28/4/10

Nỗ lực tìm kiếm hài cốt quân nhân VNCH

BBC Vietnamese
Cập nhật: 17:50 GMT - thứ tư, 28 tháng 4, 2010

Nỗ lực tìm kiếm hài cốt quân nhân VNCH

Hà Mi
BBC Việt Ngữ

Việc tìm kiếm hài cốt của những người chết và mất tích trong và sau cuộc chiến Việt Nam vẫn tốn nhiều công sức của các bên, cho dù chiến tranh kết thúc đã tròn 35 năm.

So với nỗ lực tìm kiếm và truy tập các tử sĩ Mỹ và bộ đội Bắc Việt Nam, có vẻ như những người lính phe Việt Nam Cộng hòa mất tích hoặc chết trong các trại cải tạo sau 75 cho đến gần đây vẫn chịu nhiều thiệt thòi.

Tuy nhiên, nhờ nỗ lực của một số cá nhân và tổ chức, công việc tìm kiếm hài cốt quân nhân lực lượng Việt Nam Cộng hòa gần đây đã thu hút được sự chú ý và trợ giúp của cả chính quyền Việt Nam lẫn Hoa Kỳ.

Trong chuyến công tác tới Hoa Kỳ mới đây, Hà Mi của BBC Việt ngữ đã có cuộc trò chuyện với ông Nguyễn Đạc Thành, chủ tịch Tổng hội HO (ra đi có trật tự) và Hội Người Việt mất tích, và được ông cho biết về công việc tìm kiếm này:

Nguyễn Đạc Thành: Trước hết, không có sự trợ giúp chính thức của chính phủ Việt Nam thì chúng tôi không làm được gì cả, bởi vì chính phủ Việt Nam họ quản l‎ý đất nước, nếu họ không chấp thuận thì chúng tôi không làm được gì hết.

"Sau 35 năm, tất cả đều đã lo đưa hài cốt tử sĩ của mình trở về. Riêng hài cốt của anh em Việt Nam Cộng hòa của chúng tôi thì ở ngoài rừng sâu. Cái việc đó làm cho chúng tôi rất là đau lòng."

Chính phủ Việt Nam, cũng như chính phủ Mỹ, đã tích cực giúp chúng tôi trong việc này. Khi chúng tôi đến Việt Nam, thì một thời gian sau, chúng tôi đã liên lạc với tòa đại sứ và chúng tôi được tòa đại sứ yểm trợ rất là mạnh mẽ và cũng hậu thuẫn cho chương trình này.

BBC: Ông mong muốn nhận được những trợ giúp gì nữa trong tương lai để tiếp tục công việc mình đang làm?

Nguyễn Đạc Thành: Cái vấn đề mà chúng tôi mong mỏi là hai chính phủ đứng ra trực tiếp giúp chúng tôi tìm và đưa hài cốt của anh em trở về gia đình. Bởi vì sau 35 năm, tất cả đều đã lo đưa hài cốt tử sĩ của mình trở về. Riêng hài cốt của anh em Việt Nam Cộng hòa của chúng tôi thì ở ngoài rừng sâu. Cái việc đó làm cho chúng tôi rất là đau lòng.

Tuy nhiên, chúng tôi cũng không trách được. Bên phía Việt Nam họ phải lo cho tử sĩ của họ, phía Mỹ phải lo cho tử sĩ của họ, điều đó là đúng. Mà họ không lo gì cho phía miền nam Việt Nam chúng tôi là cũng đúng thôi. Nhưng mà tại sao anh em chúng tôi không lo cho hài cốt của bằng hữu của mình, mà lại phải trông chờ người khác? Thì đó là lý do mà chúng tôi lên tiếng.

Và chúng tôi rất là mong mỏi hai chính phủ giúp đỡ cho chúng tôi hoàn thành công việc nhân đạo này. Sau khi làm việc thì chúng tôi biết là chính phủ Việt Nam đang rất muốn giải quyết giúp chúng tôi và đang có một chương trình ủng hộ chúng tôi để làm công việc nhân đạo này.

Riêng về chính phủ Mỹ thì cũng có dấu hiệu cho tôi thấy rằng chúng tôi sẽ nhận được sự ủng hộ của chính phủ Mỹ. Nhưng mà để có câu trả lời rõ ràng, xin cô hãy chờ chúng tôi đang thực hiện chương trình lấy 22 hài cốt của anh em tù cải tạo ở miền Bắc, tại làng Đá. Sau kết quả này thì sẽ có câu trả lời rất rõ ràng cho cô về bên phía Mỹ.

BBC: Qua kinh nghiệm làm việc trong thời gian vừa qua, ông có thể tiên lượng được những khó khăn gì sẽ xảy ra khi tiếp tục công việc này trong thời gian tới?

"Sự hận thù của hai bên, của hai chiến tuyến nên dẹp bỏ để làm công việc nhân đạo này. Là bởi vì người chết rồi đâu còn thù hận gì, chúng ta nên giúp nhau đưa những người đó về với gia đình. "

Nguyễn Đạc Thành: Công việc này có những khó khăn của nó. Thứ nhất là mộ của tù cải tạo hay là những anh em đã chết trong cuộc chiến là rất lâu rồi, thành ra khi phát giác ra, biết được chỗ đó tìm cũng rất là khó. Nếu mà không có sự giúp đỡ mạnh mẽ từ chính phủ Việt Nam cũng như những người biết thông tin tích cực giúp thì chúng tôi khó có thể làm được. Đó là khó khăn về mộ.

Cái thứ hai là khó khăn mà chúng tôi cho rằng đến nay nên phải giải quyết, đó là cái sự hận thù của hai bên, của hai chiến tuyến nên dẹp bỏ để làm công việc nhân đạo này. Là bởi vì người chết rồi đâu còn thù hận gì, thì chúng ta nên giúp nhau đưa những người đó về với gia đình.

Mà cái người đau khổ nhất là các gia đình còn sống. Mọi người đều biết rằng hài cốt là cái gì thiêng liêng của thân nhân người ta. Hiện tại mình còn sống thì nên giúp cho họ, để mà hoàn thành được cái mong muốn là đưa hài cốt họ về, cho dù là một mảnh xương tàn mà thôi.

Đó là một việc làm nhân đạo rất cần, và nên gạt bỏ sang một bên tất cả những gì không nhân đạo. Đừng có đem chính trị vào vấn đề này. Tôi cho rằng làm sao để đưa hài cốt của những người đã mất trong cuộc chiến về với gia đình. Đó mới là việc làm hết sức cần thiết. Nó đúng với truyền thống nhân đạo của người Việt Nam mình.

BBC: Xuất phát từ đâu mà ông làm việc này, vì cũng có thân nhân mất tích như thế?

Nguyễn Đạc Thành: Tôi không có thân nhân, nhưng đối với tôi đó một vấn đề rất quan trọng, thật sự trong lòng tôi xin kể với cô, là tôi không nghĩ tôi có thể ra khỏi trại tù cải tạo và chính tôi khi đó là người sắp chết. Nên tôi biết được người sắp chết họ muốn gì.

Bởi vì khi ở ngoài Bắc, tôi bị bệnh kiết, tôi sắp chết. Cô biết là ở tù ngoài Bắc mà bị kiết là chết, chứ không thể sống nổi. Ít khi nào sống được lắm, mà có sống được thì đưa lên đến trạm xá cũng chết. Khi tôi nằm đó, tôi vái Phật Bà, Phật tổ, và tôi vái những anh em đã chết, rằng nếu mà cứu tôi được, tôi sống được mà ra khỏi tù và có cơ hội thì tôi sẽ đưa họ về.

Bởi vì khi sắp chết thì tôi tha thiết muốn gặp vợ con tôi lần chót. Tôi muốn nói với vợ con tôi là xin lỗi (khóc), trong thời gian làm việc, tôi có những mistakes (sai sót) với gia đình, hãy tha lỗi cho tôi. Đồng thời, nghĩ rằng khi nằm xuống đây, tôi cũng muốn thân xác tôi về với gia đình, bên vợ con tôi, để tôi yên nghỉ.

Nếu mà chết lúc đó thì đảm bảo với cô là không ai biết được, thân xác tôi sẽ ở ngoài rừng, và đồng thời, linh hồn tôi sẽ không trở về được với vợ con. Cho nên tôi rất mong muốn gặp vợ con tôi lần chót. Tôi rất mong muốn hài cốt mình về với gia đình.

Tôi có vái với anh em như vậy. Khi người bạn tôi chết, là anh Lê Xuân Đèo, chết vì bệnh kiết, mỗi lần đi ngang qua mộ ổng thì tôi bỏ một cục đất xuống, nói rằng: “Đèo ơi, anh ở đây đi, nếu anh phù hộ tôi về được thì tôi sẽ kiếm gia đình anh và tôi sẽ đưa các anh về”.

