận thù chia cắt.
Người nổi gió. Người đập cửa. Người mở cửa. Đó chính là Lưu Quang Vũ. Sứ mệnh của nhà thơ anh đã xác định cho mình từ những ngày chiến tranh:
anh hãy đập vào ngực mình giục giã
hãy nổi gió cho cánh người rộng mở
và mai sau, sẽ có những nhà thơ
đứng trên tầng cao ta ao ước bây giờ
họ sẽ vẫn không ngừng đập cửa
không ngừng lo âu không ngừng phẫn nộ
bởi vô biên là khát vọng của con người
Hai mươi năm sau ngày anh mất ở tuổi bốn mươi (29/8/1988), đọc những bài thơ anh viết tuổi hai mươi thấm đầy máu và lửa và nước mắt, tôi gọi Lưu Quang Vũ là nhà thơ nhân dân, nhà thơ yêu nước. Danh hiệu này không dễ gọi cho nhiều nhà thơ.
Phạm xuân Nguyên
Hà Nội 15. 8. 2008
PHẠM XUÂN NGUYÊN Chủ Nhật, Ngày 22 tháng 3-2009
Những câu thơ âm thầm
Muốn nói hết sự thực
Về đất nước của mình
(Lưu Quang Vũ)
"Mới" đây là mới được công bố. Trong sự nghiệp sáng tạo nhiều mặt của mình, Lưu Quang Vũ ký thác tâm sự sâu nặng nhất, thể hiện mình rõ nhất ở thơ. Nhưng sinh thời anh chỉ mới có một tập thơ in chung với Bằng Việt (Hương cây- Bếp lửa, 1968). Mãi đến khi anh mất (1988), di cảo thơ của anh được công bố một phần (Mây trắng đời tôi, Bầy ong trong đêm sâu) người đọc mới biết rõ hơn khuôn mặt nhà thơ của Lưu Quang Vũ và hiểu vì sao thơ anh viết nhiều những năm tháng ấy nhưng không in ra được. Năm nay, nhân kỷ niệm hai mươi năm ngày mất của anh, thêm những bài thơ Lưu Quang Vũ viết từ giữa thập niên 1970 được in ra trong sách "Lưu Quang Vũ – Di cảo, thơ và nhật ký" (Nxb Lao Động, 2008). Trong khối thơ di cảo mới này, tôi đặc biệt quan tâm tới những bài thơ nói về chiến tranh của anh và xin ghi nhanh lại đây những cảm nhận ban đầu, như một nén hương tưởng niệm một tiếng thơ khác biệt.
Lưu Quang Vũ sinh năm 1948, và như mọi thanh niên thế hệ mình, anh nhập ngũ ở độ tuổi hai mươi, khi đất nước có chiến tranh. Thời Vũ nhập ngũ là giữa những năm sáu mươi của thế kỷ hai mươi.
Thời đoạn 1968 – 1972 ở Việt Nam là gì? Là chiến tranh. Chiến tranh ở hồi bi kịch nhất và bi tráng nhất. Nhưng Vũ, như các chàng trai cùng thời, khi mới nhập ngũ là vào bộ đội - trường học lớn của cách mạng, là đi đánh Mỹ, là tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ của anh khi mới khoác bộ quân phục màu xanh lên mình là mang chở nhận thức và tình cảm chung của thời cuộc hồi đầu.
Công sự pháo
Phủ đầy ngụy trang xanh
Trong những chùm cây dại
Có vài cành bưởi cành chanh
Cả quê nhà
Cùng ta chiến đấu
Từng viên đạn lắp vào nòng pháo
Bồi hồi nghe hương bưởi lá chanh
(Lá bưởi lá chanh, 1965)
Cám ơn thời gian cám ơn hôm nay
Người chiến đấu mang nụ cười đẹp nhất
Ngày ấy ta chưa thấy hết tầm đất nước
Ngày ấy ta chưa hiểu rõ lòng ta
Anh chưa biết yêu em như bây giờ
(Ngày ấy..., 1967)
Thơ Tố Hữu ngày ấy từng viết: "Hoan hô anh giải phóng quân! Kính chào anh con người đẹp nhất!".
Thời cuộc hồi sau khắc nghiệt hơn, tàn nhẫn hơn. Giai đoạn "vào bộ đội" chuyển nhanh sang giai đoạn "đi lính". Người lính Lưu Quang Vũ trải đời quân ngũ và cuộc chiến đã thấy ra "Giữa chiến tranh hiểu đời thực hơn nhiều / Rách tan cả những làn sương đẹp phủ". Không phải từ những bi kịch đời riêng của Vũ mà anh có cái nhìn sẽ bị coi là "u ám, đen tối" như vậy về đất nước, nhân dân. Đọc hết thơ anh thì thấy có một cái gì đấy từ thẳm sâu trong anh đã khiến anh sớm và nhanh nhìn cuộc đời ở phía "viển vông, cay đắng, u buồn". Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, một người bạn cùng thời Vũ, trong một bài viết có nhắc lại câu thơ như đã thất lạc của Vũ: "tuổi hai mươi khốn khổ của tôi ơi / tuổi tai ương dằng dặc trận mưa dài". Cuộc chiến với sự chết chóc đổ vỡ của nó chỉ mài sắc và đào sâu thêm nhiều nữa, mạnh nữa cảm quan ấy trong anh và của anh. Từ đây, với Vũ, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã là cuộc chiến tranh Việt Nam mà đối tượng bị tàn phá là đất nước Việt Nam và nạn nhân là con người Việt Nam. Lưu Quang Vũ đã đi lính và đã bỏ lính. Hành động bị coi là "đào ngũ" của anh, có thể, là do phản ứng của tuổi trẻ nơi anh đối với những bó buộc, cứng nhắc của hoàn cảnh quân ngũ. Nhưng trong thơ anh thì lý do không đơn giản như vậy, không phải chỉ do ngoại cảnh, nó đi từ tâm thức. Đọc di cảo thơ Vũ thấy khẳng định điều này. Những bài thơ lạc thời cuộc chiến được viết ra để bày tỏ một cách nhìn, một thái độ, biết là không thể đăng được nhưng không thể nào không viết ra, chúng tập hợp thành một di cảo để khi đưa ra dưới ánh mặt trời phát lộ một điều là Lưu Quang Vũ đã thay đổi nhận thức và tình cảm của mình khi đi qua cuộc chiến. Đất nước nhân dân trở thành cảm hứng lớn của thơ Lưu Quang Vũ thời chiến, được anh trình bày dưới cái nhìn thời chiến đầy khắc khoải đau đớn, tuyệt vọng và bi quan. Điều quan trọng đáng nói ở đây là anh viết những điều đó ngay khi đang trong cuộc chiến, và ngay ở tuổi đời rất trẻ.
Anh gọi những người trẻ nối nhau ra trận là "những đứa trẻ buồn ướt lạnh". Họ đi với tâm trạng "lòng chỉ muốn yêu thương / mà cứ phải suốt đời căm giận", cho nên "giết xong quân giặc / chẳng thấy lòng thảnh thơi nhẹ nhõm / chỉ nỗi buồn trĩu nặng / dâng lên như đá trên mồ". Và trong mắt những đứa trẻ buồn cầm vũ khí giết người ấy kẻ thù hiện ra thế này:
xác ngụy nằm ruồi muỗi bâu đầy
những đôi mắt bệch màu hoa dại
những gương mặt trẻ măng xanh tái
những bàn tay đen đủi chai dầy
các anh ơi, đừng trách chúng tôi
các bà mạ, tha thứ cho chúng tôi
chúng tôi chẳng thể làm khác được
quả đồi cháy như một phần quả đất
bao đời người ta đã giết nhau
với các anh tôi oán hận gì đâu
nhưng còn có cách nào khác được
Đó chính là nỗi buồn có thực đau buốt ngực Vũ. Và dù anh có nói theo truyền thông thời cuộc là phải bắn giết nhau thế để "con người được làm con người trở lại" thì thực chất anh đã hiểu khác: "nhưng mãi mãi chẳng bao giờ sống dậy / những tháng năm đã mất / những nhịp cầu gẫy gục / những toa tàu đã sụp đổ tan hoang". Sau đổ máu, tất cả đã nhuốm máu.
Cùng thời gian Lưu Quang Vũ viết những câu thơ để trong sổ tay này, ở bên kia chiến tuyến có một người lính và một nhà thơ là Nguyễn Bắc Sơn in tập thơ "Chiến tranh Việt Nam và tôi", trong đó có những câu thơ đồng vọng tâm tưởng với Vũ: "Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước / Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi". Cũng cùng thời gian này, Tố Hữu có tập thơ "Ra trận": "Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận / Có Đảng ta đây, có Bác Hồ".
Từ Hiệp định Paris về kết thúc chiến tranh Việt Nam 1973 đến kết thúc chiến tranh Việt Nam 1975, thơ Lưu Quang Vũ vừa trần trụi hiện thực vừa mong manh dự cảm. "Hòa bình đến mong manh / Nhiều tin đồn mà chẳng có gì ăn". Trong một bài thơ viết năm 1973 nhan đề "Nơi tận cùng", Vũ viết:
Nơi tận cùng mọi con đường
Một chiếc mũ rách
Úp trên nấm mồ sỏi cát
Nơi tận cùng mọi con đường
Pho tượng đá cụt đầu đứng sững
Nơi tận cùng hoàng hôn
Trên vỏ chai trống rỗng
Trước đó, Vũ đã lập hồ sơ mùa hạ 1972, đã dựng một Guernica bằng thơ về Khâm Thiên dưới bom B52. Cái năm 1972 kinh hoàng, một mùa hè đỏ lửa. Bản hồ sơ ngày đó của anh đến hôm nay vẫn còn là một tài liệu lịch sử của tư tưởng và tâm hồn, không chỉ của một con người, một nhà thơ, mà còn của một thời đại, một giống nòi.
những siêu nhân vĩ đại
những tư tưởng lớn lao nghe đến kinh người
những thần tượng tiêu vong những đứa trẻ ra đời
bóng tối nắm tay nhau, tình yêu chưa hợp lại
thế giới lo âu đầy xấu xa phản bội
ngày càng ít những điều đáng để ta tôn trọng
nền văn minh lạ lùng của những trái bom
những đám mây gây mưa những mìn nổ từ trường
dân tộc mấy mươi năm giết và bị giết
mỗi phút sống của tôi đều có người đang chết
(Bài thơ "Hồ sơ mùa hạ 1972" này không nằm trong tập sách).
Anh sẽ nói lại những điều này trong phiên tòa anh muốn lập ra để xét xử những kẻ đã gây ra thảm họa Khâm Thiên 1972.
những kẻ nào đã gây ra tội ác
những kẻ nào để tội ác gây ra
những chính khách những nhà thơ
những bộ óc chế súng bom hủy diệt
các tư tưởng cầm quyền các nước
lãnh tụ tối cao của mọi đảng trên đời
các ông kêu: vì hạnh phúc con người
nay con người chết đi
cái phúc ấy ai dùng được nữa!
chục chiếc B-52
không đổi được một trẻ nghèo Ngõ Chợ
không thể nhân danh bất-cứ-cái-gì
bắt máu vạn dân lành phải đổ
Tôi trích thơ nhiều. Nhưng không có gì hùng hồn và thuyết phục hơn những câu thơ Lưu Quang Vũ tự nói lên những suy tư nhà thơ đã nung nấu dằn vặt từ trong cuộc chiến, nói lên ở thời tuổi trẻ không còn là trẻ nữa khi đã cầm khẩu súng lên tay và bóp cò.
