11/5/10

"Đạo văn" kiểu gì phổ biến nhất?

"Đạo văn" kiểu gì phổ biến nhất?
Tác giả: Nguyễn Hòa
Bài đã được xuất bản.: 09/05/2010 08:53 GMT+7

Ở Việt Nam lâu nay...một số người đã và đang coi giáo trình như tài sản văn hóa dân gian để "sưu tầm" thoải mái. Do lý thuyết của nhiều bộ môn khoa học ở Việt Nam chủ yếu là nhập ngoại, nên giáo trình thường ra đời với hai hình thức: Dịch từ giáo trình nước ngoài, dựa vào giáo trình nước ngoài để viết một giáo trình kiểu Việt Nam.

Lạng cao hay..."đồ con khỉ" (!)

Không phải là khoe khoang, vì chẳng lấy gì làm vinh dự, nhiều năm nay tôi đã phanh phui ra nhiều vụ đạo văn, mà đa số "khổ chủ" bằng cấp đầy mình. Mà lần nào cũng cống bố "tang chứng, vật chứng" đàng hoàng, địa chỉ cụ thể và tôi luôn sẵn sàng đối chất nếu "khổ chủ" thấy bị vu cáo. Kết quả là, hầu như các vị tỉnh queo, duy nhất Trường đại học Ngoại ngữ Hà Nội là mời tôi tới, để ông hiệu phó thông báo nhà trường quyết định không sử dụng cuốn sách bị tôi phê phán làm giáo trình. Còn lại thì "khổ chủ" vẫn hiên ngang đứng trên bục giảng để nói những lời hay ho, vẫn thăng quan tiến chức, vẫn chủ trì công trình nghiên cứu nọ, phụ trách đề tài nghiên cứu kia.

Đáng nể nhất là một ông quan chức văn hóa- nghệ thuật đã đạo văn, trên internet được tặng cho blog, rồi cả topic hàng trăm trang, bằng chứng sờ sờ mà vẫn "yên phận vị", thế mới tài!

Trước khi bàn về đạo văn, tôi xin được cung cấp một vài kinh nghiệm bản thân. Để đối phó với phát giác của tôi về việc đạo văn, người ta thực hành nhiều thủ pháp. Đại loại như: Phân bua "quên không cho vào ngoặc kép", sử dụng giải pháp "im lặng là vàng", chơi trò "mách bố" (tức là nhờ ai đó gửi thư, gọi điện đến nơi có trách nhiệm để thanh minh, thanh nga, rồi quả quyết là Nguyễn Hòa "chưa thấu tình").

Cao tay hơn, bỗng dưng một nhân vật "nổi tiếng" tảng lờ mọi sự, xông ra viết một bài ca tụng người bị phác giác đạo văn lên tận mây xanh, và mặc nhiên chuyện đạo văn trở thành... vớ vẩn (Với trường hợp này, theo tôi có hai khả năng: Hoặc là người viết tụng ca bất chấp dư luận, hoặc là họ mang uy tín của mình ra để bảo lãnh cho cái xấu?).

Đê tiện nhất là sau khi bị bắt quả tang đạo văn, người ta "chơi" lại bằng ngón "ném đá giấu tay", nghĩa là tung ra thông tin mập mờ như: "Nguyễn Hòa ăn tiền để viết", "Nguyễn Hòa về phe với X để đánh", "Nguyễn Hòa ghen tức với người tài". Chưa kể một vài thủ pháp rất kém cỏi khác, như nhờ người quen chung gặp tôi mời đi ăn trưa để "nói giúp".

Lại có bác tự nhiên đến phòng làm việc của tôi, chuyện trên trời dưới biển mãi, tôi thắc mắc không biết tại sao hôm nay bác lại quyến luyến với mình thế. Trước khi về bác mới thò ra một câu: "Chú bỏ qua cho thằng X đi, nó là cháu anh đấy!". Tôi phá ra cười: "Em công bố rồi, sao bác chẳng nói trước!". Thậm chí có vị tới mời tôi đi uống nước, tự xưng là chiến hữu của một ông vừa bị tôi phát giác đạo văn, rồi biếu lạng cao khỉ (để rồi dù không nhận, tôi cứ phải băn khoăn: Không biết lạng cao đó có kèm theo thông điệp coi mình là "đồ con khỉ" không nhỉ!?)

Nhìn chung, thủ đoạn đối phó rất lắt léo, đa dạng, tương ứng với câu thành ngữ "của làm sao người chiêm bao làm vậy", hoàn toàn đối lập với tính lương thiện của con người nói chung, chứ chưa nói đến tư cách trí thức. Vì thế, khi ai đó công bố một phát hiện đạo văn, tôi chân thành khuyên nên nhìn trước nhìn sau, cân nhắc cho kỹ, kẻo xơi phải "đòn thù" thì nếu yếu bản lĩnh, có khi "má lại sưng" trước.

Hiện tại, tôi có bằng chứng về một vụ đạo văn, song tôi tin nếu biết "khổ chủ" là ai thì chắc chẳng báo nào dám in, mà in rồi thì chắc là sẽ lo ngay ngáy, còn tôi công bố rồi thì có khi cũng liệu mà tính đường... nhận sổ hưu!

Đạo văn kiểu gì phổ biến nhất?

Phát hiện đạo văn cũng nhiều, nên tôi thấy người ta đạo văn cũng đa dạng, phong phú. Trong đó ăn cắp, sao chép giáo trình là phổ biến nhất. Đã làm công việc giảng dạy thì đều biết, giáo trình là toàn bộ những bài giảng về một bộ môn khoa học, trong đó chứa đựng hệ thống khái niệm, phạm trù, các luận giải, kết luận về đối tượng nghiên cứu... của một bộ môn khoa học; là tích tụ công sức của nhiều người, được cộng đồng nghề nghiệp thừa nhận, thống nhất sử dụng.

Nhưng xem ra ở Việt Nam lâu nay, giáo trình lại giảm thiểu vai trò và ý nghĩa trong một số người, họ đã và đang coi giáo trình như tài sản văn hóa dân gian để "sưu tầm" thoải mái. Do lý thuyết của nhiều bộ môn khoa học ở Việt Nam chủ yếu là nhập ngoại, nên giáo trình thường ra đời với hai hình thức: Dịch từ giáo trình nước ngoài, dựa vào giáo trình nước ngoài để viết một giáo trình kiểu Việt Nam.

Bên cạnh đó, còn có giáo trình biên soạn từ yêu cầu của hệ thống đào tạo, như giáo trình lịch sử Việt Nam, văn học Việt Nam...Tuy nhiên, dù là dịch hay biên soạn thì chất lượng giáo trình trước hết phụ thuộc vào người viết. Không ngẫu nhiên ở trường đại học, sinh viên thường kháo nhau: Giáo trình thầy A hay hơn, giáo trình cô B dễ hiểu hơn. Tôi nghĩ, để biên soạn một giáo trình, người biên soạn phải làm chủ được tri thức cơ bản của một bộ môn khoa học, có khả năng trình bày, phân tích một cách hệ thống và mạch lạc, phù hợp với đối tượng người học, có khả năng sáng tạo để tìm ra sự tương thích giữa lý thuyết với dẫn chứng, ví dụ...

Và tôi tin, với đội ngũ giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ ở Việt Nam hiện nay, số người có phẩm chất như thế là không nhiều. (Để kiểm chứng, kính mong vào một ngày đẹp trời, cơ quan có trách nhiệm thử kiểm tra trình độ ngoại ngữ, tin học xem có tương ứng với mấy cái bằng họ trình ra hay không?).

Oái oăm ở chỗ, đã được giảng dạy từ trung cấp tới sau đại học thì mỗi môn học phải có giáo trình, nên khi người tài năng và có trách nhiệm không nhiều thì người kém tài năng, thiếu trách nhiệm cũng phải sử dụng. Rồi chính họ - người thiếu tài năng nhưng ít liêm sỉ để từ chối (thậm chí ham hố biên soạn để lấy tiếng tăm, để kiếm tiền, để chứng tỏ năng lực không kém ai...?), tất nhiên là phải ăn cắp từ giáo trình của người khác.

Thời còn là giảng viên đại học, có lần tôi được mời tham gia viết một giáo trình, đổ mồ hôi sôi nước mắt mới viết xong ba chương. Đọc bản thảo chương mở đầu của ông chủ biên, thấy "có mùi văn dịch", tôi liền truy tìm, thì thấy được dịch từ một cuốn giáo trình tiếng Nga. Buổi nghiệm thu, tôi phản đối và đề nghị viết lại, ông chủ biên không nghe, tôi rút luôn bản thảo. Thà mất một khoản thù lao còn hơn đứng tên tác giả biên soạn cùng người... "dịch đạo"!

Cách đây ít ngày, vụ đạo giáo trình của PGS TS PTC ở Trường Đại học Công nghiệp TP Hồ Chí Minh trở thành một sự kiện "nóng" và được dư luận hết sức quan tâm. Hòa chung với sự bức xúc của dư luận, tác giả bị mất cắp là GS TNT bày tỏ: "Giải trình của PGS TS C trên báo chí và với Hội đồng chức danh Giáo sư Nhà nước là không trung thực. PGS TS C là chủ biên của hai cuốn giáo trình về Tài chính quốc tế. Một cuốn xuất bản năm 2008, một cuốn xuất bản năm 2009. Cuốn xuất bản năm 2008 có nội dung giống của tôi 100%. Cuốn thứ hai giống đến 90%". Hai chữ "của tôi" được nói ra rất rành mạch và tôi chia sẻ với ông.

Ấy vậy mà ngày 2.5.2010, trên vneconomist.net/forums có người công bố bài Bằng chứng đạo văn của GS TS TNT, trong đó khẳng định GS TS TNT đã đạo giáo trình của GS Jeff Madura (Jeff Madura là giáo sư tài chính Ngân hàng SunTrust ở Trường đại học Florida Atlantic).

Tác giả này cho rằng, bằng việc làm của mình, GS TS TNT đã "làm hủy hoại nền quốc học nước nhà; không có một lời tri ân đến những người mở đường và khai sáng; tạo trạng thái tâm lý ỷ lại hay rủi ro về mặt đạo đức; làm nhục quốc thể" và tuyên bố: "Tôi cũng sẽ làm tất cả những gì có thể làm được để có thể đưa ra công luận sự thật này, thậm chí mời cả GS. Jeff Madura ra đối chứng". Sự thể đến mức này thì quả là quá bất ngờ, không biết thực hư ra sao.

Mong sao ý kiến kia chỉ là nghi ngờ, dù GSTS đã trả lời "lòng vòng" trên báo Thanh Niên, thì tôi vẫn muốn tin vào ông(!)

(còn nữa)

© TUANVIETNAM.NET

Nguyễn Hòa - Nói cứ nói, "đạo văn" cứ "đạo văn"

Nói cứ nói, "đạo văn" cứ "đạo văn"!
Tác giả: Nguyễn Hòa
Bài đã được xuất bản.: 10/05/2010 06:00 GMT+7

Phát hiện đạo văn không khó, vấn đề là phát hiện rồi đi đến đâu, vì đến nay chẳng thấy có chế tài nào cả, họa hoằn mới có lời xin lỗi xuê xoa, còn thì... "đoàn người cứ đi"!

