Pháp thoại của thiền sư Nhất Hạnh ngày 18.03.2005 tại Học Viện Quốc Gia Chính Trị HCM, Hà Nội
Lời giới thiệu
Kính thưa Thiền sư,
Thưa quý khách,
Thưa tất cả các nhà khoa học, các đồng chí và các bạn.
Hôm qua chúng ta đã thu được rất nhiều thắng lợi về mặt nhận thức cũng như những vấn đề thông tin thực tiển. Hôm nay chúng ta sang ngày làm việc thứ hai và cũng là ngày kết thúc, Thiền sư sẽ thuyết trình với tất cả chúng ta chủ đề: Vai trò của Phật Giáo trong xã hội đương đại. Với nội dung như thế, vẫn có hai phần: Phần một là Thiền sư thuyết trình và phần thứ hai là hội nghị. Các đồng chí, các bạn sẽ đặt câu hỏi để Thiền sư tọa đàm cùng tất cả chúng ta. Bây giờ đến giờ làm việc, xin kính mời Thiền sư và tất cả quý khách. Xin cảm ơn.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh thuyết giảng
Mời thính chúng cùng tăng thân Làng Mai xưng tán đức Bồ Tát Quan Thế Âm trước khi bắt đầu. Kính thưa liệt vị, hôm nay các thầy các sư cô của tăng thân Làng Mai sẽ xướng bài Nguyện ngày an lành, đêm an lành bằng tiếng Anh và sau đó sẽ xướng tụng bài Tào Khê một dòng biếc bằng tiếng Việt:
Tào Khê một dòng biếc
Chảy mãi về phương Ðông
Quan Âm bình nước tịnh
Tẩy sạch dấu phong trần
Cành dương nước Cam Lộ
Làm sống dậy mùa xuân
Đề hồ trong cổ họng
Làm lắng dịu muôn lòng
Nam mô Bồ Tát Thanh Lương Ðịa
Nam mô Bồ Tát Thanh Lương Ðịa
Nam mô Bồ Tát Thanh Lương Ðịa
(Chuông).
Tiếp xúc với tổ tiên trong từng tế bào cơ thể
Xin kính chào liệt vị.
Hôm qua chúng ta có những câu hỏi chưa được trả lời. Chúng tôi nghĩ, trả lời một vài câu hỏi của ngày hôm qua có thể tiếp nối được chủ đề của ngày hôm nay. Có một vị hỏi: Trong khi cúng lễ mình có sự cầu xin, vậy sự cầu xin đó có phải là mê tín hay không? Trước hết, tôi nghĩ cầu nguyện là một hình thức truyền thông. Thờ cúng tổ tiên là mình thực tập để có truyền thông với tổ tiên mỗi ngày: Mỗi khi chúng ta thắp một cây hương và cắm lên bàn thờ của tổ tiên hay mỗi khi chúng ta thay nước bình hoa trên bàn thờ tổ tiên là chúng ta có thể tiếp xúc được với tổ tiên, không phải trên bàn thờ mà là tổ tiên trong từng tế bào của cơ thể chúng ta. Điều này rất quan trọng. Mỗi khi có việc gì đó xảy ra trong gia đình chúng ta, chúng ta có bổn phận phải báo cáo lên tổ tiên và tổ tiên có quyền được biết. Ví dụ như chúng ta gả con gái cho một anh chàng ở làng bên hoặc chúng ta gởi con trai vào trường đại học, tổ tiên cũng phải biết những điều đó. Thắp một cây hương, dâng một cành hoa trên bàn thờ, đó là một hành động truyền thông, không có gì là mê tín hết và bàn thờ có nghĩa là trái tim của chúng ta.
Vì không có truyền thông cho nên xã hội ngày nay đã tạo ra không biết bao nhiêu là ma đói. Cha không truyền thông được với con, vợ không được truyền thông với chồng. Người trẻ không cảm thấy gia đình là tổ ấm hạnh phúc nên đã không tin vào gia đình. Nếu không tin vào gia đình, không tin vào cha mẹ thì làm sao tin được vào tổ tiên? Xã hội chúng ta ngày nay, mỗi ngày tạo ra hàng trăm, hàng ngàn những con ma đói. Những con ma bằng thịt, bằng xương đàng hoàng, họ đi bơ vơ trong cuộc đời, họ không cảm thấy có chút gì dính líu tới gia đình, tới truyền thống, tới tổ tiên. Đó là những con người rất đói, họ không biết họ thuộc vào một truyền thống, một gia đình, một nền văn minh nào. Họ khước từ tất cả những truyền thống, những cơ cấu, những cấu trúc xã hội mà họ đang có. Tại vì họ đã từng đau khổ nhiều vì những cái đó, vì gia đình, vì học đường, vì nhà thờ, vì chùa, vì xã hội, cho nên họ trở thành những con ma đói.
Nhìn quanh, chúng ta sẽ thấy có rất nhiều ma đói, ở Tây phương cũng như ở Đông phương. Họ đói cái gì? Họ đói hiểu, đói thương, họ cảm tưởng rằng không ai hiểu, không ai thật sự thương họ, từ cha mẹ cho đến bạn bè, anh em, tổ tiên, giòng họ. Họ hoàn toàn mất gốc. Ðó là hiện tượng phóng thể (Aliénation) 1*. Phóng thể tức là không còn thấy dính líu tới cái gì nữa. Chúng tôi gọi đó là những con ma đói. Những con ma đói không phải là những linh hồn đi vất vơ, vất vưởng trên mây mà là những con người bằng xương bằng thịt ngày hôm nay. Chúng tôi đã từng gặp rất nhiều những con ma đói như vậy. Chúng tôi đã đem tuệ giác và pháp môn của đạo Phật để cứu những con ma đói đó, đưa họ về với gia đình, với truyền thống, với nền văn hóa của họ.
Khi nhìn những con ma đói, chúng ta có thể nhận diện họ dễ dàng: Cách họ đi, cách họ nhìn, cách họ làm một cái gì đó cũng đủ chứng tỏ họ là một người không có gốc rễ, không có một dính líu gì với xã hội, với nền văn minh và với cấu trúc gia đình này. Tuy họ đói tình thương, đói hiểu biết nhưng giá như chúng ta đem tình thương, đem hiểu biết để tặng họ thì họ cũng không tiếp nhận được, tại vì họ có nỗi nghi ngờ rất lớn. Dù mình có tình thương, có hiểu biết đích thực hiến tặng cho những người đó, họ vẫn còn nghi ngờ. Vì vậy muốn giúp những con ma đói đó chúng ta phải có rất nhiều kiên nhẫn.
Chúng tôi đã đi ngang qua những kinh nghiệm đó, chúng tôi đã từng giúp những con ma đói gốc Âu châu, gốc Mỹ châu, gốc Phi châu, trung Á và Á đông. Bây giờ xã hội Á đông cũng đã bắt đầu sản xuất rất nhiều những con ma đói, những thanh niên và những thiếu nữ bơ vơ trong cuộc đời. Những con ma đói đó không có được sự truyền thông với gia đình, với truyền thống, với tổ tiên, với xã hội. Nếu họ cầu nguyện được tức là họ có thể nói chuyện được. Ví dụ như khi họ nói: Lạy các vua Hùng, chúng con rất đội ơn các vua Hùng đã dựng nước, đã giữ nước để cho chúng con hôm nay có một giang sơn. Nói như vậy tức là đã truyền thông rồi, mà nếu truyền thông được thì không còn bị bế tắc và người đó sẽ khỏi bệnh, không mắc bệnh tâm thần. Cho nên quý vị đừng vội vàng cho những lời cầu nguyện, những lời cầu xin đó là mê tín. Những bà cụ, những phụ nữ, những thiếu niên, thanh niên đó, nếu họ còn cầm được cây hương, cầu nguyện được với tổ tiên, tức là họ còn nói chuyện, còn truyền thông được. Chính cái đó giữ cho họ không bị bệnh tâm thần, không bị bệnh bế tắc. Chúng ta phải cẩn thận lắm mới được. Nếu thực sự có tình thương và sự hiểu biết lớn, chúng ta sẽ dung nạp được tất cả, chúng ta sẽ không vội vàng gán cho họ cái nhãn hiệu mê tín dị đoan.
Khi chúng ta có một đứa cháu bị ốm nặng, chúng ta cần phải lo nhiều chuyện. Chuyện thứ nhất là chúng ta gọi điện thoại cho bác sĩ. Chuyện thứ hai là chúng ta có thể nấu cháo cho cháu. Chuyện thứ ba chúng ta có thể làm là đốt một cây hương trên bàn thờ tổ tiên và cáo với tổ tiên là: Cháu đang bệnh nặng, xin tổ tiên ông bà phù hộ cho cháu. Đốt một cây hương trên bàn thờ tổ tiên để cầu sự che chở cho cháu, tôi nghĩ không là một sự mê tín. Ta thấy rằng: Tổ tiên không phải ở ngoài chúng ta, không phải ở trên bàn thờ mà tổ tiên ở trong từng tế bào cơ thể chúng ta. Đã biết bản chất của tổ tiên là không sinh, không diệt mà chúng ta lại nói tổ tiên không còn nữa thì đó là một sai lầm. Tổ tiên đang có mặt đích thực trong từng tế bào của cơ thể chúng ta vì vậy chúng ta có thể đối thoại, có thể nói chuyện với tổ tiên. Khi mà chúng ta nói với tổ tiên: Cháu nó ốm rất là nặng, xin ông bà, xin tổ tiên che chở cho cháu là chúng ta đánh động đến sự có mặt của tổ tiên trong từng tế bào cơ thể chúng ta và cơ thể cháu. Nếu chúng ta lắng nghe cho kỹ, chúng ta sẽ thấy có sự đáp ứng của tổ tiên.
Có lần một phụ nữ, người Tây phương tới khóa tu trong tình trạng có bệnh cancer (ung thư), trong lúc buồn chán, tuyệt vọng có tiết lộ cho chúng tôi biết rằng bà có ông nội sống đến chín mươi sáu tuổi. Tôi nói với phụ nữ Tây phương đó nên cầu nguyện với ông nội đi: Ông nội ơi giúp con! Con biết là ông nội đang có mặt trong từng tế bào cơ thể của con, ông nội giúp con đi! Con biết ông nội có một sức khỏe rất vững chãi. Con biết là những tế bào của ông nội đang có mặt trong tế bào của con. Tôi chỉ hướng dẫn cho người phụ nữ Tây phương đó cầu nguyện như vậy, cầu nguyện với ông nội của mình đã sống đến chín mươi sáu tuổi. Sau một thời gian cố gắng thì căn bệnh cancer của phụ nữ đó đã lành.
Mình đánh động được sự có mặt của ông nội trong từng tế bào cơ thể, mình tiếp xúc được và ông nội có thể đáp ứng được, tại vì những tế bào rất tốt, rất khỏe mạnh của ông nội cũng có mặt ở trong từng tế bào của chúng ta. Chúng ta biết những gen 2* mà tổ tiên để lại trong từng tế bào đang chờ đợi nếu có điều kiện thích ứng thì nó phát hiện, nếu không có những môi trường thuận lợi thì nó không phát hiện. Chúng ta ai cũng có những gen của bệnh tâm thần nhưng nếu chúng ta sống trong môi trường tốt, gen của tâm thần sẽ không bao giờ xuất hiện. Vì vậy vấn đề môi trường rất là quan trọng, đó là vấn đề hậu thiên. Tiên thiên (Nature) có đó nhưng phải có hậu thiên (Nurture) 3* mới có cơ hội phát hiện.
Có một hôm, tôi ngồi thiền, bỗng nhiên tôi thấy trong người rất khỏe và tôi nói chuyện với bố tôi. Tôi nói: Bố ơi, hai bố con mình đã thành công rồi! Tôi nói chuyện như vậy và tôi cảm thấy hạnh phúc của tôi lớn lao vô cùng. Quý vị hỏi thành công ở chỗ nào? Tôi sẽ nói: Trong giây phút ngồi thiền đó tôi cảm thấy hoàn toàn được tự do, tôi không còn một ước mơ nào nữa hết, tôi không còn một dự án nào phải theo đuổi nữa hết. Tôi thấy hoàn toàn thảnh thơi, hoàn toàn tự do, không có một cái gì lôi kéo được mình nữa. Mình ngồi yên như núi Tu Di, rất vững chãi, rất thảnh thơi. Sự thành công đây là tự do, tự do lớn. Mình không bị một hận thù hay một tham vọng nào kéo mình đi được nữa. Tại vì mình đã có được tự do, mình đã có được giải thoát.
Trước kia, bố tôi đã từng làm việc ở trong chính phủ Nam triều, đã có những lúc lên, lúc xuống và cũng đã từng đi tìm sự an bình của tâm hồn, cũng đã từng niệm Phật, tụng kinh nhưng chưa thành công. Đến đời tôi, tôi thực tập thành công. Tôi thấy rõ ràng là mỗi ngày mình đều được làm cái việc mình thích, mình được bước những bước chân thảnh thơi. Mỗi bước chân đưa mình tiếp xúc được những mầu nhiệm của sự sống, có tính cách nuôi dưỡng, trị liệu. Mỗi ngày mình tiếp xúc được với những mầu nhiệm sự sống bằng mắt, bằng tai. Mỗi ngày mình có thể trao truyền được những gì đẹp nhất, hay nhất, quý nhất mà mình chế tác được trong đời sống tu tập của mình cho những người đệ tử xuất gia và tại gia.
Tổ chức được những khóa tu cho người cư sĩ giúp cho họ thiết lập lại được truyền thông đem lại được sự hòa giải, nở lại được nụ cười. Những điều đó là những điều đưa lại cho chúng tôi rất nhiều hạnh phúc. Mỗi ngày đều được làm những gì mình thích thì mình đâu cần cái gì nữa. Mỗi hơi thở, mỗi bước chân, mỗi nụ cười, mỗi cái nhìn đều đem lại hạnh phúc thì rõ ràng mình không còn tham vọng, hận thù nào hay vướng mắc nào nữa. Đó là sự thành công của người tu cho nên tôi mới nói chuyện với bố là: Bố ơi, cha con mình đã thành công rồi! Bởi vì con thành công tức là bố thành công. Ngày xưa bố cũng niệm Bụt, cũng tụng kinh nhưng bố không thành công, chưa thành công nhưng con bây giờ có cơ hội làm thành công được. Như vậy, thành công cũng là thành công cho bố. Khi mình nói chuyện với bố như vậy thì đó là sự truyền thông, sự thông thương.
Tôi xin quý vị hiểu cho, nếu những người thực tập cầu nguyện, cầu xin chưa có được tuệ giác: Đối tượng cầu xin với chủ thể cầu xin là một. Nhưng trong hiện tại, họ đang có thể truyền thông được với tổ tiên tâm linh hay là tổ tiên huyết thống của họ, chính cái đó giữ cho họ không bị bệnh tâm thần. Khi mình còn nói chuyện được, dù nói chuyện với tổ tiên huyết thống tức ông bà hay tổ tiên tâm linh tức Phật, Bồ Tát hay các vị Tổ sư là còn có sự thông thương, mình chưa bị phóng thể, mình chưa bị mất gốc. Chúng tôi thấy rằng sự truyền thông đó rất quan trọng và mình đừng vội cho đó là mê tín.
Khi chúng ta đến đền Hùng hay đưa những người trẻ lên thăm đền Hùng, đó là một sự thực tập truyền thông tiếp xúc với tổ tiên. Chúng ta thấy hình ảnh cụ Hồ, hình ảnh của một trong những vị tổ tiên còn trẻ ở những nơi gặp gỡ. Khi mình tiếp xúc được với cụ Hồ là mình cũng có thể tiếp xúc được với Lý Thường Kiệt, với Trần Hưng Ðạo, với các vua Hùng. Phải có truyền thông chúng ta mới không bị bệnh, không bị mất gốc. Số người bị bệnh tâm thần ở trong xã hội chúng ta hôm nay rất đông mà nguyên do sâu sắc nhất là bị mất gốc, là phóng thể, là không còn truyền thông được với cha mẹ, với tổ tiên, tổ tiên huyết thống và tổ tiên tâm linh. Thực tập như thế nào để giữ được truyền thông, tái lập được truyền thông rất là quan trọng. Trong đạo Phật chúng ta có rất nhiều phương pháp cụ thể để giúp tái lập truyền thông giữa cha mẹ, con cái, giữa vợ chồng và giữa mình với tổ tiên huyết thống và tổ tiên tâm linh.
Chúng tôi đã thiết lập ra sự thực tập: Ba cái lạy và năm cái lạy 4*. Người Tây Phương đã thực tập và đã chữa trị được nhiều nỗi cô đơn, bức xúc và giúp cho họ thiết lập lại truyền thông với truyền thống của họ và với gia đình họ. Quý vị hãy tưởng tượng một khu đồi rất lớn và năm ngàn người Châu Âu thực tập lạy xuống dưới sự hướng dẫn của một thầy gốc Việt Nam. Khi họ lạy xuống như vậy, đầu, hai tay, hai chân của họ dính vào đất, chúng ta gọi là ngũ thể đầu địa 5*. Họ buông hết ra những giận hờn, những tuyệt vọng để cho đất ôm lấy họ, họ tiếp xúc được với tổ tiên. Họ được hướng dẫn rằng: Tổ tiên có mặt trong từng tế bào của cơ thể và tất cả những đức tính của tổ tiên luân lưu trong dòng máu của họ. Với sự hướng dẫn của một thầy hay là một sư cô, họ có thể nằm trong tư thế phủ phục hai ba phút để quán chiếu, để thấy rõ ràng rằng họ có gốc rễ và họ tiếp xúc được với tổ tiên tâm linh, tổ tiên huyết thống. Khi họ đứng lên thì họ đã trở thành một con người khác, họ buông bỏ tất cả những hận thù, tuyệt vọng, giận hờn và họ tiếp xúc được với tổ tiên của họ.
Chúng tôi xin đề nghị, nếu có dịp quý vị nghiên cứu ba cái lạy, năm cái lạy mà chúng tôi chế biến từ những nguyên liệu trong kho tàng giáo lý đạo Phật. Chúng tôi đã chế tác ra để giúp cho những người Tây Phương móc nối được, tiếp nối được với tổ tiên huyết thống của họ. Chúng tôi có sáng tác ra lời cầu nguyện đầu năm cho người Tây phương vào ngày tết Tây. Thay vì mở nút chai champagne và chơi nhạc, họ có thể đốt hương, đứng chắp tay trước bàn thờ tổ tiên, đọc bài cầu nguyện và hứa với tổ tiên là trong năm mới họ sẽ sống một cuộc sống vững chãi hơn, thảnh thơi hơn. Ở đây chúng tôi chỉ có một lời cầu nguyện mà chúng tôi sáng chế cho các thầy các sư cô mỗi khi có buổi giỗ Tổ. Tổ này là Tổ tâm linh.
Lời cầu nguyện
Chúng con tăng thân xuất gia, hôm nay vào ngày giỗ sư tổ, tập hợp tới chùa, kính cẩn trình diện trước Tổ đường với tất cả lòng dạ chí thành của chúng con. Cúi xin các thế hệ Tổ Sư của chúng con từ bi chứng giám. Chúng con ý thức được rằng cây có cội nước có nguồn, chúng con biết Bụt và các thế hệ Tổ sư là cội nguồn của chúng con và chúng con là sự tiếp nối của liệt vị.
Chúng con nguyện tiếp nhận tuệ giác từ bi và an lạc mà Bụt và chư Tổ đã trao truyền, nguyện nắm giữ và bồi đắp không ngừng gia tài tâm linh quý giá ấy. Chúng con nguyện tiếp tục thực hiện chí nguyện độ sinh của quý vị, nguyện chuyển hóa những khổ đau trong chúng con, giúp được người đương thời chuyển hóa những khổ đau của họ và mở ra cho những thế hệ tương lai những pháp môn thích hợp có khả năng giúp họ đem đạo Bụt áp dụng được vào trong mọi lãnh vực của sự sống.
Chúng con nguyện thực tập để sống an lạc ngay trong giờ phút hiện tại để nuôi dưỡng chất liệu vững chãi và thảnh thơi trong chúng con và để giúp được những người chung quanh. Chúng con nguyện nhìn nhận nhau là anh chị em trong một gia đình tâm linh, bởi vì chúng con biết rằng tất cả chúng con đều là con cháu tâm linh của liệt vị. Chúng con nguyện sẽ chăm sóc cho nhau để thấy được những khó khăn và khổ đau của nhau để hiểu để thương và để giúp nhau trong công trình chuyển hóa.
Chúng con xin hứa sẽ tập sử dụng các hạnh ái ngữ và lắng nghe để nuôi dưỡng tình huynh đệ trong tăng thân. Nguyện chấp nhận sự soi sáng của tăng thân để nhận diện những khả năng cũng như những yếu kém của mình mà vun trồng hoặc chuyển hóa. Nguyện xóa bỏ mọi tỵ hiềm để có thể nương vào nhau mà đi lên trên con đường thành tựu đạo nghiệp. Chúng con biết chỉ khi nào chúng con làm được như thế thì chúng con mới xứng đáng là con cháu của Bụt và các vị Tổ sư. Chúng con cúi xin sư Tổ cùng tất cả các liệt vị Tổ sư từ bi chứng minh cho tâm thành kính và hiếu thảo của chúng con, những phẩm vật quý giá nhất của sự cúng dường trong ngày giỗ Tổ.
Khi chúng ta cầu nguyện như vậy thì làm gì có chất mê tín ở trong đó. Chúng ta chỉ truyền thông với tổ tiên tâm linh hoặc là tổ tiên huyết thống của chúng ta mà thôi. Chúng ta hứa với tổ tiên tâm linh và huyết thống là sẽ thương yêu nhau và chấp nhận nhau, tha thứ cho nhau. Đó là thứ truyền thông giúp cho tinh thần chúng ta được khỏe mạnh.
Tôi nghĩ rằng nếu trong mỗi gia đình Việt Nam, chúng ta duy trì được bàn thờ tổ tiên và mỗi ngày dành ra một phút để cha mẹ, con cái cùng đứng trước bàn thờ đó thắp một cây hương, chúng ta không cần nói gì hết cũng được, im lặng trong một phút. Cái đó đủ giúp cho chúng ta không lâm vào tình trạng mất gốc và phóng thể. Tôi nghĩ bàn thờ tổ tiên chứng tỏ chúng ta tin vào truyền thống, tin vào tổ tiên của chúng ta. Chúng ta như là cây có gốc, sông có nguồn và chúng ta sẽ không bao giờ đánh mất chúng ta. Chúng ta luôn luôn mang tổ tiên đi vào tương lai.
Tịnh Độ ngay bây giờ và ở đây
Tôi nghĩ một nhà thương gia, một nhà chính trị đều có thể làm được, ở Tây Phương họ đã bắt đầu làm như vậy. Hôm qua chúng tôi có nói rằng: Niết Bàn, Thiên Đường, Tịnh Độ là những cái mà mình có thể tiếp xúc ngay trong giây phút hiện tại. Cái mà chúng ta gọi là Thiên Đường của Xã hội Chủ Nghĩa, theo tôi thấy, nó cũng đã có rồi và nếu có tuệ giác thì chúng ta có thể tiếp xúc với nó ngay trong giây phút hiện tại. Chúng tôi có phương pháp thiền hành tức là thiền đi, đi như thế nào để mỗi bước chân đưa chúng tôi trở về giây phút hiện tại, để chúng tôi có thể tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống và thấy rõ ràng cái mà chúng tôi gọi là Niết Bàn, là Tịnh Độ, nó có mặt ngay trong giây phút hiện tại. Mỗi bước chân như vậy sẽ nuôi dưỡng, chuyển hóa, trị liệu được những khổ đau trong con người của chúng ta. Khi ngồi xuống uống một ly trà mà chúng ta thiết lập được thân tâm vững chãi ngay trong giây phút hiện tại thì hạnh phúc của chúng ta rất lớn.
Chúng tôi là một tăng thân gồm có người xuất gia và tại gia, sống ở những tu viện và những trung tâm thực tập ở Tây phương. Có nhiều người trong chúng tôi đã tốt nghiệp đại học, đã có văn bằng tiến sĩ y khoa hay luật. Chúng tôi đã ra đi làm, đã có lương cao và đã có nhà lớn nhưng khi tiếp xúc được với hạnh phúc của sự tu tập thì chúng tôi thấy rằng hạnh phúc đó lớn quá. Cho nên chúng tôi đã dễ dàng buông bỏ được những địa vị mà chúng tôi có trong xã hội để trở thành người xuất gia hay người tại gia tu học với nhau. Sự tu tập của chúng tôi là làm thế nào để mỗi giây phút trong đời sống hằng ngày đều có hạnh phúc. Vì vậy chúng tôi không đi tìm hạnh phúc trong tương lai mà chúng tôi đi tìm hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại.
Chúng tôi biết rằng xây dựng tình huynh đệ là sự thực tập để chúng tôi buông bỏ được những danh, những lợi ở ngoài đời. Chúng tôi gia nhập vào một tăng thân, mỗi ngày đều có cơ hội sống với nhau trong tình huynh đệ, mỗi ngày đều có cơ hội giúp đời, giúp người để họ có thể thiết lập lại truyền thông, nở được nụ cười và đem lại hạnh phúc trong gia đình của họ. Tuy rằng chúng tôi từ nhiều quốc gia tới, từ nhiều nền văn minh khác nhau nhưng với sự xây dựng tình huynh đệ đưa chúng tôi tới gần với nhau. Không ai trong chúng tôi có một trương mục ngân hàng riêng. Không ai trong chúng tôi có một xe hơi riêng, xe mô tô riêng hay điện thoại di động riêng. Chúng tôi hoàn toàn không có một cái gì hết, chúng tôi sử dụng những tiện nghi của đoàn thể thôi và chúng tôi sống rất hạnh phúc. Trước kia, chúng tôi đã từng sử dụng những số tiền lớn và có những chức vụ quan trọng trong xã hội nhưng một khi buông bỏ rồi thì chúng tôi không còn tiếc nuối gì nữa, tại vì chúng tôi đạt được tình huynh đệ. Tình huynh đệ có tính cách nuôi dưỡng, trị liệu và giúp cho chúng tôi có chất liệu đi tới trên con đường lý tưởng.
Chúng tôi đã từng thiết lập và tổ chức những khóa tu năm ngày, bảy ngày, hai mươi mốt ngày ở tại các nước Âu châu và Mỹ châu. Chúng tôi đã giúp cho vô số những cặp cha con, vợ chồng họ tái lập truyền thông và hòa giải với nhau. Mỗi khi thấy thành quả của sự thực tập được như vậy thì chúng tôi rất hạnh phúc và chính chúng tôi cũng được nuôi dưỡng bằng niềm vui đó. Hạnh phúc đó lớn quá cho nên chúng tôi có khả năng buông bỏ tất cả những danh lợi và uy quyền cá nhân. Chúng tôi làm việc và sống với nhau như một tăng thân, chúng tôi là những người vô sản thực thụ, chúng tôi là những người cộng sản thứ thiệt. Nếu quý vị tới ở với chúng tôi, quý vị sẽ thấy, chúng tôi là những người cộng sản chính hiệu. Chúng tôi không có ai có trương mục ngân hàng riêng, không có xe hơi riêng và chúng tôi chỉ sử dụng những tiện nghi của đoàn thể thôi và chúng tôi rất hạnh phúc.
Đối với chúng tôi, Tịnh Độ là cái chúng tôi đang sống trong mỗi giây phút của đời sống hằng ngày, chứ chúng tôi không tìm Tịnh Độ hay Niết Bàn ở một tương lai xa xôi. Cái mà quí vị gọi là Thiên Đường của xã hội chủ nghĩa thì quý vị cũng có thể đạt được ngay trong giây phút hiện tại, nếu quý vị biết thiết lập, tạo dựng, chế tác được tình huynh đệ. Nếu có tình huynh đệ rồi, quí vị sẽ không có ý hướng muốn loại trừ, tranh giành nhau nữa và quý vị có được Thiên Đường xã hội chủ nghĩa ngay từ bây giờ mà không cần phải đi qua những giai đoạn quá độ này, kia, nọ. Ngay trong hiện tại là chúng ta đã có Thiên Đường, nếu chúng ta biết chế tác tình huynh đệ, biết hiểu nhau và biết tha thứ cho nhau.
Tri giác sai lầm
Phương pháp quán chiếu của đạo Phật trước hết là nhận thức, nhìn nhận sự có mặt của khổ đau. Chúng ta phải công nhận có những khổ đau như là nghèo đói, ngu dốt, bệnh tật hay sự vô tổ chức. Nhưng nếu chúng ta có được tình huynh đệ, tay nắm tay nhau được như anh em một nhà, không vì quyền lợi hay địa vị cá nhân, chúng ta có thể chiến đấu để chiến thắng được bốn tệ nạn: Nghèo đói, bệnh tật, thiếu học và không có tổ chức. Chúng ta cũng biết có rất nhiều khổ đau không phải từ bốn lĩnh vực đó tạo ra mà là từ sự hiểu lầm, từ tri giác sai lầm. Cha hiểu lầm con, con hiểu lầm cha, vợ hiểu lầm chồng, chồng hiểu lầm vợ và đưa tới những bi kịch.
Quí vị chắc còn nhớ câu chuyện chàng Trương và người thiếu phụ Nam Xương 6*. Chàng Trương đi chinh chiến sống sót trở về, lần đầu thấy được đứa con trai của mình. Chàng dụ nó kêu mình bằng bố nhưng thằng bé nhất định không chịu: Ông đâu phải bố tôi, bố tôi là người đêm nào cũng tới. Mỗi khi bố tôi tới thì mẹ tôi nói chuyện hàng giờ với bố và mẹ tôi khóc. Mỗi khi bố ngồi xuống thì mẹ cũng ngồi xuống. Mỗi khi bố tôi nằm xuống thì mẹ cũng nằm xuống. Thằng bé báo cáo với chàng Trương như vậy. Chàng tin rằng, trong thời gian mình ngoài chiến trận, có người đàn ông khác xen vào nội bộ gia đình mình. Cho nên khi thiếu phụ Nam Xương đi chợ về, làm mâm cơm cúng, chàng không cho vợ lạy bàn thờ tổ tiên, không nhìn vợ và không nói chuyện với vợ nữa. Vợ hỏi câu gì, chàng Trương cũng im lặng, bởi vì chàng nghi vợ mình đã ngoại tình, chàng có một nỗi khổ và niềm đau rất lớn vì tri giác sai lầm của chàng.
Nhưng sự thật là làm gì có người nào đi vào trong nhà của thiếu phụ Nam Xương. Chồng đi chinh chiến, thiếu phụ Nam Xương cô đơn, một mình, một bóng thành thử hay nói chuyện với cái bóng của mình ở trên vách: Anh ơi, anh đi lâu quá, một mình em ở nhà làm sao nuôi con được? Rồi một hôm thằng bé đi chơi về hỏi: Ai cũng có bố hết tại sao con không có bố? Đêm hôm đó, thiếu phụ Nam Xương ngồi bên chiếc đèn dầu, nhìn bóng mình hiện lên vách rồi chỉ thằng bé: Bố con đó, con lạy ạ bố đi!
Thiếu phụ Nam Xương không biết tại sao từ khi đi chợ về, chàng Trương không thèm nhìn mặt nàng nữa, nàng hỏi câu gì chàng cũng không thèm trả lời. Nàng đã làm nên tội tình gì để bị chồng đối xử một cách tồi tệ như vậy? Nàng rất lấy làm tủi thân và nàng chỉ âm thầm khóc thôi. Chàng Trương thì cũng bị một vết thương rất là nặng: Người mà mình thương nhớ mỗi đêm, mong cho chiến tranh kết thúc để chóng trở về ôm trong tay mà người đó lại đi phản bội mình, cái nỗi khổ niềm đau này làm sao mà tiêu cho được. Chàng có nỗi khổ, niềm đau lớn quá. Cả hai bên đều khổ hết! Cuối cùng thiếu phụ Nam Xương chịu không được nổi oan ức đã phải nhảy xuống sông tự tử.
Sau khi hay tin vợ chết, chàng Trương trở về chăm sóc đứa con thì buổi tối hôm đó, khi chàng thắp ngọn đèn dầu lên thì đứa nhỏ nói: Ông này, bố tôi đây nè! Bố tôi thường tới mỗi đêm như vậy đó. Bây giờ chàng Trương mới thấy được sự thật nhưng mà đã quá trễ. Người vợ đã chết rồi.
Chúng ta làm khổ nhau tại vì chúng ta có rất nhiều vô minh, có rất nhiều tri giác sai lầm. Cha làm khổ con, con làm khổ cha, vợ làm khổ chồng, chồng làm khổ vợ. Tu tập là để quán chiếu, là để chuyển hóa những tri giác sai lầm, tại vì tri giác sai lầm là nguyên do, là thủ phạm của chín mươi phần trăm những đau khổ mà chúng ta phải gánh chịu. Trong đạo Phật gọi đó là vô minh, vô minh là thiếu hiểu biết, thiếu ánh sáng. Chúng ta sở dĩ sợ hãi nhau, nghi kỵ nhau, muốn loại trừ nhau tại vì chúng ta không hiểu được nhau. Trong chúng ta, người nào cũng có tâm niệm yêu nước yêu dân nhưng chúng ta nghi nhau. Anh đó có thật là yêu nước yêu dân không? Hay là anh có ý hướng muốn lật đổ tất cả? Chúng ta không thấy được sự thật, tại vì chúng ta có quá nhiều nghi ngờ và sợ hãi. Vì vậy tri giác sai lầm, vô minh là một trong ba chất độc, trong đạo Phật gọi là tam độc: Tham, sân, si. Tham tức là tham vọng, sân tức là giận hờn, si tức là tri giác sai lầm. Ngoài ba chất độc đó, còn có chất độc khác như ganh tị, như tuyệt vọng. Có rất nhiều khổ đau tới từ phía ngu dốt, bệnh tật, nghèo đói, vô tổ chức nhưng cũng có rất nhiều khổ đau đến từ vô minh, từ tri giác sai lầm.
Nếu gia đình chúng ta tan nát, không ai tin ai, đó có thể không phải vì nghèo đói, vì bệnh tật mà vì chúng ta không hiểu nhau, chúng ta lên án nhau. Sự thực tập làm tiêu tan những hiểu lầm, thiết lập lại truyền thông, đem lại hạnh phúc trong gia đình là chuyện chúng ta có thể làm được (chuyện này không thuộc phạm vi tôn giáo). Khi có những khổ đau chúng ta có thể tới chùa, tới nhà thờ để cầu nguyện, chúng ta cảm thấy được an ủi một phần nhưng đó chỉ là pommade để xoa dịu vết thương, còn muốn chữa trị chúng ta phải có những biện pháp cụ thể. Trong đạo Phật chúng ta có rất nhiều tuệ giác và những phương pháp để làm chuyện đó.
Thực tập lắng nghe và ái ngữ
Hôm qua tôi có dịp thưa trình với quý vị là trong đạo Phật có những biện pháp, những pháp môn giúp cho chúng ta đem tâm trở về thân để có mặt thực sự trong giây phút hiện tại. Mình có mặt thực sự trong giây phút hiện tại thì mình mới có thể đối phó được với những gì đang xảy ra. Nếu mình không có mặt thì ai giải quyết cho. Vì vậy có mặt trong giây phút hiện tại là viên gạch, là nền tảng của sự thực tập. Mình phải có mặt bây giờ và ở đây để giải quyết vấn đề. Trước hết sự có mặt của mình giúp cho mình tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống, để mình được nuôi dưỡng và được trị liệu. Thứ hai, khi có mặt trong giây phút hiện tại thì mình có thể nhận thấy những nỗi khổ niềm đau đang biểu hiện. Với sự thực tập mình có thể nhận diện, ôm ấp làm cho những nỗi khổ, niềm đau được nhẹ bớt, lắng dịu lại. Những điều đó trong kinh đã được chỉ dẫn rất đàng hoàng. Bằng hơi thở có ý thức, bằng bước chân có ý thức mình có thể nhận diện, ôm ấp và làm lắng dịu được những nỗi khổ, niềm đau dâng lên như là nỗi buồn, cơn giận, sự tuyệt vọng.
Khi quý vị tới một trung tâm thực tập, người ta chỉ dẫn cho quý vị những biện pháp rất cụ thể để nhận diện, ôm ấp, đối phó với những nỗi buồn, cơn giận của mình. Rồi sau đó với năng lượng của niệm và của định hùng hậu thì mình có thể chiếu ánh sáng vào trong bản chất của nỗi khổ niềm đau để tìm ra nguyên nhân xa gần. Một khi tìm ra gốc rễ thì mình thực tập quán chiếu và dùng trí tuệ nhổ tận gốc những tri giác sai lầm, nguyên do của những nỗi buồn, cơn giận. Đó gọi là tuệ giác của đạo Phật. Với những phương pháp thực tập như vậy chúng tôi đã tu tập, chúng tôi đã biến đoàn thể chúng tôi thành một gia đình tâm linh có hạnh phúc.
Chúng tôi đã từng đi, từng tổ chức tại chỗ những khóa tu cho thiền sinh ở các nước tới tu tập, có hàng ba bốn ngàn thiền sinh đến từ các nước Âu châu và Mỹ châu. Mỗi mùa hè như vậy chúng tôi thấy ít nhất bốn mươi quốc gia có mặt trong đạo tràng của chúng tôi. Sự tu tập đó giúp cho mọi người lắng dịu, mọi người được tưới tẩm những hạt giống của thương yêu, của hiểu biết, mọi người học phương pháp lắng nghe và ái ngữ để thiết lập lại được truyền thông và hòa giải với nhau. Không có khóa tu nào mà không có những phép lạ mầu nhiệm biểu hiện. Luôn luôn có những cặp cha con, cặp vợ chồng hòa giải được với nhau và đem lại hạnh phúc trong gia đình.
Tôi nhớ một lần có khóa tu cho sáu bảy trăm người tại Oldenburg miền bắc nước Ðức, toàn là cho người Ðức. Tới ngày thứ sáu tôi ra cho họ một bài tập là quý vị đã tiếp nhận pháp môn ái ngữ lắng nghe, quý vị đã biết nghệ thuật lắng nghe bằng tâm từ bi, quý vị đã biết sử dụng ngôn từ hòa ái để giúp cho người kia có thể hiểu được và có cơ hội nói ra những nỗi khổ niềm đau của mình. Tôi giao cho quý vị, nếu quý vị chưa làm được việc hòa giải đó thì quý vị phải hoàn tất trước mười hai giờ đêm hôm nay. Nếu người kia đang có mặt trong khóa tu thì rất dễ vì người kia cũng được đi ngang qua sáu ngày bảy ngày thực tập. Nhưng nếu người kia không có mặt trong khóa tu, quý vị có thể dùng điện thoại di động để làm công việc này.
Sáng hôm sau có bốn người thanh niên Ðức lên báo cáo với tôi là ngày hôm qua họ đã dùng điện thoại di động và họ đã hòa giải được với bố của họ. Trước đó họ không nghĩ rằng họ có thể nói được với bố những lời nhẹ nhàng và có tình nghĩa. Nhưng sau sáu ngày tu tập những hạt giống của hiểu và thương được tưới tẩm và tự nhiên họ có thể nói được ngôn ngữ đó: Bố ơi! con biết rằng trong những năm vừa qua, bố có nhiều khổ đau khó khăn, con đã không giúp được bố mà con đã làm cho tình trạng nặng nề hơn. Con hối hận quá đi, con muốn bố giúp con, bố nói cho con nghe đi tất cả những khổ đau, những khó khăn, những bức xúc của bố và những vụng về của con để con có thể hiểu được bố và con không có dại dột lặp lại những vụng về đó. Bố ơi, bố giúp con đi!
Những người thành niên đó đã có khả năng sử dụng ngôn từ hòa ái mà trước đó họ không làm được. Vì trước đó chưa có ai tưới tẩm hạt giống của hiểu và của thương nơi họ, giúp cho họ thấy rằng bố họ cũng là nạn nhân của những hiểu lầm, của những khó khăn. Pháp môn nầy rất mầu nhiệm. Nếu quý vị tham dự vào một khóa tu bảy ngày, quý vị sẽ thấy rằng tới ngày thứ sáu, quý vị đã thay đổi rất nhiều. Quý vị có thể lắng nghe được, quý vị có thể sử dụng ái ngữ và quý vị có thể mở được cánh cửa trái tim của người kia, lâu nay đóng im ỉm và nhất định không chịu mở ra. Chúng tôi biết rằng con số bốn chàng thanh niên Ðức lên báo cáo, không phải là con số đích thực, tại vì có những người đã thành công nhưng họ mắc cỡ, họ e thẹn, họ không lên báo cáo.
Chúng tôi gồm có những người xuất gia, những người tại gia đã được đào tạo theo mô thức này. Chúng tôi có thể tổ chức được những khóa tu tập, trong đó người thiền sinh tiếp thu những phương pháp thực tập để có thể thành công. Họ có thể tham vấn, chúng tôi có thể soi sáng và giúp cho họ giải quyết những mâu thuẫn, những khó khăn trong liên hệ của họ đối với con cái, đối với cha mẹ, đối với chồng vợ.
Mỗi năm, mỗi tháng, mỗi ngày chúng tôi đều học hỏi thêm tại vì chúng tôi chỉ làm mỗi việc đó. Chúng tôi nghĩ rằng vai trò của đạo Phật là phải giúp cho những gia đình trong xã hội thiết lập lại được truyền thông và đem lại hạnh phúc trong từng gia đình. Ví dụ như trong một thôn làng, một khu phố mà có một ngôi chùa thì ngôi chùa đó phải đóng vai trò lãnh đạo tinh thần, lãnh đạo đạo đức cho khu phố hay thôn làng đó.
Trong ngôi chùa đó thì các thầy sống với nhau như anh em trong một nhà, có tình thương, có tình huynh đệ và các thầy phải đem khả năng chuyên môn học được từ sự tu học của mình để có thể giúp cho những gia đình trong thôn làng đó, khu phố đó. Để làm được chuyện đó, ngôi chùa đó phải có danh sách và phải có hồ sơ của từng gia đình. Trong đó có những gia đình là Phật tử và những gia đình chưa phải là Phật tử hoặc không phải là Phật tử, người Thiên chúa giáo hay người Cộng sản nhưng họ vẫn có thể thừa hưởng được sự thực tập của đạo Phật.