Tất cả nỗi đau đớn của anh cho dân tộc dồn lại trong hai tiếng gọi tên đất nước: Việt Nam! Âm hưởng tiếng gọi này trong thơ Vũ không phải ngợi ca mà là xót xa. Có phải câu thơ anh kết bài thơ "Tiếng Việt" nguyên là "Tiếng Việt ơi, tiếng Việt xót xa tình" chứ không phải "thiết tha tình"? Tố Hữu ngợi ca: "Ôi Việt Nam tổ quốc thương yêu / Trong khổ đau người đẹp hơn nhiều". Chế Lan Viên ngợi ca: "Ta mọc dậy trước mắt nhìn nhân loại / Hai tiếng Việt Nam đồng nghĩa với anh hùng". Lưu Quang Vũ thì xót xa: "Nước Việt thân yêu nước Việt của ta / sao người phải chịu nhiều đau đớn thế / thân quằn quại mọi tai ương rách xé". Anh kêu lên "Việt Nam ơi" với cõi lòng rách nát khi thấy tổ quốc mình bị trở thành miếng mồi cho các thế lực xâu xé, băm vằm. "Tất cả sẽ ra sao / Mảnh đất nghèo máu ứa? / Người sẽ đi đến đâu / Hả Việt Nam khốn khổ? / Đến bao giờ bông lúa / Là tình yêu của Người?". Những câu hỏi của anh không chỉ đặt ra trong cuộc chiến, khi chúng được đọc hôm nay. Bởi từ tháng 5. 1975 Lưu Quang Vũ đã tỉnh táo, rất tỉnh táo, giữa cơn nồng nàn cảm xúc chứng kiến cuộc chiến cuối cùng cũng đã chấm dứt, dự báo công việc thời hậu chiến: "Sắp tới là những ngày khó nhất". Khó, vì sau đổ vỡ phải dựng xây, sau ngăn cách phải hàn gắn, và nhất là sau máu đổ không được để nhạt máu, "máu con người không phải thứ bán mua".
Lưu Quang Vũ nhìn cuộc chiến như vậy là với tất cả tinh thần công dân và thi sĩ. Người công dân trong anh không cho anh lảng tránh sự thật đau thương của đất nước mình. Người thi sĩ trong anh không cho anh viết những câu thơ nhàn nhạt, dửng dưng trước nỗi đau của nhân dân mình. Thơ Vũ nồng nàn, có lúc là nồng nã, nhưng ở những bài thơ viết trực diện cuộc chiến giọng thơ anh đã nhiều khi nấc lên, uất nghẹn và uất hận. Những bài thơ di cảo của anh thường dài, đọc chúng thấy như một tiếng nói thốt ra liền một mạch, nói gấp gáp, dồn dập, dâng lên cao trào, đạt đến nốt cao nhất của cảm xúc rồi vỡ ra gay gắt, và đọng lại ở cuối bài là một nỗi niềm tê tái và xót xa. Con chữ của anh ở đây trực diện và thẳng băng, không còn những hình ảnh bóng bẩy, những từ ngữ đẹp đẽ. Anh nói và anh nói, tiếng thơ nằm trong cung bậc của giọng nói và cường độ của cảm xúc. Đọc những câu thơ, bài thơ đó, ngỡ như dừng lại giữa chừng là gục ngã, là đau đớn không thể nào chịu nổi, cứ phải đọc tiếp, đọc hết, để nỗi đau thấm sâu vào tận tâm can. Anh có một tâm hồn nhạy cảm và dễ tổn thương, "anh muốn ác mà không sao ác được / cứ yêu thương chờ đợi ích gì không?". Trong cuộc chiến, hơn một lần, anh thú nhận trong thơ mình bất lực không cách gì che chở, cứu đỡ được cho đất nước, nhân dân trước cơn đổ máu không biết để làm gì. Nhưng anh xác nhận tư cách nhà thơ của mình là người đập cửa, người đi mở những cánh cửa, cho con người đến với/đến bên con người, không hận thù chia cắt.
Người nổi gió. Người đập cửa. Người mở cửa. Đó chính là Lưu Quang Vũ. Sứ mệnh của nhà thơ anh đã xác định cho mình từ những ngày chiến tranh:
anh hãy đập vào ngực mình giục giã
hãy nổi gió cho cánh người rộng mở
và mai sau, sẽ có những nhà thơ
đứng trên tầng cao ta ao ước bây giờ
họ sẽ vẫn không ngừng đập cửa
không ngừng lo âu không ngừng phẫn nộ
bởi vô biên là khát vọng của con người
Hai mươi năm sau ngày anh mất ở tuổi bốn mươi (29/8/1988), đọc những bài thơ anh viết tuổi hai mươi thấm đầy máu và lửa và nước mắt, tôi gọi Lưu Quang Vũ là nhà thơ nhân dân, nhà thơ yêu nước. Danh hiệu này không dễ gọi cho nhiều nhà thơ.
Phạm xuân Nguyên
Hà Nội 15. 8. 2008
INRASARA -Chăm, Đau Khổ, Kiêu Hãnh Và Bí Ẩn
Chăm, Đau Khổ, Kiêu Hãnh Và Bí Ẩn (trích Chương 9, Tự Sự: Inrasara & Chăm & Chữ, Đang In)
INRASARA Thứ Bảy, Ngày 31 tháng 10-2009
Thế giới đã nói nhiều về bí ẩn của kĩ thuật xây tháp Chàm. Làm thế nào các viên gạch chồng khít và gắn kết vào nhau mà không cần lớp vữa, đến nỗi đập vỡ còn dễ hơn tách hai miếng gạch? Tại sao gạch Chăm không bị mốc sau hàng ngàn năm, trong khi các viên mới tháp vào chưa tới chục năm đã bị rêu bám? Chăm làm xong tháp rồi chất củi nung, là giả thiết ngây ngô nhất. Nỗi hiện diện của bao nhiêu lò gạch suốt miền Trung bác lại điều đó. Các viên gạch được mài chập vào nhau cho đến khi kết dính, cũng là một giả thuyết. Hay người Chăm xưa xài đến dầu thực vật? Còn bao nhiêu giả thuyết nữa? Ông Chỉnh miệt mài ra tay thử và thử, cuối rồi cũng xong ngôi tháp hiện đại đầu tiên. Còn nó sẽ trụ vững không và trụ đến đâu thì chỉ có ba đời Ma Hời mới hiểu. Dù gì đi nữa, kĩ thuật siêu tuyệt kia đã biến. Biến mất cùng vương quốc hùng mạnh và ngạo nghễ một thời. Như kĩ thuật đóng tàu viễn dương đã. Cả các bài thuốc gia truyền, thiên văn học, vân vân nữa.
Người ta đã nói nhiều về kĩ thuật tạo dáng hay lối chạm trổ tuyệt kĩ của nghệ nhân Champa xưa trên các đồ trang sức bằng vàng, bạc. Vũ Kim Lộc mày mò tìm ra chất "khằng" hỗn hợp của nhựa thông và đất sét đơn giản nhưng đầy bí ẩn đó. Các nhà nghiên cứu cũng đã đề cập về huyền thoại loại giếng vuông Chăm còn phơi mặt dọc duyên hải miền Trung nắng hạn nhưng không bao giờ khô nước, về gốm Bàu Trúc - một trong vài làng mà kĩ thuật chế tác và nung gốm cổ sơ nhất Đông Nam Á còn tồn tại dai dẳng, về vị vua đầu tiên của Đông Nam Á thuộc Ấn Độ giáo - vua Gangaraja ở đầu thế kỉ thứ V, vừa lên ngôi đã nhường lại ngai vàng cho cháu, để làm cuộc vượt đại dương sang bờ sông Hằng... Người ta đã nói nhiều về chúng, tốn bao giấy mực lí giải sự ra đời và biến mất của chúng - những bí ẩn Chăm xa xưa với bao nhiêu kỉ lục. Tôi thì khác, tôi muốn kể câu chuyện về những huyền bí của đời sống Chăm hiện đại. Chăm đương sống cuộc sống kì diệu của ngày hôm nay.
Bí ẩn với huyền bí, khi ta không biết về nó, ít biết hay chưa điều kiện biết nó nên nó tha hồ tỏ ra… bí ẩn.
*
Cei Halim Mưh là huyền thoại trong Chăm. Cei đơm đậu vào ai nấy được, bất kể ông hay bà, người ta cứ kêu là Cei chú. Khi đó, Cei ở Bal Riya Bính Nghĩa. Chuyện talang xương cốt Chăm Bà-la-môn là vấn đề trọng đại muôn thuở. Trong đám thiêu, chín miếng xương trán của người chết được lấy cẩn thận, cắt nhỏ và mài tròn bằng đồng xu cho vào lọ bằng đất sét. Klaung này không được cất ở nhà mà mang chôn đâu gốc cây, hốc đá ngoài rừng. Chiến tranh với di tản, con cháu hay dòng họ phiêu giạt làm ăn quên mất dấu. Cho đến hai, ba mươi năm sau, tất cả klaung của dòng họ mới được tập hợp lại để làm lễ Nhập kut.
Tìm đâu mà tìm? Nếu được thì lấy gì biện biệt ông nọ bà kia? Một dấu hiệu nhỏ cũng không có: tuổi tên không, lọ thì như lọ. Thế là phải chạy đi nhờ Cei. Cei phán lọ ông Phang đang nằm hốc đá này, ở hướng mặt trời ấy. Con trai út dời đi mà chẳng nói với họ hàng lấy một tiếng. Ông theo vợ làm ruộng tận Phan Rí, rồi chết trận lụt năm ấy thì có ma mới biết klaung cha mình ở đâu. Còn của bà Kak vẫn còn nằm dưới gốc cây cang kia thôi, ba mươi năm chớ ít oi gì đâu, sao ngu thế, rễ cây to thêm làm vỡ lọ đất rồi còn gì. Đến đó bứng gốc cây thì thấy, nhưng nhớ mang sàng theo tìm đủ chín miếng đấy nhé.
Mọi người đổ xô nhau, cuốc với sàng, trứng gà với chai rượu. Như thần: nó có đấy. Không tin sao được. Cei phán tiếp: cái này là của chú kia mới chết năm con Trâu, lọ kia không phải của mẹ bà này. Cei khiến họ như thể điều quân trong bàn cờ tâm linh huyền hoặc. Mọi người cứ thế mà răm rắp.
Đó là cuộc tìm xương Họ Anak tôi vào mùa Hè năm 1969, sau đám tang bà Mai. Tất cả người trong họ túm tụm giữa sân nhà bà Juk, nín thở theo dõi từng động tĩnh của Cei. Xóm giềng xem như xem hội. Đột ngột, như từ cõi trời lao xuống mặt đất đau khổ và trần trụi, Cei phán: - Về đi, xong rồi. Sắp có chuyện to rồi. Lúc đó chưa tới mười giờ tối. Mọi người ngơ ngác. Mưdwơn Phải còn muốn hỏi thêm Cei vài câu. - Ta nói về đi, Cei thổi tắt phụt ngọn nến trên cabbah hala khay trầu! Mẹ bảo mầy với anh Đạm về trước đi. Hai anh em tôi về. Sau lưng tiếng bước chân, tiếng nói cười rôm rả.
Vừa mở cánh cổng, đột ngột loạt đại liên nổ inh tai. Sau đó tiếng bom, tiếng súng các loại loạn xạ. Rất gần. Trận đánh diễn ra ngay nhà bà Tiểu cách đó không đầy trăm bước. Anh Đạm lôi tôi chui bừa xuống gầm giường ngoài hiên. Run cầm cập. Mẹ cha chưa về kịp. Mấy đứa em đang trong nhà. Có tiếng bước chân lính chạy rần rần ngoài ngõ. Tiếng người bị thương kêu thét. Tôi chứng kiến hơn chục lần vụ Việt cộng vào làng, có bao giờ súng đạn gầm rú như thế đâu. Đó là đêm kinh hoàng nhất của làng Caklaing, suốt hai mươi năm chiến tranh.
Vẫn chưa lấy gì làm to.
