Tâm Tình Hiến Dâng
(The gardener)
Tác giả: Rabindranath Tagore
Dịch giả: Đỗ Khánh Hoan
---o0o---
1.
Tôi bộc: Xin Hoàng Hậu đoái thương tên tôi bộc của Người!
Hoàng hậu: Dạ yến tan rồi, tôi bộc của ta về hết. Sao người lại tới lúc nửa đêm hôm khuya khoắt này?
Tôi bộc: Khi những người khác đã ra về, đó mới là lúc tôi đến với Người. Tôi đến để cầu xin, cầu xin làm những gì còn sót lại dành cho tên tôi bộc cuối cùng.
Hoàng hậu: Ngươi còn cầu mong gì khi đêm đã quá khuya?
Tôi bộc: Xin cho tôi được làm kẻ chăm sóc vườn hoa của Người.
Hoàng hậu: Lời nói nghe mới điên rồ làm sao?
Tôi bộc: Tôi sẽ bỏ những việc đang làm, đem giáo gươm đã dùng vứt vào cát bụi. Xin Người đừng gởi tôi tới các Hoàng cung xa xôi, và cũng xin đừng bắt tôi dấn thân vào cuộc chiến chinh nào khác nữa. Chỉ xin cho tôi được làm kẻ chăm sóc vườn hoa.
Hoàng hậu: Nhiệm vụ của ngươi sẽ ra sao?
Tôi bộc: Tôi sẽ hầu hạ Người trong những ngày Người rảnh rỗi; tôi sẽ giữ gìn cho lối đi rậm cỏ xanh tươi, nơi buổi sớm mai Người đi dạo gót khoan thai, những cánh hoa sắp tàn sẽ hân hoan chào đón từng bước chân Người. Tôi sẽ đu Người trên cái đu giữa những cành cây xạp-ta bạc-na, ở đó trăng non chiều tàn qua kẻ lá sẽ cố gắng hôn tà áo Người. Tôi sẽ rót thêm dầu ngào ngạt hương thơm vào ngọn đèn toả sáng gần giường Người ngủ và trang hoàng tấm thảm để Người đặt chân bằng gỗ trầm màu đỏ và kim cương màu vàng với nhiều hình vẽ diệu kỳ.
Hoàng hậu: Thế còn phần thưởng?
Tôi bộc: Chỉ xin được phép nâng bàn tay nhỏ nhắn của Người, bàn tay như những búp sen nõn nà, rồi quấn nhẹ vào cổ tay những chuỗi hoa nhỏ; chỉ xin được nhuốm gót chân Người bằng chất nước hoa a-bo-ca màu đỏ, rồi thổi đi những hạt bụi ngẫu nhiên còn dính lại.
Hoàng hậu: Tôi bộc của ta ơi, điều ngươi cầu xin ta chấp thuận. Ngươi sẽ là kẻ chăm sóc vườn hoa.
2.
"Ủa, thi nhân, chiều xuống dần; tóc anh đang ngả màu xam xám. Trong trầm tư cô đơn, anh có nghe lời gọi vọng từ kiếp sau?"
"Chiều đến rồi", thi nhân đáp, "tôi đang lắng nghe, lắng nghe, vì lẽ dẫu muộn màng, có thể từ thôn làng vẫn có người đứng gọi. Tôi để mắt nhìn liệu những trái tim trẻ dại, lạc loài có gặp nhau chăng, liệu những đôi mắt hăm hở đang mong cầu giai điệu, giai điệu có đến để đánh tan màn im lặng, rồi thay họ mà nói nên lời. Ai sẽ ở đó dệt những bài ca đắm đuối họ đang cất tiếng hát nếu tôi cứ ngồi trên bờ cuộc đời trầm ngâm nghĩ đến sống chết cùng thế giới bên kia?"
"Sao hôm đầu tiên đã lặn. Ánh lửa đám hoả thiêu tàn lụi dần bên bờ sông tịch mịch. Từ khoảng sân thuộc căn nhà hoang vắng, bầy chó sủa suông dưới ánh trăng úa tàn. Nếu có khách tha phương nào đó, lìa bỏ căn nhà êm ấm, tới đây ngắm nhìn đêm tối, cúi đầu lắng nghe bóng tối thì thầm, ai sẽ ở đấy thì thào bên tai người ấy những huyền bí của cuộc đời nếu tôi khép cửa nhà mình lại cố gắng dứt mình khỏi mọi ràng buộc trần gian?"
"Tóc tôi ngả màu hoa râm là chuyện nhỏ nhặt. Tôi vẫn hằng trẻ như những người trẻ nhất hoặc vẫn hằng già như những người già nhất sống trong thôn này. Ở đây, có những người có nụ cười dịu hiền, chất phác, có những người có ánh mắt ranh mãnh, tinh ma, có những người nước mắt trào tuôn trong ánh sáng ban ngày và có những người lệ nhỏ âm thầm trong bóng tối âm u. Họ thảy đều cần đến tôi, bởi thế tôi làm gì có thì giờ ấp ủ cuộc đời bên kia thế giới. Tôi thuộc về cùng thời đại với mọi người. Có sao đâu nếu tóc tôi đã ngả màu?"
3.
Buổi sớm mai tôi quăng lưới xuống biển. Từ vũng sâu đen ngòm tôi kéo lên vô số vật với hình thù và vẻ đẹp lạ kỳ - có vật rạng rỡ như nụ cười, có vật long lanh như giọt lệ và có vật ửng hồng như má cô dâu.
Chiều đến, gánh nặng trên vai, tôi về nhà; người yêu tôi đang ngồi trong vườn thẩn thờ xé nhỏ từng cánh hoa tươi. Tôi ngại ngần giây lát, rồi đặt xuống chân nàng những vật bắt được, đoạn đứng lặng im. Nàng đưa mắt nhìn rồi nói: "Những vật này kỳ lạ thật? Em chẳng hiểu chúng dùng để làm gì?"
Ngượng ngùng, tôi cuối đầu thầm nghĩ: "Mình đã không tốn công lao để có những thứ này, mình đã không bỏ tiền ra mua chúng ngoài chợ; chúng chẳng phải quà tặng thích hợp dành cho nàng".
Thế rồi suốt đêm thâu tôi đêm từng cái, từng cái ném ra ngoài đường. Buổi sáng du khách đi qua; họ nhặt tất cả rồi mang về những miền xa xôi.
4.
Ừ nhỉ, sao họ xây nhà cho tôi bên đường lên phố chợ? Họ neo thuyền chở nặng gần vườn cây tôi trồng. Họ tới lui, lang thang tuỳ ý. Tôi ngồi ngắm họ; thời gian của mình trôi mau. Xua đuổi họ đi tôi không thể. Cứ thế nhày tiếp ngày lặng lẽ trôi qua.
Suốt ngày đêm tôi nghe bước họ vang ngoài ngõ. Hoài công tôi nói lớn: "Tôi không quen biết các người". Trong bọn họ vài người quen thuộc đối với ngón tay tôi, vài người quen thuộc đối với lỗ mũi tôi, máu trong thân thể tôi dường như cũng biết họ, và vài người quen thuộc đối với những giấc mơ của tôi. Xua đuổi họ đi tôi không nỡ. Tôi gọi họ và nói: "Bất kỳ ai muốn hãy lại nhà tôi. Vâng, xin cứ ở lại".
Buổi sáng, tiếng chuông vang lên ngoài đền. Họ tới, tay mang thúng mẹt, chân nhuốm sắc hồng. Ánh sáng bình minh vờn trên nét mặt. Xua đuổi họ đi tôi không dám. Tôi gọi họ và nói: "Xin mời các người tới vườn tôi mà hái hoa. Xin đến đây đi."
Trưa đến tiếng gồng ngân vang ở Ngọ Môn. Tôi chẳng hiểu tại sao họ lại dừng tay ngưng việc, rồi lân la gần hàng dậu nhà tôi. Những bông hoa họ gài trên mái tóc đã héo tàn và phai màu; tiếng sáo họ thổi nghe não ruột. Xua đuổi họ đi tôi không đành. Tôi gọi họ và nói: "Bóng cây vườn nhà tôi mát lắm. Các bạn vào đây."
Đêm về tiếng dế kêu rả rích trong rừng. Ai đó nhỉ đang từ từ tiến tới cổng nhà tôi rồi nhẹ nhàng gõ cửa? Tôi lờ mờ nhìn thấy khuôn mặt, không ai nói một lời; bầu trời tịch mịch bao phủ khắp nơi. Xua đuổi người khách trầm lặng tôi không làm được. Tôi nhìn khuôn mặt qua màn tối, những giờ mộng mơ êm nhẹ dần trôi.
5.
Lòng rộn ràng, tôi thèm khát những vật xa xôi. Tâm hồn bay xa những mong sờ mó vòng riềm của khoảng cách mịt mờ.
Ôi, Bên Kia Bao La, ôi, tiếng sáo thanh tao vọng từ Bên Kia! Tôi quên, tôi hằng quên rằng mình không cánh để bay, rằng minh vẫn bị ràng buộc vào nơi này mãi mãi.
Lòng hăng hái, tâm thần tỉnh táo, tôi là người khách lạ trong vùng đất không quen. Hơi thở từ Bên Kia đến với tôi thì thầm một hy vọng khó thành. Tiếng nói từ bên kia đối với tim tôi quen thuộc như tiếng nói của chính lòng mình.
Ôi, Miền Xa Khó Tìm, ôi, tiếng sáo lanh lảnh vọngt ừ Miền Xa Khó Tìm! Tôi quên, tôi hằng quên rằng mình không hề thuộc lối, rằng minhg chẳng có ngựa mọc cánh để ra đi.
Thẩn thờ, tôi là người khách phiêu du trong chính hồn tôi. Qua màn sương tắm nắng của những giờ khắc uể oải, hình ảnh mênh mông của Bên Kia Bao La hiển hiện mới rõ rệt làm sao trên nền trời xanh xanh!
Ôi, Tận Cùng Xa Nhất, ôi, tiếng sáo tâm tình vọng từ Tận Cùng Xa Nhất! Tôi quên, tôi hằng quên rằng mọi cửa vào đều đã khép kín trong căn nhà tôi sống cô đơn!
6.
Con chim ngoan nằm trong lồng, con chim hoang ở ngoài rừng. Chúng gặp nhau khi thời cơ tới, như định mệnh đã an bài. Chim hoang kêu kên: “Ôi, người bạn tình, hãy cùng nhau ta bay về rừng xanh.” Chim lồng thì thầm: “Bạn lòng ơi, hãy vào đây trong lồng chung sống bên nhau”.
Chim rừng nói: “Trong song sắt lấy chỗ đâu để mình vươn cánh?”. “Chao ôi!”, chim lồng thốt lời, “tôi chẳng biết đậu nơi nào trong bầu trời”. Chim rừng kêu lớn: “Bạn lòng ơi, hãy ca bài ca rừng xanh”. Chim lồng đáp lại: “Hãy ngồi bên đây, tôi sẽ dạy bạn lòng ngôn ngữ của người đại giác”. Chim rừng kêu: “Không, ồ không! Đã là bài ca thì có bao giờ dạy được". Chim lồng nói: "Buồn cho thân tôi chẳng hề biết lời ca của rừng xanh".
Tình đôi chim nhiệt nồng cùng thèm muốn, thế nhưng cả hai chẳng bao giờ có thể liền cánh cùng bay.
Đôi chim nhìn nhau qua song sắt lồng son. Ước vọng của đôi chim muốn thấu hiểu lòng nhau thực là hư huyễn. Đôi chim vỗ cánh trong thèm khát, rồi cất tiếng hót: "Xích lại gần nhau, gần thêm chút nữa, bạn lòng ơi!" Chim rừng kêu lên: "Làm sao được, tôi e cửa lồng đóng kín". Chim lồng thở than: "Than ôi, cánh này bất lực còn đâu là đời!".
7.
Ồ, Mẹ ơi, Hoàng tử trẻ đẹp sắp qua cửa nhà ta - làm sao con có thể chăm chú vào việc làm sáng nay? Mẹ dạy con vấn tóc đi; mẹ bảo con nên mặc áo màu nào đi. Mà sao mẹ lại nhìn con ngỡ ngàng thế hở mẹ?
Con biết chắc chàng sẽ chẳng thèm đưa mắt nhìn lên cửa sổ nhà ta; con biết chàng sẽ vượt khỏi tầm mắt con trong khoảnh khắc; chỉ còn điệu nhạc hư ảo, chập chờn của tiếng sáo từ xa nức nở sẽ đến với con.
Thế nhưng, Hoàng tử trẻ đẹp sẽ qua cửa nhà ta; con sẽ mặc chiếc áo đẹp nhất vào giây phút ấy.
Ồ, Mẹ ơi! Hoàng tử trẻ đẹp quả có qua cửa nhà ta; ánh nắng ban mai lóng lánh trên xe chàng đi. Con vén màn che mặt, giựt đứt chuỗi ngọc hổ phách đeo trên cổ, rồi quăng ra lối chàng qua. Mà sao mẹ lại nhìn con ngỡ ngàng vậy hở mẹ?
Con biết chắc chàng sẽ chẳng nhặt chuỗi hạt con ném xuống; con biết chuỗi hạt sẽ bị bánh xe chàng nghiến nát để lại vết đỏ trên đường đất bụi; rồi chẳng ai hay vật con hiến dâng là gì và cũng chẳng ai biết con dâng hiến cho ai.
Thế nhưng, Hoàng tử trẻ đẹp thế nào cũng qua cửa nhà ta; con sẽ giựt phăng viên ngọc đeo trên ngực rồi ném xuống trước lối chàng đi.
8.
Khi ngọn đèn bên giường lụn tắt, tôi thức dậy cùng tiếng chim ban mai. Tôi ngồi bên cửa sổ mở toang, vòng hoa tươi mát nằm trên mớ tóc lỏng buông. Người du khách trẻ đẹp đi dọc bên đường trong sương hồng buổi sớm. Cổ chàng đeo chuỗi ngọc; ánh bình minh vương trên mái tóc. Dừng trước cửa nhà tôi, chàng hối hả hỏi: "Nàng ở đâu nhỉ?" Lòng nặng ngường ngùng, tôi không thể nói: "Nàng là Em, du khách trẻ đẹp, nàng là Em".