Sau đó, tôi được ra khỏi tù và tôi được về.

Như cô biết, tôi qua Mỹ, và năm 1995, tôi thành lập Tổng hội HO. Cái mục đích của tôi là tìm hài cốt của anh em. Cho nên trong thời gian từ năm 95 đến 2006-07, tôi cũng phải lo cho gia đình tôi làm sao hồi phục, rồi tôi mới làm được, thì tôi ráng làm việc với người Mỹ, tôi tìm sự ủng hộ của họ.

Cuối cùng, năm 2006, ông luật sư của tôi ông ấy đi về bên Việt Nam trong chuyến thăm của ông Bush, thì tôi nhắn ổng, là thử coi xem phía bên Việt Nam có đáp ứng không, và xin phía VN là tôi muốn lấy hài cốt của bạn tôi từ trại cải tạo như vậy. Khi ông ấy về, ông ấy đem cho tôi kết quả. Cuối cùng là chính phủ Việt Nam cho phép tôi.

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2010/04/100428_nguyendacthanh_mia.shtml

© BBC 2010

TQ nói rõ lập trường về Biển Đông

Cập nhật: 03:35 GMT - thứ tư, 28 tháng 4, 2010
TQ nói rõ lập trường về Biển Đông

Trung Quốc vừa lên tiếng thừa nhận Biển Đông là lĩnh vực Việt-Trung còn nhiều mâu thuẫn nhưng phản đối Việt Nam quốc tế hóa chủ đề này.

Trang tin Chinanews.com.cn vừa có tin tường thuật cuộc gặp giữa Phó Đô đốc Hải quân đồng thời là Phó Tổng thammưu trưởng quân đội nước này - ông Tôn Kiến Quốc, với Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh Quốc hội Việt Nam Lê Quang Bình.

Ông Bình đang ở thăm Trung Quốc một tuần từ 24/04 - 03/05.

Bản tin nói Phó Đô đốc Tôn đã "trình bày quan điểm của Trung Quốc về Nam Hải (Biển Đông)" cho phía Việt Nam.

Ông Tôn Kiến Quốc được trích lời nói Biển Đông là "khác biệt và mâu thuẫn" lớn nhất trong quan hệ Việt-Trung.

"Trung Quốc phản đối các hành động làm quá nóng vấn đề này, phản đối việc quốc tế hóa và sự can thiệp của các nước ngoài (vào vấn đề Biển Đông)".

Phó tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc cũng khuyến cáo: " Trung Quốc và Việt Nam nên bình tĩnh và đối phó với vấn đề này một cách thận trọng, tránh ảnh hưởng đến tình hình chung của quan hệ Trung-Việt".

Về phần mình, ông Lê Quang Bình được trích lời nói hy vọng hai nền quân đội đạt đồng thuận càng sớm càng tốt vì an ninh ổn định, hữu nghị và hợp tác.

Chinanews.com.cn là phiên bản online của một trong hai hãng thông tấn hàng đầu Trung Quốc, chỉ sau Tân Hoa Xã và hướng tới Hoa Kiều ở nước ngoài.
Quan tâm chủ đạo

Gần đây, Bắc Kinh đã không dấu giếm quan điểm đặt chủ đề Biển Đông lên cao nhất trong các mối quan tâm của mình.

Báo New York Times cho hay hồi tháng Ba, giới chức Trung Quốc cảnh báo với hai quan chức cao cấp của chính quyền Barack Obama lúc đó ở thăm Trung Quốc, là Bắc Kinh sẽ "không tha thứ cho bất cứ sự can thiệp nào vào Biển Đông".

"Trung Quốc phản đối các hành động làm quá nóng vấn đề này, phản đối việc quốc tế hóa và sự can thiệp của các nước ngoài (vào vấn đề Biển Đông)."

Phó Tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc Tôn Kiến Quốc

Hai vị quan chức Mỹ là Jeffrey Bader và James Steinberg được giải thích rằng "Biển Đông nay là một trong các quan tâm chủ đạo về chủ quyền" của Trung Quốc, bên cạnh Tây Tạng và Đài Loan.

Trung Quốc đã nhiều lần phản đối việc quốc tế hóa, đa phương hóa tranh chấp Biển Đông, duy trì chủ trương đàm phán song phương với các nước có liên quan.

Ngược lại, Việt Nam qua các động thái mới nhất cho thấy lập trường kiên trì theo đuổi việc mang tranh chấp Biển Đông ra bàn quốc tế.

Cũng trong tuần này, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng vừa bắt đầu 5 ngày thăm một số tỉnh miền đông Trung Quốc và tham dự Triển lãm Thượng Hải Expo.

Hôm thứ Ba 27/04, ông Dũng đã tiếp xúc với lãnh đạo cao cấp nhất của các tỉnh Giang Tô và Chiết Giang. Ông cũng sẽ gặp và hội đàm với Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào tại Thượng Hải.

Ngay trước chuyến thăm của ông Dũng, Trung Quốc loan báo bắt đầu hoạt động tuần tra ngư chính "thường xuyên" tại khu vực Trường Sa.

Việt Nam chưa có ý kiến chính thức về hành động này.

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2010/04/100428_china_stance_biendong.shtml

© BBC 2010

Một kiểu bá đạo “made in China”

Cập nhật: 02:19 GMT - thứ tư, 28 tháng 4, 2010

Một kiểu bá đạo “made in China”

Tâm Việt

gửi cho BBCVietnamese.com từ Hà Nội

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và đoàn đại biểu cấp cao chính phủ Việt Nam có mặt tại thành phố Nam Kinh, bắt đầu chuyến thăm tỉnh Giang Tô (Trung Quốc), từ sáng 26/4.

Một ngày trước đó (25/4), Trung Quốc tuyên bố bắt đầu tuần tra thường xuyên ở Biển Đông bằng việc điều động hai tàu mới, thay thế hai tàu khác đang làm nhiệm vụ hộ tống các tàu đánh cá của Trung Quốc trong khu vực biển quần đảo Trường Sa.

Chuyến thăm của Thủ tướng Việt Nam kéo dài đến 1/5 có ý nghĩa đặc biệt trong bối cảnh năm 2010 là “năm Hữu nghị Việt - Trung” và hai nước đang kỷ niệm 60 năm thiết lập quan hệ ngoại giao.

Chuyến thăm Thượng Hải, Giang Tô và Chiết Giang của ông Dũng khẳng định chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam tăng cường quan hệ với Trung Quốc, thúc đẩy hợp tác giữa các địa phương cũng như giữa hai quốc gia, triển khai quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai đảng và hai chính phủ.

Trung Quốc cử tàu ngư chính đi tuần tra tại khu vực quần đảo Trường Sa đúng vào lúc ông Nguyễn Tấn Dũng sắp gặp ông Hồ Cẩm Đào tại Thượng Hải.

Hành động này phải chăng là trùng hợp ngẫu nhiên, hay nó có ý nghĩa gì khác?
'Bá đạo'

Hãy nhìn lại vài ba chục lần trong những năm trở lại đây, mỗi khi có tiếp xúc cấp cao giữa hai đảng và hai nước, TQ bao giờ cũng có “động thái” đặt Việt Nam trước việc đã rồi. Trong nước gọi là “há miệng mắc quai”, nhìn từ phía Việt Nam, hoặc “trùm chăn lại đánh”, nhìn từ ý đồ của Trung Quốc..

Một mặt, mời khách đến nhà, mặt khác đánh “vỗ mặt” khách, không để cho khách kịp phản ứng. Hành động trên đây hoàn toàn có thể coi là một kiểu bá đạo “sản xuất tại Trung Quốc”.

Có đốt đuốc tìm cả ngày cũng không thấy đạo “nước lớn ức hiếp nước nhỏ” trong sách Khổng Tử khi ông trùm Nho này quảng bá lấy giáo dục làm phương thức chủ yếu để đạt tới thế giới “đại đồng”. Ông cũng đi khắp nơi dạy thiên hạ: “Việc gì mình không muốn chớ đem cho người”.

Phản đối việc TQ vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này, trước đây, Bộ ngoại giao VN thường thì cũng lên tiếng mau lẹ. Nhưng lần này, cho đến tận ngày 28/4, VN chưa hề có bất cứ một phản ứng nào. Phải chăng vì có đoàn cấp cao chính phủ đang ở trên đất Trung Quốc mà Bộ Ngoại giao im hơi lặng tiếng?

Một bài báo khá xúc động về cuộc họp mặt của hơn 300 sinh viên trường đại học Ngoại thương cũng đúng vào chiều 26/4 để nghe nhà ngoại giao lão thành Dương Danh Dy nói về thân phận hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và những diễn biến mới nhất xung quanh vấn đề trọng đại này của đất nước đã được đăng trên VietNamnet.