Trước đó hơn chục năm, làng tôi có một dúm. Trạm thông tin đặt tại nhà bà Cò giữa làng. Chỉ có hai lính địa phương quân với một cây súng Garăng, lấy lệ. Hai anh cùng thầm yêu một chị trong làng. Chuyện bắt đầu từ nỗi đó. Hai anh thay phiên gác thì đúng bài bản lính tráng rồi. Nhưng khi anh này làm bổn phận công dân thì thời gian đó anh kia lại có mặt tại nhà người yêu. Giờ phút tâm tình ở đó sao ngắn thế, chốn này thì thời gian sao mà dài quá xá dài! Kỉ luật nhà binh không thắng nổi con tim yêu đương. Anh kia trên đường về cũng là lúc anh này bỏ chòi gác đi sang nhà người yêu. Cây súng vắt đó. À, thằng này nó chơi mình, phải chơi lại mới được. Thế là anh giở trò xấu: giấu súng đi. Giấu đâu? Anh mang cây Garăng quăng bừa. Chuyện dại dột tưởng bé tí đã thành to đùng.
- Việt cộng, Việt cộng rồi! Cả trung đội lính chính quy ở huyện, tỉnh cấp tốc được điều xuống bao vây làng. Xe nhà binh đậu đầy sân banh. Phải mọi cách tìm cho ra cây súng duy nhất của làng. Hơn năm chục căn nhà Caklaing bị xới tung lên. Chịu. Cả hai thà chết chứ không khai, dù có xài tới tiết mục chích điện. Ông Klơng Thân chợt nhớ đến Cei Halim Mưh. Nhưng chuyện đại sự quốc gia không thể là trò đùa mê tín, đám nhà binh tin sao được mấy thứ nhảm ấy. Nhưng Cei ở làng xa non buổi đi bộ, nói như thánh: nó còn trong làng chớ không biến đâu mà lo. Tức thì ông cho vời Cei đến. Tỉnh trưởng dù không tin, cũng chịu lên xe Jeep xuống chứng kiến sự vụ. Lính tráng canh nghiêm ngặt. Đó là buổi chiều năm tôi ra đời, anh Ngọc kể lại. Chiếc chiếu lớn trải giữa sân nhà bà Chòi. Trước một cái khay trên đó có ba trứng gà, một chai rượu, một cây nến, Cei dõng dạc phán:
- Hãy mang cây rựa đi theo ta!
Cei dẫn họ đi thẳng lùm cây xương rồng cạnh nhà bà Quế:
- Nó đó! Đúng, nó đang có đó, nằm sâu giữa hàng rào ấp chiến lược đúng bảy cán rựa. Đến lúc ấy, anh C mới chịu khai thiệt.
Nhưng có lẽ chuyện rềnh rang nhất lại là vụ xử án kiểu Chăm tại Pabhan Vụ Bổn vào năm 1969. Làng có một bà bệnh bí ẩn kéo dài, người ta nghi do ông thầy Tóc tổ ong ngap jru yểm bùa. Ông thì không chịu. Ai phải ai trái và đâu là chứng cớ? Thế là Ong Kadhar Gam Muk người Ia Li-u Nghĩa Lập lấy vợ Caklaing được vời qua. Lệ Nhuk ia lặn nước Chăm từ lâu lắm không còn nhớ, được mang ra thi hành.
Buổi chiều, tòa xét xử được dựng lên ở bãi trống đầu làng. Ong Kadhar Gam Muk vào trong rừng sâu thỉnh nước về đầy hai chậu. Ông cih bauh xarak vẽ bùa trong đó thật lâu, trước mặt quan khách các nơi tò mò tìm đến xem Chăm xử án. Ông đọc kinh, kéo kanhi làm lễ, trang trọng và nghiêm trọng. Bên nguyên phía tay trái, người to lớn, đôi mắt sâu giấu dưới hàng lông mày rậm, trên đầu là búi tóc to như tổ ong, kì dị và bí hiểm. Bên bị, bà già nhỏ con ốm yếu nhợt nhạt. Họ ngồi hướng về phía mặt trời mọc, trước mặt là hai chậu nước thiêng. Chăm tin rằng kẻ phạm tội khi vục mặt xuống thấy dưới nước toàn rắn rết với hơi nóng của lửa địa ngục, sẽ không chịu đựng nổi. Ngược lại, người vô tội chứng kiến vô số cảnh tượng đẹp với bao người thân đã mất, mừng vui khôn xiết nên không muốn ngoi lên mặt nước nữa.
Quan tòa phát hiệu lệnh, Ong Kadhar nắm hai đầu kẻ tình nghi vục xuống chậu nước đồng lúc. Ô kìa, vị to lớn kia cứ lúc lắc cái đầu như đòi ngoi lên, trong khi bà già ốm yếu như đang ngủ vùi trên chậu nước. Ong Kadhar thả hai người ra, và lệnh cho người nhà kéo bà già lên khi bà đã ngất xỉu.
Kẻ gây án nhận tội ngay sau đó. Phiên xử kết thúc.
Câu chuyện Cei Halim Mưh và Ong Kadhar Gam Muk chỉ là hai trong những.
*
Năm 1833, sau biến cố Lê Văn Khôi, con dân Chăm trải qua trận càn lớn nhất của lịch sử dân tộc. Lớn nhất và là cuối cùng. Không còn con đường nào khác, phương tiện nào khác, họ chạy bộ. Tán loạn. Qua Xiêm, Cambốt, hoặc lên rừng lẩn vào đồng bào Churu, Kơho. Cho đến khi vua Thiệu Trị xuống chiếu kêu những thân phận khốn khổ này trở về làng mạc, ruộng rẫy, kiểm lại Chăm chỉ còn trên dưới vạn người. Nhưng chuyện kiểm kê dân số mới nhiêu khê. Có mỗi chuyện xếp hàng đếm đầu người thôi cũng trầy trật lạ đời. Các nhà nghiên cứu Tây làm ăn khoa học vẫn thế, đủ biết Chăm khi ấy mãi chưa thôi hãi. Kiểm để làm gì đây?
Năm 1891, Aymonier đoán rằng người Chăm còn khoảng ba vạn. Nhưng sau đó ít lâu, năm 1907-1908, Annuaire Général de L’Indochine lại đếm Chăm ở Phan Rang tới con số 6.000, Bình Thuận 9000, là hết. Thống kê có vẻ kĩ càng hơn của Tòa Khâm sứ Pháp ở Huế và Pnong Pênh vào năm 1910 và 1913 cho hay Chăm Trung Việt có con số lẻ: 15.389 (rất đáng tin), Kinh Cựu ở Phan Rí là 10.000 (có lẽ kiểm đến đây thì Tòa mỏi lưng, nên đoán bừa). Riêng Chăm Cambốt đúng ba vạn chẵn.
Sống ở cuối chót miền Trung nắng gió, nghèo nàn và thất học, hạn hán, lũ lụt với dịch tả, đậu mùa liên miên, vậy mà sang những năm đầu thế kỉ XXI, đếm riêng Việt Nam thôi, Chăm đã lên con số gấp hơn mươi lần. Thêm, người lại siam likei chai Lauw đẹp trai như Tàu, glaung glang yuw Tei cao ráo như Tây, patih kadi Ywơn trắng như Kinh. Đội bóng chuyền Tuấn Tú mới kéo nhau ra sân dàn đội hình thôi cũng đủ cho đối thủ vãi đái. Trường Pô-Klong mấy thế hệ, đến hội thao học sinh, là cứ hàng đầu các trường mà đứng. Đó chẳng là niềm bí ẩn lộ thiên, thì còn kêu là nỗi gì? Lộ thiên độc đáo khác, khi xã hội mẫu hệ Chăm tuyệt không có nạn đĩ điếm, ăn xin. Còn gì nữa?
Từ xó xỉnh rừng núi đi xuống, nhà cửa - không, gia sản - không, lèo tèo sót lại vài người thân với bà con lối xóm cũ, Chăm gần như không còn gì cả ngoài nỗi hốt hoảng, lòng ham sống cháy bỏng và niềm hi vọng mơ hồ.
Ra đường mẹ dặn: - Thuw hwơc di Ywơn hai Biết sợ người Kinh với [con] nhé! Ywơn yuw hadơm yuw halak Người Kinh [đông] như kiến như sâu. Làng Hamu Tanran đông thế cũng chưa tới năm mươi gia đình, còn Palau quê cha, ông ngoại kể chỉ có hơn chục nóc nhà ẩn mình run rẩy giữa rừng thưa. Chăm làm lại từ đầu: dựng chòi, phát rẫy, khai mương chống chọi với đất cằn, hạn hán cùng bão lũ.
Lâu lắm, chú Mưdwơn Phải kể, làng Caklaing trụ tại Takai Tanưh Wak. Sau đại dịch, làng dời về nơi ở hiện nay. Giữa thế kỉ XIX, lần nữa Caklaing chuyển lên Puh Kaghwơ La Sang cách đó non cây số hướng Đông Nam, nhưng chỉ dăm chục năm sau, mưa dầm dề khiến đất nhão nhẹt, làng về lại chỗ cũ. Chú kể lúc đào đất dựng rào còn thấy xương cốt người chôn bị bỏ hoang. Chăm quá nghèo, nên khi có người chết bà con tranh thủ làm đám thiêu ngay, không thì chẳng biết bao giờ có điều kiện cải táng. Năm sinh cả sư Hán Bằng, 1924, năm đại hạn. Rồi năm tôi lên năm, đại hạn hán xảy ra ở Ninh Thuận lượt nữa. Hạn hán đến bồ câu mổ trứng [ăn], cây tre trổ bông và làm hạt. Cả làng lên rừng núi tìm hái trái nhi thứ cây chịu hạn luộc ăn lót lòng. Bữa ăn chính phải là các loại củ. Có được củ khoai bột là phước đời, nhưng loại này cực hiếm. Còn thì dân làng đánh xe trâu lên núi tìm đào củ nần về xắc, phơi, rửa, nấu ăn. Loài củ độc đến rửa qua sáu nước vẫn còn làm độc. Nước rửa củ nần, to sức trâu uống phải cũng ngoẻo. Vậy mà bọn trẻ con Chăm vẫn phải ăn! Ăn mà sống, mà hi vọng.
Ơk kuw nau mưk danin
Glai lin tapin tian anưk kuw lipa.
Đói, ta kiếm củ nần
Rừng núi mịt mùng cho đói con ta.
Khổ, cứ sau hạn hán là lũ lụt. 1924 trời đại hạn thì 1926 đất lụt to. 1962 hạn thì có ngay lụt năm 1964. Đi kèm với lũ lụt là dịch tả. Nạn dịch năm 1964 làng chỉ bị cắp đi hai người, chứ trước kia, năm 1926 dân làng chết không dám đếm. Chăm kêu nó là kalin akarah giặc trời. Dân làng chạy giặc lánh sang Puh Ritak cạnh đó, khiêng theo khung sợi dệt vải; một số hãi hơn, ẩn trốn vào rừng tre dưới những con sông. Bỏ lại người già chôn cất người chết. Đến năm 1945 thêm 30 nhân khẩu Caklaing nữa bị dịch mang đi; còn làng Bal Caung cạnh đó chưa tới ba mươi nóc nhà mà mất đến 65 mạng. Khủng khiếp! Mưdwơn Phải kể cả dòng họ chỉ mỗi cụ ông trên tám mươi còn trụ lại để chôn thằng cháu, cuối cùng ông cũng nằm đó chịu chết đói luôn.
Định mệnh vẫn chưa thôi làm khốn đốn dân Caklaing tôi. Năm 1940, hơn nửa làng bị cháy rụi. Mọi người gồng gánh nhau lên Puh Hào Biửng cách làng non cây số hướng Nam, dựng lều sống qua ngày. Mãi Tây đóng đồn 1948 mới trở về đất cũ. Hani sinh tại làng Tân Nghiệp tạm bợ ấy.
Đói khổ, Chăm vẫn cứ làm lễ, cứ nhảy múa, ca hát và yêu đương.