Trời vào hoàng hôn, nhưng đèn chưa thắp. Tôi đang thẫn thờ vấn lại làn tóc. Chàng du khách trẻ đẹp đi xe tới trong ánh chiều hôm vàng vọt. Ngựa chàng mỏi mệt, xùi bọt trắng mép; và cát bụi phủ đậm áo chàng. Xuống ngựa trước cửa nhà tôi, chàng cất tiếng hoit, giọng mệt mỏi: "Nàng ở đâu nhỉ?" Lòng nặng thẹn thùng, tôi chẳng thể nói: "Nàng là Em, du khách thấm mệt, nàng là Em".
Đó là một đêm xuân. Đèn phòng tôi toả sáng. Làn gió phương Nam nhẹ nhàng thổi. Con vẹt lắm mồm đã ngủ yên trong lồng. Tấm áo tôi mặc có màu sắc như ức con công, áo choàng ngoài xanh màu xanh cỏ mướt. Tôi ngồi bên cửa sổ, ngắm phường phố vắng tanh. Qua bóng đêm thâu, tôi khe khẽ thủ thỉ: "Nàng là Em, du khách tuyệt vọng, nàng là Em".
9.
Khi tôi đi một mình ban đêm đến chỗ người yêu hò hẹn, chim không hót, gió không thổi, nhà cửa hai bên đường đứng lặng im. Chỉ có y trang tôi vẫn vang âm theo mỗi bước chân đi và tôi phát ngượng.
Khi tôi ngồi ở bao lơn ngóng đợi từng bước chân chàng, lá trên cây không rì rào, nước dưới sông nằm im, nằm im như thanh kiếm trên gối người lính gác ngủ khì. Chỉ có tim tôi đập rộn ràng - tôi chẳng biết làm sao ngăn cản nổi.
Khi người yêu tôi tới ngồi bên cạnh, khi toàn thân tôi rẩy run, mí mắt rủ buông, màn tối giăng đen, gió thổi đèn tắt và mây kéo che mờ sao đêm. Chỉ có viên ngọc tôi đeo trên ngực óng ánh toả sáng - tôi chẳng biết làm sao giấu che đi được.
10.
Cứ đều tay làm việc, tân giai nhân. Hãy lắng nghe, khách đã đến. Giai nhân nghe chăng, chàng đang nhẹ nhàng lắc xích dăng ngang then cổng? Hãy canh chừng, khi tới gặp chàng, đừng để vòng đeo chân kêu lớn tiếng, chớ để bước đi bước quá vội vàng.
Cứ đều tay làm việc, tân giai nhân, khách sẽ tới lúc chiều hôm. Không, không phải lượn gió ma quái nào đâu, giai nhân ạ, đừng hoảng sợ.
Đó là mặt trăng tròn tĩnh đêm Xuân bóng ngả xanh mờ ngoài sân cỏ; bầu trời trên cao sáng trong. Nếu thấy cần thì vén màn che mặt; nếu thấy sợ, cầm đèn ra tận cổng. Không, không phải lượng gió ma quái nào đâu, giai nhân ạ, đừng hoảng hốt. Chớ nói lời nào với chàng nếu còn bẽn lẽn; hãy nép mình bên cổng khi giáp cận mặt chàng. Nếu chàng hỏi han, và nếu tự mình cũng muốn, tân giai nhân nên cúi mặt lặng im nhìn xuống.
Đừng để vòng xuyến leng keng va nhau khi, tay cầm đèn, dẫn chàng vào nhà. Chẳng nên nói lời nào với chàng nếu còn e thẹn.
Vẫn chưa làm xong công việc ư ,giai nhân? Này kia, khách đã tới. Vẫn chưa thắp đèn trong chuồng bò? Chưa sẵn sàng mâm quả để lễ đêm nay? Vẫm chưa điểm nốt son hạnh phúc chỗ đường ngôi rẽ ngang và chưa tắm gội để sửa soạn đêm nay? Ồ, tân giai nhân nghe chăng, khách đã lại? Nhưng cứ đều tay, đều tay, đều tay.
11.
Cứ thế mà đi, đừng dềnh dàng chải chuốt. Nếu vòn tóc vấn còn lỏng đường ngôi rẽ chưa xuôi, giải lụa thắt lưng không chặt, cũng đừng bận tâm, em ạ. Cứ thế mà đi, đừng dềnh dàng chải chuốt. Nào, hãy bước lẹ lên cỏ non xanh mịn. Nếu đất đỏ vì sương mai văng lên gớt, vòng bạc nơi chân còn lỏng lẻo, ngọc báu rơi khỏi chuỗi đeo tay, cũng đừng bận lòng, em ạ. Nào hãy bước lẹ lên cỏ non xanh mịn.
Em thấy chăng mây đang phủ kín bầu trời? Từ bờ sông xa hạc từng đàn bay tới, gió từng cơn đổ xuống đồng hoang. Trong làng trâu bò ưu tư nhanh bước về chuồng. Em thấy chăng mây đang phủ kín bầu trời.
Hoài công em châm đèn trang điểm - đèn chập chờn và gió thổi tắt ngay. Ai sẽ biết mi mắt em đã không bị muội đèn chạm tới? Vì mắt em còn đen hơn mây trời mọng nước. Hoài công em chong đèn trang điểm - đèn vẫn tắt ngay.
Cứ thế mà đi, đừng dềnh dàng chải chuốt. Nếu vòng hoa em kết chưa xong, nào ai để ý; nếu lắc tay em gài chưa chặt, chẳng nên cầu kỳ.
Bầu trời hôm nay vần vũ - muộn rồi đấy em ơi! Cứ thế mà đi, đừng dềnh dàng chải chuốt.
12.
Nếu em mang bình đi xách nước, hãy đến, xin hãy đến hồ tôi. Nước sẽ đổ xô quanh chân em thì thầm, tâm sự. Bóng mưa in trên cát mịn; mây giăng thấp ngang viền cây xanh tựa làn tóc màu mun phủ vầng trán thơ ngây. Tôi quá quen nhịp bước em đi, mỗi nhịp đập vang mạnh vào tim. Hãy đến, xin hãy đến hồ tôi nếu đi kiếm nước. Nếu em ngồi thẩn thờ, uể oải để bình trôi trên sóng, hãy đến, xin hãy đến hồ tôi.
Đường dốc cỏ mịn xanh, hoa dại nhiều vô số. Ý nghĩ trong em sẽ vượt khỏi tròng mắt nhung đen lang thang như chim non rời tổ. Màn che mặt sẽ rơi xuống chân em. Cứ lại, xin cứ lại hồ tôi nếu em muốn ngồi thẫn thờ, uể oải. Nếu thôi đùa nghịch, nếu muốn dầm mình trong nước, hãy đến, xin hãy đến hồ tôi. Trải áo choàng màu xanh lên bờ cỏ; màu nước xanh sẽ giấu kín em đi. Sóng sẽ nghểnh lên hôn nhẹ cổ trắng ngà rồi thì thầm bên tai em. Hãy đến, xin hãy đến hồ tôi nếu em muốn dầm mình trong nước.
Nếu quẩn trí và muốn quyên sinh cứ đến, xin cứ đến hồ tôi. Ở đây mát lạnh và sâu thẳm. Ở đấy âm u như giấc ngủ không mơ. Ở đất, trong sâu thẳm, ngày đêm là một và lời ca là im lặng triền miên. Cứ tới, xin cứ tới hồ tôi nếu em muốn trầm mình giã từ trần thế.
13.
Tôi không hỏi xin gì mà chỉ đứng ở ven rừng sau rặng cây xanh. Ánh mắt bình minh hãy còn mệt mỏi và không gian nặng trĩu sương mai. Trong làn sương mong manh hương cỏ ướt lười biếng còn trườn mình trên mặt đất. Dưới tán cây đa em đang vắt sữa bò; tay mềm mại tươi mát như bơ. Tôi đứng lặng thinh.
Tôi không nói một lời. Chỉ có con chim nhỏ nấp kín trong lùm cây cất tiếng hót. Cây xoài đang rắc hoa trên đường làng; đàn ong từng con từng con bay bay lượn lượn. Phía bên kia bờ ao cổng đền Thi Và đã mở, người ngoan đạo đang cất tiếng cầu kinh. Em vắt sữa bò để bình trên bắp vế. Tôi đứng tay cầm chiếc lon rỗng không.
Tôi chẳng lại gần em. Bầu trời thức giấc theo tiếng kiểng trong đền. Bụi đường dâng cao sau bước chân gầy gia súc; những người đàn bà từ sông trở lại mang bình nước sóng sánh trên hông. Lắc tay em đeo ngân vang nhè nhẹ; sữa bò sủi bọt tràn khỏi miệng bình.
Buổi mai trôi qua mà tôi chẳng gần lại em.
14.
Lúc buổi trưa trôi qua và cành tre rì rào trong gió tôi đang đi bên đường ,tôi chẳng hiểu tại sao. Nhiều bóng nằm ngang tay trải rộng ôm chặt bước đi của ánh nắng vội vàng. Chim cô-en không buồn cất tiếng hót. Tôi đang đi bên đường, tôi chẳng hiểu tại sao.
Túp lều tranh bên dòng nước có cây cao bao trùm che mát. Có cô con gái nào đó đang bận bịu việc làm, đồ trang sức trên tay nhẹ vang trong xó tối. Tôi dừng chân trước cửa túp lều này, tôi chẳng hiểu tại sao.
Con đường nhỏ quanh co lượn khúc qua bao nhiêu ruộng cải sen tươi non, qua biết bao vườn xoài mọng chín, băng ngang ngôi đền làng rồi khu chợ bên bến sông. Tôi dừng chân bên cạnh túp lều này, tôi chẳng hiểu tại sao.
Bao năm về trước, vào một ngày mùa Xuân khi trời lộng gió tiếng suối thì thầm trở nên buồn bã và hoa xoài từng cánh lã tã rơi xuống mặt đường. Làn nước lăn tăn nhảy múa, liếm vào mạn thuyền đồng đậu ở bến sông. Tôi trạnh nghĩ đến ngày Xuân lộng gió ấy, tôi chẳng hiểu tại sao.
Bóng chiều mỗi lúc thêm dày đặc; mục súc về chuồng. Ánh nắng ngả màu xám trên đồng cỏ hoang liêu trong lúc dân làng đứng đợi đò bên bờ sông. Tôi từ từ quay gót, tôi chẳng hiểu tại sao.
15.
Tôi chạy như con xạ hươu trong bóng tối rừng cây, say vui vì hương thơm ngào ngạt của chính mình. Đêm nay là đêm giữa mùa Xuân; gió này là gió từ phương Nam thổi lại.
Lạc lối, tôi đi lang thang; tôi tìm cái mình không thể có và tôi có cái mình không thể tìm.
Từ tim tôi hình ảnh của ước muốn riêng tư bay ra rồi nhảy múa. Ảo ảnh chập chờn nhè nhẹ lướt qua. Tôi cố ghì ảo ảnh trong tay; ảo ảnh tuột thoát khiến tôi lạc loài. Tôi tìm cái mình không thể có và tôi có cái mình không thể tìm.
16.
Tay xiết trong tay, mắt vờn theo mắt, từ đó lịch sử tâm tình đôi ta bắt đầu. Đêm ấy là đêm trăng đầu Xuân; hoa ben-na thơm ngạt ngào lan trong không khí. Chiếc sáo anh thổi nằm trơ trên mặt đất; vòng hoa em kết vẫn chưa xong. Tình yêu đôi ta đơn sơ như một bài ca.
Màn em che mặt màu vàng cam làm mắt em ngất ngây; vòng hoa nhài vì anh em kết thôi thúc tim anh rung lên từng nhịp như lời ngợi ca. Đây là trò chơi cho đi đòi lại, bộc lộ rồi lại phủ che; vài nụ cười tươi duyên, vài thẹn thùng nho nhỏ, vài giận hờn nhè nhẹ, vài giành giật bâng quơ. Tình yêu đôi ta đơn sơ như một bài ca.
Chúng mình không miên man nói mãi để rồi chìm vào im lặng triền miên; chúng mình không quờ tay với khoảng không để tìm điều ngoài hy vọng. Thật đủ rồi cái ta cho và cái ta được. Chúng mình đã không bóp ngẹt nguồn vui, thật nghẹt để vắt ra men rượu đau thương. Tình yêu đôi ta đơn sơ như một bài ca.
17.
Con chim màu vàng cất tiếng trong lùm cây bên ấy, giọng hót làm tim tôi ca múa rộn ràng. Hai đứa chúng tôi cùng sống trong một làng; đấy là nguồn vui duy nhất của hai tâm hồn. Cặp cừu non ngàng âu yếm tới ăn cỏ dưới bóng mát vườn cây nhà tôi. Nếu chúng lạc vào ruộng bắp tôi trồng, tôi sẽ trìu mến bồng chúng trên tay. Tên làng chúng tôi ở là Khàn A Na và An A Nà là tên người ta gọi dòng sông. Tên tôi trong làng ai cũng biết còn tên nàng người ta gọi Ràn A Na.
Chỉ một cánh đồng nằm giữa chúng tôi. Bầy ong xây tổ trong rừng bên này nhưng đi tìm mật ong trong rừng bên ấy. Những bông hoa trôi dạt từ bến bên ấy bồng bềnh theo dòng suối sang bến tắm bên tôi.
Những thúng đầy hoa cum khô từ ruộng bên ấy được mang sang bán ở bên chợ này. Tên làng chúng tôi ở là Khàn A Na và An A Nà là tên người ta gọi dòng sông. Tên tôi trong làng ai cũng biết còn tên nàng người ta gọi Ràn A Na.