Đạo Phật ứng dụng trong đời sống hàng ngày
Ở Tây phương chúng tôi đã thiết lập những trung tâm gọi là Mindfullness center, trung tâm Thực Tập Chánh Niệm. Trong đó không thờ Phật, không đốt hương, không tụng kinh nhưng tất cả mọi người đều được học hỏi phương pháp thở, phương pháp đi, phương pháp nhận diện những khổ đau, những khó khăn, được học những phương pháp ái ngữ và lắng nghe. Sự thực tập hoàn toàn không có tính cách tôn giáo, tín ngưỡng. Những Mindfullness center, trung tâm Thực Tập Chánh Niệm này chúng tôi lột hết màu sắc tôn giáo và chỉ để nguyên chất của tuệ giác Phật giáo mà thôi. Chúng tôi không sử dụng danh từ Phật học và chúng tôi đã thành công. Trong tương lai chúng tôi muốn mỗi thành phố lớn ở Âu châu, Mỹ châu đều có những trung tâm thực tập chánh niệm như vậy.
Nhà nước bây giờ hiện có chính sách xây dựng những thôn văn hóa, những khu phố văn hóa, những tổ văn hóa, ở trong đó không có những tệ nạn xã hội như mãi dâm, ma túy, như tội phạm, tham nhũng. Chúng ta thấy rằng trong Ðảng và trong nhà nước có những người đã giác ngộ, đã thấy rõ ràng là mình phải đối phó với những tệ nạn xã hội đó. Trên bước đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội, nếu chúng ta không có chiều hướng về tâm linh của đạo đức thì chúng ta sẽ thất bại. Vì vậy, sự xây dựng những thôn văn hóa, những khu phố văn hóa đó rất là cần thiết. Nếu không, chúng ta sẽ tạo ra một hoàn cảnh mà trong đó những hạt giống xấu, những cái gen xấu của chúng ta và của những người trẻ được tưới tẩm. Những đau khổ sẽ xuất hiện rất nhiều ở khắp mọi lĩnh vực cho nên phải có những cố gắng để xây dựng nếp sống văn hóa. Văn hóa ở đây có nghĩa là đạo đức, là sự vắng mặt của những tệ nạn xã hội.
Nhưng nhà nước với công an và cảnh sát có thể làm được gì ngoài cái chuyện kiểm soát và trừng phạt? Sở dĩ người trẻ họ sa vào vòng ma túy, sa vào vòng băng đảng tội ác hay là sắc dục là vì họ không cảm thấy thoải mái và hạnh phúc trong gia đình. Họ không truyền thông tốt với cha với mẹ, họ thấy cha và mẹ làm khổ nhau. Họ không có gốc rễ trong gia đình, trong văn hóa, trong truyền thống và họ trở thành những con ma đói. Biện pháp giải quyết là phải tận gốc, nghĩa là chúng ta phải làm thế nào để giúp được cho những gia đình đó thiết lập lại được truyền thông giữa cha với con, giữa vợ với chồng, đem lại hòa điệu, thương yêu và hạnh phúc. Đó là công việc mà Phật giáo có thể làm được.
Chúng tôi đã hiện đại hóa được Phật giáo, chúng tôi đã phục vụ được cho cộng đồng Tây phương và cộng đồng Việt Nam ở bên đó. Chúng tôi có niềm tin rằng nếu các thầy, các sư cô và các đạo hữu cư sĩ nắm được những pháp môn thực tập này. Tức là nhận diện, thấy được những gốc rễ của nỗi khổ niềm đau và có thể làm lắng dịu những nỗi khổ niềm đau đó. Giúp cho người ta thực tập được ái ngữ và lắng nghe, giúp cho cha con, vợ chồng tái lập được truyền thông và đem lại được hạnh phúc cho gia đình. Chúng tôi nghĩ rằng đó là công tác căn bản mà đạo Phật có thể đóng góp được.
Trong hai tháng vừa qua, thăm viếng và tiếp xúc với cộng đồng Phật giáo chúng tôi có nhận thức rằng: Cái học của chúng ta đang còn có tính cách lý thuyết hơi nhiều. Tại các trường Cơ Bản Phật học, các trường Trung Học Phật Giáo của chúng ta rất còn lý thuyết, điều này cũng đúng không phải chỉ ở trong Phật Giáo mà ở mọi lĩnh vực giáo dục khác của đất nước cũng như vậy. Vì vậy chúng ta phải lập tức từ bỏ cái học từ chương. Phật học cũng như các ngành học khác phải có tính cách thực dụng. Học được cái gì thì chúng ta phải đem ra thực tập liền lập tức, đó là lời phát biểu của chúng tôi đối với các nhà lãnh đạo ở trong cộng đồng và đại gia đình Phật Giáo.
Ở Làng Mai hoặc tại các trung tâm tu học của chúng tôi, cái học của chúng tôi rất là thực tiễn. Mình giảng dạy cái gì, mình phải làm được cái đó. Nếu sống trong đoàn thể, trong gia đình, trong cộng đồng, mình không thực tập được sự hòa giải, thiết lập được truyền thông và giúp nhau khôi phục lại được tình thương và hạnh phúc thì làm sao mình có thể thành công được trong khi mình đi ra ngoài giúp những người khác? Chúng tôi nghĩ rằng nếu chúng ta thiết lập ra những cơ sở, ví dụ như những Viện Phật Học Ứng Dụng, trong đó chúng ta vừa học, vừa thực tập và làm cho được. Chúng ta sẽ có những người cán bộ, người xuất gia và người tại gia, đi ra phục vụ cho thôn văn hóa trong cộng đồng văn hóa, giúp nhà nước thành công được trong sự xây dựng một cộng đồng tốt đẹp thì sẽ không còn những tệ nạn như tham nhũng, tội phạm, xì ke, ma túy, đĩ điếm.
Trước khi về Việt Nam, phái đoàn chúng tôi đã nghe rằng nạn tham nhũng rất trầm trọng tại Việt Nam. Ðảng cũng như trong Nhà nước rất muốn đánh phá nạn tham nhũng đó. Trong đạo Phật, chúng tôi có nghe nói rằng: Sư tử là con thú rất có sức mạnh và không có con vật nào có thể chiến thắng con sư tử được. Chỉ có một con vật có thể làm con sư tử chết, đó là những con vi trùng, những con vi khuẩn phát triển và sinh sản ngay trong cơ thể con sư tử. Trong đạo Phật gọi đó là sư tử trung trùng (những con vi trùng trong thân thể con sư tử). Chúng ta có thể chiến thắng tất cả những chướng ngại, những khó khăn nhưng nếu để cho những con vi trùng phát triển trong cơ thể của chúng ta thì chúng ta sẽ chết vì những con vi trùng đó. Vì vậy cho nên chúng ta phải cẩn thận lắm mới được.
Trước khi về Việt Nam, chúng tôi đã phát nguyện rằng đừng vì muốn được đối xử dễ dãi và thành công mà mình đi theo con đường của sự tham nhũng. Có thể có những khó khăn khi đi vào phi trường, những cuốn sách đem theo để mình tặng muốn cho nó lọt mau thì mình phải đưa ra một bì thư hoặc ở các cơ quan, các cấp, các ngành, nếu mình muốn cho công việc được dễ dàng thì mình áp dụng các phương pháp mà đa số đều áp dụng, tức là đưa ra những bì thư. Chúng tôi đã bàn rất kỹ với tòa đại sứ Việt Nam ở tại Pháp, chúng tôi nói rằng chúng tôi không muốn nuôi dưỡng tham nhũng nữa và vì vậy chúng tôi cương quyết sẽ không áp dụng phương pháp đó, dù chúng tôi gặp những khó khăn, dù chúng tôi bị chặn lại ở nhiều chỗ. Chúng tôi về với mục đích đóng góp cho đất nước, nếu mà chúng tôi sử dụng biện pháp đó là chúng tôi đi ngược lại với chủ tâm của chúng tôi.
Chúng tôi đã được ông ủy viên chính trị của tòa đại sứ nói rằng: Khi nào có dấu hiệu của sự tham nhũng, quý thầy báo cho chúng tôi liền lập tức. Trong suốt hai tháng, chúng tôi đã thực tập là không bao giờ nhượng bộ, dù gặp khó khăn chúng tôi cũng không sử dụng những biện pháp đó, chúng tôi nghĩ đó là tấm lòng yêu nước thực sự. Nếu chúng ta vì muốn được dễ dãi, muốn được thành công mà áp dụng phương pháp đó thì chúng ta làm hư đất nước, chúng ta làm cho những con vi trùng trong cơ thể con sư tử lớn lên và chúng ta sẽ chết vì cái đó. Đây là sự thực tập của tất cả chúng ta. Chúng ta hãy ráng cắn răng chịu đựng đi ngang qua những khó khăn. Nếu chúng ta lựa con đường dễ dãi, con đường tham nhũng thì chúng ta sẽ làm hư sự nghiệp của các bậc tiền nhân, của những người đã ngã xuống để cho chúng ta có thể đứng dậy, buớc lên.
Chúng tôi nghĩ rằng chúng ta thiết lập được những trung tâm giáo dục đào tạo những cán bộ người xuất gia cũng như người tại gia có khả năng để giúp thôn làng củng cố lại được cấu trúc gia đình, tại vì gia đình là đơn vị căn bản của xã hội. Giúp cho cha truyền thông lại được với con, giúp cho con truyền thông lại được với cha, cho vợ với chồng truyền thông trở lại được và đem lại hạnh phúc trong gia đình là một trong những công tác yêu nước căn bản. Trong truyền thống Phật giáo chúng ta có phương pháp rất đầy đủ và rất cụ thể cũng như giáo lý cần thiết để có thể làm được công việc này. Chúng ta đã thành công được ở Tây phương thì không có lý do gì chúng ta không thành công được ở Việt Nam.
Chúng tôi cũng đã từng đi giảng dạy ở các nước Ðại Hàn, Trung Quốc, chúng tôi thấy học Phật ở các nước đó cũng còn lý thuyết. Nếu được nhà nước, được Ðảng yểm trợ cho công tác này thì chúng ta có thể thay đổi được bộ mặt của chúng ta một cách mau chóng với sự đóng góp của những người Phật tử. Tôi nghĩ rằng giới giáo chức trong các trường tiểu học, trung học có thể tham dự vào công trình này, tại vì nếu người trẻ thất bại trong gia đình thì còn cơ hội thứ hai là học đường. Các thầy, các cô giáo có thể đóng vai trò của cha mẹ cho người trẻ đó một cơ hội thứ hai để thành công. Vì vậy các thầy giáo, các cô giáo cũng có thể học được biện pháp này. Mình cũng có thể vừa là thầy, vừa là cha mẹ để giúp cho các em trở về được với gia đình và giúp được cho phụ huynh chuyển hóa.
Học đường phải có liên hệ mật thiết với phụ huynh học sinh. Sự thực tập của thầy giáo, của phụ huynh học sinh đưa tới sự chuyển hóa và bảo hộ học sinh cho nên tôi nghĩ rằng ngôi chùa, gia đình và học đường phải liên minh được với nhau để chăm sóc cho người trẻ. Chúng ta phải có một công thức, phải có một sự cộng tác rất chặt chẽ giữa giới phụ huynh, giới giáo chức và giới tu sĩ. Nếu đi theo được con đường này thì chúng ta có thể thành công được trong thời gian ngắn và tôi nghĩ rằng chúng ta có thể đi trước Trung Quốc tới ba mươi năm trên con đường hiện đại hóa đạo Phật.
Chiều hướng tâm linh đạo đức
Tôi đã từng đi giảng dạy tại các nước Á châu, tôi thấy rằng chúng ta có cơ hội, tại vì đạo Phật của chúng ta là đạo Phật Nhập Thế, là đạo Phật Đi Vào Cuộc Đời, là đạo Phật đối trị với những vấn đề có thật trong cuộc đời, chứ không phải là đạo Phật bay bổng trên mấy tầng mây. Trong truyền thống chúng ta đã từng như vậy. Hôm qua chúng tôi đã có dịp hàn huyên với chư vị về vua Trần Thái Tông, ngài mới hai mươi tuổi thôi mà phải đối diện với quá nhiều tuyệt vọng, quá nhiều đau khổ nhưng nhờ có một vị thầy rất vững chãi, tức là quốc sư Viên Chứng ở trên núi Yên Tử mà Trần Thái Tông đã vượt thắng được những khổ đau, những tuyệt vọng đó.
Trong bài tựa sách Thiền Tông Chỉ Nam, vua có kể lại rằng công việc triều chính rất là bận rộn nhưng vua đã tranh thủ để mỗi ngày học thêm đạo Nho, đạo Phật. Học thêm đạo Nho để làm chính trị, học thêm đạo Phật để làm đạo đức. Theo nghi thức gọi là Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi thì vua Trần Thái Tông đã ngồi thiền và bái sám mỗi ngày sáu lần, mỗi lần mười lăm phút. Nhờ chiều hướng tâm linh, nhờ sự thực tập tâm linh mà vua Trần Thái Tông đã vượt thắng được những tuyệt vọng, những khổ đau của mình để trở thành một nhà chính trị giỏi, một vị vua lớn trong triều đại nhà Trần. Nhờ đạo đức mà vua Trần Thái Tông đã cảm hóa gia đình An Sinh Vương Trần Liễu. An Sinh Vương Trần Liễu đã từng tổ chức hải quân chống lại triều đình nhưng với sự can thiệp của vua Trần Thái Tông mà An Sinh Vương không bị kết tội mà còn được cấp đất cho ở yên một vùng. Nhưng An Sinh Vương vẫn còn ôm mối hận và dặn ba đứa con trước khi chết là phải trả mối thù này cho cha.
Ba đứa con của An Sinh Vương Trần Liễu là Trần Tung, Trần Quốc Tuấn và người con gái sau này là hoàng hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm, vợ vua Trần Thánh Tông. Ba người đó đều được vua Trần Thái Tông cảm hóa và tu theo đạo Phật. Trần Tung tức Tuệ Trung Thượng Sĩ. Nếu nghiên cứu Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục thì quý vị sẽ thấy năng lượng tâm linh của Tuệ Trung Thượng Sĩ không thua gì năng lượng của Tổ Lâm Tế Nghĩa Huyền. Sau này Tuệ Trung Thượng Sĩ 7* đã trở thành một vị lãnh đạo của Phật giáo trong khi ông chỉ là người cư sĩ bình thường thôi. Người em ruột của Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung là Trần Hưng Ðạo có công rất lớn trong việc chiến thắng quân Nguyên và người em gái là vợ vua Trần Thánh Tông. Như vậy, ba người đã không nghe lời cha để trả thù mà ba người còn cộng tác chặt chẽ với vua Trần Thái Tông trong việc đánh đuổi quân Nguyên và gầy dựng cơ nghiệp nhà Trần. Đó là nhờ sức cảm hóa của đạo đức Phật giáo và nhờ tu mà nhà Trần đã đặt được nền tảng vững chãi cho một triều đại huy hoàng trong lịch sử.
Nếu quý vị có đọc qua cuộc đời và sự nghiệp của vua A Dục 8*, quý vị thấy vua A Dục thành công rất lớn là nhờ chiều hướng tâm linh và đạo đức. Ban đầu thì vua A Dục rất là bạo động, trong cuộc chiến tranh vua đã tàn sát rất nhiều người và cuối cùng vua đã thống nhất lãnh thổ Ấn Ðộ. Sau khi thống nhất lãnh thổ thì vua đã thống nhất được lòng người. Thống nhất lãnh thổ đã là hay lắm rồi nhưng chưa hay bằng thống nhất được lòng người. Nhờ chiều hướng tâm linh mà vua đã thành công trong việc thống nhất lòng người. Trong hai mươi sáu năm đầu của triều đại A Dục vương, vua A Dục đã ra lệnh ân xá hai mươi lăm lần liên tiếp, vua đã quy y, tiếp nhận năm giới và vua đã thực tập năm giới đó rất đàng hoàng. Hoàng gia ngày xưa có thú đi săn với hàng trăm người cũng như hoàng gia Anh có truyền thống đi săn chồn. Mỗi khi săn chồn như vậy thì có hàng trăm con ngựa, hàng trăm cái kèn, hàng trăm con chó kéo theo. Thủ tướng Tony Blair trong những năm qua đã tìm cách chặn đứng thú vui đó của hoàng gia, tại vì dân chúng không thích chuyện đó. Nữ hoàng Anh cũng thấy rất rõ rằng đi săn chồn như vậy làm mất lòng dân chúng rất nhiều cho nên Nữ hoàng đã dặn hoàng tử Charles: Nên bỏ cái thú vui đó đi, làm mất lòng dân chúng lắm. Nhờ vậy đã có sự cộng tác giữa hoàng gia và thủ tướng Anh để chấm dứt truyền thống đó.
Từ khi vua A Dục quy y, thọ trì năm giới, vua thực tập tôn trọng sự sống cho nên vua giảm thiểu sự giết hại, ra lệnh rằng từ nay về sau hoàng gia không đi săn nữa và thay vì đi săn, hoàng gia sẽ tổ chức những cuộc hành hương để đi thăm những vị đạo cao, đức trọng ở trong nước. Ngày xưa, mỗi ngày ở trong cung giết hàng trăm con hươu, gà, công để làm thức ăn cho hoàng gia, nay giảm thiểu chỉ còn hai con công với một con hươu nhưng sau này vua cũng nói thôi và chấm dứt luôn. Vua ra lệnh đi tới đâu cũng phải trồng cây, phải đào giếng, phải thành lập những vườn trồng dược thảo. Vua đã cho khắc lên nhiều trụ đá những điều hướng dẫn: Xây dựng lòng từ bi, tình huynh đệ. Chính vua đã thực tập rất đàng hoàng theo con đường tâm linh đó. Tuy là phật tử nhưng vua tôn trọng tất cả những truyền thống tâm linh tôn giáo có mặt trên toàn cõi Ấn Ðộ. Vua ra sắc lệnh: Các truyền thống không được nói xấu nhau, không được tấn công nhau. Nhờ đem một chiều hướng tâm linh vào đời sống của nhà chính trị cho nên nhà vua đã làm gương cho dân chúng Ấn Ðộ. Vua đã thống nhất được lòng người.
Tôi nghĩ các nhà chính trị ở Việt Nam cũng có thể làm được như vua Trần Thái Tông hay vua A Dục. Tôi biết hiện thời ở Hà Nội, tướng Võ Nguyên Giáp mỗi ngày đều có ngồi thiền. Tôi không lấy làm lạ vì ngồi thiền như vậy nó đem lại thanh thản cho chính bản thân mình và mình có thì giờ tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống. Ngồi yên được là rất hay, ngồi yên thì cái tâm mình mới yên, tâm yên thì mình mới tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống. Tôi biết rằng thủ tướng Phạm Văn Ðồng cũng đã quy y ở chùa Ðậu, tôi cũng không lấy làm ngạc nhiên, tại vì cha ông chúng ta đều làm như vậy trong quá khứ. Nhưng điều tôi mong mỏi là chúng ta đừng đợi đến tuổi già rồi mới đem vào đời sống của mình một chiều hướng tâm linh. Năm hai mươi tuổi mình đã có thể làm như vậy và mình phải cho quần chúng thấy mình đang làm như vậy.
Tôi mong ước trong đảng, cũng như trong chính quyền nếu quý vị có khuynh hướng muốn sống đời sống tâm linh thì quý vị phải tự nhiên thôi. Nếu cần đi chùa thì cứ đi chùa, nếu muốn ngồi thiền thì cứ ngồi thiền. Tại sao phải ngần ngại? Phải cho quần chúng thấy là mình có một nếp sống tâm linh, mình có thể làm cho gia đình mình có hạnh phúc. Mình thiết lập được truyền thông giữa mình với những phần tử trong gia đình. Nhà chính trị cũng phải có hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc gia đình. Khi chúng ta thấy rằng gia đình của nhà chính trị có hạnh phúc thì chúng ta tin tưởng nhiều hơn ở gia đình đó, ở nhà chính trị đó. Nếu nhà chính trị không truyền thông được với con, không truyền thông được với vợ hay chồng của mình và nếu nhà chính trị đau khổ, có nỗi khổ gia đình thì chúng ta không tin tưởng lắm vào nhà chính trị đó. Có một chiều hướng tâm linh đạo đức thì nhà chính trị có thể đem lại hạnh phúc trong gia đình, trong dòng họ và cả trong tổ chức chính trị của mình. Sự truyền thông có nhiều thì niềm tin càng lớn mà niềm tin càng lớn thì tình huynh đệ càng được phát triển và mình càng dễ thành công trong sự nghiệp chính trị của mình.
Lịch sử Việt Nam cũng như lịch sử quốc tế đã chứng tỏ như vậy. Chiều hướng tâm linh đạo đức vô cùng quan trọng, dù chúng ta là một nhà lãnh đạo, nhà thương mãi, nhà chính trị hay nhà giáo dục mà nếu có nếp sống tâm linh đạo đức thì chúng ta góp phần tích cực vào sự đánh phá những tệ nạn như tham nhũng, xì ke, ma túy, tội ác. Chúng ta làm gương, chúng ta dạy không phải bằng lời nói mà bằng sự sống hàng ngày. Trong đạo Phật có truyền thống An Bần Thủ Đạo, có nếp sống Tri Túc. Thanh niên bây giờ nghĩ rằng hạnh phúc là ở chỗ tiêu thụ, có nhiều tiền để mua những gì mình có thể mua. Chúng ta không thấy rằng tại các nước quá phát triển, tuy là tiêu thụ rất nhiều nhưng khổ đau cũng rất nhiều. Tôi đã từng tiếp xúc với những người tỷ phú, quyền lực rất lớn, tiền bạc rất nhiều, nhưng phần lớn đều sống cô đơn, sống trong tuyệt vọng, trong số đó có nhiều người tự tử. Những thầy, những sư cô có gốc Tây Phương sở dĩ xuất gia vì họ đã thấy rõ ràng rằng: Tiêu thụ, giàu sang, sắc dục không đưa lại hạnh phúc mà chính tình huynh đệ, lý tưởng độ đời, giúp đời mới đem lại hạnh phúc trong đời sống hằng ngày.
Chúng ta nghĩ rằng hạnh phúc có thể nắm bắt được trong hướng của uy quyền, của sắc dục, của danh vọng, của tiền tài là chúng ta lầm. Có rất nhiều người đã và đang đi về hướng đó và đang bị đau khổ tàn phá cả thân và tâm của họ. Trong khi đó thì tình huynh đệ, sự truyền thông và lý tưởng là những chất liệu đích thực của hạnh phúc. Những cái đó chúng ta không thể mua được bằng tiền mà chúng ta phải chế tác bằng sự tu tập của chúng ta. Chúng ta có thể sống đơn giản hơn, tiêu thụ ít hơn nhưng chúng ta có thể có hạnh phúc nhiều gấp trăm lần. Trong khi sống đơn giản như vậy chúng ta góp phần vào việc bảo vệ sinh môi.
Chúng ta khai thác nhưng bao giờ cho đủ với lòng tham của con người. Phát triển kinh tế, công nghiệp hóa là một chuyện nhưng mà học nếp sống hạnh phúc dựa trên tình huynh đệ, tình thương lại là chuyện khác. Chỉ có tình thương mới đem lại hạnh phúc, điều này chúng ta phải nói với tuổi trẻ. Nếu không có tình thương, nếu không có thì giờ để có mặt cho người thương thì chúng ta làm sao có hạnh phúc được?
Cả một nền tôn giáo như đạo Phật chỉ để dạy có một chuyện thôi. Đó là làm thế nào để có thể thương được và thương như thế nào để có thể hiến tặng cho nhau niềm vui, hạnh phúc mỗi ngày, mỗi giờ. Đó là giáo lý Thương Yêu trong đạo Phật.
Vấn Đáp
Ban tổ chức: Được thiền sư cho phép, bây giờ cử tọa có thể đặt câu hỏi hoặc chúng tôi sẽ thống kê một số những câu hỏi để có thể cho vào trong diện ưu tiên, xin Thiền sư cho ý kiến trước. Thưa Thiền sư đứng về phương diện nghiên cứu của trung tâm, chúng tôi có đặt ra một số câu hỏi tập hợp của các cán bộ nghiên cứu giảng dạy. Hôm qua Thiền sư đã trả lời được một số câu hỏi cho trung tâm rồi, hôm nay tôi thấy có một số câu hỏi nữa:
a. Câu hỏi thứ nhất: Xin Thiền sư vui lòng cho biết vai trò thờ cúng tổ tiên ở các nước trên thế giới hiện nay như thế nào và xu hướng của nó ra sao? Tất nhiên chúng tôi có ý nói ở các nước phương Tây.
b. Câu hỏi thứ hai: Cũng xin Thiền sư vui lòng cho biết một số nét rất cơ bản về đạo tràng Làng Mai của Tthiền sư hiện nay, những đặc điểm và xu hướng của nó, tất nhiên vừa qua chúng tôi đã được biết rất nhiều nhưng nếu có thể xin được biết thêm.
c. Câu hỏi thứ ba: Xin Thiền sư vui lòng cho biết những nội dung kế thừa và phát triển của thiền Làng Mai với thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
d. Câu hỏi thứ tư: Trong lịch sử dân tộc Việt Nam thì Phật giáo đã từng có những đóng góp đáng kể tạo nên sắc thái đặc biệt cho nền cho nền văn hóa Việt Nam. Vậy theo Thiền sư trong thời hiện đại Phật giáo có thể có những đóng góp gì cho sự phát triển của dân tộc, câu này vừa qua chúng tôi đã được nghe một chút.
e. Câu hỏi thứ năm: Chúng tôi biết trong buổi thuyết trình tại Phân viện của Học viện Hành chính Quốc gia tại thành phố Hồ Chí Minh thì Thiền sư cho rằng chính trị và tôn giáo là hai lĩnh vực khác nhau, nhưng cả hai đều có chung là sự hiện diện của đạo đức. Theo Thiền sư thì tôn giáo cũng như chính trị mà không đạo đức thì đều phá sản vì chính trị và tôn giáo đều có nền tảng chung, chắc chắn chúng sẽ có quan hệ mật thiết với nhau. Vì thế xin Thiền sư cho biết giữa chính trị và tôn giáo có quan hệ với nhau như thế nào? Xin Thiền sư vui lòng cho biết những ý kiến của mình, xin cảm ơn.
Quý vị nào có câu hỏi cứ chuyển dần cho chúng tôi, nếu tự đứng lên thì xin tự giới thiệu một chút.
Thiền sư Nhất Hạnh: Kính thưa liệt vị, người Tây phương rất có nhu yếu tìm về gốc rễ của họ. Nhu yếu đó cũng giống như nhu yếu của chúng ta là luôn luôn muốn tìm về gốc rễ. Hoa kỳ có những người có gốc Ái Nhĩ Lan, gốc Ðức, gốc Ý. Khi mới qua Hoa kỳ để lập nghiệp có thể họ chưa có nhu yếu đó hoặc là nhu yếu đó chưa đủ mạnh nhưng đến thế hệ thứ hai, thứ ba thì nhu yếu đó từ từ biểu hiện ra. Tất cả những người lập nghiệp tại Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ đều có chí hướng muốn tìm về gốc rễ của mình ở Âu Châu rất là rõ. Tuy họ không có an trí một bàn thờ tổ tiên ở nhà của họ nhưng trong nhiều nhà họ vẽ ra cái cây để thấy cái chi của mình tới từ những nhánh nào.
Thiền sinh tới Làng Mai được thực tập cụ thể hơn. Chúng tôi thiết lập một bàn thờ tổ tiên cộng đồng. Đến ngày thờ cúng tổ tiên, chúng tôi làm một bài vị rất vĩ đại. Có những tờ giấy được cắt thành hình trái tim hoặc hình trái cam và mỗi người viết xuống đó tên họ vị tổ tiên mà mình muốn tiếp xúc. Tất cả các thiền sinh đều dán bài vị của những người đó lên trên bàn thờ và chúng tôi cũng làm cỗ. Những người Hòa Lan thì tổ chức với nhau làm ra những món ăn đặc biệt Hòa Lan để dâng lên bàn thờ tổ tiên. Những người Pháp thì hợp lại với nhau làm ra món ăn đặc biệt Pháp để dâng lên bàn thờ tổ tiên cộng đồng. Sự thực tập ở đây không phải là khi đặt món cúng lên bàn, rồi thắp hương mới là thực tập. Thực tập là ngồi lại bàn với nhau những món nào mới là quốc hồn, quốc túy của nước mình, rồi cùng đi chợ mua những vật dụng để về làm những món đó. Khi ngồi bàn với nhau như vậy thì đã là thực tập rồi. Khi đi chợ có niềm vui huynh đệ, đến khi về thì các ông, các bà Hòa Lan hợp nhau lại để làm chung. Trong khi nấu thì mình đang tiếp xúc với tổ tiên, với truyền thống của mình rồi. Vì vậy không khí rất là vui, giống như không khí ngày hội. Ngày thờ cúng tổ tiên tổ chức tại đạo tràng Làng Mai là như vậy.
Đến giờ phút thỉnh chuông và thắp hương, mọi người đều ngồi thiền trước để cho tâm tư lắng đọng. Khi dâng hương xong, chúng tôi đọc lời khấn nguyện tổ tiên. Chúng tôi đọc bằng nhiều thứ tiếng. Chúng tôi không đọc hết các thứ tiếng được cho nên chúng tôi chỉ đọc tiếng Ý, tiếng Ðức, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Việt, chừng sáu bảy thứ tiếng thôi. Chúng tôi có cảm tưởng rằng tuy từ 40 nước tới với nhau nhưng chúng tôi đích thực là một gia đình, một gia đình tâm linh. Đức Phật Thích Ca là một tổ tiên tâm linh của mình và các thầy Ca Diếp, A Nan cũng là tổ tiên tâm linh của mình. Khi các thiền sinh Tây phương về Việt Nam để tham quan những ngôi chùa xưa ở miền Bắc, miền Trung hay miền Nam thì họ cũng có cảm tưởng họ là con cháu trở về với quê cha đất tổ tuy rằng tổ đây là tức là tổ tiên tâm linh.
Tôi không biết sau này người Tây phương sẽ thờ cúng tổ tiên dưới hình thức nào nhưng tôi có thể nói rằng tiếp xúc với Phật giáo, họ thấy rằng: Sự thực tập ba cái lạy, năm cái lạy và thờ cúng tổ tiên giúp cho họ thiết lập lại được quan hệ với tổ tiên huyết thống, với tổ tiên tâm linh, giúp họ lấy đi cái cảm giác bơ vơ, lạc lõng, phóng thể và phục hồi lại được sức khỏe tinh thần của họ. Điều này rất quan trọng và đây là một đóng góp lớn của Làng Mai, của văn hóa Việt Nam cho thế giới Tây Phương. Sự thực tập tiếp xúc với tổ tiên, giúp cho con người lạc lõng, truyền thông lại được với tổ tiên, nói chuyện lại được với tổ tiên trong đời sống hằng ngày là điều rất quan trọng.
Thiền là văn hóa, là sự sống. Khi chúng ta đưa tâm trở về với thân, để có mặt đích thực trong giây phút hiện tại, đó là thiền. Nếu chúng ta quen, một hơi thở vào cũng đủ để giúp cho tâm trở về với thân và có mặt ngay trong giây phút hiện tại. Chúng ta biết rằng thương yêu có nghĩa là có mặt cho người mình thương yêu. Nếu anh không có mặt thì làm sao anh thương yêu được. Vì vậy điều kiện tiên quyết của sự thương yêu là mình phải có mặt cho người yêu. Món quà quý nhất mình có thể tặng cho người yêu của mình là sự có mặt của mình, chứ không phải là một món quà mua ở siêu thị. Sự có mặt của mình phải có phẩm chất, phải tươi mát, phải ngọt ngào và vì vậy phải làm thế nào để mình thật sự có mặt. Sự có mặt của mình tươi mát, ngọt ngào đó là thiền. Nếu mình cau có, giận hờn, buồn tủi, sự có mặt đó thực sự không có phẩm chất. Cho nên mình phải thực tập thiền đi, thiền ngồi để tiếp xúc với những mầu nhiệm của đất trời, để phục hồi lại sự tươi mát, sự nhẹ nhàng, sự ngọt ngào của mình và mình tặng cái đó cho người mình yêu, điều này quan trọng nhất.
Nếu quý vị đích thực thương yêu ai, quý vị nên nhớ tặng phẩm quý nhất mà mình có thể tặng cho người mình thương là sự có mặt của mình: Em ơi, em có biết rằng anh đang có mặt đích thực cho em ở đây không? Anh đang thật sự có mặt cho em là một câu thần chú và đáp ứng tự nhiên sẽ là: Anh ơi, em biết rằng anh đang sống bên em, em rất là hạnh phúc. Thiền trước hết là sự có mặt, sự có mặt đích thực của mình và sự có mặt của phẩm chất mình hiến tặng cho người yêu, người yêu đó có thể là bố mình, mẹ mình, vợ mình, chồng mình hay là con mình. Thứ nhứt, sự có mặt ngọt ngào tươi mát của mình. Thứ hai, khi mình có mặt thực sự rồi thì mình có thể nhận diện được sự có mặt của người yêu thương, có nghĩa là công nhận sự có mặt của người kia.
Nếu quý vị lái xe mà chìm đắm trong những suy tư, lo toan và hoàn toàn quên người ngồi bên cạnh thì quý vị đã loại người đó ra khỏi vùng chú ý của mình và người đó không có cảm giác được thương yêu. Cho nên thương yêu là công nhận sự có mặt của người yêu, người mình thương bên cạnh mình: Bố ơi, con biết rằng bố đang còn sống với con, con hạnh phúc quá. Đó là công nhận sự có mặt của người thương: Em ơi, anh biết rằng em đang có mặt đó bên anh và điều này làm cho anh rất có hạnh phúc. Đó là công nhận sự có mặt của người mình yêu thì những điều này đâu có tốn tiền nhưng nó đem lại hạnh phúc rất lớn. Hiến tặng sự có mặt của mình cho người yêu, công nhận sự có mặt của người yêu như là một phẩm vật quý giá cho mình đó là thiền. Khi người mình thương có những khó khăn, có những đau khổ, mình nói rằng: Em ơi, anh biết rằng em đang có những khó khăn, khổ đau vì vậy anh đang có mặt ở bên em đây. Nói một câu nghe rất là an ủi, đó là thiền. Thiền nghĩa là trước hết phải có mặt và sự có mặt của mình có thể là một phẩm vật quý giá để hiến tặng và thiền là công nhận sự có mặt của người kia. Khi công nhận như vậy, người kia rất có hạnh phúc và mình cũng rất có hạnh phúc.
Nhiều khi tôi đi thiền giữa một đêm trăng, tôi ngẩng đầu lên, thấy trăng sao vằng vặc, tôi mỉm cười và nói chuyện với trăng sao: Cám ơn trăng có mặt cho tôi, cám ơn sao có mặt cho tôi, tôi rất là hạnh phúc. Mình công nhận sự có mặt của trăng sao, trăng sao có hạnh phúc rồi mình cũng có hạnh phúc. Người kia có thể là người yêu của mình, là cha của mình, là mẹ của mình, là ý trung nhân của mình. Nhưng người kia cũng là một bình minh sáng chói hay là một vầng trăng tròn hay là những ngôi sao sáng trên bầu trời. Đó là những mầu nhiệm của sự sống, khi mình thực sự có mặt rồi thì mình công nhận sự có mặt của kẻ kia, kẻ kia có thể là người thương của mình, kẻ kia có thể là những mầu nhiệm của sự sống như là trúc biếc, hoa vàng, trời xanh, mây tím.
Thiền tức là sống sâu sắc ngay trong giây phút hiện tại. Nếu mình đi thêm một bước nữa mình thấy thiền là khả năng nhận diện những nỗi khổ niềm đau. Nhìn sâu vào để thấy gốc rễ của nó và dùng trí tuệ, vô thường, vô ngã, tương tức để chuyển hóa những nỗi khổ niềm đau, đó gọi là thiền. Năng lượng chúng ta sử dụng trong thiền gồm có ba thứ: Niệm, Ðịnh, Tuệ. Niệm có nghĩa là ý thức được những gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại, ví dụ như khi mình thở vào mình ý thức được hơi thở vào của mình, gọi là chánh niệm về hơi thở. Khi mình bước đi một bước chân, mình ý thức được mình đang bước đi một bước chân trên trái đất xinh đẹp này thì đó gọi là chánh niệm về bước chân. Khi mình uống trà và thân tâm mình hoàn toàn có mặt trong giây phút hiện tại và mình tiếp xúc được với chén trà một cách đích thực thì lúc đó gọi là uống trà trong chánh niệm.
Chánh niệm tức là sự có mặt của thân tâm và nhận diện những gì đang xảy ra ngay trong giây phút hiện tại và sống từng phút giây sâu sắc như vậy của đời sống hằng ngày. Trong chánh niệm có nghĩa là thiền và khi ta có năng lượng chánh niệm rồi, chánh niệm là năng lượng giúp cho mình có mặt thực sự, mình sẽ có năng lượng thứ hai là Ðịnh. Định là chuyên chú vào một cái và tâm mình không có bị tản mác lôi kéo theo những cái khác, đó gọi là Ðịnh. Khi có Niệm và Định rồi thì mình có khả năng quán chiếu nhìn sâu và phát kiến ra sự thật, đó gọi là Tuệ. Tuệ là cái thấy sâu sắc có khả năng chuyển hóa những nỗi khổ niềm đau của mình, vì những nỗi khổ niềm đau của mình phát sinh từ những tri giác sai lầm. Thiền là chế tác ra năng lượng của niệm, của định, của tuệ và sống sâu sắc mỗi giây phút của đời sống mình, nhìn sâu vào thực tại để thấy những gốc rễ của khổ đau và dùng tuệ giác của đạo Phật như là một thanh gươm báu chặt đứt những gốc rễ của những khổ đau đó. Gốc rễ của những khổ đau là vô minh, là tri giác sai lầm mà chúng ta là nạn nhân. Nói vắn tắt là như vậy.
Bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể thực tập được thiền, nếu chúng ta từ nhà đi ra bến xe buýt thay vì suy nghĩ vẫn vơ theo đuổi những dự án, chúng ta có thể bước những bước thảnh thơi theo thiền. Chúng ta có thể phối hợp hơi thở với buớc chân, chúng ta thở vào một hơi và buớc một buớc: Ta đã về. Khi ta thở ra một hơi bước một bước nữa: Ta đã tới. Nếu chúng ta muốn buớc mau hơn nữa thì khi thở vào ta bước hai bước ta nói: Đã về, đã về và khi thở ra ta bước hai bước: Đã tới, đã tới. Về đâu? Tới đâu? Về với giây phút hiện tại, tới với giây phút hiện tại. Tại vì giây phút hiện tại là địa chỉ của sự sống đích thực: Quá khứ đã đi qua, tương lai thì chưa tới, sự sống chỉ có mặt đích thực trong giây phút hiện tại. Nếu chúng ta bỏ giây phút hiện tại thì chúng ta đánh mất ước hẹn, lỡ hẹn với sự sống. Chúng ta có ước hẹn với sự sống trong giây phút hiện tại và chỉ trong giây phút hiện tại mới thực sự có sự sống, đó là tuệ giác đạo Phật. Nếu chúng ta để cho tâm ta bị quá khứ lôi kéo, bị tương lai lôi kéo thì ta không còn an trú được trong giây phút hiện tại nữa.
Thiền có nghĩa là buông bỏ quá khứ, buông bỏ những lo lắng về tương lai, trở về và sống sâu sắc trong giây phút hiện tại. Mỗi hơi thở, mỗi bước chân, mỗi nụ cười, mỗi ánh mắt đều giúp cho chúng ta sống sâu sắc với giờ phút đó và đem lại hạnh phúc cho ta, cho những người chung quanh ta. Đây là một sự tập luyện, chỉ trong vài ngày là chúng ta thấy được hiệu quả và niềm vui của sự thực tập. Đó gọi là thiền duyệt, thiền duyệt là niềm vui của thiền định. Ngồi cũng hạnh phúc, đi cũng hạnh phúc, đứng cũng hạnh phúc, thở cũng hạnh phúc, ăn cơm cũng hạnh phúc, uống trà cũng hạnh phúc, chải răng cũng hạnh phúc, đi tiểu cũng hạnh phúc. Trong khi chúng ta chải răng, chúng ta chải như thế nào để có sự vững chãi thảnh thơi. Trong khi đi tiểu chúng ta đừng có vội vàng, tại vì đi tiểu là một phần của sự sống. Chúng ta phải có sự thoải mái, sự thảnh thơi và hạnh phúc trong khi chúng ta đi tiểu, đi cầu.
Chính vua Trần Thái Tông đã nói như vậy, không phải chỉ đọc kinh với ngồi thiền mới là Phật Pháp mà đi tiểu, đi cầu, giặt áo đều là Phật Pháp cả. Đó là những lời của vua Trần Thái Tông. Sự thực tập thiền xảy ra trong bất cứ giờ phút nào của sự sống. Bất cứ ở đâu, khi mà chúng ta bước những bước trên vỉa hè hoặc trong siêu thị hoặc ở phi trường thì chúng ta cũng có thể bước những bước chân thảnh thơi, bước như những con người tự do, không để cho quá khứ lôi kéo, không để cho tương lai làm lo sợ. Bước từng bước thảnh thơi, tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống, bước ở phi trường cũng là thiền, bước ở bờ sông cũng là thiền, đứng chờ đến phiên mình đi vào cũng là thiền, không để mất giây phút nào hết.
Tôi thấy rằng đạo Phật có một yếu tố rất quý, đó là thái độ bao dung, không giáo điều. Ngày hôm qua, tôi đã nói rằng những thế hệ Phật tử là sự tiếp nối của tuệ giác đạo Phật. Những thế hệ sau này theo đạo Phật phải đưa đức Thích Ca đi xa hơn, phải khai triển tuệ giác của đức Thích Ca để cho tuệ giác đó luôn luôn có thể thích ứng được và phục vụ được cho con người đương đại. Những người Mác xít cũng vậy, những người Mác xít là sự tiếp nối của Mác, phải đưa Mác đi về tương lai, phải khai triển tuệ giác của Mác, phải làm sao cho tuệ giác đó luôn luôn mới để có thể đáp ứng được với những nhu yếu của con người đương đại.
Tôi nghĩ rằng Việt Nam có khả năng chuyển hóa. Văn hóa Việt Nam có khả năng chuyển hóa rất là lớn. Tây phương có chữ transformation, tức là khi nào ăn vào một cái gì đó thì mình phải tiêu hóa được cái đó và nó trở thành một phần của cơ thể mình. Tất cả những yếu tố văn hóa mà chúng ta tiếp thu từ ở ngoài, Việt Nam có khả năng chuyển hóa nó trở thành Việt Nam. Tôi nghĩ rằng đạo Phật phải trở thành đạo Phật Việt Nam, đạo Lão phải trở thành đạo Lão Việt Nam, đạo Khổng phải trở thành đạo Khổng Việt Nam và truyền thống Mác cũng phải trở thành truyền thống Mác Việt Nam. Nếu làm được như vậy thì chúng ta không còn khó khăn nữa và chúng ta có thể nắm tay nhau đi một cách rất hài hòa với tình huynh đệ. Sẽ không có sự kỳ thị chống đối loại trừ nhau nữa. Hạnh phúc là điều mà chúng ta có thể có được ngày hôm nay, nếu chúng ta có được nhận thức khai phóng, cởi mở đó.
