9/5/10

Hệ thống tài chánh Hoa Kỳ và cơ chế giám sát

Hệ thống tài chánh Hoa Kỳ và cơ chế giám sát
Nguyễn Trường
10/05/2010



SỰ CẦN THIẾT MỘT CƠ CHẾ GIÁM SÁT

Tài hóa công và thị trường tự do, theo định nghĩa, đã luôn mang tính tương khắc. Luật lệ về ô nhiễm và vai trò cảnh sát là những ví dụ cổ điển. Trong cuộc khủng hoảng tài chánh hai năm qua, tài hóa công tối cần nhưng thiếu vắng là quy luật giám sát nghiêm chỉnh. Với một hệ thống giám sát yếu ớt, Wall Street đã vay mượn liều lĩnh và đầy bất trắc. Những món nợ nầy đã cho phép các doanh nghiệp đầu tư mạo hiểm, lẽ ra đã không thể thực hiện, để mưu cầu doanh lợi. Khi giá trị các vụ đầu tư bắt đầu suy giảm, các xí nghiệp chỉ có một biên độ sai lầm bé nhỏ. Các xí nghiệp lâm vào tình trạng giống những kẻ mua nhà chỉ trả một số tiền mặt lúc đầu (down payment) quá ít ỏi, và chẳng bao lâu, đã không thể ngoi đầu lên khỏi mặt nước.

Các ngân hàng đầu tư, vì vậy, rất xứng đáng để bị chìm xuồng. Nhưng sự sụp đổ của những ngân hàng lớn thường gây ra những tai họa khủng khiếp. Tín dụng và thanh khoản sẽ cạn kiệt; và kinh tế có thể lâm vào vòng lẩn quẩn bong bóng tích sản đổ vỡ, và công ăn việc làm thất thoát. Đó là những gì đã xẩy ra trong năm 2008. Nhằm phục hồi các nguồn tín dụng, chính quyền liên bang đã phải bỏ ra hàng trăm tỉ tiền thuế để ứng cứu. Một câu chuyện khùng điên: chính quyền đã làm ngơ để các ngân hàng tạo mọi cơ hội làm giàu và ứng cứu khi họ gặp tai họa. Chẳng khác gì các công ty dầu đã thủ lợi cùng lúc gây ô nhiễm, Wall Street đã thủ lợi khi vận động gỡ bỏ giám sát, phương hại cho quyền lợi chung của xã hội.

Nếu có một vấn đề trong các chính sách đối nội rời rạc của chính quyền Obama, đó là chính quyền lẽ ra đã phải đầu tư nhiều hơn vào các tài hóa công: gia tăng chi tiêu cho trường ốc, xa lộ, nghiên cứu khoa học, và cố gắng đóng một vai trò tích cực trong chính sách năng lượng và dịch vụ y tế. Theo bộ trưởng ngân khố Timothy F. Geithner, "tất cả đều là những bộ phận trong mạng lưới những gì cần thiết cho sự vận hành của nền kinh tế, và chúng ta đã chưa làm đủ tốt trong những năm gần đây"[1]. Geithner nói tiếp, một phần quan trọng trong mạng lưới vừa nói là tái giám sát tài chánh.

Để giảm thiểu nguy cơ khủng hoảng trong tương lai, kế hoạch của Obama cần phải thực hiên ba biện pháp căn bản.

Trước hết, các viên chức giám sát cần được dành nhiều quyền để rà soát kiểm tra mọi việc, từ tín dụng bất động sản đến mọi loại chứng khoán phức tạp. Điều nầy có nghĩa phải ngăn ngừa những bom-mìn-tài-chánh-nổ-chậm trong tương lai, như tín dụng và những trái khoán đầy bất trắc trong quá khứ.

Biện pháp thứ hai tối quan trọng: các xí nghiệp tài chánh cần bị buộc phải giảm số tín dụng tung ra thị trường, hạn chế tỉ suất cho vay-vốn dự trữ, và gánh nặng nợ nần. Điều nầy tương đương với biện pháp đòi hỏi các người mua nhà phải trả ngay từ đầu một bách phân cao hơn: số thu nhập khả dụng sẽ giúp đem lại cho xí nghiệp tài chánh một biên độ an toàn lớn hơn mỗi khi các khoản đầu tư gặp rắc rối.

Cuối cùng, nếu biên độ không đầy đủ, chính quyền phải được quyền tiếp quản xí nghiệp tài chánh sắp phá sản tương tự như hiện đã có thể hành động đối với các ngân hàng chính thống. Cơ quan giám sát lúc đó có thể duy trì hoạt động của xí nghiệp trong một thời gian cần thiết để ngăn ngừa hoảng loạn và sẽ từ từ thanh toán mọi tích sản của xí nghiệp.

Trong thực tế, ngay chính giải pháp nầy cũng chưa chắc đã hiệu quả. Không ai có thể đoan chắc bong bóng hay khủng hoảng tương lai sẽ đến từ đâu, vì vậy, làm cách nào để ngăn ngừa. Người ta có thể đưa ra nhiều luận cứ cho nhiều hình thức giám sát, và cũng đã không thiếu các cuộc thảo luận vào chi tiết các biện pháp tái giám sát khác nhau. Làm sao quy định các loại chứng khoán? Liệu cơ quan bảo vệ giới tiêu thụ cần có một quy chế độc lập hay chỉ là một bộ phận của Cục Dự Trữ Liên Bang? Cơ quan nào chịu trách nhiệm tiếp quản một xí nghiệp sắp phá sản?

Trong bối cảnh đó, kế hoạch tái giám sát của chính quyền Obama có nhiều điều để khuyến cáo. Kế hoạch sẽ phải lấp những lỗ hổng trong mạng lưới giám sát. Quốc Hội phải tạm quên chính trị đảng phái và biểu quyết một luật quan trọng vào mùa hè sắp tới. Trong trường hợp nầy, lý do quan trọng nhất để âu lo về kế hoạch sẽ không phải bất cứ một trong số các chi tiết Quốc Hội đang bận tâm trong những tháng gần đây, mà là một điều căn bản hơn nhiều. Dù guồng máy giám sát ra sao đi nữa, cơ chế giám sát vẫn phải do các viên chức giám sát điều hành. Cơ quan hữu trách sẽ ấn định các điều kiện vốn, quyết định khi nào đóng cửa một xí nghiệp sắp vỡ nợ, và quy định một thế quân bình giữa nhu cầu bảo vệ giới tiêu thụ mà vẫn để họ có đủ tự do lựa chọn. Pháp chế sẽ không xen vào các chi tiết như thế, và Tổng Thống Obama cũng như chủ tịch Cục Dự Trữ Liên Bang, Ben Bernanke, cũng chẳng mấy rõ ràng về những chi tiết nầy. Họ cũng chưa đưa ra một triết lý chỉ đạo nào ngoài lời hứa các thanh tra giám sát sẽ làm việc tốt hơn trong tương lai.

Trong mọi trường hợp, đây là đề tài liên quan đến bản tính con người nhiều hơn là chính trị. Khủng hoảng tài chánh trong tương lai sẽ có lịch sử gần đây để chiêm nghiệm. Giá trị các tích sản sẽ gia tăng, và các loại chứng khoán hay dụng cụ tài chánh mới nào cũng sẽ có vẻ an toàn. Theo Paul A. Volcker, nguyên chủ tịch Cục Dự Trữ Liên Bang, "khi mọi chuyện diễn tiến tốt đẹp thật khó lòng áp đặt một sự giám sát chặt chẽ vì mọi người đều chống đối"[2]. Đã hẳn, cả Bernanke lẫn Geithner, cũng như nhiều thanh tra khác, đã chẳng lưu tâm đến nhiều dấu hiệu nguy cơ dang rình rập trong thập kỷ vừa qua.

Một phương cách đối phó với sự chểnh mảng hay sai lầm của các viên chức giám sát là nghiêm chỉnh thi hành các quy luật rõ ràng và đầy đủ, có mục đích giới hạn khả năng của mọi người dễ dàng để bị thuyết phục bởi tư duy "bong bóng sắp tới sẽ khác" - tỉ số tư bản dự trữ đòi hỏi lúc khởi đầu, chẳng hạn, các ngân hàng không thể thay đổi. Cho đến nay, Tòa Bạch Ốc, Cục Dự Trữ Liên Bang, và Quốc Hội hầu như hoàn toàn tránh né các quy luật như thế.

Vì vậy, tưởng cần phải đặt câu hỏi: kế hoạch tái giám sát hiện nay liệu có đủ các biện pháp hỗ trợ cần thiết hay không? Trong trường hợp Wall Street đi trước Hoa Thịnh Đốn một bước, hay các viên chức giám sát tương lai sơ hở trong những đòi hỏi số tư bản dự trữ sơ khởi, hay khi chính quyền không kịp thời tiếp quản "các Lehman Brothers tương lai" trước khi quá muộn, liệu guồng máy tái giám sát có thể nào hoàn thành trách nhiệm giám sát.
NGUYÊN NHÂN KHỦNG HOẢNG HIỆN NAY

Kể từ Kinh Tế Đại Khủng Hoảng 1929-33, Hoa Kỳ đã được hưởng một giai đoạn sóng yên bể lặng trong sinh hoạt ngân hàng. Trước Đại Khủng Hoảng, khủng hoảng tài chánh thường là một phần của đời sống: theo chu kỳ trên dưới 10 năm. Khi người dân quá âu lo về tính lành mạnh của hệ thống ngân hàng, họ thường đua nhau rút tiền. Trong lúc đó, vì đã cho các gia đình và xí nghiệp kinh doanh khác vay, ngân hàng không còn đủ thanh khoản để đáp ứng.

Trước tình trạng khủng hoảng vào đầu thập kỷ 1930s, chính quyền Roosevelt và Quốc Hội đã đưa ra hai biện pháp cải cách trong luật Glass-Steagall Act. Một mặt, Federal Deposit Insurance Corporation - FDIC (Công Ty Bảo Hiểm Ký Thác Liên Bang) được thiết lập, để cung cấp dịch vụ bảo hiểm đối với các khoản ký thác ở ngân hàng và bảo đảm khả năng rút tiền của giới gửi tiền dù ngân hàng vỡ nợ. Mặt khác, các ngân hàng bị buộc phải giới hạn hoạt động trong phạm vi cho vay truyền thống, không được phép dùng tiền ký thác của khách hàng để đầu cơ cổ phiếu và bảo hiểm các loại chứng khoán (underwrite securities). Hai loại biện pháp phối hợp tăng cường hai phương diện của sinh hoạt ngân hàng - quan hệ với giới tiết kiệm (trái chủ) và giới đi vay (con nợ) - để giảm thiểu nguy cơ phá sản của các ngân hàng. Thời kỳ sóng yên bể lặng ra đời.

Trong thập kỷ 1980s, sóng gió lại nổi lên. Các ngân hàng bắt đầu đối diện với tình trạng cạnh tranh mới, ve vãn và thu hút hai giới ký thác và vay nợ . Các gia đình có thể gửi tiền vào các quỹ hỗ tương (mutual funds) như Fidelity và Vanguard, những tổ chức trung gian thường hứa hẹn những lợi nhuận cao hơn các chương mục tiết kiệm và đôi khi ít rủi ro bất trắc. Trong khi đó, các công ty xí nghiệp trước kia chỉ có thể vay hay lệ thuộc vào các khoản cho vay của ngân hàng để tài trợ các nghiệp vụ kinh doanh, giờ đây còn có thể vay mượn dễ dàng trên các thị trường trái phiếu (bond markets).

Những đổi thay nầy rõ ràng đã mang lại nhiều điều lợi. Như Daniel K. Tarullo, một thống đốc trong Cục Dự Trữ Liên Bang do T T Obama tiến cử, đã nói: "Các quy định New Deal đã bảo trợ một hệ thống ngân hàng, trong phần lớn 40 năm qua, khá ổn định và hữu lợi, mặc dù không có gì đặc biệt sáng tạo trong việc đáp ứng các nhu cầu của các khách hàng ký thác và vay nợ"[3]. Trong hệ thống mới cạnh tranh gay gắt hơn, tiền lãi vay mượn đã giảm sụt nhiều. Thẻ tín dụng (credit cards), thẻ tá phương (debit cards), A.T.M.'s, và các nghiệp vụ ngân hàng trực tuyến (online banking), đã đem lại nhiều tiện lợi cho giới tiêu thụ. Lợi nhuận tương đối cao trên thị trường chứng khoán đã hấp dẫn một số đông đảo quần chúng hơn trước. Các xí nghiệp với tư bản chờ cơ hội đầu tư (venture-capital firms) đã chuyển nhiều ý tưởng thành doanh nghiệp.

Nhưng hệ thống mới có một nhược điểm cực kỳ nguy hiểm. Các tổ chức cạnh tranh mới của ngân hàng rất ít được giám sát. Họ không trực tiếp bị ràng buộc bởi các "giới hạn Roosevelt". Geithner nói, "chúng tôi có toàn bộ một hệ thống bên ngoài ngân hàng không hề chịu những hạn chế đáng kể về tư bản dự trữ và hiệu năng đòn bẩy"[4]. Các ngân hàng đầu tư như Lehman Brothers đã có thể kiếm nhiều lợi nhuận lớn lao, một phần qua thế mạnh đòn bẩy lớn hơn các ngân hàng chính thống. Dùng một hình ảnh ví von: chẳng khác nào họ chỉ cần bỏ ra 3% giá mua một bất động sản trong khi các ngân hàng phải trả trước một bách phân ít ra 20%. Chỉ cần giá nhà gia tăng 3%, Lehman đã có thể tăng gấp đôi số đầu tư của mình. Cũng tương tự như vậy, A.I.G. đã sáng tạo các derivatives - loại chứng khoán với tỉ lệ đòn bẩy rất cao - hầu như hoàn toàn thoát khỏi mọi giám sát của chính quyền.

Để cạnh tranh, các ngân hàng chính thống bắt đầu vận động cởi bỏ mọi giám sát (deregulation), ngõ hầu có thể nhảy vào các quỹ đầu tư hổ tương (mutual funds) và giúp các công ty bán cổ phiếu và trái phiếu. Năm 1999, chính quyền Clinton và Quốc Hội với đa số Cộng Hòa đã hủy bỏ hầu hết các điều khoản hạn chế của Luật Glass-Steagall, chính thức cho phép các ngân hàng chính thống mở rộng phạm vi hoạt động bao gồm các hình thức đầu tư đầy rủi ro bất trắc. Tuy vậy, các tổ chức cạnh tranh mới của ngân hàng - ngân hàng đầu tư, các hảng bảo hiểm, các quỹ đầu cơ, và nhiều xí nghiệp khác gọi chung như các "ngân hàng nhại phi chính thống" (shadow banks) - vẫn tiếp tục được tự do (ít được giám sát) và phát triển nhanh chóng. Dựa vào lực đòn bẩy, các ngân hàng phi chính thống đã có thể kiếm nhiều lợi nhuận khổng lồ vì luôn đi trước các nhà đầu tư đúng nghĩa một bước, hoặc chỉ cần nắm bắt và lợi dụng thị trường đang nóng bỏng (bull market). Theo Volcker, "lợi nhuận của các xí nghiệp nầy đã vượt xa bất cứ phần đóng góp nào của họ vào nền kinh tế"[5].

Trong thực tế, các giao dịch ngân hàng phi chính thống chiếm khoảng một nửa doanh số của hệ thống tài chánh Hoa Kỳ. Những giao dịch nầy cũng đã giúp tái tạo loại điều kiện tiên quyết (preconditions) đưa đến khủng hoảng hiện hữu trước thập kỷ 1930s. Các xí nghiệp dựa vào lực đòn bẩy cao rất dễ bị thương tổn bởi tình trạng mất tin tưởng. Lần nầy, nạn mất lòng tin hay hoảng sợ không đến từ cá nhân các khách hàng ký thác - vẫn được FDIC bảo vệ - mà từ các xí nghiệp tài chánh khác. Trung tâm của hệ thống tài chánh hiện nay là repo market trong đó các xí nghiệp hàng ngày cho nhau vay mượn những số tiền kếch xù. Nếu các đối tác bất thần cảm thấy âu lo khi một xí nghiệp thứ hai vay tiền của họ đang gặp khó khăn, họ lập tức đòi thêm thế chấp. Một khi một xí nghiệp cho vay bắt đầu đòi thêm thế chấp bảo đảm, các xí nghiệp khác sẽ lo ngại hơn và cũng hành động tương tự. Điều nầy cũng không mấy khác làn sóng các người ký thác đổ xô đến các ngân hàng rút tiền, chỉ khác ở chỗ giờ đây qua điện thoại và máy vi tính thay vì chen chúc trước cửa ngân hàng. Tháng 9-2008, JP Morgan Chase và Citigroup đã hành động như vậy đối với Lehman, và đã thực sự đẩy Lehman đến chỗ phá sản. Sự sụp đổ của Lehman lập tức khởi động tình trạng hoảng sợ trên khắp thế giới.

Sự cởi bỏ giám sát trong mấy thập kỷ vừa qua đã bị lên án là thủ phạm gây ra cuộc khủng hoảng tài chánh hiện nay. Và sự cởi bỏ giám sát một phần nào cũng xứng đáng bị chỉ trích. Nếu Citigroup và Bank of America tuân thủ các quy luật New Deal trong quá trình hoạt động, các định chế nầy có lẽ đã có thể tránh khỏi tai họa suýt phải vỡ nợ. Nhưng tưởng cũng nên dành chút thì giờ để nghĩ xem xí nghiệp nào gặp nhiều khó khăn nhất. Đó chính là các ngân hàng phi chính thống: những ngân hàng đầu tư độc lập như Lehman, Bear Stearns và Merrill Lynch; và các xí nghiệp khác như A.I.G., thực ra không phải ngân hàng. Những ngân hàng đầu tư và các xí nghiệp nầy không hoàn toàn bị chi phối bởi luật lệ New Deal, và không mấy bị ảnh hưởng bởi các biện pháp cởi bỏ giám sát.

Gốc rễ của khủng hoảng, như vậy, không phải từ luật lệ đã thay đổi. Thị trường tài chánh đã biến đổi, và Hoa Thịnh Đốn đã không bắt kịp. Vì vậy, tái lập một giai đoạn ổn định có lẽ không thể chỉ tìm cách phục hồi các luật lệ cũ, mà hầu như chắc chắn phải cần những luật lệ mới, hoặc toàn bộ hay được cải tiến tinh tế hơn.
BẢO VỆ GIỚI TIÊU THỤ

Năm 1988, Quốc Hội đã sáng lập ra Schumer box (hộp Schumer). Lấy tên của Charles Schumer, Nghị sĩ bang New York, lúc đó còn là dân biểu Hạ Viện, hộp Schumer đã trở thành một phần bắt buộc trong đơn xin thẻ tín dụng (credit card), liệt kê lãi suất, niên phí, và các con số căn bản khác. Hộp Schumer nhằm nhiều mục đích. Một trong những mục đích là người nào không muốn trả cước phí hàng năm có thể gạt bỏ bất cứ loại thẻ tín dụng nào đòi hỏi niên phí. Tuy nhiên, với thời gian, các ngân hàng đã tìm ra phương cách lấy cước phí mới không bị chi phối bởi hộp Schumer. Các ngân hàng đã sáng tạo nhiều xảo thuật mới thêm vào thẻ tín dụng và đã thu được hàng triệu cước phí phụ như tiền phạt (penalties) khi người dùng thẻ vượt quá giới hạn tối đa trong thẻ tá phương (overdraft fees in debit cards). Một lần nữa, Wall Street đã đi trước Hoa Thịnh Đốn một bước.