Xấu hổ là một khái niệm... xa lạ

Trên thực tế, hệ thống tri thức của một môn khoa học là thống nhất. Song khi viết thành giáo trình, việc trình bày, diễn đạt hệ thống tri thức ấy như thế nào phụ thuộc vào người biên soạn. Bởi thế, chắc chắn không có chuyện hai người hành văn i xì nhau, từ tổ chức câu chữ, sử dụng từ ngữ, đến dấu chấm, dấu phảy, ví dụ và phân tích... Nên việc sao chép sách vở của người khác mà không đưa vào ngoặc kép, không ghi chú, không dẫn nguồn, thản nhiên như "của nhà trồng được" không thể do vô tình, sơ ý, hay kế thừa mà chắc chắn là hành vi ăn cắp, không thể định tính bằng từ ngữ khác.

Hiềm một nỗi, đa số người viết giáo trình lại không là người bình thường, nếu không giữ một chức vụ thì cũng là người có "uy tín" trong giảng dạy, nghiên cứu. Vị nào trong số này đạo văn sẽ làm cho nơi có trách nhiệm e ngại, nghe nói người ta sợ mất "uy tín" (Nếu đúng vậy, thử hỏi kẻ đạo văn có quan tâm đến uy tín của chính họ hay không?). Thế nên, hàng chục năm nay, báo chí công khai chỉ rõ vài chục vị giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ đạo văn mà họ vẫn bình chân như vại, chỉ có một ông bị phế chức danh Phó Giáo sư, có lẽ để làm... "vật hy sinh" cho sự nghiêm minh của khoa học, pháp luật!?

Cách đây ít năm, phát hiện tiểu luận của ông T đăng trên một website đã đạo văn, tôi viết bài gửi tới. Người chủ trì website đề nghị chưa đăng, để họ liên lạc với ông T. Rồi biết không thể che dấu, người ta đề nghị tôi không công bố để "giữ uy tín cho ông T". Tôi không đồng ý và khẳng định: Không đăng tôi gửi nơi khác. Cuối cùng họ đăng, kèm theo có thư xin lỗi thống thiết của ông T vì quên "không đưa vào ngoặc kép".

Thấy ông ta thiếu trung thực, tôi viết tiếp để chỉ rõ: Nếu ông T đưa các đoạn ăn cắp vào ngoặc kép, bài của ông ta chẳng còn gì; rồi tôi dẫn một số đoạn ông ta sửa sang của người khác biến thành của mình, và hỏi: Với trường hợp đó ông ta đưa vào ngoặc kép như thế nào (Ví dụ:" Thân dân (hay gần dân, yêu dân) và dân chủ là hai định hướng tư tưởng thuộc về hai loại hình ý thức hệ chính trị khác biệt nhau. Hầu như ở các thời điểm thịnh trị của chế độ quân chủ trong lịch sử Trung Quốc và Việt Nam, các chính trị gia lỗi lạc đều có biểu hiện mức độ đậm nhạt khác nhau của tư tưởng thân dân, yêu dân, chứ chưa từng có khái niệm và cũng không chấp nhận tư tưởng dân chủ" trong đó các chữ in nghiêng là của tác giả mà ông T đã đạo văn)?

Ông ta im lặng, nhưng có người chỉ trách tôi "đánh người chạy lại", chắc là họ đã vừa lòng với một nửa sự trung thực của ông T!? Tương tự như thế, một ông giáo sư ngành văn học đã đạo văn từ luận án của học trò để đăng trên một website của người Việt ở nước ngoài. Bài đăng rồi, dư luận nghề nghiệp bắt đầu râm ran, ông giáo sư vội vàng liên lạc với quản trị website xin rút xuống. Bài rút xuống rồi, qua mấy năm, chẳng thấy giáo sư đăng lại (chuyện này đã đăng trên Hồn Việt năm 2008).

Các sự kiện trên có thể thấy, thủ đoạn đạo văn rất đa dạng, tinh vi, rất khó phát hiện những người đạo văn mà thành thạo trong gia công, sửa chữa, biến báo. Nhiều khi đọc, biết chắc là tác giả xào xáo của người khác mà cũng chịu, vì dấu vết cụ thể khó tìm. Đạo ý tưởng cũng thế, người ta có thể bao biện là cùng nảy sinh một ý tưởng và người này triển khai khác, người kia triển khai khác; hoặc hoành tráng hơn thì bảo rằng... "tư tưởng lớn gặp nhau", có mà trời cãi!

Với những vị chép nguyên văn từ tác phẩm của người khác vào tác phẩm của mình thì đơn giản hơn, vì họ quá liều, bất cần danh dự, khinh thường đồng nghiệp và bạn đọc, họ lười nhác đến mức không thèm động não để xóa dấu vết. Với mấy người này, dường như xấu hổ là một khái niệm xa lạ, không nằm trong hệ giá trị cấu thành nên nhân cách.

Vì thế, dù bị phê phán, một số người vẫn không xin lỗi người mà họ đã cầm nhầm, xin lỗi đồng nghiệp và công chúng, xin lỗi sinh viên. Theo chỗ tôi được biết, ít nhất có hai cuốn sách bị vạch rõ là đạo văn nhưng khi tái bản, tác giả vẫn không thèm sửa chữa hoặc có sửa chữa nhưng rất chiếu lệ. Đối với họ, sự lên án của dư luận liệu có ý nghĩa gì không?

Để công bằng và khách quan, không nên chỉ "nhè" vào tình trạng đạo văn của các nhà giáo, nhà nghiên cứu, bởi theo tôi, trên văn đàn và báo chí, đạo văn cũng đã tới mức không thể chấp nhận.

Về đạo văn đạo thơ, mọi người nói nhiều lắm rồi, riêng 50 câu thơ được thả lên trời trong Ngày thơ Việt Nam lần thứ VIII ở Văn Miếu, nhà thơ NTT nghi vấn câu thơ "Những mùa hoa đại trắng - Tiếng mõ chừng cũng thơm" vốn là tài sản của LTS chứ không phải của VT, nếu đúng thì không còn gì để nói. Trong 50 câu này, câu thơ: "Bắc thang ta ghé lên trời - Cầm trăng ta vẽ nên người ta yêu", lại làm tôi nhớ đến câu: "Bắc thang lên hỏi ông trời..."!

"Đạo văn" : Phát hiện không khó mà...khó

Chịu khó đọc báo, cũng dễ gặp hiện tượng đạo văn. Vừa rồi, nghe tin một tờ báo định đăng tải phóng sự của một cựu sinh viên Trường Nguyễn Du viết về hiện tượng bán máu. Biết tên tác giả, tôi đề nghị dè chừng. Tòa soạn kiểm tra, y như rằng trong bài, tác giả đã đạo văn. Tòa soạn cảnh cáo, nhưng sau vì thương chưa có công ăn việc làm, nên cắt các đoạn đạo văn rồi in. Tuần sau, người đó gửi phóng sự thứ hai, toàn soạn lại kiểm tra, phát hiện đạo văn từ hẳn bốn tờ báo, thế là chấm dứt luôn liên hệ!

Năm 2008, Vietimes đăng bài của Bùi Trọng Hiền về nghệ sĩ Kim Sinh, trong đó có một ghi chú: "Niccolo Paganini - Nghệ sĩ nước Italia diễn tấu đàn violon khi chỉ còn một dây". Sau trên báo nọ, một nữ nhà thơ cũng viết về nghệ sĩ Kim Sinh, có đoạn thuổng của Bùi Trọng Hiền, cũng có ghi chú như trên. Gặp nữ nhà thơ, tôi cảnh cáo về đạo văn, chị ta cãi, đến khi hỏi thế nào là "diễn tấu đàn violon khi chỉ còn một dây" thì chị ta ngắc ngứ. Đơn giản vì, chị ta đâu có đọc sách về Paganini mà biết. Đạo văn như thế thì quá tệ.

Rồi trước đây, thi thoảng đọc bài viết về một con người, một sự kiện, một vấn đề... nào đó (nhất là con người, sự kiện, vấn đề liên quan tới lịch sử) mà tác giả khảo chứng chi tiết, có lớp lang, nhiều thông tin, tôi rất nể, vì nghĩ tác giả đã nghiêm túc khảo sát tư liệu, có đánh giá riêng trước khi viết. Sau tôi ngờ ngợ, cuối cùng phát hiện nhiều bài đã đạo văn từ Wikipedia, theo hai cách: Lấy nguyên văn hoặc có xào nấu tý chút.

Tôi cũng khảo sát trên Wikipedia, nhưng chỉ sử dụng thông tin nào tự mình thấy thuyết phục, còn chỉ để tham khảo. (Lưu ý là, với Wikipedia, do tính chất "mở" của nó, mọi người có thể tham gia, nên có trường hợp tính chính xác là không cao. Gần nhà tôi có một anh cu đang học lớp ba, từ năm 6 tuổi đến nay, anh cu đã viết một số nội dung trên Wikipedia, loắng khoắng thế nào mà đạo văn đúng của anh cu này thì liệu có trớ trêu!?).

Theo tôi, phát hiện đạo văn không khó, vấn đề là phát hiện rồi đi đến đâu, vì đến nay chẳng thấy có chế tài nào cả, họa hoằn mới có lời xin lỗi xuê xoa, còn thì... "đoàn người cứ đi"!.

Đã có một số người định nghĩa thế nào là đạo văn, tôi thấy để hướng dẫn sinh viên, website studygs.net định nghĩa đạo văn khá đơn giản: "1. Sử dụng, lấy ý tưởng hoặc văn của người khác thành của mình. 2. Ghép đoạn văn hoặc lấy ý tưởng của người khác vào bài của mình".

Để sáng tỏ một vụ đạo văn, chỉ chứng minh các nội dung trên có hay không, rồi căn cứ vào đó đối sánh với Luật Sở hữu trí tuệ mà xử phạt. Làm nghiêm khắc, chắc chắn là nạn đạo văn sẽ giảm phần nào.

Tôi nói phần nào, vì một ngày người ta còn sử dụng chức danh, học vị làm bàn đạp tiến thân; một ngày thói háo danh, sự ích kỷ còn tồn tại trong khoa học và nghệ thuật; một ngày hành vi đạo văn chưa có chế tài nghiêm khắc; một ngày đức trung thực và sự xấu hổ chưa trở thành yếu tố cấu thành nên phẩm chất của mọi người; một ngày không còn người dung túng cho hành vi đạo văn, một ngày tình trạng "giả khoa học", "giả trí thức" chưa bị loại ra khỏi đời sống,... thì ngày ấy, đạo văn còn tồn tại.

Và tôi tin, trước mắt là chưa thể!


© TUANVIETNAM.NET

TRỰC NGÔN - Đố Bộ trưởng nào dám từ chức và một kẻ lắm mưu...

Đố Bộ trưởng nào dám từ chức và một kẻ lắm mưu...

Tác giả: Trực Ngôn

( Date : 7/5/2010)

Một cháu bé bị hành hạ dã man như thời trung cổ, một công ty đầu độc cả dòng sông, làm hàng nghìn nông dân điêu đứng vẫn nhởn nhơ, một Hoàng thành ngang nhiên bị phá ủi làm đường trong khi người ta đổ tiền tỷ để kỉ niệm nghìn năm Thăng Long. Phát ngôn Hành động tuần này cho thấy lời cảnh báo tột cùng về sự xuống cấp của đạo đức xã hội.