Anh Th ở đợ nhà ông C cày sát đồng cha đang làm rẽ. Tối, xong cơm chiều, buộc trâu đâu đấy rồi là anh dzọt. Người yêu anh ở tận Pabhan cách Caklaing mươi cây số, đường rừng. Chỉ để tán gái. - Tao đi hết ba điếu thuốc là tới, anh hãnh diện khoe. Mãi gà gáy sáng mới lò mò về. Ba, bốn đêm như vậy. Cày, anh vừa nhắm mắt vừa đi theo đuôi cày. Trai mười tám cuồn cuộn bắp thịt phải chịu mệt lả. Ông C hết sạc: Trâu không ăn lấy sức đâu mà kéo cày, còn mầy không ngủ sức đâu mà theo cày, đến dọa: - Tối nay mầy mà còn đi nữa thì tao cho mầy đi luôn. Nhưng anh đâu chừa. - Mầy giúp ông anh với nhé, anh năn nỉ tôi, - chị có quà cho mầy đây. Anh nhét vào tay tôi túi khoai mì phơi khô luộc với mấy trái na, bù lại tôi coi giúp anh trâu ăn buổi tối. - Sắp được rồi, hết mùa là cưới - Anh nói, nắm tay phải đấm vào bàn tay trái mở ra. Mạnh và chắc nịch. Tôi nghĩ đó là nắm đấm đầy tính biểu trưng. Cho sức mạnh tình dục và sự trỗi dậy của tinh thần sống. Một bí ẩn khác.
Ngàn năm, hãy tưởng tượng nó nhộn nhịp như thế nào. Nhưng mới ba mươi năm trước thôi: không đường, không cầu. Ngay Phú Quý cạnh đó chưa tới nồi cơm chín mà đi chợ, mẹ tôi phải lụy đò chở chưa tới mươi người lớn không đính kèm trẻ em. Thuở tôi còn bé, Nha Tranh sống biệt lập với thế giới bên ngoài. Người bỏ rơi, lịch sử bỏ quên. Ba bề với hơn trăm mẫu ruộng, lại là ruộng các nơi khác xâm canh. Nguyên phía nam là khoảng rừng thưa, đất cằn chả trồng được thứ gì, chỉ mọc các loại dây leo có loài dê chăn thả là khoái.
Vậy là làng tôi chủ yếu sống bằng nghề mơ mộng. Chính thứ ghẻ lác mơ mộng này làm thành địa phương tính dân làng. Mọi người sinh ra, lớn lên và đợi… con rồng liếm. Qua tuổi hai mươi, ai cũng nghĩ mình đã được liếm một lần, không trúng khúc này cũng dính phần kia. Mà đã liếm trúng thật.
Thời đầu chế độ họ Ngô, làng tôi 400 dân sống khép nép dưới trăm nóc tranh, khiêm cung và câm lặng. Sau 40 năm, con số tăng vọt 02957, thì chả con rồng liếm là gì. Bà nội tôi đóng góp phần đáng kể vào công cuộc. Mẹ góp tám nhân khẩu, dì Tư tôi đẻ chẵn chục mười hai, rụng rơi đâu hết còn chín. Mẹ nói dì may phước nhờ xin chị cả về nuôi mới níu được mấy mạng ở trần đời. Rồi dì Sáu, dì Bảy nữa, cứ là hơn đầu ngón tay trở đi. Chưa đầy góc tư thế kỉ riêng Nội cũng đã tạo lập nên một liên gia, rất oách. Mẹ còn nói thêm giá mà cậu Út mầy chịu con Tám Xóm Dưới, Ciet prauk dòng họ này đâu kém cạnh ai mủng nào.
(Chân dung Cát, 2006)
Chạy giặc, Chăm cứ vác theo ciet sách. Cơ cực, ông bà vẫn cứ yêu đương và làm thơ. Tại trại sáng tác Đà lạt mùa Đông 1998, tôi không hiểu nổi tại sao năm, sáu nhà văn Tày lại nói tiếng Việt với nhau, trong lúc ngồi với họ chỉ có mỗi ông Kinh, hoặc lắm lúc không có người tộc nào khác. Chăm thì khác, chúng tôi cứ tiếng mẹ đẻ mà thoải mái. Không cố ý, và chả vấn đề gì cả.
Người Chăm học như thế nào? Truyện cổ "Đi tìm học bán vợ":
Một người nông dân hiền lành, có vợ và đứa con trai mười hai tuổi. Đang sống rất yên ổn và hạnh phúc, bỗng một hôm ông nẩy ý định đi tu. Ý tưởng nung nấu mãi để một năm sau ông quyết định tìm đến một guru Bà-la-môn nổi tiếng nhất vùng để học đạo. Vị sư nói:
-Dạy ngươi kinh sách thì ta lại phải học thêm gấp hai lần ngươi. Ta đã già, không có của cải gì cả.
Không chần chừ, người nông dân bảo:
-Nhà con có một mẫu ruộng, con xin hiến cho guru.
-Ta không có trâu để cày.
-Con có cặp trâu đã thuần.
-Ta cũng không có người chăn trâu.
-Con có đứa con trai khỏe mạnh, người nông dân nói sau giây lát ngập ngừng.
-Ta sống cô đơn, không có ai lo cơm nước.
-Con nguyện lo cho guru.
-Không, ta và ngươi dành tất cả thời gian cho học tập và tu luyện.
-Nhà ngươi có vợ chứ? Vị sư hỏi sau một hồi im lặng.
Người nông dân lưỡng lự giây lát, cuối cùng ông nói dạ một tiếng vừa đủ cho người đối diện nghe.
Hôm sau, người nông dân đi qua nhà vị sư Bà-la-môn cùng với tất cả tài sản và hai người thân yêu của mình.
Một, hai rồi ba tháng, người học trò chỉ được phân công chép một bản kinh duy nhất. Lần một, lần hai, ba… vị sư Bà-la-môn đều lắc đầu và bảo chép lại. Đến lần thứ bảy, guru nói:
-Được rồi, lòng con không còn bợn bụi trần. Ta có thể truyền dạy cho con tinh hoa của giáo lý Bà-la-môn.
Ba năm trôi qua. Sau một buổi thiền định, vị sư nói với đồ đệ:
-Vụ gieo cuối cùng đã mãn, con có thể cho cháu dắt trâu về.
Nửa năm sau, vị sư nói:
-Vụ gặt cuối cùng đã xong, bây giờ phần mẫu ruộng lại thuộc về con.
Rồi sáu tháng sau, guru lại bảo:
-Bữa tiệc cuối cùng đã tàn, người vợ của con có thể về nhà. Và cả con nữa, bài học cuối cùng đã dứt, con không phải cần đến ta nữa.
-Thưa thầy, con xin ở lại suốt đời phụng sự thầy.
-Không, con phải tự đi một mình. Để sau này con còn phải làm thầy. Cả ta, ta cũng không cần đến con nữa.
Vị sư già nói xong, quay lưng bước nhanh về phía núi.
Học, Chăm sẵn sàng trả giá đắt cho việc học của mình. Để sở hữu tri thức, người học dám hi sinh, cả điều không thể hi sinh: tài sản, vợ con, có khi tính mạng của mình nữa! Học, không phải để mưu lợi mà là để biết. Là tinh thần thiện tri thức. Chỉ như vậy, người học mới đạt đến minh triết thực sự. Yêu tiếng Chăm, thế hệ cha ông học nó, chứ không học vì nó có hứa hẹn cho ta có cái gì bỏ vào nồi không. Thầy, không buộc trò phải làm nô lệ mình: nô lệ vật chất nhất là, nô lệ tinh thần. Khi trò đã khôn lớn, hãy bỏ thầy mà đi, đi một mình. Và thầy phải đuổi trò đi, để trò dám và biết đi một mình. Đức Phật: Con hãy rời bỏ ta, đừng tin tưởng vào sách vở, vào kinh Phật, cũng đừng tin tưởng vào cả ta nữa,... mà hãy tin tưởng những gì mi từng trải, kinh nghiệm và cho là đúng mà thôi.
Ông bà Chăm đã có lối suy nghĩ tuyệt chiêu như vậy đó.
Khi tôi còn chưa cắp sách đến trường như anh Đạm, cha dạy tôi thuộc lòng: Tikuh, Kabaw, Rimaung, Tapay, Inư Girai, Ula Anaih, Athaih, Pabaiy, Kra, Mưnuk, Athuw, Pabwei. Sau đó là Tí, Sửu, Dần,… Tôi nằm úp ngực sàn nhà mà vẽ chữ Chăm. Từng chữ từng nét. Tôi hỏi cha: - Sao cứ phải ula anaih mà không neh cho nhanh, yang (lối xưng hô của chúng tôi hồi bé) thấy ai cũng nói thế mà? - Không nhanh được, cha bảo. Bốn mươi năm sau, Hani hay độn tiếng Việt vào câu nói, - Để cho nhanh, em bao biện. Nhanh, đó là đặc tính của văn minh hiện đại, trong khi học thì phải thật chậm.
Đánh vần TÍ, cha dạy: akhar kak takai kuk pauh danih lang likuk akhar tak takai kik, kak kuk dani kuh tak tik TIKUH. Chẳng phiền ai cả, êm như ru, đánh vần mà như hát. Sau một góc tư thế kỉ, Ban biên soạn dạy con cháu: k/ uh/ kak uh kuh/ TIKUH. Nhanh, gọn, rất fast food! Nhưng học thì phải chậm. Thông minh đến đâu cũng nên chậm, - ông ngoại nói. Ông ngoại là thầy cao đạo nổi tiếng trong vùng, tác giả thi phẩm Ariya Rideh Apwei nổi tiếng. Đêm trăng sáng, nằm ngửa trên chõng tre ngoài sân, ông ngâm Ariya Glơng Anak. Đoạn đó cháu thuộc rồi ông à. - Thuộc rồi cũng phải học lại, ông ngoại bảo. Mãi sau này, tôi mới hiểu ngoại: thuộc cũng cần học lại.
Khác với người Việt - Văn học trong một nước mù chữ, Nguyễn Hưng Quốc nói thế, ta tin thế -, đàn ông Chăm những năm 50 thế kỉ XX trở về trước, không ai là không biết chữ. Biết đến nơi đến chốn là các nông dân-trí thức và tầng lớp giáo sĩ. Cái biết đủ cho họ thoải mái bàn luận triết học.
Trong các chuyến đi xuyên Việt, bằng tàu lửa hay máy bay hoặc xe du lịch chất lượng cao, để ý ta nhận thấy, ngoài số người ngủ gật hay làm chuyện vặt hoặc tán gẫu, có hai bộ phận đọc khác nhau: đọc sách và đọc báo. Chú ý nữa, hầu hết người cầm trong tay cuốn sách dày là khách Tây, ngược lại: dân Việt Nam! Tại thánh địa Mĩ Sơn cũng xảy ra tình trạng tương tự. Trong khi dân ta xách theo gói đồ ăn với tờ nhật báo thì dân phương Tây luôn tay giở các trang sách. Đi du lịch, họ chuẩn bị sẵn tri thức tối thiểu về nơi họ sắp đến. Không hiểu, họ hỏi; hiểu lờ mờ, họ hỏi. Họ thắc mắc về sai biệt giữa thực tế và kiến thức được viết trong cuốn cẩm nang du lịch: tại sao bức tượng kia không còn ở đó? Sao sách lí giải thế này mà cô thuyết minh như thế kia?