Bài báo trích lời ông Dy xác nhận: "Thời gian qua, với vấn đề Biển Đông, Đảng, Nhà nước ta cũng đã làm được nhiều việc: từ chỗ im lặng đến chỗ lên tiếng, từ chỗ phiếm chỉ, chúng ta đã nêu đích danh thủ phạm".

Dẫn báo chí chính thống Trung Quốc, nhà nghiên cứu Dương Danh Dy cho hay, "Trung Quốc đã chuẩn bị xong cho dư luận về việc sẵn sàng thu phục Trường Sa của Việt Nam bằng vũ lực. 92% của hơn 300 triệu dân mạng Trung Quốc tán thành chủ trương đó"

Thế mà, không hiểu vì nguyên do gì, chỉ mấy tiếng đồng hồ sau, bài báo trên nghe nói được lệnh phải gỡ xuống!

( Bài viết phản ánh quan điểm của tác giả, sống tại Hà Nội )

© BBC 2010

Ông Jim Webb nói về quan hệ Mỹ - Việt

BBC Vietnamese
Cập nhật: 16:21 GMT - thứ hai, 26 tháng 4, 2010

Ông Jim Webb nói về quan hệ Mỹ - Việt

Mở đầu loạt bài nhìn lại 35 năm Cuộc chiến Việt Nam và nhìn tới nhân dịp 15 năm Washington và Hà Nội thiết lập quan hệ ngoại giao tháng 7/1995-2010, BBC Tiếng Việt giới thiệu với quý vị cách nhìn của Thượng nghị sĩ Jim Webb.

Trả lời Phóng viên Hà Mi của BBC có mặt tại Washington DC, ông Jim Webb, người từng có thời gian phục vụ trong lực lượng Thủy quân Lục chiến của Quân đội Mỹ tại Nam Việt Nam trước 1975, nhận định rằng đây là một mối quan hệ có lịch sử phức tạp:

TNS Jim Webb: Quan hệ giữa Hoa Kỳ và đất nước Việt Nam có lịch sử rất phức tạp. Chúng tôi đã làm việc rất tích cực từ năm 1975 để xây dựng một cầu nối mới giữa hai quốc gia và để bảo vệ những người Việt đã cùng chiến đấu với chúng tôi trong thời gian chiến tranh. Tôi đã dùng một thời gian đáng kể của cuộc đời mình để giải quyết những vấn đề này, từ khi tôi còn ở trong lực lượng Thủy quân lục chiến cách đây đã rất lâu và đặc biệt là từ năm 1991 khi tôi lần đầu tiên bắt đầu trở lại Việt Nam. Việc xây dựng đường hướng phát triển quan hệ giữa hai nước là một vấn đề phức tạp. Kể từ năm 1995, tôi cho rằng hai quốc gia đã thực hiện được nhiều việc có tính xây dựng. Việt Nam đã có những bước đi tới, như gia nhập Tổ chức mậu dịch thế giới, rồi hai nước Việt Nam - Hoa Kỳ có những đối thoại chặt chẽ. Tôi cho rằng quan hệ Hoa Kỳ Việt Nam là một trong những mối quan hệ quan trọng nhất tại châu Á.

BBC: Theo ông thì cần làm gì để cho mối quan hệ giữa hai nước cải thiện hơn nữa?

Một trong những vấn đề mà tôi đã làm việc từ rất nhiều năm nay, bắt đầu từ cuối những năm 70s, đó là tìm cách thức cho phép những người Việt đã từng kề vai sát cánh với chúng tôi tái lập quan hệ với phía Việt Nam trong nước. Hiện nay có hai triệu người Mỹ gốc Việt tại Hoa Kỳ và rất nhiều gia đình đã phải trải qua những thời kỳ khó khăn sau năm 1975. Vì thế có tình trạng cay đắng, mất lòng tin từ cả hai phía và vì thế để hai bên đối thoại với nhau là một điều rất khó. Do vậy tôi đã dùng rất nhiều thời gian của mình trong rất nhiều năm qua nói chuyện và làm việc với cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ đồng thời bàn bạc với chính phủ Việt Nam và người Việt tại Việt Nam.

BBC: Chính phủ Việt Nam vẫn thường nói tới việc hòa hợp hòa giải và đó cũng là điều ông đã và đang cố gắng làm. Theo ông thì chính phủ Việt Nam đã làm gì để thực hiện được điều đó? Và còn cộng đồng người Mỹ gốc Việt tại Hoa Kỳ thì đã làm gì trong vấn đề này? ‎

Từ rất nhiều năm nay rất khó khởi sự các cuộc đối thoại như vậy vì cuộc chiến đã diễn ra khốc liệt ra sao và kéo dài như thế nào. Và trong những trường hợp như vậy thì họ cần một cầu nối, cần có khả năng để có thể được đưa tới bàn đối thoại. Và chính đó là điều tôi đã làm việc rất tích cực với cả hai phía, cố gắng khuyến khích đối thoại. Đó là một quá trình tiến triển khá chậm nhưng trong 3-4 năm qua tình hình đã khá hơn rất nhiều.

BBC: Ông nói tới cầu nối, vậy ông hình dung điều gì sẽ là cầu nối tốt nhất từ này trở đi?

Sự tôn trọng lẫn nhau, lòng tin, cả hai bên nhận ra những nguyên do chính đáng khiến có xung đột‎ này. Nhưng giờ đâyvới những ai quan tâm tới vận mệnh của Việt Nam, tới tương lai của Đông Nam Á thì điều quan trọng là phải đến với nhau. Tôi lấy một ví dụ nhỏ vẫn thường nói với bạn bè tại đây về chuyện tình hình đang khá hơn tại Việt Nam. Khi tôi trở lại Việt Nam vào năm 1991, tôi ở Hà Nội và đã đi lễ nhà thờ vào Chủ nhật dự lễ Phục sinh. Tôi thấy chỉ có khỏang 20 người tại Nhà thờ lớn Hà Nội và toàn là người già. Dịp Giáng Sinh vừa rồi tôi cùng vợ tới dự lễ tại Nhà thờ lớn ở Hà Nội và hôm đó có tới hơn 2000 người dự lễ. Điều đó cho thấy chính quyền đã chú ‎ý hơn tới các quyền cá nhân và chúng ta cần nhìn nhận điều đó để tiếp tục có đối thoại.

BBC: Tiếp nối câu trả lời của ông, nếu chính phủ Việt Nam đang cố gắng làm gì đó để cải thiện tình hình, thế phía cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ thì sao, họ vẫn tiếp tục biểu tình mỗi khi các quan chức cao cấp của Việt Nam tới thăm Hoa Kỳ. Liệu theo ông thì có thể làm gì?

Có những người đã bị tổn thương sâu sắc sau năm 1975 khi những người cộng sản nắm quyền kiểm soát tại miền Nam và rất nhiều người bị đi tù cải tạo, 240 ngàn người đã bị tù hơn 4 năm. Nếu một người đã từng làm việc cho Chính quyền Việt Nam Cộng hòa thì người thân trong gia đình họ cũng bị phân biệt đối xử. Vì thế có những người đang sống tại đây vẫn còn những cảm xúc bị tổn thương đó. Và tại Việt Nam cũng có những người vẫn còn giữ những cảm xúc họ đã trải qua. Vì thế điều này cần tới thời gian và đó là thực tế. Nhưng khi tôi nhìn lại 19 năm qua kể từ khi tôi bắt đầu trở lại Việt Nam, tình hình đã khá hơn rất rất nhiều giữa cả hai phía.

BBC: Ông nhắc tới những người Việt đã từng là đồng minh của ông, vậy cũng xin hỏi ông về những người mất tích trong chiến tranh. Bên cạnh những người Mỹ mất tích vốn được chính phủ Mỹ lo tìm kiếm, thế còn những người Việt đã từng chiến đấu hay làm việc cho chính phủ Việt Nam Cộng hòa, những người hiện vẫn còn bị coi mất tích, liệu họ có được sự trợ giúp nào của chính phủ Mỹ hay không?

Tôi được biết có không chỉ một chương trình thực hiện việc trở lại Việt Nam, mà đây là trở lại các trại cải tạo sau khi chiến tranh kết thúc, để tìm kiếm những thi hài những người mất tích, theo hiểu biết của tôi. Với những người chiến đấu cho chính quyền miền Bắc, bộ đội, hiện vẫn còn hơn 300 ngàn người mất tích. Có các cách thức để tìm kiếm tất cả những người này. Vấn đề tù nhân chiến tranh và người mất tích trong chiến tranh tại Hoa Kỳ đã bị sử dụng vào mục đích chính trị, như một phần của chính cuộc chiến. Không hề có một danh sách những người bị bắt giữ và nhiều gia đình thậm chí cũng không biết người thân còn sống hay đã chết. Vì thế vấn đề này động chạm rất sâu sắc về mặt tình cảm tại Hoa Kỳ. Nhưng chúng tôi luôn sẵn lòng giúp tìm kiếm thi hài những người đã tham gia chiến đấu trong cuộc chiến từ tất cả mọi phía.