Phép logic học về những tội ác

Nhìn hình ảnh cháu Hào Anh (14 tuổi) bị vợ chồng ông bà chủ (gọi bằng cậu mợ) trang trại tôm sú giống ở xã Ngọc Chánh, huyện Đầm Dơi (Cà Mau) dùng kìm bấm vào môi, bẻ răng, dùng bàn là nóng chà lên da thịt... trong một thời gian dài không ai không cảm thấy rùng mình kinh hãi.

Việc hành hạ những đứa trẻ một cách man rợ như thời trung cổ trong xã hội chúng ta không hề thuyên giảm. Nếu xét một cách logic trong việc giáo dục con người thì với lý trí người ta sẽ thấy những chuyện man rợ ấy chẳng có gì đáng ngạc nhiên.

Nếu chúng ta xâu chuỗi những vấn đề về sự suy đồi nhân cách thì chúng ta sẽ thấy tội ác không hiện ra ở nơi này thì sẽ hiện ra ở nơi khác, không hiện ra trong hình thức này thì hiện ra trong hình thức khác. Tội ác của vợ chồng ông chủ trang trại tôm sú giống cho thấy hai điều : Một, sự độc ác đã công khai như thách thức với xã hội. Hai, sự coi thường luật pháp và những giá trị sống.

Khi người ta ngang nhiên tàn phá thiên nhiên, giết hại nuông thú ngay trước cửa chùa, chen lấn cãi cọ nhau trên đường, tranh giành bổng lộc, ức hiếp lẫn nhau, khi người ta nhìn thấy những kẻ móc túi trên một chuyến xe nhưng giả vờ quay mặt đi, giả vờ quay mặt đi để không nhường chỗ cho một người lớn tuổi hay một phụ nữ có thai, khi người ta ngang nhiên xâm lấn đến các di tích văn hoá, lịch sử bởi lợi ích vật chất, khi người ta trắng trợn đục khoét tài sản của tập thể, khi một thầy hiệu trưởng mua dâm học sinh đã xin trút bỏ y phục trước toà để chứng minh mình không có khả năng tình dục hòng chạy tội thì đức hạnh của con người đã nát như bùn.

Nhưng trước tội ác ở mức độ man rợ ấy, chúng ta thật may đã không rơi xuống đáy của sự tuyệt vọng nếu chúng ta không được thấy sự lên tiếng của những người dân ở xã Ngọc Chánh. Cho dù sự lên tiếng này không tỉ lệ thuận với những hành động phi văn hoá và phi nhân tính đang diễn ra.

Nếu chúng ta xâu chuỗi những vấn đề về sự suy đồi nhân cách thì chúng ta sẽ thấy tội ác không hiện ra ở nơi này thì sẽ hiện ra ở nơi khác, không hiện ra trong hình thức này thì hiện ra trong hình thức khác. Ảnh VTC
Các cơ quan chức năng đã vào cuộc và sẽ xử lý hai vợ chồng ông chủ trang trại tôm giống kia. Nhưng những hành động phi nhân tính một cách công khai như vậy đã xẩy ra trong xã hội từ lâu cho dù có những vụ đã bị pháp luật xử lý, nhưng "thông điệp đen" từ những hành động phi nhân tính đó vẫn chưa thực sự được đặt lên bàn những người có trách nhiệm với xã hội. Bởi chúng ta vẫn chưa nhìn thấy một chiến lược giáo dục nhân tính cho con người. Nó cho thấy những hành động phi nhân tính ấy xẩy ra như chuyện một cái cây tự nhiên đổ. Người ta dọn cái cây đổ ấy xong là quên ngay chuyện đó.

Mọi chuyện trong những gia đình, trong những khu phố, trong mỗi ngôi trường, trong mỗi công sở...vẫn "bình chân như vại". Cũng có những nỗi lo được cập nhật và những giải pháp nào đó được đưa ra nhưng đó chỉ là những nỗi lo chủ yếu về giá hàng hoá, giá vàng, đô la, giá căn hộ cao cấp, về những ngày nghỉ dài sẽ du lịch ở đâu...mà không thấy nỗi lo về đạo đức xã hội đang xuống cấp một cách trầm trọng.

Chẳng lẽ chúng ta chỉ trông chờ vào sự an ủi như một tia hy vọng mong manh về đạo đức xã hội qua một vài người thi thoảng loé lên như sao đổi ngôi hay sao ?

Tôi là một kẻ lắm mưu mẹo

Cho dù không muốn nhắc lại bởi xấu hổ và đau lòng thì tôi vẫn phải nhắc rằng : theo báo chí mấy năm vừa rồi đưa tin, Việt Nam là một trong những nước tham nhũng nhất thế giới. Thế nhưng, số vụ tham nhũng được phát hiện lại không nhiều, chủ yếu là "tham nhũng vặt", "cá to lọt lưới" như nhận định trong một báo cáo của cơ quan chức năng công bố tại Hội nghị Đối thoại về Phòng chống tham nhũng năm 2008. Kết quả đó có phải là do chuyên môn của các cơ quan chống tham nhũng kém hay do các cơ quan đó không dám làm gì mạnh tay ?

Tuần này, một tin vừa vui vừa ngờ trên Báo Tuổi Trẻ về việc tới đây các cán bộ công chức phải có nghĩa vụ giải trình tài sản của mình và từng bước công khai tài sản và có những quy định xử lý đối với tài sản không giải trình được.

Về việc này, cho dù tôi có nói gì dưới đây chăng nữa thì hầu hết mọi người cũng sẽ hình dung ra chuyện đó nó sẽ như thế nào. Cái tin nói trên vui vì nếu chúng ta làm đúng với những gì chúng ta nói thì công cuộc chống tham nhũng mới thực sự có kết quả và có ý nghĩa. Và cái tin nói trên mang lại cho người dân nỗi băn khoăn bởi họ khó tin việc đó được thực thi một cách cương quyết khi chúng ta đã làm việc đó một hai lần và ở đâu đó nhưng hiệu quả chưa được bao nhiêu.

Nhưng sau niềm vui và cả nỗi nghi ngờ kia thì người dân hỏi nhau : vậy những cán bộ nào, công chức nào sẽ là những người kê khai tài sản đầu tiên. Hỏi thế mà cũng hỏi. Đương nhiên phải là các cán bộ từ cao xuống thấp chứ. Nếu một Bộ kê khai tài sản thì ngài Bộ trưởng phải gương mẫu kê khai đầu tiên. Rồi đến các Thứ trưởng. Sau đó là cán bộ cấp Vụ rồi cuối cùng các các cán bộ, công chức không chức quyền.

Nhưng cách làm cũng phải kỹ lưỡng và đầy đủ. Một ngài Bộ trưởng kê khai tài sản thì không chỉ mình ngài kê khai mà vợ ngài, các con ngài và thậm chí các cháu ngài. Tôi nói vậy bởi thực tế và cũng bởi từ bụng ta suy ra bụng người. Vì nếu tôi là Bộ trưởng mà có nhiều tài sản thì tôi sẽ cho vợ tôi đứng tên, cho con tôi đứng tên, rồi con rể tôi hay con dâu tôi nữa. Hơn thế, tôi sẽ gửi tiền vào nhiều ngân hàng khác nhau. Rồi tôi mua bất động sản nhưng cho thuê hoặc dưới một hình thức khác. Nói chung là tôi như thế thôi nhưng tôi rất lắm mưu lắm mẹo.

Tất nhiên trong việc kê khai tài sản này tôi lo lắng hay tôi kê gối cao mà ngủ ngon còn phụ thuộc vào những ai đứng ra giám sát việc chúng tôi kê khai tài sản nữa chứ. Nếu các cơ quan chức năng làm đúng thì tôi cũng khó mà thoát được. Hoặc trong các cơ quan chức năng của Nhà nước mà lại có những đại diện có nghiệp vụ và có lương tâm thì cũng gay go đây.

Còn nếu chúng ta thực sự vì sự trong sạch của cán bộ công chức thì chúng ta phát động phong trào quần chúng phát hiện tài sản của những ông bà cán bộ tham ô, tham nhũng giống như chúng ta từng phát động phong trào vì an ninh tổ quốc trước kia thì đố kẻ tham nhũng nào thoát được.

Nhưng tôi phải thành thật trước mọi người là tôi khó tin vào kết quả của việc kê khai tài sản này lắm. Vì vậy, tôi tha thiết đề nghị các cơ quan chức năng hãy làm cho người dân tin đó là một cuộc đấu tranh chống tham nhũng thật sự mà tôi là một người dân trong nhân dân cần lao ấy. Và những người kê khai tài sản trước tiên, theo tôi, nên là những ngài Bộ trưởng và những tổ chức giám sát việc kê khai tài sản phải có đại diện của người dân một cách thực sự.

Đố ngài Bộ trưởng nào dám từ chức đấy!

Trong chương trình thời sự của VTV1 tối qua ( 6/5) có tin về vụ thu hoạch mía của Cuba thất thu. Lý do là thời tiết khắc nghiệt và một số lý do chủ quan khác nữa. Và với chỉ một vụ mía thất thu, Ngài Bộ trưởng Bộ mía đường Cuba đã xin từ chức.

Nghe vậy mà lòng đầy cảm xúc lẫn lộn. Từ bên này trái đất, lòng tôi hướng về Cuba và tỏ lòng ngưỡng mộ ngài Bộ trưởng. Và "trông người lại ngẫm đến ta". Biết bao giờ ở nước Việt Nam này có một ngài Bộ trưởng đứng lên xin từ chức nhỉ ? Tôi xúc động và đầy suy tư nói với mấy người bạn, thì một người trề môi nói : " Có mà đến mùa quýt. Ông đúng là thằng viển vông". Rồi ông bạn ngửa cổ ngâm một câu ca : " Bao giờ chạch đẻ ngọn đa/ Sao đẻ dưới nước thì Bộ trưởng nước ta từ ...chức".

Nghe ông bạn tôi ngâm nga, lòng tôi cũng thấy tưng tức, bèn hỏi : Ông chỉ cho mọi người xem ở nước ta ngài Bộ trưởng nào đáng từ chức không ? Tôi cam đoan là nếu ngài Bộ trưởng nào đó ở nước ta mà mắc lỗi ở mức độ như ngài Bộ trưởng Bộ mía đường Cuba thì chắc họ cũng xin từ chức. Còn nếu ông cứ khăng khăng ở nước ta cũng có vài ngài Bộ trưởng đáng từ chức và nên từ chức thì xin rà soát thử xem.

Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ư ? Làm gì đã đến mức ấy tuy ở Bộ này học sinh thì quay cóp, đánh thầy, chửi cô, thầy thì gạ tình lấy điểm, mua dâm học trò, cô thì bắt trò liếm ghế mà không liếm ghế thì tát cho vẹo hàm, kết quả thi tốt nghiệp một cách thực sự thì than ôi tệ hại vô cùng...