Thật là điên rồ khi tưởng chúng ta có thể nghĩ ra một gói hỗn hợp vừa phải các quy luật và điều lệ để ngăn ngừa những lạm dụng như vậy. Nếu các viên chức có trách nhiệm giám sát luôn bị ràng buộc bởi các quy luật minh thị và khu vực tư luôn duy trì được tính mềm dẻo du di, các quan chức giám sát không bao giờ có thể bắt kịp. Chính vì lẽ đó, một ít quyền chuyên quyết vẫn luôn là một bộ phận thiết yếu của cơ chế tái giám sát.

Trong bối cảnh đó, chính quyền Obama đã đề nghị thành lập một cơ quan mới - Ủy Hội Sản Phẩm Tài Chánh An Toàn (Financial Product Safety Commission - FPSC) - cho phép các viên chức giám sát được quyền quyết đoán nhiều hơn họ đã từng có trong quá khứ. Họ không chỉ đơn thuần thi hành luật lệ. Họ có thể có đủ khả năng kiểm tra hiện trạng thị trường trong thời gian đích thực. Nếu các ngân hàng che giấu cước phí các thẻ tá phương, hay thuyết phục hàng triệu người vay nợ có thế chấp bất động sản vượt quá khả năng trả nợ - những lề lối đã đem lại những lợi nhuận khổng lồ trong thập kỷ vừa qua - Ủy Hội có thể cảnh cáo hoặc cấm chỉ thủ thuật liên hệ. Quyền hạn của Ủy Hội cũng tương tự như của Ủy Hội Tiêu Thụ Phẩm An Toàn (Consumer Product Safety Commission), cơ quan kiểm tra tính an toàn trong đồ chơi trẻ con và nhiều tiêu thụ phẩm khác. Ngày nay, chưa có một cơ quan tài chánh tương đương để bảo vệ quyền lợi giới tiêu thụ.

Cơ chế bảo vệ giới tiêu thụ đã trở thành phần tranh cãi nhiều nhất trong cuộc thảo luận về tái giám sát, tương tự như "biện pháp chọn lựa công" (public option) trong cuộc tranh luận về bảo hiểm y tế. Richard C. Shelby, nghị sĩ Cộng Hòa trong Tiểu Ban Ngân Hàng, đã nói rõ lập trường chống đối một cơ quan độc lập như thế. Một phần, sự chống đối của phe Cộng Hòa phản ảnh lập trường của giới ngân hàng. Nhưng thái độ chống đối cũng phản ảnh sự âu lo: các quan chức giám sát sẽ bóp chết mọi sáng kiến canh tân, hay, ngược lại, sẽ thúc đẩy các ngân hàng, nhân danh giới tiêu thụ, lấy những quyết định liều lĩnh và thiếu khôn ngoan. Đó là điều đã xẩy ra cho Fannie Mae và Freddie Mac, hai tổ chức tín dụng công, đã giúp tăng cường làn sóng cho vay với lãi suất cực thấp subprime lending - nguyên nhân đưa tới bong bóng bất động sản.

Trong những tuần lễ gần đây, các nghị sĩ đang thảo luận khả năng cho ra đời một hình thức nào đó của cơ chế nầy - có lẽ nằm bên trong Cục Dự Trữ Liên Bang - có thể được phe Cộng Hòa ủng hộ. Tuy nhiên, Cục Dự Trữ Liên Bang nhiều lần trong lịch sử đã tỏ ra không mấy hữu hiệu trong việc bảo vệ quyền lợi giới tiêu thụ. Vì lý do đó, nghị sĩ Christopher J. Dodd, chủ tịch Ủy Ban Ngân Hàng Thượng Viện, đã đưa ra đề nghị: dành cho cơ quan sẽ thiết lập một ngân sách riêng và vị giám đốc sẽ do Tổng Thống bổ nhiệm.

Tuy nhiên, điều quan trọng không phải chức năng giám sát đặt trụ sở ở đâu, mà chính là phương cách tiếp cận vai trò giám sát. Về phương diện nầy, cơ quan giữ chức năng giám sát có thể là một bộ phận phản ảnh tính quyết đoán chính trị trong kế hoạch của Obama, và cũng phản ảnh khuynh hướng ưa chuộng các chính sách cơ sở trên nghiên cứu thực dụng của chính Tổng Thống và các cố vấn thân cận. Thực dụng (pragmatic) là từ được Tổng Thống ưa thích. Theo quan niệm của các quan chức Bạch Ốc và Bộ Ngân Khố, cơ quan mới nầy sẽ là một phó sản của ngành kinh tế ứng xử (behavioral economics), một ngành phối hợp tâm lý và kinh tế học nhằm nghiên cứu cách ứng xử thực tế của quần chúng trong đời thường, thay vì họ nói họ sẽ ứng xử như thế nào hoặc các mô hình lý thuyết tiên đoán họ sẽ ứng xử ra sao. Cơ quan cũng có thể tổ chức các cuộc thử nghiệm giúp các nhà khoa học xã hội nghiên cứu cách đáp ứng của giới tiêu thụ đối với các lựa chọn do các xí nghiệp tài chánh đưa ra.

Michael S. Barr, phụ tá đặc trách các định chế tài chánh của bộ trưởng Geithner, nguyên giáo sư Đại Học Michigan, chuyên nghiên cứu các vấn đề tài chánh của giới tiêu thụ. Sendhil Mullainathan, giáo sư Harvard, đối tác nghiên cứu của Barr, năm rồi đã làm việc tại bộ Ngân Khố và Cục Quản Lý và Ngân Sách , chuyên trách thiết kế các cơ quan bảo vệ giới tiêu thụ. Theo Mullainathan, trong nhiều địa hạt của đời sống, động lực kiếm lời luôn có tác dụng gián tiếp hỗ trợ an sinh của giới tiêu thụ. Người tiêu thụ hiểu rõ giày hay điện thoại di động nào tốt và các công ty cạnh tranh nhau cả về giá cả lẫn chất lượng. Trong nhiều địa hạt khác, người tiêu thụ không thể phân biệt hàng tốt với hàng xấu. Vấn đề quá phức tạp, chẳng hạn, lãi suất hay lãi kép (compound interests/returns). Trên phương diện lý thuyết, các công ty có thể tìm cách giúp khách hàng làm quen với những đề tài nầy. Nhưng đây là những vấn đề khó khăn. Việc dễ làm hơn là lợi dụng bản năng sẵn có của người tiêu thụ. Do đó, các công ty bán những sản phẩm kỹ thuật cao không muốn cạnh tranh nhau về giá cả và chất lượng. Họ cạnh tranh nhau qua các xảo thuật quảng cáo hay những mánh-khóe-khuyến-mãi-quá-hấp-dẫn-để-có-thể-có-thật (slick advertising or too-good-to-be-true offers), chẳng hạn, quảng cáo lãi suất khởi đầu thấp.

Mullainathan nói, "nhiều người nghĩ, các công ty đang tìm cách phá hoại cái gì tốt cho tôi. Nhưng hãy nghĩ đến anh chàng chịu trách nhiệm về đơn vị phân phối thẻ tín dụng. Anh ta chỉ biết làm nhiệm vụ. Anh ta chỉ phải làm theo khúc tuyến cầu"[6]. Và đường biểu diễn sức cầu lại chỉ cơ sở trên các yếu tố thực sự chi phối số cầu của người tiêu thụ đời thường, chứ không phải trên các yếu tố nhiều người mong muốn sẽ có thể ảnh hưởng đến số cầu. Nhiều người thực sự sẵn sàng ký vào hợp đồng tín dụng bất động sản với số tiền trả hàng tháng khởi đầu thấp, ngay cả khi trong thực tế họ không hy vọng có đủ khả năng trả tiền nhà hàng tháng sau nầy.

Giải pháp hữu hiệu duy nhất cho vấn đề là quy định và giám sát. Các viên chức giám sát bảo đảm tính an toàn của phi cơ, bởi lẽ giới tiêu thụ - hành khách hàng không - không thể kiểm tra các động cơ. Các hãng hàng không chỉ cạnh tranh nhau về những gì kháck hàng có thể thẩm định, như giá vé, chỗ ngồi thoải mái, đường bay thuận lợi, và các loại giải trí truyền hình trong thời gian bay... Theo Mullainathan, mục đích của cơ quan giám sát là "chạy theo dòng thác cạnh tranh gay gắt và điều chỉnh dòng thác theo chiều hướng có lợi cho người tiêu thụ"[7].

Mới đây, Michael S. Barr cho biết một mẩu hóa đơn tiền nợ thẻ tín dụng được thiết kế theo dạng thức có thêm "hộp Schuman" có thể cập nhật qua thời gian. Ngay cả khi hộp nầy không có hiệu lực pháp lý hay bắt buộc, các ngân hàng có thể được khuyến khích sử dụng. Các nhóm tư nhân có thể nhận diện các ngân hàng với cước phí che giấu. Barr cũng đưa ra ý niệm thay thế các giấy tờ rắc rối người mua nhà phải ký nhận khi giao dịch đã hoàn tất, bằng một tài liệu đơn giản tiết lộ điều kiện vay mượn đã thỏa hiệp. Đây là tài liệu ghi rõ những thông tin căn bản nhất, và khác với hồ sơ quá nhiều giấy tờ phức tạp trước đây người mua phải ký, nhiều người mua nhà, giờ đây, có thể đọc và hiểu.

Tự nó, cơ quan bảo vệ người tiêu thụ khó thể ngăn ngừa mọi khủng hoảng tài chánh trong tương lai. Các cuộc khủng hoảng tài chánh hiện nay có khuynh hướng có nhiều gốc rễ nằm sâu bên trong Wall Street, với những loại chứng khoán phức tạp người tiêu thụ không bao giờ thấy hoặc hiểu nổi. Trong một dự luật trước Thượng Viện, hội đồng các ủy viên giám sát, do Bộ Trưởng Ngân Khố chủ tọa, sẽ làm việc với Cục Dự Trữ Liên Bang, có trách nhiệm kiểm tra các bất trắc rủi ro trong hệ thống tài chánh khi đang khai triển. Điều thiết yếu là ủy hội có thể giám sát và kiểm tra các ngân hàng chính thống lẫn các ngân hàng nhại phi chính thống.
TIẾT GIẢM TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG

Hiệu năng guồng máy giám sát phần lớn tùy thuộc ở sự khôn ngoan của các quan chức điều hành - những con người cũng dễ bị lôi cuốn theo làn sóng lạc quan của bong bóng. Và các viên chức chính quyền - đặc biệt là Geithner, kiến trúc sư chính của kế hoạch tái giám sát - rất nhạy cảm đối với ý kiến đòi hỏi quá nhiều quyền chuyên quyết cá nhân. Giải pháp của họ tùy thuộc ở những điều kiện tư bản dữ trữ đòi hỏi để ngăn ngừa tai nạn sụp đổ tài chánh tương lai. Họ gọi những đòi hỏi nầy như những lớp đệm trên phi đạo (runway) các sân bay. Chừng nào một xí nghiệp có đủ các tích sản có giá trị vững chắc - và có thể cải hoán thành giá trị bằng tiền mặt - xí nghiệp sẽ có thể vượt qua những bất trắc do đầu tư thất bại và giám sát thiếu hiệu quả.

Geithner nói với báo The New York Times, "chúng tôi không biết cuộc khủng hoảng sắp tới sẽ đến từ đâu. Chúng tôi sẽ không thể tiên đoán. Chúng tôi sẽ không thể chặn trước các bong bóng trong tương lai. Vì vậy, chúng tôi muốn xây dựng một lớp đệm lớn hơn rất nhiều trong hệ thống để khống chế tính nhân-vô-thập-toàn cơ bản của con người. Tôi không muốn một hệ thống lệ thuộc vào sự sáng suốt hay can đảm. Ba điều quan trọng nhất cần làm là tư bản, tư bản, và tư bản"[8].

Nhiều người chia sẻ cách nhìn rộng rãi nầy. Shelby đã nói đến tầm quan trọng của tư bản dự trữ. Sheila Bair, chủ tịch FDIC, cũng đồng ý, và đôi khi đã va chạm với các cố vấn kinh tế của Obama.

Cách tốt nhất để hiểu tầm quan trọng của tư bản dự trữ là nhìn lại số phận của những xí nghiệp đi vào cuộc khủng hoảng với những lớp đệm tương đối dày. Theo phúc trình gần đây của McKinsey & Company, năm 2007, các ngân hàng thương mãi đã có một tỉ lệ đòn bẩy trung bình 12 /1. Điều nầy có nghĩa: các ngân hàng phải có 1USD tích sản cho 12 USD nợ. Tỉ lệ nầy đủ an toàn cho nhiều ngân hàng để có thể sống sót tương đối an lành sau mỗi khủng hoảng. Ở Canada, các xí nghiệp tài chánh có một tỉ lệ trung bình 18/1, và Canada đã thoát khỏi khủng hoảng tương đối an lành hơn bất cứ quốc gia phát triễn nào khác.

Ngược lại, năm ngân hàng đầu tư lớn của Mỹ - Bear Stearns, Goldman Sachs, Lehman Brothers, Merrill Lynch và Morgan Stanley - có tỉ suất trung bình gần hoặc trên 30/1. Trong số năm ngân hàng đầu tư nầy, Lehman sập tiệm, Bear và Merrill phải sáp nhập vào các công ty khác với một giá bán tích sản rẻ mạt, và Goldman và Morgan Stanley khó thể sống còn nếu không có cứu trợ của chính quyền.

Cuộc khủng hoảng đã khiến Wall Street trở nên bảo thủ hơn. Nhưng tình trạng nầy sẽ không kéo dài. Để tự xoay xở, các xí nghiệp tài chánh sẽ lại vay nợ nhiều và đầu cơ liều lĩnh. Họ có nhiều lý do để hành động như vậy. Một công trình nghiên cứu của Wall Street Journal đã đi đến kết luận: nếu áp đặt một số chuẩn mực đòn bẩy khắt khe hơn trong 5 năm trước cuộc khủng hoảng, lợi nhuận của các xí nghiệp lớn đã có thể phải chịu sụt giảm gần 25%.

Mô hình để thiết kế các quy luật tư bản dự trữ tương lai là những trắc nghiệm sức đề kháng - stress tests - Cục Dự Trữ Liên Bang đã thực hiện trong năm rồi, để thẩm định sức chịu đựng hay đề kháng của từng ngân hàng. Geithner thuyết phục Obama thực hiện những trắc nghiệm như một phần cốt lỏi của chiến lược cứu nguy tài chánh. Kết quả đã đưa đến một điểm ngoặt trong quá trình khủng hoảng. Các ngân hàng ở Hoa Kỳ giờ đây lành mạnh hơn trong nhiều xứ, và kinh tế Mỹ đang tăng trưởng nhanh hơn. Ấn tượng hơn nữa là, theo thống kê của IMF, chương trình cứu trợ đã có những dấu hiệu ít tốn kém hơn nhiều so với các phí tổn thu dọn sạch sẽ trung bình sau khủng hoảng tài chánh.

Nhìn xa hơn, Geithner xem các trắc nghiệm sức đề kháng như một phương cách chứng tỏ những gì Cục Dự Trữ Liên Bang có thể thành đạt khi được trao quyền phối trí và giám sát mọi bộ phận của hệ thống tài chánh, kể cả các ngân hàng nhại phi chính thống. Hơn nữa, các trắc nghiệm có thể là bằng chứng Cục Dự Trữ Liên Bang giờ đây tin tưởng vào hiệu năng giám sát sau nhiều thập kỷ luôn coi nhẹ. Trong khuôn khổ quy hoạch mới, Cục Dự Trữ Liên Bang - một kho tàng các chuyên gia ngân hàng và các kinh tế gia phi chính trị được huấn luyện kỹ càng - sẽ được trao một vai trò quan trọng hơn trong tương lai.

Tuy nhiên, chúng ta có đủ lý do để tự vấn: liệu những tấm đệm tư bản dự trữ, ít ra dưới hính thức hiện nay, sẽ đủ để giúp vượt qua các giới hạn nhân-vô-thập-toàn nhân sự. Chính quyền và Quốc Hội đã cố tình mập mờ về các tỉ lệ tư bản dự trữ. Họ chưa hề đưa ra những con số hay giải thích nhiều chi tiết: chẳng hạn, các tỉ lệ sẽ thay đổi tùy theo kích cỡ xí nghiệp như thế nào hay họ sẽ đối phó ra sao với các tích sản nằm ngoài đối chiếu biểu. Cách tiếp cận của chính quyền và Quốc Hội có điểm lợi là các chi tiết kỹ thuật sẽ tránh khỏi quá trình mặc cả và tương nhượng ở Quốc Hội, tương tự như việc ấn định lãi suất là một quá trình dành cho Cục Dự Trữ Liên Bang , thay vì Quốc Hội. Sự mập mờ cũng đem lại cho các nhà giám sát Hoa Kỳ nhiều tự do hơn trong việc phối hợp với các quan chức giám sát nước ngoài. Vả chăng, tránh được sự xoi mói của công chúng, các đòi hỏi tư bản dự trữ sẽ trở thành một đề tài cuối cùng sẽ tùy thuộc vào quyền chuyên quyết của cơ quan giám sát. Các xí nghiệp Wall Street sẽ có cơ may thuyết phục Cục Dự Trữ Liên Bang là họ có thể không cần đến nhiều vốn liếng như người ta nghĩ. Đã hẳn, các xí nghiệp sẽ phải đưa ra vài mô hình toán học tinh vi phức tạp hậu thuẩn cho lập trường của mình.

Tuy nhiên, các trắc nghiệm sức đề kháng cũng thường chỉ được tổ chức khi các ngân hàng yếu ớt về các phương diện tài chánh và chính trị. Khi mọi chuyện đều tốt đẹp như trong thập kỷ vừa qua, các viên chức Cục Dự Trữ Liên Bang - không riêng gì Alan Greenspan - đã chểnh mảng, hờ hửng trong việc sử dụng quyền hạn của mình. Họ sẵn sàng tin các lý lẽ biện minh cho bong bóng do Wall Street đưa ra. Điều đó rất dễ tái diễn. Trường hợp điển hình là chính Geithner.

Mặc dù Geithner bị chỉ trích quá gần gũi với Wall Street, ông ta chưa bao giờ làm việc ở đó. Ông suốt đời là công chức. Khi chính quyền Clinton sắp mãn nhiệm kỳ, người đỡ đầu của Geithner, Robert Rubin, cho Geithner biết ông có thể có một việc làm béo bở ở Wall Street. Tuy vậy, Geithner đã nhận một chức vụ khiêm tốn hơn với IMF. Trong tư cách chủ tịch Dự Trữ Liên Bang New York, Geithner đã đưa ra nhiều báo động hơn bất cứ viên chức giám sát nào khác. Ông thúc đẩy nhân viên dưới quyền và các lãnh đạo ngân hàng phải nghĩ đến các ngân hàng đang có bao nhiêu vốn liếng và cần có bao nhiêu. Ông cảnh cáo những thời kỳ bình ổn thường đưa đến các cuộc khủng hoảng bất ngờ, không được tiên đoán, và một khi lòng tin bắt đầu lung lay, nó có thể sẽ biến mất nhanh chóng. Trên phương diện trí thức, ông hiểu rõ mọi việc có thể trở nên khó khăn như thế nào.

Tuy nhiên, điều ông đã để tuột khỏi tầm tay, chính là mọi việc đã chệch hướng trong một số định chế do ông giám sát. Tháng 5-2007, trong bài nói chuện ở hội nghị Dự Trữ Liên Bang ở Georgia, Geithner phát biểu "Canh tân tài chánh đã cải thiện khả năng đo lường và quản lý các rủi ro bất trắc". Ông nói tiếp: "các xí nghiệp lớn thường mạnh mẽ về tư bản tương đối với bất trắc"[9]. Bernanke, chủ tịch Cục Dự Trữ Liên Bang, đã từng nhiều lần có những tuyên bố, giờ đây nhìn lại, người ta thấy còn tệ hại hơn nhiều. Ông chẳng những đã tuyên bố các bong bóng rất khó nhân diện. Ông còn tích cực chối bỏ cả bong bóng bất động sản.