Con đường nhỏ quanh co tới căn nhà bên ấy mùa Xuân thơm phức mùi hoa xoài. KHi cây gai bên áy chín vàng chờ gặt, cây dầu nở hoa đầy vườn bên này. Những vì sao mỉm cười trên mái tranh bên ấy cũng gởi qua bên này ánh mắt lấp lánh tươi vui. Mưa tràn ao nước bên ấy làm rừng ca-đam bên này mừng lây. Tên làng chúng tôi ở là Khàn A Na và An A Nà là tên người ta gọi dòng sông. Tên tôi trong làng ai cũng biết còn tên nàng người ta gọi Ràn A Na.
18.
Lúc hai chị em đi gánh nước hễ tới nơi này họ đều mỉm cười. Hẳn họ thừa biết có ai đó đứng sau lùm cây bất kỳ khi nào họ gánh nước nơi đây. Hai chị em thì thầm với nhau khi qua bên này. Hẳn họ thừa đoán đều thầm kín của ai đó đứng sau lùm cây bất kỳ khi nào họ gánh nước nơi đây.
Đôi nồi bỗng dưng chòng chành, nước tràn ra ngoài khi họ tới nơi này. Hẳn họ phải nhận ra tim ai đó đứng sau lùm cây đang đánh nhịp rộn ràng bất kỳ khi nào họ gánh nước nơi đây.
Khi tới nơi này hai chị em đưa mắt nhìn nhau rồi mỉm cười. Có tiếng khúc khích trong bước đi vội vã làm rối trí ai đó đứng sau lùm cây bất kỳ khi nào họ gánh nước nơi đây.
19.
Em nhẹ bước trên lối mòn bên sông ngang hông mang bình nước tràn đầy. Sao lại vội quay mặt liếc nhìn tôi qua màn che phất phơ trong gió? Ánh mắt sáng tươi ấy từ thâm u trùm lên thân tôi như đợt gió nhẹ rùng mình lướt qua mặt nước lăn tăn tới bờ xa râm mát. Ánh nhìn ấy đến với tôi như cánh chim chiều hối hả bay qua phòng tối không đèn từ cửa sổ này đến cửa sổ kia, rồi biến vào màn đêm âm u. Em nấp kín như vì sao đằng sau dãy đồi; tôi là khách bộ hành lê gót trên đường dài.
Nhưng sao em dừng giây lát liếc mắt nhìn tôi qua màn che mặt khi đang nhẹ bước trên lối mòn bên sông ngang hông mang bình nước tràn đầy?
20.
Ngày qua ngày chàng tới rồi lại đi xa. Người bạn tôi ơi, hãy mang cho chàng bông hoa đang cài trên mái tóc tôi đây.
Nếu chàng gạn hỏi ai là người cho hoa ấy, xin nhớ đừng nói tên tôi - vì chàng chỉ tới một lần rồi lại đi xa.
Chàng ngồi trên đất bụi dưới tán cây. Người bạn tôi ơi, hãy lấy hoa cùng lá trải ra đó thành chỗ ngồi.
Đôi mắt chàng vương buồn đem u buồn đến tận tim tôi.
Chàng không nói điều đang nghĩ - vì chàng chỉ tới rồi lại đi xa.
21.
Ừ mà sao chàng lại chọn lối đến cổng nhà tôi, người trai phiêu lãng, khi vừa bình minh?
Mỗi lần ra vào là mỗi lần tôi nhìn thấy chàng, mắt chàng bắt gặp mắt tôi. Tôi chẳng biết có nên chuyện trò hay cứ lặng im. Ừ mà sao chàng lại chọn lối đến cổng nhà tôi?
Đêm tháng bảy trời đầy mây đen; vào Thu không gian xanh dịu; ngàu Xuân rạo rực vì làn gió phương Nam. Mỗi lần đến chàng lại dệt lời ca bằng cung điện mới tươi. Tôi buông tay rời việc, mắt tràn ngập sương lam. Ừ mà sao đến cổng nhà tôi chàng lại dừng chân chọn lối?
22.
Lúc nàng bước nhanh qua trước mặt, tà áo nhẹ vương thân tôi. Từ hoang đảo vô danh của trái tim đơn côi làn hơi ấm áp mùa Xuân chợt thổi về. Tà áo lất phất khẽ chạm người tôi rồi mất hút nhanh như cánh hoa tả tơi bay trong gió nhẹ, rơi vào tim tôi như tiếng vóc thân nàng thở dài hay tiếng trái tim nàng thì thầm nhè nhẹ.
23.
Sao em ngồi đó tay rung vòng xuyến vẩn vơ? Múc nước đầy bình đi thôi, giờ về đã đến.
Sao em đưa tay khuyấy nước mà mắt cứ vẩn vơ lúc lúc lại hướng về con đường trước mặt, kiếm tìm ai đó em ơi? Múc nước đầy bình đi thôi, giờ về đã đến.
Buổi sáng từ từ trôi qua - dòng sông đen ngòm vẫn tiếp tục chảy. Sóng thành đợt nô đùa và thì thầm với nhau trò chơi vớ vẩn.
Mây lang thang tụ tập ở riềm trời là là trên mặt đất. Mây nấn ná ngó nhìn em và mỉm cười vẩn vơ. Múc nước đầy bình đi thôi, giờ về đã đến.
24.
Bạn oi! đừng chôn chặt trong tim những nỗi niềm thầm kín. Hãy kể tôi nghe, chỉ riêng tôi, kể trong bí mật. Bạn mỉm cười duyên dáng, thì thầm dịu dàng; tôi sẽ nghe lời bạn bằng tim chứ không phải bằng tai.
Đêm chìm sâu, căn nhà im lặng, chim trong tổ đang dầm mình ngon giấc ngủ say. Hãy kể cho tôi hay những nỗi niềm thầm kín. Hãy kể cho tôi nghe qua nước mắt ngập ngừng, qua nụ cười gượng gạo, qua đau thương thấm lịm, qua tủi hổ lặng trầm những nỗi niềm thầm kín trong tim!
25.
"Này anh bạn trẻ, hãy đến với chúng tôi, và kể cho nghe thành thực sao mắt anh có ánh dại cuồng?"
"Tôi chẳng rõ đã uống anh túc dại hoang nào mà trong ánh mắt lại hiện vẻ dại cuồng"
"Xấu hổ làm sao"
"Nhưng, nên nhớ đời có kẻ khôn ngoan, có người dại khờ, có người cẩn thận, có người bừa bãi lung tung. Có những đôi mắt cười tươi, có những đôi mắt đẫm lệ - còn trong đáy mắt tôi có ánh dại cuồng"
"Này anh bạn trẻ, sao lại đứng lặng thinh thế dưới bóng mát tàn cây?"
"Chân rã rời vì tim nặng trĩu u buồn nên tôi đứng lặng thinh dưới bóng mát tàn cây"
"Ồ, xấu hổ làm sao!"
"Nhưng, trên đường dài có người tiến xa, có người lẽo đẽo, có người tự do, có người tù túng - còn chân tôi thì đã rã rời vì tim trĩu nặng u buồn riêng tư."
26.
"Bất kỳ thứ gì từ bàn tay em tha thiết, tôi đều giữ hết, không đòi hỏi gì hơn"
"Vâng, vâng, em hiểu anh, người hành khất khiêm nhường, anh muốn xin tất cả những gì người đời hằng có"
"Nếu dành cho tôi bông hoa lạc loài, tôi sẽ cài hoa đó lên tim"
"Thế nhỡ hoa có gai thì sao?"
"Tôi sẵn sàng chịu đựng"
"Vâng, vâng, em hiểu anh, người hành khất khiêm nhường, anh muốn xin tất cả những người đời hằng có". "Nhưng một khi nếu em trìu mến đưa mắt nhìn khuôn mặt, ánh nhìn ấy sẽ cho tôi niềm vui vượt ra ngoài cõi chết."
"Thế ngộ chỉ có những ánh nhìn hung dữ thì sao?"
"Tôi sẽ để chúng xuyên thủng tim mình"
"Vâng, vâng, em hiểu anh, người hành khất khiêm nhường, anh muốn xin tất cả những gì người hằng có"
27.
"Hãy đặt lòng tin vào tình yêu cho dẫu tình yêu mang lại khổ đau. Chẳng nên khép kín lòng mình như thế"
"Không đâu anh, lời anh tối nghĩa em không hiểu"
"Em ơi! Trái tim ta có cũng chỉ để đem cho người đời với giọt lệ, với bài ca"
"Không đâu anh, lời anh tối nghĩa em không hiểu"
"Nguồn vui mong manh như giọt sương mai vừa mới nở cười đã vội vàng chết yểu. Nhưng u buồn thường dai dẳng khó tan. Hãy để tình yêu khổ đau trong mắt em bừng tỉnh"
"Không đâu anh, lời anh tối nghĩa em không hiểu"
"Hoa sen nở khi thấy ánh mặt trời rồi mất hết nhuỵ tinh và chẳng bao giờ giữ nguyên hình nụ búp trong sương lạnh vĩnh cửu mùa Đông"
"Không đâu anh, lời anh tối nghĩa em không hiểu"
28.
Đôi mắt em hỏi han trông băn khoăn, u buồn; mắt ấy muốn tìm hiểu ý nghĩa lời tôi như mặt trăng muốn đo lường đáy biển.
Tôi đã lột trần đời mình từ đầu đến cuối để em rõ, để em hay, không đậy che, không dấu diếm. Đó là lý do tại sao em chưa hiểu ý nghĩa những lời tôi nói.
Nếu đó chỉ là viên ngọc báu, tôi sẽ đập ra trăm mảnh, xâu thành chuỗi rồi choàng lên cổ em xinh.
Nếu đó chỉ là bông hoa tròn trĩnh, nhỏ nhắn, thơm tho, tôi sẽ bứt khỏi cành rồi gài lên mái tóc em đẹp.
Nhưng đó lại là trái tim, em ơi, thì biết đâu là bờ là đáy?
Dẫu không biết hết biên giới của kinh đô tình yêu, em vẫn là Hoàng hậu trị vì trong đó.
Nếu đó chỉ là giây phút vui tươi, giây phút ấy sẽ nở thành nụ cười cởi mở và em có thể bắt gặp khi chợt thấy chợt nhìn.
Nếu đó chỉ là nỗi thương đau, ắt sẽ biến thành nước mắt trong vắt phản ánh buồn sầu thầm kín không lời than van.
Nhưng đó lại là tình yêu, em ạ. Nguồn vui, nỗi sầu của tình yêu thường mênh mông; điều tình yêu thiếu, tình yêu thừa cũng vô cùng vô tận.
Tình yêu vẫn gần gũi với em như chính cuộc đời em đang vui sống, song có bao giờ hiểu rõ hoàn toàn.
29.
Anh yêu mến! nói cho em hay, kể cho em biết - bằng lời - những điều anh đang hát.
Đêm thâm u, sao lẩn trong mây, gió đang nỉ non qua kẻ lá.
Em sẽ buông lỏng vành tóc. Tấm áo choàng màu xanh sẽ trùm lấy thân em như màn đêm mênh mông.
Em sẽ ghì chặt đầu anh vào lòng rồi cứ thế thủ thỉ cùng tim anh trong tịch mịch dịu trầm.
Em sẽ nhắm mắt, lắng nghe, và không nhìn khuôn mặt.
Khi anh dứt lời, chúng mình sẽ ngồi bất động lặng im. Chỉ có lùm cây rì rào trong đêm. Màn tối sẽ nhạt màu, rồi ngày sẽ rạng. Chúng mình sẽ nhìn vào mắt nhau, rồi mỗi người đi một phương. Anh yêu mến! nói cho em hay, kể cho em rõ - bằng lời - điều anh đang hát.
30.
Em là mây chiều lững lờ trôi trên bầu trời mộng ước của tôi. Đem tình yêu thèm khát, tôi hằng vẽ, hằng tạo ra em. Em là của riêng, của riêng tôi, đang ngự trị đỉnh mộng đẹp vô bờ tôi ấp ủ!
Chân em hồng đỏ khi ánh sáng của ước muốn từ tim tôi lan tới; em thu thập bài ca hoàng hôn tôi sáng tác!
Môi em đăng đắng thơm ngon như hương rượu đậm nồng đau khổ. Em là của riêng, của riêng tôi, đang ngự trị trong giấc mộng cô đơn tôi hằng ấp ủ!
Bằng bóng tối cuồng si tôi đã làm mắt em âm u, lẩn quất trong chiều sâu ánh mắt tôi nhìn!
Em thương mến, tôi nắm, gói chặt em trong lưới nhạc tôi giăng. Em là của riêng, của riêng tôi, đang ngự trị trên mộng hiền triền miên tôi hằng ấp ủ!
31.
Tim tôi, cánh chim vùng hoang dại, đã thấy trong mắt em cả một phương trời. Mắt ấy là nôi ngủ của bình minh; mắt ấy là vương quốc của các vì sao đêm.
Lời tôi ca biến tan trong chiều sâu mắt em. Xin cho tôi bay vút bay vút lên cao trong phương trời ấy, trong mênh mông cô quạnh của phương trời ấy.
Xin cho tôi xé tan những màn mây rủ che và tung rộng đôi cánh trong ánh triều dương thuộc phương trời trong mắt em.
32.
Anh yêu, hãy nói em hay nếu điều này hoàn toàn là thực; hãy nói em rõ nếu điều này là sự thật.
Khi đôi mắt này loé lên làn chớp, mây đen trong lồng ngực anh nổi bão táp trả lời. Có phải môi em thơm dịu như nụ hoa tình đầu hé nở, lần đầu tiên biết mình yêu đương.
Có phải những kỷ niệm xa xưa, những tháng ngày Xuân tàn lụi vẫn còn vương rớt trên tay chân em?
Có phải trái đất, giống một hồ cầm, vẫn thường rung ngân lời ca khi chân em chạm tới?
Có phải sương lạnh từ cặp mắt màn đêm đã rớt xuốn khi chợt thấy em dạo bước? Và có phải ánh sáng ban mai đã hân hoan vui sướng lúc bình minh trùm kín thân em?
Có phải, có phải tình anh đã một mình phiêu du qua bao thời đại, qua bao thế giới chỉ để tìm em?