Bộ trưởng Bộ Y tế ư? Cũng làm gì đến nỗi ấy tuy rằng bác sỹ thì ăn tiền bệnh nhân, bác sỹ thì lĩnh lương trong bệnh viên nhưng mở phòng mạch ở ngoài bệnh viện, thuốc thì tăng giá vù vù mà không quản lý được, bệnh viện thì bẩn thỉu, ba bốn bệnh nhân nằm chung một giường...

Vậy thì Bộ trưởng Bộ xây dựng ư ? Càng không đến mức ấy tuy rằng Bộ này xây nhà thì sai quy định để đến khi cháy thì chẳng biết làm thế nào, cầu hàng ngàn tỷ xây xong thì nứt, đường hàng ngàn tỉ làm xong thì lún, công trình thì tô trát bên ngoài nhưng vòng tay rút ruột bên trong...

Có lẽ mấy ông Bộ trưởng của nước người như nước Cuba anh em kia chắc sai xót trầm trọng lắm mới đệ đơn từ chức. Mà có lẽ, làm Bộ trưởng ở nước ngoài nó khác làm Bộ trưởng nước mình.

Không phải là cứu dân đen mà là bảo vệ chủ quyền quốc gia

Chuyện ngay ở trong nước mình mà không làm được thì hỏi chuyện ngoài xa kia thì làm thế nào ? Ảnh VNN
Có thể ví vụ Vedan thải chất độc giết chết sông Thị Vải có thể gọi là " vụ đầu độc" công khai và lớn nhất từ trước đến nay đã bị bắt quả tang. Người dân đã khởi kiện Công ty Vedan bồi thường thiệt hại. Nhưng thời gian cứ thế trôi đi mà kẻ đầu độc vẫn phởn phơ.

" Vụ đầu độc " công khai này đã xẩy ra gần hai năm trời rồi nhưng "kẻ đầu độc" vẫn ung dung trước đau khổ và bức xúc của người dân. Vedan đã phạm tội. Điều đó đúng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Họ phải bồi thường là đúng pháp luật. Thế nhưng bi hài thay họ lại chỉ định...hỗ trợ những nạn nhân của họ mà thôi. Cứ như là họ đang làm công tác từ thiện với khẩu hiệu của họ " duy trì mối quan hệ thân thiện với nông dân". Việc đánh tráo khái niệm giữa "bồi thường" và "hỗ trợ" là trò ma. Nhưng tại sao giữa thanh thiên bạch nhật mà Vedan lại trơ trẽn diễn cái trò này được?

Khi Vedan đưa chuyên gia từ Đài Loan sang để kiểm chứng lại mức độ độc hại mà họ gây ra thì sự việc đã vượt qua ngưỡng " quá trớn" và coi thường luật pháp Việt Nam. Đồng thời, Vedan hứa hết lần này đến lần khác nhưng không thực hiện và giở nhiều trò, nhiều mánh để chạy tội. Một cái công ty mà còn ngang ngược như thế hỏi những kẻ có tiền nhiều, vũ khí nhiều sẽ ngang ngược và chà đạp lên lợi ích của các quốc gia nhỏ hơn như thế nào.

Chưa bao giờ như lúc này, chúng ta cần thể hiện rõ ràng và mạnh mẽ luật pháp của chúng ta. Các cơ quan chức năng nếu không có ý giúp những người dân hai bờ sông Thị Vải thì hãy giúp nhà nước chứng minh chủ quyền của đất nước này. Chuyện ngay ở trong nước mình mà không làm được thì hỏi chuyện ngoài xa kia thì làm thế nào ?

Kết quả giám định của Viện MT-TN được Nhà nước uỷ quyền hãy công bố kết quả điều tra một cách rõ ràng và cơ quan luật pháp dựa trên đó mà phán định. Làm gì có chuyện một công ty như Vedan lại coi kết quả giám định của một cơ quan chuyên môn Nhà nước và phán quyết của cơ quan luật pháp Nhà nước như là chuyện trẻ con như thế.

Khi hai cơ quan Nhà nước kia có kết luận chính thức mà Vedan không thực hiện thì chúng ta phải cưỡng chế như chúng ta cưỡng chế việc di dời nhà dân để làm đường hay xây dựng công trình gì đó. Nếu không thì chấm dứt hoạt động của Vedan cho dù công ty này có mang lại một chút lợi ích nào đó vì không có lợi ích nào lớn hơn chủ quyền của một quốc gia.

Cứ tiến lên đi, máy ủi!

Một góc Hoàng thành Thăng Long, Ảnh VNN
Cho dù được thông báo và cả cảnh báo nữa thì những chiếc xe ủi vẫn hùng hục phá tan những di tích lịch sử cụ thể là bức tường thành Đại La - Hoàng Thành dưới đường Hoàng Hoa Thám của Thăng Long ngàn tuổi ẩn giấu dưới lòng đất khi họ làm con đường.

Nhưng những chiếc máy ủi kia đâu phải là những kẻ vô văn hoá và bất chấp dư luận như thế. Và có điều lạ lùng là từ mấy năm trước, các cơ quan quản lý văn hoá đã cảnh báo với chính quyền thành phố Hà Nội về một di tích lịch sử vô giá sẽ bị tàn phá khi triển khai thi công dự án đường Văn Cao - Hồ Tây.

Và như một vấn đề muôn thuở, người nói cứ nói và kẻ làm cứ làm trước những điều hiển nhiên như vậy. Nói thật là nhiều người dân cảm thấy vỡ óc khi không hiểu sao người ta cứ làm những điều không bao giờ được phép làm như vậy.

Một công viên hiển nhiên đấy là cứ ký giấy phép cho xây dựng khách sạn ở trong, một di tích văn hoá đấy mà cứ cho phép xây dựng đủ thứ linh tinh bên cạnh và kinh doanh đủ loại linh tinh trước cửa, một hồ nước đấy mà cứ hiển nhiên lấn chiếm. Ngay như Vịnh Hạ Long mà có đến biết bao nhà hàng nổi xấu xí trên vịnh rồi ăn uống rồi thải ra đủ thứ.

Ngày 20.4 vừa qua, Bộ VHTTDL tiếp tục gửi công văn tới UBND TP.Hà Nội đề nghị "chỉ đạo các cơ quan liên quan có kế hoạch nghiên cứu về di tích này, trường hợp phát hiện di tích khảo cổ học, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia cần tổ chức thăm dò thám sát, khai quật khảo cổ học theo Luật Di sản văn hoá...".

Các nhà chuyên môn đã lên tiếng và chứng minh có sở cứ khoa học về sự hiện diện của bức tường thành đã tồn tại qua nhiều triều đại. Các cơ quan quản lý về văn hoá đã từng cảnh báo và đang tiếp tục có ý kiến đề nghị khai quật, phân tích di sản hiếm hoi này.

Thế nhưng công văn cứ đến, cứ đi còn máy ủi cứ san, cứ phá. Những người có trách nhiệm và có quyền dừng bọn máy ủi vô văn hoá kia còn đợi gì nữa ? Cái gì đã ngăn cản các vị ? Sự không nhận thức được những di sản ấy hay là cái gì ? Việc ngang nhiên tàn phá một di sản văn hoá trong thế kỷ 20 thì chúng ta mới thấy vụ những thế lực hồi giáo cực đoan phá bức tượng phật khổng lồ mà thôi.

Trong lúc đó thì người ta lại tốn phí không ít tiền vào những thứ mơ hồ và đầy tính hài hước để kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long còn những điều cụ thể kia, những giá trị cụ thể kia thì bỏ mặc. Cũng trong thời gian này, người ta cho thuê hết di tích văn hoá này đến di tích lịch sử kia để kinh doanh. Có lẽ những chuyện này chỉ có ở nước ta mà thôi.

Và đêm đêm trong những ngày này, những người Hà Nội mất ngủ tỉnh giấc, họ tưởng nghe được tiếng Trống Hà thành lung lay bóng nguyệt nhưng chỉ thấy những tiếng hô " tiến lên đi, máy ủi".

Lớp học nhân cách và người thầy "nhặt đinh"...

Bà Tim nuôi chim sẻ đã 10 năm, Ảnh VNN
Trong khi bao kẻ kể cả những kẻ có đầy bằng cấp đang hạ gục nhân cách xã hội thì chúng ta vẫn được chứng kiến những hiệp sỹ chiến đấu không mệt mỏi để cứu vớt nhân cách xã hội. Đó là bà Tim nuôi chim sẻ bảo vệ môi trường, , đó là người chèo bè ở thác Bản Giốc, đó là những người dân Ngọc Chánh, Cà Mau phẫn nộ trước hành động bạo hành man rợ của một đôi vợ chồng...Và mới đây, chúng ta lại chứng kiến ông Đỗ Văn Ái ở Tân An, Long An qua chương trình HTV9.

Ông Ái là một người dân thường nghèo khổ nhưng là ví dụ của lối sống truyền thống "đói cho sạch, rách cho thơm". Nhiều năm nay, ông lặng lẽ ngày ngày đi nhặt những chiếc đinh do vô tình và do cố ý người ta rải trên đường để những người khác đi qua tránh được tai nạn. Trách nhiệm xã hội của ông ngang bằng với tất cả những người Việt Nam đang sống trên mảnh đất này. Lòng yêu nước của ông ngang bằng tất cả những người Việt Nam. Và nhân cách của ông ngang bằng với tất cả những ai yêu nước cho dù đó là một ngài Tổng thống hay một vị giáo sư không đạo văn.

Những người cứu vớt nhân cách xã hội lại là những con người bình dị và đang sống một cuộc sống thiếu thốn. Tôi cứ hình dung về một lớp học nhân cách. Trong lớp học đó, các học sinh là những vị có bằng cấp, giàu có và có thể cả địa vị nào đó trong xã hội nữa. Còn thày cô của lớp học này không phải là Khổng Tử hay Chu Văn An...mà là ông Ái "nhặt đinh", bà Tim " bảo vệ chim sẻ"...

Giáo trình của họ không phải do một Hội đồng chuyên môn hay gì gì đó mà là những hành động ngày ngày của họ đối với thiên nhiên và con người một cách tự giác và đầy lòng yêu thương, nhân ái.

Hỡi các ngài, hãy học đi. Ai tự nguyện đăng ký lớp học này ? Tôi không biết những ai sẽ đăng ký học. Nhưng với những khiếm khuyết của mình, tôi - Trực Ngôn- xin đăng ký được làm học trò của thầy Ái " nhặt đinh" và cô Tim " bảo vệ chim sẻ"


Source : © TUANVIETNAM.NET

Cựu Ngoại trưởng Việt Nam bàn chuyện ứng xử với nước lớn

Cựu Ngoại trưởng Việt Nam bàn chuyện ứng xử với nước lớn
Tác giả: Phương Loan

11/05/2010

Với Trung Quốc, phải hữu nghị với họ. Hữu nghị thực lòng, hợp tác thực lòng. Những vấn đề còn khác biệt phải tìm cách làm việc với họ. Phải khôn khéo, rất khôn khéo - nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên nói.