Như vậy, có thể nào quan điểm của Bernanke và Geithner sẽ đúng đắn hơn trong tương lai? Cũng có thể. Nhưng đây là điều rất khó tin. Cả hai đã dành sự nghiệp của mình nghiên cứu và giải quyết các khủng hoảng tài chánh. Ngay cả một vài đồng nghiệp bất đồng quan điểm với hai ông cũng đồng ý cả hai đều rất thông minh. Với tư chất và khả năng như thế, lẽ ra hai ông đã phải là những người có đủ uy tín cần thiết cho vai trò những viên chức giám sát sáng suốt và kiên quyết, nhưng họ đã không hành động như thế.

Giải pháp thay thế như vậy là gì? Canada đã đem lại một bài học rõ ràng. Họ trông cậy vào các quy luật trực tiếp và minh bạch hơn Hoa Kỳ. Canada buộc tín dụng bất động sản với ít hơn 20% trả trước phải được bảo hiểm, và loại tín dụng nầy rất ít phổ thông ở Canada. Canada cũng ấn định tỉ lệ đòn bẩy chuẩn không được vượt quá 20/1. Julie Dickson, lãnh đạo ngành giám sát Canada, đã từng tuyên bố: "Chúng tôi trở nên thực sự cứng rắn khi các ngân hàng tiến gần đến tỉ lệ trần nầy"[10].

Những quy luật trực tiếp và minh thị cũng có nhiều vấn đề riêng. Nhưng những quy luật nầy cũng gửi đi những tín hiệu có thể tồn tại lâu dài qua nhiều chu kỳ kinh tế. Ở Canada, quy luật tư bản dự trữ mang tính bảo thủ được phổ biến rộng rãi không những đã kiềm hảm các ngân hàng Canada, mà còn có giá trị như một lời nhắc nhủ bất biến đối với các viên chức giám sát và giúp các viên chức nầy tránh rơi vào vòng ảnh hưởng của tư duy bong bóng.

Năm ngày trước khi Geithner đọc diễn văn ở Georgia, Dickson đã có bài nói chuyện ở Ontario. Bà nhắc nhở cử tọa về nhân vật chính Samantha, trong show truyền hình "Bewitched" (Phù Thủy) trong thập kỷ 1960s, có quyền lực phi thường và có thể biến tai lợn thành những ví xách tay bằng lụa. Bà nói, "ngày nay thị trường hình như đang sản xuất những chứng khoán ba-A (triple-A) từ những chứng khoán không có giá trị ba-A"[11]. Tai lợn trong câu chuyện bà kể chính là tín dụng bất động sản subprime, do Wall Street gói ghém lại để tái phân phối, thành các trái khoán ba-A an toàn được rao bán như những ví xách tay bằng lụa.
THUẾ ĐÁNH TRÊN CÁC NGHIỆP VỤ TÀI CHÁNH

Quy luật minh bạch gẩy gọn được lưu ý nhiều nhất trong năm qua là Quy Luật Volcker. Lấy tên của nguyên chủ tịch Cục Dự Trữ Liên Bang và cố vấn của T T Obama, quy luật sẽ cấm các ngân hàng chính thống tham gia vào các giao dịch chứng khoán - mua bán các cổ phần hay các loại chứng khoán để kiếm lợi nhuận, thay vì như một dịch vụ cho khách hàng.Thoạt trông, quy luật có vẻ như một cố gắng tái lập luật Glass-Steagall. Khi T T Obama thêm biện pháp cấm đoán nầy vào kế hoạch giám sát trong tháng 1-2010, Obama hình như đã chấp nhận một thay đổi quan trọng.

Nhưng nếu lắng nghe tác giả các quy luật nầy - như Volcker hay Austan Goolsbee, một chuyên gia kinh tế Tòa Bạch Ốc - chúng ta sẽ hiểu được biện pháp nầy thường bị hiểu lầm. Mục đích của biện pháp chật hẹp hơn: các ngân hàng chính thống được quyền vay tiền với lãi suất thấp của chính phủ để khuyến khích cho vay lại dễ dàng, cũng như để chận đứng tình trạng hoang mang của người dân trong khủng hoảng. Khi các ngân hàng dùng tiền vay nhẹ lãi để đầu tư, các ngân hàng nầy, trong thực tế, đã được chính quyền trợ cấp trong các giao dịch chứng khoán. Trợ cấp nầy đã giúp Goldman Sachs và các xí nghiệp khác gặt hái nhiều lợi nhuận lớn trong năm vừa qua. Goolsbee nói: "Thật sự không thích đáng một chút nào khi các ngân hàng nhận tiền trợ cấp của dân chịu thuế và dùng vào các việc đầu tư mang tính đầu cơ không dính dáng gì đến khách hàng của mình"[12].

Tuy nhiên, tiền trợ cấp tự nó không gây ra khủng hoảng. Có hay không có trợ cấp, một xí nghiệp vẫn có thể gây ra sụp đổ cho hệ thống tài chánh. Lehman gần như đã làm như vậy, và Lehman không phải là một ngân hàng chính thống.

Chừng nào Quốc Hội có thể định nghĩa một cách thỏa đáng và đầy đủ các giao dịch quyền sở hữu - điều nầy đòi hỏi phải mất chút ít công phu, nhưng không đến nổi khó khăn như Wall Street đã gợi ý - một hình thức nào đó của quy luật hình như là một phần phải chăng của cơ chế tái giám sát. Nhưng nó không phải là một cải cách sẽ giữ vai trò ngăn chặn đáng tin cậy thất bại của nhân viên giám sát.

Đề nghị bạo dạn nhất theo hướng nầy là chia vụn các ngân hàng. Một số người ngoại đạo, như Simon Johnson, nguyên kinh tế trưởng IMF, đưa ra luận cứ các ngân hàng khổng lồ ngày nay đủ hùng mạnh để đề kháng mọi nỗ lực thiết kế một cơ chế giám sát chặt chẽ. Chỉ riêng kích cỡ của một ngân hàng cũng có thể gây khó khăn cho chính quyền tiếp quản và thanh toán một ngân hàng sắp vỡ nợ một cách gọn gàng trong trật tự. Một giải pháp trung dung có lẽ là dành cho các viên chức giám sát quyền chia một ngân hàng lớn đang gặp khó khăn ra làm nhiêu ngân hàng nhỏ trước thời điểm biện pháp cuối cùng - tiếp quản và giải thể - trở nên cần thiết.

Nhược điểm của cách tiếp cận nầy là kích cỡ không phải là bất trắc rủi ro. Lehman và AIG không phải là các xí nghiệp lớn nhất của Mỹ. Khu vực tài chánh được giám sát chặt chẽ của Canada mang tính tập trung cao hơn khu vực tài chánh được giám sát lơi lỏng của Hoa Kỳ. Canada có đến 4 trong số 50 ngân hàng lớn nhất thế giới. Hoa Kỳ, với một nền kinh tế 10 lần lớn hơn kinh tế Canada, chỉ chiếm có 5 trong số 50 ngân hàng hàng đầu trên thế giới.

Điều đáng e ngại hơn kích cỡ của bất cứ một ngân hàng riêng lẻ nào là kích cỡ của toàn khu vực. Ở Hoa Kỳ, khu vực ngân hàng đã chiếm 30% lợi nhuận toàn bộ các công ty trong thập kỷ trước đại suy thoái, từ 16% trong hai thập kỷ 1970s và 1980s. Đã hẳn, một phần tăng trưởng đã phản ảnh những canh tân, như A.T.M., giúp cải thiện đời sống đại chúng. Tuy nhiên, phần lớn có lẽ không phải như thế, và chỉ phản ảnh khả năng Wall Street kiếm những doanh lợi khổng lồ trong giai đoạn thuận lợi và được cứu trợ trong giai đoạn gặp khó khăn. Đó là điều các kinh tế gia gọi: "tư nhân hóa" lợi nhuận và "xã hội hóa" bất trắc. Wall Street đã thủ lợi khi gây thiệt hại cho xã hội.

Chiến lược được chấp nhận rộng rãi để đối phó với các hoạt động gây tổn hại cho xã hội là đánh thuế trên các hoạt động liên hệ. Thuế sẽ làm nản lòng các hoạt động loại nầy. Thuế cũng đem lại thu nhập có thể giúp trang trải các chi phí gây ra. Kinh tế gia gọi các sắc thuế loại nầy - thuế rượu, thuế thuốc lá, thuế ô nhiễm - là loại thuế phụ ngoại vi (externality taxes).

Chương trình tái giám sát do Bộ Ngân Khố phổ biến hồi đầu năm không bao gồm sắc thuế đánh trên ngân hàng. Tuy nhiên, Obama sau đó đã đề nghị một sắc thuế cho phép chính quyền thâu lại các khoản thất thoát trong số 700 tỉ quỹ cứu trợ - Chương Trình Cứu Trợ Tích Sản Lâm Nguy (Troubled Asset Relief Program - TARP). Sắc thuế đã được thông qua năm 2008. Kế hoạch tái giám sát lý tưởng có lẽ phải thiết lập một sắc thuế thường trực theo hướng nầy. Một sắc thuế như vậy sẽ xác nhận các ngân hàng giữ một chức năng nòng cốt trong nền kinh tế thị trường, nhưng các ngân hàng cũng có thói quen kinh doanh thiếu khôn ngoan và đầy bất trắc. Dù các nhà giám sát cố gắng đến đâu và khôn lanh đến mấy , họ thường khó thể khống chế các bất trắc loại nầy.

Người chịu thuế rút cuộc cũng phải gánh trách nhiệm hoàn trái, dù chỉ để ngăn ngừa khủng hoảng tài chánh trở thành đại khủng hoảng. Một sắc thuế đánh vào ngân hàng sẽ buộc các ngân hàng phải gánh chịu một phần phí tổn.

Thuế TARP của Obama chỉ mang tính tạm thời, và sẽ mãn hạn vào năm 2020. Nhưng Quốc Hội có khuynh hướng gia hạn các luật thuế loại nầy, loại thuế thường bắt đầu với một thời hạn nhất định. Và chính quyền Obama hình như khá thoải mái với ý tưởng để sắc thuế trở thành thường trực. Geithner nói "các cuộc khủng hoảng tài chánh gây ra một số tai hại khổng lồ cho cơ sở thuế thu nhập trong một thời gian. Vì vậy, chúng ta có đủ luận cứ chính đáng cần thiết lập một sắc thuế đánh trên khu vực tài chánh, tương tự như thuế ô nhiễm"[13].

Nếu tổng hợp tất cả các phần chính trong kế hoạch, chúng ta có thể thấy kế hoạch Obama cũng nhằm thành đạt cùng các thành công của cơ chế giám sát thời Roosevelt, mặc dù với một hệ thống ngân hàng hoàn toàn khác. Cơ quan bảo đảm an toàn cho giới tiêu thụ là câu trả lời ngày nay cho Ủy Hội Giao Dịch Chứng Khoán (Securities and Exchange Commission -SEC), được thiết lập năm 1934 để bảo vệ giới đầu tư. Nới rộng mạng lưới quy luật giám sát để bao gồm cả những hoạt động của các ngân hàng nhại phi chính thống là một nỗ lực giảm thiểu các bất trắc, giống như luật Glass-Steagall trước đây. Tỉ lệ vốn dự trữ cao hơn nhằm giảm bớt nạn mất lòng tin của giới ký thác tiền ở ngân hàng. Việc trao quyền cho chính phủ tiếp quản các ngân hàng đầu tư sắp vỡ nợ cũng chỉ là một sự nới rộng luật New Deal cho phép chính quyền tiếp quản các ngân hàng chính thống.

Tuy nhiên, vẫn có một khác biệt quan trọng giữa hai cách tiếp cận của Roosevelt và Obama. Roosevelt dựa trên những ý tưởng rộng lớn mà Tòa Bạch Ốc hiện nay đã tránh né phần lớn. Roosevelt đã bảo đảm tiền ký thác ngân hàng, phân biệt các hoạt động của ngân hàng thương mãi với hoạt động của ngân hàng đầu tư, và cấm chỉ mọi thông tin thiếu trung thực về chứng khoán. Obama muốn buộc các ngân hàng vào những chuẩn mực tư bản và thanh khoản chưa được định nghĩa rõ ràng, tương ứng với kích cỡ và cách kết nối với các xí nghiệp khác.

Đây là một bước quyết định, cũng như nhiều quy luật mới khác trong kế hoạch. Nhưng dĩ nhiên người ta sẽ dễ dàng có lòng tin ở kế hoạch nếu chính quyền và Quốc Hội tiến thêm vài bước nhằm giảm thiểu phần chuyên quyết và tăng cường phần minh thị. Trong một bài nói chuyện gần đây, Kevin M. Warsh, một thống đốc Cục Dự Trữ Liên Bang, đã phát biểu: "Các chế độ cơ sở trên quy luật thường khó tránh mang tính sống sượng và thiếu hoàn hảo"[14]. Nhưng Warsh đã gợi ý, các chế độ nầy có thể tốt hơn một hệ thống trong đó các ngân hàng chấp nhận cách quản lý vi tiểu (micro-management) từng chi tiết với giả thiết họ sẽ có thể lựa chọn các vi-quản-lý (micro-managers) của chính họ.

Để tránh điều nầy, thuế đánh trên ngân hàng có thể biến đổi từ một màn trình diễn phụ để trở thành trung tâm cuộc thảo luận về giám sát. Các viên chức giám sát có thể quyết định những lệ luật cứng rắn và phổ biến rộng rãi về tư bản. Những con số minh thị riêng biệt không cần được ghi rõ trong pháp chế, nhưng Cục Dự Trữ Liên Bang - cơ quan có quyền ban hành các quy luật - không cần phải đợi một đồng thuận toàn cầu khó lòng thành đạt. Ít ra, các quy luật phải đủ minh thị và rõ ràng để mọi người hiểu rõ. Như cuộc khủng hoảng đã phơi bày, các mô hình toán học tinh vi có thể đem lại một giải đáp quá dễ dàng mà các người chấp hành ưa thích.

Dù thiếu hoàn hảo, các quy luật đơn giản có điều lợi là gửi đi những tín hiệu có thể thượng tồn lâu dài qua nhiều chu kỳ kinh tế. Đây là bài học từ các cải cách của Roosevelt và của một giai đoạn yên bình trong sinh hoạt ngân hàng sau đó.
KẾT LUẬN

Lý do rõ ràng cần tái giám sát tài chánh là ngăn ngừa khủng hoảng trong tương lai hay ít ra giảm thiểu tác động của khủng hoảng. Tuy nhiên, cải cách cũng còn có nhiều điều lợi tiềm năng khác. Hãy nhìn xem những gì đã xẩy ra cho kinh tế Hoa Kỳ trong ba thập kỷ vừa qua. Các xí nghiệp tài chánh với tỉ lệ đòn bẩy cao đã trở thành một bộ phận áp đảo trong nền kinh tế. Lợi nhuận đã cho phép các xí nghiệp nầy tuyển chọn nhiều nhân viên nòng cốt của Hoa Kỳ - các nhà toán học, các khoa học gia, các sinh viên đại học tốt nghiệp hàng đầu, và các cựu nhân viên cao cấp trong chính quyền... Tuy nhiên, hầu hết các lợi nhuận vừa nói đã tỏ ra phù du. Chẳng hạn, một số các nhân viên sáng giá nhất đã vùi đầu vào việc thiết kế các phương tiện làm tiền ngày một phức tạp từ không khí, số thu nhập lại cho phép tiếp tục thu hút nhiều tài năng hơn.

Một cách tiếp cận nghiêm chỉnh cơ chế giám sát có thể có một tác động lớn trên tình trạng nầy, dù chỉ gián tiếp. Qua sự giảm thiểu số lợi nhuận của các xí nghiệp tài chánh, chính quyền có thể giới hạn khu vực tài chánh ở một kích cỡ phải chăng thích hợp. Tái giám sát có thể chấm dứt một số trợ cấp Wall Street đang thụ hưởng hiện nay. Những cước phí che đậy của khu vực tài chánh, như lãi suất tiệm tăng qua thời gian và nhiều xảo thuật lừa đảo khác, có thể được kiểm soát. Những điều kiện đòi hỏi về tỉ lệ tư bản dự trữ và thuế đánh vào khu vực ngân hàng có thể buộc các xí nghiệp tài chánh phải trải nghiệm những thời kỳ thịnh vượng cũng như suy thoái. Trên hết, tái giám sát có thể xác định hệ thống tài chánh mới có thể mang lại vừa lợi lộc và cả bất trắc.

Phải luôn ghi nhớ thời kỳ sung mãn dài lâu của Wall Street đã không được san sẻ đáng kể bởi phần lớn nền kinh tế Hoa Kỳ. Công xá của công nhân gia tăng quá chậm trong ba thập kỷ vừa qua. Tăng trưởng kinh tế trong thập kỷ vừa qua nói chung đã chậm hơn trong bất cứ thập kỷ nào sau Đệ Nhị Thế Chiến. Vả chăng, một mục đích quan trọng của tái giám sát phải nhằm nới lỏng quyền kiểm soát của Wall Street đối với các nguồn tài nguyên, tài chánh và nhân sự, của Hoa Kỳ, với hy vọng các tài nguyên nầy sẽ được tái phân bổ vào các phương cách sử dụng mang tính sản xuất tốt hơn.

GS Nguyễn Trường

Irvine, California, U.S.A.
09-4-2010


[1]They're all a necessary part of the network of what makes market economies work, and we have not been good enough about doing them in recent years.

[2] When things are going well, it's very hard to conduct a disciplined regulation, because everyone's against you.

[3] The New Deal regulations "fostered a banking system that was, for the better part of 40 years, quite stable and reasonably profitable, though not particularly innovative in meeting the needs of depositors and borrowers.

[4] We had this entire system of outside banks that had no meaningful constraints on capital and leverage.

[5] The profits these firms make are so out of proportion with any contribution they make to the economy.

[6] A lot of people think, Companies are trying to subvert what's good for me. But think of the guy in charge of a credit-card division. He's doing his job. All he has to work with is the demand curve.

[7] The goal of the consumer-finance agency would be to "take the powerful river of competition and make it flow in a direction that benefits people.

[8] We don't know where the next crisis is going to come from. We won't be able to foresee it. We're not going to pre-empt all future bubbles. So we want to build a much bigger cushion into the system against those basic human limitations. I don't want a system that depends on clairvoyance or bravery. The top three things to get done are capital, capital and capital.

[9] Financial innovation has improved the capacity to measure and manage risk. Large firms, he added, are generally stronger in terms of capital relative to risk.

[10] We become nasty when banks get close to it.

[11] Today,markets seem to be producing triple-A instruments from instruments that are not rated triple-A.

[12] It's just not appropriate for banks to get money subsidized by the taxpayer and use it for their own speculative investments that have nothing to do with their clients.

[13] Finance crises cause a huge amount of damage to the revenue base over time. So there is a very good argument you should put a tax on finance, like a tax on pollution.

[14] Rule-based regimes are inevitably crude and imperfect.