Ở xã hội nông thôn Việt Nam, vị trí trang trọng nhất trong ngôi nhà một gia đình trung lưu, đập vào mắt khách là tủ buffet chưng diện bát đĩa và... cái tivi đời mới. Mấy năm qua, ta có thêm máy vi tính. Hiếm gia đình có được tủ sách. Có - nhưng rất ít, chỉ lèo tèo vài chục cuốn. Trước Bảy lăm, Caklaing quê tôi chưa tới ngàn dân có hai gia đình sở hữu tủ sách trên ngàn cuốn. Con số ở làng Hữu Đức là gấp đôi. Các tạp chí như Bách khoa, Phổ thông, Văn, Tư tưởng, Đại học.. được bày biện trang trọng là chuyện nhỏ. Tại vài hiệu sách tỉnh lẻ như thị xã Phan Rang, lứa trẻ chúng tôi dễ dàng tìm mua bộ Nho giáo, Thơ tiền chiến toàn tập, Bùi Giáng. Hôm nay, nhân khẩu Caklaing tăng tám lần nhưng tủ sách gia đình thì hầu như... tuyệt chủng! Chúng ta đọc báo, yên tâm rằng mình đã hiểu mọi chuyện.
Bản năng múa nơi người nữ Chăm thì miễn bàn. Mãi mãi không biến dạng hay biến mất, chắc thế. Múa là một bộ phận quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Chăm. Múa gắn liền với các lễ hội như Rija Nưgar, Kate, Rija Praung, trong nhà, giữa làng hay trên tháp. Kèm với múa là nhạc: trống đôi ginơng, trống baranưng, ceng chiêng, kèn xaranai, đàn kanhi, grong lục lạc. Trong bộ ba ginơng - baranưng - xaranai, ginơng là chủ đạo.
Chính điệu trống ginơng được Chăm dùng đặt tên cho các điệu múa. 72 điệu cả thảy: Biyen, Tiaung Công, Trĩ, Patra Hoàng tử, Wah gaiy Chèo ghe, Kamang, Mrai,… Đủ loại, từ Múa quạt Tamia tadik, Múa đội lu Tamia đwa buk, Múa đội cỗ bồng trầu Tamia đwa thong hala trong lễ dâng nước thánh trên tháp được kết hợp với thao tác đội nước trong sinh hoạt ngày thường, mà thành. Từ Múa khăn Tamia tanhiak uyển chuyển đến Múa kiếm Tamia carit, Múa roi và Múa đạp lửa Tamia jwak apwei mạnh mẽ, dứt khoát. Rồi Múa chèo ghe Wah gaiy, và cả Múa âm dương Tamia klai kluk nữa! Tamia klai kluk, là múa âm dương. Ai đời dịch như thế kia chứ! Đây là loại múa giao hòa vũ trụ siêu tuyệt đã thất truyền, chỉ dân Bính Nghĩa còn bảo lưu. Người múa là nam, với khúc gỗ được đẽo như hình dương vật, múa dẫn đường, sau đó là các cặp nam nữ khác, lắc mông bên này bên kia, trước và sau. Vui nhộn đầy dục lạc và linh thánh. Khán giả cả bà già con nít đứng xung quanh a… hei, a… hei hoan hô.
Katê 2008. Dưới góc hai cây me tàn lá xum xuê nhà Trà Vigia, Dư Thị Hoàn khoe với mọi người xung quanh về khám phá của mình:
- Tôi thấy lạ lắm, quý ông Chăm hầu hết đều biết làm thơ, còn quý bà thì múa. Nghe, tôi ngạc nhiên. Lâu nay là hát chứ phải thơ đâu. Ai đã nổi hứng thay ghế ngồi kia chứ? Nhưng nhìn qua ngó lại, cả sáu ông Chăm ngồi lai rai kia đều làm thơ. Tôi với Trà: làm thơ. Lộ Trung Thiện hay Kay Amưh có thơ đăng báo. Nguyễn Văn Tỷ thi sĩ một bài, bà con đầu thôn cuối xóm thuộc thơ nhưng không biết ai tác giả. Ở đây, mỗi Chế Viên là không, nhưng anh biết hát. Rất cừ.
Xã hội ai cũng làm thơ chỉ có nước đi ăn mày. Đó là hiện tượng mới nảy chục năm nay thôi, chứ trước đó, Chăm hát. Xong buổi cày, họ hát. Đang ngồi khung dệt, ngưng tay, họ hát. Hát trên cánh đồng, nương rẫy, sân khấu nhà quê, hội trường và cả phòng trà đèn màu nghịt người. Khổ nhiều rồi, cần hát để giải tỏa nỗi niềm, thăng hoa tinh thần. Cộng đồng nhỏ bé mà đẻ được nhạc sĩ Từ Công Phụng, ca sĩ-nhạc sĩ Chế Linh, không là bí ẩn sao? Đó là chưa nói đến giọng hát trời cho Đàng Năng Quạ, Trà Vigia đã bị chủ nhân của nó chôn vùi vào nỗi buồn bí ẩn. Rồi cả tiếng thơ của bao nhiêu thi sĩ vô danh nữa.
Vô danh như bao nhiêu người nữ nghệ sĩ múa vô danh. Bà Sạn, bà Mỡ, bà Trụ, hay Yến Vân, Trưng, Tiến, Dẫn thì khỏi nói rồi, họ quá nổi tiếng trong cộng đồng. Cả bà Piên vũ sư chuyên trị các lễ Rija cũng thế. Đến em gái tôi, chưa hề bước lên sân khấu dù nhà quê, chưa hề múa tập thể lớp, chưa hề "múa lén" sau bếp, vậy mà bất ngờ ở tuổi bốn mươi, vào thế kẹt, khi chủ họ buộc lên chức Muk Rija Vũ sư, đã múa như một nghệ sĩ chính hiệu. Múa ăn vào máu thịt người nữ Chăm từ trong bụng mẹ khi mẹ múa, thấm đẫm vào da xương khi họ biết đi và đi xem múa lễ, trở thành bản năng nghệ thuật khi họ đóng cửa tập một mình hay tập nhóm. Họ múa, hứng khởi và đầy tràn sáng tạo.
Cứ nhìn tháp Chàm so với tháp Khmer, Thái hay Lào cũng thấy. Nhìn Chăm biến nét chữ Sanskrit thành akhar thrah hôm nay cũng đủ hiểu. Đích thị nòi sáng tạo, phá cách. Ông Phan Lạc Tuyên nhận định Chăm quen đội nên dáng đi của người nữ Chăm thẳng và rất đẹp; nhưng bên cạnh không ít người Chăm do thiếu canci cứ đi khòm. Đàng Năng Quạ bảo múa truyền thống Chăm không giơ tay quá vai, không ít học sinh ông tùy nghi phá cách. Động tác chân trong múa Chăm rất nhẹ, nhẹ và ngắn, vậy mà bà con làng Thành Ý Pabơng vẫn bước dài lẫn nhún nhảy không phải là không đẹp. Rồi lối múa trống Baranưng của quý ông vài thập niên qua nữa, tập tục có dạy thế đâu, nhưng riết rồi nó đã thành truyền thống không kém đậm đà.
Tội hơn cả là Múa cung đình do Đặng Hùng đặt cho các điệu múa ông biên đạo và dàn dựng cho Đoàn ca múa Thuận Hải thuở ông trưởng đoàn. Lấy cảm hứng từ các thao tác của tác phẩm điêu khắc Champa xưa, ông "giải mã" chúng, rút tỉa và tổng hợp được tám thế tay và bốn thế chân, bên cạnh kết hợp với vài thao tác múa dân gian để thành "Múa cung đình" Chăm. Khát vọng, Ước mơ, Niềm tin được đưa lên sân khấu, truyền hình. Chúng gặp bao phản ứng và rủa sả, nhưng rồi nó nghiễm nhiên trở thành món đặc sản múa Chăm. Chăm tiếp thu và sáng tạo nó còn nhuyễn hơn cả các nghệ sĩ múa chuyên nghiệp ở Sài Gòn nữa là.
Khi nghe tin ông Vũ Ngọc Liễn "nào đó" vượt đại dương lặn lội moi về "Điệu múa Chàm lưu lạc trên đất Nhật" có tên "Long vương vũ" hay "Long vương", "Lăng vương", "La lăng vương" gì gì đó, rồi viết bài cho thằng Trạm mát đăng ở Tagalau số 9, chị em Chăm háo hức thèm biết nó quá. Ồ, có ai dạy mình múa nó nhỉ! Chẳng phải là một bí ẩn khác ư?
Dẫu không là tín đồ racialism, nhưng Trần Wũ Khang đã nổ rất to rằng: quý ông không biết hát thì còn xem xét lại lí lịch, chứ người nữ mà không biết múa dứt khoát không là Chăm rồi.
Inrasara
Copyright © 2008 www.hopluu.net. All Rights Reserved.
INRASARA Thứ Bảy, Ngày 31 tháng 10-2009
Thế giới đã nói nhiều về bí ẩn của kĩ thuật xây tháp Chàm. Làm thế nào các viên gạch chồng khít và gắn kết vào nhau mà không cần lớp vữa, đến nỗi đập vỡ còn dễ hơn tách hai miếng gạch? Tại sao gạch Chăm không bị mốc sau hàng ngàn năm, trong khi các viên mới tháp vào chưa tới chục năm đã bị rêu bám? Chăm làm xong tháp rồi chất củi nung, là giả thiết ngây ngô nhất. Nỗi hiện diện của bao nhiêu lò gạch suốt miền Trung bác lại điều đó. Các viên gạch được mài chập vào nhau cho đến khi kết dính, cũng là một giả thuyết. Hay người Chăm xưa xài đến dầu thực vật? Còn bao nhiêu giả thuyết nữa? Ông Chỉnh miệt mài ra tay thử và thử, cuối rồi cũng xong ngôi tháp hiện đại đầu tiên. Còn nó sẽ trụ vững không và trụ đến đâu thì chỉ có ba đời Ma Hời mới hiểu. Dù gì đi nữa, kĩ thuật siêu tuyệt kia đã biến. Biến mất cùng vương quốc hùng mạnh và ngạo nghễ một thời. Như kĩ thuật đóng tàu viễn dương đã. Cả các bài thuốc gia truyền, thiên văn học, vân vân nữa.
Người ta đã nói nhiều về kĩ thuật tạo dáng hay lối chạm trổ tuyệt kĩ của nghệ nhân Champa xưa trên các đồ trang sức bằng vàng, bạc. Vũ Kim Lộc mày mò tìm ra chất "khằng" hỗn hợp của nhựa thông và đất sét đơn giản nhưng đầy bí ẩn đó. Các nhà nghiên cứu cũng đã đề cập về huyền thoại loại giếng vuông Chăm còn phơi mặt dọc duyên hải miền Trung nắng hạn nhưng không bao giờ khô nước, về gốm Bàu Trúc - một trong vài làng mà kĩ thuật chế tác và nung gốm cổ sơ nhất Đông Nam Á còn tồn tại dai dẳng, về vị vua đầu tiên của Đông Nam Á thuộc Ấn Độ giáo - vua Gangaraja ở đầu thế kỉ thứ V, vừa lên ngôi đã nhường lại ngai vàng cho cháu, để làm cuộc vượt đại dương sang bờ sông Hằng... Người ta đã nói nhiều về chúng, tốn bao giấy mực lí giải sự ra đời và biến mất của chúng - những bí ẩn Chăm xa xưa với bao nhiêu kỉ lục. Tôi thì khác, tôi muốn kể câu chuyện về những huyền bí của đời sống Chăm hiện đại. Chăm đương sống cuộc sống kì diệu của ngày hôm nay.
Bí ẩn với huyền bí, khi ta không biết về nó, ít biết hay chưa điều kiện biết nó nên nó tha hồ tỏ ra… bí ẩn.
*
Cei Halim Mưh là huyền thoại trong Chăm. Cei đơm đậu vào ai nấy được, bất kể ông hay bà, người ta cứ kêu là Cei chú. Khi đó, Cei ở Bal Riya Bính Nghĩa. Chuyện talang xương cốt Chăm Bà-la-môn là vấn đề trọng đại muôn thuở. Trong đám thiêu, chín miếng xương trán của người chết được lấy cẩn thận, cắt nhỏ và mài tròn bằng đồng xu cho vào lọ bằng đất sét. Klaung này không được cất ở nhà mà mang chôn đâu gốc cây, hốc đá ngoài rừng. Chiến tranh với di tản, con cháu hay dòng họ phiêu giạt làm ăn quên mất dấu. Cho đến hai, ba mươi năm sau, tất cả klaung của dòng họ mới được tập hợp lại để làm lễ Nhập kut.