Cựu Ngoại trưởng: "Sai lầm đối ngoại khó sửa lắm"

Phải hữu nghị, rất hữu nghị với Trung Quốc


Đỉnh cao của nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh thể hiện trong ứng xử với các nước lớn. Việt Nam là một nước nhỏ giữa các cường quốc với các mâu thuẫn và lợi ích chồng chéo, đan xen nhau. Bác Hồ đã xử lý rất khôn khéo các mối quan hệ này, cân bằng quan hệ, tận dụng những điểm đồng, giảm thiểu khác biệt với các nước lớn ra sao, thưa ông?


Đúng là Việt Nam anh dũng thật nhưng mình chỉ là nước nhỏ. Bây giờ Việt Nam đã là nước trung bình, hơn 80 triệu dân, nhưng bên cạnh các nước lớn thì mình là nước nhỏ, tiềm lực kinh tế yếu, tiềm lực quân sự rất yếu. Và Việt Nam chỉ muốn hòa bình, độc lập dân tộc.

Cụ Hồ ứng xử với nước lớn phải nói tuyệt vời: đối với Liên Xô, với Mỹ, với Pháp, với Trung Quốc, những mối quan hệ ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam, với nhiều động thái rất hay.

Với Trung Quốc, Cụ hết sức tranh thủ. Cụ Hồ đối với Trung Quốc vô cùng tình nghĩa. Cụ biết những tham vọng, ý đồ của Trung Quốc, nhưng theo cách không phải để phê phán, chê trách người ta mà để tìm cách làm thế nào khiến người ta không đụng chạm, làm thiệt hại đến lợi ích của mình.

Cụ rất coi trọng Trung Quốc, kính trọng các lãnh đạo Trung Quốc, làm cho họ hài lòng, từ động thái rất nhỏ như cử chỉ với ông Đại sứ, với những thành viên trong đoàn Trung Quốc sang thăm cũng như khi Cụ sang thăm Trung Quốc, gặp Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, những tướng lĩnh đã giúp Việt Nam trong thời kì chống Pháp... Cụ đối xử thật lòng. Đó là ngoại giao tâm công của Cụ, lấy cái tâm của mình làm cho họ gần gũi với mình.


Cựu Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên
Tuy họ có ý đồ về biên giới, lãnh thổ, nhưng mình phải có phương pháp để ứng xử.

Giai đoạn mâu thuẫn Xô - Trung căng thẳng, ai cũng muốn lôi kéo Hồ Chí Minh về phía mình, nhưng Cụ luôn giữ một thái độ ôn hòa. Tuy nhiên, đó không phải cân bằng ba phải. Cụ thấy lúc này là phải đoàn kết, luôn cố níu hai "ông lớn" lại với nhau, dù không thể được. Trong thời kì đó, Cụ giữ vai trò quan trọng trong việc giữ đoàn kết trong các đảng cộng sản.

Với Mỹ, từ năm 1945-1946, thời kì đầu của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Cụ cũng đã viết thư cho Tổng thống Mỹ, nêu mong muốn quan hệ với Mỹ.

Với Pháp, Cụ Hồ là người uyên bác về Pháp, hiểu người Pháp, văn hóa Pháp và rất muốn hữu nghị với Pháp. Nhưng đáng tiếc, như đã nói, tầm nhìn của Pháp hẹp quá, họ xem thường Việt Nam và tin sẽ thắng lớn. Nếu họ thuận theo Hiệp định sơ bộ 1946, họ được nhiều, không mất, không bị tổn thương vì thất bại ở Việt Nam, giảm sút ảnh hưởng ở Đông Nam Á...

Có thể nói, đối với với các nước lớn, Cụ biết lắm: biết mình, biết người, biết thời thế, biết dừng, biết biến hóa. Ai cũng quý mến, trân trọng Cụ.

Cụ thực lòng, chứ không phải theo kiểu ngoại giao mà người ta hiểu trong bụng mình giả dối. Cụ Hồ thực tâm muốn hữu nghị, thực tâm hữu nghị.

Trong việc cân bằng quan hệ giữa các nước lớn, câu chuyện cụ thể nào mà ông ấn tượng nhất về ngoại giao Hồ Chí Minh, thưa ông?

Rõ nhất là thời kì xung đột Xô - Trung. Trong Đảng, trong nhân dân ta lúc ấy nhiều người thích quan điểm của Trung Quốc. Chín bài xã luận của Trung Quốc đập lại chủ nghĩa xét lại của Khruschev được đọc trên đài phát thanh cho dân. Tại Bờ Hồ khi ấy kín đặc người nghe phát thanh. Dư luận chung như thế. Nhưng Cụ Hồ không bao giờ làm mất sự ủng hộ và cảm tình của Liên Xô với Việt Nam.

Bác giữ quan hệ cực kì tốt. Trung Quốc hài lòng vì chống xét lại là hợp với Trung Quốc. Với Liên Xô, họ không trách được, vì Hồ Chí Minh giữ cân bằng, hài hòa và một thái độ phải chăng, cái phải chăng không phải ba phải, trung dung.

Ngày nay, Việt Nam đã là bạn, là đối tác của tất cả các quốc gia trên thế giới, trong đó láng giềng và nước lớn là những ưu tiên và cũng tập trung nhiều vấn đề phức tạp. Hợp tác nhiều hơn và cạnh tranh cũng lớn hơn, thường xuyên hơn. Trong quan hệ với các nước lớn và khu vực hiện nay, theo ông, chúng ta phải học Bác như thế nào để giữ và bảo vệ cho được lợi ích dân tộc?

Học cụ Hồ trước hết là bài học về hòa hiếu. Bảo vệ độc lập chủ quyền là việc mình luôn phải làm. Bảo vệ như thế nhưng mình luôn phải nghĩ tới chữ hòa hiếu.

Trong ASEAN cũng vậy. Đôi khi Việt Nam và các nước có va chạm lợi ích, mình phải bảo vệ lợi ích của mình, nhưng cũng phải giữ được đoàn kết, hợp tác trong ASEAN. Đó là cái quan trọng.

Với các nước lớn, mình phải tranh thủ, biết cái yếu của mình. Xưa kia cha ông cầu phong bên ngoài, bên trong vẫn giữ cái độc lập, tự chủ của mình.

Đừng làm cho nước lớn phật ý bởi những điều không đáng. Bác Hồ không bao giờ làm mất lòng các nước lớn. Những gì buộc phải làm thì mình làm, còn cái gì không đáng thì mình nên điều chỉnh liều lượng. Ví dụ, quá khứ chiến tranh không cần khới lại nhiều nữa, nên bớt đi. Đó là vết sẹo, đụng vào lại đau, lại xót...

Với các nước lớn, mình phải coi trọng, vì họ hay để ý lắm. Nước nào cũng để ý chuyện mình có làm gì cho họ mất mặt, cho họ bực mình, khó chịu, nghi ngờ. Mình phải hết sức tìm cách tránh.

Biển đảo, chủ quyền: đấu tranh bảo vệ bằng mọi hình thức


Cựu Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên
Song song với câu chuyện hợp tác, hòa hiếu, thì việc đấu tranh để giữ cho được lợi ích chính đáng của dân tộc mình cũng là yêu cầu. Ứng xử như thế nào trong đấu tranh mà vẫn giữ được hòa hiếu?
Đó là điều cần học Hồ Chí Minh. Mình vẫn giữ được lợi ích của mình, bảo vệ công dân của mình mà vẫn không làm ảnh hưởng đến quan hệ chung, ảnh hưởng đến hữu nghị, hợp tác chung.

Những vấn đề lớn đụng đến biên giới, lãnh thổ, hải đảo, thềm lục địa... mình phải kiên quyết đấu tranh, không thể không được.

Trong thế giới này, càng hội nhập thì đấu tranh lại càng tăng. Nhưng cũng cần hợp tác. Và vì thế, càng cần nghiên cứu, học tập Hồ Chí Minh.

Mình nói học tập đạo đức Hồ Chí Minh nhiều, nhưng thực chất thì còn học ít lắm.

Cụ thể, trong bối cảnh hiện nay, theo ông, với Trung Quốc, với Mỹ, ASEAN, ta nên ứng xử như thế nào?

Với Trung Quốc, phải hữu nghị với họ, bằng mọi cách. Hữu nghị thực lòng. Hợp tác thực lòng.

Những vấn đề về chủ quyền, biển đảo thuộc về lợi ích quốc gia tối thượng thì mình phải quyết liệt, không để mất được. Quyết liệt nghĩa là mình phải làm bằng mọi hình thức.

Mặt khác, phải hết sức hữu nghị, đừng nói những gì xúc phạm để đến mức không nhìn nhau nữa, không bắt tay lại được với nhau, hoặc dẫn tới mức thù địch như trước đây thì nguy hiểm.

Cách tốt nhất là tìm cách làm việc, bàn bạc với họ. Và phải tránh đừng để xảy ra đổ máu. Họ là nước lớn, dễ là người gây chuyện, còn mình là nước bé, Việt Nam không bao giờ gây sự. Chiến tranh thì dân khổ. Vì thế, mình phải khôn khéo, rất khôn khéo.

Đây là việc nhức đầu nhất, nói thì dễ nhưng làm không dễ.

Những vấn đề lớn đụng đến biên giới, lãnh thổ, hải đảo, thềm lục địa... mình phải quyết liệt đấu tranh. Ảnh nguồn VNE


Với Mỹ, 35 năm chiến tranh đã qua, bây giờ rõ ràng mình phải quan niệm, Việt Nam là nước nhỏ, không phải là đối thủ của Mỹ. Việt Nam chỉ là mắt xích trong quá trình tranh giành giữa hai phe. Người Mỹ đã sai lầm khi đánh sang Việt Nam dẫn tới thất bại.

Cũng như với Trung Quốc, mình đừng làm gì mất mặt Mỹ. Dù sao đó cũng là vết thương của người Mỹ. Cựu chiến binh Mỹ trở lại Việt Nam cho biết họ ân hận lắm vì đã tham chiến.

Lúc này không phải là lúc mình đặt vấn đề tội lỗi, hay trách nhiệm chiến tranh. Những vấn đề như chất độc da cam, bồi thường chiến tranh, phải để lại sau. Họ chưa thể nào làm bây giờ. Phải hiểu cái thế của nước lớn. Nhưng đây là món nợ lương tâm mà không một chế độ, một nước nào có thể lãng quên được. Nước Nhật cũng phải 50 năm sau... Mình nuôi vấn đề này nhưng không nóng vội.

Với Mỹ, phải tranh thủ kinh tế, khoa học kĩ thuật của họ, tranh thủ nhiều mặt.

Với Nga, mình cũng phải tranh thủ, nhưng cũng cần hiểu họ không quan tâm nhiều tới khu vực này. Họ lo chính là Trung Á, SNG, mảng với các nước lớn khác.

Với châu Âu, mình phải làm tốt hơn vấn đề dân chủ, nhân quyền, điều các nước quan tâm. Vấn đề ở cách mình làm thôi, chứ trên thế giới này, chẳng nước nào dân chủ hơn ai. Như Mỹ, sau sự kiện 11/9, họ an ninh tăng cường; Bộ trưởng Ngoại giao đi họp còn khám từ đôi giày trở đi. Lợi ích của họ, họ phải lo giữ. Vấn đề an ninh của mình mình phải lo, không thể bỏ được. Nhưng phải công khai. Cái gì tránh được thì hết sức tránh.