Truyền thống Trúc Lâm Yên Tử là một truyền thống có khuynh hướng tổng hợp. Trước khi có phái Trúc Lâm Yên Tử thì chúng ta có những phái thiền khác như là phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi, phái Tăng Hội, phái Vô Ngôn Thông, phái Thảo Ðường, rồi có phái Lâm Tế rồi bắt đầu có phái Tào Ðộng. Nhưng tất cả đều xuôi vào một dòng sông, trở thành thiền phái Yên Tử. Ngày đó chúng ta có một vị quốc sư có tên rất hay Nhất Tông Quốc Sư. Nhất tông nghĩa là một tông phái thôi, đó thật sự là Phật giáo thống nhất trong nội dung chứ không phải trong hình thức, tại vì chúng ta có khuynh hướng muốn đi với nhau như một dòng sông mà không có xé lẻ, không đi riêng. Khi đi được với nhau như một dòng sông thì chúng ta sẽ rất mạnh. Phương châm của chúng tôi tại Làng Mai là phải đi như một dòng sông. Khi đã được dòng sông chấp nhận rồi thì chúng ta thấy cộng đồng chính là thân thân thể của chúng ta. Chúng tôi gọi là tăng thân, tăng tức là đoàn thể. Chữ tăng không có nghĩa là người xuất gia, chữ tăng tiếng Phạn vốn là chữ Sangha 9*, có nghĩa là đoàn thể. Đoàn thể tổ chức tu theo đạo Phật gọi là tứ chúng, gồm bốn yếu tố: xuất gia nam, xuất gia nữ, tại gia nam, tại gia nữ.
Khi gia nhập vào trong đoàn thể tu học rồi thì đoàn thể đó trở thành hình hài của mình, tăng thân của mình. Cũng vậy, khi có tình huynh đệ rồi thì người nào cũng là thân thể của mình và mình thấy nỗi khổ niềm đau của họ chính là nỗi khổ niềm đau của mình, những khó khăn của họ chính là những khó khăn của mình. Khi thấy được như vậy rồi sẽ không còn có cá nhân chủ nghĩa, sẽ không còn có chuyện đi tìm hạnh phúc riêng hay có những ước mơ riêng.
Trúc Lâm Yên Tử là là một thiền phái có khuynh hướng ôm lấy tất cả mọi truyền thống và có tính cách nhập thế vào đời, chứ không phải đứng ra ngoài cuộc đời. Chúng ta hãy tưởng tượng ông vua con tức là vua Anh Tông ngồi trên ngai vàng để trị nước và vua cha Trần Nhân Tông trở thành một đạo sĩ, một người xuất gia. Vào thời vua Trần Anh Tông trị nước, thỉnh thoảng vua có mời các thầy vào cung thuyết pháp và trong đó chính đức vua Trần Nhân Tông đã tổ chức lễ quy y truyền giới cho các quan trong triều. Trong thời đại đó, vua Trần Nhân Tông đã trở thành Trúc Lâm Ðại Sĩ và là một ông thầy tu đi chân đất, không đi xe, không đi ngựa nữa. Đi tới đâu vua cũng khuyến khích dân chúng tu tập theo năm giới, xây dựng tình huynh đệ và bài trừ mê tín. Vua Trần Nhân Tông, với tư cách một thầy tu đã đi sang Chiêm Thành thương thuyết để cho hai nước cộng tác với nhau, chấm dứt những tranh chấp ở biên giới. Khi làm vua thì phục vụ cho hòa bình, rồi làm thầy tu cũng phục vụ cho hòa bình nữa, đó là công trạng của vua Trần Nhân Tông.
Chúng tôi nghĩ rằng chúng ta có những thiền phái rất là Việt Nam như thiền phái Tăng Hội. Xin nhắc cho quý vị nhớ thiền sư Tăng Hội, cha là người miền Bắc Ấn Ðộ di cư về miền Nam Ấn Ðộ, thân phụ của thiền sư Tăng Hội đã đi qua Việt Nam với tư cách của một nhà buôn, một thương gia trẻ, khi tới Việt Nam, thân phụ của thiền sư Tăng Hội yêu chuộng đất nước đó, muốn ở lại luôn ở đất Giao Châu cho nên ông ta đã cưới một thiếu nữ Việt Nam làm vợ, sau đó sinh ra chú bé tên là Tăng Hội, đó là khoảng đầu thế kỷ thứ ba. Thiền sư Tăng Hội đã tu học thành đạt như một vị thiền sư ở Việt Nam. Vào giữa thế kỷ thứ ba thiền sư đã đi sang Trung Quốc, tới vùng đất Đông Ngô (thời Tam Quốc) để giảng dạy đạo thiền, nghĩa là sớm hơn Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma 300 năm.
Chúng ta thường nghĩ rằng đạo thiền từ Trung Quốc truyền sang Việt Nam nhưng kỳ thực ban đầu là thiền sư Tăng Hội của Việt Nam, của Giao Châu đã đi sang truyền bá đạo thiền ở Trung Quốc, ở đất Ngô vào giữa thế kỷ thứ ba. Sách Cao Tăng truyện có cho chúng ta biết rằng khi thiền sư Tăng Hội đi sang nước Ðông Ngô, bên đó chưa có người Trung Quốc nào làm tăng sĩ và chính thiền sư Tăng Hội đã tổ chức giới đàn truyền giới đầu tiên để cho những người Ðông Ngô trở thành những vị xuất gia đầu tiên. Đó là vai trò của thiền sư Tăng Hội. Vì vậy chúng tôi đã khuyến khích những chùa thiền Việt Nam thay vì thờ Tổ sư Bồ Ðề Ðạt Ma là Tổ sư của thiền thì chúng ta phải thờ Tổ sư Tăng Hội là Tổ sư thiền Việt Nam. Tổ sư Tăng Hội lớn hơn Tổ sư Bồ Ðề Ðạt Ma 300 năm. Chúng tôi đã viết sách thiền sư Tăng Hội, đã xuất bản bằng tiếng Pháp, tiếng Anh và bằng tiếng Việt. Cũng đã có những nghệ sĩ, những nghệ nhân đã vẽ lại được hình tượng của thiền sư Tăng Hội để chúng ta có thể thờ trong các thiền viện Việt Nam. Cố nhiên thiền Việt Nam có bản sắc của Việt Nam và có khả năng phục vụ cho xã hội Việt Nam.
Tôi nghĩ rằng trong công trình xây dựng một xã hội tốt đẹp của Việt Nam, đạo Phật có thể đóng một vai trò rất lớn nếu chúng ta ý thức được, nếu chúng ta có can đảm chấm dứt cái học từ chương của chúng ta và huấn luyện những người giáo thọ có khả năng đem đạo vào đời để giúp cho xã hội thiết lập lại được sự truyền thông, dựng lại cấu trúc gia đình. Đó là ước mong của chúng tôi.
Lời phái biểu và cảm tạ của ban tổ chức
Ông giám đốc trung tâm: Kính thưa Thiền sư Thích Nhất Hạnh, kính thưa quý tăng thân Làng Mai, kính thưa các nhà khoa học và các quý vị đại biểu. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc và đa tôn giáo, mỗi tôn giáo ở Việt Nam có đặc điểm riêng song đều giữ được truyền thống gắn bó với dân tộc. Hàng chục thế kỷ qua tồn tại của mình, Phật giáo đã ghi dấu ấn trong văn hóa trong lối sống của người Việt Nam. Thời kỳ phồn vinh nhất của văn hóa Lý Trần có sự đóng góp lớn lao của Phật giáo nước nhà cũng như một số tôn giáo khác đang tồn tại ở Việt Nam. Vai trò đạo đức văn hóa Phật giáo là vấn đề đang được nhiều người quan tâm. Đối với chúng tôi, cuộc tọa đàm cùng Thiền sư là một cơ duyên để hiểu thêm về vai trò Phật giáo trong đời sống hiện đại. Với kiến thức uyên thâm về Phật học và tri thức sâu rộng trên nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau, qua hai buổi thuyết trình và tọa đàm, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã đem đến cho thính giả một lượng thông tin phong phú đa diện, đồng thời đã thể hiện chính kiến của thiền sư về tôn giáo và những vấn đề của thời đại. Dù thời gian còn hạn chế song trên tinh thần cởi mở thân thiện dân chủ và tôn trọng lẫn nhau nên bước đầu Thiền sư và chúng tôi đã đề cập được một số vấn đề đang được giới nghiên cứu rất quan tâm. Đó là:
- Quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội,
- Quan hệ giữa khoa học và tôn giáo,
- Giữa khách quan và chủ quan,
- Vấn đề vô ngã vô thường,
- Giữa thân và tâm,
- Vấn đề mê tín trong họat động tôn giáo,
- Quan niệm về mê tín về Niết Bàn, về cõi Tịnh Độ, về Thiên Đường cũng như giá trị đạo đức, văn hóa, tín ngưỡng, thờ cúng tổ tiên.
- Vai trò Phật giáo trong đời sống hiện đại.
- Đặc điểm của đạo tràng Mai Thôn mà chúng tôi còn biết một cách khiêm tốn.
Cuộc tọa đàm đã gợi mở nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu và tiếp tục trao đổi. Với lối diễn đạt giản dị, dễ hiểu, khả năng khái quát rất cao, đồng thời biến trừu tượng thành cụ thể, với những ví dụ rất sinh động của Thiền sư, đã gây hứng thú và tập trung đối với thính giả. Chúng tôi cho rằng hai buổi tọa đàm cùng Thiền sư là bổ ích đối với những người nghiên cứu như chúng tôi.
Thưa thiền sư, quý đoàn và toàn thể quý vị đại biểu,
Nhận thức là một quá trình, quá trình ấy với mỗi cá thể có hạn chế vì lẽ đó chúng tôi đã tổ chức nhiều cuộc tọa đàm khoa học nhưng với Thiền sư đây là buổi đầu, chúng tôi hy vọng sẽ còn tiếp tục tiếp kiến thiền sư. Qua hai buổi thuyết trình và tọa đàm lần này, chúng tôi nhận thấy không chỉ trao đổi về học thuật, cung cấp những thông tin về tôn giáo mà còn góp phần tạo sự gần gũi hiểu biết lẫn nhau giữa Thiền sư với chúng tôi. Cùng đi với Thiền sư, chúng tôi còn nhận thấy sự hiện diện của các vị tăng thân thiền sinh thuộc nhiều dân tộc, thuộc nhiều quốc tịch khác nhau. Hình ảnh của đoàn tăng thân Làng Mai đã minh chứng cụ thể sinh động về pháp môn lắng nghe, dùng ái ngữ để xây dựng tình huynh đệ trong mối quan hệ giữa con người với con người.
Thưa Thiền sư và quý đoàn, chỉ sau một ngày đọc tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Ðình, ngày 2/09/1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị chính phủ tuyên bố tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết mãi mãi. Nhân dân Việt Nam ghi nhớ và luôn thực hiện di huấn của người. Những năm vừa qua, đồng bào các tôn giáo Việt Nam đã tích cực hưởng ứng tham gia phong trào thi đua yêu nước và xây dựng khối đoàn kết toàn dân tộc. Chức sắc và tín đồ các tôn giáo có những đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Ðảng và nhà nước Việt Nam trước sau như một luôn tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và không tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân. Nhu cầu tâm linh của quần chúng tín đồ các tôn giáo, chắc Thiền sư và quý đoàn cũng đã được chứng kiến điều đó, qua những cuộc thăm viếng những cơ sở thờ tự của các miền của đất nước.
Một lần nữa, thay mặt cho cán bộ nghiên cứu giảng dạy thuộc trung tâm khoa học tín ngưỡng và tôn giáo của học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tôi xin chân thành cảm ơn Thiền sư và đoàn. Chúc Thiền sư và đoàn tăng thân Làng Mai mạnh khỏe an khang, chúc chuyến về thăm Việt Nam của Thiền sư và đoàn đạt kết quả tốt đẹp. Xin cảm ơn các quý vị đại biểu đã đến tham dự đầy đủ hai buổi thuyết trình rất bổ ích này và nhân dịp này chúng tôi thay mặt cho trung tâm cảm ơn tất cả các cơ quan các đơn vị và cá nhân đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi tổ chức cuộc hội thảo rất là tốt đẹp. Để ghi nhớ chuyến thăm và làm việc của trung tâm giữa Thiền sư và các nhà khoa học, thay mặt cho trung tâm, chúng tôi xin kính tặng thiền sư bức tranh phố cổ Hà Nội, như một kỷ vật để chuẩn bị cho lễ kỷ niệm cho 1000 năm Thăng Long mà nhân dân cả nước đang đón đợi.
Chú thích
1* Aliénation, uprootedness: Vong thân, mất gốc. Buông bỏ mất các giá trị của gia đình, văn hóa, hay cộng đồng vì coi thường, không tha thiết với chúng nữa.
2* Gene: có gốc từ tiếng German Gen, chữ tắt của Pangen: Đơn vị của sinh học về di truyền – là các chuỗi nucleotides trong DNA hay RNA, chứa trong chromosome.
3* Tiên thiên / Hậu thiên: Nature / Nurture: Trong mỗi sinh vật, phần đến từ tự nhiên, do di truyền, như sẵn có, thường xem là bẩm sinh và phần đến từ hoàn cảnh, môi trường sống, phần tập thành.
4* Ba lạy & Năm lạy:
- Ba cái lạy: Lạy Phật, Pháp và Tăng (Tam bảo). Ba cái lạy cũng còn mang ý nghĩa lễ lạy ba ngôi quý báu bên trong chúng ta và trong mỗi chúng sinh, vì chúng sinh cùng chư Phật đồng một thể tánh sáng suốt (Phật tánh), đồng một pháp tánh từ bi và bình đẳng (Pháp tánh) và đồng một đức tánh thanh tịnh, hòa hợp (Thanh tịnh tánh).
Sau đây là hai bài viết của Thiền Sư Nhất Hạnh về ba lạy và năm lạy với nội dung mới: trong đó lạy thứ nhất là lạy Tổ Tiên, xin tổ tiên phù hộ độ trì, lạy thứ hai là lạy Phật và chư vị Tổ Sư...
BA CÁI LẠY
Thứ Nhất: (Xướng) Năm vóc sát đất, con tiếp xúc với tổ tiên và con cháu của con trong hai dòng tâm linh và huyết thống. (chuông) (lạy xuống)
(Quán niệm, trong tư thế phủ phục) Con có tổ tiên tâm linh của con là Bụt, các vị Bồ Tát, các vị thánh tăng và các vị tổ sư qua các thời đại, trong đó có các bậc sư trưởng của con đã qua đời hay còn tại thế. Các vị đang có mặt trong con, các vị đã truyền trao cho con những hạt giống bình an, trí tuệ, tình thương và hạnh phúc. Nhờ liệt vị mà con có được một ít vốn liếng của an lạc, tuệ giác và từ bi. Trong dòng tổ tiên tâm linh của con, có những vị mà giới hạnh, trí tuệ và từ bi viên mãn nhưng cũng có những vị mà giới hạnh, trí tuệ và từ bi còn khiếm khuyết. Tuy nhiên con cúi đầu nhận chịu tất cả là tổ tiên tâm linh của con vì chính trong con cũng có những yếu đuối, những khiếm khuyết về giới hạnh, trí tuệ và từ bi. Và cũng vì con biết con còn có những yếu đuối và khiếm khuyết ấy cho nên con mở lòng chấp nhận tất cả các con cháu của con, trong đó có những người mà giới hạnh, trí tuệ và từ bi đáng cho con kính ngưỡng nhưng cũng có những người còn đang chật vật khó khăn và trồi sụp không ngừng trên con đường tu đạo (thở nhẹ và sâu). Điều này cũng đúng về phương diện huyết thống. Con chấp nhận tất cả các vị tổ tiên huyết thống của con về cả hai phía nội ngoại với tất cả những đức độ, công hạnh và khiếm khuyết của các vị, cũng như con mở lòng chấp nhận tất cả các con cháu của con với những đức độ, tài năng và khiếm khuyết của từng người (thở nhẹ và sâu). Tổ tiên tâm linh và tổ tiên huyết thống của con, cũng như con cháu tâm linh và huyết thống của con, đều có mặt trong con. Con là họ, họ là con, con không có một cái ta riêng biệt, tất cả đều có mặt trong một dòng sinh mệnh đang diễn biến mầu nhiệm (thở nhẹ và sâu).
(Chuông) (Đứng dậy, chắp tay, thở nhẹ và sâu)
Thứ Hai: (Xướng) Năm vóc sát đất, con tiếp xúc với mọi người và mọi loài đang có mặt với con giờ này trong sự sống (Chuông) (lạy xuống)
(Quán niệm, trong tư thế phủ phục) Con thấy con là sự sống mầu nhiệm đang trải dàn trong không gian. Con thấy con liên hệ mật thiết tới mọi người và mọi loài; tất cả những hạnh phúc và khổ đau của mọi người và mọi loài là những hạnh phúc và khổ đau của chính con. Con là một với những người sinh ra đã có khuyết tật hoặc vì chiến tranh, tai nạn hay đau ốm mà trở thành khuyết tật. Con là một với những người đang bị kẹt vào những tình trạng chiến tranh, áp bức và bóc lột. Con là một với những người chưa từng có hạnh phúc trong gia đình, không có gốc rễ, không có bình an trong tâm, đói khát hiểu biết, đói khát thương yêu, đang đi tìm một cái gì đẹp, thật và lành để bám víu vào mà tin tưởng. Con là một với người đang hấp hối, sợ hãi không biết sẽ đi về đâu. Con là em bé sống trong nghèo khổ, tật bệnh, chân tay gầy ốm như những ống sậy, không có tương lai. Con là kẻ đang chế tạo bom đạn để bán cho các nước nghèo khổ. Con là con ếch bơi trong hồ mà cũng là con rắn nước cần nuôi thân bằng thân ếch nhái. Con là con sâu, con kiến mà cũng là con chim đang đi tìm kiếm con sâu, con kiến. Con là cây rừng đang bị đốn ngã, là nước sông và không khí đang bị ô nhiễm, mà cũng là người đốn rừng và làm ô nhiễm không khí và nước sông. Con thấy con trong tất cả mọi loài và tất cả mọi loài trong con (thở nhẹ và sâu).
Con là một với những bậc đại nhân đã chứng được vô sanh, có thể nhìn những hiện tượng diệt sinh, hạnh phúc và khổ đau bằng con mắt trầm tĩnh. Con là một với những thiện tri thức hiện đang có mặt rải rác khắp nơi trên thế giới, có đủ bình an, hiểu biết và thương yêu, có khả năng tiếp xúc với những gì nhiệm mầu, có khả năng nuôi dưỡng và trị liệu trong sự sống và cũng có thể ôm trọn thế gian này bằng trái tim thương yêu và hai cánh tay hành động của quý vị. Con là người có đủ an lạc và thảnh thơi, có thể hiến tặng sự không sợ hãi và niềm vui sống cho những sinh vật quanh mình. Con thấy con không hề đơn độc. Những bậc đại nhân hiện đang có mặt trên đời, tình thương và niềm vui sống của họ đang nâng đỡ con, không để con đắm chìm trong tuyệt vọng và giúp con sống đời sống của con một cách an vui, trọn vẹn và có ý nghĩa. Con thấy con trong tất cả các vị và tất cả các vị trong con (thở nhẹ và sâu).
(Chuông) (Đứng dậy, chắp tay, thở nhẹ và sâu)
Thứ Ba: (Xướng) Năm vóc sát đất con buông bỏ ý niệm về hình hài và thọ mạng. (Chuông) (lạy xuống)
(Quán niệm, trong tư thế phủ phục) Con thấy được thân tứ đại này không đích thực là con, con không bị giới hạn trong hình hài này. Con là tất cả dòng sinh mệnh tâm linh và huyết thống từ ngàn xưa liên tục diễn biến tới ngàn sau. Con là một với tổ tiên của con, con là một với con cháu của con. Con là sự sống biểu hiện dưới vô lượng hình thức. Con là một với mọi người và mọi loài, dù an lạc hay khổ đau, vô úy hay lo lắng. Con đang có mặt khắp nơi trong giờ phút này và từ quá khứ cho tới tương lai. Sự tan rã của hình hài này không động được tới con, như một cánh hoa đào rơi không làm cho sự có mặt của cây hoa đào suy giảm. Con thấy con là một con sóng trên mặt đại dương, bản thể con là nước trong đại dương. Con thấy con trong tất cả các con sóng khác và tất cả các con sóng khác trong con. Sự biểu hiện hay ẩn tàng của hình tướng con sóng không làm suy giảm sự có mặt của đại dương. Pháp thân và tuệ mạng của con không sinh và cũng không diệt (thở nhẹ và sâu).
Con thấy được sự có mặt của con trước khi hình hài này biểu hiện và sau khi hình hài này biến diệt. Con thấy được sự có mặt của con ngoài hình hài này, ngay trong giờ phút hiện tại. Khoảng thời gian tám mươi chín năm không phải là thọ mạng của con. Thọ mạng của con, cũng như của một chiếc lá hay của các vị Bụt, Thế Tôn là vô lượng. Con thấy con vượt thoát ý niệm con là một hình hài biệt lập với mọi biểu hiện khác của sự sống, trong thời gian cũng như trong không gian (thở nhẹ và sâu).
(Chuông) (Đứng dậy, chắp tay, xá ba lần rồi lui ra)
ÐẢNH LỄ (NĂM LẠY)
Lạy thứ nhất: Trở về kính lạy, liệt vị tiền nhân, dòng họ tổ tiên, gia đình huyết thống, hai bên nội ngoại.
"Con thấy cha mẹ và xương thịt và sự sống đang có mặt và lưu nhuận trong từng tế bào và mạch máu của con. Qua cha con và mẹ con, con thấy ông bà, bên nội cũng như bên ngoại, đã và đang đi vào con với tất cả mọi năng lượng, mọi trông chờ, mọi ước mơ, cũng như tất cả trí tuệ và kinh nghiệm của tổ tiên trải qua bao nhiêu thế hệ. Con mang trong con sự sống, dòng máu, kinh nghiệm, tuệ giác, hạnh phúc và khổ đau của các thế hệ tổ tiên. Những yếu kém, những tồn tại và những khổ đau truyền đạt lại, con đang tu tập để chuyển hóa. Những năng lượng của trí tuệ, của kinh nghiệm và của thương yêu mà liệt vị truyền đạt lại, con đang mở rộng trái tim con và xương thịt con để mà tiếp nhận. Con có gốc rễ nơi cha, nơi mẹ, nơi ông bà, tổ tiên. Con chỉ là sự nối tiếp của tổ tiên và dòng họ”.
Xin cha mẹ, ông bà và tổ tiên hỗ trợ cho con, che chở cho con, truyền thêm năng lượng cho con.
“Con biết rằng con cháu ở đâu thì tổ tiên ở đó, con biết cha mẹ nào, ông bà nào cũng yêu thương, đùm bọc và hộ trì cho con cho cháu khi sinh tiền có lúc gặp phải khó khăn hay rủi ro mà không bộc lộ được niềm thương yêu và sự đùm bọc đó. Con thấy cha ông của con, từ Lạc Long Quân qua các vua Hùng và biết bao nhiêu thế hệ những người khai sáng đất nước, mở rộng cõi bờ, gìn giữ núi sông và un đúc nên nếp sống Việt Nam có thỉ, có chung, có nhân, có hậu. Con cúi rạp mình xuống để đón nhận năng lượng của dòng họ và tổ tiên của gia đình huyết thống của con”.
Xin tổ tiên phù hộ độ trì cho con.
Lạy thứ hai: Trở về kính lạy Phật và Tổ sư, truyền đăng tục diệm, gia đình tâm linh, qua nhiều thế hệ.
“Con thấy thầy con, con thấy sư ông của con, người đã dạy cho con biết hiểu, biết thương, biết thở, biết cười, biết tha thứ, biết sống trong giây phút hiện tại. Con thấy, qua thầy của con, qua sư ông của con, con tiếp xúc được với các thế hệ Thánh Tăng qua các thời đại: Các vị tổ sư Tăng Hội, Tỳ Ni Ða Lưu Chi, Vô Thôn Ngông, Vạn Hạnh, Ðại Ðăng, Tuệ Trung, Trúc Lâm, Pháp Loa, Huyền Quang, Nguyên Thiều, Liễu Quán, con tiếp xúc được với các vị Bồ Tát và với Phật Thích Ca Mâu Ni, người đã khai sáng gia đình tâm linh của con, đã có từ 2600 năm nay. Con biết Phật là thầy con mà cũng là tổ tiên tâm linh của con. Con thấy trong con có chất liệu nuôi dưỡng của Phật, của Tổ, của các thế hệ cao tăng và năng lượng của liệt vị, đã và đang đi vào trong con, đã và đang làm ra sự bình yên, an lạc, hiểu biết và thương yêu trong con. Con biết Phật đã giáo hóa cho gia đình huyết thống của con, đã làm đẹp, làm lành nếp sống đất nước của con và của dân tộc con. Phật đã làm cho dân tộc con trở nên một dân tộc thuần từ và văn minh, điều này con thấy rõ trong nền văn minh Lý Trần. Con biết nếu không có Phật, có Tổ, có thầy thì con không biết tu tĩnh và thực tập an lạc cho con và cho gia đình con. Con mở rộng trái tim và xương thịt con để tiếp nhận kinh nghiệm, tuệ giác, tình thương, sự che chở và năng lượng từ bi của Phật và của các thế hệ thánh tăng, gia đình tâm linh của con. Con là sự tiếp nối của Phật và của các thế hệ tổ tiên tâm linh của con”.
Xin Phật và chư Tổ, xin sư ông và thầy truyền cho con nguồn năng lượng thương yêu, an lạc và sự vững chãi của liệt vị. Con nguyện tu tập để chuyển hóa và để truyền về cho thế hệ tương lai năng lượng của Phật, của Tổ và của thầy.
Lạy thứ ba: Trở về kính lạy, liệt vị tiền nhân, khai sáng đất này, sông núi khí thiêng, hàng ngày che chở.
“Con thấy con đang đứng trên đất nước này và tiếp nhận công ơn khai sáng của tiền nhân đất nước này, trước hết là các vua Hùng, rồi các vị lãnh đạo các triều Tiền Lê, Tiền Lý, Ngô, Ðinh, Lý, Trần, Hậu Lê, Nguyễn cùng với các thế hệ tổ tiên và biết bao nhiêu người có tên tuổi và không có tên tuổi đã đem tài trí, kiên nhẫn và chịu đựng để làm cho đất nước này trở nên nơi nương náu của bao nhiêu giống dân đủ các màu da, đã lập nên trường học, nhà thương, xây dựng cầu cống, đường sá, chợ búa, đã thiết lập nhân quyền, luật pháp, phát minh khoa học làm cho mức sống được nâng cao. Con tiếp xúc được với những thế hệ tổ tiên ngày xưa đã sinh sống trên đất nước này và đã biết sống an lành với mọi loài và với thiên nhiên, với con người và con cảm thấy năng lượng của đất nước này đi vào trong con, yểm trợ con, chấp nhận con”.
Con xin nguyện tiếp tục giữ gìn và làm tiếp nối những dòng năng lượng ấy. Con xin nguyện góp phần chuyển hóa những bạo động căm thù và vô minh còn tồn tại trong xã hội này. Xin phù hộ độ trì cho chúng con.
Lạy thứ tư: Trở về kính lạy, gia đình huyết thống, gia đình tâm linh, gia hộ độ trì, cho người con thương.
“Những nguồn năng lượng vô biên mà con vừa tiếp nhận được, con xin truyền đạt cho cha con, cho mẹ con, cho những người con thương yêu: những người đã từng khổ đau, đã từng lo lắng, đã từng buồn khổ về con vì những vụng về và dại dột của con trong quá khứ và cũng đã từng lo lắng buồn khổ vì buồn khổ và không may của các vị. Con xin truyền đạt nguồn năng lượng ấy để nguyện cầu và tiếp sức cho cha con, cho mẹ con, cho anh chị em của con (cho những người thân của con, cho chồng con, cho vợ con, các con của con), cho tâm hồn họ lắng dịu lại, cho khổ đau trong lòng (những) người ấy được chuyển hóa, cho (những) người ấy nở được nụ cười, cho (những) người ấy cảm nhận được niềm vui sống, cho (những) người ấy được nhẹ nhàng trong thân thể và an lạc trong tâm hồn. Con hết lòng cầu mong cho (những) người ấy có hạnh phúc và an lạc. Con biết nếu (những) người ấy có an lạc thì con cũng có an lạc. Con cảm thấy trong lòng con không có oán hận trách móc những người ấy một mảy may nào. Con lạy tổ tiên, ông bà trong gia đình huyết thống và trong gia đình tâm linh của con phù hộ độ trì cho người con thương, cho những người mà con đã nguyện thương yêu và chăm sóc. Con thấy con không là một cái ta riêng biệt mà con đã trở thành một với những người con thương”.
Lạy thứ năm: Trở về kính lạy, gia đình huyết thống, gia đình tâm linh gia hộ độ trì, người làm khổ con.
“Con mở rộng lòng ra để truyền đi năng lượng hiểu biết và lòng xót thương của con tới những người đã làm con khổ đau và điêu đứng. Con biết người ấy cũng đã đi qua nhiều khổ đau, đã chứa chấp quá nhiều cay đắng và bực bội trong trái tim nên đã làm vung vãi những khổ đau và bực bội của người ấy lên con. Con biết những người ấy không được may mắn có thể là từ hồi còn bé thơ đã thiếu sự chăm sóc và thương yêu, đã bị cuộc đời dằn vặt và ngược đãi bao nhiêu lần. Con biết những người như người ấy chưa được may mắn được học, được tu, đã chứa chấp những tri giác sai lầm về cuộc đời, về con, nên đã làm khổ con và làm khổ những người con thương. Con xin gia đình huyết thống và gia đình tâm linh của con truyền năng lượng cho người ấy, (cho những người ấy) để trái tim của họ được tiếp nhận giọt nước cam lộ mà nở ra được như một bông hoa. Con chỉ cầu mong cho người ấy được chuyển hóa để người ấy tìm ra được niềm vui sống, để không còn giữ tâm thù hận mà tự làm khổ mình và làm khổ người. Con biết vì những người ấy khổ mà không tự chủ được nên đã làm khổ con và làm khổ những người con thương. Con cũng cầu mong cho tất cả những ai đã làm cho gia đình con khổ, dân tộc con điêu đứng, kể cả những kẻ xâm lăng, cướp nước, những người hải tặc, những kẻ ích kỷ, dối trá và tàn bạo được nhờ ơn Phật, ơn Tổ, ơn tiền nhân mà cải hóa. Con thấy họ khổ và nỗi khổ ấy đang kéo dài qua nhiều thế hệ và con không muốn giữ tâm niệm sân hận, oán thù. Con không muốn cho họ khổ. Con có gốc rễ nơi tổ tiên, nơi dòng họ huyết thống và dòng họ tâm linh: trái tim con đã nở ra như một đóa hoa, con xin buông bỏ tất cả mọi niềm hận, một lòng cầu nguyện cho kẻ đã làm khổ con, làm khổ gia đình và dân tộc con được thoát khỏi vòng tai nạn và đớn đau, để họ có thể thấy được ánh sáng của niềm vui sống và an lạc như con. Tâm con không còn mang một mảy may trách móc và oán thù. Con xin truyền đạt năng lượng của con cho tất cả những người ấy”.
Lạy Phật, lạy Tổ, lạy ông bà chứng minh cho con.
5* Ngũ thể đầu địa: Phật giáo Việt Nam thường lạy theo phương cách Ngũ thể đầu địa, tức là làm thế nào cho hai tay, hai chân và cái đầu đụng mặt đất. Đây là một phương cách lạy tôn kính nhất trong tất cả các cung cách lễ lạy. Khi lễ lạy, người Phật tử đứng ngay thẳng, hai chân khép sát vào nhau, hai bàn tay chắp sát lại nhau cho khít theo thế hiệp chưởng (không phải thế hình búp sen) tiêu biểu cho sự nhất tâm. Khi lạy Phật có người để hai tay trước ngực lạy xuống. Cũng có người đưa hai tay lên trán rồi mới lạy xuống theo phương cách ngũ thể đầu địa, tức là khi lạy phải quỳ xuống, ngửa hai bàn tay ra như đang nâng hai chân Phật và cúi lưng xuống đặt trán mình lên trên hai lòng bàn tay. Đối với phụ nữ, thường là quì thẳng lưng rồi lạy, chứ không đứng, vì hình thể đặc biệt của phụ nữ, khác với nam giới nên thế đứng thẳng không thích hợp.
(theo http://www.thuvienhoasen.org/phathocvandap-10.htm)
6* Thiếu phụ Nam Xương - hay vợ chàng Trương - Nguyễn Dữ có chép lại thành "Nam Xương nữ tử truyện", trong tập Truyền Kỳ Mạn Lục. Bà tên thật là Vũ thị Thiết, chồng họ Trương (Trương Sinh), quê làng Vũ Điện, huyện Nam Xương (nay là phủ Lý Nhân) tỉnh Hà Nam. Tại địa phương này, dân chúng có lập miếu thờ. Vua Lê Thánh Tông (1460-1497) tuần thú đi qua miếu, đã làm một bài thơ vịnh rất nổi tiếng, được khắc vào bia đá năm 1471 và truyền tụng đến ngày nay:
"Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương.
Ngọn đèn dù tắt đừng nghe trẻ,
Làn nước chi cho lụy đến nàng.
Chứng quả có đôi vầng nhật nguyệt,
Giải oan chi mượn đến đàn tràng.
Qua đây mới biết nguồn cơn ấy,
Khá trách chàng Trương khéo phủ phàng!”
7* Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230-1291) tên thật là Trần Quốc Tung, con cả của Trần Liễu, anh ruột của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn và Hoàng hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm - vợ của Trần Thánh Tông. Thượng Sĩ tham gia chống giặc Nguyên Mông, tích cực ở cả ba trận chiến (1257,1285 và 1288). Sau ngày kháng chiến thắng lợi, Thượng Sĩ được phong Tiết Độ Sứ, trấn giữ Thái Bình. Sau đó không lâu, Thượng Sĩ lui về Dưỡng Chân Trang tham cứu Phật học. Từ trẻ, Thượng Sĩ học đạo dưới sự dẫn dắt của thiền sư Tiêu Dao, ngài sáng tác nhiều thi, kệ, một số được truyền trong "Thượng Sĩ Ngữ Lục".
8* A-dục vương (zh. 阿育王, sa. aśoka, pi. asoka)- cũng gọi là A-du-ca, dịch nghĩa là Vô Ưu, không ưu sầu, lo nghĩ; Tên của một vị vua xứ Maurya miền Bắc Ấn Ðộ, trị vì từ năm 272 đến 236 trước Công nguyên, mất năm 231. Trong lịch sử Ấn Ðộ, ông đã để lại nhiều dấu tích quan trọng. Sau một cuộc viễn chinh đẫm máu năm 260 ông có dịp được nghe Phật pháp và tỉnh ngộ, quyết định thành lập một Vương quốc phụng sự Phật pháp. Ông đích thân đi khắp các miền trong nước để bảo vệ luật lệ và chính pháp. Ông cũng là người cổ vũ việc ăn chay và chống tệ nạn giết thú vật cúng tế. Trong thời A-dục vương, đạo Phật phát triển mạnh ở Tích Lan. Người con trai của A-dục vương là Ma-hi-đà (Mahinda) cũng góp phần rất nhiều trong việc truyền bá đạo Phật. Aśoka đã thống nhất toàn cõi Ấn Độ. Với cách sống cùng những thông điệp khắc trên các trụ đá dựng lên khắp nơi trong đất nước, vua đã nỗ lực xây dựng một niềm tin nơi hướng đi nhân ái và bất bạo động. Trụ đá của vua dựng ở vườn Lumbini (bây giờ là Rummindai, Nepal), nơi Bụt Thích Ca giáng sinh, mang những dòng chữ Brahmi và ngôn ngữ Magadhi, còn đứng vững cho đến ngày nay.
9* sangha : 僧 伽; S, P - Tăng-già: Chỉ hội đoàn của các vị Tỉ-khâu (s: bhiksu), Tỉ-khâu-ni (s: bhiksuni) Sa-di (s: sramanera). Trong nhiều trường hợp, các cư sĩ cũng được liệt vào Tăng già (từ điển Phật Học – Chân Nguyên).
25/1/10
BÔNG HỒNG CÀI ÁO
BÔNG HỒNG CÀI ÁO
Thích Nhất Hạnh
Để dâng mẹ,
và để làm quà Vu Lan cho những người nào có diễm phúc còn mẹ
Medford, tháng tám 1962.
Ý niệm về mẹ thường không thể tách rời ý niệm về tình thương. Mà tình thương là một chất liệu ngọt ngào, êm dịu và cố nhiên là ngon lành. Con trẻ thiếu tình thương thì không lớn lên được. Người lớn thiếu tình thương thì cũng không lớn lên được. Cằn cỗi, héo mòn. Ngày mẹ tôi mất, tôi viết trong nhật ký : tại nạn lớn nhất đã xẩy ra cho tôi rồi! Lớn đến cách mấy mà mất mẹ thì cũng như không lớn, cũng cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, cũng không hơn gì trẻ mồ côi. Những bài hát, những bài thơ ca tụng tình mẹ, bài nào cũng dễ hát, cũng hay. Người viết, dù không có tài ba, cũng có rung cảm chân thành; người hát ca, trừ là kẻ không có mẹ ngày từ thưở chưa có ý niệm, ai cũng cảm động khi nghe nói đến tình mẹ, đâu cũng có, thời nào cũng có. Bài thơ mất mẹ mà tôi thích nhất, từ hồi nhỏ, là một bài thơ rất giản dị. Mẹ đang còn sống, nhưng mỗi khi đọc bài ấy thì sợ sệt, lo âu... sợ sệt lo âu cho một cái gì còn xa, chưa đến, nhưng chắc chắn phải đến :
Năm xưa tôi còn nhỏ
mẹ tôi đã qua đời!
lần đầu tiên tôi hiểu
thân phận trẻ mồ côi.
Quanh tôi ai cũng khóc
Im lặng tôi sầu thôi
để dòng nước mắt chảy
là bớt khổ đi rồi...
Hoàng hôn phủ trên mộ
Chuông chùa nhẹ rơi rơi
Tôi thấy tôi mất mẹ
mất cả một bầu trời.
Một bầu trời thương yêu dịu ngọt, lâu quá mình đã bơi lội trong đó, sung sướng mà không hay, để hôm nay bừng tỉnh thì thấy đã mất rồi. Người nhà quê Việt Nam không ưa nói cách cao kỳ. Nói rằng bà mẹ già là một kho tàng của yêu thương, của hạnh phúc thì cũng đã là cao kỳ rồi. Nói mẹ già là một thứ chuối, một thứ xôi, một thứ đường ngọt dịu, người dân quê đã diễn tả được tình mẹ một cách giản dị vừa đúng mức:
Mẹ già như chuối Ba Hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau.
Ngon biết bao nhiêu! Những lúc miệng vừa nhạt sau một cơn sốt, những lúc như thế thì không có món ăn gì có thể gợi được khẩu vị của ta. Chỉ khi nào mẹ đến, kéo chăn đắp lại ngực cho ta, đặt bàn tay (Bàn tay? Hay là tơ trời đâu la miên ? ) trên trán nóng ta và than thở "khổ chưa, con tôi", ta mới thấy cảm thấy đầy đủ, ấm áp, thấm nhuần chất ngọt của tình mẹ, ngọt thơm như chuối ba hương, đường mía lau, xôi nếp một ấy, không bao giờ cùng tận. Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Nước trong nguồn chảy ra thì bất tuyệt. Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm thương yêu. Mẹ là giáo sư dạy về thương yêu, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời. Không có mẹ, tôi sẽ không biết thương yêu. Nhờ mẹ mà tôi biết được thế nào là tình chúng sinh; nhờ mẹ mà tôi có được chút ý niệm về đức từ bi. Vì mẹ là gốc của tình thương, nên ý niệm mẹ lấn trùm ý niệm thương yêu của tôn giáo vốn cũng dạy về tình thương. Đạo Phật có đức Quán Thế Âm, tôn sùng dưới hình thức mẹ. Em bé vừa mở miệng khóc thì mẹ đã chạy tới bên nôi. Mẹ hiện ra như một thiên thần dịu hiền, làm tiêu tan khổ đau lo âu. Đạo Chúa có đức Mẹ, Thánh nữ đồng trinh Maria. Trong tín ngưỡng bình dân Việt có Thánh Mẫu Liễu Hạnh, cũng dưới hình thức mẹ. Bởi vì chỉ cần nghe đến danh từ mẹ, ta đã thấy lòng tràn ngập yêu thương rồi. Mà từ yêu thương đi tới tín ngưỡng và hành động thì không xa, chỉ mấy bước.
Tây phương không có ngày Vu Lan nhưng cũng có Ngày Mẹ (Mother's Day) mồng mười tháng năm. Tôi nhà quê không biết cái tục ấy. Có một ngày tôi đi với thầy Thiên Ân, tới nhà sách ở khu Ginza, Đông Kinh, nửa đường gặp mấy người sinh viên Nhật, bạn của thầy Thiên Ân. Có một cô sinh viên hỏi nhỏ thầy Thiên Ân một câu, rồi lấy trong sắc ra một bông hoa cẩm chướng màu trắng cài vào khuy áo tràng của tôi. Tôi lạ lùng, bỡ ngỡ, không dám hỏi, cố giữ vẻ tự nhiên, nghĩ rằng có một tục lệ chi đó. Sau khi họ nói chuyện xong, chúng tôi vào nhà sách, thầy Thiên Ân mới giảng cho tôi biết đó là Ngày Mẹ, theo tục Tây phương. Nếu anh còn mẹ, anh sẽ được cài một bông hoa màu hồng trên áo, và anh sẽ tự hào được còn mẹ. Còn nếu anh mất mẹ, anh sẽ được cài trên áo một bông hoa trắng. Tôi nhìn lại bông hoa trắng trên áo mà bỗng thấy tủi thân. Tôi cũng mồ côi như bất cứ một đứa trẻ vô phúc, khốn nạn nào; chúng tôi không có được cài trên áo một bông hoa màu hồng. Người được hoa hồng sẽ thấy sung sướng nhớ rằng mình còn mẹ, và sẽ cố gắng để làm vui lòng mẹ, kẻo một mai người khuất núi, có khóc than cũng không còn kịp nữa. Tôi thấy cái tục cài hoa đó đẹp và nghĩ rằng mình có thể bắt chước, áp dụng trong ngày báo hiếu Vu Lan.