© http://vietsciences.free.fr và http://vietsciences.org Nguyễn Trường

6/5/10

Thái Kim Lan- Nguyễn Du nghĩ gì về “thơ"? Thử tìm một lý giải

Nguyễn Du nghĩ gì về “thơ"? Thử tìm một lý giải

“Của tin, gọi một chút này làm ghi"
(Nguyễn Du, Đoạn trường tân thanh)

Trước tác thơ Nôm Truyện Kiều trong nội một đêm (theo truyền thuyết), Nguyễn Du kết thúc Đoạn trường tân thanh bằng 6 chữ ngắn ngủi, - để nói theo cách hiện đại - "nhận định" về chính thơ ông:

“Lời quê chắp nhặt dông dài"…

Đem tất cả hồn và xác ký thác vào thơ đến nỗi sáng hôm sau tóc xanh trở nên bạc, thi nhân "phản tỉnh" - lại dùng một chữ khác có tính lý luận văn học - về vai trò của thơ mình khi hạ bút chấm hết:

"Mua vui cũng được một vài trống canh."

So với hơn ba nghìn lẻ (2/3254) câu thơ Truyện Kiều mà mỗi chữ là mỗi động tâm đứt ruột, phê vào đó chữ "lời quê" và "mua vui", thì chẳng khác nào như thổi một sợi tơ phất qua núi Thái Sơn. Chúng nhạt nhất so với thi vị đậm quánh xúc cảm của những câu thơ đi trước.

Tuy nhiên nếu đọc kỹ hơn và biết rằng thi hào của chúng ta trân trọng từng chữ "thơ" trong toàn bộ thi nghiệp của ông, cả thơ chữ Hán lẫn chữ Nôm, không cẩu thả trong lối dụng từ, đã ký thác mạng sống cho thơ "bạc mệnh hữu duyên lưu giản tịch" (mệnh bạc có duyên lưu lại nơi sách vở [1] ), thì hai câu thơ cuối cùng cần được trân trọng không kém.

Và đọc lại, bỗng quí: đó là hai câu thơ duy nhất đứng bên ngoài tác phẩm, chúng nhìn về thơ trong toàn diện tác phẩm. Trên bình diện phê phán hay lý luận văn học, có rất ít câu thơ trong tác phẩm của Nguyễn Du nói về thơ - điều ấy rõ - Nguyễn Du là nhà thơ, ông làm thơ, say đắm thơ, không mất giờ lý luận về thơ. Cho nên hai câu thơ cuối và đoạn thơ 1404 – 1466 nằm trong truyện Kiều là những suy nghiệm hiếm hoi mà Nguyễn Du bộc lộ về thơ. Truy nguyên ý nghĩa của những đoạn thơ này có thể khái lược quan niệm về thi ca làm nền tảng cho niềm tin và sức sáng tạo của nhà thơ.

Tại sao thơ hay như thế, tiếng nào cũng não nùng xôn xao mà gọi là "lời quê"? Có phải đó chỉ là lời khiêm nhường cũ kỹ so với sự ồn ào đời nay? Có thật thơ Kiều là "quê"? Câu trả lời đã rõ là không. Vậy thì nói "quê" là "quê" kiểu gì?


I. "Lời quê chắp nhặt dông dài" có thể có ba cách giải thích:

1. Việt Nam đầu thế kỷ 19, Nho học vẫn còn đóng vai trò chủ đạo trên các lãnh vực tư tưởng, giáo dục, văn hoá. Việc sử dụng chữ Nôm trong các sáng tác văn học đang ở trong giai đoạn phát triển, nhưng thói quen trọng Hán khinh Nôm vẫn còn chế ngự tầm nhìn của mọi tầng lớp quần chúng. Câu "Nôm na là cha mách qué" phổ biến trong dân gian mãi đến tận thế kỷ sau. Đối với Hán ngữ sang trọng bác học, thì chữ Nôm là quê mùa. Nguyễn Du không thể không cảm thấy ngọn gió thời thượng thổi giạt qua hồn, nhưng sự thách đố sáng tạo trong ngôn ngữ mới đối với nhà thơ trở thành thúc giục đam mê.

"Lời quê" là một thú nhận "quê", nhưng là một thú nhận ngẩng cao đầu đứng trên mảnh đất "quê" ấy: mảnh đất của thơ Nôm. Bằng chứng cho sự ngẩng cao là vẻ đẹp vô song của 3252 câu thơ đi trước. Vậy thì muốn được là "quê", nhà thơ trước hết phải là một kẻ sáng tạo đích thực trong ngôn từ. Nguyễn Du đã chứng tỏ được điều ấy. Dưới ngọn bút của ông, ngôn ngữ, Hán hay Nôm, và chính ngay với Nôm, đã hóa xác. Những gì là "quê" (hồn quê, nỗi quê, lòng quê) như củi, rơm, lá đã được nhà thơ biến thành chất lửa tinh ròng thơ Nôm, rực sáng trong Truyện Kiều. Có thể lấy ngọn lửa của Nietzsche chiếu sáng tâm hồn thơ Nôm Nguyễn Du:

Biết mình đến từ đâu
Khát khao như ngọn lửa
Bốc cháy và tự thiêu
Ta sờ, hừng ánh sáng
Ta đi, rụi tàn tro
Chính ta là lửa đỏ

(F. Nietzsche, Thơ)

2. Thú nhận thứ hai của "lời quê" là sự lựa chọn khiêm tốn được là "quê", đối nghịch với hào nhoáng khoe khoang ồn ào, đánh bóng. Một sự nhún mình của người cầm bút, không dán bích chương, đẩy lùi cá nhân ra phía sau, nhường cho cảm nhận thực chứng "thơ" ra đàng trước, chỉ có "thơ" đến với người, đến với nhân gian. Đạo đức thi ca ở đây là sự tỏ lời, không mang chủ thể tự kiêu trên mình cho nên vẻ "quê" của "lời" gần với cái cúi đầu nhỏ nhẹ mà ngát hương của hoa tím.

3. Nhưng có lẽ hai yếu tố trên chỉ là phản ứng về một quan điểm thời thượng của thi ca trong bối cảnh lịch sử của một nền văn học chữ Hán coi trọng tầm chương trích cú để tiến thân, lập công danh, mà Nguyễn Du chán chường. Chúng chưa phải là cơ sở căn bản của thi ca mà "lời quê" muốn bày tỏ. Chúng mới chỉ là sự phủ định từ bỏ mọi giả tạo bề ngoài. Tự thân của "lời quê" cần được hiểu trên bình diện chân mỹ của thi ca.

Thơ, như Nietzsche phân tích, là hóa kiếp cái tất định (Notwendigkeit) đóng cứng của thế giới hiện tượng trở thành vẻ đẹp khả thể của chân lý chưa khai mở [2] .

Sự bày tỏ, biểu lộ của thơ là "quê" trong nghĩa hiện thực của nó là "chân", mộc, đơn sơ, chân thành, chân tình của chân lý chưa khai mở ấy. Khóc là khóc, cười là cười, đau là đau. Đó là sự trung thực. Chính sự trung thực này là yếu tố nguyên thủy nhất của thơ. Nó không phải là chân lý đóng khung, qui ước của đúng sai, mà là khả thể làm điều kiện cho một tác tạo mới như "đoạn trường tân thanh", tiếng kêu mới xảy ra như một chấn động ngôn ngữ quặn lên cùng nỗi đau xót chân tình.

Cho nên trung thực là nền tảng của sáng tạo thi ca. Trung thực thuộc bình diện thể tính (Sein) chứ không thuộc bình diện chân lý (Wahrheit). Thi ca, theo Heidegger, "là một biến cố cội nguồn (Grundereignis) của thể tính (Sein, being) như là thể tính. Thi ca ban phát thể tính và phải ban phát nó, bởi vì trong ban phát thi ca không gì khác hơn là thể tính, thể tính ấy tự mang nó lại cho chính nó trong lời nói… Chỉ qua sự gọi tên của thi ca, hiện sinh mới được gọi tên, cái mà nó là". [3]

Lời đó là "quê", chân tình, là không sao chép rập mẫu từ chương, là lời quê "chắp nhặt" dưới ngọn bút của thi nhân. Chữ chắp nhặt ở đây đưọc hiểu như những tình cờ (zufällig), đối nghịch với đóng khung khuôn sáo (notwendige Konvention) tất định. "Chắp nhặt" chính vì thơ là sự đột biến, xảy ra trong từng giây từng phút, như viên ngọc hay viên sỏi rơi trong tâm, được lượm kết thành lời.

Căn nhà thể tính – lời quê - không chứa gì khác hơn trong quá trình sáng tạo, xảy ra ấy, ngoài tấm lòng bộc bạch gọi tên chân phương, không dối trá của thi nhân. Cho nên "lời quê" là ngôn ngữ sáng tạo chân như, cội nguồn hiện hữu thi ca, từ đó tuôn trào, Nguyễn Du khiêm tốn gọi là "dông dài", "đoạn trường tân thanh".


II "Mua vui cũng được một vài trống canh" hay khả thể sáng tạo tự do

Nếu "lời quê" Nguyễn Du xác định bản lai ngôn ngữ thi ca, trên phương diện thể tính, chúng ta có thể tìm hiểu "mua vui" trên bình diện "dụng" hay vai trò của thi ca.

Có phải vai trò của thơ là để "mua vui" trong nghĩa cuộc vui chơi đổ một trận cười? Đọc câu "mua vui cũng được một vài trống canh, thoạt tiên người đọc ngẩn người ngạc nhiên, sau một trận đọc thơ long trời lở đất, đổ bao nhiêu nước mắt, "những điều trông thấy mà đau đớn lòng" như thế mà thi nhân bảo "mua vui cũng được" thì cũng lạ.

Dường như nhà thơ muốn bỡn cợt với chính thơ ông? Có và không, có lẽ! Nguyễn Du bỡn cợt với thơ của ông, cũng chính vì thơ là huyết mạch, là tim gan, hồn vía của ông, bỡn cợt trên sự nghiêm trọng đến chết của chính mình. "Tàn hồn vô lệ khấp văn chương" [4] (hồn tàn không nước mắt khóc văn chương)

"Mua vui" như thế cần phải hiểu trên một cấp bực khác hơn lãnh vực tương quan đối đãi buồn - vui, nước mắt đêm chầy và trận cười thâu đêm. Trên cấp bực ấy thú vui thường tình chỉ là thứ yếu. Trên thực tế, văn chương hầu như là món nợ mà thi nhân phải trả cho đời. Chống kiếm ngạo nghễ ngắm trời hay lăn lộn trong chốn bùn dơ thì trước sau "văn tự hà tằng vi ngã dụng" [5] , chữ nghĩa văn chương nào đã dùng được việc gì cho mình, chỉ có đói rét đến nỗi người phải mủi lòng thương... Vậy thì vui nỗi gì?

Ấy thế mà thi nhân vẫn chọn con đường "Dâm thư do thắng vị hoa mang" [6] , yêu thơ, say đắm sách vở vẫn còn hơn đa mang vì hoa, đắm đuối trong phồn hoa, trong hoan lạc hay bi thảm đời thường. Cánh bướm thi nhân không lụy vì hương hoa trần tục, mà say hương sách vở, nhập hồn văn chương.

Hình ảnh "bướm chết trong sách" (Điệp tử thư trung [7] ), một trong những bài thơ chữ Hán hay nhất của Nguyễn Du, có thể cho ta hình dung được chiều kích vượt đối đãi buồn vui thường tình của khái niệm "mua vui" theo Nguyễn Du. Cái duyên được chết trong sách - cũng là bạc mệnh đấy – là một cái chết hóa thân, khai phóng những chân trời mới cho năng lực tưởng tượng của cánh bướm sáng tạo. Cho nên chiều kích của „mua vui“ là tiếng đập cánh của con bướm bay vào khả thể tự do. Tự do sáng tạo, tự do tưởng tượng với cánh bay của ngôn từ trung thực, đó là niềm vui thi ca, diệu dụng của thể tính "nhà quê", để kết hợp "lời quê" với khái niệm căn nhà thể tính của Heidegger.

Có thể nói không phải ngẫu nhiên mà "mua vui" đi liền với "cũng được" - ít thôi không nhiều, niềm vui lung linh giải thoát – trong thoáng chốc, „một vài trống canh“, thời khắc mà mộng mị và tưởng tượng linh hoạt nhất là đêm, khi thế giới thường nhật trở nên ảo và mộng trở nên thật.

Ở đó khả thể tự do lên tiếng: thi nhân làm sống nàng Kiều, người đọc sống thế giới Nguyễn Du, không cần phải là thực như thời Minh, nhưng là thực tinh ròng trong xúc cảm sống động, “vui" trên phi lộ cảm thông, trong mộng mị giữa cõi trần "trần thế bách niên khai nhãn mộng" [8] , ở đó tưởng tượng, khả thể của những tầng trời sáng tạo tự do bay lượn.

Ngược lại với Platon đã xem thi ca là dối trá so với cuộc đời thực, cho nên không chấp nhận thi ca, Nietzsche cho rằng chính thi ca, ngay trong khi diễn tả ảo mộng hay ảo tưởng cuộc đời, lại có khả năng đưa con người đến gần với chân lý toàn diện.

Với một chút động tâm trước nghìn dặm sơn khê trong nỗi nhớ nhà, thi nhân có thể bứng rễ mọi tồn tại (Dasein) đã bị đóng chặt trong tất định (Notwendigkeit) khư khư bất dịch, ngay cả núi sông vật thể, chuyên chở trên mình mọi ảo tưởng dối trá mà dấn thấn vào khả thể sáng tạo. Chính trong quá trình ấy cơ hội đến gần thực tại tuyệt đối nẩy mầm. Bởi vì theo Nietzsche, chân lý luôn luôn ở trong sự trở thành, có nghĩa trong sáng tạo.

Trong ý nghĩa ấy, có thể Nguyễn Du là thi nhân tuyệt hảo mà Nieztsche mong đợi dù chưa một lần tri giao:

"Tri giao quái ngã sầu đa mộng
Thiên hạ hà nhân bất mộng trung" [9]

(Bạn bè quen biết thường lấy làm lạ sao ta hay sầu mộng,
Thiên hạ ai là người không ở trong mộng?)

Trong câu hỏi vặn lại ấy đã thấy hửng một nụ cười "tỉnh mộng" của thi nhân. Nhưng đừng mơ, đừng lầm ta tỉnh mộng, bởi vì chiều kích "tỉnh mộng" ấy là chân trời của cuộc lang thang vô hạn, trong cơn mộng triền miên, mỗi giật mình "tỉnh mộng" là mỗi hạt lưu ly trong cơn triền miên ấy:

Hành cước vô căn nhiệm chuyển bồng
Giang nam giang bắc nhất nang không
Bách niên cùng tử văn chương lý
Lực xích phù sinh thiên điạ trung
Vạn lý hoàng quan tương mộ ảnh
Nhất đầu bạch phát tấn tây phong
Vô cùng kim cổ thương tâm xứ
Y cựu thanh sơn tịch chiếu hồng [10]

Chân không bén rễ, hành trang là túi không, trời đất một kiếp bồng bềnh, trong nỗi thương tâm vô hạn. Đối với Nguyễn Du, "cùng tử với văn chương" (chết tiệt với văn chương) trở nên khả thể mang ý nghĩa của cuộc đời, bởi vì con người trong trời đất không có gì ngoài văn chương, ngoài thơ. Cho nên thơ là viễn tượng cứu rỗi, giải thoát của thi nhân. Thơ có khả năng đưa con người vượt lên trên gió bạc đầu và muôn dặm công danh, vượt trên sầu vạn kiếp bởi vì thơ tự do lên tiếng.

Và niềm vui như viễn tượng của tự do – trong chính mâu thuẫn của khái niệm tự do: chính là kiện tính "y cựu" của giọt nắng hồng chiếu trên núi xanh gây nỗi nhớ quê vô bờ. Tự do chính là sự trở về với một chút bền bĩ hơn tự do, hơn phù du: hồn quê… trong mộng thực của thi nhân.

Trần thế bách niên khai nhãn mộng
Hồng sơn thiên lý ỷ lan tâm [11]

(Trăm năm trần thế chỉ là giấc mơ mở mắt,
Nghìn dặm Hồng sơn, luống chạnh lòng khi tựa lan can)

Trong "mua vui cũng được…" - hai chữ "cũng được" làm dấu trừ, phủ định hai chữ "mua vui" đi trước – cho nên không là mua vui, trong nghĩa tuyệt đối của thi ca: chối bỏ mọi ý nghĩa thực dụng mới là vui thơ.

Nhưng thơ còn một nghĩa "ban phát" thực dụng, mà Nietzsche gọi là "tính thực dụng mê tín" (abergläubige Nützlichkeit) của quan niệm cổ điển Tây phương khá lỗi thời, trong lúc Nguyễn Du tin vào khả năng thực sự của nó trong cuộc đời: thơ có thể làm "trắng án", "xóa tội" như trường hợp của nàng Kiều:


III. Thi ca làm "trắng án"… gần bằng Thượng đế

Quan niệm này không mới trong lịch sử văn chương Đông Tây, nhưng Nguyễn Du đã làm sống lại trong đoạn thơ kể chuyện Kiều bị Thúc ông kiện trước cửa quan về tội đã quyến rũ Thúc Sinh. Đoạn thơ này cho ta có thể thấy được quan niệm tiêu biểu cổ điển về vai trò của thơ:

Quan cho trát đòi Kiều và Thúc sinh lên phân xử. Cảnh kiện cáo thật sinh động dưới ngòi bút Nguyễn Du:

Đất bằng nổi sóng đùng đùng,
Phủ đường sai lá phiếu hồng thôi tra

Thật là hãi hùng, dễ sợ, nhất là cái ông quan "mặt sắt đen sì" với giọng oai nghiêm như lệnh vỡ phán:

Suy trong tình trạng nguyên đơn,
Bề nào thì cũng chưa xong bề nào

Thế thì chỉ còn một nước bị gia hình, oan mà không kêu được, "ba cây chập lại" làm cho "đào hoen quẹn má, liễu tan tác mày".

Trong cái cảnh thảm khốc ấy, bỗng tình cờ vị quan nghe nói Kiều biết làm thơ. Như có một phép mầu, "mặt sắt đen sì" bỗng tươi lên, ông ra đề thơ "cái gông", Kiều làm một bài thơ. Ông đọc và ông cười… tha bổng! Trắng án!

Cười rằng: "Đã thế thì nên
Mộc già hãy thử một thiên trình nghề"
Nàng vâng cất bút tay đề,
Tiên hoa trình trước án phê, xem tường.
Khen rằng: "Giá đáng Thịnh Đường
Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân"

Khi không, vâng, khi không, đang là hai kẻ tội đồ dưới mắt quan toà, hai tên không đầu đường xó chợ thì cũng mèo mả gà đồng, hư thân mất nết, nhờ một bài thơ bỗng thành:

Thực là tài tử giai nhân
Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn!

Và ông quan nói như bị đồng ốp, vì ông quan này đã thoát xác, ra khỏi ông quan kia, từ lý đổi sang tình, giận dữ hờn oán tiêu ma:

Thôi đừng rước dữ, cưu hờn,
Làm chi lỡ nhịp cho đàn ngang cung.
Đã đưa đến trước cửa công
Ngoài thì là lý song trong là tình.

Bài thơ như một phép lạ, nó có khả năng biến đổi cõi ta bà hơn thiệt từ dữ sang lành, nhất là từ có tội sang vô tội. Nó có thể làm cho một người ghen tuông tột độ là Hoạn Thư thốt ra một câu cảm thông "Rằng tài nên trọng mà tình nên thương" khi đọc thơ Kiều.

Quan điểm "lấy thơ chuộc lỗi" không hiếm trong lịch sử văn chương Việt Nam. Truyền tụng nhất là chuyện Lê Quí Đôn thuở bé nghịch ngợm bị phạt quì, nhưng lại được tha vì đã ứng khẩu làm bài thơ "Rắn đầu biếng học" nổi tiếng. Không nói chi danh nhân, thường dân thế hệ trước cũng lấy thơ ra để "làm hòa" như là nếp nhà, bà nội tôi hay giảng hòa những cãi vã giữa chú bác bằng mấy câu thơ ngâm lên lơ lửng giữa không gian, đổi giận làm vui.