Nhìn chung, lúc này, thế của nước mình thuận lắm, mà càng như vậy càng phải học Bác Hồ.
© TUANVIETNAM.NET

10/5/10

TRẦN HỒ DŨNG - NGỌN ROI

ngọn roi
trần hồ dũng
" Thương gửi Hào Anh & những đứa trẻ Việt cút côi ,khổ đau trong cõi nhân gian này " .THD

Hỡi người em tuổi nhỏ
Sao không có tuổi thơ

Những bọn người độc ác

quất em bao ngọn roi ?

Chém em bao vết chém ?

Ôi ! lũ người vô tâm

Bọn lòng người , dạ thú


ta biết giúp gì em
bớt nỗi đau thân thể

và làm sao vá được

Vết thương lòng em đau ?



làm sao có thể tin

Ngay trong thời đại này

Những phận đời nô lệ

Vẫn mãi lều bều trôi

Ai nhân danh văn minh ?
Ai nhân danh chân lý ?
Ai nhân danh đạo đức ?
Ai , lương tâm thời đại ?
Chúng trốn đâu cả rồi ?

sao ta còn ngồi đây
Nhìn tim mình : rỉ máu
sao ta còn ngồi đây
Nghe lòng mình : lửa cháy

Ta ngồi nghe tin em
Thấy mình đang hóa đá

Phận nghèo , mẹ bán con
Chị làm điếm xứ người
Ôi ! những đồng tiền máu
ai cầm mà không đau

Chị : nước mắt , cầu kinh
Em : vết roi , khấn phật

Chúa , ngoảnh mặt làm ngơ
Phật , lặng im nhắm mắt

Ôi ! những đứa em tôi
Đâu chỉ mỗi mình em
hứng đòn roi số phận
còn biết bao mảnh đời
hôm nay bưng mặt khóc

những mảnh đời cơ cực
chỉ vì kiếp đói nghèo
đành bán thân , nuôi miệng
Ai bán rẻ đời em ?
Ai bán luôn đời chị ?


Ngọn roi quất đời em
Ta cúi đầu sám hối


Ngọn roi đời ác nghiệt
Xin quất vào thân này
ta xin hứng chịu bớt
vết thương em hôm nay

Ngọn roi quất đời em
Đất nước (*) bưng mặt khóc


tranhodung. saigon.11.5.2010
------------------

(*) Đất nước : là lương tâm
Những phận người nghèo khổ
Không phải bọn bất lương
Nằm trong chăn nệm ấm
Đọc diễn văn lếu láo
" Thời đại" là " lương tâm "

9/5/10

Mô hình kinh tế chính trị Trung quốc

Mô hình kinh tế chính trị Trung quốc
Vietsciences-Nguyễn Trường 21/03/2010




KỶ NGUYÊN TÂN TRUNG QUỐC

Tại trung tâm Trùng Khánh, ở miền Tây Trung Quốc trên bờ Sông Dương Tử, một tháp tưởng niệm sáu tầng đã được xây cất dành cho những người đã hy sinh trong cuộc chiến chống Nhật. Sau khi ngưởi Nhật phát động cuộc chiến xâm lăng vào năm 1937, chính quyền TQ đã phải di chuyển thủ đô từ Nam Kinh lên Trùng Khánh. Quyết định dời đô đã lôi kéo theo chiến dịch oanh tạc của Nhật, và Trùng Khánh đã bị tàn phá trong chiến tranh.

Một năm sau ngày thành lập Tân Trung Quốc (1949), Chủ Tịch Mao Trạch Đông đã chính thức khai trương Tháp Tưởng Niệm Nhân Dân Giải Phóng (People's Liberation Memorial Tower). Cách đây 20 năm, Tháp Tưởng Niệm là kiến trúc cao nhất thành phố. Ngày nay, ngôi tháp bị bao che bởi ít nhất cũng ba tòa nhà chọc trời khổng lồ trong khu trung tâm thương mãi. Tọa lạc tại góc một khu phố dành cho du khách tản bộ, tòa tháp nhìn chẳng khác một tiệm hotdog ở Manhattan.

Sáu thập kỷ vừa qua đã được đánh dấu bằng hai giai đoạn: giai đoạn I (1949-1978), dưới thời Mao, giai đoạn đói kém và cách mạng văn hóa; giai đoạn II, cũng kéo dài ba thập kỷ, dưới thời Đặng Tiểu Bình, giai đoạn cải cách và mở cửa, như người TQ thường gọi.

Tuy vậy, sau sáu thập kỷ, TQ vẫn còn là một xứ tương đối nghèo nàn. Theo IMF, TQ đứng thứ 100 trên thế giới dựa trên lợi tức theo đầu người (per capita income). Yang Jiemian, chủ tịch các Viện Nghiên Cứu Quốc Tế ở Thượng Hải, đã gián tiếp nhắc đến tiềm năng bất ổn trong quá trình phát triển của TQ. Ông nói: "Thiểu số thượng lưu cầm quyền đã đồng thuận, TQ cần phải giữ đúng hướng: ba mươi năm qua đã đem lại nhiều thành tựu trong mọi mặt. Chúng tôi hy vọng trong cùng đường lối, nhưng với trọng tâm hơi khác, TQ có thể tiếp tục như thế 30 năm nữa"[1].

Nhưng liệu TQ còn có thể có thêm một giai đoạn 30 năm giống ba thập kỷ vừa qua hay không? Giai đoạn 30 năm thứ ba của Tân Trung Quốc bắt đầu, khi cuộc khủng hoảng tài chánh thế giới phơi bày những nhược điểm quan trọng của chủ nghĩa tư bản tân tự do toàn cầu, khi nguồn cung nhiên liệu hóa thạch tiệm giảm, hiện tượng rối loạn khí hậu tiệm tăng, và sự cạnh tranh kiểm soát các tài nguyên chiến lược ngày một tăng tốc.

Trong khi đó, TQ đang trong giai đoạn thực thi một chương trình kỹ nghệ hóa và đô thị hóa lớn nhất trong lịch sử nhân loại, một đề án đòi hỏi những ngạch số đầu tư và nhiên liệu hóa thạch khổng lồ. Chẳng khác gì chúng ta đang chứng kiến một cuộc đua xe đường núi khi băng tuyết từ đỉnh sụp đổ, đang tuôn tràn xuống trước đoàn xe.

Trong một dịp tiếp đón du khách tham quan nhà máy sản xuất xe hơi ở Trùng Khánh, hướng dẫn viên của hãng Chang'an Motors, chỉ các minivans hình hộp đang tuôn ra từ dây chuyền lắp ráp, đã hãnh diện tuyên bố: "có khoảng 800 triệu dân quê cần những xe như thế!"[2].

Đã hẳn, anh ta nói đúng. Như Yu Qingtai, đại diện thương thuyết đặc biệt về thay đổi khí hậu, đã có dịp nói: "Không nên chờ đợi TQ mãi mãi là một vương quốc xe đạp"[3]. Nhưng thử tưởng tượng 800 triệu xe hơi mới!

Những gì đang diễn ra ở TQ thật lớn lao và gây 'sốc'. Sự pha trộn giữa hoạch định và thị trường, giữa độc đoán và phân quyền, giữa kỷ năng và tham nhũng, vừa củng cố vừa bài bác mọi luận cứ về mô hình kinh tế chính trị. Vì vậy, sau nhiều lần viếng thăm ngắn hạn một xứ 1,4 tỉ dân, người ta rất dễ đi đến những kết luận sai lầm.

Nguy cơ sai lầm càng tăng khi khách tham quan thường được tháp tùng bởi những hướng dẫn viên có thể là đảng viên đảng Cộng sản hoặc các cựu quan chức nhà nước.

Điều cần ghi nhớ, ở TQ, giới thượng lưu có rất nhiều ảnh hưởng. Thực vậy, họ thường là mẫu người Leninist tiên phong với phong cách trí thức kiểu Mỹ (meritocracy). Như Xu Kuangdi, nguyên thị trưởng Thượng Hải và đương kim chủ tịch Viện Hàn Lâm Kỷ Sư TQ (Chinese Academy of Engineering) đã nói, " Cho phép tôi nói một cách gẩy gọn, hầu hết các doanh nhân thành công hay học giã hay kỹ sư - họ đều đã trở thành đảng viên Đảng Cộng Sản Trung Quốc (CPC)"[4].
QUAN HỆ GIỮA CHÍNH QUYỀN VÀ NGƯỜI DÂN

Trong thực tế, một khế ước xã hội bất thành văn chi phối quan hệ giữa cấp lãnh đạo và quảng đại quần chúng. Theo đó, chính quyền bảo đảm đem lại một tỉ suất tăng trưởng từ 8 đến 10% GDP, và 24 triệu việc làm mới mỗi năm. Để đổi lại, người dân sẽ không đặt nặng vấn đề chính đáng của CPC.

Đây không phải một khế ước dễ thực hiện đối với chính quyền, thực ra, cũng đã có nhiều dấu hiệu rắc rối. Thực vậy, năm 2007 khoảng 80.000 vụ biểu tình phản đối đã được ghi nhận ở TQ, và mạng Internet đã đem lại một diễn đàn phê bình ngày một ồn ào các chính sách của nhà nước. Đề tài nóng bỏng nhất là nạn tham nhũng , đã được công luận chú ý nhiều tiếp theo sau cuộc động đất ở Tứ Xuyên năm 2008, khi theo nhiều người, chính tham nhũng đã là nguyên nhân và phải chịu trách nhiệm về sự sụp đổ của các trường ốc được xây cất không theo đúng luật lệ. Một vài quan chức nhà nước đã phải thú nhận, đe dọa lớn nhất đối với Đảng là nạn tham nhũng, một đe dọa từ bên trong. Mặc dù đã có vài vụ truy tố các viên chức cao cấp, chẳng hạn, vụ án liên quan đến 9.000 nghi can đang tiếp diễn ở Trùng Khánh, một cuộc thăm dò của Cơ Quan Thông Tấn TQ (China News Agency) cho biết: tham nhũng là đề tài quan tâm số một của người TQ.

Ngoài tham nhũng, còn phải nói đến nhiều thách thức kinh tế thuần túy như duy trì tỉ suất tăng trưởng cao, đặc biệt trong tình trạng suy thoái toàn cầu; xuất khẩu, chiếm 35% GDP của TQ, trong năm 2009, đã sụt giảm 25%; sáu triệu sinh viên tốt nghiệp đại học đang cần tìm kiếm việc làm. Được hỏi liệu điều gì sẽ xẩy ra nếu tỉ suất thất nghiệp ở TQ tăng lên mức 10%? Một viên chức chính quyền địa phương gần Đập Tam Hợp (Three Gorges Dam), đã quả quyết: điều đó sẽ không thể xẩy ra trong hệ thống hiện nay. Các quan chức TQ luôn tỏ ra tin tưởng ở tình trạng ổn định. Tuy nhiên, đôi khi các nhà quan sát vẫn có thể bất chợt bắt gặp dấu hiệu những bất trắc và đe dọa đối với trật tự công cộng. Wen Tianping, phát ngôn viên của chính quyền Trùng Khánh, đã tiết lộ, "các quan chức chính quyền TQ đang đối đầu với rất nhiều áp lực. Chúng tôi làm việc dưới nhiều áp lực nặng nề và chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn"[5].