Mẹ là một dòng suối, một kho tàng vô tận, vậy mà lắm lúc ta không biết, để lãng phí một cách oan uổng. Mẹ là một món quà lớn nhất mà cuộc đời tặng cho ta, những kẻ đã và đang có mẹ. Đừng có đợi đến khi mẹ chết rồi , mới nói : "trời ơi, tôi sống bên mẹ suốt mấy mươi năm trời mà chưa có lúc nào 'nhìn kỹ' được mặt mẹ." Lúc nào cũng chỉ nhìn thoáng qua. Trao đổi vài câu ngắn ngủi. Xin tiền ăn quà. Đòi hỏi mọi chuyện. Ôm mẹ mà ngủ cho ấm. Giận dỗi. Hờn lẫy. Gây bao nhiêu chuyện rắc rối cho mẹ phải lo lắng, ốm mòn, thức khuya, dậy sớm vì con. Chết sớm cũng vì con. Để mẹ phải suốt đời bếp núc, vá may, giặt rửa, dọn dẹp. Và để mình bận rộn suốt đời, lên xuống ra vào lợi danh. Mẹ không có thì giờ nhìn kỹ con. Và con không có thì giờ nhìn kỹ mẹ. Để khi mẹ mất, mình có cảm nghĩ : thật như là mình chưa bao giờ thật có ý thức rằng mình có mẹ.
Chiều nay khi đi học về, hoặc khi đi làm việc ở sở về, em hãy vào phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và thật bền. Em sẽ ngồi xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi. Rồi em sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ để trông thấy mẹ, và để biết rằng mẹ đang sống và đang ngồi bên em. Cầm tay mẹ, em sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý. Em hỏi : "Mẹ ơi, mẹ có biết không ?" Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên, và sẽ hỏi em, vừa cười vừa hỏi : "biết gì?" Vẫn nhìn vào mắt mẹ, vẫn giữ nụ cười trầm lặng và bền, em sẽ hỏi tiếp : "mẹ có biết là con thương mẹ không ?" Câu hỏi sẽ không cần được trả lời. Cho dù người lớn ba bốn mươi tuổi, cũng có thể hỏi một câu như thế, bởi vì người là con của mẹ. Mẹ và em sẽ đều trở thành bất diệt và ngày mai, mẹ mất, em sẽ không hối hận, đau lòng.
Ngày Vu Lan ta nghe giảng và đọc sách nói về ngài Mục Liên và về sự hiếu để. Công cha, nghĩa mẹ. Bổn phận làm con. Ta lạy Phật cầu cho mẹ sống lâu. Hoặc lạy mười phương tăng chú nguyện cho mẹ được tiêu diêu nơi cực lạc, nếu mẹ đã mất. Con mà không có hiếu là con bỏ đi. Nhưng hiếu thì cũng do tình thương mà có; không có tình thương, hiếu chỉ là giả tạo, khó khăn, vụng về, cố gắng mệt nhọc. Mà có tình thương là có đủ hết rồi. Cần chi nói đến bổn phận. Thương mẹ, như vậy là đủ. Mà thương mẹ không phải là một bổn phận. Thương mẹ là một cái gì rất tự nhiên. Như khát nước thì uống. Con thì phải có mẹ, phải thương mẹ. Chữ phải đây không phải là luân lý, là bổn phận. Phải đây là lý đương nhiên. Con thì đương nhiên thương mẹ, cũng như khát thì đương nhiên đi tìm nước uống. Mẹ thương con, nên con thương mẹ. Con cần mẹ, mẹ cần con. Nếu mẹ không cần con, con không cần mẹ, thì đó không phải là mẹ, là con. Đó là lạm dụng danh từ mẹ con. Ngày xưa, thầy giáo hỏi rằng : "con mà thương mẹ thì phải làm thế nào ?" Tôi trả lời : "vâng lời, cố gắng, giúp đỡ, phụng dưỡng lúc mẹ về già và thờ phụng khi mẹ khuất núi." Bây giờ thì tôi biết rằng : "con thương mẹ thì không phải "làm thế nào" gì hết. Cứ thương mẹ, thế là đủ lắm rồi, đủ hết rồi, cần chi phải hỏi làm thế nào nữa!"
Thương mẹ không phải là một vấn đề luân lý đạo đức. Anh mà nghĩ rằng tôi viết bài này để khuyên anh về luân lý đạo đức là anh lầm. Thương mẹ là một vấn đề hưởng thụ. Mẹ như suối ngọt, như đường mía lau, như xôi nếp một. Anh không hưởng thụ thì uổng cho anh. Chị không hưởng thụ thì thiệt cho chị. Tôi chỉ cảnh cáo cho anh chị đừng có than thở rằng : "đời ta không còn gì cả." Một món quà như mẹ mà còn không vừa ý thì hoạ chăng có làm Ngọc Hoàng Thượng Đế mới vừa ý, mới bằng lòng, mới sung sướng. Nhưng tôi biết Ngọc Hoàng không sung sướng đâu, bởi Ngọc Hoàng là đấng tự sinh, không bao giờ có diễm phúc có được một bà mẹ.
Tôi kể chuyện này, anh đừng nói tôi khờ dại. Đáng lẻ chị tôi không nên đi lấy chồng, và tôi, tôi không nên đi tu mới phải. Chúng tôi bỏ mẹ mà đi, người thì theo cuộc đời mới bên cạnh người con trai thương yêu; người thì đi theo lý tưởng đạo đức mình say mê và tôn thờ. Ngày chị tôi đi lấy chồng, mẹ tôi lo lắng lăng xăng, không tỏ vẻ buồn bã chi. Nhưng đến khi chúng tôi ăn cơm trong phòng, ăn qua loa để đợi giờ rước dâu, thì mẹ tôi không nuốt được miếng nào. Mẹ nói : "mười tám năm trời nó ngồi ăn cơm với mình, bây giờ nó ăn bữa cuối cùng rồi thì nó sẽ đi ăn ở một nhà khác." Chị tôi gục đầu xuống mâm cơm, khóc. Chị nói : "thôi con không lấy chồng nữa." Nhưng rốt cuộc thì chị cũng đi lấy chồng. Còn tôi thì bỏ mẹ mà đi tu. Các ái từ sở thân, là lời khen ngợi người có chí xuất gia. Tôi không tự hào chi về lời khen đó cả. Tôi thương mẹ, nhưng tôi có lý tưởng, vì vậy phải xa mẹ. Thiệt thòi cho tôi, có thế thôi. Ở trên đời, có nhiều khi ta phải chọn lựa. Mà không có sự chọn lựa nào là không khổ đau. Anh không thể bắt cá hai tay. Chỉ khổ là vì muốn làm người nên anh phải khổ đau. Tôi không hối hận vì bỏ mẹ đi tu, nhưng tôi tiếc và thương cho tôi vô phúc thiệt thòi, nên không được hưởng thụ tất cả kho tàng quí báu đó. Mỗi buổi chiều lạy Phật, tôi cầu nguyện cho mẹ. Nhưng tôi không được ăn chuối ba hương, xôi nếp một và đường mía lau.
Anh cũng đừng tưởng tôi khuyên anh: không nên đuổi theo sự nghiệp mà chỉ nên ở nhà với mẹ. Tôi đã nói là tôi không khuyên răn ai hết, tôi không giảng luân lý đạo đức rồi mà. Tôi chỉ nhắc anh : mẹ là chuối, là xôi, là đường, là mật, là ngọt ngào, là tình thương. Để anh đừng quên. Để chị đừng quên. Để em đừng quên. Quên là một lỗi lớn : Cũng phải là lỗi nữa, mà là một sự thiệt thòi. Mà tôi không muốn anh chị thiệt thòi, vô tình mà bị thiệt thòi, khờ dại mà bị thiệt thòi. Tôi xin cài vào túi áo một bông hoa hồng : để anh sung sướng , thế thôi.
Nếu có khuyên, thì tôi sẽ khuyên anh như thế này. Chiều nay, khi đi học về, hoặc đi làm về, anh hãy vào phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và thật bền. Anh sẽ ngồi xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi. Rồi anh sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ để trông thấy mẹ, và để biết rằng mẹ đang sống và đang ngồi bên anh. Cầm tay mẹ, anh sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý. Anh hỏi : "Mẹ ơi, mẹ có biết không ?" Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên, và sẽ nhìn anh, vừa cười vừa hỏi: "biết gì?" Vẫn nhìn vào mắt mẹ, vẫn giữ nụ cười trầm lặng và bền, anh sẽ hỏi tiếp: "mẹ có biết là con thương mẹ không ?" Câu hỏi sẽ không cần được trả lời. Cho dù anh lớn ba bốn mươi tuổi, chị lớn ba bốn mươi tuổi thì cũng hỏi câu ấy. Bởi vì anh, bởi vì chị, bởi vì em đều là con của mẹ. Mẹ và anh sẽ sung sướng, sẽ được sống trong ý thức tình thương bất diệt . Và ngày mai, mẹ mất, anh sẽ không hối hận, đau lòng, tiếc rằng anh không có mẹ.
Đó là điệp khúc tôi muốn ca hát cho anh nghe hôm nay. Và anh hãy ca, chị hãy ca, em hãy ca cho cuộc đời đừng chìm trong vô tâm, quên lãng. Đoá hoa màu hồng tôi cài trên áo anh rồi đó. Anh hãy sung sướng đi
Thích Nhất Hạnh
Để dâng mẹ,
và để làm quà Vu Lan cho những người nào có diễm phúc còn mẹ
Medford, tháng tám 1962.
Ý niệm về mẹ thường không thể tách rời ý niệm về tình thương. Mà tình thương là một chất liệu ngọt ngào, êm dịu và cố nhiên là ngon lành. Con trẻ thiếu tình thương thì không lớn lên được. Người lớn thiếu tình thương thì cũng không lớn lên được. Cằn cỗi, héo mòn. Ngày mẹ tôi mất, tôi viết trong nhật ký : tại nạn lớn nhất đã xẩy ra cho tôi rồi! Lớn đến cách mấy mà mất mẹ thì cũng như không lớn, cũng cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, cũng không hơn gì trẻ mồ côi. Những bài hát, những bài thơ ca tụng tình mẹ, bài nào cũng dễ hát, cũng hay. Người viết, dù không có tài ba, cũng có rung cảm chân thành; người hát ca, trừ là kẻ không có mẹ ngày từ thưở chưa có ý niệm, ai cũng cảm động khi nghe nói đến tình mẹ, đâu cũng có, thời nào cũng có. Bài thơ mất mẹ mà tôi thích nhất, từ hồi nhỏ, là một bài thơ rất giản dị. Mẹ đang còn sống, nhưng mỗi khi đọc bài ấy thì sợ sệt, lo âu... sợ sệt lo âu cho một cái gì còn xa, chưa đến, nhưng chắc chắn phải đến :
Năm xưa tôi còn nhỏ
mẹ tôi đã qua đời!
lần đầu tiên tôi hiểu
thân phận trẻ mồ côi.
Quanh tôi ai cũng khóc
Im lặng tôi sầu thôi
để dòng nước mắt chảy
là bớt khổ đi rồi...
Hoàng hôn phủ trên mộ
Chuông chùa nhẹ rơi rơi
Tôi thấy tôi mất mẹ
mất cả một bầu trời.
Một bầu trời thương yêu dịu ngọt, lâu quá mình đã bơi lội trong đó, sung sướng mà không hay, để hôm nay bừng tỉnh thì thấy đã mất rồi. Người nhà quê Việt Nam không ưa nói cách cao kỳ. Nói rằng bà mẹ già là một kho tàng của yêu thương, của hạnh phúc thì cũng đã là cao kỳ rồi. Nói mẹ già là một thứ chuối, một thứ xôi, một thứ đường ngọt dịu, người dân quê đã diễn tả được tình mẹ một cách giản dị vừa đúng mức:
Mẹ già như chuối Ba Hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau.
Ngon biết bao nhiêu! Những lúc miệng vừa nhạt sau một cơn sốt, những lúc như thế thì không có món ăn gì có thể gợi được khẩu vị của ta. Chỉ khi nào mẹ đến, kéo chăn đắp lại ngực cho ta, đặt bàn tay (Bàn tay? Hay là tơ trời đâu la miên ? ) trên trán nóng ta và than thở "khổ chưa, con tôi", ta mới thấy cảm thấy đầy đủ, ấm áp, thấm nhuần chất ngọt của tình mẹ, ngọt thơm như chuối ba hương, đường mía lau, xôi nếp một ấy, không bao giờ cùng tận. Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Nước trong nguồn chảy ra thì bất tuyệt. Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm thương yêu. Mẹ là giáo sư dạy về thương yêu, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời. Không có mẹ, tôi sẽ không biết thương yêu. Nhờ mẹ mà tôi biết được thế nào là tình chúng sinh; nhờ mẹ mà tôi có được chút ý niệm về đức từ bi. Vì mẹ là gốc của tình thương, nên ý niệm mẹ lấn trùm ý niệm thương yêu của tôn giáo vốn cũng dạy về tình thương. Đạo Phật có đức Quán Thế Âm, tôn sùng dưới hình thức mẹ. Em bé vừa mở miệng khóc thì mẹ đã chạy tới bên nôi. Mẹ hiện ra như một thiên thần dịu hiền, làm tiêu tan khổ đau lo âu. Đạo Chúa có đức Mẹ, Thánh nữ đồng trinh Maria. Trong tín ngưỡng bình dân Việt có Thánh Mẫu Liễu Hạnh, cũng dưới hình thức mẹ. Bởi vì chỉ cần nghe đến danh từ mẹ, ta đã thấy lòng tràn ngập yêu thương rồi. Mà từ yêu thương đi tới tín ngưỡng và hành động thì không xa, chỉ mấy bước.
Tây phương không có ngày Vu Lan nhưng cũng có Ngày Mẹ (Mother's Day) mồng mười tháng năm. Tôi nhà quê không biết cái tục ấy. Có một ngày tôi đi với thầy Thiên Ân, tới nhà sách ở khu Ginza, Đông Kinh, nửa đường gặp mấy người sinh viên Nhật, bạn của thầy Thiên Ân. Có một cô sinh viên hỏi nhỏ thầy Thiên Ân một câu, rồi lấy trong sắc ra một bông hoa cẩm chướng màu trắng cài vào khuy áo tràng của tôi. Tôi lạ lùng, bỡ ngỡ, không dám hỏi, cố giữ vẻ tự nhiên, nghĩ rằng có một tục lệ chi đó. Sau khi họ nói chuyện xong, chúng tôi vào nhà sách, thầy Thiên Ân mới giảng cho tôi biết đó là Ngày Mẹ, theo tục Tây phương. Nếu anh còn mẹ, anh sẽ được cài một bông hoa màu hồng trên áo, và anh sẽ tự hào được còn mẹ. Còn nếu anh mất mẹ, anh sẽ được cài trên áo một bông hoa trắng. Tôi nhìn lại bông hoa trắng trên áo mà bỗng thấy tủi thân. Tôi cũng mồ côi như bất cứ một đứa trẻ vô phúc, khốn nạn nào; chúng tôi không có được cài trên áo một bông hoa màu hồng. Người được hoa hồng sẽ thấy sung sướng nhớ rằng mình còn mẹ, và sẽ cố gắng để làm vui lòng mẹ, kẻo một mai người khuất núi, có khóc than cũng không còn kịp nữa. Tôi thấy cái tục cài hoa đó đẹp và nghĩ rằng mình có thể bắt chước, áp dụng trong ngày báo hiếu Vu Lan.
Mẹ là một dòng suối, một kho tàng vô tận, vậy mà lắm lúc ta không biết, để lãng phí một cách oan uổng. Mẹ là một món quà lớn nhất mà cuộc đời tặng cho ta, những kẻ đã và đang có mẹ. Đừng có đợi đến khi mẹ chết rồi , mới nói : "trời ơi, tôi sống bên mẹ suốt mấy mươi năm trời mà chưa có lúc nào 'nhìn kỹ' được mặt mẹ." Lúc nào cũng chỉ nhìn thoáng qua. Trao đổi vài câu ngắn ngủi. Xin tiền ăn quà. Đòi hỏi mọi chuyện. Ôm mẹ mà ngủ cho ấm. Giận dỗi. Hờn lẫy. Gây bao nhiêu chuyện rắc rối cho mẹ phải lo lắng, ốm mòn, thức khuya, dậy sớm vì con. Chết sớm cũng vì con. Để mẹ phải suốt đời bếp núc, vá may, giặt rửa, dọn dẹp. Và để mình bận rộn suốt đời, lên xuống ra vào lợi danh. Mẹ không có thì giờ nhìn kỹ con. Và con không có thì giờ nhìn kỹ mẹ. Để khi mẹ mất, mình có cảm nghĩ : thật như là mình chưa bao giờ thật có ý thức rằng mình có mẹ.
Chiều nay khi đi học về, hoặc khi đi làm việc ở sở về, em hãy vào phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và thật bền. Em sẽ ngồi xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi. Rồi em sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ để trông thấy mẹ, và để biết rằng mẹ đang sống và đang ngồi bên em. Cầm tay mẹ, em sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý. Em hỏi : "Mẹ ơi, mẹ có biết không ?" Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên, và sẽ hỏi em, vừa cười vừa hỏi : "biết gì?" Vẫn nhìn vào mắt mẹ, vẫn giữ nụ cười trầm lặng và bền, em sẽ hỏi tiếp : "mẹ có biết là con thương mẹ không ?" Câu hỏi sẽ không cần được trả lời. Cho dù người lớn ba bốn mươi tuổi, cũng có thể hỏi một câu như thế, bởi vì người là con của mẹ. Mẹ và em sẽ đều trở thành bất diệt và ngày mai, mẹ mất, em sẽ không hối hận, đau lòng.
Ngày Vu Lan ta nghe giảng và đọc sách nói về ngài Mục Liên và về sự hiếu để. Công cha, nghĩa mẹ. Bổn phận làm con. Ta lạy Phật cầu cho mẹ sống lâu. Hoặc lạy mười phương tăng chú nguyện cho mẹ được tiêu diêu nơi cực lạc, nếu mẹ đã mất. Con mà không có hiếu là con bỏ đi. Nhưng hiếu thì cũng do tình thương mà có; không có tình thương, hiếu chỉ là giả tạo, khó khăn, vụng về, cố gắng mệt nhọc. Mà có tình thương là có đủ hết rồi. Cần chi nói đến bổn phận. Thương mẹ, như vậy là đủ. Mà thương mẹ không phải là một bổn phận. Thương mẹ là một cái gì rất tự nhiên. Như khát nước thì uống. Con thì phải có mẹ, phải thương mẹ. Chữ phải đây không phải là luân lý, là bổn phận. Phải đây là lý đương nhiên. Con thì đương nhiên thương mẹ, cũng như khát thì đương nhiên đi tìm nước uống. Mẹ thương con, nên con thương mẹ. Con cần mẹ, mẹ cần con. Nếu mẹ không cần con, con không cần mẹ, thì đó không phải là mẹ, là con. Đó là lạm dụng danh từ mẹ con. Ngày xưa, thầy giáo hỏi rằng : "con mà thương mẹ thì phải làm thế nào ?" Tôi trả lời : "vâng lời, cố gắng, giúp đỡ, phụng dưỡng lúc mẹ về già và thờ phụng khi mẹ khuất núi." Bây giờ thì tôi biết rằng : "con thương mẹ thì không phải "làm thế nào" gì hết. Cứ thương mẹ, thế là đủ lắm rồi, đủ hết rồi, cần chi phải hỏi làm thế nào nữa!"
Thương mẹ không phải là một vấn đề luân lý đạo đức. Anh mà nghĩ rằng tôi viết bài này để khuyên anh về luân lý đạo đức là anh lầm. Thương mẹ là một vấn đề hưởng thụ. Mẹ như suối ngọt, như đường mía lau, như xôi nếp một. Anh không hưởng thụ thì uổng cho anh. Chị không hưởng thụ thì thiệt cho chị. Tôi chỉ cảnh cáo cho anh chị đừng có than thở rằng : "đời ta không còn gì cả." Một món quà như mẹ mà còn không vừa ý thì hoạ chăng có làm Ngọc Hoàng Thượng Đế mới vừa ý, mới bằng lòng, mới sung sướng. Nhưng tôi biết Ngọc Hoàng không sung sướng đâu, bởi Ngọc Hoàng là đấng tự sinh, không bao giờ có diễm phúc có được một bà mẹ.
Tôi kể chuyện này, anh đừng nói tôi khờ dại. Đáng lẻ chị tôi không nên đi lấy chồng, và tôi, tôi không nên đi tu mới phải. Chúng tôi bỏ mẹ mà đi, người thì theo cuộc đời mới bên cạnh người con trai thương yêu; người thì đi theo lý tưởng đạo đức mình say mê và tôn thờ. Ngày chị tôi đi lấy chồng, mẹ tôi lo lắng lăng xăng, không tỏ vẻ buồn bã chi. Nhưng đến khi chúng tôi ăn cơm trong phòng, ăn qua loa để đợi giờ rước dâu, thì mẹ tôi không nuốt được miếng nào. Mẹ nói : "mười tám năm trời nó ngồi ăn cơm với mình, bây giờ nó ăn bữa cuối cùng rồi thì nó sẽ đi ăn ở một nhà khác." Chị tôi gục đầu xuống mâm cơm, khóc. Chị nói : "thôi con không lấy chồng nữa." Nhưng rốt cuộc thì chị cũng đi lấy chồng. Còn tôi thì bỏ mẹ mà đi tu. Các ái từ sở thân, là lời khen ngợi người có chí xuất gia. Tôi không tự hào chi về lời khen đó cả. Tôi thương mẹ, nhưng tôi có lý tưởng, vì vậy phải xa mẹ. Thiệt thòi cho tôi, có thế thôi. Ở trên đời, có nhiều khi ta phải chọn lựa. Mà không có sự chọn lựa nào là không khổ đau. Anh không thể bắt cá hai tay. Chỉ khổ là vì muốn làm người nên anh phải khổ đau. Tôi không hối hận vì bỏ mẹ đi tu, nhưng tôi tiếc và thương cho tôi vô phúc thiệt thòi, nên không được hưởng thụ tất cả kho tàng quí báu đó. Mỗi buổi chiều lạy Phật, tôi cầu nguyện cho mẹ. Nhưng tôi không được ăn chuối ba hương, xôi nếp một và đường mía lau.
Anh cũng đừng tưởng tôi khuyên anh: không nên đuổi theo sự nghiệp mà chỉ nên ở nhà với mẹ. Tôi đã nói là tôi không khuyên răn ai hết, tôi không giảng luân lý đạo đức rồi mà. Tôi chỉ nhắc anh : mẹ là chuối, là xôi, là đường, là mật, là ngọt ngào, là tình thương. Để anh đừng quên. Để chị đừng quên. Để em đừng quên. Quên là một lỗi lớn : Cũng phải là lỗi nữa, mà là một sự thiệt thòi. Mà tôi không muốn anh chị thiệt thòi, vô tình mà bị thiệt thòi, khờ dại mà bị thiệt thòi. Tôi xin cài vào túi áo một bông hoa hồng : để anh sung sướng , thế thôi.
Nếu có khuyên, thì tôi sẽ khuyên anh như thế này. Chiều nay, khi đi học về, hoặc đi làm về, anh hãy vào phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và thật bền. Anh sẽ ngồi xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi. Rồi anh sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ để trông thấy mẹ, và để biết rằng mẹ đang sống và đang ngồi bên anh. Cầm tay mẹ, anh sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý. Anh hỏi : "Mẹ ơi, mẹ có biết không ?" Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên, và sẽ nhìn anh, vừa cười vừa hỏi: "biết gì?" Vẫn nhìn vào mắt mẹ, vẫn giữ nụ cười trầm lặng và bền, anh sẽ hỏi tiếp: "mẹ có biết là con thương mẹ không ?" Câu hỏi sẽ không cần được trả lời. Cho dù anh lớn ba bốn mươi tuổi, chị lớn ba bốn mươi tuổi thì cũng hỏi câu ấy. Bởi vì anh, bởi vì chị, bởi vì em đều là con của mẹ. Mẹ và anh sẽ sung sướng, sẽ được sống trong ý thức tình thương bất diệt . Và ngày mai, mẹ mất, anh sẽ không hối hận, đau lòng, tiếc rằng anh không có mẹ.
Đó là điệp khúc tôi muốn ca hát cho anh nghe hôm nay. Và anh hãy ca, chị hãy ca, em hãy ca cho cuộc đời đừng chìm trong vô tâm, quên lãng. Đoá hoa màu hồng tôi cài trên áo anh rồi đó. Anh hãy sung sướng đi
22/1/10
Đặng Tiến -Thơ là gì ?
Thơ là gì ?
Đặng Tiến
Dưới tiêu đề tổng quát này, chúng tôi mở đầu một loạt bài biên khảo về thơ, trên bình diện lý thuyết.
Đề tài không phải là mới mẻ ; từ thời Khổng Tử san định Kinh Thi, từ thời Aristote luận về Thi pháp đến nay, hơn hai mươi thế kỷ đã nghiêng mình xuống ngôn ngữ thi ca. Tuy nhiên, cho đến nay, những bình luận về thơ chỉ dừng lại ở mức cảm thụ, nghĩa là cái phần trực giác bén nhạy giúp ta linh cảm chất thơ ; thậm chí có người đưa ra những quan niệm thần bí về thơ, như nhóm Xuân Thu Nhã Tập trước đây, và một số tác giả khác hiện nay tại miền Nam.
Giới văn học Tây phương cũng đã lúng túng rất lâu trong việc định nghĩa thi ca. Năm 1925 trước năm Viện Hàn Lâm họp đại hội đồng tại Paris, Henri Bremond, trong bài diễn thuyết về « thơ thuần túy » [1] đã đưa ra một quan niệm huyền nhiệm về thơ, làm lung lạc cả thế giới khảo cứu của Pháp. Nhưng từ ấy đến nay, nếu các lý thuyết về tiểu thuyết, kịch, … không tiến bộ bao nhiêu thì kiến thức về thơ của Tây phương đã phát triển rất nhanh ; nhất là từ hai mươi năm nay, bộ môn «thi pháp» (poétique) trở nên thời thượng, nhờ những lý thuyết thẩm mỹ nói chung, nhờ sự đóng góp của các triết gia như Heidegger, Bachelard, Sartre, … và nhất là nhờ những tiến bộ vượt bực của ngành ngôn ngữ học, từ de Saussure đến Jakobson và bộ môn nhân chủng học từ Sapir đến Lévi-Strauss. Năm 1962, Jakobson và Lévi-Strauss, mỗi người đã mang những kiến thức nghiêm túc của mình để cùng giải thích bài thơ Mèo (Les Chats) của Baudelaire, có sự đóng góp của nhà ngữ học Benveniste. Bài giải thích này là bước tiến quyết định trong việc phá vỡ huyền thoại về thơ [2].
Tại Việt Nam 1973, có lẽ vì hoàn cảnh, nên chưa có những biên khảo thật nhất quán và khoa học về thơ, tại miền Nam cũng như miền Bắc. Đây là việc cần phải làm vì ai cũng biết người Việt Nam yêu thơ và ngôn ngữ Việt Nam giàu thi tính. Vì vậy mà chúng tôi không ngại kiến thức hẹp hòi, đưa ra một số suy nghĩ trong loạt bài sắp tới : thơ và văn xuôi khác nhau ra sao, tương quan giữa ý thơ và lời thơ, đặc tính của lời thơ, khả năng của khoa học áp dụng cho việc hiểu thơ… Để thoát ly khỏi quỹ đạo kiến thức tây phương, chúng tôi sẽ trình bày quan niệm của tổ tiên ta về thơ, thi tính của ca dao, và sẽ phân tích một vài thi phẩm cổ kim của ta ; một lý thuyết về thơ chỉ có giá trị nếu ta có thể áp dụng để phân tích rất nhiều tác phẩm cụ thể, thuộc nhiều hình thức và thể loại khác nhau, trong nhiều ngôn ngữ khác nhau trên thế giới, như Jakobson đã đề xuất và thực hành.
Việc này, chúng tôi không viết thành sách, mặc dù có lời yêu cầu của một vài nhà xuất bản ; tôi chỉ muốn trình bày trên báo để góp ý với nhiều giới độc giả, dù biết rằng khó trình bày được toàn bộ lý luận qua dăm mười bài viết rời rạc.
Viết loạt bài này, chúng tôi đứng trước bốn khó khăn : thứ nhất, sự khảo cứu chỉ mới ở bước đầu ; thứ nhì, thiếu tài liệu về thơ Việt Nam, nhất là về lý luận Việt Nam xưa về thơ ; thứ ba, muốn trình bày một đề tài chuyên môn bằng ngôn ngữ bình dị ; thứ tư, viết về thơ mà không văn vẻ thì đọc chán, mà văn vẻ thì giảm bớt tính khoa học.
Bạn đọc sẽ nhận thấy những khuyết điểm do các khó khăn nói trên tạo ra.
* *
Trong bài đầu tiên này, chúng tôi nêu lên nguyên lý cơ bản : Thơ khác với ngôn ngữ thường ra sao ? Vấn đề này nhà văn, giáo sư Nguyễn văn Trung, cách đây khá lâu, đã trình bày mạch lạc [3] nay tôi chỉ nói lại vắn tắt và cụ thể. Ngôn ngữ nói chung, là một trong nhiều hệ thống ký hiệu, được loài ngừơi dùng làm phương tiện để truyền đạt tin tức, mệnh lệnh, tư tưởng, tình cảm. Mỗi từ ngữ không có giá trị tự tại, mà chỉ là công cụ để chỉ một đối tượng : con mèo, con chó chẳng hạn. Khi từ ngữ vượt khỏi công dụng thông tin ấy, để biểu hiện giá trị thẩm mỹ tự tại thì, theo Jakobson, nó có chức năng thi pháp (fonction poétique). Đó là thơ.
Nói khác đi, thơ là ngôn ngữ, vậy nó cũng truyền đạt một tình, một ý. Nhưng đặc tính không nằm trong thông điệp truyền đi, mà nằm trong vỏ âm thanh của từ ngữ được sử dụng. Ngôn ngữ thơ không chỉ là dụng cụ, mà còn là thể chất. Nó vừa là nội dung vừa là hình thức : nội dung đôi khi chính là hình thức của nó. Cho nên khi so sánh thơ với ngôn ngữ thường, ta có thể nói quá đi một chút như lời Jakobson : thơ là ngôn ngữ tự lấy mình làm cứu cánh, trong khi văn xuôi, hay lời nói thường, chỉ là những ký hiệu bày tỏ sự vật bên ngoài. Trình bày cách khác : nói, là nói cái gì, còn làm thơ, là nói để được cái thú nghe lời mình nói, như chàng Trúc ở dòng đầu truyện Đôi bạn của Nhất Linh « nói xong và nghe tiếng mình nói, Trúc nhớ lại rằng câu ấy chàng đã thốt ra nhiều lần, năm nào cũng vậy.. ».
Yêu thơ là yêu lời nói đẹp. Đẹp ở đây không nhất thiết là phải vần vè, văn vẻ.
Từ cuối thế kỷ 19, Mallarmé đã bảo : « làm thơ với từ ngữ, chứ không phải với ý tưởng ». Nguyễn văn Trung có trình bày thêm quan niệm của Valéry, Breton, Sartre [4]. Nhưng mãi đến vài mươi năm gần đây, các nhà khảo cứu mới chú tâm đặc biệt đến thơ như là một ngôn ngữ tự tại, như hội họa, như âm nhạc, chứ không phải chỉ là một công cụ. Thật ra, từ 1921, Jakobson đã chủ trương : « thơ chỉ là một ngôn đề nhắm vào biểu thức (un énoncé visant l’expession), có thể nói, vận hành trong quy luật nội tại ; chức năng truyền đạt, đặc biệt của ngôn ngữ hàng ngày và ngôn ngữ truyền cảm, bị giới hạn đến mức tối đa. Thơ dửng dưng với đối tượng của lời nói » [5] .Ông còn so sánh « nếu hội họa là cách tạo hình bằng những chất liệu của thị quan có giá trị tự tại, nếu âm nhạc là cách tạo âm bằng chất liệu thuộc thính quan có giá trị tự tại, nếu vũ điệu tạo hình bằng chất liệu cử động của thân thể có giá trị tự tại, thì thơ là cách tạo hình với từ ngữ có giá trị tự tại. Thơ là ngôn ngữ trong chức năng thẩm mỹ của nó » (la poésie est la mise en forme du mot à valeur autonome…c’est le langage dans sa fonction esthétique) [6]. Hơn mười năm sau, cũng tại Prague, ông lại định nghĩa « thơ là gì » và nói rõ « thi tính thể hiện ra sao ? – Thể hiện bằng cách : từ ngữ được cảm thụ như là từ ngữ chứ không phải chỉ là một ký hiệu tầm thường của sự vật được gọi tên, cũng không phải như một òa vỡ của tình cảm ; nó thể hiện bằng cách : những con chữ, và cú pháp, và ý nghĩa, và hình thể ngoại tại và nội tại, không phải chỉ là những ký hiệu vô vị của thực tế, trái lại những con chữ đó có trọng lượng riêng, có giá trị riêng » [7].
Mãi về sau này, khi Jakobson được xem như bậc thầy của khoa ngôn ngữ học thế giới, các nhà biên khảo mới khai thác triệt để tư tưởng của ông, một phần cũng nhờ sự đóng góp của phong trào cấu trúc (structuralisme) với Lévi-Strauss.
Trong một ngành khoa học khác, môn nhân chủng học, Lévi-Strauss cũng đi đến một kết luận như Jakobson : « chúng ta đều thừa nhận rằng từ ngữ là những ký hiệu, nhưng giữa chúng ta, thi sĩ là những kẻ cuối cùng còn sót lại còn biết rằng từ ngữ, xưa kia, cũng là những giá trị » [8].
Từ quan niệm : thơ là một ngôn ngữ trong ngôn ngữ theo lời Valéry, các nhà khảo cứu xây dựng một nền khoa học mới, môn « thi pháp » (la poétique) với những quy luật chuyên môn, thậm chí ngày nay, có ngừời không còn xem thơ như một lãnh vực của văn chương như ta vẫn quan niệm, mà là một hệ thống ký hiệu riêng, không mấy quan hệ với văn chương : « Ngày nay, chúng ta không còn có thể đề cập đến sự kiện thi ca bằng cách sát nhập thơ vào lý thuyết tổng quát của văn chương, ví dụ xét thi phẩm như một phần của văn học nói chung ,(…) vì cấu trúc của thơ không thể nới rộng đến ý niệm về văn chương » [9] .Ngược lại, có người xem thi ca như một bộ môn của ngành ngôn ngữ học, họ khảo sát lời thơ như khảo sát tiếng Anh, tiếng Nhật, tiếng Mường… Chúng tôi chưa có điều kiện để phê phán hay áp dụng những kiến giải chuyên môn đó, mà chỉ dừng lại ở những nguyên lý tổng quát, để người đọc tham khảo.
****
Chúng ta thử so sánh một cách nôm na ngôn ngữ thường ngày (ngôn ngữ dụng cụ) với thơ. Ví dụ muốn châm điếu thuốc, tôi hỏi : « anh có diêm không ? » thì đó là một câu nói thông thường, nó không có giá trị gì ngoài việc làm dụng cụ để tôi đốt được điếu thuốc. Tôi có thể nói một cách khác : anh có lửa ? anh có hộp quẹt ? anh có bật lửa ? anh cho tôi mồi điếu thuốc… Nói sao cũng được, miễn là đạt tới kết quả. Vậy ngôn ngữ nói chung chỉ là một phương tiện ; chỉ có thi ca mới là một ngôn ngữ riêng, tự lấy mình làm mục đích. Ví dụ, cùng
một câu xin lửa, mà tôi nói :
« Cho tôi xin chút lửa
Lửa tắt.
Cho tôi xin nước mắt
Nước mắt chua »
…
thì tôi không còn xin lửa để đốt điếu thuốc, nhen bếp cơm, mà nói để có cái thế được nói một câu đồng dao đẹp. Câu đồng dao đó tự nó là đối tượng của nó, nó không nhắm mục đích gì hết : Đứa bé lên năm chơi rồng rắn, thì xin nước mắt làm gì ?
Cũng chú bé đó, khi bập bẹ tập nói, học những tiếng con mèo, con chó… để có dụng cụ chỉ hai loại gia súc nọ ; lớn lên chút nữa nó dùng từ chính xác hơn : con vện, con tam thể, để chỉ cùng đối tượng : dụng cụ ngôn ngữ của nó dồi dào hơn. Trước kia nó chỉ có một con dao, bây giờ nó có con dao bổ dừa để bổ dừa, con dao cau để bổ cau, nhưng ngôn ngữ vẫn là dụng cụ. Mai kia nó lớn lên sẽ gọi tình nhân là mèo, tình địch là chó, thì dụng cụ thay đổi so với sự vật, như là nó dùng dao cau để rọc thư tình nhân và dao bổ dừa để chém đầu tình địch. Hai ví dụ kể trên chứng minh hai điều : Mèo, chó là ngôn ngữ dụng cụ, trong ngôn ngữ đời thường, từ ngữ (cái biểu hiện) và đối tượng (cái được biểu hiện) là hai cái khác nhau, tạm gọi cái trước là hình thức, cái sau là nội dung. Ta có thể dùng hai từ cùng nghĩa (mèo, con tam thể) hay một từ hai nghĩa (mèo gia súc hay mèo tình nhân).
Trong Thơ thì khác. Chú bé bắt chước mẹ, hát nghêu ngao :
Con mèo con chó có lông
Bụi tre có mắt, nồi đồng có quai
(Ca dao)
Hai chữ con mèo, con chó, và cả câu ca dao không có đối tượng. Ai chả biết cây tre có mắt, và nồi đồng (miền Trung) có quai ? Vậy nói ở đây, không phải là để nói lên cái gì, mà để được cái thú nghe lời mình nói, với một câu mà mình cho là hay. Thế nào là hay, thì lại tùy người, tùy lúc, là chuyện khác.
Các nhà biên khảo đã đi đến chỗ đồng thuận : Về lý thuyết, ngôn ngữ nói chung và văn xuôi nói riêng nhằm phục vụ một đối tượng trong đời sống hàng ngày. Thơ trái lại là một ngôn ngữ tự lấy mình làm đối tượng. Về thực tế, khi đưa quan niệm này vào việc phân tích thi ca chúng ta lại phải dè dặt, vì bài thơ là một mô hình phức tạp. Cái nhìn khoa học không những cần phân tích hợp lý, mà còn cần tổng hợp nhất quán ; lối nhìn đó là cần, nhưng chưa đủ để nắm bắt câu thơ.
Nói thơ là một ngôn ngữ tự tại không có nghĩa rằng : thơ không cần có ý nghĩa. Vì một từ ngữ, một câu bao giờ cũng có nghĩa nếu nó muốn là ngôn ngữ. Không làm gì có câu nói thật sự vô nghĩa.
Cũng không hàm ý rằng thơ không tương quan gì đến thực tế nhất là thực tại xã hội. Không thể cô lập một câu thơ, và con người với xã hội, tách nó ra khỏi đời sống. Đây là hai điểm chính yếu, ta không nên ngộ nhận.
Những câu thơ ta cho là hay, dễ nhớ vẫn là những câu có nghĩa, có ý, có tình. Ở tây phương, đã có nhiều trường phái chủ trương thơ vô nghĩa, đều bị bế tắc. Câu thơ phải có nghĩa mới là câu nói, mới làm ta chú ý. Ta có chú ý rồi mới thấy hay, càng đọc càng thấy hay, lâu ngày nhớ lại vẫn thấy hay. Nhưng câu thơ hay đó tuy có ý nghĩa, nhưng không hay vì ý nghĩa, mà hay vì hơi nói, giọng nói. Khi câu thơ hay vì ý nghĩa thì nó có cái hay của văn xuôi (beauté prosaique), như một lời văn hoa mỹ, một lời nói khéo, ví dụ câu này của Hàn Mạc Tử:
Sao bông phượng nở trong màu huyết,
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu.
Câu thơ này dịch ra tiếng nước ngoài không khó, vì nhiều tu từ pháp, tiếng nước nào cũng có sẵn.
Nói khác đi, tương quan lời/ý, cái biểu hiện/cái được biểu hiện, (signifiant/signififié) bị đảo lộn : trong lời nói thường và văn xuôi, lời là phương tiện của ý, “được ý phải quên lời, như được cá quên nơm” (Trang Tử). Trong thơ, ý là phương tiện của lời trên hai phương diện : trong cấu trúc, ý nâng lời, tạo tương quan cho từ ngữ ; ngoài cấu trúc ý làm môi giới giữa lời thơ và người đọc, người nghe. Câu thơ không có ý thì không có xương sống và không có độc giả, thơ không ý “như thuyền không lái, như ngựa không cương”, nhưng lái không phải là thuyền, cương chỉ là thành phần không chính yếu của ngựa. Thơ hay không phải tại ý, như ngựa thiên lý không phải nhờ vào giây cương, cho dù giây cương là cần thiết. Vì vậy mà thơ xưa từ Đông sang Tây, quay chung quanh các đề tài tuyết nguyệt phong hoa. Điều chính yếu trong thơ không phải là nói cái gì, mà là nói ra sao.
Vì trong thơ, ý là phương tiện của lời, nên người bình giảng thơ cần đặt lại chính xác quan hệ nội dung và hình thức. Nhất là khi bình giảng thơ trong nhà trường. Các thầy giáo, cô giáo từ bậc tiểu học phải biết dạy thơ. Con em lớn lên mới biết yêu thơ, xã hội mới có thơ hay. Và đời sống con người tinh tế hơn.
Theo lối giảng thông thường của sách giáo khoa, thì nội dung của bài Thu điếu của Nguyễn Khuyến là việc đi câu cá mùa thu. Đúng không ? dụng tâm của Nguyễn Khuyến khi làm bài thơ ấy có phải là để kể chuyện đi câu ? hay ông chỉ mượn việc đi câu, mượn luôn cả cảnh ao thu, để làm một bài thơ đẹp ? Phái duy lý có thể bẻ lại : Nguyễn Khuyến làm bài thơ đó để nói lên tâm hồn kẻ sĩ ; vì tâm hồn cao đẹp nên bài thơ hay. Nghe không ổn, vì có phải thánh nhân đều là thi sĩ cả đâu . Và bao nhiêu thi sĩ Tư Mã Tương Như, Baudelaire chẳng hạn, là kẻ tầm thường, có khi còn tội lỗi. Vả lại, anh thích bài thơ đó, vì anh thích đi câu, anh thích mùa thu, hay vì bài thơ đó hay ? Tóm lại, nội dung của bài thơ Thu điếu là bản thể của lời thơ, hình thức của nó là ao thu, phương tiện của nó là đi câu.