Cái gì trong thơ đã có phép biến hóa, tẩy sạch nghiệp trần tội lỗi?

1. Từ một kẻ đang bị trừng phạt, là nạn nhân dưới trận đòn phủ phàng, Kiều, ngay ở thời điểm "cất bút tay đề" đã thôi không là nạn - mà trở nên chủ nhân sáng tạo, là kẻ tác tạo. Sự tẩy tội xảy ra trong chính giây phút làm thơ, năng lực thơ đã đưa thể cách con người Kiều vào trong một tầng phẩm chất khác với thế giới ngục tù. Ở đó, gông cùm xiềng xích, đề tài bài thơ phải làm, được cởi bỏ dù nó có xuất hiện thực trong thơ thuyết phục tuyệt đối đi nữa, nó trở nên sản phẩm thơ, hết là thực tại tàn nhẫn trong chính lúc ấy.

2. Mặt khác, sức thuyết phục của bài thơ nằm ở phía người đọc. Ông quan khi bắt đầu đọc bài thơ, cũng đã trở nên một con người khác: không còn là con người của ý niệm công lý mà là người thưởng thức thơ. Hết ràng buộc hơn thua, so đo cán cân công lý, người thưởng thức thơ thong dong trong thế giới của tưởng tượng, ở đó chữ nghĩa không nặng nề xiềng xích mà ngược lại có thể cởi trói mọi định kiến bao vây. Trong tư thế "thưởng thức", ông quan dần dà thay đổi tư duy, mở rộng lòng để cảm thông. Hơn cả cảm thông, với tâm trạng của người thưởng thức rong chơi, ông trực nhận được chân lý không chỉ nằm trong đúng sai, buộc tội, mà phải nhìn thẳng vào tự tính con người: trong bản chất, một kẻ có khả năng làm thơ không thể hành động gian ác, người làm thơ là kẻ nuôi dưỡng mầm thiện trong tâm.

(Ngược với quan niệm hiện nay, một người có thể làm nghìn bài thơ, nhưng cũng có thể giết người hàng loạt sau hay trước đó.)

3. Tuy nhiên, nhà thơ sẽ không phải là Nguyễn Du nếu chỉ chuyển tải một quan điểm truyền thống về vai trò của thơ xuyên qua Đoạn trường tân thanh. Đối với Nguyễn Du, thơ không cậy quyền thế, ngược lại quyền thế phải phục tòng thơ, được hoán cải bởi thơ. Không phải Kiều được tha tội mà chính ông quan được nữ thi nhân Thúy Kiều xá tội nhờ khả năng biết thưởng thức thơ của ông.

Nàng Kiều trong bản chất là vô tội, không có gì để xử cả. Chính quan tòa mới là kẻ được giác ngộ bởi thơ. Trên bình diện tương thông, thơ đã hóa giải được tương quan bề trên - kẻ dưới, buộc tội và bị buộc tội, tương quan gay gắt giữa ta và người biến thành tương quan hòa khí của "chúng ta".

Miêu tả trong đoạn thơ xử án quả thật có pha lẫn một chút chế diễu bi hài của một vở kịch trên sân khấu. Đọc ông quan "mặt sắt đen sì" là thấy được nét mỉm cười của nhà thơ khi chấm phá cá tính của người cầm cán cân công lý thời ấy (và cả thời nay): mặt thì giống Bao Công rồi đấy, thị oai thì… cũng gần bằng, rỗn rảng nặng lời e hơn, nhưng từ trường hợp Kiều mà suy diễn, thì ông quan này, cũng như những ông quan khác từ cổ chí kim, suốt đời tưởng mình là quang minh mà thật ra thường xuyên lầm lạc trong ngộ nhận phán xét, chỉ dựa vào quyền uy roi vọt. Nhưng ông quan này đã thuộc vào loại khá, vì biết thưởng thức thơ.

Với một chút hóm hĩnh, Nguyễn Du tả sự hoán cải vị quan ngay ở lời khuyên của ông liên hệ đến nhạc thơ chui lọt vào tai, bỗng dưng vị quan thấy trong đầu rung chuông nhịp điệu:

"Làm chi lỡ nhịp cho đàn ngang cung": thơ có khả năng sửa nhịp hòa lại cung đàn ngay chính trong hai lỗ tai thường chỉ nghe tiếng mình quát tháo thiên hạ của vị quan ấy.

Dưới con mắt nhà thơ, cuộc xử án dựa trên một sự hiểu lầm ngay từ đầu. Một oan khốc cho Kiều, bỗng dưng vì yêu mà bị trừng phạt, vô lý chưa? Cho nên thơ giải oan, thơ có sức mạnh cải thiện – thiện ý đã đánh tan ngộ nhận của vị quan, đã giải thể mọi nghiệp chướng, trả lại sự vô tội vốn là nguồn gốc hiện sinh nguyên thủy. Hiểu lầm, ngộ nhận đến từ thân khẩu ý, trong đó ngôn từ đóng vai chính, ngôn từ trung thực (thơ) hóa giải ngôn từ, thanh lọc ngộ nhận, đó là diệu dụng của thơ:

Vị hữu văn chương sinh nghiệp chướng
Bất dung trần cấu tạp thanh hư [12]

(Chưa bao giờ có văn chương gây ra nghiệp chướng
Không để cho bụi bặm lẫn vào nơi trong sạch)

4. Diệu dụng ấy nhà thơ trao cho một sinh linh yếu đuối nhất, đang lầm lạc "vì mấy đường tơ", bị đày đoạ tận cùng thân phận nhưng thiện căn còn hơn những "ông quan". Chính các quan, không những chỉ thời xưa mà đời nay trong mắt Nguyễn Du là những kẻ cần được thanh lọc bằng thơ.

Sự thi hóa quan niệm minh triết về thơ trong đoạn "thơ trong thơ" dưới dạng thức liên hoàn đến vô cực chứng tỏ sức mạnh cảm hứng của nhà thơ:

Nguyễn Du làm thơ Kiều làm thơ… đến "cùng tử văn chương" để hiện thực một nàng thơ - đó là mỹ nhân Kiều - đang làm thơ – và mỹ nhân làm thơ cũng đồng nghĩa với thi ca. Bức họa thi ca mà Nguyễn Du vẽ ra trong khoảnh khắc ấy là một nàng Kiều không lộng lâỹ áo xiêm, kiêu sa son phấn, mà “đào hoen quẹn má, liễu tan tác mày”, nàng thơ, mỹ nhân “mai gầy vóc sương” chính là hóa thân vẻ đẹp cùng cực trần ai và siêu việt trần ai.

Trùng điệp thi hứng như thế để minh bạch một điều: trong tất cả những dối trá đa chiều, thơ là năng lực có thể đưa con người gần sự thật tuyệt đối, thơ tác tạo cái tuyệt đối:

"Không thơ con người là hư vô, với thơ con người hầu như là thượng đế". [13]

Thi ca là sự hoàn thiện tuyệt đối của thần linh.

Nietzsche nhận xét như thế khi phân tích nguồn gốc của thi ca theo quan điểm cổ đại, hầu như tương đồng với tư tưởng Đông phương:

"Người ta mong rằng nhờ vào nhịp điệu (thơ) sự cầu xin của con người được những vị thần linh chiếu cố, sau khi nhận ra rằng con người dễ nhớ câu thơ hơn là lời nói rời rạc… Nhịp điệu trong thơ nhạc có sức cuốn hút đôi chân và cả linh hồn… ngay cả linh hồn của thần thánh… Như thế con người tìm cách ép buộc các vị thần bằng nhịp điệu và gây áp lực lên họ: người ta tròng cổ họ bằng thi ca như một sợi dây thòng lọng ảo thuật” [14] … Với nhịp điệu "người ta có thể làm tất cả: phù phép làm nên một công việc, bắt một vị Thượng đế xuất hiện ở bên cạnh hay lắng tai nghe; tác thành tương lai đúng theo ý muốn, giải tỏa linh hồn của mình ra khỏi bất cứ một quá tải nào đó (sợ hãi, cuồng bệnh, thương tâm, căm thù), và không những linh hồn riêng mà cả linh hồn của quỉ sứ độc ác nhất…." [15]


IV. "Văn chương tàn tích nhược như ti" và người trong cuộc "phong vận kỳ oan"

Tin vào tính thiện trong thơ, nhưng Nguyễn Du không mê tín đồng hóa thơ với thần linh, có linh thiêng chăng thì đó là chữ "tâm" (linh sơn chỉ tại nhữ tâm đầu [16] ) luôn luôn hiện diện đầy nhân ái, chân thực, rung động dạt dào của một kẻ tự nguyện là người trong cuộc. Chính vì văn chương không dấy nghiệp mà vẫn lụy với đời, vì đời. Không thể chờ được thương đến sau khi chết mà cũng không thể hỏi trời cho ra lẽ, thi nhân là kẻ đến với con người trước nhất, tự coi mình là người trong cuộc với sinh linh yếu đuối nhất, oan khiên nhất:

Chỉ phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cưu [17]

(Son phấn như có thần nên sau khi chết làm cho thương xót [18]
Văn chương không có số mệnh mà bị hoạ đốt dở
Những mối hận xưa nay khó ai mà hỏi trời đưọc
Nỗi oan lạ lùng của kiếp phong nhã, ta tự coi như người trong cuộc…)

Làm người trong cuộc đối với Nguyễn Du có nghĩa thấm đượm, trải nghiệm hiện hữu giới hạn của con người trong trời đất vô cùng bằng hơi thở văn chương:

Thiên địa biên chu phù tự điệp
Văn chương tàn tức nhược như ti [19]

(Giữa khoảng trời đất, chiếc thuyền con trôi nổi như chiếc lá
Hơi tàn văn chương mảnh như sợi tơ)

Thi tứ mênh mông như bao trùm cả vũ trụ thoát ra từ hình ảnh "phù tự điệp" và "nhược như ti". Những mộng huyển bào ảnh của kiếp phù sinh "chiếc bách sóng đào", "mặt nước cánh bèo", "lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh" (Kiều) được thu gọn lại trong hình ảnh chiếc thuyền bồng bềnh như chiếc lá trong thiên điạ bao la. Thi ca là tiếng vọng "trong cuộc" của nỗi bơ vơ ấy, trung thực đến trở thành một với kiếp phù sinh "nhược như ti", mỏng manh như sợi tơ mà xuyên suốt thời gian và không gian, cùng khắp nhân sinh. Tiếng vọng ấy không ồn ào, huyênh hoang, cường điệu mà nhỏ như tơ, nhỏ đến mức không thể nhỏ hơn, nhưng từ nó, từ mạch tơ ấy sống dậy hiện hữu con người. Như Heidegger đã nhận định, chính thi ca ban phát hiện sinh, gọi tên hiện sinh trong sự trung thực của nó.

Mặt khác liễu tri hay chứng ngộ sâu thẳm nhất của Nguyễn Du về bản chất thi ca với câu "văn chương tàn tức nhược như ti" còn cho ta nhận rõ cảm nghiệm tự thân của thi nhân. Nếu thi ca là sự ban phát thể tính, làm nên hiện hữu sống thực, thì thi nhân, người ban phát thi ca chỉ là "tàn tức", nhỏ hơn một hơi thở sinh khí, một tăm hơi, mỗi giây phút có thể mất tăm, chìm lỉm trong mênh mang kim cổ. Trực giác về tính phù du của tự ngã khởi nguồn cho rung động sáng tạo. Thi nhân là kẻ trực nhận tính vô ngã ấy, đã từng "tắc hơi" (tàn tức [20] ) trong biến động trở thành. Hay nói theo Thiền học, mỗi giác ngộ thể tính đều bao hàm sự chết của ngã tất định làm điều kiện cho giải phóng tự do, bay vào hiện hữu (Sein). Bởi vì nói như kinh Kim Cương, sự ban phát của tâm – mà đó là thi ca - chỉ thật sự toàn hảo khi người ban phát không khởi lên ý niệm "tôi ban phát", ban phát trong giờ phút ấy mới thật sự là biến động của thể tính.

Sáng tạo thi ca nằm trong khoảnh khắc chết - sống của trở thành, tái sinh, trong đó thi nhân vắng mặt, dám chết như con tằm – đã bao lần "đến thác" - vẫn nằm trong kén, cựa mình nhả tơ.

Ý nghĩa của "lời quê" chính là tiếng tơ ấy, 300 năm hay 300 năm nữa, mai sau "dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng".

München, Vu Lan sớm 2008

© 2008 talawas

[1]Điệp tử thư trung, Tố Như thi, Quánh Tấn dịch, tr. 28, bản An Tiêm, Sài Gòn 1973, tr. 28, tham khảo thêm 249 bài thơ chữ Hán Nguyễn Du, Duy Phi, tr. 136, Hà Nội 2000
[2]F. Nietzsche, Über Wahrheit und Lüge im außermoralischen Sinne, 1873, và Götzen-Dämmerung: Die "scheinbar" Welt ist die einzige: "die wahre Welt" ist nur hinzugelogen…: Thế giới ảo là thế giới duy nhất, thế giới thật chỉ được dối trá thêm vào“, KSA 6 (Der Fall Wagner; Götzen-Dämmerung; Der Antichrist…), tr. 75.
Die "wahre Welt" (...) war immer die scheinbare noch einmal.: "Thế giới thật" luôn luôn đã là thế giới "ảo" thêm một lần nữa. Đd KSA 1, tr. 24
Die Wahrheit ist häßlich: wir haben die Kunst, damit wir nicht an der Wahrheit zu Grunde gehn: "Chân lý là xấu xí: chúng ta có nghệ thuật, để đừng bị khánh tận vì chân lý." Friedrich Nietzsche, Toàn tập, Sämtliche Werke. Kritische Studienausgabe in 15 Einzelbänden, KSA 13 (Nachgelassene Fragmente 1887-1889), tr. 500, 16[40]
[3]Heidegger, Toàn tập (Gesamtausgabe), q. 39, Hölderlins Hymnen Germanien und Der Rhein (Wintersemester 1934/35), S. 257.
Tham khảo thêm: Johannes Pfeiffer, Zu Heideggers Deutung der Dichtung, S. 60.
[4]Điệp tử thư trung, đã dẫn, so sánh: Nguyễn Du toàn tập, Mai Quốc Liên và nhiều người khác, tr. 183, nxb Văn học, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học
[5]Khất thực, Nguyễn Du, Thơ chữ Hán Nguyễn Du, bản Lê Thước, Văn học, tr. 76
[6]Điệp tử thư trung, đã dẫn
[7]đd
[8]Nguyễn Du, La phù giang thủy các độc tọa, tr. 91, Tố Như thi, Quánh Tấn dịch, bản An Tiêm
[9]Nguyễn Du, Ngẫu đề, tr. 131, Tố Như thi, bản An Tiêm
[10]Mạn hứng II, Thơ chữ Hán Nguyễn Du, bản Lê Thước, tr. 64, 66
[11]La phù giang thủy các độc tọa, tr. 91, Tố Như thi, bản An Tiêm, Sài Gòn 1973
[12]Ngoạ bệnh, Thơ chữ Hán Nguyễn Du, bản Lê Thước, nxb Văn học, tr. 135
[13]"Ohne den Vers war man nicht, mit dem Vers wurde man beinahe ein Gott", F. Nietzsche, Die Fröhliche Wissenschaft (La gaya scienza) 84: Về nguồn gốc của thơ, đd.
[14]Các bài thơ chiêu hồn thuộc lại xuất quỉ nhập thần của Nguyễn Du như "Văn tế thập loại chúng sinh" (thơ Nôm), "Văn tế trường lưu nhị nữ" (thơ Nôm), "Phản chiêu hồn" (thơ chữ Hán) đều nằm trong ý nghĩa này. Mong có dịp sẽ đi sâu hơn.
[15]F. Nietzsche, Vom Ursprung der Poesie, trong Die Fröhliche Wisenschaft (La gaya scienza), § 84
[16]Nguyễn Du, Lương Chiêu Minh Thái Tử phân kinh Phật đài, Nguyễn Du, Thơ chữ Hán, q. 2, tr. 233
Chi Điển Hoàng Duy Từ, Hoa Kỳ 1986
[17]Nguyễn Du, Độc Tiểu Thanh ký, tr. 105, Tố Như thi, bản An Tiêm
[18]Cách dịch của nhóm Bùi Kỷ theo Trần Đình Sử, tham luận "Độc Tiểu Thanh ký của Nguyễn Du" đăng trong Nguyễn Du - Về tác phẩm và tác giả, Trịnh Bá Dĩnh-Nguyễn Hữu Sơn-Vũ Thanh, nxb Giáo Dục 1996, tr. 82
[19]Nguyễn Du, Chu hành tức sự, Thơ chữ Hán Nguyễn Du, bản Lê Thước, tr. 266, Văn học
[20]Trong một số bài viết đăng trên các mạng (Vĩnh Phúc, Cái chi chi… là thơ, phần 1, Hội Luận Văn Học, Lê Văn Như Ý, Văn chương vô dụng, Văn Nghệ sông Cửu Long.org) câu thơ "văn chương tàn tức nhược như ti" đã được các tác giả trích dẫn nhầm: "Văn chương tàn tích nhược như ti". Xem lại tất cả các bản mà tôi được sử dụng, thì thấy chính văn như đã dẫn ở trên, "tàn tức" chứ không phải "tàn tích".
Bài thơ "Chu hành tức sự" trong Bắc hành tạp lục của Nguyễn Du. Xin xem: Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Lê Thước, Trương Chính v.v. soạn dịch, nxb Văn Học 1978, tr. Tr. 265/266, Nguyễn Du toàn tập, q. 1, Mai Quốc Liên soạn, nxb Văn Hoá, Trung tâm nghiên cứu quốc học, tr. 313, 192 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, Bùi Hạnh Cẩn, nxb Văn Hóa –Thông Tin, Hà Nội 1996, tr. 26, 249 bài thơ chữ Hán Nguyễn Du, nxb Văn Hóa Dân Tộc, Duy Phi biên soạn-dịch thơ, Hà Nội 2000, tr. 240, Nguyễn Du –Thơ chữ Hán, Chi Điền Hoàng Duy Từ, Hoa Kỳ 1986, q. 2, tr. 51. Tôi xin cám ơn bác sĩ Trần Văn Tích đã có nhã ý cho tôi mượn những quyển sách nói trên để tham khảo.

15.7.2008
Thái Kim Lan

HOÀNG CẦM- Thơ tôi không có thông điệp (2)

1.1.2008
Hoàng Cầm
Thơ tôi không có thông điệp
Nguyễn Đức Tùng thực hiện
1 2

Nguyễn Đức Tùng: Giọng điệu của Hoàng Cầm cũng có khi trẻ trung, bay bổng, thậm chí bay bướm.

Ly cà phê nửa tỉnh mê
Từng đôi sớm biết đi về có nhau
Còn em lãng đãng đi đâu
Anh về so sẫm đũa màu gỗ mun

Có khi đau xót lạ lùng.

Anh giải oan, em chẳng hết oan
Suối khuya cắt xé tiếng kêu than

Ai đã từng mất người yêu, mất vợ, mất chồng, sẽ tìm thấy họ trong thơ của anh.

Nghệ thuật xếp đặt chữ của anh rất táo bạo. Người ta nói “nửa tỉnh nửa mê”, anh thì nói “nửa tỉnh mê”. Những câu rất lạ như “so sẫm đũa màu gỗ mun” không biết là tự nhiên bật ra hay là công phu tu từ học.

Đặc điểm trong giọng điệu thơ của Hoàng Cầm là giọng văn xuôi, mà vẫn cứ êm ả nhẹ nhàng.

Anh giải oan, em chẳng hết oan.