Tìm đâu mà tìm? Nếu được thì lấy gì biện biệt ông nọ bà kia? Một dấu hiệu nhỏ cũng không có: tuổi tên không, lọ thì như lọ. Thế là phải chạy đi nhờ Cei. Cei phán lọ ông Phang đang nằm hốc đá này, ở hướng mặt trời ấy. Con trai út dời đi mà chẳng nói với họ hàng lấy một tiếng. Ông theo vợ làm ruộng tận Phan Rí, rồi chết trận lụt năm ấy thì có ma mới biết klaung cha mình ở đâu. Còn của bà Kak vẫn còn nằm dưới gốc cây cang kia thôi, ba mươi năm chớ ít oi gì đâu, sao ngu thế, rễ cây to thêm làm vỡ lọ đất rồi còn gì. Đến đó bứng gốc cây thì thấy, nhưng nhớ mang sàng theo tìm đủ chín miếng đấy nhé.
Mọi người đổ xô nhau, cuốc với sàng, trứng gà với chai rượu. Như thần: nó có đấy. Không tin sao được. Cei phán tiếp: cái này là của chú kia mới chết năm con Trâu, lọ kia không phải của mẹ bà này. Cei khiến họ như thể điều quân trong bàn cờ tâm linh huyền hoặc. Mọi người cứ thế mà răm rắp.
Đó là cuộc tìm xương Họ Anak tôi vào mùa Hè năm 1969, sau đám tang bà Mai. Tất cả người trong họ túm tụm giữa sân nhà bà Juk, nín thở theo dõi từng động tĩnh của Cei. Xóm giềng xem như xem hội. Đột ngột, như từ cõi trời lao xuống mặt đất đau khổ và trần trụi, Cei phán: - Về đi, xong rồi. Sắp có chuyện to rồi. Lúc đó chưa tới mười giờ tối. Mọi người ngơ ngác. Mưdwơn Phải còn muốn hỏi thêm Cei vài câu. - Ta nói về đi, Cei thổi tắt phụt ngọn nến trên cabbah hala khay trầu! Mẹ bảo mầy với anh Đạm về trước đi. Hai anh em tôi về. Sau lưng tiếng bước chân, tiếng nói cười rôm rả.
Vừa mở cánh cổng, đột ngột loạt đại liên nổ inh tai. Sau đó tiếng bom, tiếng súng các loại loạn xạ. Rất gần. Trận đánh diễn ra ngay nhà bà Tiểu cách đó không đầy trăm bước. Anh Đạm lôi tôi chui bừa xuống gầm giường ngoài hiên. Run cầm cập. Mẹ cha chưa về kịp. Mấy đứa em đang trong nhà. Có tiếng bước chân lính chạy rần rần ngoài ngõ. Tiếng người bị thương kêu thét. Tôi chứng kiến hơn chục lần vụ Việt cộng vào làng, có bao giờ súng đạn gầm rú như thế đâu. Đó là đêm kinh hoàng nhất của làng Caklaing, suốt hai mươi năm chiến tranh.
Vẫn chưa lấy gì làm to.
Trước đó hơn chục năm, làng tôi có một dúm. Trạm thông tin đặt tại nhà bà Cò giữa làng. Chỉ có hai lính địa phương quân với một cây súng Garăng, lấy lệ. Hai anh cùng thầm yêu một chị trong làng. Chuyện bắt đầu từ nỗi đó. Hai anh thay phiên gác thì đúng bài bản lính tráng rồi. Nhưng khi anh này làm bổn phận công dân thì thời gian đó anh kia lại có mặt tại nhà người yêu. Giờ phút tâm tình ở đó sao ngắn thế, chốn này thì thời gian sao mà dài quá xá dài! Kỉ luật nhà binh không thắng nổi con tim yêu đương. Anh kia trên đường về cũng là lúc anh này bỏ chòi gác đi sang nhà người yêu. Cây súng vắt đó. À, thằng này nó chơi mình, phải chơi lại mới được. Thế là anh giở trò xấu: giấu súng đi. Giấu đâu? Anh mang cây Garăng quăng bừa. Chuyện dại dột tưởng bé tí đã thành to đùng.
- Việt cộng, Việt cộng rồi! Cả trung đội lính chính quy ở huyện, tỉnh cấp tốc được điều xuống bao vây làng. Xe nhà binh đậu đầy sân banh. Phải mọi cách tìm cho ra cây súng duy nhất của làng. Hơn năm chục căn nhà Caklaing bị xới tung lên. Chịu. Cả hai thà chết chứ không khai, dù có xài tới tiết mục chích điện. Ông Klơng Thân chợt nhớ đến Cei Halim Mưh. Nhưng chuyện đại sự quốc gia không thể là trò đùa mê tín, đám nhà binh tin sao được mấy thứ nhảm ấy. Nhưng Cei ở làng xa non buổi đi bộ, nói như thánh: nó còn trong làng chớ không biến đâu mà lo. Tức thì ông cho vời Cei đến. Tỉnh trưởng dù không tin, cũng chịu lên xe Jeep xuống chứng kiến sự vụ. Lính tráng canh nghiêm ngặt. Đó là buổi chiều năm tôi ra đời, anh Ngọc kể lại. Chiếc chiếu lớn trải giữa sân nhà bà Chòi. Trước một cái khay trên đó có ba trứng gà, một chai rượu, một cây nến, Cei dõng dạc phán:
- Hãy mang cây rựa đi theo ta!
Cei dẫn họ đi thẳng lùm cây xương rồng cạnh nhà bà Quế:
- Nó đó! Đúng, nó đang có đó, nằm sâu giữa hàng rào ấp chiến lược đúng bảy cán rựa. Đến lúc ấy, anh C mới chịu khai thiệt.
Nhưng có lẽ chuyện rềnh rang nhất lại là vụ xử án kiểu Chăm tại Pabhan Vụ Bổn vào năm 1969. Làng có một bà bệnh bí ẩn kéo dài, người ta nghi do ông thầy Tóc tổ ong ngap jru yểm bùa. Ông thì không chịu. Ai phải ai trái và đâu là chứng cớ? Thế là Ong Kadhar Gam Muk người Ia Li-u Nghĩa Lập lấy vợ Caklaing được vời qua. Lệ Nhuk ia lặn nước Chăm từ lâu lắm không còn nhớ, được mang ra thi hành.
Buổi chiều, tòa xét xử được dựng lên ở bãi trống đầu làng. Ong Kadhar Gam Muk vào trong rừng sâu thỉnh nước về đầy hai chậu. Ông cih bauh xarak vẽ bùa trong đó thật lâu, trước mặt quan khách các nơi tò mò tìm đến xem Chăm xử án. Ông đọc kinh, kéo kanhi làm lễ, trang trọng và nghiêm trọng. Bên nguyên phía tay trái, người to lớn, đôi mắt sâu giấu dưới hàng lông mày rậm, trên đầu là búi tóc to như tổ ong, kì dị và bí hiểm. Bên bị, bà già nhỏ con ốm yếu nhợt nhạt. Họ ngồi hướng về phía mặt trời mọc, trước mặt là hai chậu nước thiêng. Chăm tin rằng kẻ phạm tội khi vục mặt xuống thấy dưới nước toàn rắn rết với hơi nóng của lửa địa ngục, sẽ không chịu đựng nổi. Ngược lại, người vô tội chứng kiến vô số cảnh tượng đẹp với bao người thân đã mất, mừng vui khôn xiết nên không muốn ngoi lên mặt nước nữa.
Quan tòa phát hiệu lệnh, Ong Kadhar nắm hai đầu kẻ tình nghi vục xuống chậu nước đồng lúc. Ô kìa, vị to lớn kia cứ lúc lắc cái đầu như đòi ngoi lên, trong khi bà già ốm yếu như đang ngủ vùi trên chậu nước. Ong Kadhar thả hai người ra, và lệnh cho người nhà kéo bà già lên khi bà đã ngất xỉu.
Kẻ gây án nhận tội ngay sau đó. Phiên xử kết thúc.
Câu chuyện Cei Halim Mưh và Ong Kadhar Gam Muk chỉ là hai trong những.
*
Năm 1833, sau biến cố Lê Văn Khôi, con dân Chăm trải qua trận càn lớn nhất của lịch sử dân tộc. Lớn nhất và là cuối cùng. Không còn con đường nào khác, phương tiện nào khác, họ chạy bộ. Tán loạn. Qua Xiêm, Cambốt, hoặc lên rừng lẩn vào đồng bào Churu, Kơho. Cho đến khi vua Thiệu Trị xuống chiếu kêu những thân phận khốn khổ này trở về làng mạc, ruộng rẫy, kiểm lại Chăm chỉ còn trên dưới vạn người. Nhưng chuyện kiểm kê dân số mới nhiêu khê. Có mỗi chuyện xếp hàng đếm đầu người thôi cũng trầy trật lạ đời. Các nhà nghiên cứu Tây làm ăn khoa học vẫn thế, đủ biết Chăm khi ấy mãi chưa thôi hãi. Kiểm để làm gì đây?
Năm 1891, Aymonier đoán rằng người Chăm còn khoảng ba vạn. Nhưng sau đó ít lâu, năm 1907-1908, Annuaire Général de L’Indochine lại đếm Chăm ở Phan Rang tới con số 6.000, Bình Thuận 9000, là hết. Thống kê có vẻ kĩ càng hơn của Tòa Khâm sứ Pháp ở Huế và Pnong Pênh vào năm 1910 và 1913 cho hay Chăm Trung Việt có con số lẻ: 15.389 (rất đáng tin), Kinh Cựu ở Phan Rí là 10.000 (có lẽ kiểm đến đây thì Tòa mỏi lưng, nên đoán bừa). Riêng Chăm Cambốt đúng ba vạn chẵn.
Sống ở cuối chót miền Trung nắng gió, nghèo nàn và thất học, hạn hán, lũ lụt với dịch tả, đậu mùa liên miên, vậy mà sang những năm đầu thế kỉ XXI, đếm riêng Việt Nam thôi, Chăm đã lên con số gấp hơn mươi lần. Thêm, người lại siam likei chai Lauw đẹp trai như Tàu, glaung glang yuw Tei cao ráo như Tây, patih kadi Ywơn trắng như Kinh. Đội bóng chuyền Tuấn Tú mới kéo nhau ra sân dàn đội hình thôi cũng đủ cho đối thủ vãi đái. Trường Pô-Klong mấy thế hệ, đến hội thao học sinh, là cứ hàng đầu các trường mà đứng. Đó chẳng là niềm bí ẩn lộ thiên, thì còn kêu là nỗi gì? Lộ thiên độc đáo khác, khi xã hội mẫu hệ Chăm tuyệt không có nạn đĩ điếm, ăn xin. Còn gì nữa?
Từ xó xỉnh rừng núi đi xuống, nhà cửa - không, gia sản - không, lèo tèo sót lại vài người thân với bà con lối xóm cũ, Chăm gần như không còn gì cả ngoài nỗi hốt hoảng, lòng ham sống cháy bỏng và niềm hi vọng mơ hồ.
Ra đường mẹ dặn: - Thuw hwơc di Ywơn hai Biết sợ người Kinh với [con] nhé! Ywơn yuw hadơm yuw halak Người Kinh [đông] như kiến như sâu. Làng Hamu Tanran đông thế cũng chưa tới năm mươi gia đình, còn Palau quê cha, ông ngoại kể chỉ có hơn chục nóc nhà ẩn mình run rẩy giữa rừng thưa. Chăm làm lại từ đầu: dựng chòi, phát rẫy, khai mương chống chọi với đất cằn, hạn hán cùng bão lũ.