BBC: Ông có thể nói rõ hơn về chương trình tìm kiếm người Việt mất tích trong chiến tranh, tìm cả người miền Bắc và miền Nam?

Chương trình tìm kiếm những người Việt mất tích của phía miền Nam là những người bị chết trong các trại tù cải tạo sau khi cuộc chiến kết thúc và rất nhiều đồng đội của họ đang làm việc với chính phủ Việt Nam để tìm kiếm thi hài của họ. Vấn đề tìm kiếm bộ đội của miền Bắc là rất nhiều người bị chết tại chiến trường hay do máy bay bắn phá và không thể tìm được thi hài của họ và con số này là khỏang 300 ngàn người.

BBC: Trở lại quan hệ với Việt Nam và Hoa Kỳ, ông có cho rằng Việt Nam là một đồng minh quan trọng của Mỹ?

Có chứ (cười)

BBC:Trong bối cảnh quan hệ với Trung Quốc, một nước đang trở nên thống lĩnh tại châu Á. Liệu đó có phải là một điều chính phủ Mỹ tính tới?

Tôi vừa mới gặp gỡ các quan chức chính phủ Việt Nam và đã có những thảo luận với họ. Tôi cũng đã gặp họ nhiều lần trong suốt ba năm qua. Điều rất quan trọng là làm sao Việt Nam và Hoa Kỳ cùng làm việc với nhau bất kể khi nào có thể được. Có những vấn đề tại Biển Đông, những vấn đề rất quan trọng về chủ quyền, liên quan tới việc Trung Quốc nhận chủ quyền một số hòn đảo mà Việt Nam cũng nhận chủ quyền. Còn có một vấn đề rất quan trọng nữa theo quan điểm của tôi mà chúng ta cần làm việc với nhau, đó là vấn đề sông Mekong. Rất nhiều nhà máy thủy điện được xây dựng tại Trung Quốc dọc sông Mekong và lượng nước chảy xuống Việt Nam là rất đáng quan ngại. Có khoảng 70 triệu người sẽ bị ảnh hưởng trước tình trạng này. Và Việt Nam sẽ là nước phải chịu nguy cơ. Tự một mình Việt Nam không dám đối mặt với Trung Quốc về vấn đề này và Hoa Kỳ nên cùng các nước khác như Nhật Bản có thể tham gia, tìm cách để bảo đảm dòng sông Mekong được sử dụng công bằng.

BBC:Tục ngữ người Việt có câu “Bán anh em xa, mua láng giềng gần”, liệu Việt Nam có thể làm phật lòng nước láng giềng Trung Quốc khi đi với Mỹ và liệu Việt Nam có nên rút ra bài học từ cuộc chiến tranh Việt Nam khi tới một thời điểm nào đó, người Mỹ đã bỏ rơi đồng minh Nam Việt Nam. Ông có thể nói gì trước lập luận này?

Chúng tôi vẫn chưa bỏ đi. (Cười). Tôi nghĩ rằng Việt Nam từ rất nhiều thế kỷ đã có lòng quả cảm đứng lên bảo vệ lãnh thổ của mình trước nhiều cuộc xâm chiếm của Trung Quốc. Chúng ta không tìm cách tạo xung đột với Trung Quốc mà tìm kiếm sự cân bằng và Hoa Kỳ giúp đem lại sự cân bằng đó tại khu vực.

BBC:Sang vấn đề nhân quyền, có những khác biệt về cách nhìn nhận của Việt Nam và Hoa Kỳ về nhân quyền, liệu có thể thu hẹp những khác biệt giữa hai nước trong lĩnh vực này không, thưa ông?

Có, tôi tin là có thể. Quan tâm chính của tôi ngay từ đầu là việc đối xử công bằng với tất cả mọi người, bất kể người đó đã từng đứng về phía bên nào, hay gia đình họ thuộc phía bên nào trong thời gian chiến tranh. Điều số một là đối xử với mọi người một cách công bằng. Điều này đang diễn ra nhiều hơn, cách đây 20 năm thì đã không được như vậy. Trên phương diện các lĩnh vực khác thì tôi cho rằng chính phủ Việt Nam đã có những tiến bộ về tự do tôn giáo, mặc dù chưa phải là hoàn hảo, nhưng đã khá hơn rất nhiều so với trước đây. Tại châu Á, chúng tôi học được một điều là đón nhận những gì có được và xây dựng từ đó. Cách đó đã rất có hiệu quả trong việc xây dựng và phát triển sự tin cậy và tôn trọng giữa cả hai phía trong 19 năm qua.

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2010/04/100426_us_viet_senator_webb.shtml

© BBC 2010

24/4/10

MẸ

MẸ
Trần Hồ Dũng

” Tặng những ai đang diễm phúc còn Mẹ
& những ai diễm phúc từng có Mẹ “


Này bạn , nếu đang còn có mẹ
Bạn - người hạnh phúc nhất trên đời
Ta xin tặng bạn hoa hồng thắm
Gắn lên ngực áo , phía tim mình

Này bạn , nếu vẫn còn có mẹ
Hãy nghe nhịp đập trái tim mình
Và nghe nhịp đập trong tim mẹ
hòa cùng một nhịp giữa nhân gian

Từ khi khôn lớn, xa lìa mẹ
Bạn có bao giờ biết ngóng trông
Một vòng tay mẹ ,như trời biển
Che chở con ,từ thuở lọt lòng

Từ khi rời khỏi vòng tay mẹ
Vỗ cánh chim bằng , mơ biển khơi
Nghe sóng xa bờ , ngồi nhớ lại
Tiếng ru hời của mẹ ngày xưa

Mẹ ở quê nhà xa lắc đó
ngày đêm mòn mỏi ngóng con về
Vòng tay mở rộng : bờ đang đợi
Sao chẳng quay về bên tiếng ru ?

Nếu như mai mốt không còn mẹ
Ai nhốt dùm ta những nỗi buồn
Ai người xoa dịu lòng ta xót
Ai đón ta về, nương náu tâm

Bạn hỡi , nếu như không còn mẹ
Ai khuyên ta sống thẳng trên đời
Quê hương : chốn Mẹ chờ ta đó
Hơi ấm bên trời , đâu phải quê

Này bạn , nếu như không còn mẹ
Ta : kiếp lạc lòai, phận : cút côi
Nâng chén rượu buồn như nước mắt
Hiểu mình , chỉ có Mẹ ta thôi !


Mây trắng sẽ là khăn tang trắng
Ta : Kẻ mồ côi đội dưới trời
Dâng chén rượu tràn ,thay nước mắt
Rót gửi càn khôn - tạ lỗi Người

tranhodung-saigon 23/4/2010

Nguyễn Trọng Tạo :Đồng Dao Cho Người Lớn

Nguyễn Trọng Tạo





ĐỒNG DAO CHO NGƯỜI LỚN





có cánh rừng chết vẫn xanh trong tôi

có con người sống mà như qua đời



có câu trả lời biến thành câu hỏi

có kẻ ngoại tình ngỡ là tiệc cưới



có cha có mẹ có trẻ mồ côi

có ông trăng tròn nào phải mâm xôi



có cả đất trời mà không nhà ở

có vui nho nhỏ có buồn mênh mông



mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn cỏ

mà đời vẫn say mà hồn vẫn gió



có thương có nhớ có khóc có cười

có cái chớp mắt đã nghìn năm trôi.



1992







TIN THÌ TIN KHÔNG TIN THÌ THÔI





bốn lăm bậc thời gian dốc ngược

tôi đã vượt qua

em cách một sợi tơ

tôi đã không qua được



tin thì tin không tin thì thôi



tôi đã tới hang động yến sào tôi đã thèm ăn yến

vậy mà chưa được nếm bao giờ

hàng quốc cấm

nghe nói từ xưa làm vua sướng lắm

mà đôi khi tôi cũng sợ làm vua



tin thì tin không tin thì thôi



có anh hề đã nói với tôi

-đời thằng hề buồn lắm anh ơi

và tôi đã khóc



tin thì tin không tin thì thôi



nhưng tôi người cầm bút, than ôi

không thể không tin gì mà viết.



tin thì tin không tin thì thôi!



1991







TÁI DIỄN





bệnh dạ dày tái diễn những cơn đau

trái đất toát mồ hôi tái diễn trò súng đạn

kẻ tái diễn những vinh quang nhàm chán

người ngửa tay tái diễn nỗi buồn câm



tôi trở lại cơ quan gặp nụ cười ẩm mốc

chuột quá nhiều chuột chẳng chịu giảm biên

tôi trở lại dòng sông bờ Cỏ Thi xanh mướt

xưa em đánh mất trâm giờ lặng lẽ tìm tôi



rồi cũng khóc cho điều đã mất

trâm Cỏ Thi. ừ nhỉ, cỏ thôi mà

nhưng nước mắt... cũng như em, tôi đã

thêm một lần tái diễn trước cỏ hoa...