Nói như thế có vẻ nghịch với lẽ thường. Nhưng chính thơ là ngôn ngữ nghịch với lẽ thường. Vầng trăng làm sao mà “sẻ làm đôi” được ? Làm sao có thể “gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao” được ? Thi sĩ là kẻ phá vỡ tương quan của ý tưởng và thay thế vào đó tương quan của từ ngữ. Sự hoán chuyển phương tiện – mục đích, vẫn thường xảy ra trong thực tế ; trở lại với thí dụ đi câu : con rô con diếc là đối tượng của bác thợ câu, nhưng là phương tiện của ông Lã Vọng, đi câu là để đi câu. Cô hái chè lúc vươn tay thì cành chè là đối tượng ; cô đứng chụp hình, tay vươn cành chè, thì cành chè là phương tiện để cô có bức hình đẹp. Cô đứng tự nhiên thì bức hình không tự nhiên, phải giả vờ vin vào cái gì đó thì bức hình mới tự nhiên. Ngôn ngữ thơ cũng vậy : nói tự nhiên, thì không ra thơ, phải nói một cách nào đó thì mới là thơ. Những câu thơ “tự nhiên thiên thành”, cũng tự nhiên một cách nào đó, trong một bối cảnh nào đó.
Bảo rằng thơ là cách nói, thi sĩ làm thơ để làm thơ, như kẻ đi câu để đi câu, không cần cá, phải chăng là từ chối mọi quan hệ giữa thơ và thực tế xã hội ? Không phải vậy, những thi sĩ lớn cũng như những lý thuyết gia ngày nay, không còn mấy ai chủ trương hình thức vị hình thức.
Thơ có đặc tính riêng, nhưng vẫn bắt nguồn từ xã hội và phục vụ xã hội. Bắt nguồn và phục vụ bằng cách nào thì tùy hoàn cảnh cá nhân, hoàn cảnh xã hội, và tùy chế độ chính trị, xưa cũng như nay.
Thơ bắt nguồn từ thực tế vì phải sử dụng ngôn ngữ hàng ngày dù để chế biến, xáo trộn, vì ngôn ngữ vốn là phản ánh của đời sống. Thơ lại sử dụng những tình ý của con người, thì dù muốn dù không cũng phản ánh xã hội. Những thi phẩm lớn của ta, như Kiều, Cung Oán, Chinh Phụ Ngâm, đều mang ít nhiều đặc tính của xã hội. Gần chúng ta hơn, những nhà thơ tiền chiến “mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây” gặp lúc kháng chiến cũng đã “đốt cháy trong lòng mình những phong cảnh cũ” như lời Nguyễn Tuân, để chiến đấu và sáng tác. Gần hơn nữa, nhà thơ say Vũ Hoàng Chương đã từng sống giữa lòng đời như “cắm thuyền sông lạ”, năm 1963, đã đốt lên ngọn Lửa Từ Bi hùng tráng để soi sáng cho cuộc đổi thay xã hội.
Và nhìn chung thơ Hy Lạp, thơ Tàu, thơ Tây đều mang đặc tính xã hội.
Thơ không những chỉ phản chiếu tiêu cực mà còn ảnh hưởng tích cực đến tâm hồn con người. Bỏ qua quan niệm “thi dĩ ngôn chí” và “văn dĩ tải đạo”của nhà Nho, bỏ qua luôn quan niệm thơ phải phục vụ trực tiếp quần chúng, chúng ta vẫn gặp những nhà thơ lớn ca ngợi giá trị đạo lý của nhân loại từ Khuất Nguyên qua Đỗ Phủ, cho đến Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyến. Những tác phẩm được truyền tụng là những bài Quy Khứ Lai Từ của Đào Tiềm, thơ lánh đời của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Còn thơ xu phụ quyền thế của 28 vì sao trong Tao Đàn thì không mấy ai biết tới. Trong khuôn khổ của xã hội phong kiến và tư tưởng nho giáo khe khắt, thơ vẫn không chịu gò bó trong tam cương ngũ thường, mà vươn tới cái đạo lớn của nhân loại, ca ngợi cái hùng, cái vĩ, bênh vực kẻ yếu, tố cáo bất công. Khi nói đến tình yêu trai gái, thơ gạn lọc tình cảm, cho nên những đoạn Kinh Thi ướt át nhất vẫn ngay thẳng như lời Khổng Tử. Bản chất thơ phải “tư vô tà”, đó cũng là một đặc tính chung cho các bộ môn văn nghệ khi vươn lên làm văn hóa, văn minh.
Vì thế ngày nay tại các nước công nghiệp tiên tiến, thơ vẫn là một bộ môn quan trọng trong chương trình giáo dục, nhất là cấp tiểu học. Trẻ em học thơ để yêu tiếng nói, rồi từ đó yêu quê hương, loài người và cuộc sống.
Dân tộc Việt Nam vốn yêu thơ, thưởng thức thơ từ lúc nằm nôi, nếu thi ca đóng đúng vai trò của nó dĩ nhiên là sẽ có tác dụng rộng lớn.
Để kết luận, xin mượn lời Jakobson : “ Thi ca, so với những giá trị xã hội khác, tuy không vượt bực, không lấn lướt, vẫn là thành tố cơ bản của ý thức hệ, luôn luôn quy về một đối tượng. Thơ giúp ta khỏi trở thành máy móc, bảo vệ chúng ta chống lại sự han rỉ đang hăm dọa những công thức về tình yêu và thù hận, về phản kháng và hòa giải, về đức tin và phủ nhận” [10].
Về những đóng góp của Jakobson xin đọc bài tiếp theo.
Đặng Tiến
Dieppe, 7-1973,
đọc lại, Orléans 12- 2008
Phụ chú 12-2008
Sách chuyên đề tiếng Việt sau 1973 , đã xem lại :
- Hà Minh Đức : Thơ và mấy vấn đề…. 1974
Một thời đại trong thơ ca 1996,
và nhiều sách khác
- Phan Cự Đệ : Phong trào thơ mới 1982,
Văn học Việt Nam 2004
- Phan Ngọc : Phong cách Nguyễn Du 1985,
- và nhiều sách khác.
- Nguyễn Phan Cảnh : Ngôn ngữ thơ 1987
- Nguyễn Hưng Quốc : Tìm hiểu nghệ thuật thơ 1988
Nghĩ về thơ 1990
- Mai Ngọc Chừ : Vần thơ Việt Nam 1991
- Nguyễn Xuân Kính : Thi pháp ca dao 1992
- Lê Đình Kỵ : Thơ mới… 1993
- Thụy Khuê : Cấu trúc thơ 1995
- Nguyễn Bá Thành : Tư duy thơ 1996.
- Hữu Đạt : Ngôn ngữ thơ Việt nam 2000
- Trần Đình Sử : Văn học và Thời gian, 2001.
- Trần Đức Các1995 ; Nguyễn thái Hòa 1997 ; Phan Diễm Phương 1998,
về thi pháp trong văn học dân gian
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Bremond, La Poésie Pure, nxb Grasset, Paris 1926
[2] Tạp chí L’Homme, số II, 1,1962, in lại trong Questions de Poétique, Roman Jakobson, nxb Le Seuil, Paris, 1973, tr. 401-419.
[3] Nguyễn văn Trung, Lược Khảo Văn Học, cuốn 2, Nam Sơn xuất bản, 1965, tr. 72-82. Sàì gòn
[4] Sđd, tr. 16-34.
[5] In lần đầu tại Prague, 1921, in lại trong Questions de Poétique, Sđd, tr. 14, và trong tạp chí Poétique, số đặc biệt về Jakobson, Paris, 7-1971, tr.290.
[6] Jakobson, Questions …, sđ d, tr. 16 ; tạp chí Poétique ,s đ d tr.290. Tôi chỉ chú nguyên văn những đoạn chính.
7Jakobson, Co-je poésie, Prague 1933-1934, in lại trong Poétique, sđd, tr. 308, và trong Questions de Poétique, sđd, tr. 124.
[8] Levi-Strauss, Anthropologie Structurale, tr 70, Plon, Paris 1958, Claude Lévi-Strauss nói « cuối cùng sót lại… xưa kia » vì muốn truy nguyên nguồn gốc và cơ cấu của ngôn ngữ, qua cơ cấu tổ chức thị tộc và hôn nhân các xã hội cổ sơ của Phi Châu, Nam Mỹ, vì theo ông liên hệ thị tộc và hôn nhân cũng là ngôn ngữ.Chữ « giá trị » ông dùng theo nghĩa đơn vị để trao đổi.
[9] A.J.Greimas, Essais de Sémiotique Poétique, nxb Larousse, Paris 1962, trang đầu.
[10] Questions de Poétique, Sđ d, tr. 125.
bài của Đặng Tiến
Đặng Tiến
Dưới tiêu đề tổng quát này, chúng tôi mở đầu một loạt bài biên khảo về thơ, trên bình diện lý thuyết.
Đề tài không phải là mới mẻ ; từ thời Khổng Tử san định Kinh Thi, từ thời Aristote luận về Thi pháp đến nay, hơn hai mươi thế kỷ đã nghiêng mình xuống ngôn ngữ thi ca. Tuy nhiên, cho đến nay, những bình luận về thơ chỉ dừng lại ở mức cảm thụ, nghĩa là cái phần trực giác bén nhạy giúp ta linh cảm chất thơ ; thậm chí có người đưa ra những quan niệm thần bí về thơ, như nhóm Xuân Thu Nhã Tập trước đây, và một số tác giả khác hiện nay tại miền Nam.
Giới văn học Tây phương cũng đã lúng túng rất lâu trong việc định nghĩa thi ca. Năm 1925 trước năm Viện Hàn Lâm họp đại hội đồng tại Paris, Henri Bremond, trong bài diễn thuyết về « thơ thuần túy » [1] đã đưa ra một quan niệm huyền nhiệm về thơ, làm lung lạc cả thế giới khảo cứu của Pháp. Nhưng từ ấy đến nay, nếu các lý thuyết về tiểu thuyết, kịch, … không tiến bộ bao nhiêu thì kiến thức về thơ của Tây phương đã phát triển rất nhanh ; nhất là từ hai mươi năm nay, bộ môn «thi pháp» (poétique) trở nên thời thượng, nhờ những lý thuyết thẩm mỹ nói chung, nhờ sự đóng góp của các triết gia như Heidegger, Bachelard, Sartre, … và nhất là nhờ những tiến bộ vượt bực của ngành ngôn ngữ học, từ de Saussure đến Jakobson và bộ môn nhân chủng học từ Sapir đến Lévi-Strauss. Năm 1962, Jakobson và Lévi-Strauss, mỗi người đã mang những kiến thức nghiêm túc của mình để cùng giải thích bài thơ Mèo (Les Chats) của Baudelaire, có sự đóng góp của nhà ngữ học Benveniste. Bài giải thích này là bước tiến quyết định trong việc phá vỡ huyền thoại về thơ [2].
Tại Việt Nam 1973, có lẽ vì hoàn cảnh, nên chưa có những biên khảo thật nhất quán và khoa học về thơ, tại miền Nam cũng như miền Bắc. Đây là việc cần phải làm vì ai cũng biết người Việt Nam yêu thơ và ngôn ngữ Việt Nam giàu thi tính. Vì vậy mà chúng tôi không ngại kiến thức hẹp hòi, đưa ra một số suy nghĩ trong loạt bài sắp tới : thơ và văn xuôi khác nhau ra sao, tương quan giữa ý thơ và lời thơ, đặc tính của lời thơ, khả năng của khoa học áp dụng cho việc hiểu thơ… Để thoát ly khỏi quỹ đạo kiến thức tây phương, chúng tôi sẽ trình bày quan niệm của tổ tiên ta về thơ, thi tính của ca dao, và sẽ phân tích một vài thi phẩm cổ kim của ta ; một lý thuyết về thơ chỉ có giá trị nếu ta có thể áp dụng để phân tích rất nhiều tác phẩm cụ thể, thuộc nhiều hình thức và thể loại khác nhau, trong nhiều ngôn ngữ khác nhau trên thế giới, như Jakobson đã đề xuất và thực hành.
Việc này, chúng tôi không viết thành sách, mặc dù có lời yêu cầu của một vài nhà xuất bản ; tôi chỉ muốn trình bày trên báo để góp ý với nhiều giới độc giả, dù biết rằng khó trình bày được toàn bộ lý luận qua dăm mười bài viết rời rạc.
Viết loạt bài này, chúng tôi đứng trước bốn khó khăn : thứ nhất, sự khảo cứu chỉ mới ở bước đầu ; thứ nhì, thiếu tài liệu về thơ Việt Nam, nhất là về lý luận Việt Nam xưa về thơ ; thứ ba, muốn trình bày một đề tài chuyên môn bằng ngôn ngữ bình dị ; thứ tư, viết về thơ mà không văn vẻ thì đọc chán, mà văn vẻ thì giảm bớt tính khoa học.
Bạn đọc sẽ nhận thấy những khuyết điểm do các khó khăn nói trên tạo ra.
* *
Trong bài đầu tiên này, chúng tôi nêu lên nguyên lý cơ bản : Thơ khác với ngôn ngữ thường ra sao ? Vấn đề này nhà văn, giáo sư Nguyễn văn Trung, cách đây khá lâu, đã trình bày mạch lạc [3] nay tôi chỉ nói lại vắn tắt và cụ thể. Ngôn ngữ nói chung, là một trong nhiều hệ thống ký hiệu, được loài ngừơi dùng làm phương tiện để truyền đạt tin tức, mệnh lệnh, tư tưởng, tình cảm. Mỗi từ ngữ không có giá trị tự tại, mà chỉ là công cụ để chỉ một đối tượng : con mèo, con chó chẳng hạn. Khi từ ngữ vượt khỏi công dụng thông tin ấy, để biểu hiện giá trị thẩm mỹ tự tại thì, theo Jakobson, nó có chức năng thi pháp (fonction poétique). Đó là thơ.
Nói khác đi, thơ là ngôn ngữ, vậy nó cũng truyền đạt một tình, một ý. Nhưng đặc tính không nằm trong thông điệp truyền đi, mà nằm trong vỏ âm thanh của từ ngữ được sử dụng. Ngôn ngữ thơ không chỉ là dụng cụ, mà còn là thể chất. Nó vừa là nội dung vừa là hình thức : nội dung đôi khi chính là hình thức của nó. Cho nên khi so sánh thơ với ngôn ngữ thường, ta có thể nói quá đi một chút như lời Jakobson : thơ là ngôn ngữ tự lấy mình làm cứu cánh, trong khi văn xuôi, hay lời nói thường, chỉ là những ký hiệu bày tỏ sự vật bên ngoài. Trình bày cách khác : nói, là nói cái gì, còn làm thơ, là nói để được cái thú nghe lời mình nói, như chàng Trúc ở dòng đầu truyện Đôi bạn của Nhất Linh « nói xong và nghe tiếng mình nói, Trúc nhớ lại rằng câu ấy chàng đã thốt ra nhiều lần, năm nào cũng vậy.. ».
Yêu thơ là yêu lời nói đẹp. Đẹp ở đây không nhất thiết là phải vần vè, văn vẻ.
Từ cuối thế kỷ 19, Mallarmé đã bảo : « làm thơ với từ ngữ, chứ không phải với ý tưởng ». Nguyễn văn Trung có trình bày thêm quan niệm của Valéry, Breton, Sartre [4]. Nhưng mãi đến vài mươi năm gần đây, các nhà khảo cứu mới chú tâm đặc biệt đến thơ như là một ngôn ngữ tự tại, như hội họa, như âm nhạc, chứ không phải chỉ là một công cụ. Thật ra, từ 1921, Jakobson đã chủ trương : « thơ chỉ là một ngôn đề nhắm vào biểu thức (un énoncé visant l’expession), có thể nói, vận hành trong quy luật nội tại ; chức năng truyền đạt, đặc biệt của ngôn ngữ hàng ngày và ngôn ngữ truyền cảm, bị giới hạn đến mức tối đa. Thơ dửng dưng với đối tượng của lời nói » [5] .Ông còn so sánh « nếu hội họa là cách tạo hình bằng những chất liệu của thị quan có giá trị tự tại, nếu âm nhạc là cách tạo âm bằng chất liệu thuộc thính quan có giá trị tự tại, nếu vũ điệu tạo hình bằng chất liệu cử động của thân thể có giá trị tự tại, thì thơ là cách tạo hình với từ ngữ có giá trị tự tại. Thơ là ngôn ngữ trong chức năng thẩm mỹ của nó » (la poésie est la mise en forme du mot à valeur autonome…c’est le langage dans sa fonction esthétique) [6]. Hơn mười năm sau, cũng tại Prague, ông lại định nghĩa « thơ là gì » và nói rõ « thi tính thể hiện ra sao ? – Thể hiện bằng cách : từ ngữ được cảm thụ như là từ ngữ chứ không phải chỉ là một ký hiệu tầm thường của sự vật được gọi tên, cũng không phải như một òa vỡ của tình cảm ; nó thể hiện bằng cách : những con chữ, và cú pháp, và ý nghĩa, và hình thể ngoại tại và nội tại, không phải chỉ là những ký hiệu vô vị của thực tế, trái lại những con chữ đó có trọng lượng riêng, có giá trị riêng » [7].
Mãi về sau này, khi Jakobson được xem như bậc thầy của khoa ngôn ngữ học thế giới, các nhà biên khảo mới khai thác triệt để tư tưởng của ông, một phần cũng nhờ sự đóng góp của phong trào cấu trúc (structuralisme) với Lévi-Strauss.
Trong một ngành khoa học khác, môn nhân chủng học, Lévi-Strauss cũng đi đến một kết luận như Jakobson : « chúng ta đều thừa nhận rằng từ ngữ là những ký hiệu, nhưng giữa chúng ta, thi sĩ là những kẻ cuối cùng còn sót lại còn biết rằng từ ngữ, xưa kia, cũng là những giá trị » [8].
Từ quan niệm : thơ là một ngôn ngữ trong ngôn ngữ theo lời Valéry, các nhà khảo cứu xây dựng một nền khoa học mới, môn « thi pháp » (la poétique) với những quy luật chuyên môn, thậm chí ngày nay, có ngừời không còn xem thơ như một lãnh vực của văn chương như ta vẫn quan niệm, mà là một hệ thống ký hiệu riêng, không mấy quan hệ với văn chương : « Ngày nay, chúng ta không còn có thể đề cập đến sự kiện thi ca bằng cách sát nhập thơ vào lý thuyết tổng quát của văn chương, ví dụ xét thi phẩm như một phần của văn học nói chung ,(…) vì cấu trúc của thơ không thể nới rộng đến ý niệm về văn chương » [9] .Ngược lại, có người xem thi ca như một bộ môn của ngành ngôn ngữ học, họ khảo sát lời thơ như khảo sát tiếng Anh, tiếng Nhật, tiếng Mường… Chúng tôi chưa có điều kiện để phê phán hay áp dụng những kiến giải chuyên môn đó, mà chỉ dừng lại ở những nguyên lý tổng quát, để người đọc tham khảo.
****
Chúng ta thử so sánh một cách nôm na ngôn ngữ thường ngày (ngôn ngữ dụng cụ) với thơ. Ví dụ muốn châm điếu thuốc, tôi hỏi : « anh có diêm không ? » thì đó là một câu nói thông thường, nó không có giá trị gì ngoài việc làm dụng cụ để tôi đốt được điếu thuốc. Tôi có thể nói một cách khác : anh có lửa ? anh có hộp quẹt ? anh có bật lửa ? anh cho tôi mồi điếu thuốc… Nói sao cũng được, miễn là đạt tới kết quả. Vậy ngôn ngữ nói chung chỉ là một phương tiện ; chỉ có thi ca mới là một ngôn ngữ riêng, tự lấy mình làm mục đích. Ví dụ, cùng
một câu xin lửa, mà tôi nói :
« Cho tôi xin chút lửa
Lửa tắt.
Cho tôi xin nước mắt
Nước mắt chua »
…
thì tôi không còn xin lửa để đốt điếu thuốc, nhen bếp cơm, mà nói để có cái thế được nói một câu đồng dao đẹp. Câu đồng dao đó tự nó là đối tượng của nó, nó không nhắm mục đích gì hết : Đứa bé lên năm chơi rồng rắn, thì xin nước mắt làm gì ?
Cũng chú bé đó, khi bập bẹ tập nói, học những tiếng con mèo, con chó… để có dụng cụ chỉ hai loại gia súc nọ ; lớn lên chút nữa nó dùng từ chính xác hơn : con vện, con tam thể, để chỉ cùng đối tượng : dụng cụ ngôn ngữ của nó dồi dào hơn. Trước kia nó chỉ có một con dao, bây giờ nó có con dao bổ dừa để bổ dừa, con dao cau để bổ cau, nhưng ngôn ngữ vẫn là dụng cụ. Mai kia nó lớn lên sẽ gọi tình nhân là mèo, tình địch là chó, thì dụng cụ thay đổi so với sự vật, như là nó dùng dao cau để rọc thư tình nhân và dao bổ dừa để chém đầu tình địch. Hai ví dụ kể trên chứng minh hai điều : Mèo, chó là ngôn ngữ dụng cụ, trong ngôn ngữ đời thường, từ ngữ (cái biểu hiện) và đối tượng (cái được biểu hiện) là hai cái khác nhau, tạm gọi cái trước là hình thức, cái sau là nội dung. Ta có thể dùng hai từ cùng nghĩa (mèo, con tam thể) hay một từ hai nghĩa (mèo gia súc hay mèo tình nhân).
Trong Thơ thì khác. Chú bé bắt chước mẹ, hát nghêu ngao :
Con mèo con chó có lông
Bụi tre có mắt, nồi đồng có quai
(Ca dao)
Hai chữ con mèo, con chó, và cả câu ca dao không có đối tượng. Ai chả biết cây tre có mắt, và nồi đồng (miền Trung) có quai ? Vậy nói ở đây, không phải là để nói lên cái gì, mà để được cái thú nghe lời mình nói, với một câu mà mình cho là hay. Thế nào là hay, thì lại tùy người, tùy lúc, là chuyện khác.
Các nhà biên khảo đã đi đến chỗ đồng thuận : Về lý thuyết, ngôn ngữ nói chung và văn xuôi nói riêng nhằm phục vụ một đối tượng trong đời sống hàng ngày. Thơ trái lại là một ngôn ngữ tự lấy mình làm đối tượng. Về thực tế, khi đưa quan niệm này vào việc phân tích thi ca chúng ta lại phải dè dặt, vì bài thơ là một mô hình phức tạp. Cái nhìn khoa học không những cần phân tích hợp lý, mà còn cần tổng hợp nhất quán ; lối nhìn đó là cần, nhưng chưa đủ để nắm bắt câu thơ.
Nói thơ là một ngôn ngữ tự tại không có nghĩa rằng : thơ không cần có ý nghĩa. Vì một từ ngữ, một câu bao giờ cũng có nghĩa nếu nó muốn là ngôn ngữ. Không làm gì có câu nói thật sự vô nghĩa.
Cũng không hàm ý rằng thơ không tương quan gì đến thực tế nhất là thực tại xã hội. Không thể cô lập một câu thơ, và con người với xã hội, tách nó ra khỏi đời sống. Đây là hai điểm chính yếu, ta không nên ngộ nhận.
Những câu thơ ta cho là hay, dễ nhớ vẫn là những câu có nghĩa, có ý, có tình. Ở tây phương, đã có nhiều trường phái chủ trương thơ vô nghĩa, đều bị bế tắc. Câu thơ phải có nghĩa mới là câu nói, mới làm ta chú ý. Ta có chú ý rồi mới thấy hay, càng đọc càng thấy hay, lâu ngày nhớ lại vẫn thấy hay. Nhưng câu thơ hay đó tuy có ý nghĩa, nhưng không hay vì ý nghĩa, mà hay vì hơi nói, giọng nói. Khi câu thơ hay vì ý nghĩa thì nó có cái hay của văn xuôi (beauté prosaique), như một lời văn hoa mỹ, một lời nói khéo, ví dụ câu này của Hàn Mạc Tử:
Sao bông phượng nở trong màu huyết,
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu.
Câu thơ này dịch ra tiếng nước ngoài không khó, vì nhiều tu từ pháp, tiếng nước nào cũng có sẵn.
Nói khác đi, tương quan lời/ý, cái biểu hiện/cái được biểu hiện, (signifiant/signififié) bị đảo lộn : trong lời nói thường và văn xuôi, lời là phương tiện của ý, “được ý phải quên lời, như được cá quên nơm” (Trang Tử). Trong thơ, ý là phương tiện của lời trên hai phương diện : trong cấu trúc, ý nâng lời, tạo tương quan cho từ ngữ ; ngoài cấu trúc ý làm môi giới giữa lời thơ và người đọc, người nghe. Câu thơ không có ý thì không có xương sống và không có độc giả, thơ không ý “như thuyền không lái, như ngựa không cương”, nhưng lái không phải là thuyền, cương chỉ là thành phần không chính yếu của ngựa. Thơ hay không phải tại ý, như ngựa thiên lý không phải nhờ vào giây cương, cho dù giây cương là cần thiết. Vì vậy mà thơ xưa từ Đông sang Tây, quay chung quanh các đề tài tuyết nguyệt phong hoa. Điều chính yếu trong thơ không phải là nói cái gì, mà là nói ra sao.
Vì trong thơ, ý là phương tiện của lời, nên người bình giảng thơ cần đặt lại chính xác quan hệ nội dung và hình thức. Nhất là khi bình giảng thơ trong nhà trường. Các thầy giáo, cô giáo từ bậc tiểu học phải biết dạy thơ. Con em lớn lên mới biết yêu thơ, xã hội mới có thơ hay. Và đời sống con người tinh tế hơn.
Theo lối giảng thông thường của sách giáo khoa, thì nội dung của bài Thu điếu của Nguyễn Khuyến là việc đi câu cá mùa thu. Đúng không ? dụng tâm của Nguyễn Khuyến khi làm bài thơ ấy có phải là để kể chuyện đi câu ? hay ông chỉ mượn việc đi câu, mượn luôn cả cảnh ao thu, để làm một bài thơ đẹp ? Phái duy lý có thể bẻ lại : Nguyễn Khuyến làm bài thơ đó để nói lên tâm hồn kẻ sĩ ; vì tâm hồn cao đẹp nên bài thơ hay. Nghe không ổn, vì có phải thánh nhân đều là thi sĩ cả đâu . Và bao nhiêu thi sĩ Tư Mã Tương Như, Baudelaire chẳng hạn, là kẻ tầm thường, có khi còn tội lỗi. Vả lại, anh thích bài thơ đó, vì anh thích đi câu, anh thích mùa thu, hay vì bài thơ đó hay ? Tóm lại, nội dung của bài thơ Thu điếu là bản thể của lời thơ, hình thức của nó là ao thu, phương tiện của nó là đi câu.
Nói như thế có vẻ nghịch với lẽ thường. Nhưng chính thơ là ngôn ngữ nghịch với lẽ thường. Vầng trăng làm sao mà “sẻ làm đôi” được ? Làm sao có thể “gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao” được ? Thi sĩ là kẻ phá vỡ tương quan của ý tưởng và thay thế vào đó tương quan của từ ngữ. Sự hoán chuyển phương tiện – mục đích, vẫn thường xảy ra trong thực tế ; trở lại với thí dụ đi câu : con rô con diếc là đối tượng của bác thợ câu, nhưng là phương tiện của ông Lã Vọng, đi câu là để đi câu. Cô hái chè lúc vươn tay thì cành chè là đối tượng ; cô đứng chụp hình, tay vươn cành chè, thì cành chè là phương tiện để cô có bức hình đẹp. Cô đứng tự nhiên thì bức hình không tự nhiên, phải giả vờ vin vào cái gì đó thì bức hình mới tự nhiên. Ngôn ngữ thơ cũng vậy : nói tự nhiên, thì không ra thơ, phải nói một cách nào đó thì mới là thơ. Những câu thơ “tự nhiên thiên thành”, cũng tự nhiên một cách nào đó, trong một bối cảnh nào đó.
Bảo rằng thơ là cách nói, thi sĩ làm thơ để làm thơ, như kẻ đi câu để đi câu, không cần cá, phải chăng là từ chối mọi quan hệ giữa thơ và thực tế xã hội ? Không phải vậy, những thi sĩ lớn cũng như những lý thuyết gia ngày nay, không còn mấy ai chủ trương hình thức vị hình thức.
Thơ có đặc tính riêng, nhưng vẫn bắt nguồn từ xã hội và phục vụ xã hội. Bắt nguồn và phục vụ bằng cách nào thì tùy hoàn cảnh cá nhân, hoàn cảnh xã hội, và tùy chế độ chính trị, xưa cũng như nay.
Thơ bắt nguồn từ thực tế vì phải sử dụng ngôn ngữ hàng ngày dù để chế biến, xáo trộn, vì ngôn ngữ vốn là phản ánh của đời sống. Thơ lại sử dụng những tình ý của con người, thì dù muốn dù không cũng phản ánh xã hội. Những thi phẩm lớn của ta, như Kiều, Cung Oán, Chinh Phụ Ngâm, đều mang ít nhiều đặc tính của xã hội. Gần chúng ta hơn, những nhà thơ tiền chiến “mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây” gặp lúc kháng chiến cũng đã “đốt cháy trong lòng mình những phong cảnh cũ” như lời Nguyễn Tuân, để chiến đấu và sáng tác. Gần hơn nữa, nhà thơ say Vũ Hoàng Chương đã từng sống giữa lòng đời như “cắm thuyền sông lạ”, năm 1963, đã đốt lên ngọn Lửa Từ Bi hùng tráng để soi sáng cho cuộc đổi thay xã hội.
Và nhìn chung thơ Hy Lạp, thơ Tàu, thơ Tây đều mang đặc tính xã hội.
Thơ không những chỉ phản chiếu tiêu cực mà còn ảnh hưởng tích cực đến tâm hồn con người. Bỏ qua quan niệm “thi dĩ ngôn chí” và “văn dĩ tải đạo”của nhà Nho, bỏ qua luôn quan niệm thơ phải phục vụ trực tiếp quần chúng, chúng ta vẫn gặp những nhà thơ lớn ca ngợi giá trị đạo lý của nhân loại từ Khuất Nguyên qua Đỗ Phủ, cho đến Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyến. Những tác phẩm được truyền tụng là những bài Quy Khứ Lai Từ của Đào Tiềm, thơ lánh đời của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Còn thơ xu phụ quyền thế của 28 vì sao trong Tao Đàn thì không mấy ai biết tới. Trong khuôn khổ của xã hội phong kiến và tư tưởng nho giáo khe khắt, thơ vẫn không chịu gò bó trong tam cương ngũ thường, mà vươn tới cái đạo lớn của nhân loại, ca ngợi cái hùng, cái vĩ, bênh vực kẻ yếu, tố cáo bất công. Khi nói đến tình yêu trai gái, thơ gạn lọc tình cảm, cho nên những đoạn Kinh Thi ướt át nhất vẫn ngay thẳng như lời Khổng Tử. Bản chất thơ phải “tư vô tà”, đó cũng là một đặc tính chung cho các bộ môn văn nghệ khi vươn lên làm văn hóa, văn minh.
Vì thế ngày nay tại các nước công nghiệp tiên tiến, thơ vẫn là một bộ môn quan trọng trong chương trình giáo dục, nhất là cấp tiểu học. Trẻ em học thơ để yêu tiếng nói, rồi từ đó yêu quê hương, loài người và cuộc sống.
Dân tộc Việt Nam vốn yêu thơ, thưởng thức thơ từ lúc nằm nôi, nếu thi ca đóng đúng vai trò của nó dĩ nhiên là sẽ có tác dụng rộng lớn.
Để kết luận, xin mượn lời Jakobson : “ Thi ca, so với những giá trị xã hội khác, tuy không vượt bực, không lấn lướt, vẫn là thành tố cơ bản của ý thức hệ, luôn luôn quy về một đối tượng. Thơ giúp ta khỏi trở thành máy móc, bảo vệ chúng ta chống lại sự han rỉ đang hăm dọa những công thức về tình yêu và thù hận, về phản kháng và hòa giải, về đức tin và phủ nhận” [10].
Về những đóng góp của Jakobson xin đọc bài tiếp theo.
Đặng Tiến
Dieppe, 7-1973,
đọc lại, Orléans 12- 2008
Phụ chú 12-2008
Sách chuyên đề tiếng Việt sau 1973 , đã xem lại :
- Hà Minh Đức : Thơ và mấy vấn đề…. 1974
Một thời đại trong thơ ca 1996,
và nhiều sách khác
- Phan Cự Đệ : Phong trào thơ mới 1982,
Văn học Việt Nam 2004
- Phan Ngọc : Phong cách Nguyễn Du 1985,
- và nhiều sách khác.
- Nguyễn Phan Cảnh : Ngôn ngữ thơ 1987
- Nguyễn Hưng Quốc : Tìm hiểu nghệ thuật thơ 1988
Nghĩ về thơ 1990
- Mai Ngọc Chừ : Vần thơ Việt Nam 1991
- Nguyễn Xuân Kính : Thi pháp ca dao 1992
- Lê Đình Kỵ : Thơ mới… 1993
- Thụy Khuê : Cấu trúc thơ 1995
- Nguyễn Bá Thành : Tư duy thơ 1996.
- Hữu Đạt : Ngôn ngữ thơ Việt nam 2000
- Trần Đình Sử : Văn học và Thời gian, 2001.
- Trần Đức Các1995 ; Nguyễn thái Hòa 1997 ; Phan Diễm Phương 1998,
về thi pháp trong văn học dân gian
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Bremond, La Poésie Pure, nxb Grasset, Paris 1926
[2] Tạp chí L’Homme, số II, 1,1962, in lại trong Questions de Poétique, Roman Jakobson, nxb Le Seuil, Paris, 1973, tr. 401-419.
[3] Nguyễn văn Trung, Lược Khảo Văn Học, cuốn 2, Nam Sơn xuất bản, 1965, tr. 72-82. Sàì gòn
[4] Sđd, tr. 16-34.
[5] In lần đầu tại Prague, 1921, in lại trong Questions de Poétique, Sđd, tr. 14, và trong tạp chí Poétique, số đặc biệt về Jakobson, Paris, 7-1971, tr.290.
[6] Jakobson, Questions …, sđ d, tr. 16 ; tạp chí Poétique ,s đ d tr.290. Tôi chỉ chú nguyên văn những đoạn chính.
7Jakobson, Co-je poésie, Prague 1933-1934, in lại trong Poétique, sđd, tr. 308, và trong Questions de Poétique, sđd, tr. 124.
[8] Levi-Strauss, Anthropologie Structurale, tr 70, Plon, Paris 1958, Claude Lévi-Strauss nói « cuối cùng sót lại… xưa kia » vì muốn truy nguyên nguồn gốc và cơ cấu của ngôn ngữ, qua cơ cấu tổ chức thị tộc và hôn nhân các xã hội cổ sơ của Phi Châu, Nam Mỹ, vì theo ông liên hệ thị tộc và hôn nhân cũng là ngôn ngữ.Chữ « giá trị » ông dùng theo nghĩa đơn vị để trao đổi.
[9] A.J.Greimas, Essais de Sémiotique Poétique, nxb Larousse, Paris 1962, trang đầu.
[10] Questions de Poétique, Sđ d, tr. 125.
bài của Đặng Tiến
21/1/10
Đặng Tiến - Thơ Miền Nam trong thời chiến
Thơ Miền Nam trong thời chiến
Đặng Tiến
Thơ Miền Nam trong thời chiến[1] là một cuốn sưu tập thơ đồ sộ, dày 850 trang, quy tụ hơn 260 tác giả, người còn kẻ mất, nơi quê hương hay hải ngoại. Có người qua đời trên chiến trường giữa tuổi thanh xuân. Sách do Thư Ấn Quán sưu tập và phổ biến, do nhà văn Trần hoài Thư và bè bạn dày công tầm nã từ những trang báo cũ ngày nay ly tán. Lời nhà xuất bản :
”Đây là những trang thơ được sưu tập từ một thời kỳ đen tối của quê hương, khởi điểm bằng lệnh tổng động viên và chấm dứt bằng ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Hy vọng tập sách này là một nguồn tài liệu giúp cho những nhà phê bình văn học, những người nghiên cứu văn học sử, và những ai chưa có dịp tiếp cận với nền văn chương Miền Nam trong thời chiến tranh để họ có cái nhìn rõ và đúng đắn hơn về một dòng văn chương tình tự, rất là tự do, khai phóng, sáng tạo và nhân bản”.
Sưu tập không phải là tuyển tập, không có chọn lọc ý thức về mặt nghệ thuật hay quan điểm. Dĩ nhiên là tính khách quan bao giờ cũng tương đối: đã sưu tầm, thì mặc nhiên phải có lựa chọn, dù chỉ trong tâm cảm hay tiềm thức. Nhưng quý hồ là người sưu tầm không có thành kiến hạn hẹp.
Như vậy, cuốn sưu tập phong phú, đa dạng và có nhiều ưu điểm, xin khuyên ngay một điểm hồng và một điểm son.
Điểm hồng: non ngàn bài thơ không có bài nào thật dở. Công bình mà nói, ở đời, thơ dở bao giờ cũng nhiều hơn thơ hay.
Điểm son: khi nghe đến “thời chiến” người ta nghĩ ngay đến chiến tranh, chiến đấu chống cái gì. Sách sưu tập không có bài thơ nào tuyên truyền, thỉnh thoảng có đôi chữ “quân thù” trong nghĩa đối phương, đối thủ, tự nhiên phải có trong chiến cuộc.
Nhà văn Phạm văn Nhàn, người cùng góp công vào công trình, đã viết :
“ Với hằng trăm bài thơ mà chúng tôi đã tìm được của hơn 200 nhà thơ trước 1975. Họ là ai ? Là nhà báo, là thầy giáo, là công chức, là quân nhân (đa phần bị gọi nhập ngũ). Nhưng qua những bài thơ của những nhà thơ trước 1975 hầu hết là quân nhân không bao giờ mang tính cách hận thù hay kích động hận thù trong lòng người đọc, đó là nhân bản. Mà thơ họ vẫn nói lên được: thân phận, chiến tranh, tình yêu đích thực của một nền văn học” [2].
Lại công bình mà nói: Miền Nam thời đó, không phải là không có thơ tuyên truyền, nhưng vì không mấy người ưa, không mấy ai nhớ, ban sưu tập không ghi lại, cũng là duy lý.
Tuy nhiên, nếu nhất thiết phải tìm cho ra một lập trường chính trị cho thơ Miền Nam, thì nó là: khát vọng hòa bình, khát vọng này mang theo những hệ luận: tình yêu quê hương, gia đình, vợ chồng, nam nữ, bạn bè, đồng đội. Dường như không có một ngoại lệ nào qua sưu tập. Một “lập trường” như thế dĩ nhiên là “nhân bản” và cao quý. Nhưng người yêu nền thơ nọ không phải vì cái nhân bản kia, mà vì thơ hay, hoặc vì nhiều đặc điểm lý thú. Ngày nay, nếu các bạn nêu cao ngọn cờ “nhân bản tự do” thì ra chỗ “tránh vỏ dưa đạp phải vỏ dừa”. Cái bẫy bên trái hay bên phải vẫn là cái bẫy.
Khi anh dùng thơ để phục vụ hay biện minh cho cái gì đó, thì khó có được thơ hay.
Khi được câu thơ hay thì không những là biệt lệ, mà cái hay không ăn nhập gì vào ý đồ của anh, thậm chí có khi còn đi ngược lại.
Năm 1966, chiến tranh Việt Nam lên cao điểm, nhà thơ Kiệt Tấn cho in tập thơ Điệp Khúc tình yêu và trái phá, cái tên rất nổ, trong đó bài Biết bao giờ, bắt đầu và kết thúc như sau :
Khi hơi thở vàng về đậu lên màu đỏ
màu đỏ về đậu trên cây điệp
cây điệp về đậu trên ký ức
(…)
hãy nằm im
và đừng hỏi
tại sao
đừng hỏi tại sao
những con ruồi say nắng
rụng cánh
nằm chết
trên bàn tay ấm áp của mùa hè
(tr.222)
Bài thơ hay, tân kỳ và độc đáo, vì tác giả không biện minh cái gì cả. Chỉ là mùa hè đang về trong tâm tưởng. Câu thơ hay như một cành hoa dại, nở tung trong một khí hậu, không gian thơ. Cần một không gian, một khí hậu, mới thể hiện được hồn thơ, bừng nở câu thơ.
Tham vọng của sách Thơ Miền Nam trong thời chiến là ghi lại những tác phẩm đang xiêu lạc, của một số tác giả ít được biết đến, mai kia sẽ chìm trong quên lãng. Nó là “nguồn tài liệu cho những nhà phê bình, những người nghiên cứu”.
Tham vọng cũng là tâm vọng của người biên tập “suốt cả mấy trăm trang với trên 220 tác giả, ngồi đánh lại như gõ ngay vào chính tim mình những điều đau buốt lẫn bồi hồi. Tội tình cho cả một thế hệ. Chiến tranh nào có gì vui” [3].
Tham vọng không những đã thành tựu mà còn được vượt qua: cuốn sưu tập không những là một nguồn văn liệu, nghĩa là những văn bản chết, một văn miếu. Nó còn là một nguồn sống cho thơ. Nó tạo được chất thơ cho đời sống, như dưỡng khí cho cỏ cây. Nguồn thơ đích thực gặp địa lý thuận lợi sẽ thành sông thành biển; nhưng gặp nghịch cảnh, có khi đành lẩn khuất vào mô đất nọ để một mai tái hiện nơi núi đồi kia.
Những ai, như tôi, nghĩ rằng thơ cần cho đời sống, là thành phần của đời sống, sẽ cùng tôi biểu dương công trình, và công tình, của ban sưu tầm và biên tập; việc làm của các bạn đã đưa đến những thành quả vượt quá dự án. Những “hiệu ứng cánh bướm” có thể các bạn thoạt kỳ thủy không nghĩ đến.