Lâu lắm, chú Mưdwơn Phải kể, làng Caklaing trụ tại Takai Tanưh Wak. Sau đại dịch, làng dời về nơi ở hiện nay. Giữa thế kỉ XIX, lần nữa Caklaing chuyển lên Puh Kaghwơ La Sang cách đó non cây số hướng Đông Nam, nhưng chỉ dăm chục năm sau, mưa dầm dề khiến đất nhão nhẹt, làng về lại chỗ cũ. Chú kể lúc đào đất dựng rào còn thấy xương cốt người chôn bị bỏ hoang. Chăm quá nghèo, nên khi có người chết bà con tranh thủ làm đám thiêu ngay, không thì chẳng biết bao giờ có điều kiện cải táng. Năm sinh cả sư Hán Bằng, 1924, năm đại hạn. Rồi năm tôi lên năm, đại hạn hán xảy ra ở Ninh Thuận lượt nữa. Hạn hán đến bồ câu mổ trứng [ăn], cây tre trổ bông và làm hạt. Cả làng lên rừng núi tìm hái trái nhi thứ cây chịu hạn luộc ăn lót lòng. Bữa ăn chính phải là các loại củ. Có được củ khoai bột là phước đời, nhưng loại này cực hiếm. Còn thì dân làng đánh xe trâu lên núi tìm đào củ nần về xắc, phơi, rửa, nấu ăn. Loài củ độc đến rửa qua sáu nước vẫn còn làm độc. Nước rửa củ nần, to sức trâu uống phải cũng ngoẻo. Vậy mà bọn trẻ con Chăm vẫn phải ăn! Ăn mà sống, mà hi vọng.
Ơk kuw nau mưk danin
Glai lin tapin tian anưk kuw lipa.
Đói, ta kiếm củ nần
Rừng núi mịt mùng cho đói con ta.
Khổ, cứ sau hạn hán là lũ lụt. 1924 trời đại hạn thì 1926 đất lụt to. 1962 hạn thì có ngay lụt năm 1964. Đi kèm với lũ lụt là dịch tả. Nạn dịch năm 1964 làng chỉ bị cắp đi hai người, chứ trước kia, năm 1926 dân làng chết không dám đếm. Chăm kêu nó là kalin akarah giặc trời. Dân làng chạy giặc lánh sang Puh Ritak cạnh đó, khiêng theo khung sợi dệt vải; một số hãi hơn, ẩn trốn vào rừng tre dưới những con sông. Bỏ lại người già chôn cất người chết. Đến năm 1945 thêm 30 nhân khẩu Caklaing nữa bị dịch mang đi; còn làng Bal Caung cạnh đó chưa tới ba mươi nóc nhà mà mất đến 65 mạng. Khủng khiếp! Mưdwơn Phải kể cả dòng họ chỉ mỗi cụ ông trên tám mươi còn trụ lại để chôn thằng cháu, cuối cùng ông cũng nằm đó chịu chết đói luôn.
Định mệnh vẫn chưa thôi làm khốn đốn dân Caklaing tôi. Năm 1940, hơn nửa làng bị cháy rụi. Mọi người gồng gánh nhau lên Puh Hào Biửng cách làng non cây số hướng Nam, dựng lều sống qua ngày. Mãi Tây đóng đồn 1948 mới trở về đất cũ. Hani sinh tại làng Tân Nghiệp tạm bợ ấy.
Đói khổ, Chăm vẫn cứ làm lễ, cứ nhảy múa, ca hát và yêu đương.
Anh Th ở đợ nhà ông C cày sát đồng cha đang làm rẽ. Tối, xong cơm chiều, buộc trâu đâu đấy rồi là anh dzọt. Người yêu anh ở tận Pabhan cách Caklaing mươi cây số, đường rừng. Chỉ để tán gái. - Tao đi hết ba điếu thuốc là tới, anh hãnh diện khoe. Mãi gà gáy sáng mới lò mò về. Ba, bốn đêm như vậy. Cày, anh vừa nhắm mắt vừa đi theo đuôi cày. Trai mười tám cuồn cuộn bắp thịt phải chịu mệt lả. Ông C hết sạc: Trâu không ăn lấy sức đâu mà kéo cày, còn mầy không ngủ sức đâu mà theo cày, đến dọa: - Tối nay mầy mà còn đi nữa thì tao cho mầy đi luôn. Nhưng anh đâu chừa. - Mầy giúp ông anh với nhé, anh năn nỉ tôi, - chị có quà cho mầy đây. Anh nhét vào tay tôi túi khoai mì phơi khô luộc với mấy trái na, bù lại tôi coi giúp anh trâu ăn buổi tối. - Sắp được rồi, hết mùa là cưới - Anh nói, nắm tay phải đấm vào bàn tay trái mở ra. Mạnh và chắc nịch. Tôi nghĩ đó là nắm đấm đầy tính biểu trưng. Cho sức mạnh tình dục và sự trỗi dậy của tinh thần sống. Một bí ẩn khác.
Ngàn năm, hãy tưởng tượng nó nhộn nhịp như thế nào. Nhưng mới ba mươi năm trước thôi: không đường, không cầu. Ngay Phú Quý cạnh đó chưa tới nồi cơm chín mà đi chợ, mẹ tôi phải lụy đò chở chưa tới mươi người lớn không đính kèm trẻ em. Thuở tôi còn bé, Nha Tranh sống biệt lập với thế giới bên ngoài. Người bỏ rơi, lịch sử bỏ quên. Ba bề với hơn trăm mẫu ruộng, lại là ruộng các nơi khác xâm canh. Nguyên phía nam là khoảng rừng thưa, đất cằn chả trồng được thứ gì, chỉ mọc các loại dây leo có loài dê chăn thả là khoái.
Vậy là làng tôi chủ yếu sống bằng nghề mơ mộng. Chính thứ ghẻ lác mơ mộng này làm thành địa phương tính dân làng. Mọi người sinh ra, lớn lên và đợi… con rồng liếm. Qua tuổi hai mươi, ai cũng nghĩ mình đã được liếm một lần, không trúng khúc này cũng dính phần kia. Mà đã liếm trúng thật.
Thời đầu chế độ họ Ngô, làng tôi 400 dân sống khép nép dưới trăm nóc tranh, khiêm cung và câm lặng. Sau 40 năm, con số tăng vọt 02957, thì chả con rồng liếm là gì. Bà nội tôi đóng góp phần đáng kể vào công cuộc. Mẹ góp tám nhân khẩu, dì Tư tôi đẻ chẵn chục mười hai, rụng rơi đâu hết còn chín. Mẹ nói dì may phước nhờ xin chị cả về nuôi mới níu được mấy mạng ở trần đời. Rồi dì Sáu, dì Bảy nữa, cứ là hơn đầu ngón tay trở đi. Chưa đầy góc tư thế kỉ riêng Nội cũng đã tạo lập nên một liên gia, rất oách. Mẹ còn nói thêm giá mà cậu Út mầy chịu con Tám Xóm Dưới, Ciet prauk dòng họ này đâu kém cạnh ai mủng nào.
(Chân dung Cát, 2006)
Chạy giặc, Chăm cứ vác theo ciet sách. Cơ cực, ông bà vẫn cứ yêu đương và làm thơ. Tại trại sáng tác Đà lạt mùa Đông 1998, tôi không hiểu nổi tại sao năm, sáu nhà văn Tày lại nói tiếng Việt với nhau, trong lúc ngồi với họ chỉ có mỗi ông Kinh, hoặc lắm lúc không có người tộc nào khác. Chăm thì khác, chúng tôi cứ tiếng mẹ đẻ mà thoải mái. Không cố ý, và chả vấn đề gì cả.
Người Chăm học như thế nào? Truyện cổ "Đi tìm học bán vợ":
Một người nông dân hiền lành, có vợ và đứa con trai mười hai tuổi. Đang sống rất yên ổn và hạnh phúc, bỗng một hôm ông nẩy ý định đi tu. Ý tưởng nung nấu mãi để một năm sau ông quyết định tìm đến một guru Bà-la-môn nổi tiếng nhất vùng để học đạo. Vị sư nói:
-Dạy ngươi kinh sách thì ta lại phải học thêm gấp hai lần ngươi. Ta đã già, không có của cải gì cả.
Không chần chừ, người nông dân bảo:
-Nhà con có một mẫu ruộng, con xin hiến cho guru.
-Ta không có trâu để cày.
-Con có cặp trâu đã thuần.
-Ta cũng không có người chăn trâu.
-Con có đứa con trai khỏe mạnh, người nông dân nói sau giây lát ngập ngừng.
-Ta sống cô đơn, không có ai lo cơm nước.
-Con nguyện lo cho guru.
-Không, ta và ngươi dành tất cả thời gian cho học tập và tu luyện.
-Nhà ngươi có vợ chứ? Vị sư hỏi sau một hồi im lặng.
Người nông dân lưỡng lự giây lát, cuối cùng ông nói dạ một tiếng vừa đủ cho người đối diện nghe.
Hôm sau, người nông dân đi qua nhà vị sư Bà-la-môn cùng với tất cả tài sản và hai người thân yêu của mình.
Một, hai rồi ba tháng, người học trò chỉ được phân công chép một bản kinh duy nhất. Lần một, lần hai, ba… vị sư Bà-la-môn đều lắc đầu và bảo chép lại. Đến lần thứ bảy, guru nói:
-Được rồi, lòng con không còn bợn bụi trần. Ta có thể truyền dạy cho con tinh hoa của giáo lý Bà-la-môn.
Ba năm trôi qua. Sau một buổi thiền định, vị sư nói với đồ đệ:
-Vụ gieo cuối cùng đã mãn, con có thể cho cháu dắt trâu về.
Nửa năm sau, vị sư nói:
-Vụ gặt cuối cùng đã xong, bây giờ phần mẫu ruộng lại thuộc về con.
Rồi sáu tháng sau, guru lại bảo:
-Bữa tiệc cuối cùng đã tàn, người vợ của con có thể về nhà. Và cả con nữa, bài học cuối cùng đã dứt, con không phải cần đến ta nữa.
-Thưa thầy, con xin ở lại suốt đời phụng sự thầy.
-Không, con phải tự đi một mình. Để sau này con còn phải làm thầy. Cả ta, ta cũng không cần đến con nữa.
Vị sư già nói xong, quay lưng bước nhanh về phía núi.
Học, Chăm sẵn sàng trả giá đắt cho việc học của mình. Để sở hữu tri thức, người học dám hi sinh, cả điều không thể hi sinh: tài sản, vợ con, có khi tính mạng của mình nữa! Học, không phải để mưu lợi mà là để biết. Là tinh thần thiện tri thức. Chỉ như vậy, người học mới đạt đến minh triết thực sự. Yêu tiếng Chăm, thế hệ cha ông học nó, chứ không học vì nó có hứa hẹn cho ta có cái gì bỏ vào nồi không. Thầy, không buộc trò phải làm nô lệ mình: nô lệ vật chất nhất là, nô lệ tinh thần. Khi trò đã khôn lớn, hãy bỏ thầy mà đi, đi một mình. Và thầy phải đuổi trò đi, để trò dám và biết đi một mình. Đức Phật: Con hãy rời bỏ ta, đừng tin tưởng vào sách vở, vào kinh Phật, cũng đừng tin tưởng vào cả ta nữa,... mà hãy tin tưởng những gì mi từng trải, kinh nghiệm và cho là đúng mà thôi.
Ông bà Chăm đã có lối suy nghĩ tuyệt chiêu như vậy đó.