17.3.1993







ĐÊM CỔ ĐIỂN





sau Rock Rap nổ tung nhịp điệu

sẽ còn gì điên cuồng ơi

tôi mặc lại complet cravat

symphonie cổ điển tấu lên rồi



hoa đã tặng. Người đã không còn nữa

em đã yêu. Em đã bỏ tôi đi



sẽ dở hơi nếu là tôi khóc

nhưng cười vui thì tôi sẽ làm gì



còn Rock rap hay còn đêm cổ điển

điên cuồng ơi mơ mộng bỏ tôi rồi

niềm Hy Vọng vẫn chưa hề lụi tắt

khi bên chồng em lại nhớ về tôi...



1993







SONNÊ KHÔNG ĐỊNH TRƯỚC





ngơ ngác rơi giọt nước mắt cuối năm không rõ buồn vui

xe chậm lại trên đường không rõ về nơi chốn nào

tung tăng thanh xuân trôi ngược chiều

phút chốc mộng du lên phiêu diêu



mặt trời vầng trăng ngôi sao mắt ướt

ngực núi phồng căng dòng sông duỗi chân vào bao la

một bài ca xa thật xa tận miền quê ấu thơ

ta đây ư? em của ta đấy ư?...



những lèn đá marathon truyền thanh câu hỏi

mọi sự giản đơn đều bất lực

ta thèm bài thơ tấm ảnh bức tranh không hiểu hết



rồi mùa xuân sẽ qua thanh xuân không lặp lại

thuốc trường sinh đồng lõa với dối lừa

cây-mười-hai-cành chết rồi sao bóng râm cứ còn mãi trong Thơ?



12.1993







CÁI ĐẸP SÁU NGÓN

Tặng Đà Linh và Thanh Thảo





không có số đo chuẩn mực cho tình yêu buồn thương thù hận

anh viết văn làm thơ cho chuẩn mực nào đây

nàng sẽ để tuột anh nếu tay nàng năm ngón



ôi nhân loại giống nhau đời thật là nhàm chán

làm sao mang cố tật lại cho người

anh thích hoa dại trong rừng kẻ thích cây cảnh đầu sân



cái ngón tay thừa ra ấn nút đốt đàn vàng

anh nhận cảm bầu trời qua sáu ngón

rùng mình mùa xuân tua tủa cỏ non...



12.12.1993







BÓNG







không trắng không xanh không đen

hắn lờn lợt không đời không đạo



không xuân không hạ không thu

không nóng lạnh hắn cũng không âm ấm



hắn là hắn hắn chính là chiếc bóng

không âm thanh không màu sắc không buồn vui



thế mà hắn suốt đời sát kề tôi

không xóa được tôi đành chào thua hắn



tôi đã chào thua khối người như chiếc bóng...



1992







MỘNG DU





trong giấc ngủ ta thấy ta lang thang đường phố

cây thả xuống ta lá vàng

gió thả xuống ta mù sương

trộm cắp đâm nhau dưới đèn mờ

xích lô máu me cấp cứu

tham nhũng nâng ly mừng thắng lớn

ú ớ nói mơ người đói không nhà



trong giấc ngủ ta thấy ta lang thang rừng già

những người lính năm xưa sống dậy bao vây ta

người thủng tim người thủng đầu

người cụt chân người cụt tay

người bên ta người bên địch

những viên đạn rỉ rét ánh lên màu vàng chói chang



trong giấc ngủ ta thấy ta lang thang mây trời

Ngọc Hoàng ngủ gật

Chúa một bên và Phật một bên

những nhà thơ chìm đắm biển thơ tình

những nhà báo xô vào ga đĩa bay

những con cóc cổ dài kêu khản tiếng



trong giấc ngủ ta thấy lang thang thế giới

mặt nạ bày bán khắp nơi

trên sân bay trên xe con trên bàn tròn bàn vuông

bàn chữ U bàn chữ nhật

trên đạn bom trên lợi nhuận

trên âm mưu mong cứu rỗi con người



trong giấc ngủ ta thấy ta lang thang xa vời

những xanh hồng vàng tím

ôi thiên nhiên

thiên nhiên quay cuồng hoan lạc

chẳng lẽ người

đang sinh ra những đứa trẻ vô vi?



27.7.1991







BÁ KIẾN THỜI HIỆN ĐẠI

Tặng Chí Phèo, Thị Nở





khát uống đói ăn mỏi nằm mệt nghỉ

nay ta đủ đầy mời ngay anh Chí



bia ngoại rượu tây anh uống tối ngày

quanh năm suốt tháng vịt tần gà quay



ăn đẫy uống say sẵn bày nơi chốn

nhà ta bốn lầu mời anh lầu bốn



chỉ thương Thị Nở trôi dạt trời tây

bán mình nuôi miệng xanh xao mặt mày



rồi sẽ có ngày Thị quay trở lại

cho anh bốn lầu tha hồ thoải mái!



1993







NGHIỀN NGẪM





người ta nói: gương mặt con người là mảnh đất

khám phá không bao giờ biết chán

người ta cũng nói: nhìn mặt buồn nôn



em lỗng lẫy mộng mơ giờ nhàu nát bên đường

anh là kẻ vớt trăng bao lần trăng vỡ nát



người ta nói: con số không đấy chính là sa mạc

người ta cũng nói: quá khứ hiện tại tương lai

đồng hiện trên cát mênh mông



sao anh bỗng thèm chết dưới cùng trăng

đừng ai vớt, đừng hoan hô đả đảo...



12.11.1993







ĐÊM CỘNG CẢM





múa hát với ma đêm nay ăn uống với ma đêm

nay ngủ với ma đêm nay

ngày mai vĩnh viễn chia tay



nhà ta đã làm cho ma trâu ta đã giết cho ma

ngày mai gạo ta sẽ rắc ngày mai con gà ta sẽ thả

ngày mai chỉ còn bên ma những tượng mồ

đêm ái ân lần cuối



đêm cộng cảm sáo đàn cồng chiên trống cái

lục lạc rung dây chuỗi tiếng hú dài



rồi những con quỷ đen vui nhộn sẽ ngủ vùi

những ghè rượu cần sẽ nhạt

rồi sừng trâu sẽ treo trước cây nêu rồi mặt trời sẽ mọc

đừng trách gì nhau đừng nhớ gì nhau...



múa hát với ma đêm nay ăn uống với ma đêm

nay ngủ với ma đêm nay

ngày mai vĩnh viễn chia tay!



27.2.1994







TƯỢNG MỒ





đàn bà khoe Âm đàn ông khoe Dương

hài nhi người già ôm mặt buồn thương



đây vợ địu con đây chồng săn bắn

chim cú chim cu gật gù hoang vắng



nhà mồ im ắng lẳng lặng bóng người

hồn ma lang thang về nơi cuối trời



chỉ còn tượng mồ phủ đầy lá dại

chỉ còn thời gian nắng mưa dầu dãi



chỉ còn Bana Êđê Gairai

tượng mồ tượng mồ rữa mục hồn ai...



2.1994







CẢM GIÁC BIỂN HỒ

HAY LÀ THƠ BÊN MIỆNG NÚI LỬA





rơi vào miệng núi lửa bao giờ mà anh không hay

toàn thân ngập chìm hun hút

ngỡ bên kia cũng đầy trời đầy nước

nước ừng ực anh nước đẩy tung anh



anh nặng như núi anh nhẹ như mây

răng rắc vặn mình lim cổ thụ

giông giữa ngày xuân bão giữa ngày hè

cao nguyên ngả nghiêng sụt lở



anh nín thở đến kiệt cùng máu ứa

cột lửa phun nham thạch phì nhiêu

rồi chết lịm trong vỗ về mơn trớn

mười ngón dài thon của gió chiều...



26.2.1994







RƯỢU CẦN





cũng liều uống rượu cùng em

bởi chưng người đẹp lại thêm rượu cần

cái ghè rượu hóa chứng nhân

chúng mình mỗi đứa một cần vít cong

một can (*) cho má em hồng

hai can anh đã vội trồng cây si

ba can đừng bỏ anh đi

anh buồn. Ghè rượu có khi lây buồn

bốn can anh muốn chết luôn

năm can... em đã thúc dồn sáu can

đã liều chết cũng chẳng oan

bảy can anh uống. Em van anh rồi

thôi thì một can hai người

hai đôi môi khát một thời tìm nhau

chín can... rượu chẳng còn đâu

còn em hóa rượu. Cúi đầu, anh say...