*
Đã là thơ thời chiến thì phải nói đến chiến tranh. Vậy thơ ấy nói gì về khói lửa ? Xin lấy bài Phan Xuân Sinh làm ngày Tết 1972, Uống rượu với người lính Bắc Phương làm tiêu biểu :
Hãy rót cho ta thêm cốc nữa đi
Ngồi với bạn hôm nay làm ta hứng chí
Chuyện ngày mai có chi đáng kể
Dẹp nó đi cho khỏi bận tâm
Thằng lính nào mà không rét lúc ra quân
Khi xung trận mà không té đái
(…)
Những thằng lính thời nay không mang thù hận
Bạn hay thù chẳng có một lằn ranh
(tr. 592)
Tò mò tôi hỏi: thời điểm 1972, chiến cuộc tàn khốc, sao có chuyện nhậu nhẹt ? Và được nhà thơ trả lời : Chuyện xảy ra tại huyện Dục Đức, tỉnh Quảng Nam, vào ngày Tết. Hai bên hưu chiến da beo, mỗi đơn vị giữ nguyên vị trí, ngưng bắn để ăn Tết. Bỗng dưng có tiếng bên kia chúc Tết bên này, và bên này đáp lại. Thế là Phan Xuân Sinh hứng chí làm bài thơ trên. Bữa tiệc chỉ xảy ra trong tâm tưởng – vì như vậy bài thơ mới có giá trị tinh thần. Chén rượu rót vào thực tại, lại là chuyện thường tình giữa những người lính… say.
Gặp địch quân nam phái thì nhậu. Gặp đối phương khác phái thì… làm gì ? Nhà thơ Linh Phương, nổi tiếng với bài Kỷ vật cho Em được Phạm Duy phổ nhạc, đã kể trong bài Hành Quân :
Dăm thằng đánh trận. Dăm thằng chết
Chỉ sót mình ta cứ sống nhăn
Đù má, nhiều khi buồn hết biết
Lo mãi sau này cụt mất chân.
Chiều qua sém chết vì viên đạn
Du kích bên sông bắn tỉa hù
Cũng may gặp phải thằng cà chớn
Thấy mặt ta ngầu bắn đéo vô.
Nhớ hôm bắt được em Việt cộng
Xinh đẹp như con gái Sài gòn
Ta nổi máu giang hồ hảo hán
Gật đầu ra lệnh thả mỹ nhân.( !)
(tr. 296)
Trong từ vựng này, cà chớn, giang hồ, hảo hán, cùng một nội hàm.
Dĩ nhiên những thái độ buông thả nói trên không tiêu biểu cho cuộc chiến ác liệt, hay tinh thần chiến đấu, hay kỹ thuật và kỷ luật quân sự của quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng nó là sắc thái đặc biệt của một tâm lý. Tâm lý ấy là nhược điểm trên bản đồ quân sự, mà là ưu điểm trên trang thơ, bằng cớ là hơn một ngàn năm nay, người ta ngợi ca, ngâm nga mãi câu túy ngọa sa trường quân mạc tiếu của Vương Hàn; say sưa như vậy nhất định ông không phải là một quân nhân thiện chiến.
Thơ về chinh chiến, xưa nay không ai theo kịp Đỗ Phủ, được người người đời đời xưng tụng, nhưng không phải là thơ hô hào chiến đấu. Việt Nam, cho dù có thật là “đỉnh cao trí tuệ của loài người” cũng không thể tự đặt mình làm ngoại lệ, nói khác đi, sẽ làm trò cười cho thiên hạ.
Lẽ thường trong chiến tranh là thắng hay bại. Điều lạ trong tập thơ này là không có chiến thắng, dù trong mơ ước hay ngông nghênh. Ngược lại trong Kỷ vật cho Em, Linh Phương hẹn với người yêu: mai mốt anh về, không bằng chiến thắng… Mai anh về trên đôi nạng gỗ, bại tướng về làm gã cụt chân, thậm chí còn có thể là: hòm gỗ cài hoa [4]. Hồ Minh Dũng, với bài Khi giải ngũ về, đã nhắn nhe với người tình, hay người vợ :
Còn ba năm nữa anh sẽ về
anh biết chắc không còn quê hương để ở
em gắng sắm cho anh một cây đàn bầu
làm bằng nắp hòm người lính nghèo
chết ngoài mặt trận
anh sẽ đàn cho mọi người cùng nghe
mà không xin tiền
chỉ tìm lại những đôi mắt trân tráo
những bước chân đi qua vỉa hè
với nụ cười
mà nhiều năm anh đã mất
(tr. 149)
Những lời thơ bi thảm như vậy, so với thực tế sau này, vẫn còn là lạc quan, thậm chí hoang tưởng: sau chiến tranh, chắc gì trên vỉa hè, còn được tiếng đàn bầu và nụ cười? Nhưng trên vỉa hè, sẽ có (nhiều) người xin tiền.
Khát vọng thiết thân thời đó là hòa bình, như lời người mẹ, trong bài Đêm Giáng sinh ở Việt Nam, vẫn của Hồ Minh Dũng :
Dù chỉ một ngày ngưng bắn đó con
cũng đem chiếc áo lành ra mặc
cũng ăn một bữa cơm cho no
cũng ngủ một giấc trên giường trên chiếu
khổ đau lúc này mẹ gói trong mo
Chữ hòa bình, ta sử dụng ngày nay, là bình thường, thậm chí là quy luật, sau chiến tranh. Nhưng thời đó là viễn vọng, là huyền thoại, như những bồng lai, địa đàng:
Xin hãy đến đây đi
hỡi hòa bình lạ mặt yêu dấu
sao người cứ kiêu hãnh như giai nhân
hoài hoài lỗi hẹn
khi tuổi xuân chúng tôi chỉ có một lần
làm sao chờ được trăm năm
mà đến trăm năm còn gì xương máu anh em
Hà thúc Sinh, Xin hãy đến, hòa bình (tr.124)
Hòa bình là giấc mơ không tưởng, con người lúc ấy, như Nguyễn Bắc Sơn, chỉ dám mơ ngày ngưng chiến [5] :
Mai kia trong những ngày ngưng chiến
ta chắc rằng không thể yêu ai
nhà thương điên nếu còn chỗ trống
xin chiếc giường cho xác tàn phai
(tr.383)
Trong bài Căn bệnh trong thời chiến này, Nguyễn Bắc Sơn nói về mẹ :
Mày gửi một chân ngoài trận mạc
Mang về cho mẹ một bàn chân
Mẹ già khóc đến mù hai mắt
Đời tàn theo lứa tuổi thanh xuân.
Mẹ là tình thương muôn nơi, là thần tượng muôn đời. Nhưng trong chiến tranh – và cuộc chiến Việt Nam này – người mẹ có khuôn mặt riêng. Chỉ vài mươi năm, nó đã xa hình ảnh bình an, xa màu “áo đỏ người đem trước dậu phơi” của Lưu Trọng Lư hay người mẹ ngồi “vá bên chiếc rổ thơm mùi cũ” của Tế Hanh.
Nguyễn Dương Quang trong bài Đêm cuối năm viết cho Má :
Hình như cây súng con lạ lắm
Sao nó run lên khi đạn lên nòng
Tâm hồn nó như tâm hồn con vậy
Một kẻ nằm, kẻ đứng, xót xa không ?
Trước mặt con: những ngọn đồi cát máu
Đêm thì thầm cùng những nấm xương
Ôi, trái tim con mãi tôn thờ má
Đã dạy con hai tiếng yêu thương
Từ má lỏng bàn tay dìu dắt
Con bơ vơ giữa cuộc phù sinh
Dòng nước nào xa nguồn mà không đục
Sợ một mai con lạc dấu chân mình
(tr. 410)
Tác giả ít được biết đến, nhưng bài thơ hay quá, chất trí tuệ quyện vào tâm huyết, hồn nhiên mà điêu luyện. Tình cảm chìm chìm mà ý tứ lâng lâng. Trong sáng, sao mà u uất? Thơ đích thực là điều đơn giản kỳ diệu “có nói cũng không cùng”.
*
Đã vậy, đành vậy, Thơ Miền Nam trong thời chiến, trong tất cả bề thế của nó, nếu muốn “gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay”, ta có thể thu lại trong bốn chữ: “Thơ Lính Học Trò”, với tất cả nội hàm sâu lắng của mỗi chữ.
Thơ đây là thơ, đích thực, chân chính, không phải là lời nói hoa mỹ, bắt thành vần vè. Thi nhân không phải là người thông minh, uyên bác, sâu sắc, tài hoa, cho dù họ có thể có đủ các đức tính ấy, hoặc ngược lại, không được cái nào cả. Họ là một bộ tộc riêng, du mục trong thành phố, hay “đầu thai nhầm thế kỷ” như ta thường nghe nói.
Thơ là một phẩm chất của tâm hồn, trong cuộc sống, và cuối cùng là của ngôn ngữ. Là thành phần cuộc sống, thơ phản ảnh thời thế nhưng không phải là sản phẩm của thời thế, nhất là của một chế độ, bất cứ chế độ nào.
Thế còn “Lính Học Trò” là thế nào? Là cậu học sinh, từ sân trường bước ngay vào quân trường, chiến trường, nhiều khi chưa kịp kinh qua cuộc sống xã hội, trong các quan hệ nghề nghiệp, tình yêu, hôn phối.
Trong mỗi cậu học trò mười lăm, mười bảy, đã có một người lính mai phục đợi chờ. Và trong mỗi người lính về sau, vẫn còn cậu học trò ẩn náu, dở dang. Lính học trò là vậy. Lính học trò, trên đường hành quân với Nguyễn Bắc Sơn:
Dừng chân nơi đây nói chuyện tiếu lâm chơi
Hãy tựa gốc cây, hãy ngắm mây trời,
Hãy tượng mình đang đi picnic…
(tr.377)
Họ làm thơ, tuổi mười lăm mười bảy, gọi là “làm văn nghệ” trên báo nhà trường, báo địa phương. Làm thơ như một tâm thế, một lối ứng xử với đời. Không phải để thành danh, hay đi vào lịch sử văn học. May mắn có bài thơ, cái truyện đăng “báo Sài Gòn” là tràn nhau bữa rượu. Rồi thôi, vậy thôi, cùng lắm là có chút tự hào với người bạn gái chưa bao giờ dám hẹn hò trong cuộc đời không thấy ngày mai.
Rồi đời đã bắt kẻ làm thơ đi làm lính, họ bước chân vào chiến cuộc, mang trong đầu những ý nghĩ trong veo / xem cuộc chiến như tai trời ách nước, như lời Nguyễn Bắc Sơn (tr. 376 và 378).
Và không biết bao nhiêu người đã gục ngã giữa tuổi xuân xanh, khi vừa mới bước vào chiến trường, như nhà thơ Hoài Lữ, tử trận khi tập thơ Mắt cỏ vừa xuất bản, 1963, mà ban sưu tập có lẽ vì không tìm ra nên không nhắc đến.
Tôi nhớ mãi mấy câu thơ Hà Nguyên Thạch, làm khoảng 1970, không có trong sưu tập :
Còn những chén rượu sầu lòng chưa uống cạn
Nên làm thơ còn có nghĩa chờ say
Lúc say khướt sẽ quay cuồng hoài vọng
Chạy quanh đời nghe hồn nhẹ như mây
Từ đó, tôi có thể nói: thơ là một tâm thế, một cách ứng xử với đời, đa đoan và hạn hẹp, một lối quản lý thời gian, xử lý không gian, và phản ứng với nhân gian. Có lẽ ở đâu, thời nào, thơ đích thực cũng vậy thôi, nhưng tại Việt Nam, thời ấy nó là một bức bách của một thế hệ, nó vừa hiện hữu (existentiel), vừa thiết yếu (essentiel).
Bắt đầu nền thơ này là chuyện văn nghệ, trao đổi, thù tạc giữa bạn bè, nhưng sau cùng trở thành huyết mạch của một thế hệ, mà Trần Hoài Thư gọi là “tội tình”. Vì đã bị lịch sử làm tình làm tội. Có thế mới hiểu vì sao, khi đánh máy lại những bài thơ cũ, ba, bốn mươi năm sau, anh còn thấy “như gõ vào chính tim mình những niềm đau buốt”». Và người đọc ngày nay, nhất định đâu đây còn có người thấu hiểu và chia sẻ niềm đau buốt ấy. Làm sao cho sưu tập này, và tấm lòng kia đến tay người nọ?
Vì vậy Thơ Miền Nam trong thời chiến không chỉ là nguồn tư liệu – một nghĩa trang – văn học. Nó là cuộc sống đang thao thức và thao thiết, là nguồn thơ dù đổi địa hình hay khí hậu, vẫn tiếp tục, âm thầm, đâu đó, bồi dưỡng cho đời sống văn học.
Và cho đời sống nữa chứ.
Chẳng riêng gì đời sống của những chúng ta.
ĐẶNG TIẾN
13/10/2006
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Thư Ấn Quán xuất bản, địa chỉ TQBT, P.O. Box 58 – South Boundbrook, NJ 08880, USA
email : tranhoaithu@verizon.net
[2] Phạm văn Nhàn, Thư Quán Bản Thảo, tr. 8, số 25, tháng 10-2006, New Jersey. USA
[3] Trần hoài Thư, Thư Quán Bản Thảo, số 25 đã dẫn, tr. 13.
[4] Linh Phương, Kỷ vật cho Em, 1971, tập thơ, Thư Ấn Quán tái bản, sách in để biếu tặng, 2006, New Jersey.
[5] Nguyễn Bắc Sơn, tập thơ, Chiến tranh Việt Nam và Tôi, 1971, Thư Ấn Quán tái bản, sách in để biếu tặng, 2005, New Jersey.USA
-------------
Đặng Tiến
Đặng Tiến
Thơ Miền Nam trong thời chiến[1] là một cuốn sưu tập thơ đồ sộ, dày 850 trang, quy tụ hơn 260 tác giả, người còn kẻ mất, nơi quê hương hay hải ngoại. Có người qua đời trên chiến trường giữa tuổi thanh xuân. Sách do Thư Ấn Quán sưu tập và phổ biến, do nhà văn Trần hoài Thư và bè bạn dày công tầm nã từ những trang báo cũ ngày nay ly tán. Lời nhà xuất bản :
”Đây là những trang thơ được sưu tập từ một thời kỳ đen tối của quê hương, khởi điểm bằng lệnh tổng động viên và chấm dứt bằng ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Hy vọng tập sách này là một nguồn tài liệu giúp cho những nhà phê bình văn học, những người nghiên cứu văn học sử, và những ai chưa có dịp tiếp cận với nền văn chương Miền Nam trong thời chiến tranh để họ có cái nhìn rõ và đúng đắn hơn về một dòng văn chương tình tự, rất là tự do, khai phóng, sáng tạo và nhân bản”.
Sưu tập không phải là tuyển tập, không có chọn lọc ý thức về mặt nghệ thuật hay quan điểm. Dĩ nhiên là tính khách quan bao giờ cũng tương đối: đã sưu tầm, thì mặc nhiên phải có lựa chọn, dù chỉ trong tâm cảm hay tiềm thức. Nhưng quý hồ là người sưu tầm không có thành kiến hạn hẹp.
Như vậy, cuốn sưu tập phong phú, đa dạng và có nhiều ưu điểm, xin khuyên ngay một điểm hồng và một điểm son.
Điểm hồng: non ngàn bài thơ không có bài nào thật dở. Công bình mà nói, ở đời, thơ dở bao giờ cũng nhiều hơn thơ hay.
Điểm son: khi nghe đến “thời chiến” người ta nghĩ ngay đến chiến tranh, chiến đấu chống cái gì. Sách sưu tập không có bài thơ nào tuyên truyền, thỉnh thoảng có đôi chữ “quân thù” trong nghĩa đối phương, đối thủ, tự nhiên phải có trong chiến cuộc.
Nhà văn Phạm văn Nhàn, người cùng góp công vào công trình, đã viết :
“ Với hằng trăm bài thơ mà chúng tôi đã tìm được của hơn 200 nhà thơ trước 1975. Họ là ai ? Là nhà báo, là thầy giáo, là công chức, là quân nhân (đa phần bị gọi nhập ngũ). Nhưng qua những bài thơ của những nhà thơ trước 1975 hầu hết là quân nhân không bao giờ mang tính cách hận thù hay kích động hận thù trong lòng người đọc, đó là nhân bản. Mà thơ họ vẫn nói lên được: thân phận, chiến tranh, tình yêu đích thực của một nền văn học” [2].
Lại công bình mà nói: Miền Nam thời đó, không phải là không có thơ tuyên truyền, nhưng vì không mấy người ưa, không mấy ai nhớ, ban sưu tập không ghi lại, cũng là duy lý.
Tuy nhiên, nếu nhất thiết phải tìm cho ra một lập trường chính trị cho thơ Miền Nam, thì nó là: khát vọng hòa bình, khát vọng này mang theo những hệ luận: tình yêu quê hương, gia đình, vợ chồng, nam nữ, bạn bè, đồng đội. Dường như không có một ngoại lệ nào qua sưu tập. Một “lập trường” như thế dĩ nhiên là “nhân bản” và cao quý. Nhưng người yêu nền thơ nọ không phải vì cái nhân bản kia, mà vì thơ hay, hoặc vì nhiều đặc điểm lý thú. Ngày nay, nếu các bạn nêu cao ngọn cờ “nhân bản tự do” thì ra chỗ “tránh vỏ dưa đạp phải vỏ dừa”. Cái bẫy bên trái hay bên phải vẫn là cái bẫy.
Khi anh dùng thơ để phục vụ hay biện minh cho cái gì đó, thì khó có được thơ hay.
Khi được câu thơ hay thì không những là biệt lệ, mà cái hay không ăn nhập gì vào ý đồ của anh, thậm chí có khi còn đi ngược lại.
Năm 1966, chiến tranh Việt Nam lên cao điểm, nhà thơ Kiệt Tấn cho in tập thơ Điệp Khúc tình yêu và trái phá, cái tên rất nổ, trong đó bài Biết bao giờ, bắt đầu và kết thúc như sau :
Khi hơi thở vàng về đậu lên màu đỏ
màu đỏ về đậu trên cây điệp
cây điệp về đậu trên ký ức
(…)
hãy nằm im
và đừng hỏi
tại sao
đừng hỏi tại sao
những con ruồi say nắng
rụng cánh
nằm chết
trên bàn tay ấm áp của mùa hè
(tr.222)
Bài thơ hay, tân kỳ và độc đáo, vì tác giả không biện minh cái gì cả. Chỉ là mùa hè đang về trong tâm tưởng. Câu thơ hay như một cành hoa dại, nở tung trong một khí hậu, không gian thơ. Cần một không gian, một khí hậu, mới thể hiện được hồn thơ, bừng nở câu thơ.
Tham vọng của sách Thơ Miền Nam trong thời chiến là ghi lại những tác phẩm đang xiêu lạc, của một số tác giả ít được biết đến, mai kia sẽ chìm trong quên lãng. Nó là “nguồn tài liệu cho những nhà phê bình, những người nghiên cứu”.
Tham vọng cũng là tâm vọng của người biên tập “suốt cả mấy trăm trang với trên 220 tác giả, ngồi đánh lại như gõ ngay vào chính tim mình những điều đau buốt lẫn bồi hồi. Tội tình cho cả một thế hệ. Chiến tranh nào có gì vui” [3].
Tham vọng không những đã thành tựu mà còn được vượt qua: cuốn sưu tập không những là một nguồn văn liệu, nghĩa là những văn bản chết, một văn miếu. Nó còn là một nguồn sống cho thơ. Nó tạo được chất thơ cho đời sống, như dưỡng khí cho cỏ cây. Nguồn thơ đích thực gặp địa lý thuận lợi sẽ thành sông thành biển; nhưng gặp nghịch cảnh, có khi đành lẩn khuất vào mô đất nọ để một mai tái hiện nơi núi đồi kia.
Những ai, như tôi, nghĩ rằng thơ cần cho đời sống, là thành phần của đời sống, sẽ cùng tôi biểu dương công trình, và công tình, của ban sưu tầm và biên tập; việc làm của các bạn đã đưa đến những thành quả vượt quá dự án. Những “hiệu ứng cánh bướm” có thể các bạn thoạt kỳ thủy không nghĩ đến.
*
Đã là thơ thời chiến thì phải nói đến chiến tranh. Vậy thơ ấy nói gì về khói lửa ? Xin lấy bài Phan Xuân Sinh làm ngày Tết 1972, Uống rượu với người lính Bắc Phương làm tiêu biểu :
Hãy rót cho ta thêm cốc nữa đi
Ngồi với bạn hôm nay làm ta hứng chí
Chuyện ngày mai có chi đáng kể
Dẹp nó đi cho khỏi bận tâm
Thằng lính nào mà không rét lúc ra quân
Khi xung trận mà không té đái
(…)
Những thằng lính thời nay không mang thù hận
Bạn hay thù chẳng có một lằn ranh
(tr. 592)
Tò mò tôi hỏi: thời điểm 1972, chiến cuộc tàn khốc, sao có chuyện nhậu nhẹt ? Và được nhà thơ trả lời : Chuyện xảy ra tại huyện Dục Đức, tỉnh Quảng Nam, vào ngày Tết. Hai bên hưu chiến da beo, mỗi đơn vị giữ nguyên vị trí, ngưng bắn để ăn Tết. Bỗng dưng có tiếng bên kia chúc Tết bên này, và bên này đáp lại. Thế là Phan Xuân Sinh hứng chí làm bài thơ trên. Bữa tiệc chỉ xảy ra trong tâm tưởng – vì như vậy bài thơ mới có giá trị tinh thần. Chén rượu rót vào thực tại, lại là chuyện thường tình giữa những người lính… say.
Gặp địch quân nam phái thì nhậu. Gặp đối phương khác phái thì… làm gì ? Nhà thơ Linh Phương, nổi tiếng với bài Kỷ vật cho Em được Phạm Duy phổ nhạc, đã kể trong bài Hành Quân :
Dăm thằng đánh trận. Dăm thằng chết
Chỉ sót mình ta cứ sống nhăn
Đù má, nhiều khi buồn hết biết
Lo mãi sau này cụt mất chân.
Chiều qua sém chết vì viên đạn
Du kích bên sông bắn tỉa hù
Cũng may gặp phải thằng cà chớn
Thấy mặt ta ngầu bắn đéo vô.
Nhớ hôm bắt được em Việt cộng
Xinh đẹp như con gái Sài gòn
Ta nổi máu giang hồ hảo hán
Gật đầu ra lệnh thả mỹ nhân.( !)
(tr. 296)
Trong từ vựng này, cà chớn, giang hồ, hảo hán, cùng một nội hàm.
Dĩ nhiên những thái độ buông thả nói trên không tiêu biểu cho cuộc chiến ác liệt, hay tinh thần chiến đấu, hay kỹ thuật và kỷ luật quân sự của quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng nó là sắc thái đặc biệt của một tâm lý. Tâm lý ấy là nhược điểm trên bản đồ quân sự, mà là ưu điểm trên trang thơ, bằng cớ là hơn một ngàn năm nay, người ta ngợi ca, ngâm nga mãi câu túy ngọa sa trường quân mạc tiếu của Vương Hàn; say sưa như vậy nhất định ông không phải là một quân nhân thiện chiến.
Thơ về chinh chiến, xưa nay không ai theo kịp Đỗ Phủ, được người người đời đời xưng tụng, nhưng không phải là thơ hô hào chiến đấu. Việt Nam, cho dù có thật là “đỉnh cao trí tuệ của loài người” cũng không thể tự đặt mình làm ngoại lệ, nói khác đi, sẽ làm trò cười cho thiên hạ.
Lẽ thường trong chiến tranh là thắng hay bại. Điều lạ trong tập thơ này là không có chiến thắng, dù trong mơ ước hay ngông nghênh. Ngược lại trong Kỷ vật cho Em, Linh Phương hẹn với người yêu: mai mốt anh về, không bằng chiến thắng… Mai anh về trên đôi nạng gỗ, bại tướng về làm gã cụt chân, thậm chí còn có thể là: hòm gỗ cài hoa [4]. Hồ Minh Dũng, với bài Khi giải ngũ về, đã nhắn nhe với người tình, hay người vợ :
Còn ba năm nữa anh sẽ về
anh biết chắc không còn quê hương để ở
em gắng sắm cho anh một cây đàn bầu
làm bằng nắp hòm người lính nghèo
chết ngoài mặt trận
anh sẽ đàn cho mọi người cùng nghe
mà không xin tiền
chỉ tìm lại những đôi mắt trân tráo
những bước chân đi qua vỉa hè
với nụ cười
mà nhiều năm anh đã mất
(tr. 149)
Những lời thơ bi thảm như vậy, so với thực tế sau này, vẫn còn là lạc quan, thậm chí hoang tưởng: sau chiến tranh, chắc gì trên vỉa hè, còn được tiếng đàn bầu và nụ cười? Nhưng trên vỉa hè, sẽ có (nhiều) người xin tiền.
Khát vọng thiết thân thời đó là hòa bình, như lời người mẹ, trong bài Đêm Giáng sinh ở Việt Nam, vẫn của Hồ Minh Dũng :
Dù chỉ một ngày ngưng bắn đó con
cũng đem chiếc áo lành ra mặc
cũng ăn một bữa cơm cho no
cũng ngủ một giấc trên giường trên chiếu
khổ đau lúc này mẹ gói trong mo
Chữ hòa bình, ta sử dụng ngày nay, là bình thường, thậm chí là quy luật, sau chiến tranh. Nhưng thời đó là viễn vọng, là huyền thoại, như những bồng lai, địa đàng:
Xin hãy đến đây đi
hỡi hòa bình lạ mặt yêu dấu
sao người cứ kiêu hãnh như giai nhân
hoài hoài lỗi hẹn
khi tuổi xuân chúng tôi chỉ có một lần
làm sao chờ được trăm năm
mà đến trăm năm còn gì xương máu anh em
Hà thúc Sinh, Xin hãy đến, hòa bình (tr.124)
Hòa bình là giấc mơ không tưởng, con người lúc ấy, như Nguyễn Bắc Sơn, chỉ dám mơ ngày ngưng chiến [5] :
Mai kia trong những ngày ngưng chiến
ta chắc rằng không thể yêu ai
nhà thương điên nếu còn chỗ trống
xin chiếc giường cho xác tàn phai
(tr.383)
Trong bài Căn bệnh trong thời chiến này, Nguyễn Bắc Sơn nói về mẹ :
Mày gửi một chân ngoài trận mạc
Mang về cho mẹ một bàn chân
Mẹ già khóc đến mù hai mắt
Đời tàn theo lứa tuổi thanh xuân.
Mẹ là tình thương muôn nơi, là thần tượng muôn đời. Nhưng trong chiến tranh – và cuộc chiến Việt Nam này – người mẹ có khuôn mặt riêng. Chỉ vài mươi năm, nó đã xa hình ảnh bình an, xa màu “áo đỏ người đem trước dậu phơi” của Lưu Trọng Lư hay người mẹ ngồi “vá bên chiếc rổ thơm mùi cũ” của Tế Hanh.
Nguyễn Dương Quang trong bài Đêm cuối năm viết cho Má :
Hình như cây súng con lạ lắm
Sao nó run lên khi đạn lên nòng
Tâm hồn nó như tâm hồn con vậy
Một kẻ nằm, kẻ đứng, xót xa không ?
Trước mặt con: những ngọn đồi cát máu
Đêm thì thầm cùng những nấm xương
Ôi, trái tim con mãi tôn thờ má
Đã dạy con hai tiếng yêu thương
Từ má lỏng bàn tay dìu dắt
Con bơ vơ giữa cuộc phù sinh
Dòng nước nào xa nguồn mà không đục
Sợ một mai con lạc dấu chân mình
(tr. 410)
Tác giả ít được biết đến, nhưng bài thơ hay quá, chất trí tuệ quyện vào tâm huyết, hồn nhiên mà điêu luyện. Tình cảm chìm chìm mà ý tứ lâng lâng. Trong sáng, sao mà u uất? Thơ đích thực là điều đơn giản kỳ diệu “có nói cũng không cùng”.
*
Đã vậy, đành vậy, Thơ Miền Nam trong thời chiến, trong tất cả bề thế của nó, nếu muốn “gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay”, ta có thể thu lại trong bốn chữ: “Thơ Lính Học Trò”, với tất cả nội hàm sâu lắng của mỗi chữ.
Thơ đây là thơ, đích thực, chân chính, không phải là lời nói hoa mỹ, bắt thành vần vè. Thi nhân không phải là người thông minh, uyên bác, sâu sắc, tài hoa, cho dù họ có thể có đủ các đức tính ấy, hoặc ngược lại, không được cái nào cả. Họ là một bộ tộc riêng, du mục trong thành phố, hay “đầu thai nhầm thế kỷ” như ta thường nghe nói.
Thơ là một phẩm chất của tâm hồn, trong cuộc sống, và cuối cùng là của ngôn ngữ. Là thành phần cuộc sống, thơ phản ảnh thời thế nhưng không phải là sản phẩm của thời thế, nhất là của một chế độ, bất cứ chế độ nào.
Thế còn “Lính Học Trò” là thế nào? Là cậu học sinh, từ sân trường bước ngay vào quân trường, chiến trường, nhiều khi chưa kịp kinh qua cuộc sống xã hội, trong các quan hệ nghề nghiệp, tình yêu, hôn phối.
Trong mỗi cậu học trò mười lăm, mười bảy, đã có một người lính mai phục đợi chờ. Và trong mỗi người lính về sau, vẫn còn cậu học trò ẩn náu, dở dang. Lính học trò là vậy. Lính học trò, trên đường hành quân với Nguyễn Bắc Sơn:
Dừng chân nơi đây nói chuyện tiếu lâm chơi
Hãy tựa gốc cây, hãy ngắm mây trời,
Hãy tượng mình đang đi picnic…
(tr.377)
Họ làm thơ, tuổi mười lăm mười bảy, gọi là “làm văn nghệ” trên báo nhà trường, báo địa phương. Làm thơ như một tâm thế, một lối ứng xử với đời. Không phải để thành danh, hay đi vào lịch sử văn học. May mắn có bài thơ, cái truyện đăng “báo Sài Gòn” là tràn nhau bữa rượu. Rồi thôi, vậy thôi, cùng lắm là có chút tự hào với người bạn gái chưa bao giờ dám hẹn hò trong cuộc đời không thấy ngày mai.
Rồi đời đã bắt kẻ làm thơ đi làm lính, họ bước chân vào chiến cuộc, mang trong đầu những ý nghĩ trong veo / xem cuộc chiến như tai trời ách nước, như lời Nguyễn Bắc Sơn (tr. 376 và 378).
Và không biết bao nhiêu người đã gục ngã giữa tuổi xuân xanh, khi vừa mới bước vào chiến trường, như nhà thơ Hoài Lữ, tử trận khi tập thơ Mắt cỏ vừa xuất bản, 1963, mà ban sưu tập có lẽ vì không tìm ra nên không nhắc đến.
Tôi nhớ mãi mấy câu thơ Hà Nguyên Thạch, làm khoảng 1970, không có trong sưu tập :
Còn những chén rượu sầu lòng chưa uống cạn
Nên làm thơ còn có nghĩa chờ say
Lúc say khướt sẽ quay cuồng hoài vọng
Chạy quanh đời nghe hồn nhẹ như mây
Từ đó, tôi có thể nói: thơ là một tâm thế, một cách ứng xử với đời, đa đoan và hạn hẹp, một lối quản lý thời gian, xử lý không gian, và phản ứng với nhân gian. Có lẽ ở đâu, thời nào, thơ đích thực cũng vậy thôi, nhưng tại Việt Nam, thời ấy nó là một bức bách của một thế hệ, nó vừa hiện hữu (existentiel), vừa thiết yếu (essentiel).
Bắt đầu nền thơ này là chuyện văn nghệ, trao đổi, thù tạc giữa bạn bè, nhưng sau cùng trở thành huyết mạch của một thế hệ, mà Trần Hoài Thư gọi là “tội tình”. Vì đã bị lịch sử làm tình làm tội. Có thế mới hiểu vì sao, khi đánh máy lại những bài thơ cũ, ba, bốn mươi năm sau, anh còn thấy “như gõ vào chính tim mình những niềm đau buốt”». Và người đọc ngày nay, nhất định đâu đây còn có người thấu hiểu và chia sẻ niềm đau buốt ấy. Làm sao cho sưu tập này, và tấm lòng kia đến tay người nọ?
Vì vậy Thơ Miền Nam trong thời chiến không chỉ là nguồn tư liệu – một nghĩa trang – văn học. Nó là cuộc sống đang thao thức và thao thiết, là nguồn thơ dù đổi địa hình hay khí hậu, vẫn tiếp tục, âm thầm, đâu đó, bồi dưỡng cho đời sống văn học.
Và cho đời sống nữa chứ.
Chẳng riêng gì đời sống của những chúng ta.
ĐẶNG TIẾN
13/10/2006
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Thư Ấn Quán xuất bản, địa chỉ TQBT, P.O. Box 58 – South Boundbrook, NJ 08880, USA
email : tranhoaithu@verizon.net
[2] Phạm văn Nhàn, Thư Quán Bản Thảo, tr. 8, số 25, tháng 10-2006, New Jersey. USA
[3] Trần hoài Thư, Thư Quán Bản Thảo, số 25 đã dẫn, tr. 13.
[4] Linh Phương, Kỷ vật cho Em, 1971, tập thơ, Thư Ấn Quán tái bản, sách in để biếu tặng, 2006, New Jersey.
[5] Nguyễn Bắc Sơn, tập thơ, Chiến tranh Việt Nam và Tôi, 1971, Thư Ấn Quán tái bản, sách in để biếu tặng, 2005, New Jersey.USA
-------------
Đặng Tiến
Đặng Tiến : Đời và nhạc Trịnh Công Sơn
Đời và nhạc Trịnh Công Sơn
Đặng Tiến
Trịnh Công Sơn chánh quán Huế, làng Minh Hương, tổ tiên gốc Trung Hoa. Làng Minh Hương nay sát nhập vào Bao Vinh thành xã Hương Vinh. Bao Vinh là thương cảng của Huế ngày xưa.
Anh sinh ngày 28 tháng 2 năm 1939, tại Lạc Giao, tỉnh Đắc Lắc, lớn lên trong một gia đình buôn bán giữa trung tâm thành phố Huế. Nhà đông anh chị em, ba trai năm gái, mà anh là con trưởng. Tuy có thăng trầm, nhưng nói chung là khá giả.
Trịnh Công Sơn theo học chương trình Pháp, tại Trung học Pháp tại Huế, đến hết cấp 2. Năm ấy, 1955, cùng lớp có ca sĩ Kim Tước (Giáo sư Decoux, dạy khoa học, thỉnh thoảng mang đàn vĩ cầm vào lớp, đàn đệm cho học sinh hát). Lúc này Trịnh Công Sơn chơi guitare đã hay. Trường giải thể, dời vào Đà Nẵng, Trịnh Công Sơn có lúc theo học trường Thiên Hựu, Providence ở Huế. Rồi chuyển vào Sài Gòn, học tại trường Jean Jacques Rousseau. Sau đó vào học trường Sư Phạm Quy Nhơn, rồi đi dạy học vài năm tại Lâm Đồng.
Anh tự học nhạc một mình, và đã kể lại:
Thưở ấy, tôi là một đứa bé thích ca hát. Mười tuổi biết solfège, chép lại những bài hát yêu thích đóng thành tập, chơi đàn mandolin và sáo trúc. Mười hai tuổi có cây đàn guitare đầu tiên trong đời và từ đó sử dụng guitare như một phương tiện quen thuộc để đệm cho chính mình hát.
Tôi không đến với âm nhạc như một kẻ chọn nghề. Tôi nhớ mình đã viết những ca khúc đầu tiên từ những đòi hỏi tự nhiên của tình cảm thôi thúc bên trong… Đó là những năm 56-57, thời của những giấc mộng ngổn ngang, của những viễn tưởng phù phiếm non dại. Cái thời tuổi trẻ xanh mướt như trái quả đầu mùa ấy, tôi rất yêu âm nhạc nhưng tuyệt nhiên trong tôi không hề gợi lên cái ham muốn trở thành nhạc sĩ… Dạo ấy ba tôi đã mất…[1]
Những câu hỏi người tò mò có thể đặt ra: một người chỉ học trường Pháp, giáo trình Việt ngữ rất hạn chế và lỏng lẻo, khi đặt lời ca, sao có thể sử dụng tiếng Việt điêu luyện đến như thế? Thỉnh thoảng anh viết truyện ngắn, tham luận, đều xuất sắc. Bạn bè nhận được thư riêng, đều nhớ rằng Sơn chữ đẹp văn hay.
Tự học đàn hát, rồi sáng tác một mình, Trịnh Công Sơn không thuộc một nhóm sáng tác nào, như những người đi trước, như Lê Thương, Hoàng Quý trong nhóm Đồng Vọng ở Hải Phòng, như Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước trong nhóm Myosotis tại Hà Nội, nhóm Hoàng Mai Lưu tại Nam Bộ. Cũng như sau này, anh sẽ tự học vẽ một mình.
Câu hỏi tò mò thứ hai: tự học nhạc, rồi từ rất sớm đã lao mình vào đời sống sáng tác và tranh đấu, làm sao anh có thể liên tục sáng tác khoảng 600 ca khúc, phần lớn được yêu chuộng?
Nói rằng Trịnh Công Sơn là thiên tài, cũng dễ thôi. Nhưng trở thành thiên tài trên một đất nước như Việt Nam, được thừa nhận là thiên tài trong một xã hội như Việt Nam — nhất là sau cuộc đổi đời 1975 — thật không đơn giản.
Mục đích của bài này là giải thích sự hình thành của thiên tài Trịnh Công Sơn, giải mã hiện tượng Trịnh Công Sơn và tìm hiểu vị trí của Trịnh Công Sơn trên những trầm luân của đất nước, chủ yếu là khúc quanh 1975.
Chúng tôi cũng muốn cung cấp cho các nhà nghiên cứu về sau một số tư liệu rải rác đây đó, e mai đây khó kiếm, khi những than khóc và tung hô đã lắng xuống.
* *
*
Về hoàn cảnh sáng tác ban đầu, Trịnh Công Sơn đã tuyên bố với Vĩnh Xương, báo Đất Việt, năm 1985:
Đến năm 1957, tôi sáng tác, gọi là để bạn bè nghe chơi. Sau đó thấy có hứng thú sáng tác và thử viết thêm một số bài. Năm 1959, tôi viết bài Ướt Mi và được bạn bè khích lệ. Tôi mới tìm sách nghiên cứu thêm về nhạc, trao đổi thêm về nhạc lý với bạn bè. Sau đó, tôi phổ nhạc cho khoảng một chục bài thơ tình yêu (như Nhìn Những Mùa Thu Đi chẳng hạn). Năm 63, tôi có một số sáng tác khá thành công như Diễm Xưa, Biển Nhớ, Hạ Trắng. Từ đó, tôi đi vào con đường sáng tác. [2]
Và từ đó, Trịnh Công Sơn nổi tiếng.
* *
*
Khi đặt câu hỏi: sao một thanh niên, rất trẻ, chỉ học “trường Tây” mà sử dụng tiếng Việt tài hoa đến vậy, tôi không có thành kiến — vì bản thân mình cũng chỉ học “trường Tây” — mà chỉ muốn tìm hiểu nguồn sáng tạo trong ngôn ngữ.
Trịnh Công Sơn, có lẽ — đây là giả thuyết dè dặt — không học nhiều văn chương Việt Nam được giảng dạy ở nhà trường thời đó, nên không bị nô lệ vào những khuôn sáo trường quy, không suy nghĩ bằng điển cố sẵn có, mà tạo được một hình thức mới cho lời ca. Lời ca ấy sử dụng nhiều hình ảnh, biểu tượng bị xé lẻ, đi thẳng vào tâm tưởng người nghe, mà không đòi hỏi họ phải hiểu nghĩa chính xác. Ví dụ bài Tình Sầu:
Tình xa như trời / Tình gần như khói mây /
Tình trầm như bóng cây / Tình reo vui trong nắng /
Tình buồn làm cơn say
… Cuộc tình lên cao vút / Như chim mỏi cánh rồi /
Như chim xa lìa bầy / Như chim bỏ đường bay /
Mạch lạc nội tại (cohérence organique) của ca khúc không dựa vào tương quan ý nghĩa: “tình xa như trời” thì hợp lý, nhưng gần, sao lại như “khói mây”? “Tình lên cao vút,” sao lại “như chim mỏi cánh rồi”? “Tình reo vui trong nắng,” thì phải đối ngẫu với “tình buồn cơn mưa bay” mới chỉnh, sao lại say sưa vào đây?
Thật ra, mạch lạc nội tại được cấu trúc trên hình thức ngôn ngữ: những từ lặp lại: tình, chim, như, những vần luyến láy: mây, cây, say, bay, những từ đối lập: xa/gần, vui/buồn. Hình ảnh nối tiếp nhau, không cần ăn khớp với lý luận, lại được tiết điệu, âm giai nâng đỡ, bay bổng, bay thẳng vào tâm tưởng người nghe.
Chúng ta thử so sánh, để tìm hiểu chứ không phân định hơn thua, một lời nhạc tương tợ của Đoàn Chuẩn – Từ Linh:
Gửi gió cho mây ngàn bay
Gửi bướm muôn màu về hoa
Gửi thêm ánh trăng màu xanh lá thư
Về đây với thu trần gian …
Hai ca khúc na ná, vì đều là ẩn dụ xâu chuỗi (métaphore filée), nhưng câu sau của Đoàn Chuẩn và Từ Linh được cấu tứ theo ngữ nghĩa và quy ước, theo điển cố: gió+mây, bướm+hoa, gió+trăng, trăng+thu. Nét mới là màu xanh lá thư bị xoá nhoè giữa những ước lệ được liên kết thành một xâu chuỗi kiên cố, chặt chẽ quá làm mất chất thơ. Thêm vào đó là những câu thất ngôn Đường luật rất chỉnh chu:
Lá vàng từng cánh / rơi từng cánh
Rơi xuống âm thầm / trên đất xưa
Bài Gửi Gió Cho Mây Ngàn Bay rất hay, nhưng hay một cách khác, được yêu chuộng ở một giới thính giả khác.
Phạm Duy, thời trẻ, đã có những sáng tạo tân kỳ:
Buồm về dội nắng đôi vai
Bao nhiêu màu hoa ngát trên đôi môi
(Tiếng Đàn Tôi, 1947)
Sau đó, anh trở về với ngôn ngữ duy lý:
Bao giờ em giở lại vườn dâu (hỡi em)
Là một câu thơ tuyệt vời: vườn dâu là niềm thương nhớ muôn trùng một nền văn minh đã khuất bóng. Nhưng Phạm Duy lại bồi thêm câu sau:
Để anh bắc gỗ xây nhịp cầu (anh) bước sang…
(Quê Nghèo, 1948)
Thì cái ý đã thu hẹp cái tứ. Câu hát trở thành thô thiển, và giới hạn âm vang. (Tôi đã có dịp trình lên anh Phạm Duy ý này, anh cười vui: thế à?)
