Loạt bài phỏng vấn của sinh viên Đại học Berkeley (phần 1)
29/04/2010 | 12:49 chiều | Chưa có phản hồi.
Tác giả: talawas
Chuyên mục: Nhìn lại cuộc chiến 1954-1975
Lời toà soạn: Loạt bài phỏng vấn này thuộc dự án nghiên cứu cuối học kỳ mùa Xuân 2010 của sinh viên lớp Việt văn, Đại học Berkeley. Những người thực hiện phỏng vấn đều còn rất trẻ, thuộc thế hệ 8X và cả thế hệ 9X. Với một số bạn, tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai (sau tiếng Anh). Họ trò chuyện với cha, mẹ, dì, dượng, cô, chú và người quen, hỏi về thời thơ ấu, về cuộc sống trước và sau biến cố 30.4.1975, về kinh nghiệm hội nhập quê hương thứ hai và ghi lại những cảm tưởng ban đầu của mình.
Khi chọn đăng loạt bài này, talawas biên tập, bỏ phần câu hỏi, sắp xếp lại các câu trả lời theo thời gian và viết tắt tên (hoặc sử dụng bút danh) của cả người phỏng vấn và người được phỏng vấn.
1. Bài phỏng vấn của Đoàn Viên
Tôi tên là Nam Đ. Năm nay tôi 56 tuổi. Nơi tôi sinh ra lúc đó thuộc quận Hóc Môn, tỉnh Gia Định, một tỉnh vành đai thủ đô Sài Gòn của Việt Nam Cộng hòa trước đây. Mẹ tôi sinh ra tôi vào tháng 9 năm 1954, chỉ khoảng hai tháng sau khi gia đình tôi di cư từ Bắc vào Nam theo Hiệp định Geneva chia đôi đất nước. Những năm tháng thời thơ ấu của tôi đất nước Việt Nam tương đối yên bình. Nhưng dần dà chiến sự ngày càng sôi động, ác liệt và kéo dài tận đến khi tôi trưởng thành và gia nhập Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Cuộc chiến kết thúc vào ngày 30/4/1975 mà trong đó tôi cũng là một thành viên của quân đội thua trận.
Cuộc sống ở Việt Nam mà cụ thể là miền Nam (Việt Nam Cộng hòa) từ khi tôi có trí nhớ luôn gắn liền với sự rình rập của chiến tranh. Cuộc chiến ảnh hưởng đến mọi sinh hoạt của toàn xã hội, thậm chí ngay cả với những thanh niên trẻ đang còn trong ghế học đường như tôi và các bạn bè cùng lứa. Hàng ngày chúng tôi vẫn nghe và theo dõi về những chuyển biến trong tình hình chiến sự. Sức ảnh hưởng của chiến tranh mạnh đến độ mà không những trên báo chí mà cả rất nhiều thơ văn, ca nhạc, điện ảnh đều có liên quan tới chiến tranh.
Tuy thế, đời sống người dân miền Nam thời trước 1975 nói chung là khá sung túc. Vật giá thời gian đó khá rẻ. Như gia đình cha mẹ tôi, chỉ một mình cha tôi đi làm và tuy không dư dả nhiều nhưng cũng đã có thể nuôi cả một gia đình với 10 người con. Anh em chúng tôi ai nấy được ăn học đầy đủ.
Cuộc sống cư dân thành thị có nhiều phương tiện sinh hoạt mới và hiện đại, như đi xe hơi, dùng quạt điện, mặc áo vest. Thanh niên thời tôi mới lớn thì để tóc dài chạm vai như con gái. Thời gian đó, style rất được ưa chuộng vì nó bắt chước theo cách để tóc và trang phục của các thành viên ban nhạc Anh Quốc “The Beatles”. Ban nhạc này lúc đó rất nổi tiếng và có ảnh hưởng lớn tới thanh niên của thập niên 60 tại Việt Nam.
Người dân thành thị hay đi nghe hòa nhạc, xem cine với điện ảnh phương Tây. Người ta nghe các ca khúc Pháp, Mỹ và có chút lãng quên nhạc dân tộc xưa cũ. Thời trang thay đổi từng năm. Trang phục thì áo sơ mi, quần jean v.v… chứ không còn áo dài, khăn đóng nữa. Những giá trị Khổng, Nho bị giới trẻ coi thường, thậm chí còn bị chỉ trích…
Trong văn học, xuất hiện nhiều cuốn tiểu thuyết về tình cảm nam nữ, đả phá lối sống cũ, đề cao lối sống mới. Thơ ca, thì lớp nhà thơ trẻ không còn thích lối thơ cũ như lục bát, đường luật. Họ thấy quá gò bó để diễn tả tình cảm và cảm xúc của mình. Thay vào đó là lối thơ mới giống như lối của Tự Lực Văn Đoàn đầu thế kỷ 20, với nhiều ảnh hưởng từ thơ ca phương Tây.
Âm nhạc thì bị ảnh hưởng nhiều bởi âm nhạc Âu, Mỹ. Nhiều ca khúc theo âm điệu Âu, Mỹ và thậm chí có nhiều bài nhạc nước ngoài được viết lời Việt nữa. Giới trẻ lúc đó rất thích loại nhạc này.
Cái mới có những điều rất hay, nó cho người ta tiếp cận tiến bộ của văn minh phương Tây, làm cho xã hội và từng cá nhân trong xã hội đó hưởng tiện nghi của nền văn minh, tạo cho xã hội và con người phát triển hơn. Đây là những điều tốt mà ảnh hưởng của phương Tây mang lại. Nhưng chính nền văn minh và nếp sống phương Tây quá tự do và phóng khoáng cũng có những điều không hay, không phù hợp với nếp sống Á Đông nói chung và Việt Nam nói riêng.
Khi còn là học sinh, tôi thường đọc những sách báo dành cho tuổi học trò như Tuổi Hoa, Thiếu Nhi v.v… Rồi khi lớn hơn chút nữa là tạp chí Bách Khoa, Kiến Thức Ngày Nay và sách của các tác giả như Duyên Anh, Nguyễn Thụy Long v.v… cũng như một số báo hàng ngày. Tôi thích những nhạc phẩm của Đoàn Chuẩn và Văn Cao. Tôi cũng rất thích những loại nhạc nói về tình yêu trong sáng của tuổi trẻ, nhạc lính và tâm tình của người trẻ đối với cuộc chiến.
Nhân vật chính trị mà tôi hâm mộ thời đó là Tổng thống Ngô Đình Diệm. Tuy rằng, ông có sai lầm về chính sách trong lúc điều hành đất nước, nhất là một nước đang trong tình trạng chiến tranh, ông là người có tâm, có đạo đức và cũng rất ngoan đạo. Bản thân tôi cũng là một người Công giáo.
Sau thời kỳ học sinh, đến khi trưởng thành tôi gia nhập quân đội, phục vụ tại ban 5, chiến tranh chính trị, thuộc Liên đoàn 31 Biệt Động Quân. Tôi phụ trách làm hướng đạo sinh quân đội của Liên đoàn, đồng thời là giáo viên của trường trung tiểu học Phan Hạnh. Học sinh và hướng đạo sinh đều là con em của binh sĩ thuộc Liên đoàn và cả con em của người dân cư ở khu vực đó. Trừ những lúc chiến tranh căng thẳng, cuộc sống của tôi và gia đình khá ổn định. Tôi có thu nhập đủ để tự lo cho gia đình và bản thân. Tôi rất thích công việc dạy học nên khi làm việc tôi cảm thấy vui và thoải mái. Những lúc rảnh rỗi, tôi về thăm nhà hay đi giải trí cùng bạn bè. Thế nhưng mỗi lúc chiến trường có biến động thì không những tôi mà những người xung quanh đều lo lắng và cuộc sống cũng bị đảo lộn. Tôi chấm dứt công việc kể từ ngày 30/4/1975.
Vào ngày hôm đó, tôi đang trên đường về nhà sau khi nghe tin thua trận. Lúc đó tôi mang tâm trạng buồn bã. Tôi thấy chua xót như mất mát đi một cái gì đó rất lớn. Trong lòng tôi cảm thấy hoang mang giống như là người đi lạc vậy, nhất là khi về thấy Sài Gòn trong tình trạng hỗn loạn.
Sau ngày 30/4, tôi phải dự một lớp học chính trị trong 10 ngày. Sau khi học chính trị 10 ngày đó, tôi được chính quyền cộng sản trả lại quyền công dân. Tôi không biết tôi mất quyền công dân từ bao giờ.
Xã hội Việt Nam, sau 30/4, trong đó có cả gia đình tôi, là một xã hội nghèo nàn, đầy rẫy những khó khăn, hàng hóa cực kì thiếu thốn. Mọi gia đình, mọi người đều ăn độn bo bo hay bột mì vì thiếu gạo, mặc dù Việt Nam là một nước nông nghiệp và đã từng xuất cảng gạo trước đó. Mọi người lúc đó đều thiếu ăn thiếu mặc; mọi phẩm vật tiêu dùng hầu như đều biến mất khỏi các quầy hàng. Có một chuyện mà tôi nhớ mãi: một lần tôi và vợ tôi đi ngang qua một tiệm bán hủ tiếu nhỏ ven đường. Mùi thơm bốc lên ngào ngạt làm chúng tôi thèm thuồng lắm. Chúng tôi cũng như nhiều người thời đó đều thiếu dinh dưỡng. Dù rất muốn ăn, nhưng vợ chồng tôi đành phải bước đi vì nếu vào ăn thì ngày hôm sau sẽ không còn tiền đi chợ. Tôi kể điều này ra để nói đến tình trạng thiếu thốn, nghèo khổ của xã hội. Đây là tình hình chung của phần lớn xã hội chứ không phải của riêng ai.
Tôi và gia đình sang Mỹ theo diện đoàn tụ gia đình năm 2002. Gia đình tôi sang Mỹ bằng phi cơ và khi sang tới nơi thì được giúp đỡ của người thân nên không có khó khăn nhiều lắm. Trong suốt chuyến đi, tôi hay nghĩ về tương lai của gia đình mình và không biết làm thế nào để hội nhập vào cuộc sống mới khi chúng tôi vẫn chưa biết tiếng Anh và không quen biết đường xá đi lại. Tôi còn cảm thấy rất buồn và nhớ người con gái lớn của tôi còn ở lại.
Sau khi sang Mỹ, rất không may là tôi bị bệnh suy thận vào giai đoạn cuối. Cho nên ngay sau đó tôi phải lọc thận mỗi tuần 3 lần. Vì lý do sức khỏe nên tôi không thể làm việc.
Tuy không thể làm việc, nhưng qua những lần đi bệnh viện, đi lọc thận và tới các cơ sở y tế liên quan đến căn bệnh của mình, tôi có cơ hội để giao tiếp với người bản xứ và cả những người dân di cư như gia đình tôi. Tôi thấy rào cản ngôn ngữ là khó khăn lớn nhất. Và đôi khi tôi cũng thấy được cả sự khác biệt về văn hóa với người bản xứ. Trước khi rời khỏi Việt Nam, tôi đã xem rất nhiều sách báo, phim ảnh cũng như theo dõi về đất nước và con người Hoa Kỳ. Vì thế nên những thông tin cơ bản về nước Mỹ tôi cũng phần nào nắm được. Thế nhưng để thực sự hội nhập vào nhịp sống ở đất nước mới thì cần nhiều thời gian hơn. Nay thì cuộc sống của gia đình tôi đã rất ổn định nên những khó khăn trong thời gian đầu mới sang Mỹ không còn nữa.
Khi sống xa đất nước, ngoài nỗi nhớ con, cháu, tôi còn nhớ tới bạn bè và những nơi tôi thường đến. Những quán ăn, quán cá phê đều gắn với kỷ niệm trong suốt những năm tháng tôi sống suốt hơn 40 năm. Tôi đặc biệt nhớ tết cổ truyền Việt Nam. Không khí Tết nhộn nhịp, thân quen thực sự chỉ có ở Việt Nam mới có. Vì cuộc sống bên Mỹ quá bận rộn, thêm vào đó là người Mỹ không ăn mừng Tết Việt Nam nên Tết ở xứ người cũng rất buồn.
Tôi có trở lại Việt Nam một lần để thăm con gái, cháu ngoại và thân nhân. Tuy chỉ sau vài năm nhưng, thành phố tôi sống lúc trước đây thay đổi quá nhiều. Bây giờ nó quá ngột ngạt. Đường phố đầy những người và xe cộ, thường xuyên bị kẹt xe. Lưu thông trên đường phố hỗn loạn hơn trước. Người dân đa số rất thiếu ý thức về giao thông. Không khí cũng trở nên ô nhiễm và bụi bặm hơn. Vì đã quen với trật tự của đường phố và không khí của Mỹ nên tôi có chút không quen. Đặc biệt vật giá đắt hơn trước rất nhiều.
So với trước năm 75, người ta bây giờ đặt tiền bạc vật chất lên trên hết. Họ đánh giá người khác bằng tiền bạc, sang hèn, chứ không bằng tư cách hay đạo đức như trước năm 75. Việc coi trọng tiền bạc vật chất đến nỗi mà người làm giả hàng tiêu dùng, giả cả thuốc chữa bệnh bất kể tính mạng con người.
Nếu được chọn lựa, tôi muốn được trở lại sống vào thời kỳ sau năm 1954 cho đến khoảng năm 1960. Đây là khoảng thời gian thơ ấu của tôi và cũng là một thời kỳ thanh bình của đất nước Việt Nam. Vào thời gian này, người miền Bắc chưa xâm nhập vào miền Nam và gây ra chiến tranh ngày càng ác liệt. Xã hội chưa có những tệ trạng và rối ren do tình trạng chiến tranh gây ra. Đất nước sống trong thanh bình, tự do. Cuộc sống mọi người dân tương đối no ấm và yên ổn.
Nhận xét của người phỏng vấn
Đời sống trước năm 1975 qua lời kể gắn liền với cuộc chiến Việt Nam. Những người may mắn không phải đối mặt với súng đạn và chết chóc trên chiến trường thì cũng luôn lo lắng và theo dõi tình hình cuộc chiến. Tầm ảnh hưởng của chiến tranh đi vào đời sống của người dân và đặc biệt tới đời sống tinh thần của họ. Các thành viên khác trong gia đình tôi, những người đã sinh ra và sống tại miền Nam Việt Nam trước năm 1975, vẫn thường nhắc lại thời họ đi lính cho quân đội Việt Nam Cộng hòa, nhắc lại những sự kiện nổi bật như Tết Mậu Thân. Đặc biệt, mọi người đều rất yêu thích những ca khúc “tiền chiến” hay những ca khúc về lính. Tôi và những người của thế hệ sau này chưa bao giờ phải sống trong cảnh chiến tranh rình rập như vậy, nên không thấy rõ được giá trị của cuộc sống thanh bình. Thế nên cảm giác “chua xót, mất mát, hoang mang” mà người trả lời phỏng vấn đã trải qua trong ngày thật quá khó có thể tưởng tượng được.
Một điểm đáng chú ý về đời sống tại Việt Nam trước 1975 là sức ảnh hưởng của văn hóa Âu Mỹ. Theo lời kể thì âm nhạc, thơ văn, cách ăn mặc và cả lối sống đều thấy sự ảnh hưởng của phương Tây. Thơ văn tiền chiến đầu thế kỷ 20 cho thấy sức ảnh hưởng của Pháp. Trong khi đó, những nơi vui chơi giải trí của miền Nam Việt Nam trước 1975 như hòa nhạc, hộp đêm, rạp chiếu phim đều du nhập từ Mỹ.
So với Việt Nam hiện tại thì những người đã từng sống ở Việt Nam trước 1975 thích cuộc sống trước kia hơn. Đa phần những người tôi biết, nhất là người trả lời phỏng vấn, đều nhận xét thấy và không thích những sự thay đổi tiêu cực về giá trị đời sống tại Việt Nam hiện nay: sự coi trọng vật chất quá mức, thang giá trị của phẩm chất con người thay đổi dựa trên vật chất.
2. Bài phỏng vấn của T. Lê
Tôi là Trần N. H., năm nay 61 tuổi. Tôi không nhớ rõ lắm về thời thơ ấu, chỉ nhớ là lúc nhỏ được ba má cưng nhứt nhà vì là con trai út trong số mấy anh em trai. Nhà tôi có tất cả 6 anh chị em: 3 trai, 3 gái. Trước năm 1954, cả nhà sống ở Thạch Hà, Hà Tĩnh. Sau đó thì năm 1954 di cư vào Nam, định cư ở Quy Nhơn. Tôi học tiểu học, với trung học đệ nhất cấp ở đây. Lúc lên trung học thì nhà có mở tiệm sửa xe đạp, nên hàng ngày cũng hay ra tiệm phụ giúp ba. Khoảng năm 1965 thì tôi vào Tuy Hòa học trung học đệ nhị cấp ở trường Đặng Đức Tuấn. Đặng Đức Tuấn là trường Công giáo. Thời đó cha Nguyễn Trọng Huấn làm hiệu trưởng.
Học xong lớp 11 thì tôi xung phong đi lính, nhưng không phải ra trận, chỉ làm công việc văn phòng. Làm lính văn phòng nói chung không có gì nguy hiểm. Lương cũng cao. Tính ra lương đi lính, chi tiêu ăn uống, lặt vặt, lo cho gia đình, vợ con hết thì cũng còn dư được cả cây vàng. Rồi cũng được trợ cấp đồ Mỹ, đồ hộp, quần áo… Cứ hàng tháng, đồ Mỹ phát về sở là tôi hốt cả bao đem về cho nhà.
Đời sống ở Việt Nam trước 1975 tốt. Tự do, muốn làm gì thì làm. Tiếp xúc được nhiều cái văn minh của Mỹ. Giáo dục được chánh quyền quan tâm. Thời tôi đi học, nhiều đứa học giỏi cuối năm được phát thưởng cả chiếc xe đạp. Mà thời đó xe đạp quý lắm.
Tôi đọc nhiều sách báo, nhưng lâu quá nên không còn nhớ tên. Tôi thường hay đọc mấy tin về chiến trường vì mình làm lính mà. Tôi thích nghe nhạc vàng, hâm mộ hai ca sĩ Duy Khánh và Nhật Trường, nhất là bài “Xin anh giữ trọn tình quê” của Duy Khánh.
Cuối tháng 3 năm 1975, tôi nghe tin cộng sản chuẩn bị đánh vào Tuy Hòa. Mấy ông sĩ quan cấp trên bỏ chạy hết rồi. Người dân, người ta cũng bắt đầu chạy khỏi Tuy Hòa nên tôi cùng cả gia đình lo chạy vào trong Cam Ranh. Khi đó vợ tôi đang mang bầu đứa con thứ hai (mất năm 3 tuổi). Được ít ngày thì nghe tin cộng sản chiếm xong Tuy Hòa, nghe đâu chuẩn bị đánh vào Nha Trang và Cam Ranh. Lúc đó cả nhà định chạy vào Sài Gòn, nhưng thấy người dân bị pháo kích của cộng sản chết trên đường bộ nhiều quá, nên ba vợ quyết định ở lại Cam Ranh cho an toàn. Tôi cũng muốn ở lại Cam Ranh để lo cho vợ sắp sinh, nhưng sợ cộng sản biết tôi đi lính sẽ trả thù nên tôi với Th. (là lính địa phương quân Việt Nam Cộng hòa) đi ghe trốn vào Sài Gòn trước. Lúc đó đi cũng day dứt lắm vì để vợ với con trai đầu ở lại (vì sợ họ đi cùng sẽ gặp nguy hiểm). Rồi tôi đi ghe ra biển, gặp tàu hàng của Mỹ, được tụi nó đưa vào trong đảo Phú Quốc.
Ở Phú Quốc đến ngày 27, 28 tháng 4 thì tôi với Th. vào Sài Gòn. Lúc đó, người dân Hóc Môn kéo vào Sài Gòn đông lắm. Nhiều người chết vì trúng đạn pháo 122 ly của cộng sản. Sài Gòn hỗn loạn. Người Công giáo tụ tập ở các nhà thờ, tòa giám mục để cầu nguyện, xưng tội. Tôi và Th. trú ở Đại Chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn cho đến sau ngày 30/4/1975. Lúc đó ai cũng sợ. Đâu ai dám ra đường. Sợ bị cộng sản nó bắn chết.
Sau giải phóng 2, 3 tuần, tôi về lại Tuy Hòa. Tôi với Th. bị cộng sản bắt đi học tập khoảng 1, 2 tháng gì đó. Tôi chỉ là bậc trung sĩ, hạ sĩ quan, còn Th. làm lính địa phương quân nên cũng không bị tội gì nặng. Mấy ông sĩ quan cấp lớn bị bắt đưa ra Hà Nội, còn lại một số thì bị đưa lên trại A30 ở Đồng Bò, La Hai, rồi cũng có mấy người bị xử bắn ở Phú Thứ.
Sau 1975, tôi cũng tính đi vượt biên nhưng sợ. Sau khi vợ sanh thêm thằng con thì tôi không còn ý định đi vượt biên nữa. Nếu đi thì dẫn cả nhà cùng đi, mà nghe nhiều người chết ngoài biển nên thấy nản. Nhưng thằng H., con trai đầu của tôi, lúc đó học lớp 7, nói nó muốn đi. Nghĩ nếu nó đi được thì cũng có tương lai cho nó. Với lại nó đi cùng dì cậu nó nên cũng cảm thấy an tâm phần nào.
H. bảo lãnh vợ chồng tôi qua Mỹ năm 2001. Khi sang đây, tôi buồn lắm. Đi mà để lại ba đứa con nên thấy không an tâm chút nào. Nhưng nghĩ con cái nó cũng lớn hết rồi. Với lại vợ chồng tôi đi là cũng nghĩ đến tương lai của tụi nó. Qua bên này ráng lấy quốc tịch cho sớm để bảo lãnh anh em tụi nó qua. Tội nhất là thằng H. Lúc tôi đi Mỹ, nó mới học xong lớp 12. Cũng lớn rồi, nhưng vợ chồng vẫn thường cưng nó, lo cho nó từng ly từng tí. Giờ để nó ở lại cho anh nó trông cũng thấy tội.
Lúc đặt chân tới Mỹ, cảm giác của tôi shock lắm. Thấy nước Mỹ nó lớn quá. Hồi giờ tôi có đi nước ngoài lần nào đâu. Ở quê Tuy Hòa, lâu lâu vào Sài Gòn là đã thấy văn minh lắm rồi. Giờ sang Mỹ, đi trên mấy đường cao tốc, thấy nó bự và văn minh quá.
Sau khi sang Mỹ, tôi làm nhiều jobs lắm. Lúc mới qua ở Cali, tôi phụ Ph. sửa TV với mấy đồ điện tử lặt vặt. Sau đó sang bên Kansas làm ở nhà hàng của M., rồi theo mấy ông Việt Nam đi đào mấy lỗ chạy ống nước. Năm 2003, tôi sang bên Massachusetts làm cho hãng mấy nước nóng, lắp phích điện, chạy dây… Rồi làm thêm nghề in hình trên mấy cái áo thun. Ở Massachusetts cũng gần 5 năm. Giữa năm 2007 thì thằng H. chuyển sang làm ở Arizona nên vợ chồng tôi theo nó sang Arizona. Ở đó thì tôi đi làm hãng bò. Đến năm 2008 thì cả nhà dọn sang sống ở nam Cali. Tôi làm thợ tiện từ đó cho đến nay.
Bây giờ tôi cảm thấy thích nghi được với lối sống bên này. Đường sá ít nhiều cũng rành. Xe cộ cũng biết lái. Đi nhà băng, ngân hàng, chợ búa … gặp tụi Mỹ, tụi Mễ thì cũng nói, cũng hiểu được chút đỉnh. Nói chung là đã quen được với cuộc sống bên này. Còn khó khăn thì chủ yếu là ngôn ngữ. Tôi lớn tuổi rồi. Tiếng u, tiếng tây nhiều khi mình không rành. Nói đâu quên đó.
Từ lúc qua Mỹ tới giờ, tôi về Việt Nam được hai lần. Một lần về với vợ khoảng năm 2003, 2004 gì đó. Lần mới đây thì năm 2008, về lo đám cưới cho thằng H.
Mấy lần về Việt Nam và nghe tin tức, báo chí, tôi thấy Việt Nam giờ cũng thoải mái như trước năm 1975. Có khác chủ yếu là tự do. Thời trước người dân họ có tự do nhiều hơn, muốn làm gì thì làm, không sợ mấy ông cảnh sát, mấy người có chức có quyền chèn ép. Nói chung bây giờ sau đổi mới, Việt Nam cũng tiến bộ nhiều rồi. Việc buôn bán, phương tiện đi lại này nọ cũng tốt. Chỉ có mấy năm sau 1975 đến năm 1990 là quá tệ. Mấy ông cộng sản nhà nước, ổng chèn ép, tịch thu đất đai, tài sản… Buôn bán làm ăn khó khăn lắm. Bây giờ thì luật pháp Việt Nam cũng có phần rõ ràng hơn. Không phải mấy ổng muốn làm gì cũng được.
Sống ở Mỹ, tôi nhớ nhà cũ, người thân, bạn bè, bà con lối xóm. Ở bên này tuy vật chất đầy đủ, nhưng nhiều khi thấy thiếu thốn về tinh thần. Hồi xưa ở Việt Nam hằng ngày đi uống cà phê, gặp bạn bè. Còn bên này sáng thức dậy đi làm, chiều về nhà đóng cửa, coi TV. Mấy tháng nay vợ tôi về Việt Nam, thằng H. thì đi làm xa, tôi về nhà chỉ ăn cơm nước một mình. Lớn tuổi rồi, nhà lại vắng nên nhiều khi cũng buồn.
Vợ chồng tôi tính tới chuyện sẽ về định cư lại ở Việt Nam. Đợi cho thằng H. qua bên này, rồi khi nào anh em tụi nó đứa nào cũng có công ăn sự nghiệp ổn định thì lúc đó tụi tôi mới về Việt Nam. Sống ở đâu đi nữa thì cũng không bằng ở quê hương mình.
Mong ước của tôi bây giờ là con cái, gia đình sống tập trung lại gần nhau. Thằng H. ở Việt Nam, con H. ở Boston, thằng H. ở Sacramento. Mong thì mong vậy nhưng tôi nghĩ cũng khó. Ở bên Mỹ mà, đâu phải như ở Việt Nam. Con cái nó kiếm được jobs ở đâu, nó thấy nơi nào thuận tiện thì nó làm ở đó. Phần tôi làm cha, thấy con cái nó có jobs, có của ăn của để là cũng mừng cho tụi nó rồi.
Nhiều người cứ nghĩ Mỹ là thiên đường, rồi qua bên này thất nghiệp, kiếm đồng tiền thấy khó khăn thì bị shock. Ở đâu cũng vậy, mình phải chịu khó. Làm để cho con cái nó có tương lai, sự nghiệp.
Nhận xét của người phỏng vấn
Thú thật đây là lần đầu tiên tôi có được một buổi nói chuyện rất cởi mở và thân tình với dượng tôi. Từ trước tới nay, mỗi năm vẫn gặp dượng dưới Orange County hay trên Sacramento hai, ba lần, nhưng gặp nhau thì cũng chỉ hỏi thăm sức khỏe; dượng thì hỏi cháu việc học, cháu thì hỏi dượng việc làm. Đâu có bao giờ tôi dám hỏi dượng về suy nghĩ riêng tư, tâm sự, hay mấy chuyện thời chiến xa xưa, nghe có vẻ to tát, già dặn quá. Lần này phỏng vấn dượng, lúc đầu làm thì nghĩ “à, mình làm vậy thôi, dự án nghiên cứu cuối khóa của lớp mà”, nhưng làm xong rồi thì mới thấy được cái giá trị của nó. Thấy còn nhiều cái mình còn chưa biết quá. Không giấu gì, bản thân tôi là một người cũng rất “nghiện” lịch sử Việt Nam từ năm 1954-1975. Tôi đã xem khá nhiều phim tài liệu như Cuộc chiến tranh 10,000 ngày của Daniel Costelle, cuộc chiến tại An Lộc 1972, Xuân Lộc 1975, Khe Sanh, Huế, Sài Gòn 1968… Rồi cũng đọc qua mấy bài phỏng vấn của tạp chí Der Spiegel với cựu Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, hay các cuốn hồi ký của Henry Kissinger, William Westmoreland. Tưởng mình cũng biết được khá đầy đủ về những góc cạnh của cuộc chiến tranh Việt Nam, nhưng nghe dượng kể những chuyện chạy giặc, những trận pháo kích của cộng sản trên các tuyến đường di tản từ Trung vào Nam, rồi cuộc sống ở Việt Nam trước và sau năm 1975 thì mới thấy còn quá nhiều điều mình chưa biết.
Điểm thứ hai mà tôi muốn thổ lộ là qua cuộc phỏng vấn, tôi thấy thương những bậc làm cha làm mẹ người Việt mình quá. Nhất là những người chân ướt chân ráo sang Mỹ thời kỳ đầu sau năm 1975, hay những người có tuổi rồi được bảo lãnh qua Mỹ những năm gần đây. Dượng tôi lúc qua bên này đâu còn trẻ gì, mà phải chịu khó chịu khổ, làm đủ “jobs”, đi tiểu bang này tiểu bang kia để kiếm đồng tiền, khó khăn vất vả lắm. Nhưng dượng làm vì con cái. Cũng kiếm chút ít đồng bạc rồi gửi về cho anh H., cho phía nội, phía ngoại ở Việt Nam. Mới tháng 12 vừa rồi xuống dưới Orange County, đi nhà thờ Việt ở dưới đó, tôi gặp một bác Việt Nam tuổi cũng năm mấy, mới qua bên này, thất nghiệp, mỗi tuần được cha cố nhận quét dọn nhà thờ một, hai lần, lương tạm bợ. Thấy tội nghiệp lắm. Nhân kỷ niệm 35 năm ngày viễn xứ (30/4/1975 – 30/4/2010), ngoài việc tri ân các bậc làm cha làm mẹ đã không ngại gian khổ, hy sinh để đi tìm một cuộc sống tự do, dân chủ nơi đất khách, tôi cũng ước mong là người Việt mình ở bên này mở rộng vòng tay giúp đỡ những gia đình người Việt vừa mới sang định cư để họ có thể hòa nhập tốt vào cuộc sống mới.
3. Bài phỏng vãn của Nhân Hùng
Tôi tên là Mary. H, 58 tuổi. Gia đình tôi có 3 anh em, nên thường hay chơi chung với nhau. Tôi và em gái học ở trường Gia Long trước năm 1975. Sau trường này đổi tên thành Nguyễn Thị Minh Khai.
Thời trước 75, tôi là một nữ sinh vô tư, chỉ biết đi học và chơi cùng các bạn cùng trường, như những nữ sinh khác, nên không nắm rõ lắm về tình hình Việt Nam lúc bấy giờ. Tôi thích đọc truyện dịch hay những sách dịch từ tiểu thuyết Pháp, đọc tạp chí Ngày nay và mấy tập san của trường. Rồi thích nghe các ca sĩ yêu thích ca những bài hát dịch từ tiếng anh như nhóm The Cat’s Trio, The Apple Three…, những bài như “Chủ Nhật tươi đẹp – Beautiful Sunday”.
Tôi tốt nghiệp năm 1972 và cũng lấy chồng năm ấy.
Ngày 30/4/75, tôi cùng chồng và con gái rời Việt Nam. Trước tiên, quân đội Mỹ đưa gia đình tôi qua Guam. Sau đó, chồng tôi làm thủ tục để xin tị nạn. Đến tháng 8 năm 1975, cả gia đình được nhập cư vào Hoa Kỳ.
Mặc dù đã học tiếng Anh ở trường cũ, nhưng ngôn ngữ ở Hoa Kỳ thật khó khăn. Gặp chuyện gì, rất khó diễn tả cho người Mỹ hiểu. Tôi phải đi học ở trường dành cho người thành niên. Tôi cũng đi nhà thờ và được giới thiệu việc làm.
Lúc mới qua Mỹ, vợ chồng tôi ở apartment, cũng có vài người Việt. Hàng xóm chỉ đưa nhau vài cái băng cassette của mấy ca sĩ như Nhật Trường để giải buồn. Hồi đó, nhà ăn hay chợ của người Việt rất ít, hầu như là không có. Đến khoảng năm 1980, bắt đầu có chợ của người Việt. Thời ấy cũng không có sách tiếng Việt cho mình đọc. Mấy đứa trẻ ở nhà hay mở hoạt hình thì tôi học tiếng Anh từ đấy. Còn bây giờ, mấy đứa nhỏ ở nhà không biết tiếng Việt rành nên chúng chỉ coi truyền hình của Mỹ. Thỉnh thoảng, tôi vẫn nghe nhạc của Ngô Thuỵ Miên.
Từ khi sang Mỹ, tôi chưa về lại Việt Nam, vì gia đình và con cái đã ở Mỹ. Đời sống ở đây khác Việt Nam. Phụ nữ ở đây được tôn trọng và cơ hội cũng công bằng hơn. Con gái tôi có thể lựa chọn bất kỳ ngành gì mình thích, và đặc biệt là chính phủ tài trợ hoàn toàn học phí trước khi vào college. Khi tôi đi làm, cũng được lên chức supervisor sau khi làm việc lâu năm, chứ không bị phân biệt nam nữ.
Sống ở Mỹ, tôi chỉ nhớ thời học sinh của mình.
Nhận xét của người phỏng vấn
Sau năm 1975, nhiều sự kiện xảy ra và nhiều người rời bỏ đất nước để tìm kiếm một cuộc sống mới. Tại Mỹ, họ có nhiều cơ hội dành cho phụ nữ. Phụ nữ và nam giới có quyền bình đẳng như nhau. Chính vì thế, cơ hội đi học của phụ nữ cao hơn so với những nước Châu Á. Mặc dù, bà Mary là nữ sinh Gia Long (được coi là một biểu hiện của tự do cho phái nữ), bà vẫn khẳng định, nước Mỹ tạo ra được một môi trường công bằng đối với phái nữ. Con gái bà được theo ngành nghề mà mình yêu thích và ba mẹ không hề ép buộc cô phải làm điều gì cô không thích. Mặc dù con gái bà không biết đọc tiếng Việt, nhưng đó là sự lựa chọn của cô ta. Ở nước Mỹ, quyền phụ nữ được tôn trọng hơn so với nhiều nước khác. Mỹ cũng tạo điều kiện cho phụ nữ có những vai trò thiết yếu trong chính quyền, ví dụ bà Hillary Clinton đã ứng cử tổng thống năm 2008. Một ví dụ khác là bà Meg Whitman, cựu CEO của Ebay, cũng chuẩn bị ra tranh cử thống đốc của tiểu bang California. Bản thân bà Mary cũng được thăng chức khi làm việc tốt, không bị phân biệt đối xử. Và khi sai phạm, phụ nữ cũng bị cảnh cáo như những đồng nghiệp nam của họ.