Đây có phải là một chủ trương riêng của anh?

Hoàng Cầm: Tự nhiên bật ra thôi. Tôi cũng có sắp xếp lại, có khi cũng sửa thơ rất nhiều, nhưng hầu hết đều tự nhiên bật ra. Gần như là vô thức. Muốn thế thì phải sống với chữ nghĩa như ăn uống, như khí trời. Lâu rồi nó thành ra của mình, chỉ chờ dịp là bộc lộ. Nếu nói là chuẩn bị thì chuẩn bị mỗi ngày, mỗi phút.

Nguyễn Đức Tùng: Nghĩa là nhà thơ tự biến thành một phương tiện (vehicle) của nữ thần thơ ca?

Hoàng Cầm: Đúng như vậy, nhưng không phải với nghĩa hành xác hay tử vì đạo gì cả, mà là mình hạnh phúc được sống một cuộc đời thơ như thế. Tôi nghĩ nhà thơ nào cũng cần chuẩn bị cho mình một đời sống đầy đủ lãng mạn. Chứ anh sống nông cạn quá, xô bồ quá, chạy theo những thứ hão huyền, hay là tính toán dè dặt quá, tham lam quá, chăm chút lo toan cho cá nhân mình, thì không có thơ hay.

Nguyễn Đức Tùng: Thơ Hoàng Cầm không có khuynh hướng triết học, hoặc nặng về lý trí, trừu tượng, nhưng đằng sau những câu chữ có tính cảm giác là những ý nghĩa ngấm ngầm sâu xa. Trong thơ anh có những thông điệp mà người đọc cần rút ra hay không?

Hoàng Cầm: Thơ tôi không có thông điệp. Tôi không hề có ý định diễn đạt một ý tưởng ra thành thơ, tức là có sẵn một cái dàn bài rồi đắp các chữ vào. Các chữ bao giờ cũng bật ra từ tâm linh, có khi đi trước nghĩa của chúng. Nhiều câu tôi không biết tại sao tôi lại viết như thế. Nhưng nếu coi thông điệp là những ý nghĩa của bài thơ, người đọc nhận ra mỗi người một cách khác nhau, thì tất nhiên bài thơ nào cũng có thông điệp cả.

Nguyễn Đức Tùng: Về hình thức và thể thơ, các tập Mưa Thuận Thành và Lá diêu bông viết sau tập Về Kinh Bắc, có rất nhiều bài viết ở dạng thơ cổ điển, và ít có khuynh hướng tự do hơn, nghĩa là người đọc ít tìm thấy ở đó sự cách tân ngôn ngữ. Có một “thi pháp Hoàng Cầm” hay không?

Hoàng Cầm: Mình không định như thế. Nhưng nếu nhận xét của anh đúng thì nó rất thú vị. Tôi chưa bao giờ nghĩ tới điều này cả. Có thể vì càng về sau cái nhạc điệu của đời sống tâm hồn nó trở nên êm đềm, khuôn khổ, ít bấn loạn hơn chăng?

Nguyễn Đức Tùng: Tôi có trong tay tập thơ Hoàng Cầm tác phẩm, nhà xuất bản Hội Nhà văn, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, 2002, Lại Nguyên Ân biên tập. Đây là một tập sách in đẹp, bìa trang nhã, tập hợp được rất nhiều các bài thơ của anh. Một công trình công phu của Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây và của nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân rất đáng trân trọng và khen ngợi. Anh còn những tác phẩm nào khác chưa được đưa vào sách hay không?

Hoàng Cầm: Cuốn mà anh có là cuốn về thơ, còn hai cuốn nữa, một là truyện thơ và kịch, hai là văn xuôi. Về thơ thì như thế là tạm đủ, nhưng cũng có những bài chưa có điều kiện đưa vào.

Du Tử Lê: Thưa anh, anh làm thơ từ lúc mấy tuổi?

Hoàng Cầm: Mười sáu tuổi. Mười sáu tuổi, vừa bắt đầu trưởng thành, là mình nhất định muốn trở thành một nhà thơ. Và quyết định sẽ không thay đổi. Bất cứ gia đình, bạn bè hay thế lực, chế độ nào buộc mình không làm thơ thì mình cũng sẽ không thay đổi. Hoạn nạn hay khổ đau nào cũng sẽ không làm mình thay đổi.

Nguyễn Đức Tùng: Có ai đã từng buộc anh không làm thơ không?

Hoàng Cầm: Ra lệnh trực tiếp như thế thì không.

Nguyễn Đức Tùng: Cái gì làm cho anh có quyết tâm suốt đời làm thơ như thế?

Hoàng Cầm: Tình yêu thôi. Yêu dân tộc mình quá. Và ngôn ngữ Việt Nam quả thật lạ lùng. Giải thích thì rất khó nhưng tiếng Việt thật là tinh vi, đi sâu vào những ngõ ngách tâm hồn.

Mình cảm thấy cái nhu cầu muốn biểu đạt bằng thơ ca. Ai không có cái nhu cầu đó thì khó trở thành nhà thơ.

Nguyễn Đặng Mừng: Tôi hân hạnh được gặp nhà thơ Hoàng Cầm ở Sài Gòn năm 1980 ở nhà văn hoá quận Bình Thạnh. Lúc đó Hoàng Cầm mới từ Hà Nội vào Nam. Đó là những năm đất nước rất đói nghèo, khó khăn. Độc giả yêu mến anh đã đến chật cả hội trường. Không khí cảm động.

Tôi vẫn còn nhớ thuộc lòng bài thơ mà anh ngâm buổi tối hôm đó.

(Ngâm thơ, toàn bài)

Đêm ba mươi gió thổi
Tôi lại nhớ con tôi
Vợ đói con cũng đói
Khóc thét lặng từng hồi
Mẹ thì nước mắt nhiều hơn sữa
Ngực lép con nhai đã rã rời


Hoàng Cầm: Tôi rất cảm động có người nhớ thơ tôi như thế, những năm xa xưa trên đất nước nghèo đói. Tôi đã từng viết những câu thơ như thế bằng chính máu thịt của mình trong những ngày dài đau khổ.

Bây giờ đã già, lại không đi đứng được nữa, nên tôi chỉ biết chờ bạn bè từ xa đến thăm chứ tự mình không đi thăm ai được. Tiếc quá.

Một thân hữu văn nghệ: Xin hỏi anh, chân của anh bị như thế nào?

Hoàng Cầm: Hồi đó tôi bị ngã gãy xương đùi. Từ đó không đi được nữa, phải ngồi xe lăn.

Du Tử Lê: Tuổi thơ của anh ra sao?

Hoàng Cầm: Mình biết làm thơ từ lúc còn nhỏ lắm. Có những người may mắn khi lớn lên có một không gian nó sinh ra cái chất thơ.

Từ năm lên năm đến năm mười lăm tuổi tôi lớn lên ở nông thôn. Cái chất quê nó phả ra hồn dân tộc. Tôi nhận được cái đó từ rất sớm. Nhưng nông thôn của tôi không đến nỗi heo hút quá, ở dọc quốc lộ số 1, hàng ngày có những chuyến xe đò chạy qua. Có con đường xe lửa, có chiếc ga xép, buổi chiều khói của tàu phả lên bầu trời như một thứ dấu ấn tuổi thơ. Thời đó của tôi không gian yên ả thanh bình. Bây giờ thì rất khó mà được như thế. Không phải là tôi hoài niệm đâu, mà đúng là thời đó có những điều kiện rất tốt để người ta sống một đời sống đẹp và trưởng thành, lớn lên cùng với thơ.

Tôi nhớ chuyến xe lửa có khi xuống ga chỉ có một người hành khách, tuy vắng vẻ thế nhưng lại không quá sức heo hút, bùn lầy nước đọng như người ta vẫn nghĩ nhầm. Bố tôi là môt nhà nho, làm nghề bốc thuốc. Những lúc rảnh, các cụ thường ngồi với nhau, uống trà, đọc thơ, nên mình cũng chịu ảnh hưởng, vì mình cũng đứng gần đó châm nước hầu trà. Những thứ đó nó nhiễm dần vào tâm hồn mình, đi đâu xa lại nhớ nó. Nó un đúc nên hồn thơ của mình, như thế là từ năm lên năm tuổi. Lớn lên tôi phải đi học xa nhà, chỉ thỉnh thoảng mới được về. Những ngày ở bên bố mẹ thật là những kỷ niệm êm ả.

(Ngồi ngả lưng, lim dim mắt, nghỉ một lát)

Nguyễn Thụy Kha (nói đùa): Tình hình lửa của anh Hoàng Cầm đang yếu đi. Phải cử một em vào ngồi với anh cho ấm.

Hoàng Cầm (với một thiếu nữ vừa bước vào, ngồi xuống bên trái nhà thơ): Em ở làng nào?

Thiếu nữ: Dạ thưa, em ở Đình Bảng.

Nguyễn Đức Tùng: Cô có váy Đình Bảng không? (cười)

Thiếu nữ (thành thật): Có ạ. Nhưng em cất ở nhà.

Nguyễn Đức Tùng: Sáng ngày mai chúng tôi sẽ đi qua sông Đuống, về Kinh Bắc quê anh để nghe hát quan họ. Ngoài những người ở đây còn có các anh Dương Tường, Hoàng Ngọc Hiến, Phạm Xuân Nguyên, và một số người khác. Ai đã đọc tập thơ Về Kinh Bắc của anh, không thể không nhớ đến những câu như:

Tiếng hát quan họ
Và trai gái quê tôi trẻ đẹp vô cùng

Làm sao có thể mời anh đi được?

Hoàng Cầm: Không đi được. Tiếc lắm. Giá như các anh về đây trước độ mươi hay mười lăm năm, tôi hãy còn khỏe lắm, chúng mình sẽ cùng nhau đi rong chơi.

Nguyễn Đức Tùng: Anh có mối tình nào với một kiều nữ quan họ không?

Hoàng Cầm (cười): Phải có chứ. Nguyễn Đức Tùng có hút thuốc lào được không?

Nguyễn Đức Tùng: Thưa không. Nhưng sẽ xin được châm lửa cho anh hút (châm lửa, và Hoàng Cầm hút rất lâu. Những người khác xúm lại nhìn anh hút thuốc, có người noi gương anh cũng làm một điếu).

(Sau một lúc)

Những người viết trẻ hôm nay vẫn đọc thơ Hoàng Cầm và yêu mến anh lắm. Anh có lời nào dành cho họ không?

Hoàng Cầm: Bản thân tôi không biết lý luận và cũng không thích lý luận bao giờ. Tôi chỉ có kinh nghiệm về thơ thôi. Mà kinh nghiệm thì khi về già mới có.

Tôi cho rằng người làm thơ phải tạo ra cái khách quan của mình. Mình phải tạo nó ra. Tôi tạo ra quê hương đất nước của tôi.

Có cái hiện thực khách quan ngoài ý muốn của mình, và cũng có cái khách quan do mình tạo ra. Điều này là quan trọng nhất. Cái hiện thực khách quan thứ nhất do xã hội và lịch sử tạo ra, đầy những bất trắc và bất công, mình đồng ý với nó hay phản kháng lại nó, cũng không dễ một ngày hai ngày mà thay đổi được. Thế thì mình phải làm sao?

Nhà thơ phải khôn ngoan để chọn cho mình cái hiện thực thứ hai mà sống. Sống thế nào thì viết thế ấy. Không sống trong thơ thì không sinh đẻ ra thơ.

Hiện thực thứ hai lúc nào mình cũng tạo ra được, vì do mình chọn lấy từ hiện thực thứ nhất. Ví dụ như gia đình, bạn bè, người yêu, chỗ ở, nơi làm việc, học hành, vui chơi. Cái khách quan thứ hai này nó nuôi dưỡng hồn thơ của mình hay nó hủy diệt hồn thơ ấy đi. Có thể nói hơi quá đi một chút rằng chơi với bạn bè văn chương như thế nào thì đẻ ra thơ như thế ấy. Mình muốn thân mật hoà hợp với mọi người như thế nào đấy hay là mình muốn phản bác, châm biếm, đả kích người khác như thế nào đấy cũng là do mình thôi. Các nhà thơ cần tạo ra cái khách quan thứ hai ấy để nuôi dưỡng thơ của mình. Đó là điều mà từ bé tôi đã làm được.

Anh đừng bị lệ thuộc vào cái khách quan thứ nhất mà anh không thay đổi được. Sẵn sàng thay đổi môi trường của mình để sống được như mình mong muốn. Người nào không chơi được thì đừng chơi với họ, chỗ nào không dung mình được thì dời đi chỗ khác, chứ đừng quá cầu xin, đừng quá ép buộc mình. Chỉ có cái tự nhiên là quý.

Lúc còn nhỏ quá thì khách quan là loại thứ nhất, lúc lớn lên rồi tôi tự tạo ra cái thứ hai để cho nó vừa ý mình. Mình muốn sống trong môi trường như thế để mà làm thơ.

Đó là mục đích của đời sống của mình.

Nguyễn Đức Tùng: Kinh nghiệm như trên của anh thật là quý giá. Nhưng khi có môi trường rồi, tức là khi có cái hiện thực thứ hai như ý mình rồi, mà thơ vẫn không sinh ra được là tại sao?

Hoàng Cầm: Tại vì cảm hứng của anh chưa đủ chín. Tài anh chưa đủ chín. Điều thứ nhất mà người ta thường thiếu là điều tôi vừa nói trên đây. Điều thứ hai là thế này: các bạn trẻ làm thơ cần học hỏi rất nhiều, gặp được một bài thơ hay của người khác, đọc được một bài lý luận về thơ, là phải xem đi xem lại, trao đổi lẫn nhau, tranh luận cho ra lẽ vì sao mà thơ người ta hay như thế. Đừng có tự ái, lắng nghe lời khen chê của độc giả. Lắng nghe họ chứ không chắc cái gì cũng đi theo họ. Điều kế đó là: nhớ rằng đừng làm thơ theo một ý định sẵn. Vì làm thơ theo một ý định sẵn thì cũng có thể hay đấy, như trường hợp Chế Lan Viên. Nhưng người ta sẽ quên đi. Ý định của anh nó phải lồng trong cảm xúc, quyện vào nhau, không biết cái nào trước, cái nào sau.

Nguyễn Đức Tùng: Anh cho rằng Chế Lan Viên là người làm thơ theo ý định sẵn?

Hoàng Cầm: Đúng thế. Chế Lan Viên là người có học, lại có tài, vì vậy có những câu thơ rất độc đáo. Nhưng mà sức rung động của những câu thơ Chế Lan Viên thường hạn chế. Yếu, rất yếu, mặc dù mới đọc thì hay lắm. Một thời gian sau đọc lại thì nó không cám dỗ mình nữa, nó hơi giả, không thật, hay ít nhất là không đủ sự thật. Người đọc bị nhà thơ thuyết phục một lần, nhưng lần sau thì không bị thuyết phục nữa.

Nguyễn Thụy Kha: Trong thơ Chế Lan Viên, vì ngôn ngữ trở thành phương tiện của thơ hay vì không có đủ sự thật nên rung động của thơ không lâu dài?

Hoàng Cầm: Không có sự thật, tức là xúc động thật, nên không bền. Mới đọc thì hay, nhưng để lâu, đọc đi đọc lại thì người ta lại thấy chan chán, vì ở trong thơ Chế Lan Viên có nhiều lý trí và lý lẽ.

Mà sở dĩ như thế là vì nhà thơ đã dùng sự thông minh của mình để mà chiếm hữu thơ ca vốn là cái không thể chiếm hữu được. Anh không đàng hoàng với nó là anh mất nó ngay. Nhưng thơ của tôi thì không có lý lẽ gì nhiều, có nhiều câu không có nghĩa gì lắm, nhưng tôi viết thẳng ra từ rung động thật của mình, vì vậy cũng làm cho người đọc rung động theo. Như vậy thơ không phải là ý nghĩa, thơ trước hết là sự rung động. Nó còn đi trước cả ngôn ngữ biểu đạt, rồi trở thành một với nó. Rung động tức là sự thật.

Những người làm thơ trẻ hiện nay cần nhớ rằng những bài thơ đặt nặng trên lý trí, lý lẽ mà không xuất phát từ rung động sâu xa thì có thể tạo nên một lớp độc giả ban đầu nhưng rồi sẽ tàn đi nhanh vì không ai người ta nhớ đến thơ mình. Hãy để cho thơ tự bật ra từ trong huyết quản của mình, từ trong chính cuộc sống và suy nghĩ mỗi ngày. Nó bật ra chứ không phải anh nghĩ ra nó. Đây chỉ là kinh nghiệm của cá nhân tôi, có thể không đúng với người khác.

Nguyễn Đức Tùng: Như thế theo anh trong thơ không cần các ý tưởng ban đầu? Ở phương Tây cũng thường nói đến phương pháp sáng tác có tính tự động, hoàn toàn vô thức.

Hoàng Cầm: Không phải là không cần các ý tưởng. Nhưng các ý tưởng hay cảm xúc cũng như sự quan sát khách quan phải trở thành máu huyết của mình. Anh phải sống với nó mỗi ngày, rồi để nó tự bật ra. Còn nó bật ra lúc nào thì anh không kiểm soát được.

Nguyễn Đức Tùng: Thế hệ của anh nhiều người biết tiếng Pháp. Thơ của Pháp ảnh hưởng đến anh ra sao?

Hoàng Cầm: Thơ Pháp thì tôi đọc nhiều và học nhiều, nhưng ảnh hưởng đến tôi thì ít. Tôi cũng từng say mê Verlaine, Rimbaud, Beaudelaire, Breton… Nhưng thật ra thơ Pháp nó cũng nhiều lý trí lắm.

Nguyễn Đức Tùng: Hình như thơ phương Tây đều thế cả. Đây là điểm yếu của thơ phương Tây hay là điểm mạnh của họ? Biết đâu tính xúc động mà anh vừa đề cập chính là nguyên nhân làm cho thơ Việt Nam bao năm lẩn quẩn trong lũy tre làng, không vượt ra khỏi biên giới của mình. Vì thế mà thơ hay của Việt Nam không dịch ra được.

Hoàng Cầm: Chúng ta cần kiên nhẫn. Mỗi dân tộc có một điểm mạnh riêng. Không phải tôi có ý nói thơ Việt Nam là hay nhất thế giới, nhưng cần bình tĩnh để nhận chân cái đặc sắc của nó. Chúng ta có nhận ra được cái đặc sắc riêng biệt đó thì mới giải thích cho thế giới được.

Nguyễn Đức Tùng: Thế bây giờ các nhà văn và lý luận phê bình của chúng ta đã nhận ra hay chỉ ra được điều anh nói chưa?

Hoàng Cầm: Chưa.

Nguyễn Đức Tùng: Những nước tương đối nhỏ và không dùng ngôn ngữ Anh hay Pháp, như Ba Lan, Mexico, Ấn Độ, Bồ Đào Nha… lại có những nhà thơ lớn được thế giới công nhận. Được công nhận như thế là vì độc giả khắp nơi yêu mến họ qua các bản dịch tiếng Anh, tiếng Pháp. Thế sao cái hay của thơ Việt Nam không dịch được mà cái hay của thơ các dân tộc khác lại dịch được?

Hoàng Cầm: Như thế thì mình cần thời gian để thế giới hiểu mình qua các bản dịch công phu. Cũng có thể vì ngôn ngữ Việt Nam thuộc một hệ thống quá sức đặc biệt.

Nguyễn Đức Tùng: Thơ của các nước như Ba Lan, Ấn Độ, Anh, Mĩ… hình như nặng về các ý tưởng, còn thơ Việt Nam nặng về ngôn ngữ và nhạc điệu. Điều này hạn chế khả năng phiên dịch của thơ Việt Nam.