1994

--------------

* can: đơn vị đo làm bằng que nứa







MÙA THU ÁO ẤM





đồi núi. Thông xanh. Villa. Biệt thự

áo ấm. Dù hoa. Má đỏ. Tóc mềm

những con đường. Những con đường. Cao. Thấp

ngày bốn mùa. Đà Lạt. Chập chùng. Em



em cười nói tự thuở nào thác đổ

Langbian. Nghiên. Thung lũng Tình yêu

ôi sự sống nơi đỉnh trời chân cỏ

thoáng heo may. Nghe mình chợt sang chiều



tôi bè bạn cùng mùa rau xứ lạnh

cùng cải chua. Cà muối. Khô nai

cùng rượu chát

cùng đớn đau thông rụng

giọng buồn tôi rung rẩy phát qua đài



rồi xa lắc. Bỏ một trời nhung nhớ

ơi mùa thu áo ấm đã mặc chung

rồi biền biệt. Hoa vàng như hơi thở

mimoza. Giọt nắng. Có theo cùng?...



11.9.1989







QUI NHƠN KHÔNG ĐỀ





con đường Mỹ Thổi đầm thành phố

bia ngoại rượu tây em dịch vụ



đổ thêm xăng Qui Nhơn gọi đi

nhỏ của anh giờ đã phát phì



nhỏ của anh nói cười như bà lớn

tiếng cổng sắt xa dần nghe rờn rợn



hoa li vàng mùa hạ đã xa xôi

đường nở trắng một màu hoa trứng cá



anh nín thở vòng qua eo Nín Thở

biển xanh hiền trăng thi sĩ lên ngôi...



6.1992







CẦM LÒNG



cho Ban và Hùng





cầm lòng thôi khỏi khóc cười

có người nuôi nhớ bởi người nuôi quên



cầm lòng rời bến ơi thuyền

thuyền xa bến hẹn sông hiền sóng ngoan



cầm lòng một mái thời gian

một đèn lẻ bóng một trang động tình



người về Hà Tĩnh xa Vinh

nửa thân ngoài nớ nửa mình trong ni

cầm lòng sao cứ vân vi

mây thì nặng trĩu núi thì nhẹ tênh...



1993







HƯƠNG SƠN





viên sỏi hồng nốt ruồi son đáy sông

em là dòng Ngàn Phố gương trăng đêm hè năm Tân Hợi



con đò quay như chiếc lá tre đen

ném cho nhau một vốc vàng trăng

đêm gửi nhòe sương đôi bờ cỏ mượt



một lần trao nhau rồi biền biệt

em hươu sao ngoan hiền bên suối diêm sinh

đừng trách chiến tranh

trách anh vô tình

bỏ em yếu mềm bị thương bên suối cạn



anh trở lại lơ ngơ em hai lần thị trấn

viên sỏi hồng mùa lũ cuốn nơi nao

hươu sao hươu sao

Nầm Sơn Châu Phố

Từ Thức hoàn Trần làm khách lạ người xưa...



1993

ĂNG-KO





bay trên đá và đi trong đá

ôi Ăng-ko! làm sao hiểu nổi người

những nghệ nhân đã chết tự lâu rồi

người sau đến đôi mắt tròn ngơ ngác

ngỡ núi đá được đẽo thành ngọn tháp

và đá mềm như đất dẻo... Ngày xưa

Apxara những vũ nữ Hoàng Gia

dính vào đá trong giữa chừng điệu múa



bay trên đá và đi trong đá

ôi Ăng-ko! làm sao hiểu nổi Người

chàng Bayon bốn mặt cứ nở cười

nụ cười đá nói gì cùng du khách

mưa đọng giọt bỗng tạt vào khóe mắt

đá buồn vui bí mật tự bao đời

nghe âm u tiếng gió đá thở dài

nghe rần rật lửa bừng trong đá cháy



qua cửa sổ máy bay tôi nhìn thấy

dáng tôi đi trong ruột đá không cùng

tôi đi từ Địa ngục tới Thiên đường

từ Xác đá tới Linh hồn của đá

ôi Ăng-ko! thăng trầm bao thế kỷ

đỉnh máu xương hóa đá dựng lâu đài

Người từ đâu?

và Người chính là ai?

tôi hỏi đá. Đá mỉm cười tin cậy...



Xiêmriệp 3.9.1989





THỜI GIAN 1





ngày bóc tờ lịch

gián vào đời tôi

ngày bóc đời tôi

ném vào đen đỏ



rồi thua xanh cỏ

rồi tóc trắng vôi

rồi thua ngọn gió

một trời rong chơi



vẫn bóc vẫn gián

vẫn đầy vẫn vơi

còn tôi cái lõi

ngày bóc luôn rồi



còn chi bóc nữa?

hãy bóc hồn tôi

tôi thành tờ lịch

bóc sang Luân hồi...



Nguyên đán Quí Dậu







THỜI GIAN 2





từng giọt thời gian ngưng thành mai vàng

tích tắc nhịp tim sao ta bàng hoàng



ôi xuân đã sang mà người chẳng tới

từng hạt thời gian gieo vàng mong đợi



mùa xuân mời cưới lấy ai đi cùng

ta đi một mình thời gian mông lung



nay còn trẻ trung mai đà bạc tóc

từng giọt thời gian ứa tràn khóe mắt



thôi người đừng khóc rụng rơi bông vàng

buồn vui làm ngọc kết thành thời gian...



Nguyên đán Giáp Tuất







KHÓI CAY





buồn đốt hết ngày

đêm dày tàn tro

buồn đốt bài thơ

bài thơ thành khói nào ngờ... khói cay



12.1993



TỰ VẤN





ngày vung vãi đức tin

đêm gặp mình đơn độc

ranh khôn giữa muôn nghìn

trở về thành thằng ngốc



mướn niềm vui kẻ khác

có gì như tham lam

mướn nỗi buồn kẻ khác

có gì như nhàm nhàm



cây khế nở hoa cam

cây bàng nở hoa bưởi

ăn mãi món mật ong

biết đâu đời đắng lưỡi?



11.1991







CẢM THÔNG





mùa xuân mặc áo màu gì

mà xanh biếc lá thầm thì cùng hoa

mà em áo rách không nhà

lang thang chợ vắng sân ga không tàu



mình anh khoác cả nỗi đau

ngày xuân mưa rắc lên đầu muối tiêu

giật mình nghe tiếng pháo kêu

em ơi nhặt pháo được nhiều không em



túi anh còn một bao diêm

một đòn bánh tét nào em lại cùng

xòe diêm nổ qua pháo đùng

cùng nhau tét bánh. Ngại ngùng làm chi



mùa xuân mặc áo màu gì

bánh thì áo lá pháo thì áo hoa...



1993







CÓ KHI





có khi nắng chết trong màu lá

mẹ nhặt về nhen ngọn lửa chiều

có khi mưa chết trong đất khát

em gặp mùa hoa tặng người yêu



có khi bài hát xa xưa quá

bỗng đến bất ngờ an ủi ta

và em thuở ấy đi biệt xứ

sao lại về đây. Lấp lánh. Và



mưa trắng đường mưa nắng ngất ngư

ai đem lụa trải tận xa mờ

có khi người chết nghìn năm trước

hồn vẫn bồng bềnh những giấc mơ.



Bên mộ Hàn Mặc Tử, 1993







XỨ ĐẦU TIÊN





không giờ ngày đầu tiên tháng đầu tiên năm đầu tiên

rùng rùng pháo nổ

tôi ngạc nhiên tái sinh

oa oa cây cỏ

không gian trắng tinh khôi lót tã

môi vhúm chím đào son đầu xòe mũ mai vàng



những sợi mưa đầu tiên vương vương giêng sang

ngày mới nguyên giấy bạc

trẻ con nói cười người lớn chào mời

như chưa hề tủi cực

nguyên đán thiên đường mặt đất

A-MEN!



ly rượu mừng ngấm men

người nhẹ tâng rụng rơi thù hận

nhớ câu thơ bỏ quên

vui nỗi buồn quá vãng

mang trái tim đi một vòng bè bạn

nhặt bao nhiêu tươi đẹp dọc hành trình



tươi đẹp dâng xứ đầu tiên mơ mộng

thấy Chúa cười trên thánh giá đóng đinh...



1993







LƯU LẠC





lạc vào đinh kệ

u mê chiều tà

lạc vào quyền chức

kiếp nào gỡ ra



con đường thì xa

chỉ tay mạng nhện

ta lạc ngoài ta

đi hoài không đến



một băng nhạc sến

ướt chùng chiều mưa

có một gã thừa

lạc vào nhăng nhố



ngác ngơ giữa phố

một thằng nhà quê

nhớ thương Mộ Tổ

biết bao giờ về...