© 2010 talawas
28/4/10
Peter Hansen – Bắc di cư .........(3)
Peter Hansen – Bắc di cư: Dân Công giáo tị nạn từ miền Bắc Việt Nam và vai trò của họ tại Cộng hòa Miền Nam, 1954-1959 (phần cuối)
26/04/2010 |
( Hiếu Tân dịch )
Ba giai đoạn tái định cư
Đúng như quyết định di cư vào Nam của Bắc di cư có tính tự chủ và có suy nghĩ hơn là nhận thức của nhiều nhà bình luận, kiểu mẫu tái định cư của họ ở miền Nam cũng vậy. Hầu như vào thời điểm họ đến miền Nam, những người di cư tích cực chủ động trong việc lựa chọn địa điểm có thể sẽ là quê mới họ. Đồng thời, các linh mục đã ra đi từ miền Bắc tiếp tục đóng vai trò lãnh đạo chủ chốt trong những cố gắng của giáo dân của họ tìm kiếm vị trí cho mình trong xã hội miền Nam.
Việc tái định cư của những người di cư ở miền Nam diễn ra trong ba giai đoạn riêng biệt nhưng có chồng lấn lên nhau. Giai đoạn một ứng với thời kỳ di chuyển tự do do Hiệp định Geneva quy định tại Điều 14 (c). Dòng người di cư từ miền Bắc trong khoảng hở ba trăm ngày là khổng lồ, và không một chính phủ nào, chứ đừng nói đến một chính phủ mới ra đời, có thể đối phó với các vấn đề hậu cần liên quan đến đoàn người mới đến. Trong giai đoạn đầu này, phần lớn những ai di tản qua Hà Nội và Hải Phòng được bố trí ở trong những Trạm Tiếp Cư, gần các sân bay và bến tàu ở Sài Gòn, Chợ Lớn và Vũng Tàu[1]. Những trạm đón tiếp này được lập lên trên những cơ sở công cộng có sẵn như trường học, trại lính Pháp cũ, và nhà thờ, nhiều ngàn người di cư ở trong những liên hợp lều trại được dựng trên những bãi đất trống gần sân bay Tân Sơn Nhất và trên trường đua Phú Thọ. Như các quan chức chính phủ thừa nhận, những khu mới này không phải là giải pháp sinh sống lâu dài cho vấn đề tái định cư[2]. Những người chủ hay những người sử dụng trước của các cơ sở này chẳng bao lâu sẽ cần trở lại cơ ngơi của họ để sử dụng chúng theo các mục đích ban đầu, hơn nữa, do thiếu các cơ sở hạ tầng thích đáng các khu trại tạm này rất dễ xảy ra dịch bệnh và hỏa hoạn[3].
Bảng 2 Các Giám mục của các Địa phận miền Bắc, 1954
Địa phận Giám mục Năm
Bổ nhiệm
Ở lại hay ra đi
Hà Nội Trịnh Như Khuê 1950 Ở lại
Hải Phòng Trương Cao Đại 1953 Ra đi
Bắc Ninh Hoàng Văn Đoàn 1950 Ra đi
Hưng Hóa Jean Maizé MEP 1945 Ở lại
Lạng Sơn Felix Hedde, OP 1939 Ở lại
Andre Jacq. OP 1945 Ở lại
Thái Bình Santos Ubiema, OP 1942 Ra đi
Bùi Chu Phạm Ngọc Chi 1950 Ra đi
Phát Diệm Lê Hữu Từ 1945 Ra đi
Thanh Hóa Louis de Cooman, MEP 1935 Vắng mặt
Vinh Trần Hữu Đức 1951 Ở lại
Nguồn: Từ Lê Ngọc Bích: Nhân vật Công Giáo Việt Nam: Các Vị Giám Mục Một Thời Đã Qua Đời (1933-1995) [Vietnamese Catholic Biography: Deceased Bishops (1933–1995)] (HCMC, 1995; và Công Giáo và Dân Tộc [Catholicism and the Nation], Công Giáo Sau Quá Trình 50 Năm [Catholicism through a Process of Fifty Years] (HCMC: Công Giáo và Dân Tộc, 1995).
Trong giai đoạn hai của công cuộc tái định cư, bắt đầu vào lúc kết thúc thời kỳ ba trăm ngày theo quy định của Hiệp định Geneva, đa số người di cư đóng ở Sài Gòn, Chợ Lớn và Vũng Tàu chuyển đến những nơi định cư lâu dài hơn ở các tỉnh liền kề xung quanh các trung tâm đô thị. Trong khi những khu định cư mới này nằm rải rác trên nhiều tỉnh, có nhiều khu tập trung trong một vùng nằm ngay bắc Sài Gòn, ở Gia Định, Biên Hòa và Long Khánh. Trong một số trường hợp, bản thân Bắc di cư tự chọn những địa điểm trên đó họ đề nghị xây dựng những cộng đồng mới của họ; trong những trường hợp khác, họ được đưa đến những nơi này bằng các chỉ dụ của chính phủ, hoặc Ủy ban Hỗ trợ Định cư, một nhóm đại diện cho sự lãnh đạo của các giáo sĩ của mười giáo khu miền Bắc di cư đến. Ủy ban Tái Định cư do Giám mục Phạm Ngọc Chi của địa phận Bùi Chu đứng đầu.
Trong nhiều trường hợp, việc di chuyển trong giai đoạn hai này được thúc đẩy bởi mong muốn làm nhẹ bớt những vấn đề xã hội nảy sinh từ dòng người di cư đông đảo và đột ngột kéo đến Sài Gòn và Chợ Lớn. Những vấn đề này bao gồm sự chen chúc chật chội, giá nhà ở và tiện nghi sinh hoạt tăng vọt, và sự bất hòa giữa các cộng đồng tăng lên do cạnh tranh việc làm và cơ hội buôn bán. Việc tái định cư trong giai đoạn hai này không được dẫn dắt bởi một kế hoạch toàn diện, có tính chiến lược, được sự bảo trợ của chính phủ, mà đúng ra, nó được hình thành từ một hỗn hợp những tình huống ngẫu nhiên, những quyết định vội vã thiếu tính trước, và những sáng kiến của bản thân những người di cư. Toàn bộ điều này dựa trên nhu cầu tìm một chỗ nào đó – ở đâu cũng được – cho Bắc di cư đến ở sao cho ít tàn phá nhất đến các cơ sở hạ tầng của Sài Gòn (và một mức độ thấp hơn, Đà Nẵng). Ngay từ tháng Tám 1954, chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã cắt cho Giám mục Phạm Ngọc Chi (mới vào Sài Gòn được ít ngày) một vạt đất hai mươi lăm ngàn hecta trong các huyện Biên Hòa và Xuân Lộc (lúc ấy là các bộ phận của tỉnh Long Khánh). Theo tờ nhật báo Sài Gòn Tiếng Chuông, các quan chức chính phủ mong đợi sử dụng viện trợ Mỹ để lập bốn mươi làng mới, mỗi làng khoảng hai nghìn năm trăm dân[4]. Giám mục Lê Hữu Từ chọn Gia Kiệm, trên đường Sài Gòn đi Đà Lạt làm nơi tái định cư cho những người di cư từ giáo khu Phát Diệm[5]. Vào tháng Mười Hai, 1954, 271.208 người Bắc di cư đã được bố trí chỗ ở; con số này tăng lên thành 462.799 vào tháng Tư, 1955[6]. Vào tháng Mười Hai, 1955, có 257 trại tái định cư chính thức đăng ký với Tổng ủy Di cư Tị nạn[7].
Không giống hai giai đoạn đầu của công cuộc tái định cư, giai đoạn ba – bắt đầu vào khoảng cuối 1955, và nhanh chóng lấy đà tiến lên – được hình thành bởi những cố gắng phối hợp mạnh mẽ của chính phủ Ngô Đình Diệm, để vận động Bắc di cư theo cách nhằm thực hiện những mục tiêu chính trị, an ninh, kinh tế dài hạn. Trong giai đoạn này nhà cầm quyền tập trung các nỗ lực của họ vào việc chuyển người di cư ra khỏi một số vùng đông dân ở miền Nam, những vùng bao gồm vùng ngoại ô Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, Biên Hòa, Đà Nẵng và vùng biển miền Trung – và đưa đến những vùng thưa dân hơn như Châu thổ sông Cửu Long và Cao nguyên Trung phần. Trong nhiều trường hợp những kế hoạch định cư mới nhằm giảm căng thẳng do sự di chuyển khối người di cư lớn trong giai đoạn một và hai gây nên. Chẳng hạn dân số tỉnh Biên hòa vào năm 1955 là 265.000 người, gấp đôi con số của mười hai tháng trước. Hầu như tất cả những người mới đến là Bắc di cư[8].
Phân bố ban đầu của người di cư trên toàn lãnh thổ Nam Việt Nam không đồng đều. Vào tháng Mười Hai năm 1955, trong số ba mươi mốt tỉnh có các trại định cư, có năm tỉnh mỗi tỉnh tạo được điều kiện ăn ở cho ba mươi ngàn người Bắc di cư, điều có ý nghĩa hơn là, trong đó có bốn tỉnh ở lân cận Sài Gòn. Bảy tỉnh khác mỗi tỉnh thu hút từ mười đến ba mươi ngàn người mới đến. Mười chín tỉnh còn lại nhận ít hơn mười ngàn người di cư, trong đó nhiều tỉnh ít hơn một ngàn[9]. Các quan chức chính phủ Ngô Đình Diệm tin rằng tập trung quá mức Bắc di cư trong một số ít vùng có thể gây hậu quả bất lợi. Người ta cũng tin rằng nhiều trại tái định cư giai đoạn hai cần phải giải tán và chuyển đi chỗ khác vì tình hình an ninh bất lợi, vì vùng đất định cư không phù hợp với dân cư, hay chỉ đơn giản vì thiếu việc làm và các cơ hội kinh doanh[10]. Ngô Đình Diệm biện hộ cho chính sách phân phối dân cư bằng một số cách. Đầu tiên ông tìm cách tạo ra sự ổn định kinh tế, quân sự, chính trị trong những khu vực nguy hiểm và kém phát triển. Làm như thế, ông hy vọng sẽ tạo ra một Việt Nam Cộng hòa mạnh về kinh tế và một con đê ngăn chặn sự nổi dậy của cộng sản. Đồng thời ông cũng cố gắng giảm căng thẳng ở những vùng bị áp lực bởi sự tập trung quá đông dân và không đủ đất hoặc các cơ hội kinh tế, bằng cách dời những khu định cư khỏi các vùng quá đông như Sài Gòn Chợ Lớn và bờ biển miền Trung.
Việc định cư những người di cư cũng báo trước các chiến dịch tổng thể hơn như cải cách điền địa và tái định cư mà Ngô Đình Diệm hy vọng sẽ bắt đầu sau khi những khủng hoảng ban đầu đã qua đi[11].
Điểm khởi đầu của giai đoạn lớn cuối cùng của công cuộc tái định cư được đánh dấu bằng việc khởi công dự án Tái Định cư Nông nghiệp Cái Sắn ở Châu thổ sông Cửu Long. Địa điểm Cái Sắn, một vạt đất trải ra trên các tỉnh Kiến An và Long Xuyên đã nhận khoảng năm mươi ngàn người di cư trong các năm 1956-1957[12]. Dân cư ở dọc bên bờ con kênh chính và dọc theo mười chín nhánh kênh. Mười tám trong số kênh đó chiếm bởi dân định cư Công giáo, mỗi con kênh là nơi ở của một nhóm dân định cư thuộc một giáo khu nhất định ngoài Bắc, riêng con kênh cuối cùng dành riêng cho dân di cư theo Phật giáo và Tin lành[13].
Ngoài Cái Sắn và các khu định cư mới khác thuộc Châu thổ sông Cửu Long, giai đoạn ba này còn liên quan đến việc tái định cư mở rộng Bắc di cư lên các vùng cao nguyên của Nam Việt Nam, đặc biệt các vùng xung quanh các thành phố Đà Lạt, Pleiku và Buôn Mê Thuột[14]. Các kế hoạch tái định cư Bắc di cư trên các vùng cao nguyên đã được vạch ra ngay từ tháng Bảy 1955, chúng được nảy sinh một phần để giải tỏa nỗi lo lắng về sự quá tải dân cư trong vùng xung quanh Đà Nẵng[15]. Cũng như trong trường hợp các khu định cư vùng Châu Thổ sông Cửu Long, các khu định cư trên cao nguyên được chính phủ Ngô Đình Diệm coi như phương tiện để đạt các mục tiêu nhiều mặt kinh tế, chiến lược và chính trị. Một báo cáo chính thức khẳng định rằng chỉ có 109.000 trong số 5.700.000 hecta trong vùng cao nguyên đã được chính phủ Pháp đưa vào khai thác về kinh tế[16]. Tuy nhiên Ngô Đình Diệm thấy các vùng cao nguyên không phải chỉ như những khu vực đủ điều kiện chín muồi cho phát triển kinh tế mà còn là một địa điểm để lập một con đê chắn sóng chống lại sự nổi dậy của cộng sản. Trong một báo cáo ngày 8 tháng Tám 1956, đại diện chính phủ ở Cao nguyên Trung phần Nguyễn Sơn Duyền nhận xét:
“Trong một hội nghị ở Kontum 10 và 11 tháng Năm 1956, Tổng thống đã quyết định về một kế hoạch cho dân cư các Cao nguyên Trung và Nam, nhằm mục đích quét sạch các hoạt động và các tổ chức của VC, đồng thời:
- Giải quyết vấn đề quá đông dân số trong một số tỉnh miền Trung.
- Hướng dẫn người dân vùng núi cải thiện đời sống vật chất của họ, hướng dẫn họ bước lên con đường văn minh và tiến bộ, sao cho họ có thể tham gia vào hàng ngũ những người sáng lập nhà nước và những người giải phóng.
- Khai hoang và khai thác đất đai vùng cao nguyên và tạo ra các thị trường tiêu thụ mới trong các vùng giàu tài nguyên rừng, khoáng sản… trong rừng núi, và mở ra các ngành công nghiệp quốc dân mới.
Chương trình có các mục tiêu nói trên để phân tán bớt dân cư khỏi các vùng trung tâm có mật độ cao, để cải thiện mức sống vật chất của họ, và để mở mang cao nguyên ra khai thác các nguồn tài nguyên của nó. Để thực hiện nhiệm vụ này và để ổn định vùng mà VC gây rối trong các khu vực tập trung đông dân cư và khó kiểm soát, chính phủ sẽ thi hành một hoạt động chính trị mạnh với nhân dân, đặc biệt là nhân dân vùng cao nguyên.”[17]
Mặc dầu nhiệt tình của Ngô Đình Diệm với những dự án mới này, phản ứng của Bắc di cư tham gia vào chúng may lắm là hỗn tạp. Nhiều người được lựa chọn để sống trong những cộng đồng mới đã chuyển chỗ trong giai đoạn hai của tái định cư vào những vùng có môi trường xung quanh tương đối phù hợp, nơi họ tìm thấy cho mình những cơ hội sinh sống cũng như chung sống với những người đồng đạo. Nhiều người thấy cực kỳ miễn cưỡng phải lần nữa nhổ rễ đến những vùng có tiếng là đầy tai ương, do kinh tế lạc hậu, khí hậu khắc nghiệt, tật bệnh đặc hữu và loạn lạc liên miên. Một số dân Công giáo còn cảm thấy khó chịu khi nghĩ đến việc chuyển đến những vùng mà tại đó họ có thể phải chung sống với những người thuộc các giáo phái phi Công giáo như Hòa Hảo, Bình Xuyên hay Cao Đài[18]. Trong nhiều trường hợp, sự oán giận nảy sinh do bị cưỡng ép di chuyển có vẻ còn kéo dài. Một cặp vợ chồng mà tôi phỏng vấn ở Cao nguyên Trung phần năm 2006, ông bà Q., kể với tôi như sau:
“Chúng tôi ra đi vào tháng sáu 1955, bằng đường bể từ Nghệ An rồi được một tàu Ba Lan đón và đưa chúng tôi đến Đà Nẵng. Chúng tôi ở đó được đâu ba tháng, rồi người ta mời vào Phan Thiết, ở đó có một trại cho những người từ giáo khu Vinh, gọi là Vinh Thủy, do cha Hồ Sĩ Cai lập ra. Chúng tôi không biết và nhiều người khác từ trại này, vì dù có nhiều người đến từ giáo khu Vinh, nhưng không có mấy người từ xứ đạo chúng tôi. Cha xứ của chúng tôi không đi Nam. Vấn đề với trại Vinh Thủy là nó được dựng lên với nghề cá và nuôi trồng thủy sản là nguồn thu nhập chính, mà tôi thì không phải là dân miền biển, gia đình chúng tôi là dân làm ruộng. Cha Cải biết điều ấy và cha dàn xếp với cha Nguyễn Quang Diệu để chuyển tất cả những người muốn đến trại mới Vinh An do chính phủ lập ra ở Đắc Min tỉnh Đắc Lắc. Chúng tôi quyết định ra đi từ đầu năm 1957 và sống ở Đắc Min từ bấy đến giờ. Tất cả những người đánh cá ở lại Vinh Thủy[19].”
Nhiều học giả đã đồng nhất những động cơ chính trị quân sự rõ ràng của Ngô Đình Diệm trong việc đặt Bắc di cư vào các vùng chiến lược như Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn tái định cư thứ ba này với việc tạo ra một vành đai thực tế gồm những khu định cư của người di cư vào những vùng thưa dân và do đó sơ hở về quân sự ở những vùng bắc và tây Sài Gòn trong giai đoạn hai[20]. Chẳng hạn Jean Lacouture, cho rằng Ngô Đình Diệm cố ý tạo ra những “vành đai thép”bằng cách bố trí định cư một cách chiến lược những Bắc di cư trung thành xung quanh Sài Gòn để bảo vệ ông ta khỏi cả cộng sản lẫn những kẻ thù tiềm tàng trong lòng Việt Nam Cộng hòa. Kết quả là, bị vây bọc bởi những pháo đài biến chúng thành những ấp chiến lược, một số làng xã đầy dân di cư hình thành một vành đai xung quanh Sài Gòn, như thể chế độ [Ngô Đình Diệm] bị vây hãm muốn củng cố thủ đô của nó bằng một đội cận vệ thép bao gồm những người thù ghét cộng sản nhất và gắn bó mạnh mẽ với đạo Công giáo chiến đấu[21].
Tuy nhiên có nhiều bằng chứng không hậu thuẫn giả thuyết này. Mục tiêu chiến lược chủ yếu của giai đoạn tái định cư thứ hai không đặt nặng vấn đề bố trí Bắc di cư vào các vùng chiến lược bằng việc đưa họ ra khỏi những cơ sở ở đô thị không phù hợp với nhiệm vụ này, đặc biệt khi một số lượng to lớn những người mới đến đe dọa làm hỏng hạ tầng cơ sở đô thị hiện có. Trong khi Ngô Đình Diệm luôn luôn coi Bắc di cư là nguồn ủng hộ tiềm tàng, các khả năng sinh ra từ việc bố trí họ một cách chiến lược đã không được đánh giá đầy đủ cho đến khi quá trình tái định cư đã vận hành suôn sẻ. Trong cuốn lịch sử tự thuật Bên giòng lịch sử, linh mục Cao Văn Luận, một trong những linh mục cố vấn của Ngô Đình Diệm cùng quê Quảng Bình nêu ý kiến rằng khả năng sử dụng Bắc di cư một cách chiến lược đến với Ngô Đình Diệm như một thiên khải. Nhắc đến cuộc trò chuyện tháng Mười năm 1954, Cao Văn Luận khẳng định ông đã nói vói Ngô Đình Diệm như sau: “Nếu ngài nghĩ về nó, ngài có thật sự tin rằng ngài và những người thân tín của ngài đã dùng tất cả sức mạnh để đối phó với tình hình này? Những người di cư từ miền Bắc và Nghệ Tĩnh Bình (bắc Trung bộ) là một gánh nặng, nhưng cũng là một sức mạnh. Ngài đã nghĩ đến chuyện sử dụng sức mạnh đó chưa?”[22] Không có tài liệu nào trong hồ sơ lưu trữ Phủ Tổng thống cho thấy một sự bố trí chiến lược Bắc di cư trước cuối năm 1955, trong thời gian đó mẫu hình tái định cư giai đoạn hai được xác lập hoàn toàn. Vào thời kỳ đầu của khoảng hở thời gian di cư do Hiệp định Geneva quy định, cả Ngô Đình Diệm cũng như bất cứ ai khác đều không biết có bao nhiêu người sẵn sàng cho cơ hội ra đi. Trong khi ông ta tích cực công khai lôi kéo những người miền Bắc (đặc biệt người Công giáo miền Bắc) vào Nam, thì điều đó không có nghĩa là ông đã có sẵn kế hoạch tức khắc cho việc triển khai họ một cách chiến lược[23].
Ủy viên Hội đồng di cư Bùi Văn Lương cảm thấy quá trình bố trí cho Bắc di cư định cư ở các tỉnh xung quanh Sài Gòn chỉ là bước đi trước để chuyển họ đến những vùng xa hơn, bước này tận dụng được việc tự-lựa chọn tái định cư mà nhiều người đã làm. Trong một biên bản bí mật tháng Mười một năm 1955 gửi Ngô Đình Diệm sau một cuộc biểu tình của người Bắc bên ngoài phủ tổng thống, Bùi Văn Lương nói với ông ta:
“Họ sợ họ bị đưa đến một vùng xa xôi hẻo lánh. Do đó, chúng ta nên cho họ lúc đầu ở một nơi tương đối gần, để tạo ra một tiền lệ thuận lợi, chờ thời gian để đưa họ đi xa hơn. Biết rằng đa số họ là nông dân, chúng ta nên đưa họ về Gia Định, là nơi gần thành phố, vốn chỉ dành cho những người gắn với thương mại và công nghiệp nhẹ. Sau đó, họ có thể đến Hố Nai. Biên Hòa và các tỉnh miền đông Nam Bộ. Các tỉnh này, mặc dù nghèo và thiếu phương tiện để định cư họ, nhưng là nơi mà những người di cư muốn đến bởi vì những nơi ấy tương đối yên bình và có đường giao thông thuận tiện đến Sài Gòn.”[24]
Hồi tưởng lại, hóa ra vai trò chủ đạo trong việc lập kế hoạch tái định cư giai đoạn hai, trong vùng rộng lớn hơn Sài Gòn lại không phải thuộc về chính phủ, mà thuộc về Giám mục Phạm Ngọc Chi và ủy ban của ông. Trong mọi trường hợp, phần lớn tái định cư được quyết định đơn giản bởi hoàn cảnh và bởi lựa chọn của những cộng đồng Bắc di cư riêng lẻ. Những khu định cư ở Gia Định, đặc biệt ở những địa điểm như Gò Vấp, Tân Bình và Thủ Đức, lan tràn cả sang các vùng kề bên, những khu ăn ở tạm dựng lên cấp tốc tại những khu vực như sân bay Tân Sơn Nhất và trường đua Phú Thọ. Những khu vực rộng lớn của Biên Hòa và Đồng Nai bị chiếm bởi Bắc di cư một phần vì những khu vực trước đây thuộc người Pháp nay đang rút đi nên bị bỏ không. Các đồn điền cao su trong hai tỉnh này có những dải đất rộng lớn về cơ bản chưa có người ở, là những địa điểm lý tưởng tiềm tàng cho khối dân cư lớn cần định cư nhanh[25]. Nhiều cộng đồng Công giáo Bắc di cư tìm chỗ định cư ở những nơi đã có khá đông dân Công giáo miền Nam[26].
Một khi có khối tới hạn những người Công giáo Bắc di cư nhập vào, những người định cư được bố trí chỗ ăn ở trong giai đoạn hai này miễn cưỡng dời đến những vùng tái định cư giai đoạn ba chỉ vì để thực hiện chính sách của chính phủ. Lời đáp của Ngô Đình Diệm cho báo cáo tình thế của Bùi Văn Lương xác nhận lý lẽ của Philip Catton rằng “Không phải chỉ phải đối mặt với những nỗi cực nhọc của cuộc sống ở cao nguyên nhiều người miền Bắc vẫn còn bám lấy hy vọng rằng việc chia cắt Việt Nam chỉ trong thời gian ngắn, và cuộc di chuyển tiếp theo của họ sẽ là sớm trở lại quê nhà gốc của họ phía trên vĩ tuyến mười bảy.”[27]
Tuy nhiên việc di cư từ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào Việt Nam Cộng hòa rồi lại di chuyển trong một số dịp khác nữa cho đến khi tìm được nơi cư trú ổn định lâu dài là một kinh nghiệm chung của Bắc di cư.[28]
Kết luận: Số phận của người Bắc di cư
Vào cuối những năm 1950, niềm thiện cảm ban đầu của những người bản địa miền Nam một phần do tuyên truyền của chính quyền Ngô Đình Diệm đem lại đã bắt đầu nhạt dần. Nỗi oán giận ngày càng tăng của dân chúng đối với người Công giáo miền Bắc lại được tiếp thêm bởi nhận thức rằng họ được ưu đãi bởi người đồng đạo của họ là Ngô Đình Diệm. Liệu có thể giải thích cách nào khác sự hiện diện quá mức của những người Công giáo miền Bắc trong hàng ngũ quan chức cao cấp của chính quyền Nam Việt Nam, trong các bộ máy quân sự, pháp luật và học thuật? Sự bất bình nầy là một nhân tố có ý nghĩa trong sự bất mãn chung ngày càng tăng đối với chính phủ Ngô Đình Diệm, như vậy, có thể nói nó đã góp phần vào cuộc khủng hoảng chính trị dẫn đến cái chết của chế độ và cuộc ám sát Ngô Đình Diệm tháng Mười Một, 1963.
Tuy nhiên, những hành động và chính sách của Ngô Đình Diệm không phải là nguyên nhân duy nhất dẫn đến sự phản ứng dữ dội của dân chúng chống lại Bắc di cư. Bản thân người di cư là đồng lõa trong nhiều quyết định hồi những giai đoạn đầu của cuộc tái định cư, những quyết định kìm hãm sự hòa nhập của những người mới đến vào dòng chính của xã hội Nam Việt Nam. Đúng là chính quyền Ngô Đình Diệm đã can ngăn việc hòa nhập Bắc di cư vào khối dân chúng chung của miền Nam, ngược lại tìm cách định cư các cộng đồng miền Bắc như những thực thể riêng biệt, thường ở những vùng xa các trung tâm dân cư chính của Nam Việt Nam. Nhưng bản thân Bắc di cư là những người chủ động trong sự cách ly này. Ngay cả sau khi bộ máy hành chính của các trung tâm tái định cư được sáp nhập vào các đơn vị hành chính địa phương và các tỉnh, vào cuối 1957, những người Công giáo trong các khu định cư ấy tiếp tục sống như một bộ phận dân cư tách rời. Trong những cộng đồng như Gia Kiệm, hình mẫu này tồn tại dai dẳng bằng nhiều cách cho đến tận ngày nay. Về mặt này, Bắc di cư đã tái tạo và kéo dài chủ nghĩa ly khai vốn là đặc điểm của đời sống Công giáo miền Bắc trong những thế kỷ trước. Mặc dù chủ nghĩa ly khai này giúp cho cộng đồng Bắc di cư giữ được sự thống nhất và cố kết nội bộ, nhưng nó cũng kìm hãm sự hiểu biết lẫn nhau và sự hòa hợp với những người láng giềng miền Nam của họ. Như vậy người Công giáo miền Bắc vẫn giữ mối nghi ngờ sâu sắc với thế giới bên lương mà họ đã gieo trồng trong những cộng đồng miền bắc khép kín và tự túc của họ. Mối nghi ngờ này, kết hợp với niềm tin rằng việc họ lưu lại miền Nam chỉ là tạm thời, đảm bảo cho phần lớn người Bắc di cư vẫn chống đối lại việc đồng hóa.
Các trại di cư biến thành các làng phản ánh các giá trị mà Bắc di cư có, bằng nhiều cách, họ đã trốn khỏi miền Bắc để giữ gìn. Năm 1954, họ đã nhận ra rằng thắng lợi của cộng sản ở miền Bắc đe dọa khả năng của họ sống trong những cộng đồng chính trị thần quyền biệt lập, tự duy trì. Chính phủ Ngô Đình Diệm, ngược lại, đề nghị đặt Bắc di cư trong những khu định cư mới, xa rời bộ phận dân cư chủ yếu của miền Nam, một quan niệm hoàn toàn thích hợp với nguyện vọng của họ. Giới giáo sĩ lãnh đạo miền Bắc, đặc biệt là Giám mục Phạm Ngọc Chi, đều ủng hộ nguyện vọng này. Sự đồng thuận của Bắc di cư luôn luôn bị hiểu sai thành bằng chứng cho việc họ bị chế độ và những người Mỹ ủng hộ nó lôi kéo, lợi dụng. Nhưng rất lâu sau khi sự lợi dụng mà người ta viện ra ấy biến mất khỏi hiện trường, thì những cộng đồng Bắc di cư, như Gia Kiệm chẳng hạn, vẫn còn nguyên như trước: biệt lập về mặt địa lý, khác biệt về văn hóa, và dựa trên tôn giáo.
Peter Hansen là Giảng viên khoa Lịch sử Giáo hội ở Châu Á tại Cao đẳng Thần học Công giáo, Melbourne, Australia, và linh mục địa phận Melbourne. Ông có bằng tiến sĩ thần học về lịch sử giáo hội tại Cao đẳng Melbourne, và M.A.từ đại học Monach, Melbourne. Ông hành nghề luật trong một thập niên, và làm việc trong trại tìm kiếm cứu trợ người Việt Nam ở Hồng Kông và Philipine đầu những năm 1990.
Tóm tắt: Những người Công giáo miền bắc di cư năm tái định cư tại CHVN những năm 1954-1955 theo kết quả của Hiệp định Geneva hình thành một cộng đồng có bản sắc riêng, nói chung không bị đồng hóa, và dần dần, nhưng không phải ngay lập tức, bị chính phủ Ngô Đình Diệm lợi dụng cho những mục đích lập quốc. Trong cả cuộc ra đi từ miền Bắc và cuộc tái định cư tại miền Nam, Bắc di cư nói chung thuận theo sự cai quản của các cha cố của họ. Những cộng đồng Công giáo này thường tái tạo các hình mẫu tổ chức, cung cách lãnh đạo và sự nghi ngờ của thế giới bên ngoài vốn đặc trưng cho các cộng đồng làng xã của họ ở miền Bắc.
Nguồn: Journal of Vietnamese Studies, Volume 4, issue 3, Fall 2009.
Bản tiếng Việt © 2010 Hiếu Tân
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
[1] PTUDCTN gửi PTT, 15 tháng Bảy, 1955, File 343, Folder 4041, PTTĐNCH, VNA-II.
[2] Về sắc lệnh của chính phủ trưng thu các tài sản này để dùng cho các trại di cư tạm thời: xem báo cáo của chính phủ về tản cư, 20 tháng Tám 1955, File 121, Folder 1088, PTTĐNCH, VNA-II.
[3] Trần Trung Dung (Thứ trưởng Quốc phòng) gửi PTT, Re: Phú Thọ Camp March 23, 1956, File 1003, Folder 9855, PTTĐNCH, VNA-II.
[4] “Đức Giám mục Phạm Ngọc Chi cai quản giáo khu Bùi Chu đến Sài Gòn để tổ chức các làng tản cư”, Tiếng Chuông, 30 tháng Tám. Dự định mỗi làng sẽ có một nhà thờ, một trường học, một giếng nước và, cơ bản nhất, một mạng điện vĩnh cửu. Các kế hoạch này được thực hiện về cơ bản. Phạm Ngọc Chi cũng kiếm được đất đặc biệt ở Suối Cúng huyện Hố Nai. Xem “Đồng bào di cư Bắc Việt ở Biên Hòa: Sinh hoạt cách nào?”, Dân Ta 21 tháng Chín, 1954.
[5] Đoàn Độc Thư và Xuân Huy, Giám Mục Lê Hữu Từ và Phát Diệm, 1945–1954 (Sài Gòn, 1973), 34.
[6] Weisner, “Vietnam: Exodus from the North,” 232.
[7] PTUDCTN gửi PTT, 21 tháng Giêng, 1956, File 343, Folder 4041, PTTĐNCH, VNA-II. Trong số 257 này, một nhóm đại diện khi định cư “giai đoạn một” nơi những người di cư được bố trí ban đầu. Tuy nhiên, phần lớn là các vùng định cư giai đoạn hai.
[8] Weisner, “Vietnam: Exodus from the North,” 232.
[9] Ralph Smuckler, Walter W. Mode, và Frederic R. Wickert, Research Report—Field Study of Refugee Commission (Sài Gòn: Michigan State University, September 1955), 2. Các số liệu ngoại trừ Sài Gòn.
[10] Xem, chẳng hạn, tình hình an ninh ở Sa Đéc, mô tả trong “Báo cáo thăm Sa Đéc” của PTUDCTN gửi PTT, 22, tháng Mười Một 1955, File 343, Folder 4042, PTTĐNCH, VNA-II. Một ví dụ về bố trí đất định cư không thích hợp là Khâu Băng, một trại ở Tỉnh Bến Tre. Xem: Bùi Văn Lương gửi PTT, October 7, tháng Mười,1955, và “Chuyến Thăm Bến Tre cùng với phái đoàn Pháp và Mỹ”, 5 và 6 tháng Mười, File 343, Folder 4041, PTTĐNCH, VNA-II.
[11] Stan Tan, “‘Dust Beneath the Mist’: State and Frontier Formation in the Central Highlands of Vietnam, the 1955–1961 Period” (Luận văn tiến sĩ, Đại học Quốc gia Australian, 2006), 166, 189. Cao ủy Di cư của Ngô Đình Diệm trở thành Cao ủy Cải cách Điền địa, với Bùi Văn Lương làm cố vấn cho cả hai.
[12] Ngoại trưởng Việt Nam Cộng hòa, Cái Sắn: Câu chuyện xúc động về tái định cư và Cải Cách Điền Địa tại “vựa lúa” của Việt Nam Cộng hòa, 8; Lê Xuân Khoa, Việt Nam 1945–1995, 1:264. Kế hoạch ban đầu là di dời hai mươi ngàn gia đình, với một trăm ngàn người, đến Cái Sắn. Xem: Bộ trưởng Cải cách Điền địa gửi PTUDCTN, 10, tháng Mười Hai, 1955, File 375, Folder 4405, PTTĐNCH, VNA-II.
[13] Báo cáo của Bộ trưởng Cải cách Điền địa gửi PTUDCTN, 6, tháng Bảy, 1956, File 375, Folder 4405, PTTĐNCH, VNA-II.