Có phải cuối cùng lúc thấy em rồi niềm khao khát bao năm trong anh đã kiếm tìm yên bình tuyệt đối trong mắt, trên môi, trên suối tóc chảy dài và trong giọng nói em dịu dàng?
Và có phải lẽ nhiệm mầu huyền bí của Vô Tận Vô Cùng đã khắc nơi này vầng trán nhỏ bé không anh? Nói em nghe, anh yêu, nếu tất cả đều là sự thật?
33.
Anh ơi, em yêu anh. Xin anh tha thứ cho tình em. Như chim lạc lối, em sa vào lưới. Khi tim rung động, màn che tuột rơi, lòng em phơi trần.
Anh yêu, xin đem xót thương bao phủ trái tim trần trụi ấy và tha thứ cho tình em.
Nếu không thể yêu thương, xin tha thứ nỗi khổ đau em đang chịu đựng. Đừng đứng từ xa nhìn em bực bội.
Em sẽ lẩn vào xó góc, ngồi trong bóng tối nâng hai tay che kín nỗi trơ trẽn bẽ bàng.
Đừng nhìn em nữa, anh yêu, hãy tha thứ khổ đau em đang chịu đựng, Nếu yêu em, xin tha thứ nguồn vui em đang sống.
Khi sóng nguồn hạnh phúc cuốn lòng em trôi xa, đừng cười em buông thả đầy hiểm nguy.
Khi ngự trên ngai vàng, em sẽ thống trị anh bằng tình yêu đầy quyền uy áp chế. Lúc đã như một nữ thần, em sẽ ban cho anh thật nhiều ân huệ, những ân huệ riêng tư.
Anh yêu, hãy chịu đựng niềm kiêu hãnh và tha thứ nguồn vui em đang sống.
34.
Đừng đi đâu xa, em mến, nếu chưa xin phép. Suốt đêm anh đã canh chừng; giờ đây mi mắt nặng trĩu vì buồn ngủ.
Anh sợ mất em khi đã ngủ say. Đừng đi đâu xa, em nhé, nếu chưa xin phép.
Anh đứng dậy đưa tay tìm em rồi tự hỏi: "Hay là mình mơ?"
Liệu anh còn có thể làm gì khác hơn là đem lòng mình buộc lấy chân em rồi ghì chặt vào lòng ngực!
Đừng đi đâu xa, em yêu, nếu chưa xin phép.
35.
Em giỡn cợt vì sợ tôi hiểu quá dễ dàng; em cất tiếng cười để giấu che giọt lệ âm thầm. Tôi hiểu, tôi hiểu nghệ thuật em dùng. Chẳng bao giờ em nói lời muốn nói.
Em né tránh bằng trăm phương ngàn kế, vì sợ tôi không mến trọng thân mình. Em đứng tách riêng, vì sợ tôi lầm với nhiều người khác. Tôi hiểu, tôi hiểu nghệ thuật em dùng. Chẳng bao giờ em đi lối muốn đi.
Em đòi hỏi nhiều hơn người khác. Đó là lý do em chẳng cần tỏ bày. Dáng đùa cợt, vẻ thờ ơ, em khước từ quà tôi trao tặng. Tôi hiểu, tôi hiểu nghệ thuật dùng. Chẳng bao giờ em nhận món quà em muốn nhận.
36
Chàng thì thầm: “Em yêu, ngước mắt nhìn anh”. Tôi nghiêm khắc nhìn chàng và nói: “Anh hãy đi đi!” Nhưng chàng bất động.
Chàng đứng trước mặt cầm hai tay tôi. Tôi nói: “Đừng gần em nữa!”. Song chàng không đi.
Chàng úp mặt bên tai tôi. Nhìn chàng tôi nói: “Sao anh lại thế!”. Nhưng chàng lặng thinh.
Môi chàng chạm vào má tôi. Rùng mình, tôi bảo: “Táo tợn quá chừng!”. Nhưng chàng chẳng tỏ vẻ ngại ngùng.
Chàng cài bông hoa lên tóc tôi. Tôi nói: “Vô ích lắm!”. Dẫu vậy chàng đứng thừ người không nhúc nhích. Chàng gỡ vòng hoa ở cổ tôi ra rồi mang đi. Mắt đẫm lệ, tôi tự hỏi lòng: “Sao chàng không lại?”
37.
Giai nhân ôi! Vòng hoa đẹp tươi em đang kết có thể nào em choàng lên cổ tôi chăng? Nhưng, phải biết vòng hoa duy nhất tự tay tôi kết là để tặng nhiều người, cho những người chỉ thoáng hiện, cho những người ở vùng đất hoang vu chưa ai khai phá, cho những người thi nhân xưng tụng trong các bài ca.
Đã quá muộn rồi khi muốn tình em tim tôi đền đáp lại.
Đã có một thời đời tôi như một nụ hoa, hương thơm còn ấp trong hoa ấy. Hương nay bay toả bốn phương trời. Ai biết vui nào diệu kỳ hơn khi hương kia thu lại được. Ai biết vui nào diệu kỳ hơn khi hương kia phong lại được?
Tim tôi là của mọi người; tim tôi không phải của tôi dành riêng cho một ai.
38.
Em yêu, xưa kia thi nhân của em đã từng ấp ôm đại mộng oai dũng phi thường.
Hỡi ôi! Thiếu cẩn trọng, tôi để mộng va vào vòng khuyên rổn rảng em đeo và rơi vào sầu não bi thương.
Mộng vỡ tan thành bài ca đoạn rồi vãi vung dưới chân em. Tôi chở đầy thuyền những truyện chiến chinh xa xưa; thuyền tôi nổi chỉm trong những đợt bóng cợt cười, thuyền ngấm đầy lệ rồi chìm sâu dưới nước.
Em yêu, hãy biến mất mát này thành may mắn cho tôi.Nếu khát vọng của tôi muốn lưu danh bất tử sau khi lìa đời đến nay đã tan từng mảnh, em hãy làm cho tôi bất tử ngay trên thế gian này.
Được vậy, tôi sẽ chẳng khóc than những gì đã mất và cũng chăngt trách oán chi em, người tôi yêu, yêu hết lòng.
39.
Suốt buổi sáng tôi cố kết cho xong vòng hoa, nhưng hoa cứ tuột tay rơi xuống đất.
Em ngồi đó lén nhìn tôi qua khoé mắt rình mò. Hãy hỏi đôi mắt ấy, đôi mắt mưu đồ, quái ác lỗi về ai?
Tôi cố cất tiếng ca một bài, song chẳng thể hát nên lời.
Một nụ cười kín đáo run nhẹ trên môi. Hãy hỏi nụ cười ấy vì sao tôi thất bại?
Hãy để làn môi em chúm chím cười tươi trên lời thề nguyền nói rõ vì sao giọng tôi tan vào thinh không như ong say mật ngã trong lòng bông sen.
Trời đã về chiều. Đã đến lúc ngàn hoa khép cánh. Hãy để tôi ngồi bên em, để môi tôi cất lên lời nói âm thầm dưới ánh mờ ảo của ngàn sao đêm.
40.
Nụ cười ngờ vực dập dờn ánh mắt lúc tôi tới ngỏ lời tạm biệt. Đã bao phen tôi tạ từ như vậy nhưng em lại tưởng dù có ra đi tôi cũng sớm trở về. Nói thật em trong thâm tâm tôi cũng ngờ như thế, vì ngày Xuân qua đi luôn luôn trở lại, vì trăng trong có đi chơi cũng chẳng đi hoài.
Năm rồi năm hoa lại đem sắc hồng nhuộm thắm cành cây; và rất có thể tôi chỉ tạ từ để rồi lại trở về lần nữa với em.
Nhưng đừng vội vàng để ảo tưởng ra đi, hãy nắm lấy dù trong giây lát. Khi tôi nói chúng mình mãi mãi xa nhau, hãy cứ cho là thực; xin cứ tin lời nhau, và riềm mắt huyền hãy để màn sương lệ khơi sâu. Rồi khi tôi trở lại hãy cười lên em, cười thoả thích dù nụ cười ranh mãnh đến đâu.
41.
Tôi khao khát nói lời tâm tình thầm kín nhất, những lời tôi phải nói với em, song còn ngần ngại vì sợ em sẽ bật cười chế nhạo mất thôi.
Đó là lý do tôi tự giễu mình đem những bí ẩn riêng tư ra đùa đùa cợt cợt.
Tôi xem nhẹ nỗi khổ đau riêng tư, vì sợ em cũng coi thường như thế.
Tôi khao khát kể cho em nghe lời thành thực nhất, những lời tôi phải nói với em, song còn ngần ngại, vì sợ em sẽ chăng tin đều tôi sắp nói.
Đó là lý do tôi nguỵ trang chúng thành điều không thực, rồi nói ngược lại những gì muốn nói. Tôi làm phi lý nỗi khổ đau riêng tư, vì sợ em cũng cho là như thế.
Tôi khao khát dùng lời quý mến nhất, những lời dành riêng cho em, song còn ngần ngại, vì sợ em sẽ chẳng đền bù giá trị tương đương.
Đó là lý do tôi nói với em lời phủ phàng và khoa trương lòng mình có sức mạnh chai lỳ. Tôi làm cho em đau khổ, vì sợ chưa bao giờ em biết khổ đau là gì.
Tôi khao khát ngồi im lặng bên em, song còn ngần ngại, vì sợ nỗi lòng riêng tư sẽ bộc lộ hết trên môi.
Đó là lý do khiến tôi bập bẹ, thì thầm và giấu kín lòng mình sau lời nói.
Tôi thẳng tay bóp nghẹt đau thương, vì sợ em cũng làm như vậy. Tôi khao khát rời em rồi đi thật xa, song còn ngâng ngại, vì sợ em sẽ biết lòng tôi chỉ là hèn nhát.
Đó là lý do khiến tôi ngẩng cao đầu, thẫn thờ bước tới trước em. Ánh mắt khăng khít em nhìn da diết khiến đau thương trong tôi mãi mãi mát tươi.
42.
Này gã điên, say mềm say miết. Nếu đạp tung cánh cửa rồi ra đường làm hề đùa giỡn; nếu giốc cạn hầu bao qua đêm thâu và chẳng thèm bận trí lo xa; nếu bước chân vào lối ngõ lạ kỳ rồi vui chơi với những gì vô dụng, thì cũng chẳng cần để ý thi ca cùng lý trí làm chi. Nếu trương buồm ra khơi trước khi phong ba ào tới, chắc anh sẽ làm gãy mái chèo. Lúc đó tôi sẽ theo anh, anh bạn ơi, tôi sẽ say tuý luý, sẽ trác táng bất cần đời.
Tôi đã tiêu hoang ngày tháng với những người láng giềng khôn ngoan, thận trọng.
Tôi biết quá nhiều nên tóc đã ngả màu tro. Tôi thấy quá nhiều nên mắt chẳng còn tinh sáng. Đã bao năm tôi gom góp, nhặt thu sự vật từng mẩu nhỏ, từng mảnh vụ để rồi lại bóp nát, giẫm chân lên và tung hê cho gió bốn phương, vì lẽ tôi hiểu tuyệt đỉnh của khôn ngoan là say luý tuý, là trác táng bất cần đời.
Cứ để mọi ưu tư, thắc mắc biến tan; cứ để mặc tôi hoàn toàn lạc lối. Cứ để men say choáng váng ùa tới cuốn tôi đi khỏi những ràng buộc.
Đời này chẳng thiếu người xứng đáng, người cần cù, người hữu dụng, người khôn ngoan. Có người dễ dãi lúc đầu, có người tao nhã về sau. Hãy cho họ hạnh phúc, giàu sang và xin để riêng tôi khùng dại, vật vời. Vì lẽ tôi hiểu cứu cách của mịu việc làm là say luý tuý, là trác táng bất cần đời.
Phút này tôi thể trả lại cuộc đời mọi mong cầu được đứng vào hàng những người đoan chính. Tôi buông trôi niềm kiêu hãng về kiến thức cùng nhận biết chính tà. Tôi sẽ đập ta con thuyền ký ức và rắc rơi giọt lệ cuối cùng. Với bọt rượu đỏ hồng tôi sẽ tắm nhuộm tiếng cười vang âm lanh lảnh. Ngay lúc này tôi sẽ xé nát hình thức kiên định cùng huy hiệu khiêm cung. Trịnh trọng tôi thề sẽ thành vô dụng, sẽ say luý tuý, sẽ trác táng bất cần đời.
43.
Không đâu các bạn, tôi sẽ chẳng bao giờ làm người ẩn sĩ dù cho các bạn có nói gì đi nữa. Tôi sẽ chẳng bao giờ là người ẩn sĩ nếu nàng không ước thề cùng tôi.
Tôi quyết tâm sẽ chẳng bao giờ thành ẩn sĩ nếu chưa tìm được nơi náu thân rợp mát và một bạn tâm giao để khổ hạnh cùng mình.
Không đâu các bạn, tôi sẽ chẳng bao giờ rời bếp lửa, mái nhà ấm êm để ẩn mình trong tịch mịch rừng xanh, nếu không có tiếng hớn hở vui cười vang ầm trong bóng mát, nếu không có tà áo vàng nghệ thuật phất phơ trong gió và nếu không có những tiếng thì thầm nhè nhẹ làm cho tịch mịch rừng xanh sâu thẳm thêm hơn.
Tôi sẽ chẳng bao giờ là người ẩn sĩ.
44.
Thưa cha tôn kính, xin cha tha thứ cho hai kẻ tội lỗi này. Gió Xuân hôm nay đang thổi mạnh từng cơn cuốn lôi đi cả cát bụi lẫn lá vàng cùng những điều cha chỉ giáo.
Xin cha đừng nói đời là hư không vì hai đứa chúng tôi chỉ một lần cầu hoà cùng thần chết và chỉ được thành bất tử trong vài giờ nhắn ngủi ngát hương.
Nếu quân lính nhà vua có hung hăng kéo lại, chúng tôi sẽ chỉ buồn bã lắc đầu mà nói: “Các anh đang quấy nhiễu chúng tôi. Nếu phải làm trò ồn ào này thì các anh cứ đem vũ khí đua tranh ở nơi nào khác. Vì chúng tôi chỉ được thành bất tử trong một vài khoảnh khắc dịu êm.