Khó khăn lớn nhất là vấn đề di trú. Nếu các xứ phát triển như Hoa Kỳ và thành viên Liên Hiệp Âu châu luôn đối diện với dân nhập cư từ thế giới đang phát triển, TQ cũng ở trong hoàn cảnh tương tự. Điểm khác biệt là TQ luôn đối diện với cả hai thế giới, phát triển và đang phát triển, ngay bên trong biên giới của chính mình.

Phương cách đối phó với dòng nhập cư của TQ cũng không mấy khác các quốc gia phát triển. Giấy phép cư trú hay chế độ "hộ khẩu" ràng buộc người dân với quê quán, qua hình thức buộc chặt các dịch vụ xã hội - y tế, hưu bổng, và quan trọng hơn cả, trường học - vào nơi cư trú. Nếu những tường rào cản và luật lệ khó lòng chận đứng dòng di dân từ Mexico đến Hoa Kỳ vì động lực kinh tế quá chênh lệch, những quy luật nội bộ của TQ cũng không ngăn chặn được dòng chảy di dân từ nông thôn ra thành thị.

Như Paul Mak, một doanh nhân Mỹ gốc Hoa, làm việc cho công ty Mary Kay Hoa Kỳ ở Thượng Hải 12 năm qua, đã nói: "những di dân nầy mãi mãi vẫn là nhân công du cư. Một nhân công du cư không thể trở thành một thường trú nhân ở Thượng Hải. Ngày nay, nếu có bằng đại học, bạn có thể đến, bằng thiếu học vấn, bạn vô phương. Bạn thuộc tầng lớp vô danh bất định"[6].

Lớp người đông đảo sống bên lề xã hội đã khiến chính quyền TQ luôn trăn trở, bởi lẽ nhà cầm quyền muốn tránh kinh nghiệm của nhiều xứ đang phát triển, từ Brazil đến Ấn Độ, từng trải nghiệm sự lan tràn của những khu nhà ổ chuột, chen chúc, nghèo khổ, và khó lòng kiểm soát, trong những thành phố lớn của họ.

Wen, phát ngôn nhân Thành Phố Thượng Hải, đã nói, "Chúng tôi đã học được nhiều bài học từ các xứ khác, kể cả cái gọi là bẩy sập của các xứ Mỹ La Tinh trong quá trình đô thị hóa. Chính quyền các xứ nầy đã không suy nghĩ chính chắn về chương trình đô thị hóa. Đông đảo dân quê đổ ra thành thị và đã không thể kiếm được việc làm. Chính vì vậy, nhiều khu nhà ổ chuột đã xuất hiện ở các xứ nầy"[7].

Như một thú nhận đã không thể kiểm soát dòng nhân công du cư, chính quyền Thượng Hải gần đây đã loan báo những cải cách, cho phép các nhân công du cư gửi con đến các trường công lập trong thành phố nơi họ làm việc. Dù ngăn chặn các nhân công nhập cư trái phép là vấn đề rất quan trọng, nhưng tạo một tầng lớp lao động thấp kém từ các con em thiếu học cũng là một hậu quả nhà cầm quyền Thượng Hải quyết định phải cố tránh bằng mọi giá.

Bên cạnh hố cách biệt thành thị-thôn quê còn có một hố cách biệt giữa các tầng lớp xã hội. Dân nông thôn là tầng lớp cách mạng nguyên thủy của TQ. Trong khi hàng trăm triệu thôn dân còn bị buộc chặt vào cuộc sống thiếu thốn tiền kỹ nghệ, các tầng lớp thiểu số cầm quyền ở Thượng Hải và Bắc Kinh đang sống cuộc đời vương giả, còn hơn cả các ngân hàng gia Goldman Sachs. Một món khai vị, ở nhà hàng ăn toàn bằng kính, trên lầu thượng bảo tàng viện mỹ nghệ, giá 40 USD, trong khi lợi tức theo đầu người của khoảng 800 triệu nông dân TQ vào năm 2007 chỉ 50 USD mỗi tháng. Quản lý dòng chảy nhân công và định cư các di dân từ nông thôn ra thành thị cũng là phương tiện quản lý một cội nguồn căng thẳng xã hội rất dễ bùng nổ.
TRÙNG KHÁNH - THÍ ĐIỂM ĐẦY THAM VỌNG

Trùng Khánh là một TQ thu hẹp. Với một diện tích bằng bang Maine ở Hoa Kỳ, Trùng Khánh có một dân số 31 triệu, với môt thị trấn lớn 5 triệu dân và một số thành phố vệ tinh. Trên phương diện hành chánh, năm 1997, Trùng khánh đã được nâng cấp thành tỉnh thí điểm. Và chính quyền địa phương đã tập trung nổ lực giải quyết vấn đề di dân từ nông thôn ra thành thị ngay trong phạm vi lãnh thổ tỉnh. Chính quyền tỉnh hy vọng dùng Trùng Khánh làm mô hình thí điểm để tìm giải pháp cho các vấn đề TQ đang phải đối phó.

Trong nhãn quan chính quyền Trùng Khánh, hoạch định là yếu tố then chốt. Theo Qian Lee, nhân viên Phòng Kinh Tế Đối Ngoại, "Chúng tôi có sẵn trong đầu kế hoạch, thời khóa biểu , và mục tiêu mỗi khi làm bất cứ việc gì"[8].

Wen nói: "Chúng tôi, chính quyền cấp tỉnh, hướng dẫn và giúp phân loại những ai có thể đến các thành phố. Di dân được xếp vào vài tầng lớp. Nhóm đầu tiên sẽ đến trung tâm thành phố. Nhóm thứ hai đến sáu trung tâm cấp khu vực chúng tôi đang xây cất. Và nhóm thứ ba sẽ đến những khu phố kế cận làng quê của họ, như các thành phố nhỏ ...Chúng tôi có 31 khu trung tâm và 103 thành phố nhỏ"[9]. Đối với mỗi nhóm - trung tâm Trùng Khánh, sáu thành phố vệ tinh, và 31 khu trung tâm - chính quyền quyết định mức dân số hằng năm cho ba năm sắp tới.

Trùng Khánh, rất tự hào với viễn kiến hoạch định của chính mình, đã xây một phòng triển lãm 50 triệu USD trên bờ sông Dương Tử, để trưng bày mô hình quá khứ, hiện tại, và tương lai của tỉnh. Trọng tâm của phòng triễn lãm là mô hình thành phố rộng 892 thước vuông. Nhân viên hướng dẫn bấm nút đầu, màn ảnh buông xuống mô hình, các con sông với mầu xanh da trời chói sáng; bấm một nút khác, các khu phố bật sáng cho thấy những công trình xây cất sẽ hoàn thành trong 5 năm tới, rồi 10 năm tới. Cuối cùng, hướng dẫn viên bật tất cả đèn, một Trùng Khánh tương lai thu nhỏ đầy ánh sáng xuất hiện. Sau hết, nhân viên hướng dẫn đưa tới một phòng với màn hình 360 độ, kiểm soát bởi hệ thống vi tính, chiếu toàn cảnh đô thị tương lai. Không giống Trùng Khánh bên ngoài, luôn ảm đạm và mù sương, Trùng Khánh trong mô hình ngập đầy ánh sáng mặt trời, và có lẽ do sơ suất của tác giã mô hình, không một bóng người trong thế giới Trùng Khánh mới - với các căn hộ chung cư dọc bờ sông đắt tiền, vận động trường lộ thiên, và các hành lang trong các tòa cao ốc - là người Trung Quốc.

Những nét đặc trưng sống động dọc các hành lang trong khu triễn lãm, phản ảnh một niềm tin cao độ vào hoạch định khoa học tiến bộ, đem lại cho du khách một cảm nhận khác xa bộ mặt chán chường buồn tẻ của nước Mỹ năm 2009. Không có gì phản ảnh niềm tin sinh động tốt hơn là Đập Tam Hợp. TQ đã bỏ ra 15 năm và 30 tỉ USD để xây dựng công trình, ước lượng sẽ cung cấp 4% điện lực TQ, tương đương với 500 nhà máy nhiệt điện. Và 1,25 triệu cư dân dọc bờ sông Dương Tử đã phải giải tỏa, 1.500 địa điểm cổ kính, kể cả đền chùa, đã bị nhận chìm.

Đối với thiểu số quyền lực ở TQ, tương lai là tất cả. Mặc dù văn minh TQ đã trải dài trên 5000 năm, chằng ai buồn để ý đến những gì đã xẩy ra trước năm 1978. Chủ nghĩa tương lai cực đoan đó rất dễ trở thành đề tài diểu cợt, nhưng hình như đây là thế giới quan duy nhất người ta có thể bám víu trước những thử thách các nhà hoạch định TQ đang phải khống chế. Thử chọn bất cứ thành phố lớn nào ở Hoa Kỳ và bắt đầu nhận thêm 500.000 người mỗi năm. Không lâu, thành phố đó sẽ sụp đổ. Không dễ gì thiết kế một hệ thống cống rảnh cho một thành phố tăng trưởng theo nhịp đó. Thử hỏi 10 triệu cư dân trong các khu ổ chuột ở Mumbai, đời sống của họ chìm đắm trong rác thải hôi hám chỉ vì không ai có thể tiếp cận một hệ thống cống rãnh. Vì vậy, mô hình Trùng Khánh đang đem lại hy vọng, ít ra trên bình diện kỹ thuật, và là viễn kiến xem như đã đạt trình độ tuyệt tác đầy ấn tượng, đang được theo đuổi và thực hiện.
CHỦ NGHĨA TƯ BẢN VỚI NHỮNG NÉT ĐẶC TRƯNG TRUNG QUỐC

Thái độ luôn bị ám ảnh bởi hoạch định đô thị của người TQ dính liền với niềm tin ở tính ưu việt của hoạch định kinh tế. Theo diễn giải của Phái Tân Tự Do Hoa Kỳ, mô hình TQ chứng tỏ chủ nghĩa tư bản đã giúp giải phóng hàng triệu người dân khỏi đói rách: những cải cách thị trường đã đưa đến tăng trưởng và thịnh vượng qua sự cởi bỏ các xiềng xích can thiệp của nhà nước.

Lối giải thích "câu chuyện ngụ ngôn TQ" trên đây có quá nhiều thiếu sót: các định chế nòng cốt của kinh tế như viễn thông, năng lượng, vận tải, nhất là tài chánh, đều do nhà nước kiểm soát. Chẳng hạn, bốn ngân hàng quốc doanh lớn nhất ở TQ đã chiếm tới 80% thị phần.

Hoạch định như chính quyền TQ thực thi được người Mỹ xem như một đường lối lỗi thời tai họa và mất hết uy tín, chẳng khác gì sở khí tượng quốc gia hoàn toàn dựa vào chiêm tinh.