[14] Khoảng mười lăm ngàn người thuộc các sắc dân thiểu số từ miền Bắc đã tham gia cuộc di cư được định cư ngay tại Cao nguyên Trung phần trước giai đoạn ba của tái định cư của người Kinh. Xem: Weisner, “Vietnam: Exodus from the North,” 234–235.
[15] PTUDCTN to PTT, July 15, 1955, File 343, Folder 4041, PTTĐNCH, VNA-II.
[16] Báo cáo nêu trong: Gerald Cannon Hickey, Free in the Forest: Ethnohistory of the Vietnamese Central Highlands, 1954–1976 (New Haven, CT: Yale University Press, 1982), 18. Báo cáo này bỏ qua sự kiện là phần lớn vùng này có người các bộ tộc thiểu số sinh sống, mặc dầu chính sách của chính phủ Ngô Đình Diệm mà báo cáo nói đến đã cố gắng giải quyết các nhu cầu của họ. Xem Hickey, Free in the Forest, 18–19.
[17] Báo cáo của Nguyễn Sơn Duyền, đại diện chính phủ ở Cao ngyên Trung phần. 8 tháng Tám, 1956. File 376, Folder 4411, PTTĐNCH, VNA-II. Thực tế, quyết định chuyển một số Bắc di cư đến các vùng tái định cư mới không phải là mới hay bột phát, tầm quan trọng của tuyên bố này là nó tổng hợp các ưu tiên chính sách của Ngô Đình Diệm và những cuộc điều động cơ bản của họ trong giai đoạn tái định cư thứ ba. Về các bình luận tương tự, xem biên bản cuộc họp trước của Ủy ban Định cư người di cư, tháng 24 tháng Bảy, 1956, File 375, Folder 4408, PTTĐNCH, VNA-II.
[18] Bình Xuyên là một nhóm (không phải giáo phái) dính líu vào cả các hoạt động bán quân sự và các hoạt động tội ác, cho đến khi nhóm này bị Ngô Đình Diệm tiêu diệt hoặc tước khí giới năm 1955.
[19] Một thí dụ tương tự liên quan đến cộng đồng Đại Hải, di cư như một thực thể đơn lẻ từ giáo khu Hải Phòng đến Sóc Trăng ở miền Nam, xem: “Chúng tôi đi viếng trại định cư Đại Hải Đôn Diên La Bách – Sóc Trăng” xem: Dân Chủ 17, tháng Bảy 1956.
[20] Lê Xuân Khoa cho rằng sức thúc đẩy ngang nhau của các khu tái định cư giai đoạn ba này chủ yếu đến từ phái bộ Truyền giáo Hoa Kỳ và Trường Đại học bang Michigan. Xem: Lê Xuân Khoa, Việt Nam 1945–1995, 1:261.
[21] Jean Lacouture, Vietnam: Between Two Truces, Konrad Kellen and Joel Carmichael dịch (London: Secker & Warburg, 1966), 105. Nguyễn Ngọc Tân miêu tả Bắc di cư định cư ở vành đai xung quanh Sài Gòn như “một bức tường người để ngăn chặn sự thâm nhập của cộng sản và để phá vỡ ảnh hưởng của Việt Minh ở vùng nông thôn”. Xem: Nguyễn Ngọc Tân, “The ‘Miracle of Vietnam’: The Establishment and Consolidation of Ngo Dinh Diem’s Regime, 1954–1959” (luận văn tiến sĩ, Đại học Monash, Melbourne, 1997), 168. Xem thêm: Bernard Fall, “On Father Harnett,” in Lindholm, ed., Viet-Nam, The First FiveYears, 93; Kahin, Intervention, 77.
[22] Cao Văn Luận, Bên giòng lịch sử, 1940–1965 (Sài Gòn: Trí Dũng, 1972), 248–249.
[23] Điều này có bằng chứng là hai cuộc viếng thăm Hà Nội để nói chuyện trước cuộc mít tinh quần chúng trong thời kỳ trước khi thủ đô trở về Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Xem: “Chánh phủ sẽ đòi lại các vùng Bùi Chu và Phát Diệm” Ánh Sáng, 9, tháng Bảy 1954.
[24] PTUDCTN gửi PTT, 22, tháng Mười Một 1955, File 343, Folder 4042, PTTĐNCH, VNA-II. Trong cùng văn bản này, Bùi Văn Lương tiếp tục thừa nhận rằng hai tỉnh này (Biên Hòa và Gia Định) không hề là địa điểm lý tưởng cho Bắc Di Cư định cư vì thiếu ruộng đất, và họ gây cho chính quyền địa phương rất nhiều rắc rối.
[25] Điều này dẫn đến những tin đồn rằng người miền Bắc không được tự do mà bị cưỡng bức lao động trong những đồn điền cao su như dưới thời thực dân Pháp. Xem: “Giới hữu quyền đính chánh, không có việc đưa đồng bào tản cư đi đồn điền cao su” Tiếng Chuông, 23, tháng Tám 1954.
[26] Các tỉnh Gia Định, Biên Hòa, và Bà Rịa là quê quán của những cộng đồng Công giáo lâu đời.
[27] Philip E. Catton, Diem’s Final Failure: Prelude to America’s War in Vietnam (Lawrence: University Press of Kansas, 2002), 60–61. Tuyên bố sau đó của ông ở trang 61, rằng “Thái độ của họ tiếp tục phá hoại các quan hệ giữa Sài Gòn và cộng đồng Công giáo, đã căng thẳng do các cố gắng của chính phủ kiềm chế chính quyền thế tục hành hạ các linh mục trong các làng di cư” gây tranh cãi nhiều hơn; Catton đưa ra mà không chứng minh.
[28] Chẳng hạn, cư dân trại Tiên Thuận đã phải di chuyển bốn lần: từ khu nhà tạm ở Sài Gòn đến Tây Ninh; ở Tây Nam cuộc nổi loạn buộc họ về lại Xóm Mới ở Sài Gòn, và trước khi PTUDCTN quyết định tái định cư họ ở Pleiku trên cao nguyên. Xem biên bản các cuộc họp PTUDCTN ở Pleiku, 23, tháng Bảy 1956, File 375, Folder 4408, PTTĐNCH, VNA-II.
26/04/2010 |
( Hiếu Tân dịch )
Ba giai đoạn tái định cư
Đúng như quyết định di cư vào Nam của Bắc di cư có tính tự chủ và có suy nghĩ hơn là nhận thức của nhiều nhà bình luận, kiểu mẫu tái định cư của họ ở miền Nam cũng vậy. Hầu như vào thời điểm họ đến miền Nam, những người di cư tích cực chủ động trong việc lựa chọn địa điểm có thể sẽ là quê mới họ. Đồng thời, các linh mục đã ra đi từ miền Bắc tiếp tục đóng vai trò lãnh đạo chủ chốt trong những cố gắng của giáo dân của họ tìm kiếm vị trí cho mình trong xã hội miền Nam.
Việc tái định cư của những người di cư ở miền Nam diễn ra trong ba giai đoạn riêng biệt nhưng có chồng lấn lên nhau. Giai đoạn một ứng với thời kỳ di chuyển tự do do Hiệp định Geneva quy định tại Điều 14 (c). Dòng người di cư từ miền Bắc trong khoảng hở ba trăm ngày là khổng lồ, và không một chính phủ nào, chứ đừng nói đến một chính phủ mới ra đời, có thể đối phó với các vấn đề hậu cần liên quan đến đoàn người mới đến. Trong giai đoạn đầu này, phần lớn những ai di tản qua Hà Nội và Hải Phòng được bố trí ở trong những Trạm Tiếp Cư, gần các sân bay và bến tàu ở Sài Gòn, Chợ Lớn và Vũng Tàu[1]. Những trạm đón tiếp này được lập lên trên những cơ sở công cộng có sẵn như trường học, trại lính Pháp cũ, và nhà thờ, nhiều ngàn người di cư ở trong những liên hợp lều trại được dựng trên những bãi đất trống gần sân bay Tân Sơn Nhất và trên trường đua Phú Thọ. Như các quan chức chính phủ thừa nhận, những khu mới này không phải là giải pháp sinh sống lâu dài cho vấn đề tái định cư[2]. Những người chủ hay những người sử dụng trước của các cơ sở này chẳng bao lâu sẽ cần trở lại cơ ngơi của họ để sử dụng chúng theo các mục đích ban đầu, hơn nữa, do thiếu các cơ sở hạ tầng thích đáng các khu trại tạm này rất dễ xảy ra dịch bệnh và hỏa hoạn[3].
Bảng 2 Các Giám mục của các Địa phận miền Bắc, 1954
Địa phận Giám mục Năm
Bổ nhiệm
Ở lại hay ra đi
Hà Nội Trịnh Như Khuê 1950 Ở lại
Hải Phòng Trương Cao Đại 1953 Ra đi
Bắc Ninh Hoàng Văn Đoàn 1950 Ra đi
Hưng Hóa Jean Maizé MEP 1945 Ở lại
Lạng Sơn Felix Hedde, OP 1939 Ở lại
Andre Jacq. OP 1945 Ở lại
Thái Bình Santos Ubiema, OP 1942 Ra đi
Bùi Chu Phạm Ngọc Chi 1950 Ra đi
Phát Diệm Lê Hữu Từ 1945 Ra đi
Thanh Hóa Louis de Cooman, MEP 1935 Vắng mặt
Vinh Trần Hữu Đức 1951 Ở lại
Nguồn: Từ Lê Ngọc Bích: Nhân vật Công Giáo Việt Nam: Các Vị Giám Mục Một Thời Đã Qua Đời (1933-1995) [Vietnamese Catholic Biography: Deceased Bishops (1933–1995)] (HCMC, 1995; và Công Giáo và Dân Tộc [Catholicism and the Nation], Công Giáo Sau Quá Trình 50 Năm [Catholicism through a Process of Fifty Years] (HCMC: Công Giáo và Dân Tộc, 1995).
Trong giai đoạn hai của công cuộc tái định cư, bắt đầu vào lúc kết thúc thời kỳ ba trăm ngày theo quy định của Hiệp định Geneva, đa số người di cư đóng ở Sài Gòn, Chợ Lớn và Vũng Tàu chuyển đến những nơi định cư lâu dài hơn ở các tỉnh liền kề xung quanh các trung tâm đô thị. Trong khi những khu định cư mới này nằm rải rác trên nhiều tỉnh, có nhiều khu tập trung trong một vùng nằm ngay bắc Sài Gòn, ở Gia Định, Biên Hòa và Long Khánh. Trong một số trường hợp, bản thân Bắc di cư tự chọn những địa điểm trên đó họ đề nghị xây dựng những cộng đồng mới của họ; trong những trường hợp khác, họ được đưa đến những nơi này bằng các chỉ dụ của chính phủ, hoặc Ủy ban Hỗ trợ Định cư, một nhóm đại diện cho sự lãnh đạo của các giáo sĩ của mười giáo khu miền Bắc di cư đến. Ủy ban Tái Định cư do Giám mục Phạm Ngọc Chi của địa phận Bùi Chu đứng đầu.
Trong nhiều trường hợp, việc di chuyển trong giai đoạn hai này được thúc đẩy bởi mong muốn làm nhẹ bớt những vấn đề xã hội nảy sinh từ dòng người di cư đông đảo và đột ngột kéo đến Sài Gòn và Chợ Lớn. Những vấn đề này bao gồm sự chen chúc chật chội, giá nhà ở và tiện nghi sinh hoạt tăng vọt, và sự bất hòa giữa các cộng đồng tăng lên do cạnh tranh việc làm và cơ hội buôn bán. Việc tái định cư trong giai đoạn hai này không được dẫn dắt bởi một kế hoạch toàn diện, có tính chiến lược, được sự bảo trợ của chính phủ, mà đúng ra, nó được hình thành từ một hỗn hợp những tình huống ngẫu nhiên, những quyết định vội vã thiếu tính trước, và những sáng kiến của bản thân những người di cư. Toàn bộ điều này dựa trên nhu cầu tìm một chỗ nào đó – ở đâu cũng được – cho Bắc di cư đến ở sao cho ít tàn phá nhất đến các cơ sở hạ tầng của Sài Gòn (và một mức độ thấp hơn, Đà Nẵng). Ngay từ tháng Tám 1954, chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã cắt cho Giám mục Phạm Ngọc Chi (mới vào Sài Gòn được ít ngày) một vạt đất hai mươi lăm ngàn hecta trong các huyện Biên Hòa và Xuân Lộc (lúc ấy là các bộ phận của tỉnh Long Khánh). Theo tờ nhật báo Sài Gòn Tiếng Chuông, các quan chức chính phủ mong đợi sử dụng viện trợ Mỹ để lập bốn mươi làng mới, mỗi làng khoảng hai nghìn năm trăm dân[4]. Giám mục Lê Hữu Từ chọn Gia Kiệm, trên đường Sài Gòn đi Đà Lạt làm nơi tái định cư cho những người di cư từ giáo khu Phát Diệm[5]. Vào tháng Mười Hai, 1954, 271.208 người Bắc di cư đã được bố trí chỗ ở; con số này tăng lên thành 462.799 vào tháng Tư, 1955[6]. Vào tháng Mười Hai, 1955, có 257 trại tái định cư chính thức đăng ký với Tổng ủy Di cư Tị nạn[7].
Không giống hai giai đoạn đầu của công cuộc tái định cư, giai đoạn ba – bắt đầu vào khoảng cuối 1955, và nhanh chóng lấy đà tiến lên – được hình thành bởi những cố gắng phối hợp mạnh mẽ của chính phủ Ngô Đình Diệm, để vận động Bắc di cư theo cách nhằm thực hiện những mục tiêu chính trị, an ninh, kinh tế dài hạn. Trong giai đoạn này nhà cầm quyền tập trung các nỗ lực của họ vào việc chuyển người di cư ra khỏi một số vùng đông dân ở miền Nam, những vùng bao gồm vùng ngoại ô Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, Biên Hòa, Đà Nẵng và vùng biển miền Trung – và đưa đến những vùng thưa dân hơn như Châu thổ sông Cửu Long và Cao nguyên Trung phần. Trong nhiều trường hợp những kế hoạch định cư mới nhằm giảm căng thẳng do sự di chuyển khối người di cư lớn trong giai đoạn một và hai gây nên. Chẳng hạn dân số tỉnh Biên hòa vào năm 1955 là 265.000 người, gấp đôi con số của mười hai tháng trước. Hầu như tất cả những người mới đến là Bắc di cư[8].
Phân bố ban đầu của người di cư trên toàn lãnh thổ Nam Việt Nam không đồng đều. Vào tháng Mười Hai năm 1955, trong số ba mươi mốt tỉnh có các trại định cư, có năm tỉnh mỗi tỉnh tạo được điều kiện ăn ở cho ba mươi ngàn người Bắc di cư, điều có ý nghĩa hơn là, trong đó có bốn tỉnh ở lân cận Sài Gòn. Bảy tỉnh khác mỗi tỉnh thu hút từ mười đến ba mươi ngàn người mới đến. Mười chín tỉnh còn lại nhận ít hơn mười ngàn người di cư, trong đó nhiều tỉnh ít hơn một ngàn[9]. Các quan chức chính phủ Ngô Đình Diệm tin rằng tập trung quá mức Bắc di cư trong một số ít vùng có thể gây hậu quả bất lợi. Người ta cũng tin rằng nhiều trại tái định cư giai đoạn hai cần phải giải tán và chuyển đi chỗ khác vì tình hình an ninh bất lợi, vì vùng đất định cư không phù hợp với dân cư, hay chỉ đơn giản vì thiếu việc làm và các cơ hội kinh doanh[10]. Ngô Đình Diệm biện hộ cho chính sách phân phối dân cư bằng một số cách. Đầu tiên ông tìm cách tạo ra sự ổn định kinh tế, quân sự, chính trị trong những khu vực nguy hiểm và kém phát triển. Làm như thế, ông hy vọng sẽ tạo ra một Việt Nam Cộng hòa mạnh về kinh tế và một con đê ngăn chặn sự nổi dậy của cộng sản. Đồng thời ông cũng cố gắng giảm căng thẳng ở những vùng bị áp lực bởi sự tập trung quá đông dân và không đủ đất hoặc các cơ hội kinh tế, bằng cách dời những khu định cư khỏi các vùng quá đông như Sài Gòn Chợ Lớn và bờ biển miền Trung.
Việc định cư những người di cư cũng báo trước các chiến dịch tổng thể hơn như cải cách điền địa và tái định cư mà Ngô Đình Diệm hy vọng sẽ bắt đầu sau khi những khủng hoảng ban đầu đã qua đi[11].
Điểm khởi đầu của giai đoạn lớn cuối cùng của công cuộc tái định cư được đánh dấu bằng việc khởi công dự án Tái Định cư Nông nghiệp Cái Sắn ở Châu thổ sông Cửu Long. Địa điểm Cái Sắn, một vạt đất trải ra trên các tỉnh Kiến An và Long Xuyên đã nhận khoảng năm mươi ngàn người di cư trong các năm 1956-1957[12]. Dân cư ở dọc bên bờ con kênh chính và dọc theo mười chín nhánh kênh. Mười tám trong số kênh đó chiếm bởi dân định cư Công giáo, mỗi con kênh là nơi ở của một nhóm dân định cư thuộc một giáo khu nhất định ngoài Bắc, riêng con kênh cuối cùng dành riêng cho dân di cư theo Phật giáo và Tin lành[13].
Ngoài Cái Sắn và các khu định cư mới khác thuộc Châu thổ sông Cửu Long, giai đoạn ba này còn liên quan đến việc tái định cư mở rộng Bắc di cư lên các vùng cao nguyên của Nam Việt Nam, đặc biệt các vùng xung quanh các thành phố Đà Lạt, Pleiku và Buôn Mê Thuột[14]. Các kế hoạch tái định cư Bắc di cư trên các vùng cao nguyên đã được vạch ra ngay từ tháng Bảy 1955, chúng được nảy sinh một phần để giải tỏa nỗi lo lắng về sự quá tải dân cư trong vùng xung quanh Đà Nẵng[15]. Cũng như trong trường hợp các khu định cư vùng Châu Thổ sông Cửu Long, các khu định cư trên cao nguyên được chính phủ Ngô Đình Diệm coi như phương tiện để đạt các mục tiêu nhiều mặt kinh tế, chiến lược và chính trị. Một báo cáo chính thức khẳng định rằng chỉ có 109.000 trong số 5.700.000 hecta trong vùng cao nguyên đã được chính phủ Pháp đưa vào khai thác về kinh tế[16]. Tuy nhiên Ngô Đình Diệm thấy các vùng cao nguyên không phải chỉ như những khu vực đủ điều kiện chín muồi cho phát triển kinh tế mà còn là một địa điểm để lập một con đê chắn sóng chống lại sự nổi dậy của cộng sản. Trong một báo cáo ngày 8 tháng Tám 1956, đại diện chính phủ ở Cao nguyên Trung phần Nguyễn Sơn Duyền nhận xét:
“Trong một hội nghị ở Kontum 10 và 11 tháng Năm 1956, Tổng thống đã quyết định về một kế hoạch cho dân cư các Cao nguyên Trung và Nam, nhằm mục đích quét sạch các hoạt động và các tổ chức của VC, đồng thời:
- Giải quyết vấn đề quá đông dân số trong một số tỉnh miền Trung.
- Hướng dẫn người dân vùng núi cải thiện đời sống vật chất của họ, hướng dẫn họ bước lên con đường văn minh và tiến bộ, sao cho họ có thể tham gia vào hàng ngũ những người sáng lập nhà nước và những người giải phóng.
- Khai hoang và khai thác đất đai vùng cao nguyên và tạo ra các thị trường tiêu thụ mới trong các vùng giàu tài nguyên rừng, khoáng sản… trong rừng núi, và mở ra các ngành công nghiệp quốc dân mới.
Chương trình có các mục tiêu nói trên để phân tán bớt dân cư khỏi các vùng trung tâm có mật độ cao, để cải thiện mức sống vật chất của họ, và để mở mang cao nguyên ra khai thác các nguồn tài nguyên của nó. Để thực hiện nhiệm vụ này và để ổn định vùng mà VC gây rối trong các khu vực tập trung đông dân cư và khó kiểm soát, chính phủ sẽ thi hành một hoạt động chính trị mạnh với nhân dân, đặc biệt là nhân dân vùng cao nguyên.”[17]
Mặc dầu nhiệt tình của Ngô Đình Diệm với những dự án mới này, phản ứng của Bắc di cư tham gia vào chúng may lắm là hỗn tạp. Nhiều người được lựa chọn để sống trong những cộng đồng mới đã chuyển chỗ trong giai đoạn hai của tái định cư vào những vùng có môi trường xung quanh tương đối phù hợp, nơi họ tìm thấy cho mình những cơ hội sinh sống cũng như chung sống với những người đồng đạo. Nhiều người thấy cực kỳ miễn cưỡng phải lần nữa nhổ rễ đến những vùng có tiếng là đầy tai ương, do kinh tế lạc hậu, khí hậu khắc nghiệt, tật bệnh đặc hữu và loạn lạc liên miên. Một số dân Công giáo còn cảm thấy khó chịu khi nghĩ đến việc chuyển đến những vùng mà tại đó họ có thể phải chung sống với những người thuộc các giáo phái phi Công giáo như Hòa Hảo, Bình Xuyên hay Cao Đài[18]. Trong nhiều trường hợp, sự oán giận nảy sinh do bị cưỡng ép di chuyển có vẻ còn kéo dài. Một cặp vợ chồng mà tôi phỏng vấn ở Cao nguyên Trung phần năm 2006, ông bà Q., kể với tôi như sau:
“Chúng tôi ra đi vào tháng sáu 1955, bằng đường bể từ Nghệ An rồi được một tàu Ba Lan đón và đưa chúng tôi đến Đà Nẵng. Chúng tôi ở đó được đâu ba tháng, rồi người ta mời vào Phan Thiết, ở đó có một trại cho những người từ giáo khu Vinh, gọi là Vinh Thủy, do cha Hồ Sĩ Cai lập ra. Chúng tôi không biết và nhiều người khác từ trại này, vì dù có nhiều người đến từ giáo khu Vinh, nhưng không có mấy người từ xứ đạo chúng tôi. Cha xứ của chúng tôi không đi Nam. Vấn đề với trại Vinh Thủy là nó được dựng lên với nghề cá và nuôi trồng thủy sản là nguồn thu nhập chính, mà tôi thì không phải là dân miền biển, gia đình chúng tôi là dân làm ruộng. Cha Cải biết điều ấy và cha dàn xếp với cha Nguyễn Quang Diệu để chuyển tất cả những người muốn đến trại mới Vinh An do chính phủ lập ra ở Đắc Min tỉnh Đắc Lắc. Chúng tôi quyết định ra đi từ đầu năm 1957 và sống ở Đắc Min từ bấy đến giờ. Tất cả những người đánh cá ở lại Vinh Thủy[19].”
Nhiều học giả đã đồng nhất những động cơ chính trị quân sự rõ ràng của Ngô Đình Diệm trong việc đặt Bắc di cư vào các vùng chiến lược như Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn tái định cư thứ ba này với việc tạo ra một vành đai thực tế gồm những khu định cư của người di cư vào những vùng thưa dân và do đó sơ hở về quân sự ở những vùng bắc và tây Sài Gòn trong giai đoạn hai[20]. Chẳng hạn Jean Lacouture, cho rằng Ngô Đình Diệm cố ý tạo ra những “vành đai thép”bằng cách bố trí định cư một cách chiến lược những Bắc di cư trung thành xung quanh Sài Gòn để bảo vệ ông ta khỏi cả cộng sản lẫn những kẻ thù tiềm tàng trong lòng Việt Nam Cộng hòa. Kết quả là, bị vây bọc bởi những pháo đài biến chúng thành những ấp chiến lược, một số làng xã đầy dân di cư hình thành một vành đai xung quanh Sài Gòn, như thể chế độ [Ngô Đình Diệm] bị vây hãm muốn củng cố thủ đô của nó bằng một đội cận vệ thép bao gồm những người thù ghét cộng sản nhất và gắn bó mạnh mẽ với đạo Công giáo chiến đấu[21].
Tuy nhiên có nhiều bằng chứng không hậu thuẫn giả thuyết này. Mục tiêu chiến lược chủ yếu của giai đoạn tái định cư thứ hai không đặt nặng vấn đề bố trí Bắc di cư vào các vùng chiến lược bằng việc đưa họ ra khỏi những cơ sở ở đô thị không phù hợp với nhiệm vụ này, đặc biệt khi một số lượng to lớn những người mới đến đe dọa làm hỏng hạ tầng cơ sở đô thị hiện có. Trong khi Ngô Đình Diệm luôn luôn coi Bắc di cư là nguồn ủng hộ tiềm tàng, các khả năng sinh ra từ việc bố trí họ một cách chiến lược đã không được đánh giá đầy đủ cho đến khi quá trình tái định cư đã vận hành suôn sẻ. Trong cuốn lịch sử tự thuật Bên giòng lịch sử, linh mục Cao Văn Luận, một trong những linh mục cố vấn của Ngô Đình Diệm cùng quê Quảng Bình nêu ý kiến rằng khả năng sử dụng Bắc di cư một cách chiến lược đến với Ngô Đình Diệm như một thiên khải. Nhắc đến cuộc trò chuyện tháng Mười năm 1954, Cao Văn Luận khẳng định ông đã nói vói Ngô Đình Diệm như sau: “Nếu ngài nghĩ về nó, ngài có thật sự tin rằng ngài và những người thân tín của ngài đã dùng tất cả sức mạnh để đối phó với tình hình này? Những người di cư từ miền Bắc và Nghệ Tĩnh Bình (bắc Trung bộ) là một gánh nặng, nhưng cũng là một sức mạnh. Ngài đã nghĩ đến chuyện sử dụng sức mạnh đó chưa?”[22] Không có tài liệu nào trong hồ sơ lưu trữ Phủ Tổng thống cho thấy một sự bố trí chiến lược Bắc di cư trước cuối năm 1955, trong thời gian đó mẫu hình tái định cư giai đoạn hai được xác lập hoàn toàn. Vào thời kỳ đầu của khoảng hở thời gian di cư do Hiệp định Geneva quy định, cả Ngô Đình Diệm cũng như bất cứ ai khác đều không biết có bao nhiêu người sẵn sàng cho cơ hội ra đi. Trong khi ông ta tích cực công khai lôi kéo những người miền Bắc (đặc biệt người Công giáo miền Bắc) vào Nam, thì điều đó không có nghĩa là ông đã có sẵn kế hoạch tức khắc cho việc triển khai họ một cách chiến lược[23].
Ủy viên Hội đồng di cư Bùi Văn Lương cảm thấy quá trình bố trí cho Bắc di cư định cư ở các tỉnh xung quanh Sài Gòn chỉ là bước đi trước để chuyển họ đến những vùng xa hơn, bước này tận dụng được việc tự-lựa chọn tái định cư mà nhiều người đã làm. Trong một biên bản bí mật tháng Mười một năm 1955 gửi Ngô Đình Diệm sau một cuộc biểu tình của người Bắc bên ngoài phủ tổng thống, Bùi Văn Lương nói với ông ta:
“Họ sợ họ bị đưa đến một vùng xa xôi hẻo lánh. Do đó, chúng ta nên cho họ lúc đầu ở một nơi tương đối gần, để tạo ra một tiền lệ thuận lợi, chờ thời gian để đưa họ đi xa hơn. Biết rằng đa số họ là nông dân, chúng ta nên đưa họ về Gia Định, là nơi gần thành phố, vốn chỉ dành cho những người gắn với thương mại và công nghiệp nhẹ. Sau đó, họ có thể đến Hố Nai. Biên Hòa và các tỉnh miền đông Nam Bộ. Các tỉnh này, mặc dù nghèo và thiếu phương tiện để định cư họ, nhưng là nơi mà những người di cư muốn đến bởi vì những nơi ấy tương đối yên bình và có đường giao thông thuận tiện đến Sài Gòn.”[24]
Hồi tưởng lại, hóa ra vai trò chủ đạo trong việc lập kế hoạch tái định cư giai đoạn hai, trong vùng rộng lớn hơn Sài Gòn lại không phải thuộc về chính phủ, mà thuộc về Giám mục Phạm Ngọc Chi và ủy ban của ông. Trong mọi trường hợp, phần lớn tái định cư được quyết định đơn giản bởi hoàn cảnh và bởi lựa chọn của những cộng đồng Bắc di cư riêng lẻ. Những khu định cư ở Gia Định, đặc biệt ở những địa điểm như Gò Vấp, Tân Bình và Thủ Đức, lan tràn cả sang các vùng kề bên, những khu ăn ở tạm dựng lên cấp tốc tại những khu vực như sân bay Tân Sơn Nhất và trường đua Phú Thọ. Những khu vực rộng lớn của Biên Hòa và Đồng Nai bị chiếm bởi Bắc di cư một phần vì những khu vực trước đây thuộc người Pháp nay đang rút đi nên bị bỏ không. Các đồn điền cao su trong hai tỉnh này có những dải đất rộng lớn về cơ bản chưa có người ở, là những địa điểm lý tưởng tiềm tàng cho khối dân cư lớn cần định cư nhanh[25]. Nhiều cộng đồng Công giáo Bắc di cư tìm chỗ định cư ở những nơi đã có khá đông dân Công giáo miền Nam[26].
Một khi có khối tới hạn những người Công giáo Bắc di cư nhập vào, những người định cư được bố trí chỗ ăn ở trong giai đoạn hai này miễn cưỡng dời đến những vùng tái định cư giai đoạn ba chỉ vì để thực hiện chính sách của chính phủ. Lời đáp của Ngô Đình Diệm cho báo cáo tình thế của Bùi Văn Lương xác nhận lý lẽ của Philip Catton rằng “Không phải chỉ phải đối mặt với những nỗi cực nhọc của cuộc sống ở cao nguyên nhiều người miền Bắc vẫn còn bám lấy hy vọng rằng việc chia cắt Việt Nam chỉ trong thời gian ngắn, và cuộc di chuyển tiếp theo của họ sẽ là sớm trở lại quê nhà gốc của họ phía trên vĩ tuyến mười bảy.”[27]
Tuy nhiên việc di cư từ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào Việt Nam Cộng hòa rồi lại di chuyển trong một số dịp khác nữa cho đến khi tìm được nơi cư trú ổn định lâu dài là một kinh nghiệm chung của Bắc di cư.[28]
Kết luận: Số phận của người Bắc di cư
Vào cuối những năm 1950, niềm thiện cảm ban đầu của những người bản địa miền Nam một phần do tuyên truyền của chính quyền Ngô Đình Diệm đem lại đã bắt đầu nhạt dần. Nỗi oán giận ngày càng tăng của dân chúng đối với người Công giáo miền Bắc lại được tiếp thêm bởi nhận thức rằng họ được ưu đãi bởi người đồng đạo của họ là Ngô Đình Diệm. Liệu có thể giải thích cách nào khác sự hiện diện quá mức của những người Công giáo miền Bắc trong hàng ngũ quan chức cao cấp của chính quyền Nam Việt Nam, trong các bộ máy quân sự, pháp luật và học thuật? Sự bất bình nầy là một nhân tố có ý nghĩa trong sự bất mãn chung ngày càng tăng đối với chính phủ Ngô Đình Diệm, như vậy, có thể nói nó đã góp phần vào cuộc khủng hoảng chính trị dẫn đến cái chết của chế độ và cuộc ám sát Ngô Đình Diệm tháng Mười Một, 1963.
Tuy nhiên, những hành động và chính sách của Ngô Đình Diệm không phải là nguyên nhân duy nhất dẫn đến sự phản ứng dữ dội của dân chúng chống lại Bắc di cư. Bản thân người di cư là đồng lõa trong nhiều quyết định hồi những giai đoạn đầu của cuộc tái định cư, những quyết định kìm hãm sự hòa nhập của những người mới đến vào dòng chính của xã hội Nam Việt Nam. Đúng là chính quyền Ngô Đình Diệm đã can ngăn việc hòa nhập Bắc di cư vào khối dân chúng chung của miền Nam, ngược lại tìm cách định cư các cộng đồng miền Bắc như những thực thể riêng biệt, thường ở những vùng xa các trung tâm dân cư chính của Nam Việt Nam. Nhưng bản thân Bắc di cư là những người chủ động trong sự cách ly này. Ngay cả sau khi bộ máy hành chính của các trung tâm tái định cư được sáp nhập vào các đơn vị hành chính địa phương và các tỉnh, vào cuối 1957, những người Công giáo trong các khu định cư ấy tiếp tục sống như một bộ phận dân cư tách rời. Trong những cộng đồng như Gia Kiệm, hình mẫu này tồn tại dai dẳng bằng nhiều cách cho đến tận ngày nay. Về mặt này, Bắc di cư đã tái tạo và kéo dài chủ nghĩa ly khai vốn là đặc điểm của đời sống Công giáo miền Bắc trong những thế kỷ trước. Mặc dù chủ nghĩa ly khai này giúp cho cộng đồng Bắc di cư giữ được sự thống nhất và cố kết nội bộ, nhưng nó cũng kìm hãm sự hiểu biết lẫn nhau và sự hòa hợp với những người láng giềng miền Nam của họ. Như vậy người Công giáo miền Bắc vẫn giữ mối nghi ngờ sâu sắc với thế giới bên lương mà họ đã gieo trồng trong những cộng đồng miền bắc khép kín và tự túc của họ. Mối nghi ngờ này, kết hợp với niềm tin rằng việc họ lưu lại miền Nam chỉ là tạm thời, đảm bảo cho phần lớn người Bắc di cư vẫn chống đối lại việc đồng hóa.
Các trại di cư biến thành các làng phản ánh các giá trị mà Bắc di cư có, bằng nhiều cách, họ đã trốn khỏi miền Bắc để giữ gìn. Năm 1954, họ đã nhận ra rằng thắng lợi của cộng sản ở miền Bắc đe dọa khả năng của họ sống trong những cộng đồng chính trị thần quyền biệt lập, tự duy trì. Chính phủ Ngô Đình Diệm, ngược lại, đề nghị đặt Bắc di cư trong những khu định cư mới, xa rời bộ phận dân cư chủ yếu của miền Nam, một quan niệm hoàn toàn thích hợp với nguyện vọng của họ. Giới giáo sĩ lãnh đạo miền Bắc, đặc biệt là Giám mục Phạm Ngọc Chi, đều ủng hộ nguyện vọng này. Sự đồng thuận của Bắc di cư luôn luôn bị hiểu sai thành bằng chứng cho việc họ bị chế độ và những người Mỹ ủng hộ nó lôi kéo, lợi dụng. Nhưng rất lâu sau khi sự lợi dụng mà người ta viện ra ấy biến mất khỏi hiện trường, thì những cộng đồng Bắc di cư, như Gia Kiệm chẳng hạn, vẫn còn nguyên như trước: biệt lập về mặt địa lý, khác biệt về văn hóa, và dựa trên tôn giáo.