Nếu có người thân thiện tới hỏi, chúng tôi sẽ khiêm tốn cúi chào và nói: “Niềm may mắn quá chừng này làm chúng tôi bối rối. Trên bầu trời mênh mông, nơi chúng tôi sống, chốn ở thật hiếm khan. Vì lẽ mỗi độ Xuân về hoa nở tưng bừng, ong bay từng đám chen cánh rộn ràng. Thiên đường nhỏ bé nơi chỉ có hai người bất tử chúng tôi nương sống lại chật hẹp vô chừng".
45.
Với những người phải ra đi, hãy chúc họ điều may và xoá hết dấu chân in trên mặt đường.
Hãy hân hoan đón vào lòng cái gì dễ dãi, cái gì giản đơn, cái gì gần gũi.
Hôm nay là ngày hội của yêu ma; chúng chẳng biết khi nào sẽ chết.
Hãy để tiếng mình cười vang chỉ là nguồn vui vô nghĩa như tia sáng lấp lánh trên ngọn sóng lăn tăn.
Hãy để đời mình nhẹ nhàn nhảy múa bên biên giới thời gian như sương mai trên búp nhọn đầu lá.
Rồi dạo trên dây tơ cung điện dặt dìu nhặt lúc khoan.
46.
Em bỏ tôi ra đi đơn chiếc. Tôi nghĩ mình sẽ phải nhỏ lệ tiếc thương, phải khắc vào tim hình bóng em cô đơn để kết thành bài ca óng chuốt.
Nhưng mà số phận hẩm hiu, có bao lăm ngắn ngủi đời người.
Tuổi xanh úa tàn theo năm tháng, ngày Xuân lén lút ra đi, hoa mong manh chết dần vô ích. Có bận trí giả bảo tôi rằng đời chỉ là giọt sương mai đọng trến cánh lá sen.
Liệu có nên lãng quên tất cả điều này chỉ dõi theo một người đã dứt áo ra đi không một lời từ biệt? Làm như vậy thực sỗ sàng, ngớ ngẩn, vì lẽ có bao lăm ngắn ngủi đời người.
Vậy thì hãy lại đây những đêm mưa của ta với bước đi lộp bộp; hãy cười lên hỡi màu Thu vàng ửng; và hãy về đây hỡi tháng đầu Xuân vô tình, về đây để ban cho vạn vật muôn loài những nụ hôn trìu mến.
Em lại và em, em cũng lại?
Em yêu của tôi ơi, em đã rõ chúng mình là phàm nhân. Liệuc có khôn ngoan không nhỉ khi mở rộng lòng đón chờ một người đã hướng tâm hồn về nơi khác? Vì lẽ có bao lăm ngắn ngủi đời người.
Kể cũng thú vị khi ngồi vào một xó trầm tư rồi dẹt vân thơ; ý rằng em là vũ trụ của riêng tôi.
Kể cũng can trường khi ôm kín nỗi buồn riêng không cần một ai an ủi.
Nhưng có bộ mặt tươi vui ngó vào khung cửa; đưa mắt tìm mắt tôi. Tôi chẳng thể làm gì mà chỉ lau khô lệ ướt rồi đổi điệu bài ca. Vì lẽ có bao lăm ngắn ngủi đời người.
47.
Nếu em muốn, tôi sẽ ngừng tiếng hát.
Nếu lời tôi ca làm tim em rung động, tôi sẽ thôi không nhìn em nữa.
Nếu lưòi tôi ca bỗng dưng làm em sửng sốt trong lúc đang đi, tôi sẽ rẽ sang một bên và bước theo ngả khác.
Nếu lời tôi ca làm em bối rối trong lúc kết hoa, tôi sẽ tránh không vào vườn em vắng lặng.
Nếu lời tôi ca làm nước sông gợn sóng, dài ngày, tôi sẽ thôi không chèo thuyền lại gần bờ phía bên em.
48.
Em yêu! Hãy giải thoát anh khỏi dây giàng buộc âu yếm của tình em.
Thôi đủ rồi, xin đừng thêm nữa men rượu nồng của những nụ hôn trìu mến. Màn hương thơm này ngào ngạt làm ngộp tim anh.
Xin mở toang hết cửa dành không gian cho ánh nắng ban mai.Anh lạc lối trong em đắm chìm vào vòng tay ve vuốt.
Xin cho anh thoát khỏi ngải tình quyến rũ và trả lại nguồn sống thanh xuân để rồi trao lại em trái tim vừa thoát ách ngục tù.
49.
Tôi cầm tay nàng ghì chặt nàng vào ngực. Tôi cố ôm đầy trong tay mình dáng vẻ yêu kiều, đoạt cướp bằng môi mình nụ cười tươi tắn, uống cạn bằng mắt mình ánh mắt u huyền.
Nhưng mà tất cả đâu rồi nhỉ? Màu xanh ai có thể gạn lọc khỏi bầu trời?
Tôi cứ nắm chắc trong tay vẻ đẹp; vẻ đẹp thoát tuột chỉ để lại thân xác không hồn.
Rã rời, luýnh quýng, tôi hồi tỉnh. Làm sao thân xác sờ nắm được đoá hoa chỉ riêng tinh thần tiếp xúc nổi?
50.
Tình yêu, lòng ta ngày đêm khao khát gặp người – khao khát gặp cuộc gặp gỡ thật giống như cái chết nuốt trôi tất cả.
Hãy quét ta đi như phong ba bão táp, đoạt hết những gì ta có, phá tan giấc ngủ cùng mộng mị và chiếm hết vũ trụ của riêng ta.
Trong cảnh hoang tàn ấy, lúc tâm thần trần truồng tuyệt đối, hãy để hai ta hoà thành một trong vẻ đẹp tuyệt vời.
Hỡi ơi , ước mơ mãi hoài! Tìm đâu thấy hi vọng đoàn tụ như thế trừ nơi Người, Thượng đế của lòng tôi?
51.
Vậy thì hát nốt bài ca cuối cùng rồi hai ta chia tay?
Hãy quên đêm nay khi đêm không còn nữa.
Tôi đã cố ôm ai trong vòng tay mình nhỉ? Chẳng bao giờ lại giam cầm được mộng.
Hai tay tôi hăm hở ghì chặt hư không; hư không làm ngực tôi rát bỏng.
52.
Tại sao đèm phụt tắt?
Tôi lấy áo choàng ngăn gió cho đèn; đấy là lý do khiến đèn phụt tắt.
Tại sao hoa úa tàn?
Tôi ghì chặt hoa vào lòng với tình yêu ưu tư; đấy là lý do khiến hoa úa tàn.
Tại sao suối cạn nguồn?
Tôi đắp đập qua suối để lấy nước mình dùng; đấy là lý do khiến suối cạn nguồn.
Tại sao dây đàn phựt đứt?
Tôi cố ép một cung điệu ngoài sức dây tơ; đấy là lý do khiến dây đàn phựt đứt.
53.
Sao em làm tôi xấu hổ vì ánh mắt em nhìn? Tôi không tới đây như một tên hành khất. Tôi chỉ đứng trong một giờ ngắn ngủi ở sân nhà em bên ngoài hàng dậu ngăn cách khu vườn.
Sao em làm tôi xấu hổ vì ánh mắt em nhìn?
Tôi chưa hái bông hoa nào trong vườn nhà em, tôi chửa ngắt trái cây nào trong vườn hà em. Tôi chỉ khiêm nhường tạm trú dưới bóng mát vệ đường, nơi khách vãng lai xa lạ cũng có thể dừng chân. Tôi chưa hề ngắt bông hồng nào cả.
Vâng, chân tôi đã mỏi nhừ và mưa rào đang trút nước. Gió từng cơn than van trong những cành tre nghiêng ngả; mây thành từng cụm bay ngang bầu trời như kẻ bại vong. Chân tôi đã mỏi nhừ.
Tôi chẳng hiểu em nghĩ gì về tôi đang đứng chờ ai ngoài ngõ. Tia chớp làm loé đôi mắt em trông chờ. Làm sao có thể biết em đã nhìn thấy tôi đứng trong bóng tối? Tôi chẳng hiểu em nghĩ gì về tôi.
Ngày tàn và mưa giây lát. Tôi từ giã bóng mát trùm cây cuối vườn nhà em và cả chỗ ngồi nữa trên thảm cỏ màu xanh.
Màn đêm buông kín; thôi khép cửa lại, tôi đi đường tôi. Ngày tàn rồi.
54.
Em cắp thúng vội vã đi đâu lúc này chiều muộn khi chợ tan rồi? Thiên hạ ai nấy đều về nhà, gánh gồng nặng trĩu. Mặt trăng đã hé nhìn vòm cây trong thôn làng.
Tiếng vọng của người gọi thuyền sang sông vang trên mật nước tối om lan đến tận bãi lầy xa tít, nơi bầy vịt trời đang yên giấc ngủ ngon.
Em cắp thúng vội vã đi đâu khi chợ tan rồi?
Giấc ngủ đã đặt tay ngà lên mi trái đất.
Nơi nơi chim chóc đều nằm im trong tổ ấm; tiếng lá tre thì thầm cũng bặt thinh. Từ đồng ruộng nông dân trở về; họ trải chiếu trên sân nằm nghỉ. Em cắp thúng vội vã đi đâu khi chợ tan rồi?
55.
Anh ra đi vào giữa buổi trưa.
Trên cao mặt trời hừng hực.
Em đã làm xong công việc và lúc anh ra đi trên bao lơn đơn chiếc riêng một em ngồi.
Gió từng cơn lách qua những cánh đồng xa ngát hương. Trong bóng râm đồng bầy bồ câu trắng gụ liên hồi; một con ong lạc lối vào phòng em ngân nga tin tức những cánh đồng xa xa.
Trong hơi nóng giữa thôn làng im lìm ngủ.
Con đường nằm vắng lặng hoang sơ.
Tiếng lá cuộn từng cơn bất chợt xào xạc rồi lại êm ru. Em đăm đăm nhìn trời xanh và dệt trên nền trời những chữ mang tên một người, một tên mình đã biết, trong khi thôn làng thiếp ngủ dưới ánh nắng giữa trưa.
Em bẵng quên không vấn vành tóc. Ngọn gió thẩn thờ đùa với mớ tóc xoã buông trên má. Dòng sông lững lờ trôi bên bờ cây râm mát. Những đám mây trắng lười lĩnh không buồn bay. Em bẵng quên vấn vành tóc lỏng buông.
Anh ra đi vào giữa buổi trưa.
Cánh đồng thở hổn hển, bụi đường nóng bốc hơi.
Trong đám lá um tùm bồ câu trắng thi nhau gụ.
Lúc anh ra đi trên bao lơn đơn chiếc riêng một mình em ngồi.
56.
Cũng như bao người đàn bà bận bịu em làm công việc nội trợ âm thầm.
Sao anh nỡ đẩy em ra khỏi cuộc sống của chúng mình nơi chở che mát dịu?
Tình yêu thầm lặng là tình yêu thiêng liêng; trong bóng tối mờ trái tim ẩn kín tình yêu rực sáng như trân châu; trong ánh sáng ban ngày kỳ lạ tình yêu lại lu mờ một cách thảm thương.
Phải, anh đã phá đường vào tim em, lôi ra ánh sáng tấm lòng em run rẩy và vĩnh viễn đạp tan xó nhà mát dịu nơi em nương náu mối tình.
Những người đàn bà khác cũng hằng như thế.
Chưa một ai đã nhìn họ để tìm con người sầu kín bên trong, chính họ cũng không hiểu những nỗi lòng bí ẩn riêng tư.
Thanh thản họ cười, tự nhiên họ khóc, chuyện trò, làm lụng.
Hàng ngày đi lễ, làm bếp, gánh nước bên sông.
Em hi vọng tình em sẽ thoát niềm tủi hổ, tủi hổ rẩy run của những người không nơi nương tựa, nhưng anh ngoảnh mặt chẳng thèm đoái thương.
Vâng, đường anh đi thênh thang trước mặt, song anh đã ngăn lối em về để em bơ vơ trần trụi trước mắt thế gian trừng trừng ngày đêm nhìn ngắm.
57.
Ôi trần gian! Ta ngắt bẻ cành hoa người đang nuôi sống!
Ta ép hoa vào lòng gai nhọn đâm sâu.
Lúc ngày tàn, trời tối ta thấy hoa héo úa, nhưng đau đớn còn nguyên.
Ôi trần gian! Còn nhiều hoa khác sẽ đến với ngươi, với hương thơm ngào ngạt và kiêu hãnh tràn đầy!.
Nhưng thời gian hái hoa của ta không còn nữa.
Suốt đêm tối ta chẳng có bông hồng mình thích, nhưng đau đớn còn đây.
58.
Một sớm mai trong vườn đầy hoa có người thiếu nữ mù tới cho tôi vòng hoa gói kín trong chiếc lá sen.
Tôi choàng hoa lên cổ, mắt ứa lệ.
Tôi hôn nàng và nói: “Em mù đúng lúc những hoa này nở. Chắc em cũng chẳng rõ quà em cho tôi đẹp biết chừng nào.”
59.
Ôi đàn bà, các người không phải chỉ là vật do bàn tay hoá công tạo tác, nhưng cũng còn là vật do bàn tay đàn ông tác tạo mà thành! Cả hai vẫn hằng ban cho các người vẻ đẹp ấp ủ trong tim.
Thi nhân dệt cho các người một màn tơ lưới đầy hình ảnh óng vàng; họa sĩ tô điểm thân hình các người nét bất tử mới mẻ luôn luôn.
Biển cả dâng ngọc báu, hầm mỏ dâng bạc vàng, vườn xuân đẹp dâng để các người điểm trang, che phủ và làm tăng thêm quí báu.
Ước muốn từ tim đàn ông tiết ra đã rắc vung rực rỡ tô thắm các người trẻ trung thêm mãi.
Các người nửa là mộng đẹp nửa đàn bà.
60.
Giữa dòng đời ồn ào, náo nhiệt, ôi Đẹp, khắc sâu vào đá xám, em đứng lặng thinh, im lìm, đơn chiếc, xa xăm.