Hoàng Cầm: Cũng có thể đúng như anh nói. Bây giờ nói về cái tình. Cái tình nó phải uyển chuyển, các sắc thái của nó phải thật mênh mông, thật sâu. Thơ phải đạt được cái sâu và cái mênh mông ấy của chữ tình, phải để cho cái tình nó hồn nhiên, hồn nhiên đấy nhưng không phải là không có trí tuệ. Nhà thơ phải là người sống rất thơ cuộc đời mình và nhà thơ phải biết lao động tình cảm.

Nguyễn Đức Tùng: Thế nào gọi là lao động tình cảm?

Hoàng Cầm: Lao động tình cảm là xây đắp cuộc sống tình cảm của mình, phát triển nó thật sâu, thật mênh mông. Đó là tình cảm đối với cha mẹ, anh em, vợ con, bạn bè. Tình cảm đối với xóm làng, quê hương đất nước, đối với nhân loại. Tình cảm đối với cỏ cây muông thú, với sự sống và cái chết. Bỏ đi hết những cái phiền toái lặt vặt ở đời, bỏ đi những ràng buộc về tiền tài danh vọng, có có không không, được mất hơn thua tầm thường ở đời. Giữ một tấm lòng trân trọng với những gì mà mình tin là tốt đẹp, mặc những kẻ có quyền hơn mình, có thế hơn mình, có tiếng hơn mình nói gì cũng kệ họ. Mình nắm cho chắc những giá trị mà mình tin là có thật và duy nhất.

Đến một lúc nào đó tình cảm chín rồi câu thơ sẽ tự bật ra. Có nhiều câu thơ của tôi khi nhớ lại tôi cũng không biết tôi đã làm thơ thế nào, làm sao để tôi có những câu thơ ấy, thậm chí tôi cũng không biết lúc ấy tôi định viết cái gì. Sở dĩ như thế là vì tôi không bao giờ để cho lý trí lấn át tình cảm trong quá trình sáng tạo.

Du Tử Lê: Hôm nay nhiều bạn bè đến thăm anh, thấy anh còn khỏe và trò chuyện được như thế này đã là niềm vui lớn cho nhiều người, nhất là những người yêu thơ ở khắp nơi.

Hoàng Cầm: Tôi rất vui và xúc động được gặp các anh Du Tử Lê, Nguyễn Đức Tùng, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thuỵ Kha, Hoàng Trần Cương… hôm nay đến thăm và trò chuyện về thơ vui vẻ như thế này. Tôi cũng có trao đổi về văn học với nhiều người trong nhiều dịp khác nhau nhưng cuộc trò chuyện hôm nay tôi thấy nó ấm áp quá. Tình cảm quá. Cái tình cảm giữa anh em mình với nhau và tình yêu đối với thơ, hai cái đó nó hoà quyện vào nhau, thật là quyến luyến.

Nguyễn Trọng Tạo: Anh Hoàng Cầm quý lắm mới ngồi nói chuyện lâu như thế.

Hoàng Cầm: Các anh đến chơi, tôi mừng lắm. Nói cả ngày cũng chưa hết chuyện. Tôi còn muốn nói chuyện lâu với anh Nguyễn Đức Tùng, tôi chưa mệt.

Nguyễn Đức Tùng: Đọc thơ anh, thấy rõ cái tình yêu nước mênh mông, không phải chỉ trong những bài thơ có đề tài yêu nước, mà bàng bạc trong tất cả những bài thơ về mẹ.

Quà gửi con chùm nhãn Hưng Yên
Đừng gặm hết ngày thơ trẻ

Hay trong những bài thơ tình.

Em đi xa quá xa
Mới thấy trời mây hẹp
Có phải trong hồn ta
Em vẫn ngồi khép nép

Rõ ràng là thơ tình. Thơ giản dị, không phải là những câu hay nhất của Hoàng Cầm, thế mà khi đọc chúng, tôi lại thấy dâng lên một niềm thương cảm đối với quê hương mình.

Hoàng Cầm: Có lẽ vì tôi viết chúng trong bối cảnh quê nhà và nông thôn.

Nguyễn Đức Tùng: Thưa anh, hồi nãy anh có nhắc đến độc giả ở miền Nam trước đây. Thế còn tác giả miền Nam thì sao? Ý tôi muốn nói là anh nghĩ sao về việc đọc lẫn nhau giữa hai miền Nam Bắc.

Hoàng Cầm: Bất cứ một nhà thơ nhà văn nào, miền Bắc hay miền Nam, trong nước hay hải ngoại, đã viết bằng tiếng Việt thì đều là nhà văn Việt Nam, và văn học của họ là văn học Việt Nam. Tôi rất yêu mến và trân trọng tác phẩm của các nhà thơ miền Nam trước đây như Đinh Hùng, Nguyên Sa, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Quách Thoại, Du Tử Lê… Tôi nghĩ rằng đó là một nền văn học lớn.
Do hoàn cảnh chiến tranh và chia cách, chúng ta rất khó khăn để đọc lẫn nhau. Nhưng thời kỳ đó đã qua lâu rồi, chiến tranh đã kết thúc hơn ba mươi năm, không lý gì chúng ta lại không có điều kiện để tìm hiểu lẫn nhau nhiều hơn nữa. Chỉ tiếc là tôi đã già rồi, không còn nhiều sức lực nữa, nhưng tôi tin rằng ngày nay những người viết văn trẻ cần phải đọc nhiều về các thời kỳ văn học khác nhau của nước mình để có vốn văn hoá và vốn tâm hồn. Những người đi trước dạy cho chúng ta nhiều thứ lắm.
Nguyễn Đức Tùng: Sau tập Về Kinh Bắc một thời gian rất dài, là tập Mưa Thuận Thành. Có sự khác nhau như thế nào giữa hai tập thơ này?
Nhớ mưa Thuận Thành
long lanh mắt ướt
là mưa ái phi
tơ tằm óng chuốt
Ngón tay trắng nuột
nâng bồng Thiên Thai
Mưa chạm ngõ ngoài
chùm cau tóc xoã
Miệng cười kẽ lá
mưa nhòa gương soi

Hoàng Cầm: Hai tập thơ cách nhau ba mươi năm. Tập trước 1960, tập sau 1991. Về Kinh Bắc là lời khấn nguyện của kẻ sau cơn hoạn nạn trở về cố hương, về với mẹ và tuổi thơ. Mưa Thuận Thành là đời sống của tâm hồn tôi, trải suốt một vùng quê Quan Họ, là tình yêu và những cảm nhận về cuộc đời bình dị, khi u buồn, khi hạnh phúc.

Nguyễn Đức Tùng: Vẻ đẹp trong thơ Hoàng Cầm rất khó giải thích, gần như là một kinh nghiệm vô thức. Hình như anh ít sửa thơ của mình, tức là không coi trọng công việc vật lộn chữ nghĩa và bản thảo? Khác với nhà thơ Lê Đạt chẳng hạn?
Ta soi
chỉ còn ta đạp lùi tinh tú
Ngủ say rồi
đôi cá đòng đong

Tôi để ý rằng trong những bài thơ hay nhất của Hoàng Cầm, đều có kỹ thuật đồng hiện về thời gian. Cả quá khứ, hiện tại và tương lai đều có thể cùng xuất hiện.

Chính điểm mấu chốt này làm cho thơ Hoàng Cầm có tính thiêng liêng, huyền bí, vốn không phải là tính chất đặc trưng của thơ Việt Nam.

Hoàng Cầm: Anh nói vô thức là rất đúng, đó là bản chất sáng tạo, và vô thức còn cho phép tôi đến được nhiều nơi cùng một lúc. Nhưng việc sửa chữa, thì mỗi khi viết xong tôi đều coi lại rất kỹ. Các hình ảnh nó linh hiện như thế nào thì tôi không thể biết, nhưng khi đã có chúng trong tay thì ta có thể kiểm soát được phần nào. Tôi ít sửa thơ thật nhưng tôi rất cẩn trọng khi chọn chữ, chọn xong rồi thì khó mà sửa được. Như thế cũng là một cách làm việc trên bản thảo nhưng là bản thảo không lời.

Nguyễn Đức Tùng: So với những người cùng thời như Trần Dần, Lê Đạt, Dương Tường, Đặng Đình Hưng, Văn Cao, thì anh có vẻ ít có ý định cách tân ngôn ngữ thơ hơn cả.

Hoàng Cầm: Cũng có thể như thế. Tôi không có một lý thuyết nào về sự cách tân ngôn ngữ cả, nhưng tôi không chống lại điều ấy, trái lại tôi rất chú ý đến nó. Các câu thơ của tôi nếu không mới thì tôi thường bỏ đi. Vào khoảng năm 1958-1959, trong thời gian viết tập Về Kinh Bắc, tôi nhận ra rằng thơ Việt Nam không đổi mới là đã đi đến đường cùng, vì thơ mới sau Nguyễn Bính, Huy Cận, Xuân Diệu… không thể phát triển thêm được nữa.

Ngoài một số anh em làm thơ thân thiết, như Trần Dần, Phùng Quán, Lê Đạt, Dương Tường, những suy nghĩ như thế tôi không có dịp nào để chia xẻ với nhiều độc giả trong ba mươi năm.

Nguyễn Đức Tùng: Xin cám ơn nhà thơ Hoàng Cầm. Buổi gặp gỡ hôm nay chắc chắn sẽ để lại trong lòng những người có mặt một kỷ niệm không phai mờ. Chúc anh giữ được lâu dài sức khỏe và sự minh mẫn.

Mọi người đứng lên xung quanh. Một người thanh niên giúp một công việc đặc biệt cũng vừa bước vào. Hoàng Cầm hút thêm một điếu thuốc, thở khói, trầm ngâm. Anh chào mọi người và cầm tay tôi thật chặt, một hồi mới buông ra.

(thực hiện tháng 04.2007 - cùng duyệt lại văn bản với nhà thơ Hoàng Cầm trên điện thoại, với sự giúp đỡ của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, trong các tháng 10, 11 và 12.2007)

© 2008 talawas

HOÀNG CẦM- Thơ tôi không có thông điệp (1)

1.1.2008
Hoàng Cầm
Thơ tôi không có thông điệp

Nguyễn Đức Tùng thực hiện
1 2

Đầu tháng 4 năm 2007, chúng tôi hẹn nhau dành một ngày ở Hà Nội để đến thăm nhà thơ Hoàng Cầm. Chúng tôi gồm có Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha, Hoàng Trần Cương, Du Tử Lê, Vân Đình Hùng, Nguyễn Đức Tùng và các bạn hữu khác. Ngõ nhà ông ở phía sau một chiếc cổng vòm bằng gạch, rêu phong. Phía trước cổng bên kia đường là một quán phở ngon khá nổi tiếng của Hà Nội. Trước đó, anh Du Tử Lê rủ tôi và mọi người vào quán phở ăn sáng, xong mới vào nhà ông. Anh nói riêng với tôi: đến thăm Hoàng Cầm cần thong thả để anh ấy chuẩn bị, vì anh ấy là người rất elegant.

Sau khi được báo tin là nhà thơ đã sẵn sàng, chúng tôi băng qua đường, đi sâu vào con hẻm nhỏ lát nửa gạch nửa xi măng. Nhà hẹp, có nhiều tầng. Đi lên một cầu thang dài, đến căn gác cao, là chỗ ở của nhà thơ. Hoàng Cầm nửa ngồi nửa nằm trên chiếc giường thấp, lót chiếu hoa đã cũ. Khi được mời ngồi gần ông, tôi khẽ đặt tay lên chiếu, ấn xuống mặt giường theo thói quen, để xem ông có nằm nệm không. Giường bằng gỗ không có nệm. Tôi thầm ái ngại, vì như thế, một người lớn tuổi nằm lâu có thể bị loét ở các vùng da tiếp xúc như mắt cá, đùi, thắt lưng, khuỷu tay. Nhưng Hoàng Cầm không tỏ vẻ gì là đau đớn hay bệnh hoạn, mặc dù ông di chuyển khó khăn. Mọi người vây quanh, ngồi lan ra cửa và lan can, nên căn phòng nhỏ trở nên ấm áp. Từ đây, nhìn ra bầu trời bao la, tôi có cảm giác như đang ngồi trong một cái tổ chim trên ngọn cây cao. Mặc dù đông người, ai cũng giữ im lặng. Hoàng Cầm tỏ vẻ minh mẫn, nói chuyện rành mạch. Thỉnh thoảng ông dừng lại có lẽ vì mệt thì ít, mà vì xúc cảm thì nhiều hơn; và các khoảng im lặng khi ông hút thuốc lào thường có nhiều ý nghĩa. Một không khí thân mật nhưng thanh cao, gần như cao quý, đã tạo hứng khởi cho rất nhiều câu hỏi của tôi vốn không hề được chuẩn bị trước đó.

Nguyễn Đức Tùng: Thưa nhà thơ Hoàng Cầm, sức khỏe của anh hiện nay thế nào?

Hoàng Cầm: Sau khi bị ngã và phải ngồi xe lăn để di chuyển, sức khỏe mình có phần yếu đi.

Nguyễn Đức Tùng: Trước đây có một thế hệ thanh niên rất yêu mến thơ Hoàng Cầm, Hữu Loan, Trần Dần, Phùng Quán. Riêng tôi thuở nhỏ, qua các bài viết và hồi ký của Vũ Bằng, Kim Nhật, Xuân Vũ… đã được biết đến thơ anh. Không ngờ có một ngày lại được hân hạnh gặp nhà thơ ở đây.

Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp

Nhiều người như tôi biết và yêu mến quê hương miền Bắc là nhờ những câu thơ như thế.

Hoàng Cầm: Điều đó tôi có biết. Trong miền Nam dưới thời của ông Diệm, thời của ông Thiệu, sinh viên và thanh niên có biết thơ mình, có yêu thích. Điều đó làm tôi thật hạnh phúc. Không có gì làm cho một tác giả xúc động hơn là điều đó. Người ta không biết mình là ai, mà người ta quyến luyến tác phẩm của mình, trân trọng tên tuổi của mình, thì trên đời này có gì vinh dự hơn nữa. Đối với nhà thơ cái đó cực kì quí. Tôi có cái may mắn được hưởng cái cực kì quí đó ở miền Nam trước đây lâu rồi, trong thời kì đất nước còn chia cắt.

Hồi đó chúng ta đều tưởng tình trạng chia cắt như thế sẽ còn lâu dài liên miên bất tận. Ngờ đâu cũng có ngày đất nước thống nhất.

Đành vui như thế, mà cũng đành chịu như thế. Coi như là mệnh giời.

Tôi biết cuộc chiến tranh vừa qua để lại biết bao nhiêu là vết thương đổ vỡ, nhưng với cá nhân tôi, được gặp bạn bè ở miền Nam sau bao nhiêu năm chia cắt, tôi mừng lắm, xúc động lắm. Tôi cũng đọc văn học miền Nam và đem lòng trân quý nó. Tôi tin rằng cả miền Nam và miền Bắc đều phải đọc lẫn nhau nhiều hơn, vì đất nước hòa bình thống nhất rồi, không có lý gì lại không tìm hiểu các vấn đề của dân tộc. Mà thơ là vấn đề lớn của dân tộc.

Nói như thế này thì hơi sáo nhưng mình phải thấy là may mắn được làm người Việt Nam. Vì sao? Vì người Việt Nam mình gần với thơ lắm. So với các dân tộc khác tôi nghĩ là cách cảm cách nghĩ cách sống của người Việt Nam gần với thơ lắm, trội hẳn lên so với các dân tộc khác. Rất nhiều anh em từ phương xa về thăm tôi, từ Mỹ, từ Canada, từ Úc, từ châu Âu, biết mình qua một vài bài thơ mà đem lòng thương mến. Mình sống được và còn làm thơ được là nhờ cái tình tri âm của độc giả.

Nguyễn Đức Tùng: Theo anh, cái cái tình tri âm của độc giả có vai trò như thế nào đối với văn học?

Hoàng Cầm: Vai trò lớn lắm. Nó ảnh hưởng đến cái đọc, đến thưởng ngoạn nghệ thuật, đến cả sự sáng tạo. Đã đành rằng thơ hay thì lúc nào cũng hay, nhưng ở mỗi thời mỗi nơi thì nó hay mỗi khác. Tình độc giả tạo nên cái nền cho việc thưởng thức.

Ở các nước phương Tây, ngay cả đối với các nhà thơ lớn như Apollinaire, Breton, Eluard... độc giả họ cũng nhiều nhưng hình như họ không khăng khít, không quấn quít như độc giả Việt Nam mình đối với các nhà thơ.

Tôi cứ có cảm giác rằng Việt Nam mình là số một về phương diện này.

Trải qua biết bao nhiêu thăng trầm, bi kịch, người ta mất hết niềm tin vào những đức tính của người Việt Nam. Cái đó là lỗi ở các chính quyền và các cuộc chiến tranh, nhưng thật ra người mình có những tính cách về tình cảm hiếm thấy ở các dân tộc khác, mà đặc biệt là sự gần gũi quấn quít nhau, nhường cơm sẻ áo trong khi hoạn nạn, tình cảm bạn bè bà con làng xóm. Thơ là tấm gương của các tính chất ấy. Nhiệm vụ của nhà thơ là nói lên được tiếng nói riêng biệt của dân tộc mình trong cộng đồng nhân loại.

Nguyễn Đức Tùng: Nhiều người cũng nói rằng so với các dân tộc khác, người Việt rất yêu thơ, sống nặng về tình cảm, mặc dù không chứng minh được.

Hoàng Cầm: Chứng minh làm sao được. Nhưng cái hồn của dân tộc là có thật. Bất chấp tất cả những đổi thay của lịch sử, sẽ không có gì làm thay đổi tâm hồn ấy được cả. Đó là cái chất quê hương xứ sở.

Nguyễn Đức Tùng: Nhiều năm về trước, khi rời Việt Nam ra đi, cá nhân tôi không bao giờ nghĩ chuyện trở lại. Hàng triệu người từ miền Nam, từ miền Bắc, người Việt và người gốc Hoa, lũ lượt ra đi, đều nghĩ như thế. Nhưng rồi mười năm, hai mươi năm sau, mặc dù có thể đã có một cuộc sống ổn định ở xứ sở khác về công việc, văn hoá, nhiều người lại cảm thấy nôn nao cái cảm giác muốn về nhà, quy cố hương, hay ít nhất cũng là thăm viếng bạn bè người thân, và làm một chút gì cho Việt Nam. Đó là tâm trạng của đồng bào người Việt ở hải ngoại.

Hoàng Cầm: Anh thấy không, cái hồn của đất nước mình nó cứ quyến luyến, theo đuổi anh hoài.

Những người Việt ở nước ngoài theo chỗ tôi biết, như một số anh em tâm sự, đều có cái cảm giác gắn bó như thế với quê hương mình, dù họ rất khác biệt chính kiến với nhà nước này. Họ nói với tôi rằng, ở nước ngoài, đôi khi đang đi trên đường, hay đang trong một quán ăn giữa đám đông bạn bè, tóc vàng mắt xanh, tự nhiên họ chợt thấy mình bơ vơ lắm.

Nguyễn Trọng Tạo: Cảm giác tha hương.

Hoàng Cầm: Nhiều khi vẫn cứ ở với người thân, cha mẹ anh em, mà vẫn cứ thấy bơ vơ, bởi vì mình không sống trên đất nước mình. Do những sự khác biệt về chính trị và hoàn cảnh lịch sử, bao nhiêu người đã rời bỏ quê hương tạo ra một đời sống mới, nhưng sợi dây quyến thuộc trong mỗi tế bào vẫn còn ràng buộc. Ràng buộc chúng ta lại với nhau, giữa người trong nước và người ở hải ngoại, người Bắc và người Nam, người trước đây đứng ở những chiến tuyến khác nhau. Những cố gắng chia rẽ dù đến bất cứ đâu thật là đáng trách.