Peter Hansen là Giảng viên khoa Lịch sử Giáo hội ở Châu Á tại Cao đẳng Thần học Công giáo, Melbourne, Australia, và linh mục địa phận Melbourne. Ông có bằng tiến sĩ thần học về lịch sử giáo hội tại Cao đẳng Melbourne, và M.A.từ đại học Monach, Melbourne. Ông hành nghề luật trong một thập niên, và làm việc trong trại tìm kiếm cứu trợ người Việt Nam ở Hồng Kông và Philipine đầu những năm 1990.
Tóm tắt: Những người Công giáo miền bắc di cư năm tái định cư tại CHVN những năm 1954-1955 theo kết quả của Hiệp định Geneva hình thành một cộng đồng có bản sắc riêng, nói chung không bị đồng hóa, và dần dần, nhưng không phải ngay lập tức, bị chính phủ Ngô Đình Diệm lợi dụng cho những mục đích lập quốc. Trong cả cuộc ra đi từ miền Bắc và cuộc tái định cư tại miền Nam, Bắc di cư nói chung thuận theo sự cai quản của các cha cố của họ. Những cộng đồng Công giáo này thường tái tạo các hình mẫu tổ chức, cung cách lãnh đạo và sự nghi ngờ của thế giới bên ngoài vốn đặc trưng cho các cộng đồng làng xã của họ ở miền Bắc.
Nguồn: Journal of Vietnamese Studies, Volume 4, issue 3, Fall 2009.
Bản tiếng Việt © 2010 Hiếu Tân
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
[1] PTUDCTN gửi PTT, 15 tháng Bảy, 1955, File 343, Folder 4041, PTTĐNCH, VNA-II.
[2] Về sắc lệnh của chính phủ trưng thu các tài sản này để dùng cho các trại di cư tạm thời: xem báo cáo của chính phủ về tản cư, 20 tháng Tám 1955, File 121, Folder 1088, PTTĐNCH, VNA-II.
[3] Trần Trung Dung (Thứ trưởng Quốc phòng) gửi PTT, Re: Phú Thọ Camp March 23, 1956, File 1003, Folder 9855, PTTĐNCH, VNA-II.
[4] “Đức Giám mục Phạm Ngọc Chi cai quản giáo khu Bùi Chu đến Sài Gòn để tổ chức các làng tản cư”, Tiếng Chuông, 30 tháng Tám. Dự định mỗi làng sẽ có một nhà thờ, một trường học, một giếng nước và, cơ bản nhất, một mạng điện vĩnh cửu. Các kế hoạch này được thực hiện về cơ bản. Phạm Ngọc Chi cũng kiếm được đất đặc biệt ở Suối Cúng huyện Hố Nai. Xem “Đồng bào di cư Bắc Việt ở Biên Hòa: Sinh hoạt cách nào?”, Dân Ta 21 tháng Chín, 1954.
[5] Đoàn Độc Thư và Xuân Huy, Giám Mục Lê Hữu Từ và Phát Diệm, 1945–1954 (Sài Gòn, 1973), 34.
[6] Weisner, “Vietnam: Exodus from the North,” 232.
[7] PTUDCTN gửi PTT, 21 tháng Giêng, 1956, File 343, Folder 4041, PTTĐNCH, VNA-II. Trong số 257 này, một nhóm đại diện khi định cư “giai đoạn một” nơi những người di cư được bố trí ban đầu. Tuy nhiên, phần lớn là các vùng định cư giai đoạn hai.
[8] Weisner, “Vietnam: Exodus from the North,” 232.
[9] Ralph Smuckler, Walter W. Mode, và Frederic R. Wickert, Research Report—Field Study of Refugee Commission (Sài Gòn: Michigan State University, September 1955), 2. Các số liệu ngoại trừ Sài Gòn.
[10] Xem, chẳng hạn, tình hình an ninh ở Sa Đéc, mô tả trong “Báo cáo thăm Sa Đéc” của PTUDCTN gửi PTT, 22, tháng Mười Một 1955, File 343, Folder 4042, PTTĐNCH, VNA-II. Một ví dụ về bố trí đất định cư không thích hợp là Khâu Băng, một trại ở Tỉnh Bến Tre. Xem: Bùi Văn Lương gửi PTT, October 7, tháng Mười,1955, và “Chuyến Thăm Bến Tre cùng với phái đoàn Pháp và Mỹ”, 5 và 6 tháng Mười, File 343, Folder 4041, PTTĐNCH, VNA-II.
[11] Stan Tan, “‘Dust Beneath the Mist’: State and Frontier Formation in the Central Highlands of Vietnam, the 1955–1961 Period” (Luận văn tiến sĩ, Đại học Quốc gia Australian, 2006), 166, 189. Cao ủy Di cư của Ngô Đình Diệm trở thành Cao ủy Cải cách Điền địa, với Bùi Văn Lương làm cố vấn cho cả hai.
[12] Ngoại trưởng Việt Nam Cộng hòa, Cái Sắn: Câu chuyện xúc động về tái định cư và Cải Cách Điền Địa tại “vựa lúa” của Việt Nam Cộng hòa, 8; Lê Xuân Khoa, Việt Nam 1945–1995, 1:264. Kế hoạch ban đầu là di dời hai mươi ngàn gia đình, với một trăm ngàn người, đến Cái Sắn. Xem: Bộ trưởng Cải cách Điền địa gửi PTUDCTN, 10, tháng Mười Hai, 1955, File 375, Folder 4405, PTTĐNCH, VNA-II.
[13] Báo cáo của Bộ trưởng Cải cách Điền địa gửi PTUDCTN, 6, tháng Bảy, 1956, File 375, Folder 4405, PTTĐNCH, VNA-II.
[14] Khoảng mười lăm ngàn người thuộc các sắc dân thiểu số từ miền Bắc đã tham gia cuộc di cư được định cư ngay tại Cao nguyên Trung phần trước giai đoạn ba của tái định cư của người Kinh. Xem: Weisner, “Vietnam: Exodus from the North,” 234–235.
[15] PTUDCTN to PTT, July 15, 1955, File 343, Folder 4041, PTTĐNCH, VNA-II.
[16] Báo cáo nêu trong: Gerald Cannon Hickey, Free in the Forest: Ethnohistory of the Vietnamese Central Highlands, 1954–1976 (New Haven, CT: Yale University Press, 1982), 18. Báo cáo này bỏ qua sự kiện là phần lớn vùng này có người các bộ tộc thiểu số sinh sống, mặc dầu chính sách của chính phủ Ngô Đình Diệm mà báo cáo nói đến đã cố gắng giải quyết các nhu cầu của họ. Xem Hickey, Free in the Forest, 18–19.
[17] Báo cáo của Nguyễn Sơn Duyền, đại diện chính phủ ở Cao ngyên Trung phần. 8 tháng Tám, 1956. File 376, Folder 4411, PTTĐNCH, VNA-II. Thực tế, quyết định chuyển một số Bắc di cư đến các vùng tái định cư mới không phải là mới hay bột phát, tầm quan trọng của tuyên bố này là nó tổng hợp các ưu tiên chính sách của Ngô Đình Diệm và những cuộc điều động cơ bản của họ trong giai đoạn tái định cư thứ ba. Về các bình luận tương tự, xem biên bản cuộc họp trước của Ủy ban Định cư người di cư, tháng 24 tháng Bảy, 1956, File 375, Folder 4408, PTTĐNCH, VNA-II.
[18] Bình Xuyên là một nhóm (không phải giáo phái) dính líu vào cả các hoạt động bán quân sự và các hoạt động tội ác, cho đến khi nhóm này bị Ngô Đình Diệm tiêu diệt hoặc tước khí giới năm 1955.
[19] Một thí dụ tương tự liên quan đến cộng đồng Đại Hải, di cư như một thực thể đơn lẻ từ giáo khu Hải Phòng đến Sóc Trăng ở miền Nam, xem: “Chúng tôi đi viếng trại định cư Đại Hải Đôn Diên La Bách – Sóc Trăng” xem: Dân Chủ 17, tháng Bảy 1956.
[20] Lê Xuân Khoa cho rằng sức thúc đẩy ngang nhau của các khu tái định cư giai đoạn ba này chủ yếu đến từ phái bộ Truyền giáo Hoa Kỳ và Trường Đại học bang Michigan. Xem: Lê Xuân Khoa, Việt Nam 1945–1995, 1:261.
[21] Jean Lacouture, Vietnam: Between Two Truces, Konrad Kellen and Joel Carmichael dịch (London: Secker & Warburg, 1966), 105. Nguyễn Ngọc Tân miêu tả Bắc di cư định cư ở vành đai xung quanh Sài Gòn như “một bức tường người để ngăn chặn sự thâm nhập của cộng sản và để phá vỡ ảnh hưởng của Việt Minh ở vùng nông thôn”. Xem: Nguyễn Ngọc Tân, “The ‘Miracle of Vietnam’: The Establishment and Consolidation of Ngo Dinh Diem’s Regime, 1954–1959” (luận văn tiến sĩ, Đại học Monash, Melbourne, 1997), 168. Xem thêm: Bernard Fall, “On Father Harnett,” in Lindholm, ed., Viet-Nam, The First FiveYears, 93; Kahin, Intervention, 77.
[22] Cao Văn Luận, Bên giòng lịch sử, 1940–1965 (Sài Gòn: Trí Dũng, 1972), 248–249.
[23] Điều này có bằng chứng là hai cuộc viếng thăm Hà Nội để nói chuyện trước cuộc mít tinh quần chúng trong thời kỳ trước khi thủ đô trở về Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Xem: “Chánh phủ sẽ đòi lại các vùng Bùi Chu và Phát Diệm” Ánh Sáng, 9, tháng Bảy 1954.
[24] PTUDCTN gửi PTT, 22, tháng Mười Một 1955, File 343, Folder 4042, PTTĐNCH, VNA-II. Trong cùng văn bản này, Bùi Văn Lương tiếp tục thừa nhận rằng hai tỉnh này (Biên Hòa và Gia Định) không hề là địa điểm lý tưởng cho Bắc Di Cư định cư vì thiếu ruộng đất, và họ gây cho chính quyền địa phương rất nhiều rắc rối.
[25] Điều này dẫn đến những tin đồn rằng người miền Bắc không được tự do mà bị cưỡng bức lao động trong những đồn điền cao su như dưới thời thực dân Pháp. Xem: “Giới hữu quyền đính chánh, không có việc đưa đồng bào tản cư đi đồn điền cao su” Tiếng Chuông, 23, tháng Tám 1954.
[26] Các tỉnh Gia Định, Biên Hòa, và Bà Rịa là quê quán của những cộng đồng Công giáo lâu đời.
[27] Philip E. Catton, Diem’s Final Failure: Prelude to America’s War in Vietnam (Lawrence: University Press of Kansas, 2002), 60–61. Tuyên bố sau đó của ông ở trang 61, rằng “Thái độ của họ tiếp tục phá hoại các quan hệ giữa Sài Gòn và cộng đồng Công giáo, đã căng thẳng do các cố gắng của chính phủ kiềm chế chính quyền thế tục hành hạ các linh mục trong các làng di cư” gây tranh cãi nhiều hơn; Catton đưa ra mà không chứng minh.
[28] Chẳng hạn, cư dân trại Tiên Thuận đã phải di chuyển bốn lần: từ khu nhà tạm ở Sài Gòn đến Tây Ninh; ở Tây Nam cuộc nổi loạn buộc họ về lại Xóm Mới ở Sài Gòn, và trước khi PTUDCTN quyết định tái định cư họ ở Pleiku trên cao nguyên. Xem biên bản các cuộc họp PTUDCTN ở Pleiku, 23, tháng Bảy 1956, File 375, Folder 4408, PTTĐNCH, VNA-II.
Peter Hansen – Bắc di cư .........(2)
Peter Hansen – Bắc di cư: Dân Công giáo tị nạn từ miền Bắc Việt Nam và vai trò của họ tại Cộng hòa Miền Nam, 1954-1959 (phần 2)
Giải thích quyết định vào Nam
Tại sao có nhiều người miền Bắc đến thế đã tận dụng cơ hội để vào Nam trong những năm 1954-1955? Mặc dầu câu hỏi này gây ra bao cuộc tranh cãi, rất ít tác giả nói về nó sử dụng chứng cứ lấy từ chính Bắc di cư. Khi những chứng cứ như thế được khảo sát, nó chứng minh rằng những quyết định của người di cư được hình thành bởi hỗn hợp nhiều tầng các động cơ bên trong và các ảnh hưởng bên ngoài. Do đó bức tranh nổi lên từ chứng cứ này phức tạp hơn nhiều so với trí suy xét thông thường của người chép sử cho phép hình dung.
Một lý thuyết được lan truyền rộng rãi về cuộc di cư 1954-1955 nhấn mạnh vào những hoạt động chiến tranh tâm lý của Đại tá Lansdale và CIA[1]. Từ lâu người ta biết rằng Lansdale và thuộc hạ của ông ta Lucien Conein tiến hành một chiến dịch chiến tranh tâm lý để động viên cư dân người Bắc – đặc biệt người Công giáo – chuyển vào nam. Truyền đơn được rải từ máy bay, các nhà chiêm tinh được yêu cầu soạn những cuốn lịch dự báo số phận thảm khốc của lãnh đạo cộng sản và những người dưới quyền họ, và tiếng đồn kinh hoàng về những kế hoạch của Việt Minh được phát tán rộng rãi[2]. Khi một tỉ lệ lớn cư dân Công giáo đã di cư vào Nam, một số nhà bình luận cho rằng chiến dịch của Lansdale là nguyên nhân chủ yếu. Lý thuyết này là phần chính trong ý kiến của các nhà báo và học giả về các sự kiện 1954-1955, và hiện nay nó vẫn còn ảnh hưởng ở một số vùng. Chẳng hạn một nhà sử học gần đây mô tả những cố gắng của Lansdale như “một trong những chiến dịch tuyên truyền táo bạo nhất trong lịch sử hoạt động gián điệp” Theo học giả này, những áp phích và khẩu hiệu mà nhóm Lansdale nghĩ ra: “Chúa Giê-xu đã đi Nam” hay “Đức Mẹ đã rời khỏi miền Bắc” có những ảnh hưởng quyết định đến suy nghĩ của những người Công giáo Việt Nam bình thường”[3].
Tất nhiên khẳng định như thế dựa trên một giả định khá trịch thượng rằng Bắc di cư ra đi là vì họ mê tín và dễ bị lừa bởi những mánh khóe và mưu mô đơn giản đến vậy – một giả định dường như đã xuyên tạc rất nhiều những báo cáo ban đầu về cuộc di cư.[4] Bản thân Lansdale tỏ ra hoài nghi hơn nhiều người phê bình ông về những thắng lợi được khẳng định không qua chứng minh về các cố gắng của ông. Như sau này ông nhận xét trong một cuộc phỏng vấn: “Người ta không đơn giản nhổ rễ bản thân mình đi trồng ở chỗ khác chỉ vì những khẩu hiệu. Họ thật sự sợ những gì có thể xảy đến cho họ, và những tình cảm ấy đủ mạnh để vượt qua sự gắn bó với đất đai, nhà cửa, mồ mả tổ tiên của họ. Như vậy thế chủ động phần lớn là của họ, và chúng tôi chủ yếu chỉ làm cho cuộc chuyển vận trở nên có thể thực hiện được.”[5]
Mỉa mai thay, phát biểu đầu tiên về “lý thuyết chiến tranh tâm lý” trong cuộc di cư những năm 1954-1955 không phải do Lansdale và những người ủng hộ ông ta đưa ra, mà bởi các quan chức cộng sản miền Bắc Việt Nam.[6] Theo khẳng định của các quan chức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau năm 1955 và sau đó được các nhà báo nước ngoài có cảm tình đưa tin lại, thì cuộc di cư ồ ạt của Bắc di cư vừa vô lý vừa không có chủ tâm.[7] Trong những phân tích của họ về cuộc di cư, nhà cầm quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thường xuyên nêu một câu nói đã thành công thức “Đồng bào bị cưỡng ép và dụ dỗ”. Sự cưỡng ép và dụ dỗ được nói là do Đế quốc Mỹ và bè lũ Ngô Đình Diệm thực hiện.[8]
Một thuyết khác cho rằng động cơ di cư chủ yếu có bản chất tôn giáo. Như một tác giả Công giáo Italia, Piero Gheddo diễn đạt, “Họ ra đi là để bảo vệ đức tin”.[9] Mới thoạt nhìn, thuyết này có vẻ dựa trên một cơ sở chứng cứ đáng tin cậy hơn so với thuyết đầu. Nhiều người Bắc di cư thật sự sợ rằng khả năng hành đạo của họ có thể bị cắt bớt dưới chế độ cộng sản, hơn nữa, nỗi sợ này có cơ sở trong kinh nghiệm trước đó của nhiều cộng đồng Công giáo miền Bắc. Vào năm 1954, nhiều giáo dân già vẫn còn nhớ những cuộc xung đột hung tàn giữa giáo và lương xảy ra vào cuối thế kỷ mười chín. Như vậy sự thù hằn giữa giáo hội và Việt Minh đã làm thức dậy nỗi sợ của người Công giáo đối với những chiến binh người lương giết chóc và tàn phá, bị kích động bởi quyền lực trung ương thù địch. Đối với nhiều người Công giáo, ra mặt chống lại mối đe dọa đã được nhận biết về khủng bố là điều kiện tiên quyết và là cách xử sự rõ ràng thiết thực nhất, và cái đó đâu cần phải học từ người ngoài. Như Bernard Fall diễn tả “người Công giáo Bắc kỳ bỏ chạy vì họ đã có kinh nghiệm lâu dài nằm trong tay những người đồng bào không theo đạo của mình, chứ không phải vì chiến dịch chiến tranh tâm lý.”[10]
Đối với nhiều người Công giáo ở miền Bắc sống ở vùng Liên Khu IV, từ Thanh Hóa đến Quảng Bình, là vùng nói chung dưới quyền kiểm soát hiệu quả của Việt Minh, từ năm 1945 trở đi, những sự kiện gần đây dường như đã xác nhận những bài học lịch sử này. Những người Công giáo này đã trải qua những tòa án hình sự của Việt Minh, những cuộc hành hình, bỏ tù những cha cố Công giáo và những nhà lãnh đạo thế tục, những sự kiện như thế khiến một số người lo sợ cho tự do tín ngưỡng của họ, thậm chí cho mạng sống của họ trên cơ sở họ có thể bị rơi vào nghi ngờ và khủng bố, khi mọi sự kháng cự đối với Việt Minh chấm dứt.[11] Chẳng hạn Phạm Tuyên, lãnh đạo đầu tiên của Liên đoàn Công giáo giáo khu Vinh, bị hành hình sau khi bị một tòa án nhân dân kết án ngày 25 tháng Giêng 1951[12]. Và một trường hợp gây lo lắng hơn khi ba mươi tư thành viên của Liên đoàn Công giáo, bao gồm ít nhất hai giáo sĩ, bị kết tội hoạt động như thành viên của tổ chức phản động “Gây ra tinh thần chống đối chính phủ và kháng chiến, và phổ biến những tuyên truyền bí mật trong giáo dân” và xúi giục trốn thuế nông nghiệp[13]. Trong số những lý lẽ được viện ra để chống lại họ, là họ đã tung tin đồn rằng hai người Công giáo địa phương chết trong cuộc bắt giữ của Việt Minh sau một phiên tòa năm 1950 đã chết cho niềm tin của họ (Tử vì Đạo), một luận điệu có sức lôi kéo mạnh đối với một cộng đồng mà di sản tôn giáo quốc gia chủ yếu dựa quanh những câu chuyện kể về tử vì đạo.[14]
Tuy nhiên, những lo lắng về tự do tín ngưỡng, mặc dầu không nghi ngờ gì là rất nổi bật trong số Bắc di cư, bản thân chúng không đủ để giải thích cuộc ra đi ồ ạt. Mặc dầu hàng trăm ngàn người Công giáo lựa chọn ra đi, một số lớn hơn lựa chọn ở lại, tuy họ vẫn biết có sự bất hòa giữa Giáo hội và Việt Minh. Ngược lại, trong khi bảy mươi lăm phần trăm những người di cư là Công giáo, số còn lại thì không, một sự kiện tự nó có ý nghĩa là gợi ý rằng Bắc di cư có thể đã bị lôi kéo bởi tính đa dạng của các mối lo ngại và các động cơ. Nỗi lo âu về tự do tôn giáo chỉ là một trong rất nhiều nhân tố thúc đẩy đối với Bắc di cư được khẳng định bởi cuộc phỏng vấn nghiên cứu thực địa mà tôi thực hiện với những người Công giáo đủ già để nhớ được những sự kiện hồi 1954-1955.[15]
Nhiều người Công giáo miền Bắc được phỏng vấn kể với tôi rằng gia đình họ có liên hệ với quân đội Pháp hoặc với Lực lượng Tự vệ của Giám mục Lê Hữu Từ ở Phát Diệm.[16] Vì những mối liên hệ này, họ sợ sự trả thù, là điều thường xảy ra đối với người thua trận sau khi xung đột quân sự kết thúc. Những người cung cấp tin khác nêu nỗi sợ bị tịch thu ruộng đất, nhiều địa chủ nhỏ sống ở Phát Diệm kể là đã nghe nói về chiến dịch cải cách ruộng đất trong những vùng do Việt Minh kiểm soát ở Liên Khu IV và hậu quả của nó đối với các địa chủ, đặc biệt là người Công giáo[17]. Cái viễn cảnh lao động khổ sai và thuế nông nghiệp nặng nề đánh trên các địa chủ, một lần nữa lại dựa trên các câu chuyện về những sự việc xảy ra trong vùng Việt Minh kiểm soát, cũng gây ra những lo lắng lớn[18].
Điều thú vị là không có người trả lời phỏng vấn nào đã từng thấy một truyền đơn, áp phích tuyên truyền hay bất kỳ tài liệu nào khác ủng hộ việc đi vào Nam. Một người được phỏng vấn thừa nhận có đọc được một tờ truyền đơn, nhưng không nhớ nổi nó nói gì. Ông khẳng định rằng nó không ảnh hưởng đến quyết định của ông, hoặc quyết định của những người trong gia đình ông lựa chọn ra đi. Trong số những người trả lời phỏng vấn không ai nhớ đã bị hối thúc ra đi bởi những người ngoài vùng quê của họ.
Nhiều người được phỏng vấn nói về những mối quan tâm lo lắng của họ về những mối ràng buộc với ruộng vườn hoặc mồ mả ông cha, những nỗi lo lắng thường được nói lên như nhân tố can ngăn họ đừng ra đi. Nhưng dù cho những mối liên hệ như vậy là rất mạnh, chúng cũng không nhất thiết ngăn được họ khỏi ra đi. Nhiều người được phỏng vấn còn ở lại giáo khu Phát Diệm than phiền rằng gia đình họ đã phải quyết định chia lìa, với hy vọng rằng những người ở lại có thể giữ được ruộng đất dưới chế độ mới. Một chiến lược như thế phù hợp với mong đợi phổ biến trong số Bắc di cư rằng sự rời bỏ quê hương của họ chỉ là tạm thời, và họ sẽ sớm đoàn tụ với gia đình mà họ bỏ lại ở miền Bắc. Chạy trốn vào Nam để tránh đàn áp tôn giáo hay các khó khăn khác không hề là hiện tượng chưa có tiền lệ trong lịch sử Công giáo Việt Nam. Chẳng hạn trong mấy thập kỷ đầu của thế kỷ hai mươi, Tổng Giám mục Mossard của Sài Gòn đã đón rước những người Công giáo miền Bắc, đặc biệt là từ Vinh vào miền Nam lập ra những thôn làng mới trên vùng đất hoang[19]. Một đoàn người khác rời địa phận Bùi Chu vào những năm 1920 để tái định cư tại vùng Cao nguyên miền nam[20]. Vào cuối những năm 1940 vẫn còn những người khác rời miền Bắc vào tái định cư tại miền Nam, như là để đối phó với nạn đói trong những năm 1944-1945, hay vì sợ Việt Minh, hay đơn giản chỉ là để kiếm việc làm[21]. Như vậy, tìm nơi trú ẩn ở miền Nam và không phải là một ý tưởng lạ lùng hay chưa nghe nói đến trong số những người Công giáo. Nỗi sợ của những người ra đi 1954-1955 tăng lên không phải chỉ vì chiến dịch của Lansdale hay vì thói mê tín dị đoan, mà chủ yếu vì ký ức tập thể của họ về số phận của cộng đồng Công giáo cuối thế kỷ mười chín, và vì những câu chuyện kể về những gì đang xảy ra trong vùng Việt Minh kiểm soát. Cũng có cả những nhân tố “lôi kéo” trong tính toán của những người Công giáo để quyết định có đi Nam hay không. Việc bổ nhiệm Ngô Đình Diệm, một người Công giáo có quê nằm ở bắc vĩ tuyến mười bảy – làm lãnh tụ mới của chế độ Sài Gòn tháng Sáu năm 1954 đã cổ võ nhiều người Công giáo miền Bắc nếu không có thể đã phải miễn cưỡng ra đi[22].
Mặc dầu Ngô Đình Diệm không phải là người ở các trung tâm Công giáo Bùi Chu hay Phát Diệm và thường xuyên bất hòa với hàng giáo phẩm của những giáo khu này về vấn đề hợp tác với chính phủ Bảo Đại và Pháp trước 1954, nhiều người Bắc di cư vẫn quay về với Ngô Đình Diệm với hy vọng rằng tôn giáo của họ và các quyền lợi khác sẽ được bảo vệ tốt nhất bởi người đồng đạo. Ngô Đình Diệm chăm chỉ vun xới hình ảnh của bản thân như một cứu tinh của những người đang có ý định ra đi, đã ra Hà Nội nhiều lần trong mùa hè và mùa thu năm 1954, để kêu gọi nhân dân ở đấy hãy đi theo ông ta vì một nước Việt Nam tự do trong vùng không cộng sản[23].
Nhiều người Công giáo cảm thấy buộc phải rời miền Bắc vì những lý do rất ít hay không liên quan gì đến Công giáo. Mặc dầu không khắc nghiệt và trên diện rộng như nạn đói 1945, ở miền Bắc 1954 nhiều vùng rõ ràng bị thiếu lương thực, và có vẻ nhiều người di cư rời bỏ miền Bắc một phần vì họ sợ nạn đói đã tàn phá địa phương của họ một thập niên trước đó có thể trở lại[24]. Những nỗi lo âu của họ về viễn cảnh tương lai ở miền Bắc đôi khi củng cố thêm nhận thức của họ về cơ hội ở miền Nam, đặc biệt vùng Sài Gòn Chợ Lớn. Nhiều thành viên tầng lớp trung lưu thành thị ở Hà Nội có lý do để tin rằng họ có thể tìm thấy cơ hội kinh doanh hay công việc chuyên môn ở thủ đô miền Nam – chính xác là những loại cơ hội chẳng bao lâu sẽ rất khó tìm thấy ở Hà Nội[25]. Các trang báo Sài Gòn giai đoạn 1954-1955 đầy rẫy những quảng cáo của các doanh nghiệp miền Bắc đã chuyển vào Nam[26]. Đối với những người miền Bắc khác, quan hệ với họ hàng ở miền Nam khiến cho viễn cảnh di chuyển thành lời mời gọi hấp dẫn. Cuối cùng, ý tưởng về di cư vào Nam cũng là một lời mời gọi cực kỳ đáng chú ý với những cư dân nghèo hơn của các cộng đồng Công giáo miền Bắc. Đối với những cố nông (lao động nông nghiệp không ruộng đất) và những người khác sống bên lề kinh tế xã hội của các xã hội nông thôn miền bắc, việc chuyển vào Nam ít ra cũng hứa hẹn khả năng có cuộc sống sung túc hơn.
Điều này không có nghĩa rằng những quyết định của người Bắc di cư những năm 1954-1955 được tạo ra trong một khoảng chân không chính trị và xã hội, hoặc rằng dân Công giáo không bị tác động bởi những cố gắng của những người cổ vũ họ ra đi hay ở lại. Tuy nhiên, nổi bật nhất trong những cố gắng này không phải là chiến dịch của Lansdale hay của các lãnh đạo của chế độ mới ở miền Nam. Đối với nhiều người Công giáo ở nông thôn miền Bắc, các quyết định về di cư được hình thành trên hết bởi lời nói và việc làm của các cha cố trong xứ đạo của họ.
Vai trò và tác dụng của giới tăng lữ Công giáo
Trong nhiều xã hội Công giáo ở nông thôn miền Bắc, các cha cố đã từ lâu đóng vai trò dẫn dắt cả phần đời (cuộc sống xã hội) lẫn phần đạo (cuộc sống tâm linh). Bởi vậy không có gì đáng ngạc nhiên rằng những cha cố này thường có những quyết định tới cả cá nhân lẫn cộng đồng về di cư trong thời kỳ sau khi ký Hiệp định Geneva. Cư dân của những giáo khu miền Bắc có tỷ lệ lớn người ra đi nhớ lại các cha cố của họ đã nói như thế nào về đề tài đi hay ở trong dịp cử hành Lễ mixa ngày Chủ nhật. Những người cung cấp tin tức cũng nêu nhận xét về ảnh hưởng quyết định của những ý kiến của các cha cố. Một số linh mục diễn đạt của họ bằng những thuật ngữ lý trí, đặt trước giáo dân những lập luận chặt chẽ ủng hộ cho việc ra đi. Những vị khác khơi gợi đến những nỗi sợ chủ yếu của họ, hoặc đến những điều có thể coi là mê tín dị đoan: “Chúa không còn ở đây nữa”[27]. Còn có những vị khác không giảng giải gì hết, chỉ nói với giáo dân “Tôi sẽ đi” hoặc “Ngày mai chúng tôi đi” với mong đợi giáo dân sẽ không chần chừ gia nhập ngay vào đoàn người nam tiến. Cũng những người trả lời phỏng vấn này nói rằng họ không có cảm giác bị các cha cố lôi kéo hay qua mặt, mà bằng lòng nghe những lời giáo huấn, việc tìm đến các cha cố để xin hướng dẫn về vấn đề này là “tự nhiên”. Một số người coi là một nguồn an ủi khi có được những quyết định do những người mà họ coi là khôn ngoan hơn họ trên đường đời làm giúp cho. Một giáo dân nhớ lại: “Cha B. [linh mục của xứ đạo] đi một mình, ông ấy không nói với ai là ông ấy đi. Nhưng chúng tôi vẫn nghe theo các cha cố của chúng tôi. Khi cha B. đi, đó là tín hiệu cho những người khác thấy rằng họ cũng nên đi.”[28]
Một người khác ở giáo khu bên cạnh, quyết định ở lại miền Bắc, thì nhận xét:
“Cha K. [linh mục của xứ đạo], một sáng chủ nhật từ trên bục giảng đạo nói với giáo dân rằng Chúa đã vào Nam, [và] mọi người phải đi theo. Rất nhiều người nghe và tin. Nhưng không phải tất cả mọi người ra đi thành một đoàn duy nhất. Họ đi làm nhiều đợt, nhưng phần lớn tập hợp lại với nhau thành một giáo xứ, dưới sự lãnh đạo của linh mục của họ ở miền Nam, [ở Gia Kiệm, Quận 5]. Những lời của cha K. rằng Chúa đã đi Nam là rất quan trọng. Nhưng dù sao chúng tôi cũng sợ cộng sản. Chúng tôi đã từng có kinh nghiệm với Việt Minh; chúng tôi sợ họ. Chúng tôi đã nghe rằng Mỹ và Pháp có thể bỏ bom chúng tôi. Chúng tôi cũng nghe rằng ở miền Nam có nhiều điều tốt cho chúng tôi, ruộng đất và trâu bò. Nhưng chắc chúng tôi đã không đi nếu chúng tôi không nghĩ ở đó có nhà thờ. Một số người ở lại không tin cha K. Ông ấy luôn luôn nói với chúng tôi Chúa ở khắp mọi nơi, vậy tại sao không ở đây? Và “nếu tôi sống tôi sống, tôi chết tôi chết”. Tôi bao giờ cũng nghĩ rằng đó là do ý Chúa.”[29]
Không phải tất cả các cha cố miền Bắc đều đi Nam. Một số bị cản trở bởi những cố gắng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngăn trở và hạn chế những người có thể ra đi[30]. Những người khác thì già yếu và mệt mỏi hoặc đau ốm không kham nổi chuyến đi thường là khắc nghiệt. Lại còn một số khác liên hệ với Việt Minh và trông chờ họ trở về nắm quyền.[31] Cuối cùng, một số người đã ở lại như kết quả của một chỉ thị của các Tổng Giám mục John Dooley và Trịnh Như Khuê.
Những người được phỏng vấn quê Phát Diệm nhất trí rằng các vị chức sắc cao cấp trong hàng giám mục không có tác động trực tiếp tới thái độ hay quyết định của họ. Đối với họ, giám mục Lê Hữu Từ là một nhân vật cao xa không thể với tới, các chỉ thị của Giáo hội luôn phải được trung gian qua các linh mục của giáo xứ của họ, và chính các linh mục địa phương này là nơi họ quan tâm và tin tưởng. Điều này không phải để nói rằng các giáo sĩ cấp cao không có ảnh hưởng. Chính các giám mục là người thông báo với các linh mục của mình thái độ của Giáo hội đối với Việt Minh, các kết câu tổ chức và các tuyến thông tin liên lạc được sử dụng ở cả hai giáo khu Phát Diệm và Bùi Chu nói riêng, có nghĩa là nỗi sợ của các giám mục Lê Hữu Từ và Phạm Ngọc Chi về hậu quả có thể của việc “mất chủ quyền” trong các giáo khu của họ dễ dàng lan sang các linh mục giáo xứ của họ. Tuy nhiên, phạm vi mà sự can thiệp của các giáo sĩ cấp cao có ý nghĩa quyết định đối với việc hình thành thái độ của các linh mục là không rõ ràng. Không nên quá cường điệu ảnh hưởng của các giám mục đến các linh mục, chưa nói đến giáo dân; trong một số giáo khu mà các giám mục từ chối ra đi thì một số lớn linh mục vẫn lựa chọn ra đi (chẳng hạn Hà Nội, nơi mà quyết định ở lại của Tổng Giám mục Trịnh Như Khuê đã không ngăn được hơn một nửa số linh mục của địa phận này ra đi). Tác động của Cuộc Di cư Vĩ đại lên dân cư Công giáo ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khác nhau rất nhiều giữa các giáo khu. Ở giáo khu Hưng Hóa, chỉ có 11,8 phần trăm giáo dân di cư vào Nam; ngược lại, ở Phát Diệm, số người ra đi lên đến 72, 7 phần trăm dân cư Công giáo của giáo khu này. Có thế thấy sự khác nhau tương tự về số linh mục Công giáo ra đi, từ 88,9 phần trăm ở Thái Bình, xuống đến 28,4 phần trăm ở Hưng Hóa (Xem Bảng 1). Tuy nhiên, điều có ý nghĩa là tỉ lệ các linh mục ra đi lớn hơn tỉ lệ giáo dân trong mọi giáo khu miền Bắc. Có thể đưa ra hai lý do sau đây: Thứ nhất, các linh mục tin rằng trong trường hợp Việt Minh trả thù người Công giáo, họ hầu như chắc chắn sẽ là mục tiêu cho các cuộc trả thù. Thứ hai, sự lãnh đạo của họ trong cộng đồng giáo xứ có nghĩa là họ chịu trách nhiệm về an toàn của giáo dân, nếu họ nghĩ rằng một bộ phận lớn giáo dân có ý định ra đi, thì họ cũng nên đi để tiếp tục vai trò đứng đầu cộng đồng của họ.