Thời gian già nua quì dưới chân em, đắm đuối, thì thầm: “Em yêu, hãy nói, nói với anh, tâm sự cùng anh, người em thương mến!”.
Song lời em đã vùi sâu vào đá xám, ôi Đẹp Bất Động Thản Nhiên!.
61.
Người em của lòng tôi, hãy bình tâm và giữ cho giây phút chia tay này êm đẹp mãi.
Đừng để phút giây ấy biến thành chết chóc mà thành hoàn hảo vẹn tròn.
Hãy để tình yêu tan vào ký ức và đau đớn chìm trong lời ca.
Hãy để chuyến bay ngang bầu trời kết thúc bằng đôi cánh xếp lại trong tổ ấm.
Hãy để bàn tay em vuốt ve lần cuối dịu dàng như bông hoa nhẹ nở về đêm.
Đừng cất bước lúc này, ôi Cứu Cánh Diễm Kiều, hãy nói lời cuối cùng trong thầm lặng.
Tôi cúi đầu, tay giơ cao đèn soi sáng bước em đi.
62.
Tôi men theo lối đi âm u của mộng đẹp để kiếm tìm người yêu kiếp trước.
Nhà nàng ở cuối con đường hiu quạnh. Lúc gió đềm về nhè nhẹ con công nàng nâng niu thiêm thiếp trên cần đậu và bầy bồ câu trắng nằm trong tổ ấm im lìm.
Nàng đặt cây đèn gâng cổng rồi đứng trước mặt tôi. Nàng mở to đôi mắt nhìn tôi rồi thầm lặng hỏi: “Bạn lòng ơi, anh có mạnh khoẻ không?”. Tôi cố sức trả lời, song chúng tôi đã đánh mất ngôn từ và quên hết.
Tôi suy nghĩ và suy nghĩ; tên hai đứa chẳng hiện ra trong trí. Mắt ứa lệ, nàng đưa bàn tay phải cho tôi. Tôi cầm tay nàng rồi đứng lặng im.
Cây đèn bên cạnh chúng tôi lung linh trong gió rồi vụt tắt.
63.
Lữ khách, anh phải đi chăng?
Đêm hãy còn im lìm và màn tối đang phủ nặng rừng cây.
Đèn trên bao lơn nhà chúng tôi rực sáng, hoa nở thắm tươi, và những đôi mắt trẻ trung vẫn còn tỉnh táo.
Đã đến giờ anh đi rồi sao?
Lữ khách, anh phải đi chăng?
Chúng tôi chẳng thể buộc chân anh lại bằng vòng tay cầu khẩn. Cửa đã mở, ngựa sẵn yên cương chờ anh ngoài cổng. Nếu chúng tôi có cố ngăn bước anh đi thì cũng không có gì ngoài bài ca chia tay. Nếu có bao giờ chúng tôi cố níu chân anh lại thì cũng không có gì ngoài ánh mắt nhìn theo. Lữ khách, chúng tôi chẳng có gì giữ anh lại, chỉ trừ nước mắt mà thôi.
Trong mắt anh lửa nào hừng hực sáng?
Trong máu anh cơn say nào triền miên chảy?
Thôi thúc anh tiếng gọi nào vọng từ bóng đêm?
Lời chú ghê rợn nào anh đã đọc dưới trời sao để đêm tối đi vào tìm anh, với lệnh truyền bí mật niêm phong âm thầm, xa lạ?
Nếu anh không màng tới các buổi gặp gỡ vui vui, nếu anh lại cần yên tịnh, hỡi trái tim mệt mỏi, chúng tôi sẽ tắt đèn và ngưng ngay tiếng đàn.
Chúng tôi sẽ ngồi im lặng trong bóng đêm giữa tiếng lá cây sột soạt; mặt trăng mệt nhọc sẽ giải ánh xanh xao trên cửa sổ nơi anh ngồi.
Ồ lữ khách, u hồn nào khắc khoải đã nhập vào anh đứng giữa đêm khuya?
64.
Suốt ngày tôi ngồi chơi trên bụi đưòng nóng bỏng. Bây giờ đêm xuống trời mát dịu, tôi tới gõ cửa quán trọ. Quán vắng tanh, nằm hoang tàn.
Cây át-ha lãnh đạm trải rễ đói khát, ngoằn ngèo qua vết tường nứt nẻ há hốc.
Đã có ngày khách qua đường tới đây rửa đôi chân thấm mệt. Họ trải chiếu trên sân thượng dưới ánh trăng non lờ mờ rồi nghỉ ngơi trò chuyện về những miền xa xôi.
Sáng đến thức dậy họ cảm thấy sảng khoái khi chim chóc líu lo, khi những bông hoa hiền lành đứng bên vệ đường gật đầu chào đón.
Nhưng lúc tôi tới đây, không có đèn thắp sáng đợi chờ. Trên tường quán, do ánh đèn thắp đêm bị bỏ quên, những vệt khói đen còn sót lại trừng trừng nhìn trông giống như những cặp mắt đui mù.
Trong bụi rậm gần một ao cạn nước đom đóm lập loè bay; cành tre vươn bóng trên lối mòn rậm cỏ.
Tôi là người khách cô độc lúc ngày khép kín.
Đêm trải dài trước mặt, tôi đã mệt nhừ.
65.
Em lại gọi lần nữa?
Đêm đã xuống từ lâu. Mệt mỏi giăng mắc quanh tôi như vòng tay tình yêu quyến rũ. Em gọi tôi phải không em?
Ôi người đẹp tàn ác, ngày dài tôi đã dâng em trọn vẹn còn đêm trường em muốn chiếm nốt nữa sao?
Mọi việc tất sẽ chấm dứt ở nơi nào đó, song đêm dài cô liêu phải thuộc riêng mình. Sao em phải lên tiếng gọi để phá tan đêm tối cô liêu và bóp nát lòng tôi?
Thế đêm không có giai điệu chờ sẵn ngoài cổng để ru em vào mộng đẹp? Thế sao trên trời khép cánh im lìm thôi không xuất hiện trên đỉnh tháp vô tình nơi em đang đứng? Thế hoa trong vườn nhà em không còn rũ cánh chết nhẹ nhàng trên mặt đất nữa ư?
Sao phải gọi tôi, hỡi người em da diết?
Thôi cứ để mắt buồn của tình yêu ngóng chờ và nhỏ lệ, để đèn toả sáng trong căn nhà quạnh hiu, để thuyền đưa công nhân mỏi mệt về nhà.
Tôi bỏ lại sau mình mộng đẹp, hối hả theo tiếng em đang gọi.
66.
Tóc kết thành lọn, mình dính đầy bùn, làn da xạm nắng, người gầy đét như một cái bóng, môi mím chặt như cửa tâm hồn khép kín, mắt nẩy lửa hệt đom đóm lập loè bay tình nhân, gã điên lang thang tìm kiếm hòn đá thử vàng.
Trước mặt gã biển xanh mênh mông gầm thét. Sóng bạc đầu huyên thuyên trò chuyện về những kho tàng chôn dấu, giễu nhạo kẻ ngu xuẩn không hiểu ý nghĩa lời sóng nói.
Có lẽ lúc này gã đang tuyệt vọng. Dẫu vậy, chẳng chịu bó tay, vì đối với gã cuộc kiếm tìm đã trở thành lẽ sống.
Cũng như biển cả mãi mãi vươn tay lên bầu trời tìm cái không thể với được.
Cũng như các vì sao xoay vần kiếm mục tiêu chẳng bao giờ tới được.
Dẫu thế, trên bờ hoang lạnh, gã điên, tóc hung vàng bụi bám, vẫn thơ thẩn tìm hòn đá thử vàng.
Một hôm có em nhỏ từ làng ra hỏi: “Ông ơi, đi đâu mà bụng đeo dây chuỗi vàng nặng thế?”
Gã điên bàng hoàng - chuỗi gã đeo trước kia là sắt bây giờ biến thành vàng thực sự. Chẳng phải rằng mơ; tuy nhiên gã không rõ dây chuỗi biến dạng lúc nào.
Gã nắm tay đập trán lia lịa – dây chuỗi biến thành báu vật ở chỗ nào, ừ ở chỗ nào mà gã không hay?
Gã có thói quen lượm nhặt cuội sỏi, vuốt ve dây chuỗi và ném cuội sỏi ra xa mà chẳng thèm nhìn theo xem chúng thay đổi như thế nào. Cứ thế gã điên tìm thấy rồi lại vất đi hòn đá thử vàng.
Mặt trời đang chìm sâu ở phương Tây, bầu trời vàng ửng. Gã điên lê gót trở lại kiếm tìm lần nữa báu vật không còn, sức kiệt quệ, thân lom khom, tâm hồn lấm bụi tựa cây cao bật rễ đổ kềnh.
67.
Dù chiều xuống dần chầm chậm ra hiệu cho lọi lời ca bặt tiếng;
Dù bạn bè mi đã ngon giấc trong tổ ấm và mi đã mệt nhoài;
Dù hãi hùng đang bao trùm đêm tối và bầu trời mây phủ kín bưng;
Song, chim , chim của ta ơi, lắng nghe lời ta nói, đừng vội khép cánh ngừng bay chim nhé.
Đó không phải là vẻ âm u của lá rừng; đó là sóng biển dâng cao như con rắn đen ngòm; đó không phải là vũ điệu của loài hoa nhài phảng phất; đó là bọt biển bay tung. Ờ mà bờ biển xanh ngập nắng ở phương nào nhỉ? Ờ mà tổ ấm của mi ở nơi nào nhỉ? Chim, chim của ta ơi, lắng nghe lời ta nói, đừng vội khép cánh ngừng bay chim nhé.
Đêm quạnh hiu trải dài trước hướng mi đi; bình minh còn ngon giấc sau đồi cây rợp bóng.
Sao trên cao nín thở đếm thời gian; trăng ẻo lả bơi trong đêm im lặng. Chim, chim của ta ơi, lắng nghe lời ta nói, đừng vội khép cánh ngừng bay chim nhé.
Mi không nuôi hy vọng, không bận âu lo.
Mi không kêu la, thì thầm, than van.
Mi không nhà, không giường để nghỉ.
Mi chỉ có đôi cánh riêng tư và bầu trời bao la.
Chim, chim của ta ơi, lắng nghe lời ta nói, đừng vội khép cánh ngừng bay chim nhé.
5/7/10
Rabindranath Tagore - LÒNG CHA
Lòng Cha
Rabindranath Tagore [1861-1941]
Thích Nữ Trí Hải chuyển ngữ
" Chuyện kể rằng có một nhà văn trưởng giả của xứ Ấn Độ mỗi ngày ông thường ngồi yên lặng viết bài. Cô con gái nhỏ 5 tuổi của ông, bé tên Mini, thường ra vào chuyện trò với cha, cô bé cô đơn chỉ quanh quẩn trong gia đình với cha mẹ. Bà mẹ tính vốn bảo thủ hơn, không muốn con bà chạy ra ngoài nhà, vì ngoài kia có những phần tử xấu, như người bệnh hoạn, phong cùi, ăn xin, ăn cướp giật, bán hàng rong,... Do vậy cô bé chỉ quanh quẩn bên bàn làm việc của người cha. Cô bé rất lanh miệng, mồm nói chuyện liên hồi, hỏi ông đủ điều, khiến những ý tưởng văn chương của ông bị gián đoạn, những lúc ấy ông đuổi cô bé ra ngoài phòng.
Rồi một hôm có người bán hàng rong, người miền thượng du vùng Cabul, ông tên Rahman, xách theo bị hàng vào nhà ông nhà văn ngỏ lời xin bán hàng, cô bé Mini thấy ông Rahman đầu tóc bù xù, y phục dơ dáy như ông kẹ, Mini nép sát vào người cha lén nhìn ông già hàng rong người Cabul trong sợ sệt. Mini thượng gọi Rahman là ông Bộc, vì dáng ông như kẻ ăn xin. Ông nhà văn mua tượng trưng ít đồ để tống khứ lão Cabul ra khỏi nhà.Hãy nghe ông nhà văn kể về chuyện con gái của ông:
"Tôi nghĩ suốt đời cô bé đã không phí một phút giây nào im lặng. Mẹ nó thường không hài lòng về điều ấy, và thường ngăn cô lại, nhưng tôi thì không. Với Mini, im lặng là chuyện bất thường, và tôi không thể chịu đựng lâu. Bởi thế, câu chuyện giữa tôi và cô bé luôn luôn sinh động. Chẳng hạn một buổi sáng, khi tôi đang viết dở một chương tiểu thuyết thì cô bé lẻn vào, cầm lấy tay tôi mà nói:
- Cha ! Lão bộc gọi con con chó là con muông. Lão không biết gì cả, phải không cha ?
Tôi chưa kịp giảng giải, thì cô bé đã chuyển sang một vấn đề khác.
- Cha nghĩ sao, cha ? Bộc nói có con voi trong những đám mây, vòi nó phun nước, và thế là trời mưa. Có phải vậy không cha ?
Trong khi tôi đang tìm cách trả lời câu này, bé đã hỏi một câu khác:
- Cha ! Mẹ và cha bà con ra sao nhỉ ?
Tôi cố lập nghiêm bảo:
- Ra chơi với Bộc đi, Mini. Cha đang bận.
Cửa sổ phòng tôi trông ra đường. Cô bé đã ngồi xuống dưới chân tôi, cạnh bàn viết và đang chơi một mình. Tôi đang suy nghĩ rất lung để viết. Bỗng cô bé Mini vùng chạy lại cửa và reo lên:
- Ông Cabul, ông Cabul !
Và quả thế, ngoài đường dưới kia, một người đàn ông miền Cabul đang tiến bước. Y mặc bộ quần áo trông có vẻ nghèo nàn và dơ dáy, buộc một thắt lưng dài, lưng mang chiếc bị, tay cầm những hộp nho khô. Không biết cô bé nghĩ gì khi thấy người này, nhưng cô bắt đầu gọi ông thật lớn. Ngay lúc ấy lão ta quay lại và nhìn lên cô bé.