25.7.1991











cõi nhớ







SONNÊ BUỒN





xin gọi tên Em là Buồn

Buồn ơi buồn hỡi ngọn nguồn Buồn đâu

Buồn mồ côi đã từ lâu

đời ta rồi cũng bạc đầu vì thương



là khi tỉnh giấc trong đêm

một mình ta thấy ngồi bên: Nỗi Buồn

là khi cạn một ly tràn

đáy ly ta lại thấy làn mi xanh



mi xanh Buồn cứ long lanh

gặp long lanh thấy mong manh là Buồn

buồn đừng đi! Buồn đừng tan!

mất Buồn còn lại tro tàn mà thôi



Buồn ơi Buồn có thương tôi

đừng làm tôi phải mồ côi Nỗi Buồn!...



1989







THIÊN THẦN





em mười chín tuổi nghìn năm trước

sao đến bây giờ mới hai mươi

môi mềm ngực nõn vòng tay xiết

anh là đá tản cũng tan thôi



cứ tưởng một lần cho đỡ khát

nào ngờ bùa ngải lú trời xanh

nghìn sau gặp lại... em hăm mốt

môi ngực vòng tay vẫn thiên thần.



1991







CỎ VÀ MƯA





em cỏ khát. Ta mưa rào đầu hạ

cỏ uống mưa run rẩy

cỏ đang thì

mưa rào đến rồi đi

cỏ xanh niềm ngơ ngác

ta biệt em

lớ ngớ chẳng hẹn gì.



Biệt Điện, 2.5.1991







KHÔNG DƯNG





không dưng em khóc dưới cội me

không dưng tôi dừng lại lắng nghe



không dưng tiếng vạc kêu thảm thiết

không dưng đang vui, buồn ly biệt



không dưng tôi gửi một tờ thư

rồi thư bặt tin theo sương mù



không dưng hoa lý thơm vào tối

chợt nhớ một người không nhớ tuổi



ra khỏi cổng rồi tôi đi đâu

không dưng lá me vương mái đầu...



1992







CÕI NHỚ



Tặng Phan Lạc Hoa, Nguyễn Họa, Nguyễn Thụy Kha





bạn bè ơi, nếu mà không các bạn

ta như chai rượu đã cạn rồi

cốc chén buồn tênh úp trên đĩa

ta như bình gốm chẳng hoa tươi



câu thơ bạn viết cho ta yêu

bài ca cho ta có sông Cầu

giọng hát xôn xao niềm câm lặng

gặp gỡ cho ta thêm nhớ nhau



bạn bè ơi, nếu mà không các bạn

những lúc lang thang ta về đâu

không đơi để Nhớ- nghèo biết mấy

ta như sao lạc giữa ban ngày



trái tim bạn giữ cho ta đây

niềm vui bạn giữ cho ta đây

nước mắt bạn giữ cho ta đây

giữ cho ta Cỏ với trời mây



bạn bè ơi, hãy thương nhiều thương mãi

thương niềm vui thương niềm đau

thêm lần nâng chén, nào các bạn

mai rồi bạc tóc đi tìm nhau!



Hà Nội, 1981







KHÔNG ĐỀ CHO ĐỖ TOÀN





mưa bay gió lạnh đầy trời

một đời thi sĩ mấy đời lang thang

ta làm khách trọ thời gian

con đường hè phố quán hàng bóng cây

ta làm khách trọ em đây

tình yêu mà ngỡ như cây sống nhờ

ta làm khách trọ bài thơ

chưa tan men rượu sững sờ chiêm bao

biết tìm gõ cánh cửa nào

vô tình gió lạnh lách vào đáy tim

giữa bao còn mất vui phiền

câu thơ dang dở que diêm cuối cùng...



1983









HUẾ 1





sông Hương hóa rượu ta đến uống

ta tỉnh đền đài ngả nghiêng say



1982







HUẾ 2





về Huế sao thèm thơ Nguyễn Bính

hoàng thành còn đó cung nữ không

áo dơi quần thụng đi ra phố

xe cub xe con phả khói nồng



sông Hương se lạnh chừng co lại

phố phường xộn xạo chợ lấn bờ

rượu ngon quán Mệ người thưa uống

bia nổ nhà hàng nhạt tiếng thơ



khách lạ hỏi thăm lăng tẩm cũ

xích lô đói khách đạp lượn vòng

cây chiều trút lá mong manh áo

sương khói qua cầu ướt mi cong



Huế đẹp đã đành xa xôi lắm

bỗng gặp mai vàng nở choàng vai

có ông sư trẻ chừng muốn bán

hoa Tết vườn chùa một cành mai...



12.1990







NỖI NHỚ KHÔNG TÊN



lang thang đường phố Huế

nhớ chiều nào xa Vinh

trời thắp vì sao xanh

thương nhớ về mắt biếc



đường xưa toàn Người Đẹp

nay đỏ trời Phượng Bay

Huế dầm mưa Nguyễn Bính

Vinh nắng hừng phương ai



còn chi là rượu nữa

uống hoài mà không say

bia biệt ly quán lạ

ngả nghiêng bao tháng ngày



ngỡ sông là cánh tay

mát mềm như ngà ngọc

ngỡ chiều như chiều nay

gió thổi mùa xanh tóc



có một chàng đơn độc

bước trên đường Không Tên

có một nàng Hạnh Phúc

ở số nhà Lãng Quên



1992







BẠN BÈ Ở HUẾ



bạn bè ở Huế đông vui lắm

túi đầy thơ tặng túi đầy trăng

thấy nhau là nhớ mùi rượu Hiếu (*)

mưa nắng sá gì dốc Phú Cam



sẵn tiền vài lít chưa là bốc

trắng tay mươi xị dễ đâu gàn

vui chơi cũng lạ đông hơn họp

vàng nát không chừng cốc đã tan



đất trời lướt khướt dìu nhau bước

đắc đạo rượu ngon đắc đạo tình

bạn bè ở Huế thương nhau thiệt

một đứa vợ la... chục đứa kinh.



1987

--------------

(*) lò rượu chị Hiếu trên dốc Phú Cam, nổi tiếng ngon









CHIỀU RƠI



Tặng anh Trường





chiều rơi. Vàng tóc. Vàng da

vàng cây. Vàng đá. Vàng ta. Vàng người

rượu ngon nhắm với nói cười

nghe thời gian tím một thời Phù Dung.



1994







NGƯỜI ĐẸP NHÌN TÔI





người đẹp nhìn tôi trên đường

về đêm tôi cảm thấy buồn



tôi gặp người đẹp đèo con

biết đâu chẳng phải con nàng



tôi gặp người đẹp bên chồng

chắc chi chồng nàng trẻ thế



một lần giòn tan pháo nổ

cô dâu tôi gặp ngỡ ngàng



người đẹp nhìn tôi cười mỉm

nụ cười xuống bến sang ngang



biết vậy sao tôi cứ ước

cô dâu không hẳn là nàng!...



1988









QUÀ SINH NHẬT





hai mươi bài hát vui

hát tặng một nỗi buồn

hai mươi bài hát buồn

hát tặng nỗi buồn hơn



em mỏng mảnh trăng non

mê chi lời anh hát

nghe đến lúc trăng tròn

e còn đâu nước mắt



hai mươi bài đắng chát

hai mươi bài men say

chao ôi là âm nhạc

không cánh mà lượn bay



anh hát đến hao gầy

hai mươi mùa lạnh giá

em hóa thân ngọn lửa

hai mươi cây nến chầu



hai mươi bông hồng nở

trên cây đàn muôn dây...



10.1990







SONNÊ LÁ NON





bay vào phòng anh một chiếc lá non

ngoài kia đã bão lại còn mưa xiên

lá non bay ngả bay nghiêng

phòng anh cũng chẳng bình yên đâu mà



bài thơ anh viết dang dở ngày qua

ngờ đâu chiếc lá non sa giữa dòng

câu thơ buồn một đời không

bỗng dưng trang giấy phập phồng tơ non



cây ơi, nếu cây có đi tìm con

đừng buồn tìm mãi lá non không về

bởi thời gian đã mang đi

bài thơ cùng với một thì lá non



và căn phòng ấy sau đấy chỉ còn

dấu nằm của lá nụ hôn của Trời...



10.11.1989







BỨC TRANH ĐEN





thế rồi nàng lẫn vào đêm

áo dài ngọn gió đen huyền ruổi theo

nỗi buồn than đá trong veo

dòng sông sánh lại mái chèo ngẩn ngơ



thế rồi cặp mắt ngủ mơ

thấy hai con mắt dại khờ tuổi yêu

thấy con đường nhựa ba chiều

thấy mình sững giữa cô liêu không người



thế rồi có đóa hồng tươi

giấy đen tôi bọc như người áo đen

con mèo tôi mới làm quen

làm quen là bởi nó quen quá chừng



mặt trời tôi vẽ không ngừng

mặt trời đen. Cũng xin đừng trách tôi

bức tranh chỉ một màu thôi

đen như màu áo xui tôi nhớ nàng...