Trong khi các nhân tố vật chất và an toàn giải thích sự khác biệt giữa các địa phương như nêu ở trên, các thái độ khác nhau của các giám mục miền Bắc cũng góp phần giải thích những khác biệt này. Tổng Giám mục Hà nội Joseph-Maria Trịnh Như Khuê quyết định không đi Nam, và ông ủng hộ lập trường của phái viên Tòa Thánh, Tổng Giám mục người Ailen-Columbia John Dooley, ông này tuyên bố rằng các giám mục và linh mục nên ở lại giáo xứ của mình[32]. Điều này có thể phần nào giải thích số lượng tương đối nhỏ ra đi từ Hà Nội.
Quan trọng hơn, nếu “đàn chiên” đã quyết định vào Nam, thì có thể suy ra là bổn phận của các đấng chăn chiên là phải ra đi cùng với họ. Cách thức chăn chiên của các linh mục giáo xứ bình thường được coi là có tính chất địa phương, có nghĩa là họ chăn dắt trong giáo khu của họ, thường là trong một xứ đạo mà họ được chỉ định. Nhưng với cách bố trí như vậy, sẽ nảy sinh vấn đề là làm gì trong những trường hợp bất thường, khi nhiều hoặc hầu hết giáo dân lựa chọn chuyển đi nơi khác. Vậy lúc này các nghĩa vụ có phải là ở lại đúng khu vực của mình, hay là đi theo đám con chiên mà vị linh mục đã được giao chăn dắt? Phần đông các linh mục miền Bắc chọn cách thứ hai, mặc dầu Tổng Giám mục John Dooley đã chỉ thị cho họ chọn cách thứ nhất. Nhiều linh mục quyết định từ chối Dooley chắc chắn đã bị ảnh hưởng của sự kiện là một nửa số giám mục của các giáo khu miền bắc đã chọn di cư vào Nam (Xem Bảng 2). Trên thực tế, ngoài địa phận Hà Nội, chỉ thị của các giám mục Trịnh Như Khuê và Dooley có tác dụng rõ ràng tối thiểu lên hành vi của các linh mục các xứ đạo[33]. Những linh mục ra đi được nhiều giáo dân coi như hành động vì phúc lợi của cộng đồng giáo xứ, cộng đồng này coi như bị rơi vào tình trạng nguy hiểm khi cộng sản đến. Đồng thời các linh mục ít bị cảm thấy bị thúc ép bởi những nhân tố giữ những giáo dân Công giáo bình thường ở lại miền Bắc, như những mối quan tâm về sở hữu đất đai và buôn bán hoặc gắn bó với quê nhà, với mồ mả tổ tiên. Những sự thúc ép này ít có tác động đến các linh mục Công giáo, những người thường được chỉ định đến những giáo xứ ngoài quê hương của họ.
Tạp chí khá phổ biến của dòng chúa cứu thế Mẹ Hằng Cứu Giúp [Our Lady Of Perpetual Succor] chuyển từ Hà Nội vào Sài Gòn trong thời gian di cư. Trong một bài báo xuất bản tháng Tư 1955 sau khi đã đến Sài Gòn, ban biên tập hỏi một câu hỏi tế nhị: “Tại sao các Cha đã vào Nam?” và đưa ra lời biện hộ mạnh mẽ cho những ai đã chọn con đường này:
“Chịu chết vì Chúa là một vinh dự cao quý [và như vậy là] điều đáng mong ước, nếu nhìn từ quan điểm các linh mục cá thể, nhưng nếu nhìn từ quan điểm đời sống cộng đồng của Giáo hội Việt Nam, thì việc này là một [nguồn gốc của] tai hại to lớn.
Phải cần đến mười hai năm trong trường dòng sơ hoặc cao cấp mới trở thành một linh mục, rồi linh mục đó có thể giúp được cho bao nhiêu người? Nhưng nếu họ rơi vào tay Việt Minh Cộng sản, những người sẽ lấy đi tự do [của các linh mục]. Đối với các linh mục, như vậy là không khôn ngoan, đối với giáo hội, nó là hết sức phá hoại. Ai sẽ chăm nom những con chiên lang thang? Ai sẽ gánh vác công việc đem lại đức hạnh cho Bắc Việt Nam khi hòa bình trở lại, khi nhân dân có thể lại cung kính thờ phụng Chúa?…
Nhưng chúng ta rút lui để làm gì? Chúng ta rút lui về miền Nam không phải để kiếm cái ăn cái mặc, không phải để có nhà cao cửa rộng, không phải để giành quyền cao chức trọng. Chúng ta vào Nam để bảo vệ lối sống của chúng ta, để chuẩn bị cho tương lai, để đến một ngày không xa, trên đường thắng lợi, chúng ta sẽ quay trở lại miền Bắc, để đặt Chúa lên bàn thờ, để tạo tình yêu và niềm tin nơi những người đồng bào không theo đạo của chúng ta, để dựng xây độc lập và thống nhất trong hạnh phúc và hòa bình cho toàn thể nhân dân.”[34]
Bỏ qua giọng văn khiêu khích của bài báo, nó cung cấp một cái nhìn khá thấu đáo vào thái độ của các linh mục Bắc di cư. Trước hết, các linh mục di cư đặt quyết định rời miền Bắc của họ trong cả hai bối cảnh: lịch sử Việt Nam và truyền thống tâm linh trong lịch sử đạo Công giáo.
Mặc dù biết về câu cách ngôn của Tertulian: “Máu của người tuẫn đạo là hạt giống của Giáo hội” và vai trò trung tâm của quan niệm này trong lịch sử Công giáo Việt Nam, nhiều linh mục vẫn giữ quan điểm cho rằng không nên chuốc lấy hay gây ra sự tự hy sinh như vậy. Họ biết những người tiền nhiệm của họ thường phải tìm phương kế trốn chạy hay tự vệ, và họ đã đặt bản thân dưới sự bảo hộ của Pháp, để tránh bị tiêu diệt. Từ viễn cảnh này, đối với các linh mục sẽ là vô nghĩa nếu ở lại để đối mặt với sự ngược đãi mà họ tin chắc sẽ đến với họ.
Ngoài sự viện dẫn đến các tiền lệ trong lịch sử giáo hội Việt Nam, nhiều người trong số các linh mục đi Nam đã hiểu và bảo vệ quyết định của mình phù hợp với truyền thống và thông lệ cũ hơn của đạo Cơ Đốc. Dẫn dắt đàn con chiên qua những miền đất lạ để tìm kiếm sự an định, hòa bình, và tự do thờ phụng Chúa là một chủ đề sâu sắc của kinh Thánh. Đúng như Moses dẫn dắt dân Israel đi suốt bốn mươi năm qua sa mạc (Số 14) nhiều linh mục Bắc di cư tin rằng bổn phận đấng chăn chiên của họ là phải đi cùng với giáo xứ của minh vào miền nam.
Một điều có ý nghĩa là nhiều giáo dân chọn đi vào Nam sau đó nhấn mạnh rằng quyết định của các linh mục di cư vào Nam phù hợp với nguyện vọng của giáo dân chứ không phải ngược lại. Don Luce and John Sommer đã phỏng vấn những người tham gia vào quyết định chung như thế: “Cả làng chúng tôi vào đến [miền Nam] tháng Mười, 1954. …Đầu tiên chung tôi họp làng lại, và bàn bạc nên đi hay nên ở. Một số người muốn ở lại vì họ không muốn rời bỏ mồ mả tổ tiên. Tất nhiên, không ai trong số chúng tôi muốn thế, nhưng chúng tôi sợ Việt Minh. Chúng tôi bàn bạc rất lâu đến tận đêm khuya, và quyết định di cư vào Nam nơi chúng tôi biết chúng tôi sẽ được tự do theo đạo”. Ông già ngừng lại, và bây giờ chính Dương kể tiếp câu chuyện: “Ông thấy đấy, chúng tôi là người Công giáo” ông giải thích. “Việt Minh tuyên bố rằng Công giáo là tôn giáo của Pháp và của những ai ủng hộ Pháp. Mặc dầu họ còn cử người đến làng chúng tôi bảo chúng tôi có thể sống hòa bình với Việt Minh, nhưng chúng tôi không tin họ. Chúng tôi đã nghe nói quá nhiều về những trò lừa dối của họ.” “Cả những người muốn ở lại làng cũ cũng đến à?” Chúng tôi hỏi. “À vâng. Tất cả chúng tôi đều đến. Đây là quyết định của cả làng. Sau đó, cuộc ra đi thật là gian nan… Chỉ có cha Nam của chúng tôi còn giữ được tinh thần phấn khởi, mặc dù cha là người nặng gánh nhất. Vào các buổi tối, ông tập hợp chúng tôi xung quanh đống lửa để cầu nguyện[35]”
Đối với nhiều người Công giáo di cư, việc các cha cố chọn cùng đi với họ vào Nam và tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong việc trung gian cho quan hệ giữa cộng đồng với thế giới bên ngoài là đúng và tự nhiên. Cái hình mẫu của sự tôn kính đối với sự lãnh đạo của các cha cố đặc trưng cho cộng đồng Công giáo miền bắc hóa ra là một chủ đề trở lại nhiều lần trong việc tái định cư và hòa nhập của Bắc di cư vào xã hội miền Nam.
(còn tiếp)
Nguồn: Journal of Vietnamese Studies, Volume 4, issue 3, Fall 2009.
Bản tiếng Việt © 2010 Hiếu Tân
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
[1] Cecil B. Currey, Edward Landsdale: The Unquiet American (Boston: Houghton Mifflin, 1988), 158–159.
[2] Currey, Edward Landsdale; Harry Haas và Nguyễn Bảo Công, Vietnam: TheOther Conflict (London: Sheed & Ward, 1971), 22; US State Department, “The Geneva Conference: A Retrospective View,” Internal Secret Memorandum, 1957, giải mật ngày 23, tháng Tư 1979, p. 11, Item Number 2410403028, Vietnam Virtual Archive, Texas Tech University, www.virtualarchive.vietnam.ttu.edu/ starweb/virtual/vva/servlet.starweb?path=virtual/vva/virtual.web (accessed March 13, 2006); Philippe Devillers and Jean Lacouture, End of a War: Indochina 1954 (London: Pall Mall Press, 1969), 334; Wilfred Burchett, North of the Seventeenth Parallel (Hà Nội: 1957), 323–324.
[3] Seth Jacobs, America’s Miracle Man in Vietnam: Ngo Dinh Diem, Religion, Race and U.S. Intervention in Southeast Asia, 1950–1957 (Durham, NC: Duke University Press, 2004), 132–133. Trong số những tác giả khác nhấn mạnh vai trò mê tín tôn giáo trong việc di cư của người Công giáo vào Nam, xem George McT. Kahin, Intervention: How America Became Involved in Vietnam (New York: Alfred A. Knopf, 1986), 76; David G. Marr, “The Rise and Fall of ‘Counterinsurgency’: 1961–1964,” in eds. Marvin E. Gettleman et al., Vietnamand America, 204–205; Christopher J. Kauffman, “Politics, Programs and Protests: Catholic Relief Services in Vietnam, 1954–1975,” The Catholic Historical Review 91, no. 2 (April 2005): 228.
[4] Haas cho rằng “Đức Mẹ đã vào Nam” giải thích lượng di cư tăng lên từ các báo cáo của một nhà báo Pháp về Công giáo mang tượng và ảnh Đức mẹ trong chuyến di cư của họ vào Nam. Xem Haas, Vietnam, the Other Conflict, 21.
[5] Lansdale, trích dẫn trong Stanley Karnow, Vietnam, A History- Việt Nam thiên sử truyền hình (New York: Viking Press, 1984), 238. Tiểu sử Lansdale, Cecil B. Currey, trong khi những người khác đánh giá cao những cố gắng tuyên truyền của Lansdale và Conein cuối cùng thừa nhận rằng “phần lớn người Bắc không cần đến tin đồn, hay tuyên truyền lừa phỉnh, để đi Nam.” Xem Currey, Edward Landsdale, 159.
[6] Kiểu biện luận này dường như xuất phát từ Báo cáo tháng Ba 1955 của tướng Võ Nguyên Giáp gửi Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Xem Carlyle A. Thayer, War by Other Means: National Liberation and Revolution in Vietnam,1954–1960 (Sydney: Allen & Unwin, 1989), 31.
[7] Burchett, North of the Seventeenth Parallel, 323–324.
[8] Chẳng hạn xem Chống Âm Mưu Bắt-Ép Dụ Dỗ Di Dân của Đế Quốc Mĩ và Bè Lũ Ngô Đình Diệm [Oppose the Plot of American Imperialists and the Ngô Đình Diệm Clique to Force and Seduce People to Transmigrate] (Hải Phòng: Ban Tuyên Truyjn HOi Phòng, 1955); Tội Ác của Đế Quốc Mĩ, Phái Thực Dân Pháp phản Hiệp Định và Bè Lũ Ngô Đình Diệm Trong Âm Mưu Cưỡng Ép và Dụ Dỗ Đồng Bào Di Cư ở Việt Nam [Crimes of the American Imperialists, French Colonialist Betrayers of the Treaty, and the Ngô Đinh Diem Clique in Their Plot to Force and Seduce Our Vietnamese Compatriots to Transmigrate] (Hà Nội: Bộ Tuyên Truyền, 1955).
[9] Gheddo, Cross and the Bo Tree, 70–77.
[10] Bernard Fall, The Two Viet-Nams: A Political and Military Analysis (New York: Frederick A. Praeger, 1962), 154.
[11] Xem, chẳng hạn phiên tòa về các linh mục và giáo dân mô tả trongt Bản buộc tội của Công Tố Viên tòa án Nhân dân Liên khu IV về Vụ án bọn phản động ở Hưng Yên [The Indictment of the Prosecutor at the People’s Court, Zone IV, Concerning the Trial of the Reactionary Gang at Hưng Yên] (Vinh: Tòa Án Nhân Dân Liên khu IV, 1953).
[12] Trương Bá Cần, “Người Công giáo Giáo phận Vinh trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ [Catholics in Vinh Diocese in the Resistence Years of Opposition to France and the United States], Công Giáo và Dân Tộc [Catholicism and the Nation] 29 (May 1996): 69–128 (see 87–88).
[13] Bản buộc tội, 68. Về những người bị buộc tội, bốn bao gồm cả Đức cha Võ Việt Hiền, bị hành hình trong khi ba mươi người khác (bao gồm bốn thày tu) bị kêu án tù. Xem Trương Bá Cần, “Người Công giáo Giáo phận Vinh,” 90–91.
[14] Bản buộc tội,, 45. Sự cố này đáng chú ý vì báo cáo lấy từ nguồn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhiều lý lẽ viện ra về sự ngược đãi và bạo hành chống Công giáo ở Liên Khu IV đến từ những người Bắc di cư Công giáo cũ của giáo phận Vinh. Xem: Joseph Minh, The Tragedy of Vinh, June 1959, Số mục: 1332022, Vietnam Virtual Archive, Texas Tech University, www.virtualarchive. vietnam.ttu.edu/starweb/virtual/vva/servlet.starweb (accessed March 13, 2006); Bùi Đức Sinh, Giáo Hội Công Giáo, 3: 246n5. Trương Bá Cần cũng nêu một số sự cố khác về sự thù địch Việt Minh–Công giáo trong giáo phậnVinh. Xem: Trương Bá Cần, “Người Công giáo Giáo phận Vinh” 91–93.
[15] Tháng Mười 2003, tôi làm cuộc nghiên cứu thực địa về giáo phận Phát Diệm như một cuộc thăm viếng nghiên cứu ở Viện Nghiên Cứu Tôn Giáo, một phân viện của Trung Tâm Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Quốc Gia. Tôi đã phỏng vấn hai mươi sáu giáo dân Công giáo già trong bốn xứ đạo đã sống qua thời di cư. Tiếc thay, tôi đã không được phép phỏng vấn bất kỳ linh mục nào trong loạt bài phỏng vấn ấy. Tôi cũng đã tiến hành nhiều cuộc phỏng vấn trong các vùng Bắc di cư ở miền Nam, nhưng đó không phải là nghiên cứu thực địa chính thức và không được ghi âm tại chỗ.
[16] Lê Xuân Khoa cũng đưa ra lý do này, Việt Nam 1945–1994, 1:242. các trung đội Công giáo từ Phát Diệm và có thể nơi khác nữa, đã chiến đấu cho Pháp ở Điện Biên Phủ. Xem Windrow, The Last Valley, 426, 456. Ellen Hammer cho rằng các giám mục ngoài Phát Diệm và Bùi Chu cũng cổ động thành lập các đơn vị Công giáo tự vệ trong vùng Việt Minh kiểm soát Xem: Ellen Hammer, The Struggle for Indochina, 1940–1954(Stanford, CA: Stanford University Press, 1966), 285.
[17] Gareth Porter, The Myth of the Bloodbath, North Vietnam’s Land ReformReconsidered (Ithaca, NY: Cornell University Press, 1972), 21–23.
[18] Gareth Porter, The Myth of the Bloodbath, North Vietnam’s Land Reform Reconsidered (Ithaca, NY: Cornell University Press, 1972), 21–23.
[19] Nguyến Thế Thoại, Công Giáo Trên Quê Hương, 260.
[20] Hardy, Red Hills, 91. Một kế hoạch năm 1932 di chuyển năm mươi ngàn nông dân từ miền bắc vào miền nam đã không được thực hiện. Xem: Ralph B. Smith, Vietnam and theWest (Ithaca, NY: Cornell University Press, 1968), 132.
[21] Murti, Vietnam Divided, 83.
[22] Tôi không được phép nêu vấn đề sự hấp dẫn của Việt Nam Cộng hòa của Ngô Đình Diệm trong các cuộc phỏng vấn khi nghiên cứu thực địa, tuy nhiên, trong những cuộc trò chuyện không chính thức ở miền Nam, rõ ràng là việc xuất hiện một nguyên thủ người Công giáo ở miền Nam đã trở nên có sức hút lớn với người Công giáo miền Bắc.
[23] Một cuộc hội họp những người Bắc Việt quyết đi tìm tự do” [A Meeting of Northern Vietnamese Determined to Seek Freedom], Ánh Sáng [Light], July 28, 1954; Devillers, End of a War, 334; Lancaster, Emancipation, 343. Ngô Đình Diệm cũng thăm Hải Phòng 9, tháng Tám 1954. Xem Nguyến Thế Thoại, Công Giáo Trên Quê Hương, 2:408.
[24] Mieczyslaw Mareli, War of the Vanquished (New York: Harper & Row, 1971), 38.
[25] State Department, Geneva Conference in Retrospect, Item Number: 2410403028,Vietnam Virtual Archive, Texas Tech University, www.virtualarchive.vietnam. ttu.edu/starweb/virtual/vva/servlet.starweb (accessed October 17, 2005), 11. Xem: Porter, Imperialism, 27. Nhiều người thượng lưu giàu có ở Hà Nội vội vã bán tài sản và lên đường vào Nam với số tiền thu được. Xem: Ernest Zaug, “End of a Crazy War: Indochina’s Morning After,” Nation, August 28, 1954, 173.
[26] Chẳng hạn ông Vũ Đinh Tân, tự quảng cáo là thầy thuốc gia truyền từ Hà Nội, cho biết phòng mạch của ông hiện mở ở phố Frère Louis ở Sài Gòn, Ánh Sáng, 9 tháng Bảy, 1954, 4.
[27] Không có báo cáo nào về câu “Đức Mẹ Đồng Trinh đã vào Nam,” một câu thường được gán cho chiến dịch của Lansdale.
[28] Do tôi phỏng vấn một nhóm giáo dân giáo phận Phát Diệm 1 tháng Mười, 2003.
[29] Do tôi phỏng vấn một nhóm giáo dân giáo phận Phát Diệm 1 tháng Mười, 2003, nhưng với một nhóm khác và từ một xứ đạo khác với nhóm nêu trong chú thích 51. Tất cả những bài dịch phỏng vấn là của tôi.
[30] Xem: Murti, Vietnam Divided, 74–79; Dalloz, War in Indo-China, 189; Haas, “Catholics under Ngo Dinh Diem,” 176–177; Gheddo, Cross and Bo Tree, 60–66.
[31] Một ví dụ là đức cha Petrus Vũ Xuân Kỷ, người sau này đứng đầu Ủy Ban Liên Lạc Những Người Công Giáo Việt Nam Yêu Tổ Quốc, Yêu Hòa Bình. Xem Vũ Xuân Kỷ, Bài nói chuyện của Linh Mục Phêrô Vũ Xuân Kỷ (Nam Định: Ban Cải Cách, 1954), 174; Stephen Denney, “The Catholic Church in Vietnam,” trong Catholicism and Politics in CommunistSocieties,” ed. Pedro Ramet (Durham, NC: Duke University Press, 1990), 273.
[32] Gheddo, Cross and the Bo Tree, 70.
[33] Fall, Vietnam Witness, 59.
[34] Tại sao các Linh Mục vào Nam? [Why Did the Priests Go South?], Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp [Our Lady of Perpetual Succor], 71 (April 1955): 101, 124.
[35] Don Luce and John Sommer, Vietnam: The Unheard Voices (Ithaca, NY: Cornell University Press, 1969), 138–140.
source: Talawas
Giải thích quyết định vào Nam
Tại sao có nhiều người miền Bắc đến thế đã tận dụng cơ hội để vào Nam trong những năm 1954-1955? Mặc dầu câu hỏi này gây ra bao cuộc tranh cãi, rất ít tác giả nói về nó sử dụng chứng cứ lấy từ chính Bắc di cư. Khi những chứng cứ như thế được khảo sát, nó chứng minh rằng những quyết định của người di cư được hình thành bởi hỗn hợp nhiều tầng các động cơ bên trong và các ảnh hưởng bên ngoài. Do đó bức tranh nổi lên từ chứng cứ này phức tạp hơn nhiều so với trí suy xét thông thường của người chép sử cho phép hình dung.
Một lý thuyết được lan truyền rộng rãi về cuộc di cư 1954-1955 nhấn mạnh vào những hoạt động chiến tranh tâm lý của Đại tá Lansdale và CIA[1]. Từ lâu người ta biết rằng Lansdale và thuộc hạ của ông ta Lucien Conein tiến hành một chiến dịch chiến tranh tâm lý để động viên cư dân người Bắc – đặc biệt người Công giáo – chuyển vào nam. Truyền đơn được rải từ máy bay, các nhà chiêm tinh được yêu cầu soạn những cuốn lịch dự báo số phận thảm khốc của lãnh đạo cộng sản và những người dưới quyền họ, và tiếng đồn kinh hoàng về những kế hoạch của Việt Minh được phát tán rộng rãi[2]. Khi một tỉ lệ lớn cư dân Công giáo đã di cư vào Nam, một số nhà bình luận cho rằng chiến dịch của Lansdale là nguyên nhân chủ yếu. Lý thuyết này là phần chính trong ý kiến của các nhà báo và học giả về các sự kiện 1954-1955, và hiện nay nó vẫn còn ảnh hưởng ở một số vùng. Chẳng hạn một nhà sử học gần đây mô tả những cố gắng của Lansdale như “một trong những chiến dịch tuyên truyền táo bạo nhất trong lịch sử hoạt động gián điệp” Theo học giả này, những áp phích và khẩu hiệu mà nhóm Lansdale nghĩ ra: “Chúa Giê-xu đã đi Nam” hay “Đức Mẹ đã rời khỏi miền Bắc” có những ảnh hưởng quyết định đến suy nghĩ của những người Công giáo Việt Nam bình thường”[3].
Tất nhiên khẳng định như thế dựa trên một giả định khá trịch thượng rằng Bắc di cư ra đi là vì họ mê tín và dễ bị lừa bởi những mánh khóe và mưu mô đơn giản đến vậy – một giả định dường như đã xuyên tạc rất nhiều những báo cáo ban đầu về cuộc di cư.[4] Bản thân Lansdale tỏ ra hoài nghi hơn nhiều người phê bình ông về những thắng lợi được khẳng định không qua chứng minh về các cố gắng của ông. Như sau này ông nhận xét trong một cuộc phỏng vấn: “Người ta không đơn giản nhổ rễ bản thân mình đi trồng ở chỗ khác chỉ vì những khẩu hiệu. Họ thật sự sợ những gì có thể xảy đến cho họ, và những tình cảm ấy đủ mạnh để vượt qua sự gắn bó với đất đai, nhà cửa, mồ mả tổ tiên của họ. Như vậy thế chủ động phần lớn là của họ, và chúng tôi chủ yếu chỉ làm cho cuộc chuyển vận trở nên có thể thực hiện được.”[5]
Mỉa mai thay, phát biểu đầu tiên về “lý thuyết chiến tranh tâm lý” trong cuộc di cư những năm 1954-1955 không phải do Lansdale và những người ủng hộ ông ta đưa ra, mà bởi các quan chức cộng sản miền Bắc Việt Nam.[6] Theo khẳng định của các quan chức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau năm 1955 và sau đó được các nhà báo nước ngoài có cảm tình đưa tin lại, thì cuộc di cư ồ ạt của Bắc di cư vừa vô lý vừa không có chủ tâm.[7] Trong những phân tích của họ về cuộc di cư, nhà cầm quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thường xuyên nêu một câu nói đã thành công thức “Đồng bào bị cưỡng ép và dụ dỗ”. Sự cưỡng ép và dụ dỗ được nói là do Đế quốc Mỹ và bè lũ Ngô Đình Diệm thực hiện.[8]
Một thuyết khác cho rằng động cơ di cư chủ yếu có bản chất tôn giáo. Như một tác giả Công giáo Italia, Piero Gheddo diễn đạt, “Họ ra đi là để bảo vệ đức tin”.[9] Mới thoạt nhìn, thuyết này có vẻ dựa trên một cơ sở chứng cứ đáng tin cậy hơn so với thuyết đầu. Nhiều người Bắc di cư thật sự sợ rằng khả năng hành đạo của họ có thể bị cắt bớt dưới chế độ cộng sản, hơn nữa, nỗi sợ này có cơ sở trong kinh nghiệm trước đó của nhiều cộng đồng Công giáo miền Bắc. Vào năm 1954, nhiều giáo dân già vẫn còn nhớ những cuộc xung đột hung tàn giữa giáo và lương xảy ra vào cuối thế kỷ mười chín. Như vậy sự thù hằn giữa giáo hội và Việt Minh đã làm thức dậy nỗi sợ của người Công giáo đối với những chiến binh người lương giết chóc và tàn phá, bị kích động bởi quyền lực trung ương thù địch. Đối với nhiều người Công giáo, ra mặt chống lại mối đe dọa đã được nhận biết về khủng bố là điều kiện tiên quyết và là cách xử sự rõ ràng thiết thực nhất, và cái đó đâu cần phải học từ người ngoài. Như Bernard Fall diễn tả “người Công giáo Bắc kỳ bỏ chạy vì họ đã có kinh nghiệm lâu dài nằm trong tay những người đồng bào không theo đạo của mình, chứ không phải vì chiến dịch chiến tranh tâm lý.”[10]
Đối với nhiều người Công giáo ở miền Bắc sống ở vùng Liên Khu IV, từ Thanh Hóa đến Quảng Bình, là vùng nói chung dưới quyền kiểm soát hiệu quả của Việt Minh, từ năm 1945 trở đi, những sự kiện gần đây dường như đã xác nhận những bài học lịch sử này. Những người Công giáo này đã trải qua những tòa án hình sự của Việt Minh, những cuộc hành hình, bỏ tù những cha cố Công giáo và những nhà lãnh đạo thế tục, những sự kiện như thế khiến một số người lo sợ cho tự do tín ngưỡng của họ, thậm chí cho mạng sống của họ trên cơ sở họ có thể bị rơi vào nghi ngờ và khủng bố, khi mọi sự kháng cự đối với Việt Minh chấm dứt.[11] Chẳng hạn Phạm Tuyên, lãnh đạo đầu tiên của Liên đoàn Công giáo giáo khu Vinh, bị hành hình sau khi bị một tòa án nhân dân kết án ngày 25 tháng Giêng 1951[12]. Và một trường hợp gây lo lắng hơn khi ba mươi tư thành viên của Liên đoàn Công giáo, bao gồm ít nhất hai giáo sĩ, bị kết tội hoạt động như thành viên của tổ chức phản động “Gây ra tinh thần chống đối chính phủ và kháng chiến, và phổ biến những tuyên truyền bí mật trong giáo dân” và xúi giục trốn thuế nông nghiệp[13]. Trong số những lý lẽ được viện ra để chống lại họ, là họ đã tung tin đồn rằng hai người Công giáo địa phương chết trong cuộc bắt giữ của Việt Minh sau một phiên tòa năm 1950 đã chết cho niềm tin của họ (Tử vì Đạo), một luận điệu có sức lôi kéo mạnh đối với một cộng đồng mà di sản tôn giáo quốc gia chủ yếu dựa quanh những câu chuyện kể về tử vì đạo.[14]
Tuy nhiên, những lo lắng về tự do tín ngưỡng, mặc dầu không nghi ngờ gì là rất nổi bật trong số Bắc di cư, bản thân chúng không đủ để giải thích cuộc ra đi ồ ạt. Mặc dầu hàng trăm ngàn người Công giáo lựa chọn ra đi, một số lớn hơn lựa chọn ở lại, tuy họ vẫn biết có sự bất hòa giữa Giáo hội và Việt Minh. Ngược lại, trong khi bảy mươi lăm phần trăm những người di cư là Công giáo, số còn lại thì không, một sự kiện tự nó có ý nghĩa là gợi ý rằng Bắc di cư có thể đã bị lôi kéo bởi tính đa dạng của các mối lo ngại và các động cơ. Nỗi lo âu về tự do tôn giáo chỉ là một trong rất nhiều nhân tố thúc đẩy đối với Bắc di cư được khẳng định bởi cuộc phỏng vấn nghiên cứu thực địa mà tôi thực hiện với những người Công giáo đủ già để nhớ được những sự kiện hồi 1954-1955.[15]
Nhiều người Công giáo miền Bắc được phỏng vấn kể với tôi rằng gia đình họ có liên hệ với quân đội Pháp hoặc với Lực lượng Tự vệ của Giám mục Lê Hữu Từ ở Phát Diệm.[16] Vì những mối liên hệ này, họ sợ sự trả thù, là điều thường xảy ra đối với người thua trận sau khi xung đột quân sự kết thúc. Những người cung cấp tin khác nêu nỗi sợ bị tịch thu ruộng đất, nhiều địa chủ nhỏ sống ở Phát Diệm kể là đã nghe nói về chiến dịch cải cách ruộng đất trong những vùng do Việt Minh kiểm soát ở Liên Khu IV và hậu quả của nó đối với các địa chủ, đặc biệt là người Công giáo[17]. Cái viễn cảnh lao động khổ sai và thuế nông nghiệp nặng nề đánh trên các địa chủ, một lần nữa lại dựa trên các câu chuyện về những sự việc xảy ra trong vùng Việt Minh kiểm soát, cũng gây ra những lo lắng lớn[18].
Điều thú vị là không có người trả lời phỏng vấn nào đã từng thấy một truyền đơn, áp phích tuyên truyền hay bất kỳ tài liệu nào khác ủng hộ việc đi vào Nam. Một người được phỏng vấn thừa nhận có đọc được một tờ truyền đơn, nhưng không nhớ nổi nó nói gì. Ông khẳng định rằng nó không ảnh hưởng đến quyết định của ông, hoặc quyết định của những người trong gia đình ông lựa chọn ra đi. Trong số những người trả lời phỏng vấn không ai nhớ đã bị hối thúc ra đi bởi những người ngoài vùng quê của họ.
Nhiều người được phỏng vấn nói về những mối quan tâm lo lắng của họ về những mối ràng buộc với ruộng vườn hoặc mồ mả ông cha, những nỗi lo lắng thường được nói lên như nhân tố can ngăn họ đừng ra đi. Nhưng dù cho những mối liên hệ như vậy là rất mạnh, chúng cũng không nhất thiết ngăn được họ khỏi ra đi. Nhiều người được phỏng vấn còn ở lại giáo khu Phát Diệm than phiền rằng gia đình họ đã phải quyết định chia lìa, với hy vọng rằng những người ở lại có thể giữ được ruộng đất dưới chế độ mới. Một chiến lược như thế phù hợp với mong đợi phổ biến trong số Bắc di cư rằng sự rời bỏ quê hương của họ chỉ là tạm thời, và họ sẽ sớm đoàn tụ với gia đình mà họ bỏ lại ở miền Bắc. Chạy trốn vào Nam để tránh đàn áp tôn giáo hay các khó khăn khác không hề là hiện tượng chưa có tiền lệ trong lịch sử Công giáo Việt Nam. Chẳng hạn trong mấy thập kỷ đầu của thế kỷ hai mươi, Tổng Giám mục Mossard của Sài Gòn đã đón rước những người Công giáo miền Bắc, đặc biệt là từ Vinh vào miền Nam lập ra những thôn làng mới trên vùng đất hoang[19]. Một đoàn người khác rời địa phận Bùi Chu vào những năm 1920 để tái định cư tại vùng Cao nguyên miền nam[20]. Vào cuối những năm 1940 vẫn còn những người khác rời miền Bắc vào tái định cư tại miền Nam, như là để đối phó với nạn đói trong những năm 1944-1945, hay vì sợ Việt Minh, hay đơn giản chỉ là để kiếm việc làm[21]. Như vậy, tìm nơi trú ẩn ở miền Nam và không phải là một ý tưởng lạ lùng hay chưa nghe nói đến trong số những người Công giáo. Nỗi sợ của những người ra đi 1954-1955 tăng lên không phải chỉ vì chiến dịch của Lansdale hay vì thói mê tín dị đoan, mà chủ yếu vì ký ức tập thể của họ về số phận của cộng đồng Công giáo cuối thế kỷ mười chín, và vì những câu chuyện kể về những gì đang xảy ra trong vùng Việt Minh kiểm soát. Cũng có cả những nhân tố “lôi kéo” trong tính toán của những người Công giáo để quyết định có đi Nam hay không. Việc bổ nhiệm Ngô Đình Diệm, một người Công giáo có quê nằm ở bắc vĩ tuyến mười bảy – làm lãnh tụ mới của chế độ Sài Gòn tháng Sáu năm 1954 đã cổ võ nhiều người Công giáo miền Bắc nếu không có thể đã phải miễn cưỡng ra đi[22].