Khi tôi còn chưa cắp sách đến trường như anh Đạm, cha dạy tôi thuộc lòng: Tikuh, Kabaw, Rimaung, Tapay, Inư Girai, Ula Anaih, Athaih, Pabaiy, Kra, Mưnuk, Athuw, Pabwei. Sau đó là Tí, Sửu, Dần,… Tôi nằm úp ngực sàn nhà mà vẽ chữ Chăm. Từng chữ từng nét. Tôi hỏi cha: - Sao cứ phải ula anaih mà không neh cho nhanh, yang (lối xưng hô của chúng tôi hồi bé) thấy ai cũng nói thế mà? - Không nhanh được, cha bảo. Bốn mươi năm sau, Hani hay độn tiếng Việt vào câu nói, - Để cho nhanh, em bao biện. Nhanh, đó là đặc tính của văn minh hiện đại, trong khi học thì phải thật chậm.
Đánh vần TÍ, cha dạy: akhar kak takai kuk pauh danih lang likuk akhar tak takai kik, kak kuk dani kuh tak tik TIKUH. Chẳng phiền ai cả, êm như ru, đánh vần mà như hát. Sau một góc tư thế kỉ, Ban biên soạn dạy con cháu: k/ uh/ kak uh kuh/ TIKUH. Nhanh, gọn, rất fast food! Nhưng học thì phải chậm. Thông minh đến đâu cũng nên chậm, - ông ngoại nói. Ông ngoại là thầy cao đạo nổi tiếng trong vùng, tác giả thi phẩm Ariya Rideh Apwei nổi tiếng. Đêm trăng sáng, nằm ngửa trên chõng tre ngoài sân, ông ngâm Ariya Glơng Anak. Đoạn đó cháu thuộc rồi ông à. - Thuộc rồi cũng phải học lại, ông ngoại bảo. Mãi sau này, tôi mới hiểu ngoại: thuộc cũng cần học lại.
Khác với người Việt - Văn học trong một nước mù chữ, Nguyễn Hưng Quốc nói thế, ta tin thế -, đàn ông Chăm những năm 50 thế kỉ XX trở về trước, không ai là không biết chữ. Biết đến nơi đến chốn là các nông dân-trí thức và tầng lớp giáo sĩ. Cái biết đủ cho họ thoải mái bàn luận triết học.
Trong các chuyến đi xuyên Việt, bằng tàu lửa hay máy bay hoặc xe du lịch chất lượng cao, để ý ta nhận thấy, ngoài số người ngủ gật hay làm chuyện vặt hoặc tán gẫu, có hai bộ phận đọc khác nhau: đọc sách và đọc báo. Chú ý nữa, hầu hết người cầm trong tay cuốn sách dày là khách Tây, ngược lại: dân Việt Nam! Tại thánh địa Mĩ Sơn cũng xảy ra tình trạng tương tự. Trong khi dân ta xách theo gói đồ ăn với tờ nhật báo thì dân phương Tây luôn tay giở các trang sách. Đi du lịch, họ chuẩn bị sẵn tri thức tối thiểu về nơi họ sắp đến. Không hiểu, họ hỏi; hiểu lờ mờ, họ hỏi. Họ thắc mắc về sai biệt giữa thực tế và kiến thức được viết trong cuốn cẩm nang du lịch: tại sao bức tượng kia không còn ở đó? Sao sách lí giải thế này mà cô thuyết minh như thế kia?
Ở xã hội nông thôn Việt Nam, vị trí trang trọng nhất trong ngôi nhà một gia đình trung lưu, đập vào mắt khách là tủ buffet chưng diện bát đĩa và... cái tivi đời mới. Mấy năm qua, ta có thêm máy vi tính. Hiếm gia đình có được tủ sách. Có - nhưng rất ít, chỉ lèo tèo vài chục cuốn. Trước Bảy lăm, Caklaing quê tôi chưa tới ngàn dân có hai gia đình sở hữu tủ sách trên ngàn cuốn. Con số ở làng Hữu Đức là gấp đôi. Các tạp chí như Bách khoa, Phổ thông, Văn, Tư tưởng, Đại học.. được bày biện trang trọng là chuyện nhỏ. Tại vài hiệu sách tỉnh lẻ như thị xã Phan Rang, lứa trẻ chúng tôi dễ dàng tìm mua bộ Nho giáo, Thơ tiền chiến toàn tập, Bùi Giáng. Hôm nay, nhân khẩu Caklaing tăng tám lần nhưng tủ sách gia đình thì hầu như... tuyệt chủng! Chúng ta đọc báo, yên tâm rằng mình đã hiểu mọi chuyện.
Bản năng múa nơi người nữ Chăm thì miễn bàn. Mãi mãi không biến dạng hay biến mất, chắc thế. Múa là một bộ phận quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Chăm. Múa gắn liền với các lễ hội như Rija Nưgar, Kate, Rija Praung, trong nhà, giữa làng hay trên tháp. Kèm với múa là nhạc: trống đôi ginơng, trống baranưng, ceng chiêng, kèn xaranai, đàn kanhi, grong lục lạc. Trong bộ ba ginơng - baranưng - xaranai, ginơng là chủ đạo.
Chính điệu trống ginơng được Chăm dùng đặt tên cho các điệu múa. 72 điệu cả thảy: Biyen, Tiaung Công, Trĩ, Patra Hoàng tử, Wah gaiy Chèo ghe, Kamang, Mrai,… Đủ loại, từ Múa quạt Tamia tadik, Múa đội lu Tamia đwa buk, Múa đội cỗ bồng trầu Tamia đwa thong hala trong lễ dâng nước thánh trên tháp được kết hợp với thao tác đội nước trong sinh hoạt ngày thường, mà thành. Từ Múa khăn Tamia tanhiak uyển chuyển đến Múa kiếm Tamia carit, Múa roi và Múa đạp lửa Tamia jwak apwei mạnh mẽ, dứt khoát. Rồi Múa chèo ghe Wah gaiy, và cả Múa âm dương Tamia klai kluk nữa! Tamia klai kluk, là múa âm dương. Ai đời dịch như thế kia chứ! Đây là loại múa giao hòa vũ trụ siêu tuyệt đã thất truyền, chỉ dân Bính Nghĩa còn bảo lưu. Người múa là nam, với khúc gỗ được đẽo như hình dương vật, múa dẫn đường, sau đó là các cặp nam nữ khác, lắc mông bên này bên kia, trước và sau. Vui nhộn đầy dục lạc và linh thánh. Khán giả cả bà già con nít đứng xung quanh a… hei, a… hei hoan hô.
Katê 2008. Dưới góc hai cây me tàn lá xum xuê nhà Trà Vigia, Dư Thị Hoàn khoe với mọi người xung quanh về khám phá của mình:
- Tôi thấy lạ lắm, quý ông Chăm hầu hết đều biết làm thơ, còn quý bà thì múa. Nghe, tôi ngạc nhiên. Lâu nay là hát chứ phải thơ đâu. Ai đã nổi hứng thay ghế ngồi kia chứ? Nhưng nhìn qua ngó lại, cả sáu ông Chăm ngồi lai rai kia đều làm thơ. Tôi với Trà: làm thơ. Lộ Trung Thiện hay Kay Amưh có thơ đăng báo. Nguyễn Văn Tỷ thi sĩ một bài, bà con đầu thôn cuối xóm thuộc thơ nhưng không biết ai tác giả. Ở đây, mỗi Chế Viên là không, nhưng anh biết hát. Rất cừ.
Xã hội ai cũng làm thơ chỉ có nước đi ăn mày. Đó là hiện tượng mới nảy chục năm nay thôi, chứ trước đó, Chăm hát. Xong buổi cày, họ hát. Đang ngồi khung dệt, ngưng tay, họ hát. Hát trên cánh đồng, nương rẫy, sân khấu nhà quê, hội trường và cả phòng trà đèn màu nghịt người. Khổ nhiều rồi, cần hát để giải tỏa nỗi niềm, thăng hoa tinh thần. Cộng đồng nhỏ bé mà đẻ được nhạc sĩ Từ Công Phụng, ca sĩ-nhạc sĩ Chế Linh, không là bí ẩn sao? Đó là chưa nói đến giọng hát trời cho Đàng Năng Quạ, Trà Vigia đã bị chủ nhân của nó chôn vùi vào nỗi buồn bí ẩn. Rồi cả tiếng thơ của bao nhiêu thi sĩ vô danh nữa.
Vô danh như bao nhiêu người nữ nghệ sĩ múa vô danh. Bà Sạn, bà Mỡ, bà Trụ, hay Yến Vân, Trưng, Tiến, Dẫn thì khỏi nói rồi, họ quá nổi tiếng trong cộng đồng. Cả bà Piên vũ sư chuyên trị các lễ Rija cũng thế. Đến em gái tôi, chưa hề bước lên sân khấu dù nhà quê, chưa hề múa tập thể lớp, chưa hề "múa lén" sau bếp, vậy mà bất ngờ ở tuổi bốn mươi, vào thế kẹt, khi chủ họ buộc lên chức Muk Rija Vũ sư, đã múa như một nghệ sĩ chính hiệu. Múa ăn vào máu thịt người nữ Chăm từ trong bụng mẹ khi mẹ múa, thấm đẫm vào da xương khi họ biết đi và đi xem múa lễ, trở thành bản năng nghệ thuật khi họ đóng cửa tập một mình hay tập nhóm. Họ múa, hứng khởi và đầy tràn sáng tạo.
Cứ nhìn tháp Chàm so với tháp Khmer, Thái hay Lào cũng thấy. Nhìn Chăm biến nét chữ Sanskrit thành akhar thrah hôm nay cũng đủ hiểu. Đích thị nòi sáng tạo, phá cách. Ông Phan Lạc Tuyên nhận định Chăm quen đội nên dáng đi của người nữ Chăm thẳng và rất đẹp; nhưng bên cạnh không ít người Chăm do thiếu canci cứ đi khòm. Đàng Năng Quạ bảo múa truyền thống Chăm không giơ tay quá vai, không ít học sinh ông tùy nghi phá cách. Động tác chân trong múa Chăm rất nhẹ, nhẹ và ngắn, vậy mà bà con làng Thành Ý Pabơng vẫn bước dài lẫn nhún nhảy không phải là không đẹp. Rồi lối múa trống Baranưng của quý ông vài thập niên qua nữa, tập tục có dạy thế đâu, nhưng riết rồi nó đã thành truyền thống không kém đậm đà.
Tội hơn cả là Múa cung đình do Đặng Hùng đặt cho các điệu múa ông biên đạo và dàn dựng cho Đoàn ca múa Thuận Hải thuở ông trưởng đoàn. Lấy cảm hứng từ các thao tác của tác phẩm điêu khắc Champa xưa, ông "giải mã" chúng, rút tỉa và tổng hợp được tám thế tay và bốn thế chân, bên cạnh kết hợp với vài thao tác múa dân gian để thành "Múa cung đình" Chăm. Khát vọng, Ước mơ, Niềm tin được đưa lên sân khấu, truyền hình. Chúng gặp bao phản ứng và rủa sả, nhưng rồi nó nghiễm nhiên trở thành món đặc sản múa Chăm. Chăm tiếp thu và sáng tạo nó còn nhuyễn hơn cả các nghệ sĩ múa chuyên nghiệp ở Sài Gòn nữa là.
Khi nghe tin ông Vũ Ngọc Liễn "nào đó" vượt đại dương lặn lội moi về "Điệu múa Chàm lưu lạc trên đất Nhật" có tên "Long vương vũ" hay "Long vương", "Lăng vương", "La lăng vương" gì gì đó, rồi viết bài cho thằng Trạm mát đăng ở Tagalau số 9, chị em Chăm háo hức thèm biết nó quá. Ồ, có ai dạy mình múa nó nhỉ! Chẳng phải là một bí ẩn khác ư?
Dẫu không là tín đồ racialism, nhưng Trần Wũ Khang đã nổ rất to rằng: quý ông không biết hát thì còn xem xét lại lí lịch, chứ người nữ mà không biết múa dứt khoát không là Chăm rồi.
Inrasara
Copyright © 2008 www.hopluu.net. All Rights Reserved.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)