Cô bé thấy vậy thất kinh hồn vía, chạy bay đến nấp bên mẹ. Cô tin chắc thế nào trong chiếc bị mà lão đang mang cũng có hai ba đứa trẻ con như cô. Người hàng rong ấy đã vào đến cửa và mỉm cười chào tôi. Phản ứng đầu tiên của tôi là mua một món gì đó, vì Mini đã gọi y vào nhà. Tôi mua ít vật dụng, và chúng tôi khởi sự nói chút đỉnh chuyện chính trị. Khi sắp từ giã, bỗng hắn hỏi:
- Còn cô bé đâu rồi, thưa ông ?
Nghĩ rằng nên làm cho Mini hết sợ hão huyền, tôi cho đem cô bé ra. Cô đứng bên ghế tôi, nhìn chòng chọc vào người Cabul cùng chiếc bị. Y biếu cô cả đậu phụng và nho khô, nhưng cô nhất định không để bị dụ dỗ. Cô càng bám riết lấy tôi và càng nghi ngờ lão thêm.
Đấy là cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa lão Cabul và cô bé. Tuy nhiên, vài hôm sau, khi đi ra có tí việc, tôi giật mình thấy Mini ngồi trên chiếc ghế nhỏ cạnh cửa ra vào, đang cười nói với lão Cabul ngồi dưới chân. Suốt đời, cô chưa bao giờ được ai ngoài cha cô, đã nghe cô một cách chăm chú như vậy. Cái túi áo của cô đã đầy ắp đậu phụng và nho khô của người khách lạ. "Sao ông cho nó làm gì thế?", tôi nói, vừa rút tiền trả cho lão. Ông thản nhiên nhận tiền cho vào túi.
Một giờ sau trở về, tôi mới thấy tai hại của đồng bạc tôi đưa ra. Người Cabul đã đưa cho Mini, và khi mẹ nó thấy đồng bạc, bèn vồ lấy cô bé:
- Con lấy đồng bạc ở đâu, bé ?
- Ông Cabul cho con ! Mini hớn hở đáp.
- Ông Cabul cho con ! Mẹ nó thét lên - Mini, sao dám lấy bạc hở :
Vừa lúc ấy tôi đi vào cứu cô bé thoát nạn bị đòn. Tôi tiếp tục điều tra về đôi bạn. Tôi khám phá đấy không phải lần đầu họ gặp nhau. Người Cabul đã đánh tan sự sợ hãi của cô bé bằng cách đút lót thật nhiều đậu phụng và nho khô. Đến nay hai bên đã thành đôi bạn thiết. Họ có nhiều trò đùa mà họ rất khoái. Mini thường ngồi trước lão Cabul, nhìn xuống vóc dạng khổng lồ ấy với vẻ đường bệ của một bà chủ tí hon, khuôn mặt cười lên rạng rỡ, và cô hỏi:
- Ông Cabul, ông Cabul, ông đựng cái gì trong bị ấy ?
Và ông lão sẽ trả lời bằng giọng mũi của người thượng du:
- Một con voi !
Không có gì đáng tức cười lắm, vậy mà họ hoan hỉ làm sao. Và riêng tôi, cuộc chuyện trò giữa một đứa trẻ với người lớn luôn có vẻ gì đó rất quyến rũ.
Rồi người Cabul, để khỏi thua bạn, bắt đầu hỏi lại cô bé:
- Còn cô, này cô bé, bao giờ thì cô về nhà ông nhạc ?
Hầu hết các cô bé Ấn Độ đều sớm nghe danh từ ấy, nhưng chúng tôi thì không bao giờ nói những chuyện như thế với con gái, cho nên trước câu hỏi ấy, cô hơi bối rối. Nhưng cô không muốn để lộ sự lúng túng của mình, và đã hỏi lại:
- Còn ông có về đấy không ?
Đối với giai cấp người Cabul này, thì từ ngữ về nhà ông nhạc lại có nghĩa là nhà tù, nơi họ được ăn ở miễn phí. Người ấy bèn trả lời:
- Ô, tôi sẽ đánh vỡ mặt ông nhạc ra !
Vừa nói lão vừa nắm tay hăm doạ một viên cảnh sát vô hình. Mini nhíu mày, rồi cười lên như nắc nẻ. Lão cũng cười theo phụ hoạ.
Đấy là vào những buổi sáng đầu thu, mùa các vua chúa ngày xưa lên đường viễn chinh dẹp giặc. Còn tôi không rời khỏi góc nhà quê hương, nhưng vẫn để tâm hồn phiêu du khắp chân trời góc bể. Mỗi khi nghe địa danh một nời nào, hồn tôi đã vươn tới chỗ ấy, và bóng một người xứ khác đến trên đường cũng khiến tôi dệt nên những giấc mơ xa xăm về quê hương của anh ta ở cuối chân trời, nghĩ đến những cuộc đời giang hồ lãng tử. Những xứ lạ hiện lên trong trí tôi càng sống động, có lẽ vì cuộc sống hiện tại của tôi quá giống với cỏ cây. Tiếng gọi viễn du réo rắc trong tôi, tựa hồ tiếng sóng triều gào thét. Bởi thế, trông thấy người Cabul này, trí tôi liên tưởn ngay đến những vùng núi non cằn cỗi trên cao, chen chúc với mây trời. Tôi mường tượng những đoàn lạc đà chở hàng đi trên sa mạc, những thương gia lưng đeo vũ khí hộ thân đang tiến về hướng bình nguyên. Tôi thấy và thấy trong trí tưởng ...
Nhưng giữa lúc ấy, luôn luôn mẹ Mini sẽ xen vào, tha thiết dặn tôi phải "coi chừng lão ấy". Bà rất dè dặt mỗi khi nghe tiếng huyên náo ngoài đường, hay thấy người vào nhà, và luôn đi đến kết luận, một là kẻ cướp, hai là kẻ say, hoặc rắn hổ mang, bệnh sốt rét, phong cùi. Sau bao nhiêu năm kinh nghiệm giữa trường đời, bà vẫn chưa thắng lướt được nỗi sợ hãi triền miên trong lòng bà. Bởi thế, bà luôn luôn nghi ngờ về người Cabul, và thường van nài tôi phải coi chừng lão ấy. Nếu tôi cố xua đuổi nỗi sợ hãi vô căn cứ của bà bằng cách cười lớn, thì bà nghiêm mặt hỏi với dáng điệu rất trịnh trọng:
- Thế trẻ con không bao giờ bị bắt cóc ấy à ? Thế không phải ở Cabul còn có bán nô lệ ư ? Một người đàn ông to lớn bắt một đứa trẻ xíu không được hay sao ?
Tôi nói, không phải là không được, nhưng không lẽ nào có chuyện như thế. Tuy thế bà vẫn lo sợ. Nhưng vì nỗi sợ hãi ấy thật bâng quơ, nên không lý gì để cấm đoán lão vào nhà. Sự thân thiện giữa đôi bạn - một khổng lồ, một chim chích - vì thế vẫn tiếp tục không bị ngăn cản. Hàng năm vào giữa tháng giêng, Rahman - tên người Cabul ấy, thường về xứ một lần, và khi sắp về, y thường rất bận rộn đi các nhà để thâu tiền nợ. Năm nay, tuy vậy ông vẫn còn thì giờ đến thăm Mini. Một người khác rất có thể nghi ngờ lão có mưu toan gì đấy, vì khi không tới được buổi sáng, lão cũng tới vào buổi chiều.
Ngay cả tôi, đôi khi cũng thấy chột dạ chút đỉnh lúc bắt gặp bóng người to lớn ấy đứng trong góc phòng của tôi. Nhưng khi Mini hớn hở reo lên "ông Cabul, ông Cabul" và đôi bạn khởi sự những trò đùa thường lệ, thì tôi lại yên tâm ngay.
Một buổi sáng vài ngày trước khi lão về nhà, tôi đang chữa lại bản thảo trong phòng viết. Trời rất lạnh. Qua song cửa, ánh mặt trời chiếu vào sưởi ấm hai chân tôi. Lúc ấy vào khoảng tám giờ, những khách bộ hành đi đường đang trùm khăn lạnh. Bỗng chốc tôi nghe ngoài đường huyên náo. Nhìn ra thì thấy Rahman đang bị còng tay dẫn đi giữa hai người cảnh sát, sau lưng là một lũ trẻ tò mò. Áo quần Rahman dính đầy máu, và một trong hai cảnh sát đang cầm một con dao. Tôi vội bước ra hỏi xem có chuyện gì. Từ mỗi người một ít, tôi được biết rằng một người lối xóm đã nợ Rahman tiền mua một cái khăn quàng, nhưng lại chối, bảo không từng mua nó. Trong lúc cãi vã, Rahman đã đánh người kia. Bấy giờ , trong cơn tức giận, phạm nhân chửi rủa đối phương đủ điều. Và điều tệ nhất đã xảy ra. Nhưng bỗng chốc từ hiên nhà tôi, Mini đã xuất hiện với tiếng reo thường lệ "Ông Cabul, ông Cabul". Gương mặt người Cabul rạng rỡ lên khi nhìn thấy cô bé. Hôm nay lão không mang chiếc bị, nên cô bé không thể nói về con voi với lão. Bởi thế cô hỏi sang câu thứ hai:
- Ông về nhà ông nhạc ấy à ?
Rahman cười lớn bảo:
- Chính thế, bé ơi !
Rồi thấy câu trả lời không làm cô bé thích thú, lão đưa hai bàn tay bị còng lên:
- A ! Đáng lẽ tôi đánh cho vỡ mặt ông nhạc, nhưng tay tôi bị còng rồi.
Bị kết tội cố ý giết người, Rahman ở tù nhiều năm. Thời gian trôi nhanh, Rahman đã bị quên lãng. Công việc thường ngày trong chỗ ở thường ngày vẫn tiếp diễn, nên chúng tôi không bao giờ nghĩ đến một người thượng du nghèo khó đang chịu tù tội trong ngục thất. Cả đến cô bé Mini cũng đã quên mất người bạn cũ của nàng. Càng lớn, nàng càng có nhiều mối quan hệ với bạn gái, và không còn vào phòng làm việc của tôi như trước. Bởi thế tôi rất hiếm dịp nói chuyện với con.
Nhiều năm trôi qua, lại một mùa thu trở về. Chúng tôi đang sửa soạn hôn lễ cho cô gái Mini của chúng tôi. Đám cưới sẽ cử hành trong một dịp lễ. Với Mini, về nhà chồng, có nghĩa là ánh sáng của ngôi nhà cũng sẽ đi theo, để lại cha nàng trong bóng tối.
Buổi mai ấy thật tươi sáng. Sau những ngày mưa, không trung như đã được rửa sạch và ánh sáng mặt trời trông như ánh vàng ròng. Những tường gạch cũ kỹ ngoài đường phố cũng sáng lên dưới ánh nắng trong vắt. Từ rạng đông, những hồi còi đã vang lên báo hiệu hôn lễ. Mỗi hồi còi làm cho tim tôi rộn ràng muôn mối, đồng thời cũng làm tăng nỗi đau buồn của tôi trước cảnh chia ly. Mini sẽ về nhà chồng đêm ấy. Trong sân, lọng che rợp đất. Những đèn lồng và lục lạc được treo khắp các phòng và hiên nhà. Khắp nơi người ta vội vàng hối hả. Tôi đang ngồi trong phòng một mình tư lự thì bỗng một người đi vào lễ phép chào, và đứng trước mặt tôi. Đấy là Rahman, người Cabul dạo nọ. Ban đầu, tôi không nhận ra lão, vì lão không mang bị, mảng tóc dài đã được hớt cao, và vẻ cường tráng năm xưa không còn nữa. Nhưng khi lão mỉm cười, tôi lại nhận ra ngay.
- Ông về lúc nào thế, Rahman ?
Lão Rahman đáp:
- Tôi được thả tối qua.
Những lời ấy làm tôi hơi choáng. Tôi chưa bao giờ nói chuyện với một người nào từng cố ý đã thương đồng loại. Lòng tôi đau nhói khi nhớ ra điều này, vì tôi nghĩ ngày ấy sẽ tốt hơn nếu hắn ta đừng xuất hiện.
- Hôm nay nhà có việc, và tôi đang bận. Có lẽ ông có thể đến vào một dịp khác chăng ?
Lão liền quay đi, nhưng khi ra đến cửa, lão ngập ngừng bảo:
- Thưa ông, tôi có thể thăm cô bé một lát ?
Lão tin tưởng rằng Mini vẫn còn bé xíu như ngày xưa. Chắc lão mường tượng cô bé sẽ chạy ra hớn hở gọi "ông Cabul, ông Cabul" như dạo nào, và họ sẽ cười đùa với nhau như trước. Quả vậy, cũng như những ngày xưa, hôm nay lão cũng mang đến ít đậu phụng và nho khô gói kỹ trong bọc giấy. Những thứ ấy không biết làm thế nào lão kiếm được trong lúc mới ở tù về.
Tôi lặp lại:
- Nhà có việc, ông không thể gặp ai hôm nay cả.
Lão sa sầm nét mặt, và nhìn tôi với vẻ thèm muốn số phận của tôi, đoạn nói một lời chúc tụng rồi đi ra. Tôi hơi thương hại, muốn gọi lão trở vào. Nhưng lão đã tự ý quay trở lại, đến cạnh tôi và nói:
- Thưa ông, tôi đã đem lại chút quà này biếu cô bé. Ông có thể trao lại dùm tôi ?
Tôi nhận gói quà, định trả tiền, nhưng ông ngăn lại:
- Ông thật quý hoá. Xin ông hãy nhớ đến tôi là đủ. Đừng cho tôi tiền. Ông có một cô con gái. Tôi cũng có một bé gái giống như thế ở quê nhà. Tôi nhớ con tôi, nên mang quà tới cho cô bé, chứ không phải để hòng kiếm chác gì đâu.