Mặc dầu Ngô Đình Diệm không phải là người ở các trung tâm Công giáo Bùi Chu hay Phát Diệm và thường xuyên bất hòa với hàng giáo phẩm của những giáo khu này về vấn đề hợp tác với chính phủ Bảo Đại và Pháp trước 1954, nhiều người Bắc di cư vẫn quay về với Ngô Đình Diệm với hy vọng rằng tôn giáo của họ và các quyền lợi khác sẽ được bảo vệ tốt nhất bởi người đồng đạo. Ngô Đình Diệm chăm chỉ vun xới hình ảnh của bản thân như một cứu tinh của những người đang có ý định ra đi, đã ra Hà Nội nhiều lần trong mùa hè và mùa thu năm 1954, để kêu gọi nhân dân ở đấy hãy đi theo ông ta vì một nước Việt Nam tự do trong vùng không cộng sản[23].
Nhiều người Công giáo cảm thấy buộc phải rời miền Bắc vì những lý do rất ít hay không liên quan gì đến Công giáo. Mặc dầu không khắc nghiệt và trên diện rộng như nạn đói 1945, ở miền Bắc 1954 nhiều vùng rõ ràng bị thiếu lương thực, và có vẻ nhiều người di cư rời bỏ miền Bắc một phần vì họ sợ nạn đói đã tàn phá địa phương của họ một thập niên trước đó có thể trở lại[24]. Những nỗi lo âu của họ về viễn cảnh tương lai ở miền Bắc đôi khi củng cố thêm nhận thức của họ về cơ hội ở miền Nam, đặc biệt vùng Sài Gòn Chợ Lớn. Nhiều thành viên tầng lớp trung lưu thành thị ở Hà Nội có lý do để tin rằng họ có thể tìm thấy cơ hội kinh doanh hay công việc chuyên môn ở thủ đô miền Nam – chính xác là những loại cơ hội chẳng bao lâu sẽ rất khó tìm thấy ở Hà Nội[25]. Các trang báo Sài Gòn giai đoạn 1954-1955 đầy rẫy những quảng cáo của các doanh nghiệp miền Bắc đã chuyển vào Nam[26]. Đối với những người miền Bắc khác, quan hệ với họ hàng ở miền Nam khiến cho viễn cảnh di chuyển thành lời mời gọi hấp dẫn. Cuối cùng, ý tưởng về di cư vào Nam cũng là một lời mời gọi cực kỳ đáng chú ý với những cư dân nghèo hơn của các cộng đồng Công giáo miền Bắc. Đối với những cố nông (lao động nông nghiệp không ruộng đất) và những người khác sống bên lề kinh tế xã hội của các xã hội nông thôn miền bắc, việc chuyển vào Nam ít ra cũng hứa hẹn khả năng có cuộc sống sung túc hơn.
Điều này không có nghĩa rằng những quyết định của người Bắc di cư những năm 1954-1955 được tạo ra trong một khoảng chân không chính trị và xã hội, hoặc rằng dân Công giáo không bị tác động bởi những cố gắng của những người cổ vũ họ ra đi hay ở lại. Tuy nhiên, nổi bật nhất trong những cố gắng này không phải là chiến dịch của Lansdale hay của các lãnh đạo của chế độ mới ở miền Nam. Đối với nhiều người Công giáo ở nông thôn miền Bắc, các quyết định về di cư được hình thành trên hết bởi lời nói và việc làm của các cha cố trong xứ đạo của họ.
Vai trò và tác dụng của giới tăng lữ Công giáo
Trong nhiều xã hội Công giáo ở nông thôn miền Bắc, các cha cố đã từ lâu đóng vai trò dẫn dắt cả phần đời (cuộc sống xã hội) lẫn phần đạo (cuộc sống tâm linh). Bởi vậy không có gì đáng ngạc nhiên rằng những cha cố này thường có những quyết định tới cả cá nhân lẫn cộng đồng về di cư trong thời kỳ sau khi ký Hiệp định Geneva. Cư dân của những giáo khu miền Bắc có tỷ lệ lớn người ra đi nhớ lại các cha cố của họ đã nói như thế nào về đề tài đi hay ở trong dịp cử hành Lễ mixa ngày Chủ nhật. Những người cung cấp tin tức cũng nêu nhận xét về ảnh hưởng quyết định của những ý kiến của các cha cố. Một số linh mục diễn đạt của họ bằng những thuật ngữ lý trí, đặt trước giáo dân những lập luận chặt chẽ ủng hộ cho việc ra đi. Những vị khác khơi gợi đến những nỗi sợ chủ yếu của họ, hoặc đến những điều có thể coi là mê tín dị đoan: “Chúa không còn ở đây nữa”[27]. Còn có những vị khác không giảng giải gì hết, chỉ nói với giáo dân “Tôi sẽ đi” hoặc “Ngày mai chúng tôi đi” với mong đợi giáo dân sẽ không chần chừ gia nhập ngay vào đoàn người nam tiến. Cũng những người trả lời phỏng vấn này nói rằng họ không có cảm giác bị các cha cố lôi kéo hay qua mặt, mà bằng lòng nghe những lời giáo huấn, việc tìm đến các cha cố để xin hướng dẫn về vấn đề này là “tự nhiên”. Một số người coi là một nguồn an ủi khi có được những quyết định do những người mà họ coi là khôn ngoan hơn họ trên đường đời làm giúp cho. Một giáo dân nhớ lại: “Cha B. [linh mục của xứ đạo] đi một mình, ông ấy không nói với ai là ông ấy đi. Nhưng chúng tôi vẫn nghe theo các cha cố của chúng tôi. Khi cha B. đi, đó là tín hiệu cho những người khác thấy rằng họ cũng nên đi.”[28]
Một người khác ở giáo khu bên cạnh, quyết định ở lại miền Bắc, thì nhận xét:
“Cha K. [linh mục của xứ đạo], một sáng chủ nhật từ trên bục giảng đạo nói với giáo dân rằng Chúa đã vào Nam, [và] mọi người phải đi theo. Rất nhiều người nghe và tin. Nhưng không phải tất cả mọi người ra đi thành một đoàn duy nhất. Họ đi làm nhiều đợt, nhưng phần lớn tập hợp lại với nhau thành một giáo xứ, dưới sự lãnh đạo của linh mục của họ ở miền Nam, [ở Gia Kiệm, Quận 5]. Những lời của cha K. rằng Chúa đã đi Nam là rất quan trọng. Nhưng dù sao chúng tôi cũng sợ cộng sản. Chúng tôi đã từng có kinh nghiệm với Việt Minh; chúng tôi sợ họ. Chúng tôi đã nghe rằng Mỹ và Pháp có thể bỏ bom chúng tôi. Chúng tôi cũng nghe rằng ở miền Nam có nhiều điều tốt cho chúng tôi, ruộng đất và trâu bò. Nhưng chắc chúng tôi đã không đi nếu chúng tôi không nghĩ ở đó có nhà thờ. Một số người ở lại không tin cha K. Ông ấy luôn luôn nói với chúng tôi Chúa ở khắp mọi nơi, vậy tại sao không ở đây? Và “nếu tôi sống tôi sống, tôi chết tôi chết”. Tôi bao giờ cũng nghĩ rằng đó là do ý Chúa.”[29]
Không phải tất cả các cha cố miền Bắc đều đi Nam. Một số bị cản trở bởi những cố gắng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngăn trở và hạn chế những người có thể ra đi[30]. Những người khác thì già yếu và mệt mỏi hoặc đau ốm không kham nổi chuyến đi thường là khắc nghiệt. Lại còn một số khác liên hệ với Việt Minh và trông chờ họ trở về nắm quyền.[31] Cuối cùng, một số người đã ở lại như kết quả của một chỉ thị của các Tổng Giám mục John Dooley và Trịnh Như Khuê.
Những người được phỏng vấn quê Phát Diệm nhất trí rằng các vị chức sắc cao cấp trong hàng giám mục không có tác động trực tiếp tới thái độ hay quyết định của họ. Đối với họ, giám mục Lê Hữu Từ là một nhân vật cao xa không thể với tới, các chỉ thị của Giáo hội luôn phải được trung gian qua các linh mục của giáo xứ của họ, và chính các linh mục địa phương này là nơi họ quan tâm và tin tưởng. Điều này không phải để nói rằng các giáo sĩ cấp cao không có ảnh hưởng. Chính các giám mục là người thông báo với các linh mục của mình thái độ của Giáo hội đối với Việt Minh, các kết câu tổ chức và các tuyến thông tin liên lạc được sử dụng ở cả hai giáo khu Phát Diệm và Bùi Chu nói riêng, có nghĩa là nỗi sợ của các giám mục Lê Hữu Từ và Phạm Ngọc Chi về hậu quả có thể của việc “mất chủ quyền” trong các giáo khu của họ dễ dàng lan sang các linh mục giáo xứ của họ. Tuy nhiên, phạm vi mà sự can thiệp của các giáo sĩ cấp cao có ý nghĩa quyết định đối với việc hình thành thái độ của các linh mục là không rõ ràng. Không nên quá cường điệu ảnh hưởng của các giám mục đến các linh mục, chưa nói đến giáo dân; trong một số giáo khu mà các giám mục từ chối ra đi thì một số lớn linh mục vẫn lựa chọn ra đi (chẳng hạn Hà Nội, nơi mà quyết định ở lại của Tổng Giám mục Trịnh Như Khuê đã không ngăn được hơn một nửa số linh mục của địa phận này ra đi). Tác động của Cuộc Di cư Vĩ đại lên dân cư Công giáo ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khác nhau rất nhiều giữa các giáo khu. Ở giáo khu Hưng Hóa, chỉ có 11,8 phần trăm giáo dân di cư vào Nam; ngược lại, ở Phát Diệm, số người ra đi lên đến 72, 7 phần trăm dân cư Công giáo của giáo khu này. Có thế thấy sự khác nhau tương tự về số linh mục Công giáo ra đi, từ 88,9 phần trăm ở Thái Bình, xuống đến 28,4 phần trăm ở Hưng Hóa (Xem Bảng 1). Tuy nhiên, điều có ý nghĩa là tỉ lệ các linh mục ra đi lớn hơn tỉ lệ giáo dân trong mọi giáo khu miền Bắc. Có thể đưa ra hai lý do sau đây: Thứ nhất, các linh mục tin rằng trong trường hợp Việt Minh trả thù người Công giáo, họ hầu như chắc chắn sẽ là mục tiêu cho các cuộc trả thù. Thứ hai, sự lãnh đạo của họ trong cộng đồng giáo xứ có nghĩa là họ chịu trách nhiệm về an toàn của giáo dân, nếu họ nghĩ rằng một bộ phận lớn giáo dân có ý định ra đi, thì họ cũng nên đi để tiếp tục vai trò đứng đầu cộng đồng của họ.
Trong khi các nhân tố vật chất và an toàn giải thích sự khác biệt giữa các địa phương như nêu ở trên, các thái độ khác nhau của các giám mục miền Bắc cũng góp phần giải thích những khác biệt này. Tổng Giám mục Hà nội Joseph-Maria Trịnh Như Khuê quyết định không đi Nam, và ông ủng hộ lập trường của phái viên Tòa Thánh, Tổng Giám mục người Ailen-Columbia John Dooley, ông này tuyên bố rằng các giám mục và linh mục nên ở lại giáo xứ của mình[32]. Điều này có thể phần nào giải thích số lượng tương đối nhỏ ra đi từ Hà Nội.
Quan trọng hơn, nếu “đàn chiên” đã quyết định vào Nam, thì có thể suy ra là bổn phận của các đấng chăn chiên là phải ra đi cùng với họ. Cách thức chăn chiên của các linh mục giáo xứ bình thường được coi là có tính chất địa phương, có nghĩa là họ chăn dắt trong giáo khu của họ, thường là trong một xứ đạo mà họ được chỉ định. Nhưng với cách bố trí như vậy, sẽ nảy sinh vấn đề là làm gì trong những trường hợp bất thường, khi nhiều hoặc hầu hết giáo dân lựa chọn chuyển đi nơi khác. Vậy lúc này các nghĩa vụ có phải là ở lại đúng khu vực của mình, hay là đi theo đám con chiên mà vị linh mục đã được giao chăn dắt? Phần đông các linh mục miền Bắc chọn cách thứ hai, mặc dầu Tổng Giám mục John Dooley đã chỉ thị cho họ chọn cách thứ nhất. Nhiều linh mục quyết định từ chối Dooley chắc chắn đã bị ảnh hưởng của sự kiện là một nửa số giám mục của các giáo khu miền bắc đã chọn di cư vào Nam (Xem Bảng 2). Trên thực tế, ngoài địa phận Hà Nội, chỉ thị của các giám mục Trịnh Như Khuê và Dooley có tác dụng rõ ràng tối thiểu lên hành vi của các linh mục các xứ đạo[33]. Những linh mục ra đi được nhiều giáo dân coi như hành động vì phúc lợi của cộng đồng giáo xứ, cộng đồng này coi như bị rơi vào tình trạng nguy hiểm khi cộng sản đến. Đồng thời các linh mục ít bị cảm thấy bị thúc ép bởi những nhân tố giữ những giáo dân Công giáo bình thường ở lại miền Bắc, như những mối quan tâm về sở hữu đất đai và buôn bán hoặc gắn bó với quê nhà, với mồ mả tổ tiên. Những sự thúc ép này ít có tác động đến các linh mục Công giáo, những người thường được chỉ định đến những giáo xứ ngoài quê hương của họ.
Tạp chí khá phổ biến của dòng chúa cứu thế Mẹ Hằng Cứu Giúp [Our Lady Of Perpetual Succor] chuyển từ Hà Nội vào Sài Gòn trong thời gian di cư. Trong một bài báo xuất bản tháng Tư 1955 sau khi đã đến Sài Gòn, ban biên tập hỏi một câu hỏi tế nhị: “Tại sao các Cha đã vào Nam?” và đưa ra lời biện hộ mạnh mẽ cho những ai đã chọn con đường này:
“Chịu chết vì Chúa là một vinh dự cao quý [và như vậy là] điều đáng mong ước, nếu nhìn từ quan điểm các linh mục cá thể, nhưng nếu nhìn từ quan điểm đời sống cộng đồng của Giáo hội Việt Nam, thì việc này là một [nguồn gốc của] tai hại to lớn.
Phải cần đến mười hai năm trong trường dòng sơ hoặc cao cấp mới trở thành một linh mục, rồi linh mục đó có thể giúp được cho bao nhiêu người? Nhưng nếu họ rơi vào tay Việt Minh Cộng sản, những người sẽ lấy đi tự do [của các linh mục]. Đối với các linh mục, như vậy là không khôn ngoan, đối với giáo hội, nó là hết sức phá hoại. Ai sẽ chăm nom những con chiên lang thang? Ai sẽ gánh vác công việc đem lại đức hạnh cho Bắc Việt Nam khi hòa bình trở lại, khi nhân dân có thể lại cung kính thờ phụng Chúa?…
Nhưng chúng ta rút lui để làm gì? Chúng ta rút lui về miền Nam không phải để kiếm cái ăn cái mặc, không phải để có nhà cao cửa rộng, không phải để giành quyền cao chức trọng. Chúng ta vào Nam để bảo vệ lối sống của chúng ta, để chuẩn bị cho tương lai, để đến một ngày không xa, trên đường thắng lợi, chúng ta sẽ quay trở lại miền Bắc, để đặt Chúa lên bàn thờ, để tạo tình yêu và niềm tin nơi những người đồng bào không theo đạo của chúng ta, để dựng xây độc lập và thống nhất trong hạnh phúc và hòa bình cho toàn thể nhân dân.”[34]
Bỏ qua giọng văn khiêu khích của bài báo, nó cung cấp một cái nhìn khá thấu đáo vào thái độ của các linh mục Bắc di cư. Trước hết, các linh mục di cư đặt quyết định rời miền Bắc của họ trong cả hai bối cảnh: lịch sử Việt Nam và truyền thống tâm linh trong lịch sử đạo Công giáo.
Mặc dù biết về câu cách ngôn của Tertulian: “Máu của người tuẫn đạo là hạt giống của Giáo hội” và vai trò trung tâm của quan niệm này trong lịch sử Công giáo Việt Nam, nhiều linh mục vẫn giữ quan điểm cho rằng không nên chuốc lấy hay gây ra sự tự hy sinh như vậy. Họ biết những người tiền nhiệm của họ thường phải tìm phương kế trốn chạy hay tự vệ, và họ đã đặt bản thân dưới sự bảo hộ của Pháp, để tránh bị tiêu diệt. Từ viễn cảnh này, đối với các linh mục sẽ là vô nghĩa nếu ở lại để đối mặt với sự ngược đãi mà họ tin chắc sẽ đến với họ.
Ngoài sự viện dẫn đến các tiền lệ trong lịch sử giáo hội Việt Nam, nhiều người trong số các linh mục đi Nam đã hiểu và bảo vệ quyết định của mình phù hợp với truyền thống và thông lệ cũ hơn của đạo Cơ Đốc. Dẫn dắt đàn con chiên qua những miền đất lạ để tìm kiếm sự an định, hòa bình, và tự do thờ phụng Chúa là một chủ đề sâu sắc của kinh Thánh. Đúng như Moses dẫn dắt dân Israel đi suốt bốn mươi năm qua sa mạc (Số 14) nhiều linh mục Bắc di cư tin rằng bổn phận đấng chăn chiên của họ là phải đi cùng với giáo xứ của minh vào miền nam.
Một điều có ý nghĩa là nhiều giáo dân chọn đi vào Nam sau đó nhấn mạnh rằng quyết định của các linh mục di cư vào Nam phù hợp với nguyện vọng của giáo dân chứ không phải ngược lại. Don Luce and John Sommer đã phỏng vấn những người tham gia vào quyết định chung như thế: “Cả làng chúng tôi vào đến [miền Nam] tháng Mười, 1954. …Đầu tiên chung tôi họp làng lại, và bàn bạc nên đi hay nên ở. Một số người muốn ở lại vì họ không muốn rời bỏ mồ mả tổ tiên. Tất nhiên, không ai trong số chúng tôi muốn thế, nhưng chúng tôi sợ Việt Minh. Chúng tôi bàn bạc rất lâu đến tận đêm khuya, và quyết định di cư vào Nam nơi chúng tôi biết chúng tôi sẽ được tự do theo đạo”. Ông già ngừng lại, và bây giờ chính Dương kể tiếp câu chuyện: “Ông thấy đấy, chúng tôi là người Công giáo” ông giải thích. “Việt Minh tuyên bố rằng Công giáo là tôn giáo của Pháp và của những ai ủng hộ Pháp. Mặc dầu họ còn cử người đến làng chúng tôi bảo chúng tôi có thể sống hòa bình với Việt Minh, nhưng chúng tôi không tin họ. Chúng tôi đã nghe nói quá nhiều về những trò lừa dối của họ.” “Cả những người muốn ở lại làng cũ cũng đến à?” Chúng tôi hỏi. “À vâng. Tất cả chúng tôi đều đến. Đây là quyết định của cả làng. Sau đó, cuộc ra đi thật là gian nan… Chỉ có cha Nam của chúng tôi còn giữ được tinh thần phấn khởi, mặc dù cha là người nặng gánh nhất. Vào các buổi tối, ông tập hợp chúng tôi xung quanh đống lửa để cầu nguyện[35]”
Đối với nhiều người Công giáo di cư, việc các cha cố chọn cùng đi với họ vào Nam và tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong việc trung gian cho quan hệ giữa cộng đồng với thế giới bên ngoài là đúng và tự nhiên. Cái hình mẫu của sự tôn kính đối với sự lãnh đạo của các cha cố đặc trưng cho cộng đồng Công giáo miền bắc hóa ra là một chủ đề trở lại nhiều lần trong việc tái định cư và hòa nhập của Bắc di cư vào xã hội miền Nam.
(còn tiếp)
Nguồn: Journal of Vietnamese Studies, Volume 4, issue 3, Fall 2009.
Bản tiếng Việt © 2010 Hiếu Tân
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
[1] Cecil B. Currey, Edward Landsdale: The Unquiet American (Boston: Houghton Mifflin, 1988), 158–159.
[2] Currey, Edward Landsdale; Harry Haas và Nguyễn Bảo Công, Vietnam: TheOther Conflict (London: Sheed & Ward, 1971), 22; US State Department, “The Geneva Conference: A Retrospective View,” Internal Secret Memorandum, 1957, giải mật ngày 23, tháng Tư 1979, p. 11, Item Number 2410403028, Vietnam Virtual Archive, Texas Tech University, www.virtualarchive.vietnam.ttu.edu/ starweb/virtual/vva/servlet.starweb?path=virtual/vva/virtual.web (accessed March 13, 2006); Philippe Devillers and Jean Lacouture, End of a War: Indochina 1954 (London: Pall Mall Press, 1969), 334; Wilfred Burchett, North of the Seventeenth Parallel (Hà Nội: 1957), 323–324.
[3] Seth Jacobs, America’s Miracle Man in Vietnam: Ngo Dinh Diem, Religion, Race and U.S. Intervention in Southeast Asia, 1950–1957 (Durham, NC: Duke University Press, 2004), 132–133. Trong số những tác giả khác nhấn mạnh vai trò mê tín tôn giáo trong việc di cư của người Công giáo vào Nam, xem George McT. Kahin, Intervention: How America Became Involved in Vietnam (New York: Alfred A. Knopf, 1986), 76; David G. Marr, “The Rise and Fall of ‘Counterinsurgency’: 1961–1964,” in eds. Marvin E. Gettleman et al., Vietnamand America, 204–205; Christopher J. Kauffman, “Politics, Programs and Protests: Catholic Relief Services in Vietnam, 1954–1975,” The Catholic Historical Review 91, no. 2 (April 2005): 228.
[4] Haas cho rằng “Đức Mẹ đã vào Nam” giải thích lượng di cư tăng lên từ các báo cáo của một nhà báo Pháp về Công giáo mang tượng và ảnh Đức mẹ trong chuyến di cư của họ vào Nam. Xem Haas, Vietnam, the Other Conflict, 21.
[5] Lansdale, trích dẫn trong Stanley Karnow, Vietnam, A History- Việt Nam thiên sử truyền hình (New York: Viking Press, 1984), 238. Tiểu sử Lansdale, Cecil B. Currey, trong khi những người khác đánh giá cao những cố gắng tuyên truyền của Lansdale và Conein cuối cùng thừa nhận rằng “phần lớn người Bắc không cần đến tin đồn, hay tuyên truyền lừa phỉnh, để đi Nam.” Xem Currey, Edward Landsdale, 159.
[6] Kiểu biện luận này dường như xuất phát từ Báo cáo tháng Ba 1955 của tướng Võ Nguyên Giáp gửi Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Xem Carlyle A. Thayer, War by Other Means: National Liberation and Revolution in Vietnam,1954–1960 (Sydney: Allen & Unwin, 1989), 31.
[7] Burchett, North of the Seventeenth Parallel, 323–324.
[8] Chẳng hạn xem Chống Âm Mưu Bắt-Ép Dụ Dỗ Di Dân của Đế Quốc Mĩ và Bè Lũ Ngô Đình Diệm [Oppose the Plot of American Imperialists and the Ngô Đình Diệm Clique to Force and Seduce People to Transmigrate] (Hải Phòng: Ban Tuyên Truyjn HOi Phòng, 1955); Tội Ác của Đế Quốc Mĩ, Phái Thực Dân Pháp phản Hiệp Định và Bè Lũ Ngô Đình Diệm Trong Âm Mưu Cưỡng Ép và Dụ Dỗ Đồng Bào Di Cư ở Việt Nam [Crimes of the American Imperialists, French Colonialist Betrayers of the Treaty, and the Ngô Đinh Diem Clique in Their Plot to Force and Seduce Our Vietnamese Compatriots to Transmigrate] (Hà Nội: Bộ Tuyên Truyền, 1955).
[9] Gheddo, Cross and the Bo Tree, 70–77.
[10] Bernard Fall, The Two Viet-Nams: A Political and Military Analysis (New York: Frederick A. Praeger, 1962), 154.
[11] Xem, chẳng hạn phiên tòa về các linh mục và giáo dân mô tả trongt Bản buộc tội của Công Tố Viên tòa án Nhân dân Liên khu IV về Vụ án bọn phản động ở Hưng Yên [The Indictment of the Prosecutor at the People’s Court, Zone IV, Concerning the Trial of the Reactionary Gang at Hưng Yên] (Vinh: Tòa Án Nhân Dân Liên khu IV, 1953).
[12] Trương Bá Cần, “Người Công giáo Giáo phận Vinh trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ [Catholics in Vinh Diocese in the Resistence Years of Opposition to France and the United States], Công Giáo và Dân Tộc [Catholicism and the Nation] 29 (May 1996): 69–128 (see 87–88).
[13] Bản buộc tội, 68. Về những người bị buộc tội, bốn bao gồm cả Đức cha Võ Việt Hiền, bị hành hình trong khi ba mươi người khác (bao gồm bốn thày tu) bị kêu án tù. Xem Trương Bá Cần, “Người Công giáo Giáo phận Vinh,” 90–91.
[14] Bản buộc tội,, 45. Sự cố này đáng chú ý vì báo cáo lấy từ nguồn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhiều lý lẽ viện ra về sự ngược đãi và bạo hành chống Công giáo ở Liên Khu IV đến từ những người Bắc di cư Công giáo cũ của giáo phận Vinh. Xem: Joseph Minh, The Tragedy of Vinh, June 1959, Số mục: 1332022, Vietnam Virtual Archive, Texas Tech University, www.virtualarchive. vietnam.ttu.edu/starweb/virtual/vva/servlet.starweb (accessed March 13, 2006); Bùi Đức Sinh, Giáo Hội Công Giáo, 3: 246n5. Trương Bá Cần cũng nêu một số sự cố khác về sự thù địch Việt Minh–Công giáo trong giáo phậnVinh. Xem: Trương Bá Cần, “Người Công giáo Giáo phận Vinh” 91–93.
[15] Tháng Mười 2003, tôi làm cuộc nghiên cứu thực địa về giáo phận Phát Diệm như một cuộc thăm viếng nghiên cứu ở Viện Nghiên Cứu Tôn Giáo, một phân viện của Trung Tâm Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Quốc Gia. Tôi đã phỏng vấn hai mươi sáu giáo dân Công giáo già trong bốn xứ đạo đã sống qua thời di cư. Tiếc thay, tôi đã không được phép phỏng vấn bất kỳ linh mục nào trong loạt bài phỏng vấn ấy. Tôi cũng đã tiến hành nhiều cuộc phỏng vấn trong các vùng Bắc di cư ở miền Nam, nhưng đó không phải là nghiên cứu thực địa chính thức và không được ghi âm tại chỗ.
[16] Lê Xuân Khoa cũng đưa ra lý do này, Việt Nam 1945–1994, 1:242. các trung đội Công giáo từ Phát Diệm và có thể nơi khác nữa, đã chiến đấu cho Pháp ở Điện Biên Phủ. Xem Windrow, The Last Valley, 426, 456. Ellen Hammer cho rằng các giám mục ngoài Phát Diệm và Bùi Chu cũng cổ động thành lập các đơn vị Công giáo tự vệ trong vùng Việt Minh kiểm soát Xem: Ellen Hammer, The Struggle for Indochina, 1940–1954(Stanford, CA: Stanford University Press, 1966), 285.
[17] Gareth Porter, The Myth of the Bloodbath, North Vietnam’s Land ReformReconsidered (Ithaca, NY: Cornell University Press, 1972), 21–23.
[18] Gareth Porter, The Myth of the Bloodbath, North Vietnam’s Land Reform Reconsidered (Ithaca, NY: Cornell University Press, 1972), 21–23.
[19] Nguyến Thế Thoại, Công Giáo Trên Quê Hương, 260.
[20] Hardy, Red Hills, 91. Một kế hoạch năm 1932 di chuyển năm mươi ngàn nông dân từ miền bắc vào miền nam đã không được thực hiện. Xem: Ralph B. Smith, Vietnam and theWest (Ithaca, NY: Cornell University Press, 1968), 132.
[21] Murti, Vietnam Divided, 83.
[22] Tôi không được phép nêu vấn đề sự hấp dẫn của Việt Nam Cộng hòa của Ngô Đình Diệm trong các cuộc phỏng vấn khi nghiên cứu thực địa, tuy nhiên, trong những cuộc trò chuyện không chính thức ở miền Nam, rõ ràng là việc xuất hiện một nguyên thủ người Công giáo ở miền Nam đã trở nên có sức hút lớn với người Công giáo miền Bắc.
[23] Một cuộc hội họp những người Bắc Việt quyết đi tìm tự do” [A Meeting of Northern Vietnamese Determined to Seek Freedom], Ánh Sáng [Light], July 28, 1954; Devillers, End of a War, 334; Lancaster, Emancipation, 343. Ngô Đình Diệm cũng thăm Hải Phòng 9, tháng Tám 1954. Xem Nguyến Thế Thoại, Công Giáo Trên Quê Hương, 2:408.
[24] Mieczyslaw Mareli, War of the Vanquished (New York: Harper & Row, 1971), 38.
[25] State Department, Geneva Conference in Retrospect, Item Number: 2410403028,Vietnam Virtual Archive, Texas Tech University, www.virtualarchive.vietnam. ttu.edu/starweb/virtual/vva/servlet.starweb (accessed October 17, 2005), 11. Xem: Porter, Imperialism, 27. Nhiều người thượng lưu giàu có ở Hà Nội vội vã bán tài sản và lên đường vào Nam với số tiền thu được. Xem: Ernest Zaug, “End of a Crazy War: Indochina’s Morning After,” Nation, August 28, 1954, 173.
[26] Chẳng hạn ông Vũ Đinh Tân, tự quảng cáo là thầy thuốc gia truyền từ Hà Nội, cho biết phòng mạch của ông hiện mở ở phố Frère Louis ở Sài Gòn, Ánh Sáng, 9 tháng Bảy, 1954, 4.
[27] Không có báo cáo nào về câu “Đức Mẹ Đồng Trinh đã vào Nam,” một câu thường được gán cho chiến dịch của Lansdale.
[28] Do tôi phỏng vấn một nhóm giáo dân giáo phận Phát Diệm 1 tháng Mười, 2003.
[29] Do tôi phỏng vấn một nhóm giáo dân giáo phận Phát Diệm 1 tháng Mười, 2003, nhưng với một nhóm khác và từ một xứ đạo khác với nhóm nêu trong chú thích 51. Tất cả những bài dịch phỏng vấn là của tôi.
[30] Xem: Murti, Vietnam Divided, 74–79; Dalloz, War in Indo-China, 189; Haas, “Catholics under Ngo Dinh Diem,” 176–177; Gheddo, Cross and Bo Tree, 60–66.
[31] Một ví dụ là đức cha Petrus Vũ Xuân Kỷ, người sau này đứng đầu Ủy Ban Liên Lạc Những Người Công Giáo Việt Nam Yêu Tổ Quốc, Yêu Hòa Bình. Xem Vũ Xuân Kỷ, Bài nói chuyện của Linh Mục Phêrô Vũ Xuân Kỷ (Nam Định: Ban Cải Cách, 1954), 174; Stephen Denney, “The Catholic Church in Vietnam,” trong Catholicism and Politics in CommunistSocieties,” ed. Pedro Ramet (Durham, NC: Duke University Press, 1990), 273.
[32] Gheddo, Cross and the Bo Tree, 70.
[33] Fall, Vietnam Witness, 59.
[34] Tại sao các Linh Mục vào Nam? [Why Did the Priests Go South?], Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp [Our Lady of Perpetual Succor], 71 (April 1955): 101, 124.
[35] Don Luce and John Sommer, Vietnam: The Unheard Voices (Ithaca, NY: Cornell University Press, 1969), 138–140.
source: Talawas
Peter Hansen – Bắc di cư .........(1)
Peter Hansen – Bắc di cư: Dân Công giáo tị nạn từ miền Bắc Việt Nam và vai trò của họ tại Cộng hòa Miền Nam, 1954-1959 (phần 1)
26/04/2010
Hiếu Tân dịch
Gia Kiệm, một thị trấn gần tám mươi nghìn dân, nằm cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng năm mươi ki lô mét trên đường đi Đà Lạt. Nó đáng chú ý về sự giàu có và quy củ, nhưng nét nổi bật nhất của nó là có rất nhiều nhà thờ Công giáo rải rác dọc theo đường cái, cách nhau chỉ khoảng vài trăm mét. Gia Kiệm không phải là một cộng đồng cổ. Thật ra, trước năm 1954, nó chỉ là một ngôi làng. Nhưng vào năm đó, Đức Cha Thaddeus Lê Hữu Từ đã chọn Gia Kiệm làm nơi tái định cư cho hàng ngàn dân Công giáo từ Giáo khu Phát Diệm ở miền bắc chạy vào nam. Đám con chiên của Lê Hữu Từ chẳng bao lâu đã có thêm những giáo dân từ những giáo khu khác của miền bắc, như Bùi Chu và Thanh Hóa hội nhập vào. Tên của những xứ đạo mới đến thiết lập ở Gia Kiệm gợi nhớ đến những gốc gác miền Bắc của họ: Phát Hội, Thanh Sơn, Phúc Nhạc, Ninh Phát, Kim Thượng vân vân.[1]
Ở Gia Kiệm và ở nhiều cộng đồng tương tự ở miền Trung và miền Nam ngày nay, những người Công giáo vẫn còn gắn bó với nhau không chỉ bởi tín ngưỡng chung, mà còn bởi ký ức, kinh nghiệm và quê gốc chung nữa. Khoảng giữa những năm 1950, gần một triệu người lựa chọn rời bỏ địa phương phía trên vĩ tuyến mười bảy, thực tế là quay lưng lại với chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Hồ Chí Minh. Ngược lại, họ chọn nơi trú ẩn tại lãnh thổ chẳng bao lâu trở thành Việt Nam Cộng hòa, một chế độ do người lãnh đạo theo Công giáo là Ngô Đình Diệm đứng đầu.
Việc tái định cư của những người di cư này và sự hòa nhập của họ vào xã hội miền Nam trở thành một trong những nhiệm vụ cấp bách mà chính quyền Ngô Đình Diệm phải đương đầu, trong những năm tháng cầm quyền đầu tiên. Cuộc di chuyển ồ ạt của những người miền Bắc được miền Nam biết đến như là Cuộc Di cư Vĩ đại [Great Transmigration], và những người di cư được gọi là Bắc di cư Năm mươi tư [Northern Refugees from Fifty-four] hay là Bắc di cư.