Nguyễn Đức Tùng: Tôi nhớ một kỷ niệm lúc vừa mới đến Canada, tức là cách đây đã hai mươi mấy năm. Một hôm trong lớp học, cô giáo dạy tiếng Anh bất ngờ treo lên bảng đen một tấm bản đồ Việt Nam rất lớn. Hồi đó, đối với người Việt ở nước ngoài, quá khứ quả thật là xa vĩnh viễn. Nhìn tấm bản đồ trên bảng đen, tối hôm đó ngồi trong lớp học, ngoài trời tuyết Giáng sinh đang xuống mịt mờ, nhớ đến gia đình, bạn bè, quê hương nghèo khó, khốn khổ, tôi đã lặng lẽ chảy một giọt nước mắt lặng lẽ trong lòng mình.

Hoàng Cầm: Chuyện anh kể thật cảm động. Tôi thì không bao giờ có dịp ra khỏi đất nước mình dù chỉ là một mét.

Chưa bao giờ. Thế nhưng tại sao tôi lại hiểu được cái cảm giác xa quê hương của anh, thấy bơ vơ. Sở dĩ như thế là vì ngay cả trong những ngày đau khổ nhất, bị hiểu lầm hay bị đàn áp, tôi vẫn có những người thân bên cạnh. Ngay cả những lúc không có người thân bên cạnh, nhìn xuống mặt đất, tôi vẫn thấy là mình đang đứng ở đâu. Cảm giác của sự vững chãi. Những bi kịch trong đời sống riêng của tôi chắc chắn không thể nào chịu đựng nổi, nếu tôi không được giẫm lên mảnh đất của quê hương. Tôi rất quý trọng những người ở xa đất nước mà vẫn còn nghĩ đến tiếng Việt, yêu tiếng Việt, quấn quít với cái hồn Việt Nam, ngay cả khi họ không cần phải làm như thế.

Anh còn trẻ, có cuộc sống ổn định, không ai bắt anh phải đọc tiếng Việt, hiểu thơ Việt, tìm hiểu lịch sử và những oan khuất của người Việt chúng ta, đúng không? Vậy thì tại sao anh vẫn cất công tìm về cội nguồn. Chúng mình không giải thích được, trừ ra là thế này: có một cái gì đó được ký gửi trong máu huyết của chúng ta.

Nhiều năm, nhiều thế hệ, người ta đã quên điều đó đi. Vì vậy mới có các biên giới, các chiến tuyến và các cuộc chiến tranh (nghỉ một lát).

Nguyễn Đức Tùng: Nhiều độc giả thời trước thường biết đến Hoàng Cầm là nhờ một bài thơ được Phạm Duy phổ nhạc, hình như lấy tựa đề là “Tình Cầm”.

Nếu anh còn trẻ như năm ấy
Quyết đón em về sống với anh
Những khoảng chiều buồn phơ phất lại
Anh đàn em hát níu xuân xanh

Anh viết bài thơ ấy năm 1941, tức là lúc anh hãy còn trẻ lắm, chứ đâu đã già? (cười)

Hoàng Cầm: Đúng là lúc đó tôi chưa già (cũng cười), nhưng có cái tâm trạng mình không còn trẻ nữa. Mà nhiều khi chuyện làm thơ, chúng mình hay có những linh cảm dự báo như thế. Đến nay đọc lại nhiều khi cũng thấy cảm động.

Nguyễn Đức Tùng: Tập thơ Về Kinh Bắc nổi tiếng đã được anh viết như thế nào?

Hoàng Cầm: Tôi viết Về Kinh Bắc năm 1959, khi tôi quyết định rời Hà Nội.

Nguyễn Đức Tùng: Tức là sau vụ án Nhân văn-Giai phẩm?

Hoàng Cầm: Sau. Thời gian đó mình chịu đựng rất nhiều hoạn nạn, khổ cực, thì cũng như nhiều anh em khác. Mình có cái may mắn là có một quê hương để trở về, nó như cái nôi của tâm hồn mình. Cũng là cái nôi thơ.

Nguyễn Đức Tùng:
Con về
Giấu giếm những bàn tay
Nâng vú
So đũa
Lau mắt
Phơi dây áo thềm sân

Chắc chắn là những ngày gian nan của anh.

Tập Về Kinh Bắc có tám phần, mà anh gọi là các nhịp, nhịp một đến nhịp bảy rồi nhịp cuối, và một Vĩ thanh. Anh viết một mạch theo thứ tự như thế, với một kết cấu sắp đặt trước, hay các bài thơ này viết ngẫu hứng và sau đó được sắp xếp lại?

Hoàng Cầm: Viết ngẫu hứng thôi. Nhưng khi mình chọn lọc và sắp xếp thì nó lộ ra cái mạch ngầm của cấu trúc.

Nguyễn Đức Tùng: Tôi lưu ý rằng Hoàng Cầm mở đầu con đường sáng tạo của mình bằng kịch và chuyện kể bằng thơ. Trong một hồi ký, Vũ Hoàng Chương cũng nhắc đến vở kịch Kiều Loan của anh gây tiếng vang ở Hà Nội thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1945-1954. Kịch thơ là một loại hình nghệ thuật đặc biệt, trong đó ngoài các câu thơ có vần điệu thông thường là các đối thoại và các câu thơ kể chuyện. Hai yếu tố sau có lẽ đã làm cho anh tiến đến thơ tự do và tiến đến văn xuôi dễ dàng hơn những người khác.

Hoàng Cầm: Nghĩ lại thì đúng như thế. Thơ là để đọc, nhưng cũng là để ngâm, và để diễn. Thơ là trữ tình nhưng nó cũng dùng để kể chuyện, tức là tự sự.

Nhớ đến những ngày viết kịch thơ và diễn kịch thơ, mình thấy đó là những ngày hạnh phúc lắm. Ngày nay thơ mỗi ngày một xa sân khấu, nhà thơ mỗi ngày một xa người đọc. Thật là đáng tiếc.

Nguyễn Đức Tùng: Thơ Hoàng Cầm là thơ trữ tình, nhưng một người đọc kỹ thì sẽ thấy thơ anh cũng là thơ mô tả thiên nhiên. Anh là một người quan sát thiên nhiên rất cẩn thận và chi tiết. Trong Nhịp Năm của tập Về Kinh Bắc, anh mở đầu bằng ba bài thơ liên tiếp nhau là những bài thơ giàu tính tư tưởng, nhưng trong đó đầy những nét mô tả thiên nhiên chân xác và duyên dáng.

Cây tam cúc
Cổ bài tam cúc mép cong cong
Rút trộm rơm nhà đi trải ổ

Lá diêu bông
Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẩn thơ đi tìm
Đồng chiều
Cuống rạ

Quả vườn ổi
Cách nhau ba bước vào vườn ổi
Chị xoạc cành ngang
Em gốc cây

Tôi để ý rằng các hình ảnh trong thơ Hoàng Cầm không chỉ là các ẩn dụ thường gặp trong thơ. Chúng còn là những hình ảnh “thật”, tức là các đối tượng trực tiếp của câu thơ, có tác dụng làm nền và làm điều kiện để cảm hứng chính của bài thơ phát triển. Mối quan hệ giữa các hình ảnh thường không phải là một quan hệ nhân quả mà là quan hệ sóng đôi, đồng hiện, liên hợp và tương tác lẫn nhau. Một mối quan hệ bí mật. Chính vì thế mà thơ Hoàng Cầm như trong ba bài trên đây vừa dễ hiểu vừa khó hiểu, cảm nhiều hơn là hiểu.

Anh viết chúng như thế nào?

Hoàng Cầm: Đấy là cái duyên. Khi từ Hà Nội trở về, rũ bụi đường, thì tự nhiên nó đến như thế. Các bài thơ này mình viết rất gần nhau, trong một thời gian ngắn. Sau này sắp xếp lại trong phần thứ năm thì chúng cũng được để gần nhau. Tôi không có ý định nào rõ ràng khi viết chúng, nhưng sau này nghĩ lại thì đó là kết quả của chuỗi dài những suy nghĩ, hồi ức, khổ đau. Tôi muốn tái hiện chúng.

Nguyễn Đức Tùng: Trong ba bài này, cũng như những bài khác, điều đặc biệt về hình thức là thơ Hoàng Cầm rất tự do.

Anh gần như không theo bất cứ một quy ước nào, nhưng lại hoàn toàn tuân theo các nguyên tắc âm nhạc của chính anh, và của chính bài thơ.

Anh thường ngắt câu thơ ra làm nhiều đoạn, và xuống dòng giữa chừng.

Mẹ đã vuốt mép trầu giục giã
Hạ cổng chống rồi
Cánh sẻ chợt bay vù mái bếp

Đó là những cách tân rất lạ trong thơ Việt Nam, vào thời đó, và ngay cả bây giờ. Những người làm thơ hiện nay có thể cách tân nhiều hơn nhưng không thể nào giữ được sự cân bằng nhạc điệu như của anh.

Hoàng Cầm: Như thế là vì mình cho nhạc của thơ là cái sườn của toàn bài. Đúng ra nó là cái hồn. Nó phải tự nhiên như nước chảy mây trôi, không gượng ép, không có ý định trước.

Tôi trở lại với ý của Tùng nói trên về việc mô tả thiên nhiên. Mình cho rằng những người làm thơ cần tránh những điều sau đây:

* Hình ảnh trong thơ mơ hồ tổng quát chung chung, không đi vào chi tiết, nên không sống động
* Bỏ qua những vẻ đẹp bất ngờ mà chỉ có sự quan sát thường xuyên mới chờ đón được.

Nguyễn Đức Tùng: Tuy nhiên đọc kỹ thơ Hoàng Cầm, thường thấy anh hoặc là chẻ đôi câu thơ bảy chữ, tám chữ, hoặc là trở đi trở lại với nhịp bảy chữ, tám chữ.

Mùa đông sau Em tìm thấy Lá
Chị lắc đầu
Trông nắng vãn bên sông

Vẫn là nhịp bảy chữ, tám chữ cổ điển.

Hoàng Cầm: Nhưng câu bảy chữ lại đi với câu tám chữ, anh thấy không? Mặc dù thế, nhận xét của anh vừa rồi rất quan trọng. Có thể như thế vì mình không có ý định cách tân chỉ để mà cách tân, tâm hồn mình tự do đến đâu, thì mình viết tự do đến đó. Tuy nhiên, ngay từ đầu trong khi các nhà thơ khác vẫn còn thói quen làm thơ cổ điển thì tôi đã rất sớm nhận ra sự cần thiết phải làm mới thơ Việt Nam. Tôi là một trong những người đầu tiên làm thơ tự do.

Nguyễn Đức Tùng: Thơ tự do của Hoàng Cầm thường có đặc tính là tận dụng các thể thơ có vần. Anh cũng tìm cách làm rối, làm lệch đi các cấu trúc văn phạm thông thường. Đó là sự phá vỡ về hình thức. Nhưng càng đọc Hoàng Cầm, tôi càng nhận ra một cái gì đó miên man, thu hút rất mạnh, có mặt nhiều nơi. Các qui luật về không - thời gian thông thường bị phá vỡ. Một hệ thống quy luật khác được thay vào.

Ta con bê vàng
Lạc dáng chiều xanh

Đó là một hiện thực khác.

Hoàng Cầm: Nhận xét của Tùng rất đúng và rất mới. Những người sáng tác khi phân tích tác phẩm của mình thì có thể không thấy được như người phê bình thấy. Tuy nhiên tôi cho rằng nếu thơ tôi có những đặc tính như thế một phần là do ảnh hưởng của kịch thơ, do sự chú tâm về cấu trúc và về âm nhạc, và do toàn bộ đời sống riêng của mình. Thơ của tôi mặc dù tự do, nhưng dễ đọc, dễ ngâm. Người đọc cảm được thơ mình là nhờ cái tình nhưng cũng là nhờ nhạc điệu bàng bạc trong thơ.

Nguyễn Đức Tùng: Ngoài thơ tự do, anh cũng làm nhiều những thơ có vần. Ngay trong những bài thơ năm chữ, là thể thơ không được Hoàng Cầm sử dụng nhiều, người đọc tinh ý vẫn nhận ra sự mới mẻ về ý tưởng đôi khi cả ngôn từ, mặc dù nhịp điệu vẫn là nhịp điệu cũ.

Khi em đi xa về
Ao làng trông bé lại
Con bướm vàng cầu tre
Đã không sang vườn cải

Khi em đi xa về
lũy tre xưa huyền ảo
nay tiêu điều xóm quê
như sau ngày giông bão

Sao khi ta lớn khôn
thấy quê mình hiu hắt
cỏ cây thiêng mang hồn
xanh xưa về đâu mất

Đây chỉ là sự hoài niệm đơn thuần của một người lớn tuổi tiếc thương tuổi thơ của mình, có tính cách cá nhân, hay đây là câu hỏi đặt ra cho thời đại hôm nay, có tính cộng đồng, về những giá trị văn hóa tinh thần đã mất?

Hoàng Cầm: Bài thơ này tôi làm khoảng năm 1998, nghĩa là cũng mới đây thôi. Tôi nghĩ là cả hai điều anh đề cập đến đều đúng cả, nó là sự xúc động cá nhân nhưng cũng là một cái gì lớn hơn. Xã hội ngày nay và tuổi trẻ sau này mặc dù đầy đủ hơn, sống tiện nghi hơn, lại thiếu thốn một thứ gì. Một thứ gì đã mất hay là đang mất đi, tôi muốn nói lên sự mất mát đau đớn ấy. Nó là các giá trị văn hoá, các tài sản tâm hồn dân tộc.

Nguyễn Đức Tùng: Anh có nhiều bài viết về các nhà văn nhà thơ như Phùng Quán, Vũ Trọng Phụng v.v… Viết về Phùng Cung chẳng hạn, rất thắm thiết:

Từng chữ thép kỳ phùng ngựa chúa
Bút trừ tà tung xác văn nô
Mười hai năm đoạ đầy trả nợ
Một trang văn hiếm có từ xưa

Thơ Hoàng Cầm ít có những câu rắn rỏi, mang đậm thủ pháp hiện thực, khắc hoạ sâu như những câu thơ tôi vừa đọc. Tình bạn của anh đối với Phùng Cung, Phùng Quán, Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi… như thế nào?

Hoàng Cầm: Phan Khôi và Nguyễn Hữu Đang là lớp trước chúng tôi. Tôi hết sức kính trọng họ. Công lao của họ rất lớn. Phùng Quán là bạn thân. Phùng Cung là một người mà tôi quý mến, và theo tôi là một nhà thơ rất có tài, sống một cuộc đời đầy dũng khí, trải qua nhiều năm khốn khổ nhưng vẫn giữ được tính nhân hậu, tâm hồn trong sạch. Nói chung là khí tiết, thứ hiếm có thời nay.

Nguyễn Đức Tùng: Thơ mới Việt Nam có một nữ sĩ tài năng, nhưng không được Hoài Thanh đưa vào Thi nhân Việt Nam. Đó là nhà thơ Ngân Giang. Thơ của bà không kém gì thậm chí còn vượt hơn một số nhà thơ nữ khác cùng thời. Nhờ một cuốn tạp chí Văn cũ trước đây, số tưởng niệm Đông Hồ, tôi và bạn bè cùng lứa biết đến những câu sau đây của bà:

Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa
Giáp vàng, khăn trở lạnh đầu voi
Chàng ơi! Điện ngọc bơ vơ quá
Trăng chếch bên trời bóng lẻ soi

Nghe nói là được Đông Hồ ngâm vài phút trước khi ông ngã xuống trên giảng đường đại học Văn Khoa Sài Gòn.

Hoàng Cầm: Ngân Giang là người bạn lớn tuổi của tôi. Năm 2000, tôi viết về Ngân Giang nhân sinh nhật thứ tám mươi lăm của chị:

Xót một mệnh trời, đau một tri âm
Thương một loài hoa, yêu một nguyệt cầm
Còn sống cầm tay, một ngày đầm ấm
Còn bi thương ư. Có như bùn lấm
Còn hoài vọng ư. Có như Cô Tấm
Còn ước mơ gì? Người đi nghìn dặm

Đó là cái tình của nghệ sĩ đối với nhau, hơn thế nữa nhà thơ Ngân Giang đã không được may mắn. Lúc còn sống chị không được công chúng biết đến, thơ của chị không được phép xuất bản. Các thế hệ trẻ bây giờ hình như cũng không biết Ngân Giang là ai. Đó là một điều đáng tiếc.

Nguyễn Đức Tùng: Cũng là điều đáng tiếc cho những người bây giờ không biết đến nữ sĩ. Theo anh có phải là có một sự đứt đoạn, một nếp gãy trong văn hoá Việt Nam và trong thơ nói riêng?

Hoàng Cầm: Do chiến tranh và nhiều xáo trộn của đất nước mấy chục năm qua, dân tộc mình đã chia năm xẻ bảy rất nhiều, không những trong Nam ngoài Bắc mà cả thế hệ trước thế hệ sau. Tùng thấy không, dân tộc mình chỉ là một mà thôi. Mà đó không phải là sự tuyên truyền và không nên để cho sự tuyên truyền làm hỏng cái nhất điểm tâm hồn đó.

Nguyễn Đức Tùng: Trở lại với Về Kinh Bắc, một trong ba tập thơ quan trọng nhất của anh, bên cạnh tập thơ Mưa Thuận Thành và tập Lá diêu bông.

Tôi thường chú ý đến không gian trong thơ Hoàng Cầm. Đó là một không gian văn học. Thơ anh đầy mùa màng, cảnh sắc thiên nhiên, cây cối, chim chóc, đồ vật. Không phải là người ở một vùng văn minh sông Hồng, thì khó viết được những câu như:

Về Kinh Bắc phải đâu con hé miệng
Khế chua vôi bột lòng tay

Tràng pháo ròng thân cau mới bói
Tênh tênh chở đá Ba Vì
Tiếc gì nhau nữa
Lứa ong bầu châm lửa gót chân

(Đêm Mộc)

Có một cái gì huyền ảo mà rất thật. Trừu tượng mà chi tiết, hiện thực mà siêu nhiên (extra natural). Nhưng mà thơ thời kỳ này cũng có nhiều đau đớn, đắng cay, buồn tủi. Các bài thơ khác sau tập Về Kinh Bắc, nhất là khoảng từ 1975 về sau, mặc dù anh viết vào lúc lớn tuổi, lại có giọng điệu tươi tắn hơn, vui vẻ hơn. Mặc dù vậy về mặt giá trị văn học, tập Về Kinh Bắc nhìn chung hình như vẫn là xuất sắc nhất, đỉnh cao của thơ Hoàng Cầm. Phải chăng quy luật của sáng tạo là bất bình tắc minh, nghĩa là càng đau khổ càng làm thơ hay?

Hoàng Cầm: Có thể đồng ý với anh rằng tập Về Kinh Bắc nổi bật hơn cả, nhưng xét về từng bài thời kỳ sau này và trước đó, cũng có những bài ngang tầm tương tự. Nhưng đúng là khi trong lòng mình buồn bực, nhiều tâm sự thì nó phả ra cái giọng điệu đau buồn uất ức riêng. Nó làm cho thơ trỗi dậy. Thơ là tiếng nói của tâm hồn là vì vậy. Tuy nhiên tôi không cho rằng chỉ khi đau khổ người ta mới làm thơ hay. Vả lại sự đau khổ có hai cách, hoặc là do từ bên ngoài, hoặc là do chính mình. Những người đang yêu nhau cũng có thể làm thơ hay mặc dù không phải khi nào họ cũng đau khổ. (cười)

© 2008 talawas