Tác phẩm Lê Thương uyên bác cả nhạc lẫn lời, đã được người đời yêu thích. Trịnh Công Sơn sẽ không viết được những câu văn vẻ như Lê Thương:
Bên Man Khê còn tung gió bụi mịt mùng,
Bên Tiêu Tương còn thương tiếc nơi ngàn trùng…
(Hòn Vọng Phu)
nhưng đã viết:
Đàn bò vào thành phố
Reo buồn tiếng hạt chuông
(…)
Đàn bò tìm dòng sông
Nhưng dòng nước cạn khô
Đàn bò bỗng thấy buồn,
bỗng thấy buồn…
(Du Mục)
Những hình ảnh ngoài trí tưởng tượng của Lê Thương — ông vua đặt lời ca — theo sự đánh giá của Phạm Duy.
Đi vào nền tân nhạc với một tâm hồn mới mẻ, Trịnh Công Sơn đã dần dần xây dựng một nhạc ngữ mới, phá vỡ những khuôn sáo của nền âm nhạc cải cách, thành hình chỉ hai mươi năm về trước.
* *
*
Trịnh Công Sơn tự học nhạc, chứ không được đào tạo theo hệ thống trường quy. Khi bắt đầu sáng tác, được khích lệ, mới “trao đổi nhạc lý với bạn bè,” anh không nói rõ là những ai.
Câu hỏi thứ hai người tò mò đặt ra là: học nhạc một mình, thì vốn liếng nhạc thuật lấy đâu ra mà sáng tác nhiều, nhanh và hay như thế?
Nhiều người cho là tác phẩm anh đơn giản về mặt nhạc thuật, nói là nghèo nàn cũng được.
Văn Cao nhận xét: “Trong âm nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết của âm nhạc cổ điển, theo cấu trúc bác học phương Tây. Sơn viết hồn nhiên như thể cảm xúc nhạc thơ tự nó trào ra.” [3]
Lối nhạc hồn nhiên, dung dị này lại đáp ứng lại với nhu cầu thời đại, theo Phạm Duy: “Về phần nhạc, toàn thể ca khúc Trịnh Công Sơn không cầu kỳ, rắc rối vì nằm trong một số nhạc điệu đơn giản, rất phù hợp với tiếng thở dài của thời đại.” [4]
Một thính giả bình thường, yêu quý Trịnh Công Sơn, đã viết sau khi anh qua đời: “Xét cho cùng, Trịnh Công Sơn là một nhà thơ. Một nhà thơ lớn. Nhạc là cái xe tải anh lắp lấy để chở thơ anh đến với chúng ta” (Vũ Thư Hiên, Varsovie, 4/2001). Nhận xét không đúng nhưng tiêu biểu.
Dù cho rằng nhạc thuật đơn điệu, thì cũng phải thừa nhận tài năng, có phần học tập, có phần thiên phú. Hoa hồng đẹp là do cây hồng, nhưng cũng còn nhờ vào đất đai, phân tro, mưa nắng, người chăm sóc, thậm chí cần cả người ngắm, hoa hồng mới có giá trị cái đẹp hoa hồng. Dù ở đây chỉ là một đoá vô thường.
Ta thử nhớ lại thời đại phát sinh tài năng Trịnh Công Sơn.
Năm anh 15 tuổi, 1954, Hiệp Định Genève chia đôi đất nước, cả hai miền Nam Bắc đều hoá thân trong hoàn cảnh chính trị và văn hóa mới.
Ở miền Nam, văn hoá phương Tây tràn ngập thị trường, nhất định phải ảnh hưởng mạnh mẽ đến tuổi mười lăm.
Sách báo, đĩa nhạc Pháp du nhập ồ ạt vào Việt Nam hằng ngày, giá thực tế rẻ hơn tại Paris nhờ trợ cấp hối đoái, và đây lại là thời kỳ phát minh và phát triển của loại sách bỏ túi và đĩa hát rãnh mịn (microsillon), phát hành rộng rãi, kèm theo những phương tiện truyền thanh mới. Thời trước, tuy Việt Nam là thuộc địa Pháp, nhưng văn chương Pháp chỉ du nhập qua nhà trường, giáo trình dừng lại ở cuối thế kỷ XIX: uyên bác như Xuân Diệu mà không biết Apollinaire. Sau 1954, văn hoá Pháp —và phương Tây — du nhập thẳng vào thị trường. Công chúng đọc Françoise Sagan tại Sài Gòn cùng lúc với Paris. Trên hè phố, nhất là tại các quán cà phê, người ta bàn luận về Malraux, Camus, cả về Faulkner, Gorki, Husserl, Heiddeger.
Nhà văn Bửu Ý, bạn Trịnh Công Sơn — học trước Sơn hai lớp tại Lycée Français Huế — hát Lá Rụng (Les Feuilles Mortes) một lần với Juliette Gréco; Đời Hồng Tươi (La Vie en Rose) một lần với Edith Piaff; Barbara một lần với Yves Montand; trong khi Thanh Tâm Tuyền dịch “Barbara” của Jacques Prévert, đăng trên Sáng Tạo và nhà văn trẻ Nguyễn Xuân Hoàng cũng ngân nga “Barbara.” Nguyễn Trần Kiềm, bạn cùng lớp với Sơn, đi cyclo che nắng bằng sách của Sartre.
Người ta thắc mắc về những tên ca khúc Trịnh Công Sơn cầu kỳ như Mưa Hồng, Tuổi Đá Buồn, trong khi Thanh Tâm Tuyền viết “Đêm Màu Hồng,” về sau trở thành phòng trà lừng danh, lại viết thêm Lệ Đá Xanh, được danh hoạ Đinh Cường, bạn thân Trịnh Công Sơn, vẽ thành tranh trừu tượng, v.v.
Song hành với sách báo, các cơ quan văn hoá Tây phương mở cửa hoạt động: Phòng Thông Tin Hoa Kỳ, Pháp, Trung Tâm Văn Hoá Đức… dĩ nhiên là với những động cơ chính trị trong thời kỳ chiến tranh lạnh, mà chúng tôi không đề cập ở đây, chỉ nhấn mạnh ở ảnh hưởng văn hoá phương Tây thời đó trên đời sống trí thức miền Nam. Những Chiều Chủ Nhật Buồn nằm trong căn gác đìu hiu… Ô hay mình vẫn cô liêu, rồi đến Ngày chủ nhật buồn còn ai, còn ai:… Tuổi buồn Em mang đi trong hư vô, ngày qua hững hờ… Không thể không nhắc đến bài Chủ Nhật Buồn, Sombre Dimanche của Seress Rejso, nghe nói đã có người tự tử vì nó. Hay vì những hư vô, cô liêu, hững hờ, thịnh hành một thời. Trong bài viết “Nỗi lòng của tên Tuyệt Vọng” anh đã tiết lộ “tôi vốn thích triết học và vì thế, tôi muốn đưa triết học vào những ca khúc của mình.” Ví dụ như : “Vết lăn trầm hằn lên phiến đá” mà anh gọi là di thạch: roche errante, người hát không hiểu gì, nhưng vẫn thích hát! Nhưng nói là Rolling Stones cũng không sai.
Ca khúc Trịnh Công Sơn gợi suy tư, đáp ứng lại nhu cầu trí thức chính đáng ở một thiểu số và ảo tưởng trí thức thời thượng ở một đa số, trong đó có các cô cậu, ở mục Tìm Bạn Bốn Phương trên các báo, tự giới thiệu là “yêu màu tím” và “nhạc họ Trịnh,” hay “nhạc TCS” viết tắt.
Thời kỳ này, Nguyễn văn Trung đã viết bài “Ảo ảnh Thanh Thuý.” Nói về ảo ảnh Trịnh Công Sơn, ông ấy cũng có thể viết một bài hay.
Nhạc Trịnh Công Sơn đơn giản: một nhược điểm tạo dựng thành công. Phạm Duy nhận xét về Trịnh Công Sơn “Bài hát chỉ cần một chiếc đàn guitare đệm theo, nếu hoà âm phối khí rườm rà thì không hợp với những bài hát soạn theo thể ballade này.” Lại là một yêu cầu khác của thời đại: những Georges Brassens, Joan Baez lẫy lừng với cây đàn ghi-ta. Ca khúc Trịnh Công Sơn, có thể hát cho vài người nghe, cho một nhóm, hay trước quảng đại quần chúng. Nó đi vào quần chúng, nhất là giới thanh niên: Nó khác với nhạc phòng trà, có giàn nhạc và do ca sĩ hát, và thính giả đi nghe (và nhìn) ca sĩ nhiều hơn là nghe ca khúc.
Thời Trịnh Công Sơn cũng là thời của các tác-gia-soạn-giả-trình-diễn (auteur compositeur interprète) chẳng bao năm mà trở thành huyền thoại: Jacques Brel, Bob Dylan. Báo chí Mỹ gọi Trịnh Công Sơn là Bob Dylan Việt Nam, vì nội dung phản chiến, mà còn vì phong cách trình diễn.
Nhạc Trịnh Công Sơn không phải là nhạc giao hưởng. Những soạn giả bậc thầy của nhạc lý Việt Nam thời đó, như Vũ Thành, Văn Phụng, Nghiêm Phú Phi không có quần chúng.
Trịnh Công Sơn có tài đặt nhạc, soạn lời, lại biết bắt mạch thời đại, sống đúng thế hệ của mình, trong lòng đất nước, trong nhạc cảnh thế giới. Ngần ấy cái tài dồn lại, gọi là thiên tài, cũng không quá đáng.
* *
*
Phân chất những lớp phù sa đã tấp vào dòng nhạc của mình qua những giao lưu văn hoá, Trịnh Công Sơn có nói đến những ảnh hưởng ngoại lai:
Thưở nhỏ tôi rất thích nhạc tiền chiến và có nghe một số nhạc nước ngoài. Những năm 60, tôi có nghe nhạc Blues nói về thân phận của người da đen ở Mỹ. Tôi rất thích nhạc của Louis Amstrong, D. Ellington… Tôi thấy loại nhạc này gần gũi với mình và thấy có khả năng muốn lấy nhạc này để nói lên tâm sự của mình. [5]
Và cũng trên số báo Đất Việt đó, anh cho biết thêm về ảnh hưởng: “Những năm 64-66, sáng tác có chất Blues, những năm 67-72, lại mang nhiều chất dân ca.”
“Chất dân ca” ở đây, phải hiểu theo nghĩa folk songs của Bob Dylan và Joan Baez thịnh hành thời đó. Cả hai danh ca đều hơn Sơn hai tuổi, cùng một thế hệ, cùng một lý tưởng chống chiến tranh, cùng một cây ghi-ta, cùng một điệu hát; “dân ca” ở đây không phải là hò mái nhì, hò giã gạo của quê hương. Nhạc dân tộc trong thời gian đầu, dường như không mấy ảnh hưởng đến anh. Những bài theo chủ đề ru con của Trịnh Công Sơn không mấy âm hưởng những bài hát ru em Việt Nam.
Sau này, thỉnh thoảng người nghe có nhận ra chút âm hưởng hò Huế, như trong Thuở Bống Là Người, hay điệu ru dân tộc, như Lời Mẹ Ru Con thì cũng chỉ là đôi biệt lệ, không tiêu biểu.
Gần đây, sách báo thường trích dẫn câu Trịnh Công Sơn: “Tôi chỉ là tên hát rong, đi qua miền đất này để hát lên những linh cảm của mình về những giấc mơ đời hư ảo.”
Lại phải hiểu chữ “hát rong” theo nghĩa hiện đại: không phải là ông sẩm chợ, hát vè Thất Thủ Kinh Đô ở phố Đông Ba mà Huy Cận đã mô tả, mà hình ảnh người du ca hiện đại, những baladins itinérants trong ca khúc Bob Dylan, trong quan niệm Nhạc Du Bất Tận, Never Ending Tour (1988). Nhà thơ Tô Thùy Yên, chuộng thuyết chính danh, nên đã nói rõ điều này và gọi Trịnh Công Sơn là “người du ca chính hiệu”:
Người du ca là một nghệ sĩ đặc biệt đứng giữa âm nhạc và thi ca, đúng hơn, người du ca là một thi sĩ nhiều hơn là một nhạc sĩ.
Người du ca thường khi xuất hiện và nổi bật trong những thời đại được coi là u uất nhiễu nhương, những thời đại mà tiếng nói con người bị lấn át, tự do con người bị cưỡng chế, giá trị con người bị hạ thấp, hạnh phúc con người bị tước đoạt và ước vọng con người bị bao vây.
Thành thử những tác phẩm du ca có thể là những tác phẩm yếu hơi, dễ dãi, sơ sài, những tác phẩm thành hình trong một thoáng cảm hứng nhất thời, những tác phẩm như những ký tự ghi chép vội vàng trên một trang giấy tình cờ, và thả bay ngay theo thời thế.
Trong Cõi Tạm, ăn xổi ở thì này, nơi con người chôm liền chộp lẹ mọi cơ hội để mua lẻ và mua rẻ chút hư danh, có người còn viết được những lời như vậy, là nghiêm túc và tâm huyết. Nhất là viết cho một người vừa khác phe, vừa khác phái.
Văn Cao cũng là một người sành chữ nghĩa. Trong câu chuyện thân mật, anh thường nói: “Sơn là một troubadour (kẻ hát rong) có tài.” Nhưng khi viết về Trịnh công Sơn, anh dùng chữ chantre, trang trọng hơn, trong nghĩa “kẻ ngợi ca”: “bởi Sơn đã hát về quê hương đất nước bằng cả tấm lòng của một đứa con biết vui tận cùng những niềm vui, và biết đau đến tận cùng những nỗi đau của Tổ Quốc Mẹ hiền.”[6] Troubadour hát nhạc mua vui cho trần thế, Chantre hát những Lời Buồn Thánh. Tuy nhiên, Trịnh Công Sơn cũng chỉ tự xưng là troubadour, như tên đặt cho phòng tranh anh triển lãm chung với Đinh Cường, Bửu Chỉ tại Gallery Tự Do, tháng 8/2000.
Năm 1969, bạn anh, họa sĩ Trịnh Cung, đã vẽ bức tranh đẹp, tên là Le troubadour = Kẻ du ca, hát để kêu gọi hoà bình. Những chuyện này đều tương quan với nhau.
Khi Phạm Duy gọi ca khúc Trịnh Công Sơn là những ballades, không cùng một nguồn gốc với chữ baladin, cũng là có ý trang trọng.
Các vị ấy tài cao, ý sâu mà lòng thì rộng rãi; cho nên lời cũng khoáng đạt.
* *
*
Hôm qua trăng sáng lờ mờ
Em đi tát nước, tình cờ gặp Anh
Người con gái Việt Nam da vàng, ngày xưa, đã hát như thế trong ca dao, là để che giấu khát vọng tình yêu, chứ trong đời sống nông thôn thời ấy, làm gì có cái tình cờ.
Đời sống thế giới hiện nay, nghĩ cho cùng, cũng vậy thôi. Những giai điệu blues, nhạc phản kháng Bob Dylan, Joan Baez, thơ Prévert, Aragon, Eluard… Trịnh công Sơn đã gặp gỡ, trên dòng nhạc, dòng thơ, dòng tâm tư. Và dòng lịch sử, dân tộc và thế giới. Trong cao trào lớn của loài người, giữa lòng thế kỷ hai mươi: cao trào giải phóng dân tộc, chủng tộc và giai cấp. Đừng quên việc giải phóng phụ nữ: người phụ nữ Pháp đi phá ngục Bastille từ 1789, mãi đến 1946 mới có quyền đầu phiếu.
Người phụ nữ Việt Nam cũng vậy thôi: sau khi chờ chồng hoá đá, họ bước chân vào thế kỷ XX, thì ngồi đan áo. Từ Buồn Tàn Thu của Văn Cao, qua Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền, thơ hiện đại của Ý Nhi, cho đến năm 2000, trong ca khúc Đêm Xanh của Bảo Chấn, cô ấy vẫn ngồi đan áo, trong khi dọc hè phố, áo pull bán rẻ mạt.
Đan áo là hình ảnh ẩn nhẫn, thụ động mà người đàn ông đòi hỏi. Đan áo cho ai đó, hay để tưởng nhớ, chờ đợi ai đó. Ca khúc Trịnh Công Sơn, rất nhiều phụ nữ, nhưng không thấy họ đan áo. Mà chỉ… ngồi chơi, khi nghiêng vai, khi nghiêng đầu, khi nghiêng sầu. Ngồi chơi chán rồi thì Đứng lên gọi mưa vào Hạ. Nếu khóc, cũng chỉ khóc cho những Chiều mưa đỉnh cao… Mai kia, có ra đi, thì cũng là Như những dòng sông nhỏ.
Người đàn bà trong Trịnh Công Sơn đẹp dung dị và tự do bình thường. Tự do với cuộc đời, với tình yêu, thậm chí với tình dục. Nhạc Trịnh Công Sơn không nói đến tình dục, vì nói đến… làm gì?
Người phụ nữ nghe và hát nhạc Trịnh Công Sơn thoải mái, vì chỉ hát, hay nghe, mà không phải làm gì cả, không phải Hái Mơ, Lái Đò, bán Hàng Cà Phê, Hàng Nước, không phải thay quần áo làm cô Sơn Nữ, cô Láng Giềng hay mua lấy số phận Người Yêu của Lính. Và nhất là không phải… đi lấy chồng: hạnh phúc không thấy đâu mà chỉ nghe oán trách dài dài suốt nửa thế kỷ: Em đi trên xác pháo, anh đi trong nước mắt… Em ơi tình duyên lỡ làng rồi, còn chi nữa mà chờ… Và, ở một chân trời khác, họ cũng không phải ba đảm đang, ba sẵn sàng, làm Người Mẹ Cầm Súng, xung phong đi gỡ mìn ở Ngã Ba Đồng Lộc…
Sau 1975, khi “Em ở Nông trường, em ra Biên giới” thì người nghe có cảm giác cô Tấm đã trở thành cô Cám, và Trịnh Công Sơn sẽ gào gọi Bống hỡi Bống hời, cô Tấm thỉnh thoảng có tái hiện, nhưng cũng đã tân trang nhiều lắm.
Trong xã hội Việt Nam, cho đến hôm nay, chưa chắc gì người phụ nữ đã được giải phóng, và tôn trọng đúng mức. Trong ca khúc Trịnh Công Sơn, họ được giải phóng và tôn trọng. Tôn trọng người đàn bà, không phải là tán tỉnh, Trịnh Công Sơn, rất hồn nhiên đã hiểu ra và nói vào điều đó.
* *
*
Nhạc phản chiến, đòi hỏi hoà bình của Trịnh Công Sơn thì nhiều người biết, sẽ có nhiều người viết về đề tài này. Mới đây, trong buổi tưởng niệm Trịnh Công Sơn, tại Californie, anh Đỗ Ngọc Yến có nói rõ và nói đúng, khác với Đỗ Ngọc Yến cách đây 40 năm và 20 năm.
Tôi không đủ thì giờ viết về đề tài này, nhưng sẽ đề cập đến ở một dịp khác, nay chỉ vội nói ngay mấy ý kiến chủ quan:
1. Dù đánh giá ra sao đi nữa, nhạc Trịnh Công Sơn cũng là sản phẩm của chế độ Việt Nam Cộng Hoà, trong cả hai mặt tích cực và tiêu cực của chế độ này.
Không có Miền Nam, cũng có thể có một Trịnh Công Sơn, nhưng là một Trịnh Công Sơn khác, đại khái như một Phạm Tuyên hay Phan huỳnh Điểu.
2. Chính quyền Cộng Sản, sau 1975, sau những thăm dò, đã lưu dung một phần trong nhạc phẩm Trịnh Công Sơn và đã khéo sử dụng Trịnh Công Sơn. Có thể nói sau 25 năm chiến thắng, thành công hiếm hoi, nếu không phải là duy nhất, của chính sách văn hoá của chính quyền cộng sản, là tiếp thu nhạc Trịnh Công Sơn, mà công đầu là Thành Uỷ TPHCM. Dùng chữ “chính sách,” là để nhìn toàn cảnh, chứ đối với một cá nhân, chắc chỉ có những quyết định cục bộ, nhất thời, bất thành văn. Dù sao, họ cũng chỉ kế thừa kinh nghiệm Liên Xô vào thời kỳ Tân Chính Sách Kinh Tế (NEP) những năm 1920, sau cuộc nội chiến, khi Lenine thu dung những nhà văn, nhà thơ “bạn đường” (Popoutchiki) như Alexis Tolstoi hay Zamiatine.
Trong chiến tranh chống Pháp, người Cộng Sản đã không thu phục được Phạm Duy. Sau 1954, họ không thu phục được Văn Cao. Nhưng sau 1975, họ thu hoạch được Trịnh Công Sơn, như vậy đã là thành công. Thành công về mặt hiện tượng, không phải về mặt bản chất. Về mặt bản chất, chuyên chính vô sản không bao giờ chấp nhận cái gì khác họ, không phải do họ tạo ra. Mặt khác, ca khúc Trịnh Công Sơn trước kia và bây giờ không có “tiêu chuẩn” đáp lại quy luật của hiện thực xã hội chủ nghĩa. Cố gắng đến đâu thì cây cam cũng không tạo được quả chanh. Trước kia “hai mươi năm nội chiến từng ngày” là sai đường lối, bây giờ hỏi “Em còn nhớ hay Em đã quên” vẫn sai lập trường.
Chấp nhận — dù trong giới hạn — những dư vang của một chế độ chính trị mà mình cố công bôi xoá, chính quyền TPHCM, trong chừng mực nào đó, đã nhượng bộ quần chúng, đã gián tiếp thừa nhận mình thất bại, trong việc ngăn chặn nhạc vàng, và nhất là trong việc đào tạo một nền âm nhạc mới đáp ứng với quần chúng. Chính quyền Trung ương Hà Nội ‘wait and see’ để cho TPHCM “phát huy sáng kiến”; nếu rách việc thì ra tay chận đứng một “quyết định địa phương,” nếu vô hại thì án binh bất động, và thêm được tiếng là cởi mở, hoà hợp.
3. Về phía Trịnh Công Sơn, anh cũng khéo thoả hiệp với chính quyền mới. Việc anh ở lại Việt Nam sau 1975, hợp tác với các hội văn nghệ Huế, rồi TPHCM là hợp lý, sau khi đã sáng tác “Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm”… Đó là sự chọn lựa tự do của anh. Cũng như Nguyễn Trãi xưa kia, cháu ngoại nhà Trần, mà không phò tá các phong trào kháng chiến Hậu Trần, lại đi hợp tác với đám nông dân Lam Sơn. Hay như Ngô Thời Nhậm, nhiều đời ăn lộc chúa Trịnh vua Lê, mà đã đi hợp tác với nhóm áo vải Tây Sơn. Từ đó người ta có thể thông cảm khi anh làm một số bài ca ngợi chế độ mới, không hay lắm và ít được hát, ít người biết: âu cũng là điều may mắn cho anh, vì anh đã có một số câu chữ không hay và không cần thiết.
Anh là người được hưởng nhiều bổng lộc của chính quyền, nhiều hơn những cán bộ đã vào sinh ra tử trong cả hai cuộc chiến tranh. Anh có thể hát Đời Cho Ta Thế. Thật ra, đời không cho ai cái gì mà chỉ đổi chác; anh đã phải trả giá, có khi là giá rất đắt. Anh không trả thì nhiều người khác phải trả. Ý thức điều đó có lần anh viết:
Tôi không bao giờ có tham vọng trở thành một người viết ca khúc nổi tiếng. Nhưng đời đã tặng cho tôi món quà ấy thì tôi không thể không nhận. Và khi đã nhận rồi thì phải có trách nhiệm với mọi người.
Nói thì ngon lành như thế. Thực tế không đơn giản: người ta cho anh bó hoa, chai rượu. Ai cho anh trách nhiệm? Anh hát “mỗi ngày tôi chọn một niềm vui,” khi bạn anh, Thái Bá Vân, nhà phê bình nghệ thuật tài danh, thuộc Viện Mỹ Thuật Hà Nội than: “Một năm không được một ngày vui.” Muốn mua vui, phải vào Sài Gòn… chơi với Sơn. Nhưng chẳng qua là niềm vui của phận “chim lồng cá chậu”; hiểu như thế, bạn bè không đòi hỏi gì nhiều ở một nghệ sĩ yếu đuối, sống chết giữa trùng vây như anh.
Người ta đánh giá một tác giả qua những tác phẩm anh ta đã thực hiện, chứ không qua những tác phẩm mà “lẽ ra” anh ta phải thực thực hiện. Nhân danh cái “lẽ ra” ấy, người làm văn học nghệ thuật đã là nạn nhân của bao nhiêu là oan khiên, oan khốc và oan khuất.
Không những vì chút tình riêng, nhưng còn vì tình đời, luật công bình, luật tương đối, luật chơi, chúng ta nên gạt sang một bên nhiều cái “lẽ ra” đối với Trịnh Công Sơn, mà chỉ xét những cái anh đã làm ra.
4. Qua bốn mươi năm truân chuyên, Trịnh Công Sơn đã có những đóng góp lớn lao vào nền văn học nghệ thuật, vào đời sống xã hội, và lịch sử chính trị. Phần lớn sự nghiệp anh đã thành hình và thành công dưới chế độ Việt Nam Cộng Hoà, mà mọi người đã biết. Bài này tạm thời chưa nói đến.
Ngoài quần chúng cũ, nghe nhạc Trịnh Công Sơn vì yêu thích hay để nhớ lại ngững âm hao xưa cũ, thì thính giả khác, giới thanh niên Việt Nam ngày nay, hay người miền Bắc trước 1975, đón nhận ra sao?
Trong xã hội Việt Nam ngày nay, ca khúc Trịnh Công Sơn mang lại chất Thơ cho đời sống. Nhìn qua một số đĩa hát CD, thu nhiều bài của nhiều soạn giả, thì cái tên chung thường mượn tiêu đề của Trịnh Công Sơn, như Lời Thiên Thu Gọi (Hồng Nhung), Xin Mặt Trời Hãy Ngủ Yên (Mỹ Linh), những tiêu đề nhiều âm vang, nhiều thi vị. Những nhạc sĩ khác, Dương Thụ, Phú Quang, Trần Tiến, Bảo Chấn… đều tài cao, nhưng được đào tạo và trưởng thành trong một xã hội duy dụng và thực dụng, óc sáng tạo cao siêu của họ không đặt ra những câu hỏi vớ vẩn như là Sóng Về Đâu? Vì thực tế: sóng thì… về đâu? Trong một mẩu xã hội nào đó, đặt những câu hỏi như thế, là có cơ nguy bị nhốt vào nhà thương điên.
Chủ nghĩa hiện thực xã hội rất nghiêm khắc, yêu chuộng văn vần, một loại văn xuôi diễn ca (prose versifiée), với điều kiện loại văn vần ấy không có chất Thơ. Thi phẩm của “công thần” Nguyễn Đình Thi còn bị gạt ra nói gì đến “hàng thần” Trịnh Công Sơn? Nhưng ca khúc Trịnh Công Sơn đã lọt qua được các mắt lưới, vì đã cấp thời đáp lại được “lời gọi của khoảng trống” (l’appel du vide) và ca khúc là một thể loại nhẹ, phù phiếm (genre léger), chính quyền dung dưỡng vì có khả năng chận đứng bất cứ lúc nào – như đã làm với nhạc Văn Cao ngày xưa: thậm chí bài Quốc Ca còn bị hăm doạ thay đổi. Và đang làm với Phạm Duy ngày nay. Trong các CD thu tại Việt Nam hiện nay có ai thấy Giấc Mơ Hồi Hương, nhạc Vũ Thành?
Chính quyền dung dưỡng ca khúc Trịnh Công Sơn không phải vì động cơ nghệ thuật, nhưng như một thế phẩm (ersatz), trong thời kỳ quá độ, như bác sĩ ban thuốc an thần cho bệnh nhân mất ngủ. Trong khi chờ đợi, thính giả hưởng lạc khoản, được ngày nào hay ngày ấy. Họ đang được nghe bài Sóng Về Đâu một trong ca khúc cuối đời Trịnh Công Sơn:
Biển sóng, biển sóng đừng xô tôi
Đừng xô tôi ngã dưới chân người
Biển sóng, biển sóng đừng xô nhau
Ta xô biển lại sóng về đâu
Sóng bạc đầu và núi chìm sâu
Ta về đâu đó
Về chốn nào mây phủ chiêm bao
Xã hội chủ nghĩa có thể tạo ra nhiều bài hát hay hơn. Nhưng tạo ra được cái gì na ná như thế thì vô phương. Thiên tài không phải là người không bắt chước ai, mà là người không để ai bắt chước được mình.
5. Chứng từ cho giá trị một tác phẩm nghệ thuật, là khả năng kết hợp rộng rãi và lâu dài của nó. Nhạc Trịnh Công Sơn được hát rộng rãi ở Miền Nam trước 1975, chúng ta đã biết. Nhưng trước 1975, Miền Bắc đã nghe và đã thích nhạc này, như Văn Cao đã kể lại[7]. Nguyễn Duy kể thêm rằng ở dọc Trường Sơn, bộ đội miền Bắc cũng đã nghe:
Mặt trận Đường Chín — Nam Lào (1971)… trong căn hầm kèo bên dòng sông Sêbănghiêng… Nghe, nghe trộm — vâng, lúc đó gọi là nghe trộm — đài Sài Gòn, tình cờ ‘gặp’ Trịnh Công Sơn qua giọng hát Khánh Ly… Diễm Xưa… Mưa vẫn mưa rơi… làm sao em biết bia đá không đau… Quỷ thật! giai điệu ấy và lời ca ấy tự nhiên ‘ghim’ lại trong tâm tưởng tôi ngay từ phút bất chợt ấy. Rồi Như Cánh Vạc Bay… Quái thật!… Cảm nhận bất chợt, những bài hát rất mượt mà, đắm đuối ấy… ừ thì có buồn đấy, đau đấy, quặn thắt nữa đấy… nhưng còn là cái gì lành mạnh nảy nở trong đó. Hình như là cái Đẹp… Bảng lảng, lờ mờ, khó phân định cho đúng nghĩa, nhưng rõ ràng là đẹp, đẹp làm sao… Và cũng hơi ma quái thế nào… [8]
Người ác ý có thể ngờ vực: Nguyễn Duy là nhà báo có quyền nghe đài, sau này là bạn rượu của Trịnh Công Sơn, nên thêm thắt. Thì đây, một chứng từ khác đến từ một anh bộ đội, không quen biết gì, không điếu đóm gì với Trịnh Công Sơn, nhà văn Nguyễn văn Thọ, hiện ở Berlin:
Năm 1972, khi ấy tôi là bộ đội trong rừng Trường Sơn. Thằng bạn tôi, sau chiến dịch Lam Sơn 719 vớ được cái đài Sony rât tốt.
Đêm Trường Sơn, chờ cho mọi người đi ngủ hết, chúng tôi lén mở đài BBC và cả đài Sài Gòn. Đấy là lần đầu tiên tôi được nghe tiếng hát Khánh Ly với nhạc Trịnh Công Sơn.
Chúng tôi là lớp người lớn lên từ Miền Bắc, thường quen với những khúc thức hùng tráng. Trong tiếng chộn rộn rú rít của sóng vô tuyến, tôi vẫn thấy một giọng lạ của một thứ âm nhạc mới. Một thứ nhạc da diết, đầy lãng đãng từ ca từ, tới khúc thức. Một thứ nhạc xanh không giống bất cứ nhạc xanh nào mà tôi từng nghe, kể cả trong những đĩa hát quay tay cổ mở suốt ngày rên rỉ ở đầu chợ trời những ngày sau hoà bình.
Rất lạ, với tôi khi đó nhạc Trịnh Công Sơn như làn gió khởi từ xa xăm đâu đó, tách khỏi hận thù trận mạc, tha thiết một tình yêu đồng loại, giống nòi, yêu bè bạn, hoà bình, đạo lý. Nó lạ, vì lối ca từ phi tuyến tính, không giống cách viết truyền thống trên những ca khúc của Hà Nội khi đó.
Quý hoá hơn nữa, anh Thọ đã ghi lại cảm giác khi tiến quân vào Sài Gòn, nghe nhạc Trịnh Công Sơn hát Nối Vòng Tay Lớn, buổi trưa ngày 30/4/1975, trên đài Sài Gòn:
Mặt đất bao la… anh em ta về… gặp nhau trong bão lớn quay cuồng trời rộng…”
Lời ca không phải là tiếng thách thức tử thủ. Lời ca không phải là tiếng bể máu như kết cục thường của chiến cuộc, lời ca khi ấy làm chùng xuống không khí thù hận và hằn học.
Chúng tôi tiến vào Sài Gòn…
Nối Vòng Tay Lớn
Chiến tranh nào bao giờ chẳng có mặt trái, nhưng tiếng hát kia, bản nhạc ấy, mở ra cho cả hai bên nghe như một liều thuốc vô hình đã làm chùng xuống một thời khắc thường dễ nổi cáu và nổi doá.
Đấy là kỷ niệm thứ hai của tôi về anh.
Tiếng hát làm chùng tay súng. Một ngày, một giờ mà sinh mệnh của hằng triệu con người nằm trên đường tơ kẽ tóc, một sự kiện như thế không trọng đại hay sao?
Văn học nghệ thuật Việt Nam, đã bao nhiêu lần đóng vai trò đó?
Sau này, Thọ sang sinh sống tại Đức, theo diện xuất khẩu lao động, vẫn nghe nhạc Trịnh Công Sơn:
Ngay cả sau này, đôi khi tự an ủi mình, nâng đỡ mình, tôi khe khẽ hát ‘Tôi ơi đừng tuyệt vọng’… và nhiều bài ca khác trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, nhưng tôi vẫn nhớ từng chi tiết và cám ơn nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ở trưa phát thanh trên làn sóng Sài Gòn ngày đó. [9]
Ở một chân trời khác, nhiều người oán trách Trịnh Công Sơn về việc lên đài hát Nối Vòng Tay Lớn, trưa ngày 30.4.1975. Thật ra, anh có hát hay không hát, thì chế độ Việt Nam Cộng Hoà cũng tan rã. Anh có hát, và có hợp tác với chính quyền mới, âu cũng là một cách cứu vãn vết tích văn hoá của nền Việt Nam Cộng Hoà đã đào tạo ra anh về mặt tài năng và sự nghiệp, thậm chí tạo ra cả một huyền thoại Trịnh Công Sơn.
Một lần nữa, ông Nguyễn Văn Trung, sau “Ảo ảnh Thanh Thúy” nếu viết “Trịnh Công Sơn Thực Chất Và Huyền Thoại” cũng sẽ nghĩ ra nhiều điều hay.
Nếu có ai đó nói rằng: Trịnh Công Sơn là một khổ nhục kế, để kéo dài hơi thở văn hoá của một chế độ chính trị đã bị bức tử, thì là lời đại ngôn, duy cảm, nghịch lý, vớ vẩn.
Vớ vẩn như một số lời ca trong tác phẩm Trịnh Công Sơn. Nhưng biết đâu chẳng là sự thực? Sự thực trong bao nhiêu cái vớ vẩn, kể cả trong lịch sử.
Chế Lan Viên, năm 1984, đã viết: “Văn hoá của thực dân mới là con đẻ của chủ nghĩa thực dân mới. Quân sự, chính trị thực dân mới có chết, có băng hà thì nó cũng truyền ngôi cho văn hoá.”[10] Và Chế Lan Viên không phải là người vớ vẩn, viết lách vớ vẩn.
* *
*
“Không xa đời và cũng không xa mộ người…”
Trịnh Công Sơn đã xa đời lúc 12 giờ 45 tại Sài Gòn, ngày 01.4.2001.
Đám tang ngày 4 tháng Tư, nghe nói lớn lắm, hàng trăm tràng hoa ngập con hẻm 47 Duy Tân. Hàng vạn người đưa tiễn, trong đó có thể có người đi tiễn một điều gì khác, một tâm tình hay u hoài nào đó của riêng mình, chẳng hạn.
André Malraux có nói đâu đây rằng “trong Thiên Chúa Giáo, chỉ có những pho tượng là vô tội.” Trịnh Công Sơn đã sống non nửa sau cuộc đời, trong một chế độ chính trị mà các pho tượng cũng không phải là vô tội.
Những đoá hoa đặt trên mộ Toa, Sơn ơi, không phải là đoá hoa nào cũng vô tội.
Bây giờ moa mới khóc Toa đây. Tại nhà moa, ngồi ở chỗ Toa ưa ngồi vẽ, nhìn dòng sông nhỏ, mà Toa đã gọi là sông An Cựu.
Sơn ơi, đời này, và sang đời khác nữa, làm gì có đến hai dòng sông An Cựu;
an cựu, Sơn ơi.
Đặng Tiến
Orléans, 14.04.2001
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Trịnh Công Sơn, Nhạc và Đời, nxb Tổng Hợp Hậu Giang
[2] Đất Việt, Canada tháng 6, 1986
(Thật ra bài Ướt Mi, làm năm 1958, nxb An Phú, in 1959)
[3] Văn Cao, Lời Bạt cho tập nhạc Trịnh Công Sơn Em Còn Nhớ Hay Em Đã Quên, nxb Trẻ, TPHCM, 1991, tr. 115
[4] Phạm Duy, Hồi Ký Thời Phân Chia Quốc Cộng, nxb Phạm duy Cường, California, 1991, tr. 287
[5] Đất Việt, Canada tháng 6,1986
[6] Văn Cao, Lời Bạt cho tập nhạc Trịnh Công Sơn Em Còn Nhớ Hay Em Đã Quên, nxb Trẻ, TPHCM, 1991
[7] Văn Cao, Lời Bạt cho tập nhạc Trịnh Công Sơn Em Còn Nhớ Hay Em Đã Quên, nxb Trẻ,, TPHCM, 1991.
[8] Nguyễn Duy, trong Tôi Thích Làm Vua, nxb Văn Nghệ, TPHCM, 1987
[9] Nguyễn Văn Thọ, “Nhớ Trịnh Công Sơn,” Nước Đức, ngày 4.4.2001
[10] Chế Lan Viên, “Văn hoá thực dân mới chết hay chưa chết,” trong Ngoại Vi Thơ, tr. 121, nxb Thuận Hoá, Huế, 1987
Đặng Tiến
Trịnh Công Sơn chánh quán Huế, làng Minh Hương, tổ tiên gốc Trung Hoa. Làng Minh Hương nay sát nhập vào Bao Vinh thành xã Hương Vinh. Bao Vinh là thương cảng của Huế ngày xưa.
Anh sinh ngày 28 tháng 2 năm 1939, tại Lạc Giao, tỉnh Đắc Lắc, lớn lên trong một gia đình buôn bán giữa trung tâm thành phố Huế. Nhà đông anh chị em, ba trai năm gái, mà anh là con trưởng. Tuy có thăng trầm, nhưng nói chung là khá giả.
Trịnh Công Sơn theo học chương trình Pháp, tại Trung học Pháp tại Huế, đến hết cấp 2. Năm ấy, 1955, cùng lớp có ca sĩ Kim Tước (Giáo sư Decoux, dạy khoa học, thỉnh thoảng mang đàn vĩ cầm vào lớp, đàn đệm cho học sinh hát). Lúc này Trịnh Công Sơn chơi guitare đã hay. Trường giải thể, dời vào Đà Nẵng, Trịnh Công Sơn có lúc theo học trường Thiên Hựu, Providence ở Huế. Rồi chuyển vào Sài Gòn, học tại trường Jean Jacques Rousseau. Sau đó vào học trường Sư Phạm Quy Nhơn, rồi đi dạy học vài năm tại Lâm Đồng.
Anh tự học nhạc một mình, và đã kể lại:
Thưở ấy, tôi là một đứa bé thích ca hát. Mười tuổi biết solfège, chép lại những bài hát yêu thích đóng thành tập, chơi đàn mandolin và sáo trúc. Mười hai tuổi có cây đàn guitare đầu tiên trong đời và từ đó sử dụng guitare như một phương tiện quen thuộc để đệm cho chính mình hát.
Tôi không đến với âm nhạc như một kẻ chọn nghề. Tôi nhớ mình đã viết những ca khúc đầu tiên từ những đòi hỏi tự nhiên của tình cảm thôi thúc bên trong… Đó là những năm 56-57, thời của những giấc mộng ngổn ngang, của những viễn tưởng phù phiếm non dại. Cái thời tuổi trẻ xanh mướt như trái quả đầu mùa ấy, tôi rất yêu âm nhạc nhưng tuyệt nhiên trong tôi không hề gợi lên cái ham muốn trở thành nhạc sĩ… Dạo ấy ba tôi đã mất…[1]
Những câu hỏi người tò mò có thể đặt ra: một người chỉ học trường Pháp, giáo trình Việt ngữ rất hạn chế và lỏng lẻo, khi đặt lời ca, sao có thể sử dụng tiếng Việt điêu luyện đến như thế? Thỉnh thoảng anh viết truyện ngắn, tham luận, đều xuất sắc. Bạn bè nhận được thư riêng, đều nhớ rằng Sơn chữ đẹp văn hay.
Tự học đàn hát, rồi sáng tác một mình, Trịnh Công Sơn không thuộc một nhóm sáng tác nào, như những người đi trước, như Lê Thương, Hoàng Quý trong nhóm Đồng Vọng ở Hải Phòng, như Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước trong nhóm Myosotis tại Hà Nội, nhóm Hoàng Mai Lưu tại Nam Bộ. Cũng như sau này, anh sẽ tự học vẽ một mình.
Câu hỏi tò mò thứ hai: tự học nhạc, rồi từ rất sớm đã lao mình vào đời sống sáng tác và tranh đấu, làm sao anh có thể liên tục sáng tác khoảng 600 ca khúc, phần lớn được yêu chuộng?
Nói rằng Trịnh Công Sơn là thiên tài, cũng dễ thôi. Nhưng trở thành thiên tài trên một đất nước như Việt Nam, được thừa nhận là thiên tài trong một xã hội như Việt Nam — nhất là sau cuộc đổi đời 1975 — thật không đơn giản.
Mục đích của bài này là giải thích sự hình thành của thiên tài Trịnh Công Sơn, giải mã hiện tượng Trịnh Công Sơn và tìm hiểu vị trí của Trịnh Công Sơn trên những trầm luân của đất nước, chủ yếu là khúc quanh 1975.
Chúng tôi cũng muốn cung cấp cho các nhà nghiên cứu về sau một số tư liệu rải rác đây đó, e mai đây khó kiếm, khi những than khóc và tung hô đã lắng xuống.
* *
*
Về hoàn cảnh sáng tác ban đầu, Trịnh Công Sơn đã tuyên bố với Vĩnh Xương, báo Đất Việt, năm 1985:
Đến năm 1957, tôi sáng tác, gọi là để bạn bè nghe chơi. Sau đó thấy có hứng thú sáng tác và thử viết thêm một số bài. Năm 1959, tôi viết bài Ướt Mi và được bạn bè khích lệ. Tôi mới tìm sách nghiên cứu thêm về nhạc, trao đổi thêm về nhạc lý với bạn bè. Sau đó, tôi phổ nhạc cho khoảng một chục bài thơ tình yêu (như Nhìn Những Mùa Thu Đi chẳng hạn). Năm 63, tôi có một số sáng tác khá thành công như Diễm Xưa, Biển Nhớ, Hạ Trắng. Từ đó, tôi đi vào con đường sáng tác. [2]
Và từ đó, Trịnh Công Sơn nổi tiếng.