Vào thời điểm họ đến miền Nam, địa vị chính trị và xã hội của Bắc di cư được đánh giá chủ yếu dựa vào quan hệ của họ với chính quyền Ngô Đình Diệm. Việc người Công giáo miền Bắc di cư có mặt quá đông trong trong quân đội Việt Nam Cộng hòa và bộ máy dân sự, giới học giả và đời sống nghề nghiệp của miền Nam, chưa nói đến các giới thân cận trong nội bộ của chế độ Ngô Đình Diệm, hầu như luôn luôn là một chủ đề chính trong mọi cuộc thảo luận về vai trò của Bắc di cư ở miền Nam sau 1954[2]. Vì sự có mặt đông đảo này ảnh hưởng sâu sắc đến tiến trình chính trị của Việt Nam Cộng hòa cả trong và sau thời kỳ Ngô Đình Diệm, nên không có gì đáng ngạc nhiên rằng các học giả và những nhà bình luận khác đã tập trung quá nhiều vào khía cạnh này của cuộc di cư 1954-1955.
Tuy nhiên, quan điểm này đối với lịch sử của Bắc di cư là khó hiểu về nhiều mặt. Trước hết, nó quá thường xuyên coi những người Bắc di cư như những nhân vật thụ động hơn là những người tích cực chủ động trong việc quyết định số phận của chính mình. Trong những truyện lịch sử, họ được miêu tả như những kẻ khốn khổ phụ thuộc vào ý muốn ngẫu hứng của những người khác – những người khác như Đại tá Edward Lansdale của CIA, hay Ngô Đình Diệm và những thành viên trong gia đình ông ta. Trong những truyện này, người Công giáo lúc đầu bị lôi kéo rời bỏ quê hương của họ ở miền Bắc để vào Nam, rồi sau đó bị biến thành con đê chắn sóng được dựng lên nhằm bảo vệ chế độ Sài Gòn chống lại các nguy cơ bên trong và bên ngoài. Theo quan điểm này, Bắc di cư chỉ thực thi một lực nhỏ quý báu trong việc hình thành số phận của họ và, hầu như không chú ý gì đến cách họ xoay sở và theo đuổi những chương trình chính trị, xã hội và tôn giáo riêng của họ. Nhìn nhận Bắc di cư mà chỉ xét đến tác động của họ lên chính trị Việt Nam Cộng hòa thì chỉ là tập trung vào một khía cạnh trong lịch sử sau 1954 của họ, mà bỏ qua những khía cạnh đáng chú ý khác. Ngay cả lịch sử Đạo Thiên Chúa Việt Nam thế kỷ 20 được viết trong tầm nhìn Công giáo cũng hầu như không nói được về tác động của Bắc Di cư đến đời sống Công giáo và văn hóa ở miền Nam. Cứ như thể những dính líu bên trong của phong trào Bắc di cư đối với lịch sử Công giáo miền Nam là một chủ đề không thích hợp cho diễn ngôn lịch sử. Các nhà sử học của Giáo hội Việt Nam đã thảo luận tường tận những căng thẳng giữa các nhà truyền giáo Pháp với người Công giáo “bản xứ” Việt Nam vào đầu thế kỷ hai mươi, cũng như cuộc xung đột lâu dài và phức tạp giữa giáo hội Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tuy nhiên, các học giả này đã không chú ý hoặc chú ý rất ít đến những quan hệ nội bộ lục đục và không kém phần phức tạp trong giáo hội miền Nam thời kỳ Việt Nam Cộng hòa[3]. Chẳng hạn bạn đọc muốn tìm kiếm trong các tác phẩm lịch sử Giáo hội này những cuộc thảo luận về những vấn đề như tác động của sự vượt trội về số lượng những người di cư miền Bắc trong giáo hội miền Nam sẽ hoài công vô ích.
Những đề tài khác chưa được động tới bao gồm quan hệ giữa hệ thống cấp bậc của giáo hội miền Nam với các cha cố mới từ miền Bắc vào, hậu quả của việc những cha cố này gia nhập hệ thống nói trên, và ảnh hưởng của quan hệ qua lại hằng ngày giữa người Công giáo miền Bắc và miền Nam, là cái tạo nên đời sống giáo dân của cả hai nhóm trong những năm sau 1954. Tất nhiên, việc thảo luận những vấn đề như thế có thể không phù hợp với mục đích giáo huấn của các tác giả do giáo hội bảo trợ. Nhưng ở nhiều phương diện, những câu hỏi nảy sinh từ những vấn đề ấy dường như hiện nay thậm chí càng cấp bách hơn, chính bởi vì trước đây chúng đã bị bỏ qua.
Tiểu luận này nhằm khảo sát Bắc di cư – nguồn gốc của họ, sự tái định cư của họ, một số hậu quả của sự hiện diện của họ đối với phần còn lại của xã hội miền Nam trong những năm đầu sau Cuộc Di cư Vĩ đại. Tại sao trong những năm 1954-1955 có nhiều người rời bỏ miền bắc đến thế? Tại sao người Công giáo chiếm một tỷ lệ lớn như vậy trong số những người ra đi? Tại sao nhiều người trong số họ như vậy tái định cư xa rời khối dân cư “bản địa” miền Nam? Hình mẫu chia tách này đã được thực hiện như thế nào? Và việc hội nhập của Bắc di cư vào xã hội miền Nam có những tác động gì? Trong việc nêu lên những câu hỏi này, tôi bác bỏ hai cách hiểu sai về Bắc di cư. Một là, tôi thách thức cái quan điểm cho rằng việc có nhiều người Công giáo đến thế ra đi khỏi miền Bắc phần lớn hay hoàn toàn do những cố gắng của CIA hay các cơ quan chính phủ khác của Hoa Kỳ. Hai là, tôi thách thức điều khẳng định rằng sự tái định cư của người Công giáo miền Bắc ở trong và xung quanh Sài Gòn là do chính sách có chủ ý và có tính chiến lược do Ngô Đình Diệm chủ mưu. Trong cả sự bỏ chạy của họ khỏi miền Bắc và trong những cuộc đời mới mà họ tạo lập cho mình ở miền Nam, người Bắc di cư bình thường hoàn toàn không thụ động và thiếu phương hướng.
Địa lý lịch sử của Công giáo Việt Nam
Nhiệm vụ hòa nhập Bắc di cư vào Việt Nam Cộng hòa mới ra đời không phải chỉ là trách nhiệm của chính phủ Ngô Đình Diệm. Trước tình hình đại đa số những người mới đến là dân Công giáo, giáo hội miền Nam cũng phải đối phó với những thử thách vốn có trong việc đồng hóa một tập đoàn giáo dân còn lớn hơn bản thân giáo hội miền Nam. Vào thời gian Hiệp định Geneva 1954, có khoảng 1.900.000 tín đồ Công giáo ở Việt Nam, trong đó chỉ có 520.000. hay 27,4 phần trăm, sống trong hai tỉnh của giáo hội miền Nam là Sài Gòn và Huế. Ngược lại, vào cuối Cuộc Di cư Vĩ đại, các tỉnh này là nơi sinh sống của gần 1.700.000 dân Công giáo Việt Nam (61,6 phần trăm)[4].
Các khó khăn trong việc đồng hóa số lượng khổng lồ giáo dân Bắc di cư lại càng tồi tệ hơn bởi họ thừa kế một văn hóa giáo hội hoàn toàn khác với văn hóa ở miền Nam. Sự phân chia ranh giới giữa miền Bắc (Đàng Ngoài) và miền Nam (Đàng Trong) là một chủ đề diễn đi diễn lại trong lịch sử Việt Nam, và hiện tượng này cũng rõ ràng trong lịch sử và văn hóa Công giáo Việt Nam. Khi Hồ Chí Minh tuyên bố Việt Nam là một nước thống nhất vào tháng Chín 1945, người Công giáo trong các vùng miền khác nhau của Việt Nam tán thành các truyền thống địa phương đặc biệt, các văn hóa, các tự sự lịch sử và các cấu trúc xã hội.
Bên trong giáo hội Công giáo chung, thời kỳ đầu của thực dân Pháp ở Việt Nam trùng với một thái độ thù địch và nghi ngờ đối với những tín ngưỡng khác, thái độ này đặc biệt rõ ràng trong các nhiệm kỳ Giáo Hoàng Piux IX (1846-1878) và Pius X (1903-1914). Trong thế giới quan này, những người Cơ Đốc giáo phải được bảo vệ khỏi xã hội phi- Cơ Đốc, đừng để cho họ rơi vào thói tục vô đạo. Những người mới cải đạo (Neophytes) trong các vùng đất truyền giáo được coi là đặc biệt dễ bị tấn công bởi nguy cơ này, ngay cả khi gia đình của họ đã theo đạo Cơ Đốc hàng mấy đời.
Ở miền Bắc, chủ nghĩa biệt lập tôn giáo này còn tồi tệ hơn vì nỗi lo sợ bị người lương (không theo Công giáo) tấn công về thể xác. Trong thế kỷ mười chín, các quan hệ lương–giáo ở miền này rất căng thẳng và thường dẫn đến bạo lực. Mặc dầu bước sang thế kỷ hai mươi, sự ngược đãi Công giáo đã chấm dứt, nhưng những ký ức còn nóng hổi ở miền nam và phần lớn miền trung, và cái mạng lưới chằng chịt các vấn đề chính trị, tôn giáo và xã hội ngay từ đầu đã gây xung đột phần lớn vẫn còn chưa được giải quyết. Thật ra, trong khi thực dân Pháp đến cai trị dẫn đến đàn áp tấn công về thể xác, thì nỗi oán giận dường như càng nặng nề hơn đối với thiểu số Công giáo vốn được coi là đồng minh của bọn thực dân áp bức.
Bởi vì việc ngược đãi Công giáo nói chung chấm dứt ở Nam kỳ vào khoảng những năm 1860, và ở Trung kỳ vào khoảng những năm 1880, những người Công giáo trong các vùng này dần trở nên quen với việc chung sống hòa bình trong các cộng đồng pha trộn với những người hàng xóm không Công giáo của họ. Ngược lại, những đồng đạo của họ ở Bắc kỳ – đặc biệt những người sống trong những giáo khu lớn như Phát Diệm hoặc Bùi Chu – sống trong các họ đạo [các tiểu giáo khu Công giáo toàn tòng] trong đó họ được cách ly khỏi mối đe dọa của thế giới bên ngoài không theo Công giáo. Trong khi những người Công giáo miền Nam dễ dàng phân biệt việc đạo với việc đời, thì đường phân giới này ở những cư dân họ đạo miền Bắc thường bị xóa nhòa. Và trong khi những người Công giáo miền Nam sẵn sàng thừa nhận rằng họ chỉ được các linh mục dẫn dắt trong các địa hạt tâm linh và tôn giáo, thì sự dẫn dắt của các cha cố trong các họ đạo miền Bắc đôi khi khoác vẻ ngoài của một thứ chính trị thần quyền toàn diện.
Tất nhiên về phương diện cùng là giáo dân Công giáo thì họ có nhiều điểm chung, và nhiều đặc điểm đã sẵn sàng được cả người miền Bắc và miền Nam thừa nhận như nhau. Hơn nữa, tất cả họ là thành viên của một Giáo hội Thiên Chúa giáo chung, nó quy định sự tương đồng trong những lĩnh vực của đời sống tôn giáo như nghi lễ, giáo lý, các phép bí tích và các cấp bậc trong giáo hội, không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới Thiên Chúa giáo. Tuy nhiên, những sự khác nhau giữa người Công giáo miền Bắc và miền Nam vẫn còn là đáng kể. Khi những thăng trầm lịch sử và chính trị của cuộc di cư 1954-1955 ném một bộ phận lớn của giáo hội miền Bắc vào chung sống ngay lập tức với đối tác của họ ở miền Nam, những khác biệt này đôi khi trở thành ức chế việc đồng hóa dễ dàng và thường là nguồn gốc của sự không hiểu được nhau. Nhiệm vụ hòa trộn những người Công giáo bản địa miền Nam với Bắc di cư thành một cơ thể giáo hội thống nhất nhất định phải lâu dài và phức tạp.
Những ai đi vào Nam?
Các hiệp định được ký kết ở Hội nghị Geneva về Đông dương ngày 20 tháng Bảy năm 1954 quy định phân ranh giới tạm thời giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam ở vĩ tuyến 17[5]. Điều 14(d) của Hiệp định quy định tự do đi lại giữa các địa phương miền Bắc và miền Nam trong thời hạn ba trăm ngày tiếp sau ngày bắt đầu của Hiệp định[6]. Vào cuối thời kỳ mở cửa này, hơn 810.000 người đã lợi dụng cơ hội để di dời từ miền Bắc vào miền Nam[7]. Hơn bảy mươi lăm phần trăm là người Thiên Chúa giáo La Mã, phần lớn, nhưng không phải duy nhất, rút ra từ hai giáo khu tập trung đông người Công giáo nhất của miền Bắc là Phát Diệm (ở tỉnh Ninh Bình) và Bùi Chu (ở tỉnh Nam định).[8] Các Giám mục của hai giáo khu này [lần lượt] là Thaddeus Lê Hữu Từ, và Piere Phạm Ngọc Chi, từ cuối những năm 1940 đã là những đối thủ gay gắt của Việt Minh. Mỗi người đã duy trì một lực lượng tự vệ thường xuyên đụng độ với các lực lượng Việt Minh. Về phía mình nhiều người trong hàng ngũ Việt Minh đã coi Giáo hội Thiên Chúa Việt Nam như một đồng minh của thực dân Pháp. Sự đối kháng lẫn nhau này đặc biệt thấy rõ ở những vùng từ lâu nằm dưới quyền kiểm soát của Việt Minh, như trung-bắc Nghệ An. Nhiều người Công giáo đã chiến đấu không chỉ cho lực lượng dân quân Công giáo mà còn trực tiếp dưới quyền chỉ huy của Pháp. Khi cuộc nổi dậy của Việt Minh đã rõ ràng thắng lợi ở miền Bắc, nhiều người Công giáo sợ bị trả thù, sẵn sàng rời bỏ miền Bắc. Cuộc di chuyển lớn của người Công giáo đã bắt đầu ngay khi những tin tức của Hiệp định Geneva và những điều khoản chuyển quân của nó được công bố. Thật ra, cuộc bỏ chạy của người Công giáo từ các làng xã trên khắp bắc bộ và bắc trung bộ đã bắt đầu từ trước khi công bố Hiệp định Geneva[9]. Sau thất bại của các lực lượng Pháp ở Điện Biên Phủ ngày 7 tháng Năm 1954, các chỉ huy quân đội Pháp lựa chọn di tản các lực lượng của họ khỏi các giáo khu Phát Diệm và Bùi Chu để củng cố hành lang chủ yếu do họ kiểm soát từ Hà nội đến Hải Phòng[10]. Phần lớn thường dân Công giáo của các vùng này, vốn không được báo trước về sự rút lui của quân đội Pháp, bỗng nhiên thấy mình đứng trước con đường tiến quân của Việt Minh. Những chỉ thị về rút quân được gửi từ chỉ huy cấp cao của Pháp đến chiến trường vào ngày 15 tháng Sáu 1954, hơn một tháng trước khi kết thúc các cuộc đàm phán ở Geneva[11]. Cuộc chuyển quân của Pháp rất bí mật, nhưng các chức sắc giáo hội rõ ràng đã biết về nó gần như tức khắc, đúng chỉ trong thời gian hai tuần đó mà các giám mục Lê Hữu Từ và Phạm Ngọc Chi đã [lần lượt] rời Phát Diệm và Bùi Chu[12]. Vào thời gian kết thúc Hội nghị Geneva, đã có hai mươi lăm ngàn người Công giáo tị nạn tại Hà Nội, mười lăm ngàn ở Hải Phòng, và năm ngàn ở Hải Dương[13].
Ngoài những người tị nạn từ trung tâm Công giáo, còn những người Công giáo từ các vùng bắc và tây Hà Nội, bắt đầu đến các trụ sở Công giáo ở thủ đô[14]. Ở miền trung, cư dân của các cộng đồng Công giáo ở bắc địa phận Huế (nằm ở các tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị) đã bắt đầu chuyển đến thành phố Huế và vùng lân cận phía nam trước khi Việt Minh tiến đến[15].Những cuộc di chuyển này bắt đầu thậm chí trước khi hiệp định được ký; tuy nhiên, ở các địa phương khác trên miền Bắc, đặc biệt những nơi mà người Công giáo chiếm một tỷ lệ nhỏ hơn trong tổng số dân cư, thì sức thúc đẩy di chuyển vào nam cho đến cuối tháng Bảy 1954 không mạnh.
Những số liệu chính thức của Việt Nam Cộng hòa biên soạn tháng Mười 1955 cho thấy rằng những người di cư từ Bắc vào Nam bao gồm 676.348 người Công giáo (76,3 phần trăm toàn bộ Bắc di cư), 209.132 Phật giáo (23.5 phần trăm), và 1041 Tin Lành (0,2 phần trăm)[16]. Các phân tích của chế độ Sài Gòn không phân loại người di cư theo vùng cư trú trước đây ở miền bắc; tuy nhiên giáo hội cung cấp những ước tính về số giáo dân chạy vào Nam từ mười giáo khu Thiên Chúa nằm phía trên giới tuyến (Xem bảng 1)[17].
Bảng 1: Sự di cư của những và linh mục trong các giáo khu miền Bắc, 1954.
Giáo khu
Giáo dân Linh mục
Tổng số người ra đi % của số giáo dân di cư Tổng số người ra đi % của số linh mục di cư
Hà Nội 50.000 33,4% 115 55,6%
Hải Phòng 60.000 52,3% 79 80,6%
Vinh 57.080 31,7% 70 39,3%
Bùi Chu 150.000 71,7% 150 77,7%
Hưng Hóa 8.000 11,8% 23 28,4%
Bắc Ninh 38.000 55,9% 60 75,0%
Phát Diệm 80.000 72,7% 139 87,4%
Thanh Hóa 18.500 20,6% 64 88,9%
Thái Bình 80.000 57,1% 79a 70,6%
Lạng Sơn 2.500 50,0% 14 58,3%
_______________________________________________
a. Con số này dường như rất cao so với ước tính của Hội đồng Giám mục Việt Nam,“hơn 60.”: Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, 284. Nguồn: Lê Ngọc Bích, Nhân Vật Công Giáo Việt Nam: Các Vị Giám Mục Một Thời Đã Qua Đời (1933–1995) [Vietnamese Catholic Biography: Deceased. Bishops (1933–1995)] (HCMC, 1995); và Công Giáo và Dân Tộc [Catholicism and the Nation], Công Giáo Sau Quá Trình 50 Nam [Catholicism through a Process of Fifty Years] (HCMC: Công Giáo và Dân Tộc, 1995)
Điều 14(d) Hiệp định Geneva qui định tự do di chuyển không hạn chế qua lại nam-bắc và bắc-nam trong thời kỳ chuyển quân nói trên, và đề nghị rằng những di chuyển như thế được theo dõi và giám sát và đảm bảo được tôn trọng bởi Ủy ban Kiểm soát Quốc tế ICC (Điều 34-36) B.S.M. Murti, một ủy viên ICC sau đó nói rằng lúc đầu chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bằng lòng cho phép những người muốn rời khỏi vùng kiểm soát của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được ra đi tự do, nhưng sau đó thái độ của họ mau chóng trở nên cứng rắn vì rõ ràng có một số lượng lớn người lợi dụng cơ hội này để đi Nam[18]. Vào giữa năm 1955, có nhiều báo cáo về các trường hợp trong đó các lực lượng quân đội Việt Minh và các cán bộ hành chính Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tích cực ngăn cản, gây trở ngại cho những người có-thể-ra-đi không để họ đến các điểm xuất phát tại Hà Nội và Hải Phòng[19]. Điều đó được thực hiện thông qua một sự kết hợp giữa các lực lượng quân đội và làm rối về mặt hành chính; thẩm quyền cấp giấy phép ra đi nằm bên phía chính quyền chiếm đóng trong các vùng tương ứng của họ[20].
Hậu quả là, những người Công giáo và những người có-thể-sẽ-di-cư sống tại những giáo khu xa nhất so với các điểm xuất phát (ví dụ Hưng Hóa ở vùng tây bắc) và những người sống trong vùng từ lâu nằm dưới quyền kiểm soát của Việt Minh (như phần lớn các vùng Nghệ An và Thanh Hóa ở Liên Khu IV) gặp khó khăn lớn nhất trong việc đến được các điểm đăng ký coi như cửa ngõ vào miền Nam. Ngược lại, những người Công giáo ở Phát Diệm và Bùi Chu, nằm khá gần đường trục Hà Nội – Hải Phòng, thì có một hành trình tương đối dễ dàng hơn để đến được những nơi mà từ đó họ được trực tiếp chuyển bằng đường biển và đường hàng không vào miền Nam[21].
Tuy nhiên, những khó khăn về vật chất và hậu cần trong hành trình đến điểm xuất phát không đủ để giải thích những khác biệt to lớn về số người ra đi từ những giáo khu khác nhau[22]. Chẳng hạn tại sao các cư dân Công giáo thuộc địa phận Hà Nội, là những người khá sẵn sàng tại điểm xuất phát, lại chỉ có 33,4 phần trăm lựa chọn ra đi? Con số này ít hơn một nửa tỉ lệ những người ra đi từ Phát Diệm, họ phải cất công ra tận Hà Nội hay Hải Phòng để lên đường[23]. Sự khác biệt này có thể một phần vì thủ đô phần lớn đã tránh được chiến sự trong thời gian chiến tranh. Nó cũng phản ánh thái độ tích cực của một số cư dân Hà Nội – trong đó có cả những người Công giáo dân tộc chủ nghĩa – trước sự ra đi của người Pháp và sự kiện Hồ Chí Minh sắp trở về thủ đô.
Tuy nhiên, về sau những sự kiện như thế này không thật quan trọng trọng sự quyết định của người Công giáo so với một điều cân nhắc khác: thái độ của các cha cố ở địa phương. Đối với nhiều người Công giáo miền Bắc — đặc biệt những người sống trong các làng xã — quyết định ở hay đi phần lớn phụ thuộc vào lời nói và việc làm của các linh mục và giám mục.
(còn tiếp)
Nguồn: Journal of Vietnamese Studies, Volume 4, issue 3, Fall 2009.
Bản tiếng Việt © 2010 Hiếu Tân
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
[1] Một số cái tên như Phúc Nhạc nhắc đến giáo khu gốc của họ. Gia Kiệm không phải là duy nhất trong những năm 1954–1955, cả loạt những khu định cư mới rộng lớn, hầu như dành riêng cho Công giáo di cư như Thủ Đức, Bình Thạnh, Gò Vấp vân vân, mọc lên ở khu vực xung quanh Sài Gòn, và nhiều khu cuối cùng đã sáp nhập vào ngoại ô của nó.
[2] Điều này là chắc chắn trong những tác phẩm như Harvey Neese. John O’Donnell, Prelude to Tragedy: Vietnam, 1960–1965 (Annapolis, MD: Naval Institute Press, 2001); Robert Shaplen, (The Lost Revolution: The Story of Twenty Years of Neglected Opportunities in Vietnam and of America’s Failure to Foster Democracy There (New York: Harper & Row, 1965); và Charles A. Joiner, The Politics of Massacre: Political Processes in South Vietnam (Philadelphia: Temple University Press, 1974). Xem thêm Robert Scheer, “Genesis of United States Support for the Regime of Ngo Dinh Diem” và “Behind the Miracle of South Vietnam,” trong Vietnam and America: A Documented History, eds. Marvin E. Gettleman và những người khác. (New York: Grove Press, 1985), 118–132 và 137–153,. Joiner ít ra cũng cho cuộc trốn chạy của Bắc di cư trong lịch sử tôn giáo một tầm quan trọng nổi bật trong khi nhiều người khác coi vai trò của họ chỉ đơn giản là bị thúc đẩy bởi thái độ chống cộng quyết liệt của họ, thái độ này nảy sinh từ tư cách chính trị của họ (theo đường hướng lập luận này). Xem: Joiner, Politics of Massacre, 30, 68–69, 162.
[3] Piero Gheddo, The Cross and the Bo Tree, Charles Quinn dịch (New York: Sheed & Ward, 1968); Phan Phát Huồn, Việt Nam Giáo Sử [Vietnamese Church History], 2 tập. (Sài Gòn: Cứu Thế Tùng Thư, 1962–1965); Bùi Đức Sinh, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, 1975–2000 [The Catholic Church in Vietnam, 1975–2000] (Westminster, CA: Asian Printing, 2001); Nguyễn Thế Thoại, Công Giáo Trên Quê Hương Việt Nam [Catholicism in the Homeland, Vietnam], 2 tập. (Vietnam: self-published, 2001). Nhiều số tạp chí lịch sử của giai đoạn này do các cộng đồng người Việt phát hành cũng có ý định phác hoạ bối cảnh cuộc di cư trong luận chiến, cùng tên Phan Phát Huồn. Hơn nữa, mỉa mai thay, nhiều người trong số họ phần lớn lại dựa trên các nguồn sơ và thứ cấp ngoài Việt Nam. Một ngoại lệ đáng chú ý, xem Lê Xuân Khoa, Việt Nam 1945–1995: Chiến Tranh, Tị Nạn; Bài Học Lịch Sử [Vietnam 1945–1995: War, Refugees, Historical Lessons], 2 tập. (Bethesda, MD: Tiên Rồng, 2004). Công trình này không chỉ đề cập đến cuộc di cư một cách bình thản, mà còn dựa chủ yếu trên các nguồn tài liệu Việt Nam.
[4] Bùi Đức Sinh, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam [The Catholic Church in Vietnam] (Calgary: Veritas Press, 1998), 3:214. Tính toán chính xác khó khăn vì giáo hội Công giáo Việt Nam được chia thành ba giáo khu, trong đó một giáo khu – Huế – lại nằm trải ra cả trên và dưới vĩ tuyến mười bảy
[5] Trong khi chỉ có ý định như một biện pháp tạm thời cho đến khi tổ chức tổng tuyển cử, việc chia cắt kéo dài đến khi thành lập nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1976.
[6] Robert F. Randle, Geneva 1954: The Settlement of the Indochinese War(Princeton, NJ: Princeton University Press, 1969), 462–467.
[7] Phủ Tổng ủy Di cư Tỵ nạn (PTUDCTN) [thuộc phủ Tổng thống (PTT), File 343, Folder 4041, Phủ Tổng thống đệ Nhất Cộng hòa (PTTĐNCH) Lưu trữ Quốc gia Vietnam II, Hồ Chí Minh City (VNA-II). Không phải tất cả là người gốc Bắc, 154,400 là lính phục viên và gia đình họ. Thời kỳ di chuyển chính thức lúc đầu hết hạn ngày 15, tháng Năm 1955, nhưng sau gia hạn đến 20 tháng Bảy. Sau ngày đó, các lực lượng Pháp buộc phải rút hoàn toàn khỏi các vị trí của họ ở Hà Nội và Hải Phòng. Số rời miền Bắc tăng lên vào ngày 31, tháng Mười Hai 1955, đến 887.861. Xem PTUDCTN thuộc PTT, 21, tháng Giêng 1956, File 343, Folder 4041, PTTĐNCH, VNA-II.
[8] Khoảng 140.000 người ủng hộ Việt Minh di chuyển theo hướng ngược lại, từ Nam ra Bắc. Phái đoàn Ngô Đinh Diệm tại Hội nghị Geneva đấu tranh không thành công để tách Phát Diệm và Bùi Chu ra khỏi vùng kiểm soát của Việt Minh. Xem Bernard B. Fall, Viet-Nam Witness, 1953–1966 (New York: Frederick A. Praeger, 1966), 62.
[9] “Hàng vạn dân lánh nạn miền xuôi” [Lines of Thousands of Evacuees Head Downwards], Tiếng Chuông [Sound the Bell], July 7, 1954. Xem thêm Edgar O’Ballance, The Indo-China War, 1945–1954: A Study in Guerilla Warfare(London: Faber & Faber, 1964), 239.
[10] O’Ballance, The Indo-China War, 215; “Bùi Chu và Phát Diệm” [Bùi Chu and Phát Diệm], Ánh Sáng [Light], July 9, 1954; “Hà Nội tản cư và hồi cư” [Hà Nội Evacuees and Returnees from Evacuation], Dân Ta [Our People], July 19, 204 Hansen 1954; Martin Windrow, The Last Valley: Dien Bien Phu and the French Defeat in Vietnam (Cambridge, MA: Da Capo Press, 2006), 631.
[11] Windrow, The Last Valley, 631.
[12] “Hà Nội tản cư và hồi cư”; Joseph Buttinger, Vietnam: A Dragon Embattled,vol. 2 (London: Pall Mall Press, 1967), 1092.
[13] Lê Xuân Khoa, Việt Nam 1945–1995, 1:237–238.
[14] Donald Lancaster, The Emancipation of French Indochina (London: Oxford University Press, 1961), 343; “Một nguyện vọng của đồng bào tản cư” [An Aspiration of the Evacuees], Cải Tạo [Transformation], July 24, 1954.
[15] Lê Ngọc Bích, Nhân vật Giáo Phận Huế: Kỷ niêm 150 năm thành lập GiáoPhận Huế [Biographies from the Diocese of Huế: A Memento of 150 Years of the Establishment of the Diocese of Huế], 2 vols. (Huế: Ban Truyền Thống Giáo Phận, 2000), 2:260–261
[16] PTUDCTN thuộc PTT, 22, tháng Mười Một 1955, File 343, Folder 4041, PTTĐNCH, VNA-II. Ủy ban của Giám mục Phạm Ngọc Chi tuyên bố rằng 78.6 phần trăm Bắc di cư là Công giáo. Xem Ủy Ban Hỗ Trợ Định Cư [Resettlement Assistance Committee] (UBHTĐC), Số các làng Đình cư [A List of Resettlement Villages] (Sài Gòn: UBHTĐC, Tháng Chín 1955), 4.
[17] Tại một hội nghị 1959, cựu tổng ủy di cư Việt Nam Cộng hòa Bùi Văn Lương, ước lượng có 794.876 Công giáo trong tổng số 928.152 Bắc di cư, hay 85.6 phần trăm. Số còn lại gọi chung là “Phật giáo và Tin Lành. Xem Bùi Văn Lương, “Role of Friendly Nations,” trong Viet-nam,the First Five Years: An International Symposium, ed. Richard W. Lindholm (East Lansing: Michigan State University Press, 1959), 49. các con số do ủy ban của Phạm Ngọc Chi cung cấp có vẻ chính xác hơn.
[18] B.S.N. Murti, Vietnam Divided: The Unfinished Struggle (New York: Asia Publishing House, 1964), 74–79.
[19] Jacques Dalloz, The War in Indo-China, 1945–1954, Josephine Baker dịch (London: Gill and Macmillan, 1990), 189; Harry Haas, “Catholics in North Vietnam,” trong American Catholics and Vietnam, ed. Tom Quigley (Grand Rapids, MI: William Eerdmans, 1968), 176–177; Gheddo, Cross and Bo Tree, 60–66. Andrew Hardy nhắc lại một cuộc nói chuyện với một người ủng hộ Việt Minh ở Nam Định (Bùi Chu), trong đó ông nhớ lại các hoạt động để tích cực can ngăn các làng Công giáo di cư. Xem Andrew Hardy, Red Hills: Migrants and the State in the Highlands of Vietnam (Copenhagen: NIAS Press, 2003), 156–157.
[20] Murti, Vietnam Divided, 92.
[21]Vào 30 tháng Mười Một và 1 tháng Mười Hai, 1954, các lực lượng quân sự của chính phủ Bảo Đại đã giúp nhiều ngàn người rời khỏi vùng biển Bùi Chu, nhưng sau đó hoạt động này bị gián đoán vì những cuộc tấn công của Việt Minh tăng lên Xem Louis A. Weisner, “Vietnam: Exodus from the North and Movement to the North, 1954–1955,” Vietnam Forum 11 (Winter–Spring 1988): 220.
[22] Haas, “Catholics in North Vietnam,” 176.
[23] Cần lưu ý là một tỉ lệ lớn cư dân Công giáo ở Địa phận Hà Nội trước năm 1954 sống phần lớn ở các làng ngoại ô nhiều hơn là ở thủ đô.
Phản hồi
2 phản hồi (bài “Peter Hansen – Bắc di cư: Dân Công giáo tị nạn từ miền Bắc Việt Nam và vai trò của họ tại Cộng hòa Miền Nam, 1954-1959 (phần 1)”)
1.
Tin 26-4-2010 « BA SÀM nói:
26/04/2010 lúc 8:04 sáng
[...] Peter Hansen – Bắc di cư: Dân Công giáo tị nạn từ miền Bắc Việt Nam và vai trò… (talawas). Qua [...]
2.
Hoà Nguyễn nói:
26/04/2010 lúc 7:38 sáng
Trích:
“Những số liệu chính thức của Việt Nam Cộng hòa biên soạn tháng Mười 1955 cho thấy rằng những người di cư từ Bắc vào Nam bao gồm 676.348 người Công giáo (76,3 phần trăm toàn bộ Bắc di cư), 209.132 Phật giáo (23.5 phần trăm), và 1041 Tin Lành (0,2 phần trăm)116].
Trong một lần góp ý về số người Công giáo di cư vào Nam trong 1954-55, tôi dựa vào sách thường dẫn của GS Lê Xuân Khoa đưa ra tỷ lệ giáo dân tới 75%. Có một độc giả talawas phản đối tỷ lệ này (cho quá cao). Tôi có trả lời là tôi đọc thấy ở chỗ khác con số còn cao hơn thế. Nhưng nay, tài liệu mà bài viết này đưa ra chứng tỏ tỷ lệ đưa ra chính xác (hay gần thế).
© talawas 2009
26/04/2010
Hiếu Tân dịch
Gia Kiệm, một thị trấn gần tám mươi nghìn dân, nằm cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng năm mươi ki lô mét trên đường đi Đà Lạt. Nó đáng chú ý về sự giàu có và quy củ, nhưng nét nổi bật nhất của nó là có rất nhiều nhà thờ Công giáo rải rác dọc theo đường cái, cách nhau chỉ khoảng vài trăm mét. Gia Kiệm không phải là một cộng đồng cổ. Thật ra, trước năm 1954, nó chỉ là một ngôi làng. Nhưng vào năm đó, Đức Cha Thaddeus Lê Hữu Từ đã chọn Gia Kiệm làm nơi tái định cư cho hàng ngàn dân Công giáo từ Giáo khu Phát Diệm ở miền bắc chạy vào nam. Đám con chiên của Lê Hữu Từ chẳng bao lâu đã có thêm những giáo dân từ những giáo khu khác của miền bắc, như Bùi Chu và Thanh Hóa hội nhập vào. Tên của những xứ đạo mới đến thiết lập ở Gia Kiệm gợi nhớ đến những gốc gác miền Bắc của họ: Phát Hội, Thanh Sơn, Phúc Nhạc, Ninh Phát, Kim Thượng vân vân.[1]
Ở Gia Kiệm và ở nhiều cộng đồng tương tự ở miền Trung và miền Nam ngày nay, những người Công giáo vẫn còn gắn bó với nhau không chỉ bởi tín ngưỡng chung, mà còn bởi ký ức, kinh nghiệm và quê gốc chung nữa. Khoảng giữa những năm 1950, gần một triệu người lựa chọn rời bỏ địa phương phía trên vĩ tuyến mười bảy, thực tế là quay lưng lại với chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Hồ Chí Minh. Ngược lại, họ chọn nơi trú ẩn tại lãnh thổ chẳng bao lâu trở thành Việt Nam Cộng hòa, một chế độ do người lãnh đạo theo Công giáo là Ngô Đình Diệm đứng đầu.