3.1993







TẶNG MỐI TÌNH CUỐI CỦA GOETHE





em mười chín tuổi đi đêm

ta ngoài bảy chục lạc miền hoang sơ

rừng trăng cây cỏ đứng ngơ

tưởng là sói dữ nào ngờ... sói con



cái đêm trăng ấy trăng non

phố phường xa lắc lối mòn cũng xa

một vùng không rượu không hoa

sói con uống cạn cùng ta suối nguồn



cái đêm trăng ấy bỏ buồn

bỏ men thương nhớ bỏ hương ái tình

bỏ ta tỉnh dậy một mình

bỏ em lạc chốn bùng binh sương mờ



một mai ta có sững sờ

là khi trăng mọc bất ngờ sói con...



1989







ĐÀO PHAI





hoa đào vương kiếp đào hoa

thắm tươi một thuở phôi pha một ngày

tôi nhìn từng cánh đào bay

thời gian lõa thể rụng đầy chiêm bao



giật mình tôi gọi ơi đào

giang tay níu lại thuở nào thắm tươi

nhưng nàng đã chẳng nghe lời

lặng im trút xuống quanh tôi phai tàn.



1992







HOA ƠI TA YÊU NÀNG





trên mặt hồ tĩnh lặng

trên thành quách rêu phong

người từ trời cao xuống

người từ nước hiện lên

thắm tươi và mê đắm

hoa ơi ta yêu nàng



trên con đường nắng sáng

trên đèo dốc mù sương

ta thấy người thấp thoáng

ta thấy người nồng nàn

thắm tươi và mê đắm

hoa ơi ta yêu nàng



trong ly rượu chói chang

trong căn phòng huyền ảo

trong lặng yên trong bão

trong tỉnh táo mơ màng

thắm tươi và mê đắm

hoa ơi ta yêu nàng



ta muốn đổi không gian

cho người gần ta mãi

ta muốn đổi thời gian

cho bốn mùa hoa ấy

nhưng than ôi tỉnh dậy

trong hương thơm không nàng



rồi một ngày hoang vắng

rồi một cõi vĩnh hằng

trên mặt hồ lặng sóng

trên thành quách rêu phong

những cánh thơm rụng xuống

vẫn tươi nguyên sắc hồng



chiếc bóng ta lưu lại

cúi nhặt giữa mênh mông

hai trái tim không tuổi

hai cây đàn không tên

và bài ca số phận

hoa ơi ta yêu nàng!



4.1989







ĐỊNH NGHĨA





anh là hổ dữ dằn

trước cửa em khóa trái



anh là chú thỏ con

dưới tay em, vụng dại



xa rồi anh trở lại

cửa mở. Phòng trống không



thỏ buồn đi lãng tử

hổ mềm lòng ngóng trông.



1993







THIÊN AN





thế là ta một mình cùng chốn ấy

thông xanh thông xanh thông xanh

lưng cỏ mọc xuyên trái tim sỏi đá

mây trắng bay tháp nhọn mắt ta nhìn



ôi những chiếc lá kim

rơi chi mãi nỗi buồn

heineken heineken

tiếng va chạm cô đơn



ta ngỡ uống cạn suối nguồn mây trắng

ta ngỡ uống cạn suối nguồn xanh thắm

giờ Thìn qua

giờ Ngọ cũng trôi qua

ta tích tắc nỗi nhớ mong gặm nhấm

em thân yêu phiêu bạt phương nào?



từ biệt nhé ngọn cỏ rừng râm tĩnh

ta bay theo mây trắng ngổn ngang trời

có một phút một đời yêu thương vĩnh cửu

ấy là ta rong ruổi bên người



từ biệt nhé những chiếc kim xinh nhỏ

em hãy khâu áo lá một vùng đồi

ta là gió

thổi đến ngày kiệt sức

tự trời cao tan vào giọt mưa. Rơi...



18.4.1989













CHỢT





chợt khép cánh cửa là em có anh

chợt khép cánh cửa là em mất anh



chợt nói loanh quanh lạc đường mưa gió

chợt thức chợt ngủ bài thơ chợt còn



con sáo sang sông mùa thu tuổi tác

con người bội bạc cười vui chợt buồn



ơ cái trống cơm lên bông câu hát

cái say chợt khóc cái điên chợt cười



bao giờ người ơi vô vi rộng hẹp

chợt đi một đời chợt về cửa khép



dưới chân vẫn dép trên đầu trời thanh

đời lên chót đỉnh một mình mong manh.



13.4.1990







NGÔI SAO BUỒN





chấm buồn dưới mắt buồn em

ngôi sao buồn cuối trời đêm mơ buồn

đèo mù sương biển mù sương

ngôi sao buồn ấy vẫn thường hiện lên



anh nghèo anh giữ làm tin

ai mua chẳng bán ai xin dễ nào

giật mình tưởng mất ngôi sao

cô đơn thoáng chốc đã hao hao gầy



sao buồn mắt vẫn buồn đây

sau mưa cây lá ngưng đầy chiêm bao

trời lên cao gió lên cao

ngôi sao khẽ chớp khép vào mi thanh



niềm vui rồi dễ phai nhanh

cuộc đời lắng lại long lanh nỗi buồn

em mù sương anh mù sương

ngôi sao buồn ấy vẫn thường hiện lên...



24.3.1989







CUỐI NĂM NGẪU HỨNG CHỢ CHIỀU





nàng xưa ngán ngẫm chợ trưa

ta nay đủng đỉnh bán mua chợ chiều

vui kia giá được bao nhiêu

buồn này sao lại bọt bèo nàng ơi



thời gian rụng úa vai người

ước chi mua được nụ cười còn nguyên

này Lan, này Hạnh, này Duyên (*)

trăng non cái lúm đồng tiền còn không?



lên đèn mà chợ vẫn đông

ta đi tìm mãi sao không thấy nàng

thôi đành mua lại thời gian

tìm về chốn cũ tặng nàng ngày xưa.



11.1993

-----------------

(*) Câu thơ Ngô Kha, 1965







ĐĨA HÁT BỐN MÙA





thời gian quay tròn đĩa hát

ly cà phê mùa xuân

mùa đông chưa uống cạn



thời gian quay tròn đĩa hát

điếu thuốc lá mùa thu

mùa hè chưa cháy hết



thời gian quay tròn đĩa hát

nụ cười tươi một năm

nụ hôn dài một năm rưỡi



chiếc đĩa hát bốn mùa quay lại

mặt này sang mặt khác

năm này sang năm khác

nồng nàn da thịt tân hôn



nhưng đấy chỉ là một đêm

trôi bên ngoài đĩa hát.



12.1990







BÂY GIỜ YÊU





bây giờ yêu nghĩa là vào sàn nhảy

anh quê mùa ngồi nhai keo cao su



bây giờ yêu nghĩa là vèo xe cub

xe đạp anh xẹp lốp cả tứ mùa



bây giờ yêu nghĩa là vào quán nhậu

trăm phần trăm cay đắng chẳng hợp gu



anh ngồi nhớ dậu mồng tơi Nguyễn Bính

tiết thanh minh e ấp cả Nguyễn Du



anh ngồi nhớ nụ tầm xuân xanh biếc

nét cười duyên sau quai nón vải dù



nhưng trời ạ làm sao anh biết được

bây giờ yêu mai mốt hóa trò đùa?...



1992







CHIÊM CẢM





có lúc ngôn từ biệt tích

đam mê trơ đá gan lì

em mèo ơi đừng đến nữa

sợ em dựng dậy tử thi



có lúc trời ơi hồng xanh tím

khỏa thân chết đuối cứng tường đêm

ta thấy ta thành cây cọ

vẽ trong veo tơ lụa mặc cho em



có lúc trên ngai vàng nguy biến

lạnh người

nghe một tiếng

mèo rên.



2.11.1991







TẠ TỪ





tạ từ da trắng áo hồng

tôi về tháp cổ rêu phong một đời



tạ từ. Ai tự từ tôi

chập chờn Tiên Nữ nói cười xa xăm



buồn như trăng đã lên rằm

thương như người đã trăm năm. Tạ từ...



1992







CHIA





chia cho em một đời tôi

một cay đắng

một niềm vui

một buồn

tôi còn cái xác không hồn

cái chai không rượu tôi còn vỏ chai



chia cho em một đời say

một cây si

với

một cây bồ đề

tôi còn đâu nữa đam mê

trời chang chang nắng tôi về héo khô



chia cho em một đời Thơ

một lênh đênh

một dại khờ

một tôi

chỉ còn cỏ mọc bên trời

một bông hoa nhỏ lặng rơi mưa dầm...



1989







NGUYỄN TRỌNG TẠO