* *
*
Khi đặt câu hỏi: sao một thanh niên, rất trẻ, chỉ học “trường Tây” mà sử dụng tiếng Việt tài hoa đến vậy, tôi không có thành kiến — vì bản thân mình cũng chỉ học “trường Tây” — mà chỉ muốn tìm hiểu nguồn sáng tạo trong ngôn ngữ.
Trịnh Công Sơn, có lẽ — đây là giả thuyết dè dặt — không học nhiều văn chương Việt Nam được giảng dạy ở nhà trường thời đó, nên không bị nô lệ vào những khuôn sáo trường quy, không suy nghĩ bằng điển cố sẵn có, mà tạo được một hình thức mới cho lời ca. Lời ca ấy sử dụng nhiều hình ảnh, biểu tượng bị xé lẻ, đi thẳng vào tâm tưởng người nghe, mà không đòi hỏi họ phải hiểu nghĩa chính xác. Ví dụ bài Tình Sầu:
Tình xa như trời / Tình gần như khói mây /
Tình trầm như bóng cây / Tình reo vui trong nắng /
Tình buồn làm cơn say
… Cuộc tình lên cao vút / Như chim mỏi cánh rồi /
Như chim xa lìa bầy / Như chim bỏ đường bay /
Mạch lạc nội tại (cohérence organique) của ca khúc không dựa vào tương quan ý nghĩa: “tình xa như trời” thì hợp lý, nhưng gần, sao lại như “khói mây”? “Tình lên cao vút,” sao lại “như chim mỏi cánh rồi”? “Tình reo vui trong nắng,” thì phải đối ngẫu với “tình buồn cơn mưa bay” mới chỉnh, sao lại say sưa vào đây?
Thật ra, mạch lạc nội tại được cấu trúc trên hình thức ngôn ngữ: những từ lặp lại: tình, chim, như, những vần luyến láy: mây, cây, say, bay, những từ đối lập: xa/gần, vui/buồn. Hình ảnh nối tiếp nhau, không cần ăn khớp với lý luận, lại được tiết điệu, âm giai nâng đỡ, bay bổng, bay thẳng vào tâm tưởng người nghe.
Chúng ta thử so sánh, để tìm hiểu chứ không phân định hơn thua, một lời nhạc tương tợ của Đoàn Chuẩn – Từ Linh:
Gửi gió cho mây ngàn bay
Gửi bướm muôn màu về hoa
Gửi thêm ánh trăng màu xanh lá thư
Về đây với thu trần gian …
Hai ca khúc na ná, vì đều là ẩn dụ xâu chuỗi (métaphore filée), nhưng câu sau của Đoàn Chuẩn và Từ Linh được cấu tứ theo ngữ nghĩa và quy ước, theo điển cố: gió+mây, bướm+hoa, gió+trăng, trăng+thu. Nét mới là màu xanh lá thư bị xoá nhoè giữa những ước lệ được liên kết thành một xâu chuỗi kiên cố, chặt chẽ quá làm mất chất thơ. Thêm vào đó là những câu thất ngôn Đường luật rất chỉnh chu:
Lá vàng từng cánh / rơi từng cánh
Rơi xuống âm thầm / trên đất xưa
Bài Gửi Gió Cho Mây Ngàn Bay rất hay, nhưng hay một cách khác, được yêu chuộng ở một giới thính giả khác.
Phạm Duy, thời trẻ, đã có những sáng tạo tân kỳ:
Buồm về dội nắng đôi vai
Bao nhiêu màu hoa ngát trên đôi môi
(Tiếng Đàn Tôi, 1947)
Sau đó, anh trở về với ngôn ngữ duy lý:
Bao giờ em giở lại vườn dâu (hỡi em)
Là một câu thơ tuyệt vời: vườn dâu là niềm thương nhớ muôn trùng một nền văn minh đã khuất bóng. Nhưng Phạm Duy lại bồi thêm câu sau:
Để anh bắc gỗ xây nhịp cầu (anh) bước sang…
(Quê Nghèo, 1948)
Thì cái ý đã thu hẹp cái tứ. Câu hát trở thành thô thiển, và giới hạn âm vang. (Tôi đã có dịp trình lên anh Phạm Duy ý này, anh cười vui: thế à?)
Tác phẩm Lê Thương uyên bác cả nhạc lẫn lời, đã được người đời yêu thích. Trịnh Công Sơn sẽ không viết được những câu văn vẻ như Lê Thương:
Bên Man Khê còn tung gió bụi mịt mùng,
Bên Tiêu Tương còn thương tiếc nơi ngàn trùng…
(Hòn Vọng Phu)
nhưng đã viết:
Đàn bò vào thành phố
Reo buồn tiếng hạt chuông
(…)
Đàn bò tìm dòng sông
Nhưng dòng nước cạn khô
Đàn bò bỗng thấy buồn,
bỗng thấy buồn…
(Du Mục)
Những hình ảnh ngoài trí tưởng tượng của Lê Thương — ông vua đặt lời ca — theo sự đánh giá của Phạm Duy.
Đi vào nền tân nhạc với một tâm hồn mới mẻ, Trịnh Công Sơn đã dần dần xây dựng một nhạc ngữ mới, phá vỡ những khuôn sáo của nền âm nhạc cải cách, thành hình chỉ hai mươi năm về trước.
* *
*
Trịnh Công Sơn tự học nhạc, chứ không được đào tạo theo hệ thống trường quy. Khi bắt đầu sáng tác, được khích lệ, mới “trao đổi nhạc lý với bạn bè,” anh không nói rõ là những ai.
Câu hỏi thứ hai người tò mò đặt ra là: học nhạc một mình, thì vốn liếng nhạc thuật lấy đâu ra mà sáng tác nhiều, nhanh và hay như thế?
Nhiều người cho là tác phẩm anh đơn giản về mặt nhạc thuật, nói là nghèo nàn cũng được.
Văn Cao nhận xét: “Trong âm nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết của âm nhạc cổ điển, theo cấu trúc bác học phương Tây. Sơn viết hồn nhiên như thể cảm xúc nhạc thơ tự nó trào ra.” [3]
Lối nhạc hồn nhiên, dung dị này lại đáp ứng lại với nhu cầu thời đại, theo Phạm Duy: “Về phần nhạc, toàn thể ca khúc Trịnh Công Sơn không cầu kỳ, rắc rối vì nằm trong một số nhạc điệu đơn giản, rất phù hợp với tiếng thở dài của thời đại.” [4]
Một thính giả bình thường, yêu quý Trịnh Công Sơn, đã viết sau khi anh qua đời: “Xét cho cùng, Trịnh Công Sơn là một nhà thơ. Một nhà thơ lớn. Nhạc là cái xe tải anh lắp lấy để chở thơ anh đến với chúng ta” (Vũ Thư Hiên, Varsovie, 4/2001). Nhận xét không đúng nhưng tiêu biểu.
Dù cho rằng nhạc thuật đơn điệu, thì cũng phải thừa nhận tài năng, có phần học tập, có phần thiên phú. Hoa hồng đẹp là do cây hồng, nhưng cũng còn nhờ vào đất đai, phân tro, mưa nắng, người chăm sóc, thậm chí cần cả người ngắm, hoa hồng mới có giá trị cái đẹp hoa hồng. Dù ở đây chỉ là một đoá vô thường.
Ta thử nhớ lại thời đại phát sinh tài năng Trịnh Công Sơn.
Năm anh 15 tuổi, 1954, Hiệp Định Genève chia đôi đất nước, cả hai miền Nam Bắc đều hoá thân trong hoàn cảnh chính trị và văn hóa mới.
Ở miền Nam, văn hoá phương Tây tràn ngập thị trường, nhất định phải ảnh hưởng mạnh mẽ đến tuổi mười lăm.
Sách báo, đĩa nhạc Pháp du nhập ồ ạt vào Việt Nam hằng ngày, giá thực tế rẻ hơn tại Paris nhờ trợ cấp hối đoái, và đây lại là thời kỳ phát minh và phát triển của loại sách bỏ túi và đĩa hát rãnh mịn (microsillon), phát hành rộng rãi, kèm theo những phương tiện truyền thanh mới. Thời trước, tuy Việt Nam là thuộc địa Pháp, nhưng văn chương Pháp chỉ du nhập qua nhà trường, giáo trình dừng lại ở cuối thế kỷ XIX: uyên bác như Xuân Diệu mà không biết Apollinaire. Sau 1954, văn hoá Pháp —và phương Tây — du nhập thẳng vào thị trường. Công chúng đọc Françoise Sagan tại Sài Gòn cùng lúc với Paris. Trên hè phố, nhất là tại các quán cà phê, người ta bàn luận về Malraux, Camus, cả về Faulkner, Gorki, Husserl, Heiddeger.
Nhà văn Bửu Ý, bạn Trịnh Công Sơn — học trước Sơn hai lớp tại Lycée Français Huế — hát Lá Rụng (Les Feuilles Mortes) một lần với Juliette Gréco; Đời Hồng Tươi (La Vie en Rose) một lần với Edith Piaff; Barbara một lần với Yves Montand; trong khi Thanh Tâm Tuyền dịch “Barbara” của Jacques Prévert, đăng trên Sáng Tạo và nhà văn trẻ Nguyễn Xuân Hoàng cũng ngân nga “Barbara.” Nguyễn Trần Kiềm, bạn cùng lớp với Sơn, đi cyclo che nắng bằng sách của Sartre.
Người ta thắc mắc về những tên ca khúc Trịnh Công Sơn cầu kỳ như Mưa Hồng, Tuổi Đá Buồn, trong khi Thanh Tâm Tuyền viết “Đêm Màu Hồng,” về sau trở thành phòng trà lừng danh, lại viết thêm Lệ Đá Xanh, được danh hoạ Đinh Cường, bạn thân Trịnh Công Sơn, vẽ thành tranh trừu tượng, v.v.
Song hành với sách báo, các cơ quan văn hoá Tây phương mở cửa hoạt động: Phòng Thông Tin Hoa Kỳ, Pháp, Trung Tâm Văn Hoá Đức… dĩ nhiên là với những động cơ chính trị trong thời kỳ chiến tranh lạnh, mà chúng tôi không đề cập ở đây, chỉ nhấn mạnh ở ảnh hưởng văn hoá phương Tây thời đó trên đời sống trí thức miền Nam. Những Chiều Chủ Nhật Buồn nằm trong căn gác đìu hiu… Ô hay mình vẫn cô liêu, rồi đến Ngày chủ nhật buồn còn ai, còn ai:… Tuổi buồn Em mang đi trong hư vô, ngày qua hững hờ… Không thể không nhắc đến bài Chủ Nhật Buồn, Sombre Dimanche của Seress Rejso, nghe nói đã có người tự tử vì nó. Hay vì những hư vô, cô liêu, hững hờ, thịnh hành một thời. Trong bài viết “Nỗi lòng của tên Tuyệt Vọng” anh đã tiết lộ “tôi vốn thích triết học và vì thế, tôi muốn đưa triết học vào những ca khúc của mình.” Ví dụ như : “Vết lăn trầm hằn lên phiến đá” mà anh gọi là di thạch: roche errante, người hát không hiểu gì, nhưng vẫn thích hát! Nhưng nói là Rolling Stones cũng không sai.
Ca khúc Trịnh Công Sơn gợi suy tư, đáp ứng lại nhu cầu trí thức chính đáng ở một thiểu số và ảo tưởng trí thức thời thượng ở một đa số, trong đó có các cô cậu, ở mục Tìm Bạn Bốn Phương trên các báo, tự giới thiệu là “yêu màu tím” và “nhạc họ Trịnh,” hay “nhạc TCS” viết tắt.
Thời kỳ này, Nguyễn văn Trung đã viết bài “Ảo ảnh Thanh Thuý.” Nói về ảo ảnh Trịnh Công Sơn, ông ấy cũng có thể viết một bài hay.
Nhạc Trịnh Công Sơn đơn giản: một nhược điểm tạo dựng thành công. Phạm Duy nhận xét về Trịnh Công Sơn “Bài hát chỉ cần một chiếc đàn guitare đệm theo, nếu hoà âm phối khí rườm rà thì không hợp với những bài hát soạn theo thể ballade này.” Lại là một yêu cầu khác của thời đại: những Georges Brassens, Joan Baez lẫy lừng với cây đàn ghi-ta. Ca khúc Trịnh Công Sơn, có thể hát cho vài người nghe, cho một nhóm, hay trước quảng đại quần chúng. Nó đi vào quần chúng, nhất là giới thanh niên: Nó khác với nhạc phòng trà, có giàn nhạc và do ca sĩ hát, và thính giả đi nghe (và nhìn) ca sĩ nhiều hơn là nghe ca khúc.
Thời Trịnh Công Sơn cũng là thời của các tác-gia-soạn-giả-trình-diễn (auteur compositeur interprète) chẳng bao năm mà trở thành huyền thoại: Jacques Brel, Bob Dylan. Báo chí Mỹ gọi Trịnh Công Sơn là Bob Dylan Việt Nam, vì nội dung phản chiến, mà còn vì phong cách trình diễn.
Nhạc Trịnh Công Sơn không phải là nhạc giao hưởng. Những soạn giả bậc thầy của nhạc lý Việt Nam thời đó, như Vũ Thành, Văn Phụng, Nghiêm Phú Phi không có quần chúng.
Trịnh Công Sơn có tài đặt nhạc, soạn lời, lại biết bắt mạch thời đại, sống đúng thế hệ của mình, trong lòng đất nước, trong nhạc cảnh thế giới. Ngần ấy cái tài dồn lại, gọi là thiên tài, cũng không quá đáng.
* *
*
Phân chất những lớp phù sa đã tấp vào dòng nhạc của mình qua những giao lưu văn hoá, Trịnh Công Sơn có nói đến những ảnh hưởng ngoại lai:
Thưở nhỏ tôi rất thích nhạc tiền chiến và có nghe một số nhạc nước ngoài. Những năm 60, tôi có nghe nhạc Blues nói về thân phận của người da đen ở Mỹ. Tôi rất thích nhạc của Louis Amstrong, D. Ellington… Tôi thấy loại nhạc này gần gũi với mình và thấy có khả năng muốn lấy nhạc này để nói lên tâm sự của mình. [5]
Và cũng trên số báo Đất Việt đó, anh cho biết thêm về ảnh hưởng: “Những năm 64-66, sáng tác có chất Blues, những năm 67-72, lại mang nhiều chất dân ca.”
“Chất dân ca” ở đây, phải hiểu theo nghĩa folk songs của Bob Dylan và Joan Baez thịnh hành thời đó. Cả hai danh ca đều hơn Sơn hai tuổi, cùng một thế hệ, cùng một lý tưởng chống chiến tranh, cùng một cây ghi-ta, cùng một điệu hát; “dân ca” ở đây không phải là hò mái nhì, hò giã gạo của quê hương. Nhạc dân tộc trong thời gian đầu, dường như không mấy ảnh hưởng đến anh. Những bài theo chủ đề ru con của Trịnh Công Sơn không mấy âm hưởng những bài hát ru em Việt Nam.
Sau này, thỉnh thoảng người nghe có nhận ra chút âm hưởng hò Huế, như trong Thuở Bống Là Người, hay điệu ru dân tộc, như Lời Mẹ Ru Con thì cũng chỉ là đôi biệt lệ, không tiêu biểu.
Gần đây, sách báo thường trích dẫn câu Trịnh Công Sơn: “Tôi chỉ là tên hát rong, đi qua miền đất này để hát lên những linh cảm của mình về những giấc mơ đời hư ảo.”
Lại phải hiểu chữ “hát rong” theo nghĩa hiện đại: không phải là ông sẩm chợ, hát vè Thất Thủ Kinh Đô ở phố Đông Ba mà Huy Cận đã mô tả, mà hình ảnh người du ca hiện đại, những baladins itinérants trong ca khúc Bob Dylan, trong quan niệm Nhạc Du Bất Tận, Never Ending Tour (1988). Nhà thơ Tô Thùy Yên, chuộng thuyết chính danh, nên đã nói rõ điều này và gọi Trịnh Công Sơn là “người du ca chính hiệu”:
Người du ca là một nghệ sĩ đặc biệt đứng giữa âm nhạc và thi ca, đúng hơn, người du ca là một thi sĩ nhiều hơn là một nhạc sĩ.
Người du ca thường khi xuất hiện và nổi bật trong những thời đại được coi là u uất nhiễu nhương, những thời đại mà tiếng nói con người bị lấn át, tự do con người bị cưỡng chế, giá trị con người bị hạ thấp, hạnh phúc con người bị tước đoạt và ước vọng con người bị bao vây.
Thành thử những tác phẩm du ca có thể là những tác phẩm yếu hơi, dễ dãi, sơ sài, những tác phẩm thành hình trong một thoáng cảm hứng nhất thời, những tác phẩm như những ký tự ghi chép vội vàng trên một trang giấy tình cờ, và thả bay ngay theo thời thế.
Trong Cõi Tạm, ăn xổi ở thì này, nơi con người chôm liền chộp lẹ mọi cơ hội để mua lẻ và mua rẻ chút hư danh, có người còn viết được những lời như vậy, là nghiêm túc và tâm huyết. Nhất là viết cho một người vừa khác phe, vừa khác phái.
Văn Cao cũng là một người sành chữ nghĩa. Trong câu chuyện thân mật, anh thường nói: “Sơn là một troubadour (kẻ hát rong) có tài.” Nhưng khi viết về Trịnh công Sơn, anh dùng chữ chantre, trang trọng hơn, trong nghĩa “kẻ ngợi ca”: “bởi Sơn đã hát về quê hương đất nước bằng cả tấm lòng của một đứa con biết vui tận cùng những niềm vui, và biết đau đến tận cùng những nỗi đau của Tổ Quốc Mẹ hiền.”[6] Troubadour hát nhạc mua vui cho trần thế, Chantre hát những Lời Buồn Thánh. Tuy nhiên, Trịnh Công Sơn cũng chỉ tự xưng là troubadour, như tên đặt cho phòng tranh anh triển lãm chung với Đinh Cường, Bửu Chỉ tại Gallery Tự Do, tháng 8/2000.
Năm 1969, bạn anh, họa sĩ Trịnh Cung, đã vẽ bức tranh đẹp, tên là Le troubadour = Kẻ du ca, hát để kêu gọi hoà bình. Những chuyện này đều tương quan với nhau.
Khi Phạm Duy gọi ca khúc Trịnh Công Sơn là những ballades, không cùng một nguồn gốc với chữ baladin, cũng là có ý trang trọng.
Các vị ấy tài cao, ý sâu mà lòng thì rộng rãi; cho nên lời cũng khoáng đạt.
* *
*
Hôm qua trăng sáng lờ mờ
Em đi tát nước, tình cờ gặp Anh
Người con gái Việt Nam da vàng, ngày xưa, đã hát như thế trong ca dao, là để che giấu khát vọng tình yêu, chứ trong đời sống nông thôn thời ấy, làm gì có cái tình cờ.
Đời sống thế giới hiện nay, nghĩ cho cùng, cũng vậy thôi. Những giai điệu blues, nhạc phản kháng Bob Dylan, Joan Baez, thơ Prévert, Aragon, Eluard… Trịnh công Sơn đã gặp gỡ, trên dòng nhạc, dòng thơ, dòng tâm tư. Và dòng lịch sử, dân tộc và thế giới. Trong cao trào lớn của loài người, giữa lòng thế kỷ hai mươi: cao trào giải phóng dân tộc, chủng tộc và giai cấp. Đừng quên việc giải phóng phụ nữ: người phụ nữ Pháp đi phá ngục Bastille từ 1789, mãi đến 1946 mới có quyền đầu phiếu.
Người phụ nữ Việt Nam cũng vậy thôi: sau khi chờ chồng hoá đá, họ bước chân vào thế kỷ XX, thì ngồi đan áo. Từ Buồn Tàn Thu của Văn Cao, qua Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền, thơ hiện đại của Ý Nhi, cho đến năm 2000, trong ca khúc Đêm Xanh của Bảo Chấn, cô ấy vẫn ngồi đan áo, trong khi dọc hè phố, áo pull bán rẻ mạt.
Đan áo là hình ảnh ẩn nhẫn, thụ động mà người đàn ông đòi hỏi. Đan áo cho ai đó, hay để tưởng nhớ, chờ đợi ai đó. Ca khúc Trịnh Công Sơn, rất nhiều phụ nữ, nhưng không thấy họ đan áo. Mà chỉ… ngồi chơi, khi nghiêng vai, khi nghiêng đầu, khi nghiêng sầu. Ngồi chơi chán rồi thì Đứng lên gọi mưa vào Hạ. Nếu khóc, cũng chỉ khóc cho những Chiều mưa đỉnh cao… Mai kia, có ra đi, thì cũng là Như những dòng sông nhỏ.
Người đàn bà trong Trịnh Công Sơn đẹp dung dị và tự do bình thường. Tự do với cuộc đời, với tình yêu, thậm chí với tình dục. Nhạc Trịnh Công Sơn không nói đến tình dục, vì nói đến… làm gì?
Người phụ nữ nghe và hát nhạc Trịnh Công Sơn thoải mái, vì chỉ hát, hay nghe, mà không phải làm gì cả, không phải Hái Mơ, Lái Đò, bán Hàng Cà Phê, Hàng Nước, không phải thay quần áo làm cô Sơn Nữ, cô Láng Giềng hay mua lấy số phận Người Yêu của Lính. Và nhất là không phải… đi lấy chồng: hạnh phúc không thấy đâu mà chỉ nghe oán trách dài dài suốt nửa thế kỷ: Em đi trên xác pháo, anh đi trong nước mắt… Em ơi tình duyên lỡ làng rồi, còn chi nữa mà chờ… Và, ở một chân trời khác, họ cũng không phải ba đảm đang, ba sẵn sàng, làm Người Mẹ Cầm Súng, xung phong đi gỡ mìn ở Ngã Ba Đồng Lộc…
Sau 1975, khi “Em ở Nông trường, em ra Biên giới” thì người nghe có cảm giác cô Tấm đã trở thành cô Cám, và Trịnh Công Sơn sẽ gào gọi Bống hỡi Bống hời, cô Tấm thỉnh thoảng có tái hiện, nhưng cũng đã tân trang nhiều lắm.
Trong xã hội Việt Nam, cho đến hôm nay, chưa chắc gì người phụ nữ đã được giải phóng, và tôn trọng đúng mức. Trong ca khúc Trịnh Công Sơn, họ được giải phóng và tôn trọng. Tôn trọng người đàn bà, không phải là tán tỉnh, Trịnh Công Sơn, rất hồn nhiên đã hiểu ra và nói vào điều đó.
* *
*
Nhạc phản chiến, đòi hỏi hoà bình của Trịnh Công Sơn thì nhiều người biết, sẽ có nhiều người viết về đề tài này. Mới đây, trong buổi tưởng niệm Trịnh Công Sơn, tại Californie, anh Đỗ Ngọc Yến có nói rõ và nói đúng, khác với Đỗ Ngọc Yến cách đây 40 năm và 20 năm.
Tôi không đủ thì giờ viết về đề tài này, nhưng sẽ đề cập đến ở một dịp khác, nay chỉ vội nói ngay mấy ý kiến chủ quan:
1. Dù đánh giá ra sao đi nữa, nhạc Trịnh Công Sơn cũng là sản phẩm của chế độ Việt Nam Cộng Hoà, trong cả hai mặt tích cực và tiêu cực của chế độ này.
Không có Miền Nam, cũng có thể có một Trịnh Công Sơn, nhưng là một Trịnh Công Sơn khác, đại khái như một Phạm Tuyên hay Phan huỳnh Điểu.
2. Chính quyền Cộng Sản, sau 1975, sau những thăm dò, đã lưu dung một phần trong nhạc phẩm Trịnh Công Sơn và đã khéo sử dụng Trịnh Công Sơn. Có thể nói sau 25 năm chiến thắng, thành công hiếm hoi, nếu không phải là duy nhất, của chính sách văn hoá của chính quyền cộng sản, là tiếp thu nhạc Trịnh Công Sơn, mà công đầu là Thành Uỷ TPHCM. Dùng chữ “chính sách,” là để nhìn toàn cảnh, chứ đối với một cá nhân, chắc chỉ có những quyết định cục bộ, nhất thời, bất thành văn. Dù sao, họ cũng chỉ kế thừa kinh nghiệm Liên Xô vào thời kỳ Tân Chính Sách Kinh Tế (NEP) những năm 1920, sau cuộc nội chiến, khi Lenine thu dung những nhà văn, nhà thơ “bạn đường” (Popoutchiki) như Alexis Tolstoi hay Zamiatine.
Trong chiến tranh chống Pháp, người Cộng Sản đã không thu phục được Phạm Duy. Sau 1954, họ không thu phục được Văn Cao. Nhưng sau 1975, họ thu hoạch được Trịnh Công Sơn, như vậy đã là thành công. Thành công về mặt hiện tượng, không phải về mặt bản chất. Về mặt bản chất, chuyên chính vô sản không bao giờ chấp nhận cái gì khác họ, không phải do họ tạo ra. Mặt khác, ca khúc Trịnh Công Sơn trước kia và bây giờ không có “tiêu chuẩn” đáp lại quy luật của hiện thực xã hội chủ nghĩa. Cố gắng đến đâu thì cây cam cũng không tạo được quả chanh. Trước kia “hai mươi năm nội chiến từng ngày” là sai đường lối, bây giờ hỏi “Em còn nhớ hay Em đã quên” vẫn sai lập trường.
Chấp nhận — dù trong giới hạn — những dư vang của một chế độ chính trị mà mình cố công bôi xoá, chính quyền TPHCM, trong chừng mực nào đó, đã nhượng bộ quần chúng, đã gián tiếp thừa nhận mình thất bại, trong việc ngăn chặn nhạc vàng, và nhất là trong việc đào tạo một nền âm nhạc mới đáp ứng với quần chúng. Chính quyền Trung ương Hà Nội ‘wait and see’ để cho TPHCM “phát huy sáng kiến”; nếu rách việc thì ra tay chận đứng một “quyết định địa phương,” nếu vô hại thì án binh bất động, và thêm được tiếng là cởi mở, hoà hợp.
3. Về phía Trịnh Công Sơn, anh cũng khéo thoả hiệp với chính quyền mới. Việc anh ở lại Việt Nam sau 1975, hợp tác với các hội văn nghệ Huế, rồi TPHCM là hợp lý, sau khi đã sáng tác “Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm”… Đó là sự chọn lựa tự do của anh. Cũng như Nguyễn Trãi xưa kia, cháu ngoại nhà Trần, mà không phò tá các phong trào kháng chiến Hậu Trần, lại đi hợp tác với đám nông dân Lam Sơn. Hay như Ngô Thời Nhậm, nhiều đời ăn lộc chúa Trịnh vua Lê, mà đã đi hợp tác với nhóm áo vải Tây Sơn. Từ đó người ta có thể thông cảm khi anh làm một số bài ca ngợi chế độ mới, không hay lắm và ít được hát, ít người biết: âu cũng là điều may mắn cho anh, vì anh đã có một số câu chữ không hay và không cần thiết.
Anh là người được hưởng nhiều bổng lộc của chính quyền, nhiều hơn những cán bộ đã vào sinh ra tử trong cả hai cuộc chiến tranh. Anh có thể hát Đời Cho Ta Thế. Thật ra, đời không cho ai cái gì mà chỉ đổi chác; anh đã phải trả giá, có khi là giá rất đắt. Anh không trả thì nhiều người khác phải trả. Ý thức điều đó có lần anh viết:
Tôi không bao giờ có tham vọng trở thành một người viết ca khúc nổi tiếng. Nhưng đời đã tặng cho tôi món quà ấy thì tôi không thể không nhận. Và khi đã nhận rồi thì phải có trách nhiệm với mọi người.
Nói thì ngon lành như thế. Thực tế không đơn giản: người ta cho anh bó hoa, chai rượu. Ai cho anh trách nhiệm? Anh hát “mỗi ngày tôi chọn một niềm vui,” khi bạn anh, Thái Bá Vân, nhà phê bình nghệ thuật tài danh, thuộc Viện Mỹ Thuật Hà Nội than: “Một năm không được một ngày vui.” Muốn mua vui, phải vào Sài Gòn… chơi với Sơn. Nhưng chẳng qua là niềm vui của phận “chim lồng cá chậu”; hiểu như thế, bạn bè không đòi hỏi gì nhiều ở một nghệ sĩ yếu đuối, sống chết giữa trùng vây như anh.
Người ta đánh giá một tác giả qua những tác phẩm anh ta đã thực hiện, chứ không qua những tác phẩm mà “lẽ ra” anh ta phải thực thực hiện. Nhân danh cái “lẽ ra” ấy, người làm văn học nghệ thuật đã là nạn nhân của bao nhiêu là oan khiên, oan khốc và oan khuất.
Không những vì chút tình riêng, nhưng còn vì tình đời, luật công bình, luật tương đối, luật chơi, chúng ta nên gạt sang một bên nhiều cái “lẽ ra” đối với Trịnh Công Sơn, mà chỉ xét những cái anh đã làm ra.
4. Qua bốn mươi năm truân chuyên, Trịnh Công Sơn đã có những đóng góp lớn lao vào nền văn học nghệ thuật, vào đời sống xã hội, và lịch sử chính trị. Phần lớn sự nghiệp anh đã thành hình và thành công dưới chế độ Việt Nam Cộng Hoà, mà mọi người đã biết. Bài này tạm thời chưa nói đến.
Ngoài quần chúng cũ, nghe nhạc Trịnh Công Sơn vì yêu thích hay để nhớ lại ngững âm hao xưa cũ, thì thính giả khác, giới thanh niên Việt Nam ngày nay, hay người miền Bắc trước 1975, đón nhận ra sao?
Trong xã hội Việt Nam ngày nay, ca khúc Trịnh Công Sơn mang lại chất Thơ cho đời sống. Nhìn qua một số đĩa hát CD, thu nhiều bài của nhiều soạn giả, thì cái tên chung thường mượn tiêu đề của Trịnh Công Sơn, như Lời Thiên Thu Gọi (Hồng Nhung), Xin Mặt Trời Hãy Ngủ Yên (Mỹ Linh), những tiêu đề nhiều âm vang, nhiều thi vị. Những nhạc sĩ khác, Dương Thụ, Phú Quang, Trần Tiến, Bảo Chấn… đều tài cao, nhưng được đào tạo và trưởng thành trong một xã hội duy dụng và thực dụng, óc sáng tạo cao siêu của họ không đặt ra những câu hỏi vớ vẩn như là Sóng Về Đâu? Vì thực tế: sóng thì… về đâu? Trong một mẩu xã hội nào đó, đặt những câu hỏi như thế, là có cơ nguy bị nhốt vào nhà thương điên.
Chủ nghĩa hiện thực xã hội rất nghiêm khắc, yêu chuộng văn vần, một loại văn xuôi diễn ca (prose versifiée), với điều kiện loại văn vần ấy không có chất Thơ. Thi phẩm của “công thần” Nguyễn Đình Thi còn bị gạt ra nói gì đến “hàng thần” Trịnh Công Sơn? Nhưng ca khúc Trịnh Công Sơn đã lọt qua được các mắt lưới, vì đã cấp thời đáp lại được “lời gọi của khoảng trống” (l’appel du vide) và ca khúc là một thể loại nhẹ, phù phiếm (genre léger), chính quyền dung dưỡng vì có khả năng chận đứng bất cứ lúc nào – như đã làm với nhạc Văn Cao ngày xưa: thậm chí bài Quốc Ca còn bị hăm doạ thay đổi. Và đang làm với Phạm Duy ngày nay. Trong các CD thu tại Việt Nam hiện nay có ai thấy Giấc Mơ Hồi Hương, nhạc Vũ Thành?
Chính quyền dung dưỡng ca khúc Trịnh Công Sơn không phải vì động cơ nghệ thuật, nhưng như một thế phẩm (ersatz), trong thời kỳ quá độ, như bác sĩ ban thuốc an thần cho bệnh nhân mất ngủ. Trong khi chờ đợi, thính giả hưởng lạc khoản, được ngày nào hay ngày ấy. Họ đang được nghe bài Sóng Về Đâu một trong ca khúc cuối đời Trịnh Công Sơn:
Biển sóng, biển sóng đừng xô tôi
Đừng xô tôi ngã dưới chân người
Biển sóng, biển sóng đừng xô nhau
Ta xô biển lại sóng về đâu
Sóng bạc đầu và núi chìm sâu
Ta về đâu đó
Về chốn nào mây phủ chiêm bao
Xã hội chủ nghĩa có thể tạo ra nhiều bài hát hay hơn. Nhưng tạo ra được cái gì na ná như thế thì vô phương. Thiên tài không phải là người không bắt chước ai, mà là người không để ai bắt chước được mình.
5. Chứng từ cho giá trị một tác phẩm nghệ thuật, là khả năng kết hợp rộng rãi và lâu dài của nó. Nhạc Trịnh Công Sơn được hát rộng rãi ở Miền Nam trước 1975, chúng ta đã biết. Nhưng trước 1975, Miền Bắc đã nghe và đã thích nhạc này, như Văn Cao đã kể lại[7]. Nguyễn Duy kể thêm rằng ở dọc Trường Sơn, bộ đội miền Bắc cũng đã nghe:
Mặt trận Đường Chín — Nam Lào (1971)… trong căn hầm kèo bên dòng sông Sêbănghiêng… Nghe, nghe trộm — vâng, lúc đó gọi là nghe trộm — đài Sài Gòn, tình cờ ‘gặp’ Trịnh Công Sơn qua giọng hát Khánh Ly… Diễm Xưa… Mưa vẫn mưa rơi… làm sao em biết bia đá không đau… Quỷ thật! giai điệu ấy và lời ca ấy tự nhiên ‘ghim’ lại trong tâm tưởng tôi ngay từ phút bất chợt ấy. Rồi Như Cánh Vạc Bay… Quái thật!… Cảm nhận bất chợt, những bài hát rất mượt mà, đắm đuối ấy… ừ thì có buồn đấy, đau đấy, quặn thắt nữa đấy… nhưng còn là cái gì lành mạnh nảy nở trong đó. Hình như là cái Đẹp… Bảng lảng, lờ mờ, khó phân định cho đúng nghĩa, nhưng rõ ràng là đẹp, đẹp làm sao… Và cũng hơi ma quái thế nào… [8]
Người ác ý có thể ngờ vực: Nguyễn Duy là nhà báo có quyền nghe đài, sau này là bạn rượu của Trịnh Công Sơn, nên thêm thắt. Thì đây, một chứng từ khác đến từ một anh bộ đội, không quen biết gì, không điếu đóm gì với Trịnh Công Sơn, nhà văn Nguyễn văn Thọ, hiện ở Berlin:
Năm 1972, khi ấy tôi là bộ đội trong rừng Trường Sơn. Thằng bạn tôi, sau chiến dịch Lam Sơn 719 vớ được cái đài Sony rât tốt.
Đêm Trường Sơn, chờ cho mọi người đi ngủ hết, chúng tôi lén mở đài BBC và cả đài Sài Gòn. Đấy là lần đầu tiên tôi được nghe tiếng hát Khánh Ly với nhạc Trịnh Công Sơn.
Chúng tôi là lớp người lớn lên từ Miền Bắc, thường quen với những khúc thức hùng tráng. Trong tiếng chộn rộn rú rít của sóng vô tuyến, tôi vẫn thấy một giọng lạ của một thứ âm nhạc mới. Một thứ nhạc da diết, đầy lãng đãng từ ca từ, tới khúc thức. Một thứ nhạc xanh không giống bất cứ nhạc xanh nào mà tôi từng nghe, kể cả trong những đĩa hát quay tay cổ mở suốt ngày rên rỉ ở đầu chợ trời những ngày sau hoà bình.
Rất lạ, với tôi khi đó nhạc Trịnh Công Sơn như làn gió khởi từ xa xăm đâu đó, tách khỏi hận thù trận mạc, tha thiết một tình yêu đồng loại, giống nòi, yêu bè bạn, hoà bình, đạo lý. Nó lạ, vì lối ca từ phi tuyến tính, không giống cách viết truyền thống trên những ca khúc của Hà Nội khi đó.
Quý hoá hơn nữa, anh Thọ đã ghi lại cảm giác khi tiến quân vào Sài Gòn, nghe nhạc Trịnh Công Sơn hát Nối Vòng Tay Lớn, buổi trưa ngày 30/4/1975, trên đài Sài Gòn:
Mặt đất bao la… anh em ta về… gặp nhau trong bão lớn quay cuồng trời rộng…”
Lời ca không phải là tiếng thách thức tử thủ. Lời ca không phải là tiếng bể máu như kết cục thường của chiến cuộc, lời ca khi ấy làm chùng xuống không khí thù hận và hằn học.
Chúng tôi tiến vào Sài Gòn…
Nối Vòng Tay Lớn
Chiến tranh nào bao giờ chẳng có mặt trái, nhưng tiếng hát kia, bản nhạc ấy, mở ra cho cả hai bên nghe như một liều thuốc vô hình đã làm chùng xuống một thời khắc thường dễ nổi cáu và nổi doá.
Đấy là kỷ niệm thứ hai của tôi về anh.
Tiếng hát làm chùng tay súng. Một ngày, một giờ mà sinh mệnh của hằng triệu con người nằm trên đường tơ kẽ tóc, một sự kiện như thế không trọng đại hay sao?
Văn học nghệ thuật Việt Nam, đã bao nhiêu lần đóng vai trò đó?
Sau này, Thọ sang sinh sống tại Đức, theo diện xuất khẩu lao động, vẫn nghe nhạc Trịnh Công Sơn:
Ngay cả sau này, đôi khi tự an ủi mình, nâng đỡ mình, tôi khe khẽ hát ‘Tôi ơi đừng tuyệt vọng’… và nhiều bài ca khác trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, nhưng tôi vẫn nhớ từng chi tiết và cám ơn nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ở trưa phát thanh trên làn sóng Sài Gòn ngày đó. [9]
Ở một chân trời khác, nhiều người oán trách Trịnh Công Sơn về việc lên đài hát Nối Vòng Tay Lớn, trưa ngày 30.4.1975. Thật ra, anh có hát hay không hát, thì chế độ Việt Nam Cộng Hoà cũng tan rã. Anh có hát, và có hợp tác với chính quyền mới, âu cũng là một cách cứu vãn vết tích văn hoá của nền Việt Nam Cộng Hoà đã đào tạo ra anh về mặt tài năng và sự nghiệp, thậm chí tạo ra cả một huyền thoại Trịnh Công Sơn.
Một lần nữa, ông Nguyễn Văn Trung, sau “Ảo ảnh Thanh Thúy” nếu viết “Trịnh Công Sơn Thực Chất Và Huyền Thoại” cũng sẽ nghĩ ra nhiều điều hay.
Nếu có ai đó nói rằng: Trịnh Công Sơn là một khổ nhục kế, để kéo dài hơi thở văn hoá của một chế độ chính trị đã bị bức tử, thì là lời đại ngôn, duy cảm, nghịch lý, vớ vẩn.
Vớ vẩn như một số lời ca trong tác phẩm Trịnh Công Sơn. Nhưng biết đâu chẳng là sự thực? Sự thực trong bao nhiêu cái vớ vẩn, kể cả trong lịch sử.
Chế Lan Viên, năm 1984, đã viết: “Văn hoá của thực dân mới là con đẻ của chủ nghĩa thực dân mới. Quân sự, chính trị thực dân mới có chết, có băng hà thì nó cũng truyền ngôi cho văn hoá.”[10] Và Chế Lan Viên không phải là người vớ vẩn, viết lách vớ vẩn.
* *
*
“Không xa đời và cũng không xa mộ người…”
Trịnh Công Sơn đã xa đời lúc 12 giờ 45 tại Sài Gòn, ngày 01.4.2001.
Đám tang ngày 4 tháng Tư, nghe nói lớn lắm, hàng trăm tràng hoa ngập con hẻm 47 Duy Tân. Hàng vạn người đưa tiễn, trong đó có thể có người đi tiễn một điều gì khác, một tâm tình hay u hoài nào đó của riêng mình, chẳng hạn.
André Malraux có nói đâu đây rằng “trong Thiên Chúa Giáo, chỉ có những pho tượng là vô tội.” Trịnh Công Sơn đã sống non nửa sau cuộc đời, trong một chế độ chính trị mà các pho tượng cũng không phải là vô tội.
Những đoá hoa đặt trên mộ Toa, Sơn ơi, không phải là đoá hoa nào cũng vô tội.
Bây giờ moa mới khóc Toa đây. Tại nhà moa, ngồi ở chỗ Toa ưa ngồi vẽ, nhìn dòng sông nhỏ, mà Toa đã gọi là sông An Cựu.
Sơn ơi, đời này, và sang đời khác nữa, làm gì có đến hai dòng sông An Cựu;
an cựu, Sơn ơi.
Đặng Tiến
Orléans, 14.04.2001
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Trịnh Công Sơn, Nhạc và Đời, nxb Tổng Hợp Hậu Giang
[2] Đất Việt, Canada tháng 6, 1986
(Thật ra bài Ướt Mi, làm năm 1958, nxb An Phú, in 1959)
[3] Văn Cao, Lời Bạt cho tập nhạc Trịnh Công Sơn Em Còn Nhớ Hay Em Đã Quên, nxb Trẻ, TPHCM, 1991, tr. 115
[4] Phạm Duy, Hồi Ký Thời Phân Chia Quốc Cộng, nxb Phạm duy Cường, California, 1991, tr. 287
[5] Đất Việt, Canada tháng 6,1986
[6] Văn Cao, Lời Bạt cho tập nhạc Trịnh Công Sơn Em Còn Nhớ Hay Em Đã Quên, nxb Trẻ, TPHCM, 1991
[7] Văn Cao, Lời Bạt cho tập nhạc Trịnh Công Sơn Em Còn Nhớ Hay Em Đã Quên, nxb Trẻ,, TPHCM, 1991.
[8] Nguyễn Duy, trong Tôi Thích Làm Vua, nxb Văn Nghệ, TPHCM, 1987
[9] Nguyễn Văn Thọ, “Nhớ Trịnh Công Sơn,” Nước Đức, ngày 4.4.2001
[10] Chế Lan Viên, “Văn hoá thực dân mới chết hay chưa chết,” trong Ngoại Vi Thơ, tr. 121, nxb Thuận Hoá, Huế, 1987
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)