Việc tái định cư của những người di cư này và sự hòa nhập của họ vào xã hội miền Nam trở thành một trong những nhiệm vụ cấp bách mà chính quyền Ngô Đình Diệm phải đương đầu, trong những năm tháng cầm quyền đầu tiên. Cuộc di chuyển ồ ạt của những người miền Bắc được miền Nam biết đến như là Cuộc Di cư Vĩ đại [Great Transmigration], và những người di cư được gọi là Bắc di cư Năm mươi tư [Northern Refugees from Fifty-four] hay là Bắc di cư.
Vào thời điểm họ đến miền Nam, địa vị chính trị và xã hội của Bắc di cư được đánh giá chủ yếu dựa vào quan hệ của họ với chính quyền Ngô Đình Diệm. Việc người Công giáo miền Bắc di cư có mặt quá đông trong trong quân đội Việt Nam Cộng hòa và bộ máy dân sự, giới học giả và đời sống nghề nghiệp của miền Nam, chưa nói đến các giới thân cận trong nội bộ của chế độ Ngô Đình Diệm, hầu như luôn luôn là một chủ đề chính trong mọi cuộc thảo luận về vai trò của Bắc di cư ở miền Nam sau 1954[2]. Vì sự có mặt đông đảo này ảnh hưởng sâu sắc đến tiến trình chính trị của Việt Nam Cộng hòa cả trong và sau thời kỳ Ngô Đình Diệm, nên không có gì đáng ngạc nhiên rằng các học giả và những nhà bình luận khác đã tập trung quá nhiều vào khía cạnh này của cuộc di cư 1954-1955.
Tuy nhiên, quan điểm này đối với lịch sử của Bắc di cư là khó hiểu về nhiều mặt. Trước hết, nó quá thường xuyên coi những người Bắc di cư như những nhân vật thụ động hơn là những người tích cực chủ động trong việc quyết định số phận của chính mình. Trong những truyện lịch sử, họ được miêu tả như những kẻ khốn khổ phụ thuộc vào ý muốn ngẫu hứng của những người khác – những người khác như Đại tá Edward Lansdale của CIA, hay Ngô Đình Diệm và những thành viên trong gia đình ông ta. Trong những truyện này, người Công giáo lúc đầu bị lôi kéo rời bỏ quê hương của họ ở miền Bắc để vào Nam, rồi sau đó bị biến thành con đê chắn sóng được dựng lên nhằm bảo vệ chế độ Sài Gòn chống lại các nguy cơ bên trong và bên ngoài. Theo quan điểm này, Bắc di cư chỉ thực thi một lực nhỏ quý báu trong việc hình thành số phận của họ và, hầu như không chú ý gì đến cách họ xoay sở và theo đuổi những chương trình chính trị, xã hội và tôn giáo riêng của họ. Nhìn nhận Bắc di cư mà chỉ xét đến tác động của họ lên chính trị Việt Nam Cộng hòa thì chỉ là tập trung vào một khía cạnh trong lịch sử sau 1954 của họ, mà bỏ qua những khía cạnh đáng chú ý khác. Ngay cả lịch sử Đạo Thiên Chúa Việt Nam thế kỷ 20 được viết trong tầm nhìn Công giáo cũng hầu như không nói được về tác động của Bắc Di cư đến đời sống Công giáo và văn hóa ở miền Nam. Cứ như thể những dính líu bên trong của phong trào Bắc di cư đối với lịch sử Công giáo miền Nam là một chủ đề không thích hợp cho diễn ngôn lịch sử. Các nhà sử học của Giáo hội Việt Nam đã thảo luận tường tận những căng thẳng giữa các nhà truyền giáo Pháp với người Công giáo “bản xứ” Việt Nam vào đầu thế kỷ hai mươi, cũng như cuộc xung đột lâu dài và phức tạp giữa giáo hội Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tuy nhiên, các học giả này đã không chú ý hoặc chú ý rất ít đến những quan hệ nội bộ lục đục và không kém phần phức tạp trong giáo hội miền Nam thời kỳ Việt Nam Cộng hòa[3]. Chẳng hạn bạn đọc muốn tìm kiếm trong các tác phẩm lịch sử Giáo hội này những cuộc thảo luận về những vấn đề như tác động của sự vượt trội về số lượng những người di cư miền Bắc trong giáo hội miền Nam sẽ hoài công vô ích.
Những đề tài khác chưa được động tới bao gồm quan hệ giữa hệ thống cấp bậc của giáo hội miền Nam với các cha cố mới từ miền Bắc vào, hậu quả của việc những cha cố này gia nhập hệ thống nói trên, và ảnh hưởng của quan hệ qua lại hằng ngày giữa người Công giáo miền Bắc và miền Nam, là cái tạo nên đời sống giáo dân của cả hai nhóm trong những năm sau 1954. Tất nhiên, việc thảo luận những vấn đề như thế có thể không phù hợp với mục đích giáo huấn của các tác giả do giáo hội bảo trợ. Nhưng ở nhiều phương diện, những câu hỏi nảy sinh từ những vấn đề ấy dường như hiện nay thậm chí càng cấp bách hơn, chính bởi vì trước đây chúng đã bị bỏ qua.
Tiểu luận này nhằm khảo sát Bắc di cư – nguồn gốc của họ, sự tái định cư của họ, một số hậu quả của sự hiện diện của họ đối với phần còn lại của xã hội miền Nam trong những năm đầu sau Cuộc Di cư Vĩ đại. Tại sao trong những năm 1954-1955 có nhiều người rời bỏ miền bắc đến thế? Tại sao người Công giáo chiếm một tỷ lệ lớn như vậy trong số những người ra đi? Tại sao nhiều người trong số họ như vậy tái định cư xa rời khối dân cư “bản địa” miền Nam? Hình mẫu chia tách này đã được thực hiện như thế nào? Và việc hội nhập của Bắc di cư vào xã hội miền Nam có những tác động gì? Trong việc nêu lên những câu hỏi này, tôi bác bỏ hai cách hiểu sai về Bắc di cư. Một là, tôi thách thức cái quan điểm cho rằng việc có nhiều người Công giáo đến thế ra đi khỏi miền Bắc phần lớn hay hoàn toàn do những cố gắng của CIA hay các cơ quan chính phủ khác của Hoa Kỳ. Hai là, tôi thách thức điều khẳng định rằng sự tái định cư của người Công giáo miền Bắc ở trong và xung quanh Sài Gòn là do chính sách có chủ ý và có tính chiến lược do Ngô Đình Diệm chủ mưu. Trong cả sự bỏ chạy của họ khỏi miền Bắc và trong những cuộc đời mới mà họ tạo lập cho mình ở miền Nam, người Bắc di cư bình thường hoàn toàn không thụ động và thiếu phương hướng.
Địa lý lịch sử của Công giáo Việt Nam
Nhiệm vụ hòa nhập Bắc di cư vào Việt Nam Cộng hòa mới ra đời không phải chỉ là trách nhiệm của chính phủ Ngô Đình Diệm. Trước tình hình đại đa số những người mới đến là dân Công giáo, giáo hội miền Nam cũng phải đối phó với những thử thách vốn có trong việc đồng hóa một tập đoàn giáo dân còn lớn hơn bản thân giáo hội miền Nam. Vào thời gian Hiệp định Geneva 1954, có khoảng 1.900.000 tín đồ Công giáo ở Việt Nam, trong đó chỉ có 520.000. hay 27,4 phần trăm, sống trong hai tỉnh của giáo hội miền Nam là Sài Gòn và Huế. Ngược lại, vào cuối Cuộc Di cư Vĩ đại, các tỉnh này là nơi sinh sống của gần 1.700.000 dân Công giáo Việt Nam (61,6 phần trăm)[4].
Các khó khăn trong việc đồng hóa số lượng khổng lồ giáo dân Bắc di cư lại càng tồi tệ hơn bởi họ thừa kế một văn hóa giáo hội hoàn toàn khác với văn hóa ở miền Nam. Sự phân chia ranh giới giữa miền Bắc (Đàng Ngoài) và miền Nam (Đàng Trong) là một chủ đề diễn đi diễn lại trong lịch sử Việt Nam, và hiện tượng này cũng rõ ràng trong lịch sử và văn hóa Công giáo Việt Nam. Khi Hồ Chí Minh tuyên bố Việt Nam là một nước thống nhất vào tháng Chín 1945, người Công giáo trong các vùng miền khác nhau của Việt Nam tán thành các truyền thống địa phương đặc biệt, các văn hóa, các tự sự lịch sử và các cấu trúc xã hội.
Bên trong giáo hội Công giáo chung, thời kỳ đầu của thực dân Pháp ở Việt Nam trùng với một thái độ thù địch và nghi ngờ đối với những tín ngưỡng khác, thái độ này đặc biệt rõ ràng trong các nhiệm kỳ Giáo Hoàng Piux IX (1846-1878) và Pius X (1903-1914). Trong thế giới quan này, những người Cơ Đốc giáo phải được bảo vệ khỏi xã hội phi- Cơ Đốc, đừng để cho họ rơi vào thói tục vô đạo. Những người mới cải đạo (Neophytes) trong các vùng đất truyền giáo được coi là đặc biệt dễ bị tấn công bởi nguy cơ này, ngay cả khi gia đình của họ đã theo đạo Cơ Đốc hàng mấy đời.
Ở miền Bắc, chủ nghĩa biệt lập tôn giáo này còn tồi tệ hơn vì nỗi lo sợ bị người lương (không theo Công giáo) tấn công về thể xác. Trong thế kỷ mười chín, các quan hệ lương–giáo ở miền này rất căng thẳng và thường dẫn đến bạo lực. Mặc dầu bước sang thế kỷ hai mươi, sự ngược đãi Công giáo đã chấm dứt, nhưng những ký ức còn nóng hổi ở miền nam và phần lớn miền trung, và cái mạng lưới chằng chịt các vấn đề chính trị, tôn giáo và xã hội ngay từ đầu đã gây xung đột phần lớn vẫn còn chưa được giải quyết. Thật ra, trong khi thực dân Pháp đến cai trị dẫn đến đàn áp tấn công về thể xác, thì nỗi oán giận dường như càng nặng nề hơn đối với thiểu số Công giáo vốn được coi là đồng minh của bọn thực dân áp bức.
Bởi vì việc ngược đãi Công giáo nói chung chấm dứt ở Nam kỳ vào khoảng những năm 1860, và ở Trung kỳ vào khoảng những năm 1880, những người Công giáo trong các vùng này dần trở nên quen với việc chung sống hòa bình trong các cộng đồng pha trộn với những người hàng xóm không Công giáo của họ. Ngược lại, những đồng đạo của họ ở Bắc kỳ – đặc biệt những người sống trong những giáo khu lớn như Phát Diệm hoặc Bùi Chu – sống trong các họ đạo [các tiểu giáo khu Công giáo toàn tòng] trong đó họ được cách ly khỏi mối đe dọa của thế giới bên ngoài không theo Công giáo. Trong khi những người Công giáo miền Nam dễ dàng phân biệt việc đạo với việc đời, thì đường phân giới này ở những cư dân họ đạo miền Bắc thường bị xóa nhòa. Và trong khi những người Công giáo miền Nam sẵn sàng thừa nhận rằng họ chỉ được các linh mục dẫn dắt trong các địa hạt tâm linh và tôn giáo, thì sự dẫn dắt của các cha cố trong các họ đạo miền Bắc đôi khi khoác vẻ ngoài của một thứ chính trị thần quyền toàn diện.
Tất nhiên về phương diện cùng là giáo dân Công giáo thì họ có nhiều điểm chung, và nhiều đặc điểm đã sẵn sàng được cả người miền Bắc và miền Nam thừa nhận như nhau. Hơn nữa, tất cả họ là thành viên của một Giáo hội Thiên Chúa giáo chung, nó quy định sự tương đồng trong những lĩnh vực của đời sống tôn giáo như nghi lễ, giáo lý, các phép bí tích và các cấp bậc trong giáo hội, không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới Thiên Chúa giáo. Tuy nhiên, những sự khác nhau giữa người Công giáo miền Bắc và miền Nam vẫn còn là đáng kể. Khi những thăng trầm lịch sử và chính trị của cuộc di cư 1954-1955 ném một bộ phận lớn của giáo hội miền Bắc vào chung sống ngay lập tức với đối tác của họ ở miền Nam, những khác biệt này đôi khi trở thành ức chế việc đồng hóa dễ dàng và thường là nguồn gốc của sự không hiểu được nhau. Nhiệm vụ hòa trộn những người Công giáo bản địa miền Nam với Bắc di cư thành một cơ thể giáo hội thống nhất nhất định phải lâu dài và phức tạp.
Những ai đi vào Nam?
Các hiệp định được ký kết ở Hội nghị Geneva về Đông dương ngày 20 tháng Bảy năm 1954 quy định phân ranh giới tạm thời giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam ở vĩ tuyến 17[5]. Điều 14(d) của Hiệp định quy định tự do đi lại giữa các địa phương miền Bắc và miền Nam trong thời hạn ba trăm ngày tiếp sau ngày bắt đầu của Hiệp định[6]. Vào cuối thời kỳ mở cửa này, hơn 810.000 người đã lợi dụng cơ hội để di dời từ miền Bắc vào miền Nam[7]. Hơn bảy mươi lăm phần trăm là người Thiên Chúa giáo La Mã, phần lớn, nhưng không phải duy nhất, rút ra từ hai giáo khu tập trung đông người Công giáo nhất của miền Bắc là Phát Diệm (ở tỉnh Ninh Bình) và Bùi Chu (ở tỉnh Nam định).[8] Các Giám mục của hai giáo khu này [lần lượt] là Thaddeus Lê Hữu Từ, và Piere Phạm Ngọc Chi, từ cuối những năm 1940 đã là những đối thủ gay gắt của Việt Minh. Mỗi người đã duy trì một lực lượng tự vệ thường xuyên đụng độ với các lực lượng Việt Minh. Về phía mình nhiều người trong hàng ngũ Việt Minh đã coi Giáo hội Thiên Chúa Việt Nam như một đồng minh của thực dân Pháp. Sự đối kháng lẫn nhau này đặc biệt thấy rõ ở những vùng từ lâu nằm dưới quyền kiểm soát của Việt Minh, như trung-bắc Nghệ An. Nhiều người Công giáo đã chiến đấu không chỉ cho lực lượng dân quân Công giáo mà còn trực tiếp dưới quyền chỉ huy của Pháp. Khi cuộc nổi dậy của Việt Minh đã rõ ràng thắng lợi ở miền Bắc, nhiều người Công giáo sợ bị trả thù, sẵn sàng rời bỏ miền Bắc. Cuộc di chuyển lớn của người Công giáo đã bắt đầu ngay khi những tin tức của Hiệp định Geneva và những điều khoản chuyển quân của nó được công bố. Thật ra, cuộc bỏ chạy của người Công giáo từ các làng xã trên khắp bắc bộ và bắc trung bộ đã bắt đầu từ trước khi công bố Hiệp định Geneva[9]. Sau thất bại của các lực lượng Pháp ở Điện Biên Phủ ngày 7 tháng Năm 1954, các chỉ huy quân đội Pháp lựa chọn di tản các lực lượng của họ khỏi các giáo khu Phát Diệm và Bùi Chu để củng cố hành lang chủ yếu do họ kiểm soát từ Hà nội đến Hải Phòng[10]. Phần lớn thường dân Công giáo của các vùng này, vốn không được báo trước về sự rút lui của quân đội Pháp, bỗng nhiên thấy mình đứng trước con đường tiến quân của Việt Minh. Những chỉ thị về rút quân được gửi từ chỉ huy cấp cao của Pháp đến chiến trường vào ngày 15 tháng Sáu 1954, hơn một tháng trước khi kết thúc các cuộc đàm phán ở Geneva[11]. Cuộc chuyển quân của Pháp rất bí mật, nhưng các chức sắc giáo hội rõ ràng đã biết về nó gần như tức khắc, đúng chỉ trong thời gian hai tuần đó mà các giám mục Lê Hữu Từ và Phạm Ngọc Chi đã [lần lượt] rời Phát Diệm và Bùi Chu[12]. Vào thời gian kết thúc Hội nghị Geneva, đã có hai mươi lăm ngàn người Công giáo tị nạn tại Hà Nội, mười lăm ngàn ở Hải Phòng, và năm ngàn ở Hải Dương[13].
Ngoài những người tị nạn từ trung tâm Công giáo, còn những người Công giáo từ các vùng bắc và tây Hà Nội, bắt đầu đến các trụ sở Công giáo ở thủ đô[14]. Ở miền trung, cư dân của các cộng đồng Công giáo ở bắc địa phận Huế (nằm ở các tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị) đã bắt đầu chuyển đến thành phố Huế và vùng lân cận phía nam trước khi Việt Minh tiến đến[15].Những cuộc di chuyển này bắt đầu thậm chí trước khi hiệp định được ký; tuy nhiên, ở các địa phương khác trên miền Bắc, đặc biệt những nơi mà người Công giáo chiếm một tỷ lệ nhỏ hơn trong tổng số dân cư, thì sức thúc đẩy di chuyển vào nam cho đến cuối tháng Bảy 1954 không mạnh.
Những số liệu chính thức của Việt Nam Cộng hòa biên soạn tháng Mười 1955 cho thấy rằng những người di cư từ Bắc vào Nam bao gồm 676.348 người Công giáo (76,3 phần trăm toàn bộ Bắc di cư), 209.132 Phật giáo (23.5 phần trăm), và 1041 Tin Lành (0,2 phần trăm)[16]. Các phân tích của chế độ Sài Gòn không phân loại người di cư theo vùng cư trú trước đây ở miền bắc; tuy nhiên giáo hội cung cấp những ước tính về số giáo dân chạy vào Nam từ mười giáo khu Thiên Chúa nằm phía trên giới tuyến (Xem bảng 1)[17].
Bảng 1: Sự di cư của những và linh mục trong các giáo khu miền Bắc, 1954.
Giáo khu
Giáo dân Linh mục
Tổng số người ra đi % của số giáo dân di cư Tổng số người ra đi % của số linh mục di cư
Hà Nội 50.000 33,4% 115 55,6%
Hải Phòng 60.000 52,3% 79 80,6%
Vinh 57.080 31,7% 70 39,3%
Bùi Chu 150.000 71,7% 150 77,7%
Hưng Hóa 8.000 11,8% 23 28,4%
Bắc Ninh 38.000 55,9% 60 75,0%
Phát Diệm 80.000 72,7% 139 87,4%
Thanh Hóa 18.500 20,6% 64 88,9%
Thái Bình 80.000 57,1% 79a 70,6%
Lạng Sơn 2.500 50,0% 14 58,3%
_______________________________________________
a. Con số này dường như rất cao so với ước tính của Hội đồng Giám mục Việt Nam,“hơn 60.”: Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, 284. Nguồn: Lê Ngọc Bích, Nhân Vật Công Giáo Việt Nam: Các Vị Giám Mục Một Thời Đã Qua Đời (1933–1995) [Vietnamese Catholic Biography: Deceased. Bishops (1933–1995)] (HCMC, 1995); và Công Giáo và Dân Tộc [Catholicism and the Nation], Công Giáo Sau Quá Trình 50 Nam [Catholicism through a Process of Fifty Years] (HCMC: Công Giáo và Dân Tộc, 1995)
Điều 14(d) Hiệp định Geneva qui định tự do di chuyển không hạn chế qua lại nam-bắc và bắc-nam trong thời kỳ chuyển quân nói trên, và đề nghị rằng những di chuyển như thế được theo dõi và giám sát và đảm bảo được tôn trọng bởi Ủy ban Kiểm soát Quốc tế ICC (Điều 34-36) B.S.M. Murti, một ủy viên ICC sau đó nói rằng lúc đầu chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bằng lòng cho phép những người muốn rời khỏi vùng kiểm soát của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được ra đi tự do, nhưng sau đó thái độ của họ mau chóng trở nên cứng rắn vì rõ ràng có một số lượng lớn người lợi dụng cơ hội này để đi Nam[18]. Vào giữa năm 1955, có nhiều báo cáo về các trường hợp trong đó các lực lượng quân đội Việt Minh và các cán bộ hành chính Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tích cực ngăn cản, gây trở ngại cho những người có-thể-ra-đi không để họ đến các điểm xuất phát tại Hà Nội và Hải Phòng[19]. Điều đó được thực hiện thông qua một sự kết hợp giữa các lực lượng quân đội và làm rối về mặt hành chính; thẩm quyền cấp giấy phép ra đi nằm bên phía chính quyền chiếm đóng trong các vùng tương ứng của họ[20].
Hậu quả là, những người Công giáo và những người có-thể-sẽ-di-cư sống tại những giáo khu xa nhất so với các điểm xuất phát (ví dụ Hưng Hóa ở vùng tây bắc) và những người sống trong vùng từ lâu nằm dưới quyền kiểm soát của Việt Minh (như phần lớn các vùng Nghệ An và Thanh Hóa ở Liên Khu IV) gặp khó khăn lớn nhất trong việc đến được các điểm đăng ký coi như cửa ngõ vào miền Nam. Ngược lại, những người Công giáo ở Phát Diệm và Bùi Chu, nằm khá gần đường trục Hà Nội – Hải Phòng, thì có một hành trình tương đối dễ dàng hơn để đến được những nơi mà từ đó họ được trực tiếp chuyển bằng đường biển và đường hàng không vào miền Nam[21].
Tuy nhiên, những khó khăn về vật chất và hậu cần trong hành trình đến điểm xuất phát không đủ để giải thích những khác biệt to lớn về số người ra đi từ những giáo khu khác nhau[22]. Chẳng hạn tại sao các cư dân Công giáo thuộc địa phận Hà Nội, là những người khá sẵn sàng tại điểm xuất phát, lại chỉ có 33,4 phần trăm lựa chọn ra đi? Con số này ít hơn một nửa tỉ lệ những người ra đi từ Phát Diệm, họ phải cất công ra tận Hà Nội hay Hải Phòng để lên đường[23]. Sự khác biệt này có thể một phần vì thủ đô phần lớn đã tránh được chiến sự trong thời gian chiến tranh. Nó cũng phản ánh thái độ tích cực của một số cư dân Hà Nội – trong đó có cả những người Công giáo dân tộc chủ nghĩa – trước sự ra đi của người Pháp và sự kiện Hồ Chí Minh sắp trở về thủ đô.
Tuy nhiên, về sau những sự kiện như thế này không thật quan trọng trọng sự quyết định của người Công giáo so với một điều cân nhắc khác: thái độ của các cha cố ở địa phương. Đối với nhiều người Công giáo miền Bắc — đặc biệt những người sống trong các làng xã — quyết định ở hay đi phần lớn phụ thuộc vào lời nói và việc làm của các linh mục và giám mục.
(còn tiếp)
Nguồn: Journal of Vietnamese Studies, Volume 4, issue 3, Fall 2009.
Bản tiếng Việt © 2010 Hiếu Tân
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
[1] Một số cái tên như Phúc Nhạc nhắc đến giáo khu gốc của họ. Gia Kiệm không phải là duy nhất trong những năm 1954–1955, cả loạt những khu định cư mới rộng lớn, hầu như dành riêng cho Công giáo di cư như Thủ Đức, Bình Thạnh, Gò Vấp vân vân, mọc lên ở khu vực xung quanh Sài Gòn, và nhiều khu cuối cùng đã sáp nhập vào ngoại ô của nó.
[2] Điều này là chắc chắn trong những tác phẩm như Harvey Neese. John O’Donnell, Prelude to Tragedy: Vietnam, 1960–1965 (Annapolis, MD: Naval Institute Press, 2001); Robert Shaplen, (The Lost Revolution: The Story of Twenty Years of Neglected Opportunities in Vietnam and of America’s Failure to Foster Democracy There (New York: Harper & Row, 1965); và Charles A. Joiner, The Politics of Massacre: Political Processes in South Vietnam (Philadelphia: Temple University Press, 1974). Xem thêm Robert Scheer, “Genesis of United States Support for the Regime of Ngo Dinh Diem” và “Behind the Miracle of South Vietnam,” trong Vietnam and America: A Documented History, eds. Marvin E. Gettleman và những người khác. (New York: Grove Press, 1985), 118–132 và 137–153,. Joiner ít ra cũng cho cuộc trốn chạy của Bắc di cư trong lịch sử tôn giáo một tầm quan trọng nổi bật trong khi nhiều người khác coi vai trò của họ chỉ đơn giản là bị thúc đẩy bởi thái độ chống cộng quyết liệt của họ, thái độ này nảy sinh từ tư cách chính trị của họ (theo đường hướng lập luận này). Xem: Joiner, Politics of Massacre, 30, 68–69, 162.
[3] Piero Gheddo, The Cross and the Bo Tree, Charles Quinn dịch (New York: Sheed & Ward, 1968); Phan Phát Huồn, Việt Nam Giáo Sử [Vietnamese Church History], 2 tập. (Sài Gòn: Cứu Thế Tùng Thư, 1962–1965); Bùi Đức Sinh, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, 1975–2000 [The Catholic Church in Vietnam, 1975–2000] (Westminster, CA: Asian Printing, 2001); Nguyễn Thế Thoại, Công Giáo Trên Quê Hương Việt Nam [Catholicism in the Homeland, Vietnam], 2 tập. (Vietnam: self-published, 2001). Nhiều số tạp chí lịch sử của giai đoạn này do các cộng đồng người Việt phát hành cũng có ý định phác hoạ bối cảnh cuộc di cư trong luận chiến, cùng tên Phan Phát Huồn. Hơn nữa, mỉa mai thay, nhiều người trong số họ phần lớn lại dựa trên các nguồn sơ và thứ cấp ngoài Việt Nam. Một ngoại lệ đáng chú ý, xem Lê Xuân Khoa, Việt Nam 1945–1995: Chiến Tranh, Tị Nạn; Bài Học Lịch Sử [Vietnam 1945–1995: War, Refugees, Historical Lessons], 2 tập. (Bethesda, MD: Tiên Rồng, 2004). Công trình này không chỉ đề cập đến cuộc di cư một cách bình thản, mà còn dựa chủ yếu trên các nguồn tài liệu Việt Nam.
[4] Bùi Đức Sinh, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam [The Catholic Church in Vietnam] (Calgary: Veritas Press, 1998), 3:214. Tính toán chính xác khó khăn vì giáo hội Công giáo Việt Nam được chia thành ba giáo khu, trong đó một giáo khu – Huế – lại nằm trải ra cả trên và dưới vĩ tuyến mười bảy
[5] Trong khi chỉ có ý định như một biện pháp tạm thời cho đến khi tổ chức tổng tuyển cử, việc chia cắt kéo dài đến khi thành lập nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1976.
[6] Robert F. Randle, Geneva 1954: The Settlement of the Indochinese War(Princeton, NJ: Princeton University Press, 1969), 462–467.
[7] Phủ Tổng ủy Di cư Tỵ nạn (PTUDCTN) [thuộc phủ Tổng thống (PTT), File 343, Folder 4041, Phủ Tổng thống đệ Nhất Cộng hòa (PTTĐNCH) Lưu trữ Quốc gia Vietnam II, Hồ Chí Minh City (VNA-II). Không phải tất cả là người gốc Bắc, 154,400 là lính phục viên và gia đình họ. Thời kỳ di chuyển chính thức lúc đầu hết hạn ngày 15, tháng Năm 1955, nhưng sau gia hạn đến 20 tháng Bảy. Sau ngày đó, các lực lượng Pháp buộc phải rút hoàn toàn khỏi các vị trí của họ ở Hà Nội và Hải Phòng. Số rời miền Bắc tăng lên vào ngày 31, tháng Mười Hai 1955, đến 887.861. Xem PTUDCTN thuộc PTT, 21, tháng Giêng 1956, File 343, Folder 4041, PTTĐNCH, VNA-II.
[8] Khoảng 140.000 người ủng hộ Việt Minh di chuyển theo hướng ngược lại, từ Nam ra Bắc. Phái đoàn Ngô Đinh Diệm tại Hội nghị Geneva đấu tranh không thành công để tách Phát Diệm và Bùi Chu ra khỏi vùng kiểm soát của Việt Minh. Xem Bernard B. Fall, Viet-Nam Witness, 1953–1966 (New York: Frederick A. Praeger, 1966), 62.
[9] “Hàng vạn dân lánh nạn miền xuôi” [Lines of Thousands of Evacuees Head Downwards], Tiếng Chuông [Sound the Bell], July 7, 1954. Xem thêm Edgar O’Ballance, The Indo-China War, 1945–1954: A Study in Guerilla Warfare(London: Faber & Faber, 1964), 239.
[10] O’Ballance, The Indo-China War, 215; “Bùi Chu và Phát Diệm” [Bùi Chu and Phát Diệm], Ánh Sáng [Light], July 9, 1954; “Hà Nội tản cư và hồi cư” [Hà Nội Evacuees and Returnees from Evacuation], Dân Ta [Our People], July 19, 204 Hansen 1954; Martin Windrow, The Last Valley: Dien Bien Phu and the French Defeat in Vietnam (Cambridge, MA: Da Capo Press, 2006), 631.
[11] Windrow, The Last Valley, 631.
[12] “Hà Nội tản cư và hồi cư”; Joseph Buttinger, Vietnam: A Dragon Embattled,vol. 2 (London: Pall Mall Press, 1967), 1092.
[13] Lê Xuân Khoa, Việt Nam 1945–1995, 1:237–238.
[14] Donald Lancaster, The Emancipation of French Indochina (London: Oxford University Press, 1961), 343; “Một nguyện vọng của đồng bào tản cư” [An Aspiration of the Evacuees], Cải Tạo [Transformation], July 24, 1954.
[15] Lê Ngọc Bích, Nhân vật Giáo Phận Huế: Kỷ niêm 150 năm thành lập GiáoPhận Huế [Biographies from the Diocese of Huế: A Memento of 150 Years of the Establishment of the Diocese of Huế], 2 vols. (Huế: Ban Truyền Thống Giáo Phận, 2000), 2:260–261
[16] PTUDCTN thuộc PTT, 22, tháng Mười Một 1955, File 343, Folder 4041, PTTĐNCH, VNA-II. Ủy ban của Giám mục Phạm Ngọc Chi tuyên bố rằng 78.6 phần trăm Bắc di cư là Công giáo. Xem Ủy Ban Hỗ Trợ Định Cư [Resettlement Assistance Committee] (UBHTĐC), Số các làng Đình cư [A List of Resettlement Villages] (Sài Gòn: UBHTĐC, Tháng Chín 1955), 4.
[17] Tại một hội nghị 1959, cựu tổng ủy di cư Việt Nam Cộng hòa Bùi Văn Lương, ước lượng có 794.876 Công giáo trong tổng số 928.152 Bắc di cư, hay 85.6 phần trăm. Số còn lại gọi chung là “Phật giáo và Tin Lành. Xem Bùi Văn Lương, “Role of Friendly Nations,” trong Viet-nam,the First Five Years: An International Symposium, ed. Richard W. Lindholm (East Lansing: Michigan State University Press, 1959), 49. các con số do ủy ban của Phạm Ngọc Chi cung cấp có vẻ chính xác hơn.
[18] B.S.N. Murti, Vietnam Divided: The Unfinished Struggle (New York: Asia Publishing House, 1964), 74–79.
[19] Jacques Dalloz, The War in Indo-China, 1945–1954, Josephine Baker dịch (London: Gill and Macmillan, 1990), 189; Harry Haas, “Catholics in North Vietnam,” trong American Catholics and Vietnam, ed. Tom Quigley (Grand Rapids, MI: William Eerdmans, 1968), 176–177; Gheddo, Cross and Bo Tree, 60–66. Andrew Hardy nhắc lại một cuộc nói chuyện với một người ủng hộ Việt Minh ở Nam Định (Bùi Chu), trong đó ông nhớ lại các hoạt động để tích cực can ngăn các làng Công giáo di cư. Xem Andrew Hardy, Red Hills: Migrants and the State in the Highlands of Vietnam (Copenhagen: NIAS Press, 2003), 156–157.
[20] Murti, Vietnam Divided, 92.
[21]Vào 30 tháng Mười Một và 1 tháng Mười Hai, 1954, các lực lượng quân sự của chính phủ Bảo Đại đã giúp nhiều ngàn người rời khỏi vùng biển Bùi Chu, nhưng sau đó hoạt động này bị gián đoán vì những cuộc tấn công của Việt Minh tăng lên Xem Louis A. Weisner, “Vietnam: Exodus from the North and Movement to the North, 1954–1955,” Vietnam Forum 11 (Winter–Spring 1988): 220.
[22] Haas, “Catholics in North Vietnam,” 176.
[23] Cần lưu ý là một tỉ lệ lớn cư dân Công giáo ở Địa phận Hà Nội trước năm 1954 sống phần lớn ở các làng ngoại ô nhiều hơn là ở thủ đô.
Phản hồi
2 phản hồi (bài “Peter Hansen – Bắc di cư: Dân Công giáo tị nạn từ miền Bắc Việt Nam và vai trò của họ tại Cộng hòa Miền Nam, 1954-1959 (phần 1)”)
1.
Tin 26-4-2010 « BA SÀM nói:
26/04/2010 lúc 8:04 sáng
[...] Peter Hansen – Bắc di cư: Dân Công giáo tị nạn từ miền Bắc Việt Nam và vai trò… (talawas). Qua [...]
2.
Hoà Nguyễn nói:
26/04/2010 lúc 7:38 sáng
Trích:
“Những số liệu chính thức của Việt Nam Cộng hòa biên soạn tháng Mười 1955 cho thấy rằng những người di cư từ Bắc vào Nam bao gồm 676.348 người Công giáo (76,3 phần trăm toàn bộ Bắc di cư), 209.132 Phật giáo (23.5 phần trăm), và 1041 Tin Lành (0,2 phần trăm)116].
Trong một lần góp ý về số người Công giáo di cư vào Nam trong 1954-55, tôi dựa vào sách thường dẫn của GS Lê Xuân Khoa đưa ra tỷ lệ giáo dân tới 75%. Có một độc giả talawas phản đối tỷ lệ này (cho quá cao). Tôi có trả lời là tôi đọc thấy ở chỗ khác con số còn cao hơn thế. Nhưng nay, tài liệu mà bài viết này đưa ra chứng tỏ tỷ lệ đưa ra chính xác (hay gần thế).
© talawas 2009
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)