Trong thực tế, tạm quên các nhược điểm của sự can thiệp của chính quyền, khu vực tài chánh phần lớn do chính quyền kiểm soát đã giúp TQ tránh khỏi chẳng những các hệ lụy tai họa của khủng hoảng tài chánh 2008, mà còn các sai lầm tệ hại trong sự phân phối tài nguyên như hệ thống tài chánh toàn cầu đã gây ra ở các quốc gia Tây phương trong mười năm qua. Do đó, Qian Lee, một quan chức chính quyền Trùng Khánh, đã không ngăn được vui mừng trước những thành quả ngoạn mục của đường lối TQ: "Điều nầy đã được giới sử dụng Internet ở TQ thảo luận và họ gợi ý: khi đến TQ, Obama nên thảo luận với Hồ Cẩm Đào về tầm quan trọng của các kế hoạch. Đây là điều tôi nghĩ chúng ta có thể trình bày với người bạn Mỹ của chúng ta"[10].

Để đối phó với hậu quả của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, chính quyền TQ đã tập trung nổ lực duy trì tỉ suất tăng trưởng cao và ngăn ngừa tỉ suất thất nghiệp gia tăng. Chính quyền trung ương đã chấp thuận một gói kích cầu 4.000 tỉ nhân dân tệ - 70% ngân sách hàng năm, và các ngân hàng quốc doanh được chỉ thị không được sa thải nhân viên. Kết quả: hầu hết tỉ suất tăng trưởng của TQ trong năm rồi là do đầu tư công của Nhà Nước. Chịu ảnh hưởng nặng nề của suy thoái kinh tế toàn cầu và sự sụp đổ trong thị trường tiêu thụ Hoa Kỳ kể từ khi TQ bắt đầu các cải cách, chính quyền TQ đã thành công duy trì tỉ suất tăng trưởng 8,7% GDP, giữ được phần cam kết của mình trong khế ước xã hội bất thành văn. Đây là một thành công không nhỏ. Tuy nhiên, liệu TQ có thể duy trì tỉ suất tăng trưởng trong năm tới, nếu số cầu toàn cầu tiếp tục suy giảm, là một vấn đề chưa ai có giải đáp.

Trong mọi trường hợp, kinh tế TQ, tuy là một nền kinh tế khổng lồ và phồn thịnh, vẫn không phải không có nhiều nhược điểm. Sự thiếu vắng đáng phiền trách một mạng lưới an sinh xã hội, mặc dù đã giúp đem lại một tỉ suất tiết kiệm cao, theo nhiều kinh tế gia, cũng là vật cản lớn nhất trên đường chuyển tiếp cần thiết đến một nền kinh tế lấy tiêu thụ quốc nội làm đầu tàu (đó là chưa kể công bằng và an sinh căn bản đối với hàng trăm triệu công dân). Điều nầy nối kết với vấn đề phân phối lợi tức quan trọng hơn nhiều, một vấn đề kinh tế chính trị đầy thử thách, mặc dù cả hai có một quan hệ kỳ lạ, đôi khi bí ẩn. Yang Jeimian, Viện Nghiên Cứu Quốc Tế Thượng Hải, thú nhận: "Chúng tôi cũng âu lo về vấn đề bình đẳng. Chúng tôi cũng cần chú ý đến các vấn đề phân phối, phân phối quyền hạn, thuế, bệnh viện, săn sóc y tế"[11].

Khi được hỏi về đề tài phân phối lợi tức, các quan chức TQ xác nhận họ đang có vấn đề, nhưng họ luôn cảnh cáo: thành đạt một xã hội công bằng hơn sẽ đòi hỏi thời gian. Xu Kuangdi, nguyên thị trưởng Thượng Hải và người có uy tín trong CPC, chỉ là một trong số vài người luôn nhắc đến lời khuyên các đảng viên của Đặng Tiểu Bình khi họ Đặng phát động phong trào cải cách: "Cứ để vài người làm giàu trước"[12].

Ở đây một vấn đề cần được đặt ra: bao nhiêu là "vài", bao nhiêu tài sản mới gọi là "giàu", và kéo dài bao lâu mới gọi là "trước"?

Đã hẳn, TQ đã đạt nhiều tiến bộ trong các địa hạt nầy: cải thiện dịch vụ y tế ở nông thôn, bỏ nhiều loại thuế đối với nông dân, và ban hành luật lao động ấn định lương tối thiểu, giờ phụ trội, và nhiều biện pháp bảo vệ khác (phải nói rõ trước sự chống đối của Phòng Thương Mãi Hoa Kỳ). Nhưng trong khi mọi việc về phía doanh thương ở TQ đều tiến rất nhanh, dự án đem lại bình đẳng, công lý và an sinh xã hội lại diễn tiến chậm hơn rất nhiều.

Theo Xu, tất cả đều trong kế hoạch: "Hãy nhìn các xứ láng giềng ở Á châu của chúng tôi. Nam Hàn: tỉ suất phát triển cao nhất đã diễn ra dưới chế độ quân phiệt...Indonesia đã thành công dưới thời Suharto, nhưng gần đây đang gặp trì trệ và khó khăn"[13]. Lý do : dân chủ là một trở ngại cho tiến bộ kinh tế, người nghèo muốn chia tài sản của người giàu... Xu nói "Nếu người TQ chúng tôi, bắt chước bầu cử trực tiếp ngay bây giờ, dân chúng sẽ nói, tôi muốn mọi người đều có việc làm tốt. Vài người khác sẽ nói, tôi sẽ chia tài sản của người giàu cho người nghèo, và anh ta sẽ đắc cử. Tất cả đều vô ích: bình đẳng sẽ không giải quyết vấn đề phát triển kinh tế. Vì vậy, chúng tôi đang theo chính sách cải cách tiệm tiến, từng bước một. Như ông Đặng đã nói,chúng ta sẽ vượt qua sông bằng cách lần bước trên các tảng đá. Chúng tôi sẽ không bị chết đuối, và chúng tôi sẽ qua được bên kia sông"[14].

Trong khi Xu, một lãnh tụ đảng, có đủ quyền hạn để phát biểu rõ ràng, hầu như không một ai khác có thể thảo luận chính trị một cách thẳng thắn như thế. Ở TQ, kinh tế đã thay thế chính trị - đem lại chất lượng cho các cuộc tranh luận công cộng. Bạn không thể đòi hỏi bầu cử hay một Tây Tạng tự do, nhưng bạn có thể phổ biến các cuộc bút chiến nóng bỏng về các quyết định của chính quyền tiếp tục mua trái phiếu ngân khố của Mỹ.
ĐÔNG VÀ TÂY

Nhưng Wang Hui, nhân vật bất đồng chính kiến đơn độc, lại nói, các cố gắng của chính quyền duy trì một ranh giới rõ rệt - giữa những chỉ trích chính đáng quá trình làm chính sách kinh tế và các chỉ trích không chính đáng nền tảng của quá trình nầy - sẽ không luôn thành công. Wang lập luận, xu hướng xã hội chủ nghĩa, trên danh nghĩa, đã đem lại cho người dân ngôn từ để chỉ trích chính quyền. Tình trạng nghịch lý là nhiều người dân có thể dùng chũ nghĩa Mác-Lê để bảo vệ quyền lợi của chính mình, bởi lẽ có một mâu thuẩn thực sự giữa chủ trương lý thuyết và những gì xẩy ra trong thực tế.

Rõ ràng thảo luận chính trị là một điều cấm kỵ. Nhưng theo Wang, nếu một đề tài được quần chúng quan tâm, chính quyền ngày nay cảm thấy buộc lòng phải đáp ứng. Vấn đề là chúng ta cần phải có đủ khả năng và bản lĩnh tạo ra một không gian cho các tranh luận công cộng.

Người Mỹ có khuynh hướng xem TQ như đang theo đuổi một mô hình thay thế mang tính đe dọa cho tương lai, một mô hình vừa quyến rủ vừa ghê tởm, đáng thèm muốn và đáng khinh.

TQ đang trong giai đoạn chuyển tiếp từ một quốc gia độc tài, chuyên quyền, nghèo đói, đến một tập đoàn lãnh đạo kỹ nghệ (industrial, corporatist oligarchy) chấp nhận thảo luận sôi nổi, gay gắt, trong khi vẫn nổ lực bám lấy quyền hành. Có lẽ, một cách nào đó, người Mỹ cũng đang di chuyển về cùng một điểm, từ hướng dân chủ, thảo luận công cộng ồn ào, và phân cực chính trị, che mờ một thực tế quyền hành và tiền bạc tiếp tục tập trung trong tay một thiểu số thượng lưu cầm quyền (Corporate America) luôn cảm thấy đang bị bao vây bởi một quần chúng khó kiểm soát và cũng chẳng biết tri ân.

Một bên, một Nhà Nước với đất đai và tài nguyên thiên nhiên được tái xã hội hóa.

Bên kia, một chính quyền" dân chủ, tự do, đa nguyên đa đảng, tư hữu trên nguyên tắc", trong khi quyền hành thực sự nằm trong tay tập đoàn quân sự kỹ nghệ thiểu số.

Xét cho cùng, thật khó lòng thẩm định chính xác mô hình nào ưu việt hơn, hữu hiệu và hoàn hảo hơn mô hình nào.

GS Ngyễn Trường

Irvine, CA 92606, U.S.A.

23-02-2010

[1] It has become the consensus of the elites that China should stay on the right track: the past thirty years have resulted in remarkable achievements in all aspects of China. We hope that in the same vein, but in different emphasis, China could have another thirty years.

[2] There are 800 million Chinese peasants who need these cars!

[3] [China] should not be expected to stay forever as a bicycle kingdom.

[4] Let me put it simply. Most successful businessmen or scholars or engineers - they have become party members of the CPC.

[5] Chinese government officials face a lot of pressures. We work under extreme pressures and we have a lot of difficulties.

[6] They can be migrant workers forever. A migrant worker cannot become a resident of Shanghai. Now if you have a college degree you can come but not without education. You have a class of people in this limbo.

[7] We have learned many lessons from other countries, including the so-called Latin American trap during the urbanization process. The government didn't think throughly about urbanization. Huge numbers of villagers cà to the cities and they couldn't find a job. That's why they are so many slums.

[8] We have plans, timetables and goals in our minds whenever we do anything.

[9] We as a government give guidance and sort of categorize those who want to come to the cities. There are several tiers... The first group of villagers will go to the downtown center. The second group will go to six regional centers we are building. And the third group will go to the urban places that are closest to their home villages, such as the country towns and townships...We have thirty-one district centers and 103 towns.

[10] This has been discussed by Internet users in China who say, when Obama comes to China, that he can discuss with Hu Jintao about the importance of plans. This is something I think we can present to our American friend.

[11] We do worry about equality. We do need to focus on distribution, allocation of rights, taxes, hospitals, healthcare.

[12] Let some people get rich first.

[13] Let's look at our neighboring Asian countries. South Korea: its peak developing speed was reached using military rule...Indonesia was successful during the reign of Suharto but recently it faces stalemate and difficulties.

[14] If we Chinese copied the directly elected situation today, people will say, 'I want everyone to have a good job'. Someone will say, 'I will devide the property of the rich people to the poor people', and he will be elected. It is useless: parity will not solve the problem of economic development. That is why we are taking a gradual and step-by-step approach in reform. As Mr. Deng said, we will cross the river by touching the stones. We will not get ourselves drowned, and we will cross the river.




© http://vietsciences.free.fr và http://vietsciences.org Nguyễn Trường