Nói xong, lão sờ tay vào túi trong, lấy ra một mảnh giấy dơ dáy, mở ra vuốt thật thẳng bằng cả hai tay trên mặt bàn. Mảnh giấy in hình một bàn tay nhỏ xíu. Không phải một bức ảnh, hay bức hoạ, mà chỉ là dấu mực in một tay bé con trên tờ giấy nhàu nát. Hình bàn tay của con gái lão, lão đã luôn mang theo bên trái tim mình, từ khi lão đến xứ này bán hàng rong năm này qua năm khác.
Mắt tôi ướt đẫm. Tôi quên rằng lão là một người thượng du nghèo khó, còn tôi?. Ồ không, tôi có gì hơn lão ? Lão cũng là một người cha.
Bàn tay in của cô bé con lão ở vùng thượng du quê nhà xa xăm của lão, nhắc tôi nhớ đến con tôi. Tôi cho gọi ngay Mini vào. Cô bé đang mặc chiếc áo cưới bằng lụa đỏ, trang sức kiểu cô dâu, rụt rè tiến đến bên tôi. Người Cabul dường như kinh ngạc trước sự xuất hiện này. Lão không thể làm sống lại tình bạn ngày trước. Cuối cùng lão mỉm cười:
- Cô bé, có phải cô sắp về nhà ông nhạc đấy không ?
Bây giờ thì Mini đã hiểu nghĩa danh từ "ông nhạc", nên không trả lời, đỏ mặt đứng trước lão, với vẻ e lệ của cô dâu mới. Tôi nhớ cái ngày họ gặp nhau lần đầu, và lòng tôi se lại. Khi con tôi trở vào nhà trong, Rahman thở dài buồn bả, ngồi phịch trên sàn nhà. Có lẽ lão bỗng nhớ rằng con gái lão cũng phải lớn lên nhiều, torng thời gian lão xa quê. Lão sẽ phải làm quen với cô bé trở lại. Chắc chắn lão không còn gặp lại một cô bé như ngày lão từ giã ra đi. Ngoài ra, biết đâu lại không có bao nhiêu chuyện xảy đến cho nàng sau mười mấy năm xa cách.
Tiếng còi lại vang lên, ánh mặt trời dịu của mùa thu lan khắp không trung, Rahman ngồi trên mảnh đất này mà tưởng như thấy trước mặt một miền núi khô cằn của quê hương. Tôi lấy ra một xấp bạc, và bảo:
- Rahman, hãy về quê với con gái ông đi. Cầu nguyện cho cuộc hạnh ngộ của cha con ông sẽ đem lại cho con gái tôi nhiều may mắn !Sau khi biếu lão món tiền, tôi đã giảm bớt nhiều lễ lạc, như không thể bắt điện, cũng không thể mướn ban nhạc giúp vui, và điều này làm nhiều bà thất vọng. Nhưng với tôi, buổi hôn lễ thật rực rỡ hơn lên, khi nghĩ rằng ở miền đất xa xăm kia, có một người cha biệt tích tha phương đang được trở về gặp lại đứa con gái dấu yêu.".
( Truyện ngắn Rabindranath Tagore).
Rabindranath Tagore [1861-1941]
Thích Nữ Trí Hải chuyển ngữ
" Chuyện kể rằng có một nhà văn trưởng giả của xứ Ấn Độ mỗi ngày ông thường ngồi yên lặng viết bài. Cô con gái nhỏ 5 tuổi của ông, bé tên Mini, thường ra vào chuyện trò với cha, cô bé cô đơn chỉ quanh quẩn trong gia đình với cha mẹ. Bà mẹ tính vốn bảo thủ hơn, không muốn con bà chạy ra ngoài nhà, vì ngoài kia có những phần tử xấu, như người bệnh hoạn, phong cùi, ăn xin, ăn cướp giật, bán hàng rong,... Do vậy cô bé chỉ quanh quẩn bên bàn làm việc của người cha. Cô bé rất lanh miệng, mồm nói chuyện liên hồi, hỏi ông đủ điều, khiến những ý tưởng văn chương của ông bị gián đoạn, những lúc ấy ông đuổi cô bé ra ngoài phòng.
Rồi một hôm có người bán hàng rong, người miền thượng du vùng Cabul, ông tên Rahman, xách theo bị hàng vào nhà ông nhà văn ngỏ lời xin bán hàng, cô bé Mini thấy ông Rahman đầu tóc bù xù, y phục dơ dáy như ông kẹ, Mini nép sát vào người cha lén nhìn ông già hàng rong người Cabul trong sợ sệt. Mini thượng gọi Rahman là ông Bộc, vì dáng ông như kẻ ăn xin. Ông nhà văn mua tượng trưng ít đồ để tống khứ lão Cabul ra khỏi nhà.Hãy nghe ông nhà văn kể về chuyện con gái của ông:
"Tôi nghĩ suốt đời cô bé đã không phí một phút giây nào im lặng. Mẹ nó thường không hài lòng về điều ấy, và thường ngăn cô lại, nhưng tôi thì không. Với Mini, im lặng là chuyện bất thường, và tôi không thể chịu đựng lâu. Bởi thế, câu chuyện giữa tôi và cô bé luôn luôn sinh động. Chẳng hạn một buổi sáng, khi tôi đang viết dở một chương tiểu thuyết thì cô bé lẻn vào, cầm lấy tay tôi mà nói:
- Cha ! Lão bộc gọi con con chó là con muông. Lão không biết gì cả, phải không cha ?
Tôi chưa kịp giảng giải, thì cô bé đã chuyển sang một vấn đề khác.
- Cha nghĩ sao, cha ? Bộc nói có con voi trong những đám mây, vòi nó phun nước, và thế là trời mưa. Có phải vậy không cha ?
Trong khi tôi đang tìm cách trả lời câu này, bé đã hỏi một câu khác:
- Cha ! Mẹ và cha bà con ra sao nhỉ ?
Tôi cố lập nghiêm bảo:
- Ra chơi với Bộc đi, Mini. Cha đang bận.
Cửa sổ phòng tôi trông ra đường. Cô bé đã ngồi xuống dưới chân tôi, cạnh bàn viết và đang chơi một mình. Tôi đang suy nghĩ rất lung để viết. Bỗng cô bé Mini vùng chạy lại cửa và reo lên:
- Ông Cabul, ông Cabul !
Và quả thế, ngoài đường dưới kia, một người đàn ông miền Cabul đang tiến bước. Y mặc bộ quần áo trông có vẻ nghèo nàn và dơ dáy, buộc một thắt lưng dài, lưng mang chiếc bị, tay cầm những hộp nho khô. Không biết cô bé nghĩ gì khi thấy người này, nhưng cô bắt đầu gọi ông thật lớn. Ngay lúc ấy lão ta quay lại và nhìn lên cô bé.
Cô bé thấy vậy thất kinh hồn vía, chạy bay đến nấp bên mẹ. Cô tin chắc thế nào trong chiếc bị mà lão đang mang cũng có hai ba đứa trẻ con như cô. Người hàng rong ấy đã vào đến cửa và mỉm cười chào tôi. Phản ứng đầu tiên của tôi là mua một món gì đó, vì Mini đã gọi y vào nhà. Tôi mua ít vật dụng, và chúng tôi khởi sự nói chút đỉnh chuyện chính trị. Khi sắp từ giã, bỗng hắn hỏi:
- Còn cô bé đâu rồi, thưa ông ?
Nghĩ rằng nên làm cho Mini hết sợ hão huyền, tôi cho đem cô bé ra. Cô đứng bên ghế tôi, nhìn chòng chọc vào người Cabul cùng chiếc bị. Y biếu cô cả đậu phụng và nho khô, nhưng cô nhất định không để bị dụ dỗ. Cô càng bám riết lấy tôi và càng nghi ngờ lão thêm.
Đấy là cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa lão Cabul và cô bé. Tuy nhiên, vài hôm sau, khi đi ra có tí việc, tôi giật mình thấy Mini ngồi trên chiếc ghế nhỏ cạnh cửa ra vào, đang cười nói với lão Cabul ngồi dưới chân. Suốt đời, cô chưa bao giờ được ai ngoài cha cô, đã nghe cô một cách chăm chú như vậy. Cái túi áo của cô đã đầy ắp đậu phụng và nho khô của người khách lạ. "Sao ông cho nó làm gì thế?", tôi nói, vừa rút tiền trả cho lão. Ông thản nhiên nhận tiền cho vào túi.
Một giờ sau trở về, tôi mới thấy tai hại của đồng bạc tôi đưa ra. Người Cabul đã đưa cho Mini, và khi mẹ nó thấy đồng bạc, bèn vồ lấy cô bé:
- Con lấy đồng bạc ở đâu, bé ?
- Ông Cabul cho con ! Mini hớn hở đáp.
- Ông Cabul cho con ! Mẹ nó thét lên - Mini, sao dám lấy bạc hở :
Vừa lúc ấy tôi đi vào cứu cô bé thoát nạn bị đòn. Tôi tiếp tục điều tra về đôi bạn. Tôi khám phá đấy không phải lần đầu họ gặp nhau. Người Cabul đã đánh tan sự sợ hãi của cô bé bằng cách đút lót thật nhiều đậu phụng và nho khô. Đến nay hai bên đã thành đôi bạn thiết. Họ có nhiều trò đùa mà họ rất khoái. Mini thường ngồi trước lão Cabul, nhìn xuống vóc dạng khổng lồ ấy với vẻ đường bệ của một bà chủ tí hon, khuôn mặt cười lên rạng rỡ, và cô hỏi:
- Ông Cabul, ông Cabul, ông đựng cái gì trong bị ấy ?
Và ông lão sẽ trả lời bằng giọng mũi của người thượng du:
- Một con voi !
Không có gì đáng tức cười lắm, vậy mà họ hoan hỉ làm sao. Và riêng tôi, cuộc chuyện trò giữa một đứa trẻ với người lớn luôn có vẻ gì đó rất quyến rũ.
Rồi người Cabul, để khỏi thua bạn, bắt đầu hỏi lại cô bé:
- Còn cô, này cô bé, bao giờ thì cô về nhà ông nhạc ?
Hầu hết các cô bé Ấn Độ đều sớm nghe danh từ ấy, nhưng chúng tôi thì không bao giờ nói những chuyện như thế với con gái, cho nên trước câu hỏi ấy, cô hơi bối rối. Nhưng cô không muốn để lộ sự lúng túng của mình, và đã hỏi lại:
- Còn ông có về đấy không ?
Đối với giai cấp người Cabul này, thì từ ngữ về nhà ông nhạc lại có nghĩa là nhà tù, nơi họ được ăn ở miễn phí. Người ấy bèn trả lời:
- Ô, tôi sẽ đánh vỡ mặt ông nhạc ra !
Vừa nói lão vừa nắm tay hăm doạ một viên cảnh sát vô hình. Mini nhíu mày, rồi cười lên như nắc nẻ. Lão cũng cười theo phụ hoạ.
Đấy là vào những buổi sáng đầu thu, mùa các vua chúa ngày xưa lên đường viễn chinh dẹp giặc. Còn tôi không rời khỏi góc nhà quê hương, nhưng vẫn để tâm hồn phiêu du khắp chân trời góc bể. Mỗi khi nghe địa danh một nời nào, hồn tôi đã vươn tới chỗ ấy, và bóng một người xứ khác đến trên đường cũng khiến tôi dệt nên những giấc mơ xa xăm về quê hương của anh ta ở cuối chân trời, nghĩ đến những cuộc đời giang hồ lãng tử. Những xứ lạ hiện lên trong trí tôi càng sống động, có lẽ vì cuộc sống hiện tại của tôi quá giống với cỏ cây. Tiếng gọi viễn du réo rắc trong tôi, tựa hồ tiếng sóng triều gào thét. Bởi thế, trông thấy người Cabul này, trí tôi liên tưởn ngay đến những vùng núi non cằn cỗi trên cao, chen chúc với mây trời. Tôi mường tượng những đoàn lạc đà chở hàng đi trên sa mạc, những thương gia lưng đeo vũ khí hộ thân đang tiến về hướng bình nguyên. Tôi thấy và thấy trong trí tưởng ...
Nhưng giữa lúc ấy, luôn luôn mẹ Mini sẽ xen vào, tha thiết dặn tôi phải "coi chừng lão ấy". Bà rất dè dặt mỗi khi nghe tiếng huyên náo ngoài đường, hay thấy người vào nhà, và luôn đi đến kết luận, một là kẻ cướp, hai là kẻ say, hoặc rắn hổ mang, bệnh sốt rét, phong cùi. Sau bao nhiêu năm kinh nghiệm giữa trường đời, bà vẫn chưa thắng lướt được nỗi sợ hãi triền miên trong lòng bà. Bởi thế, bà luôn luôn nghi ngờ về người Cabul, và thường van nài tôi phải coi chừng lão ấy. Nếu tôi cố xua đuổi nỗi sợ hãi vô căn cứ của bà bằng cách cười lớn, thì bà nghiêm mặt hỏi với dáng điệu rất trịnh trọng:
- Thế trẻ con không bao giờ bị bắt cóc ấy à ? Thế không phải ở Cabul còn có bán nô lệ ư ? Một người đàn ông to lớn bắt một đứa trẻ xíu không được hay sao ?
Tôi nói, không phải là không được, nhưng không lẽ nào có chuyện như thế. Tuy thế bà vẫn lo sợ. Nhưng vì nỗi sợ hãi ấy thật bâng quơ, nên không lý gì để cấm đoán lão vào nhà. Sự thân thiện giữa đôi bạn - một khổng lồ, một chim chích - vì thế vẫn tiếp tục không bị ngăn cản. Hàng năm vào giữa tháng giêng, Rahman - tên người Cabul ấy, thường về xứ một lần, và khi sắp về, y thường rất bận rộn đi các nhà để thâu tiền nợ. Năm nay, tuy vậy ông vẫn còn thì giờ đến thăm Mini. Một người khác rất có thể nghi ngờ lão có mưu toan gì đấy, vì khi không tới được buổi sáng, lão cũng tới vào buổi chiều.
Ngay cả tôi, đôi khi cũng thấy chột dạ chút đỉnh lúc bắt gặp bóng người to lớn ấy đứng trong góc phòng của tôi. Nhưng khi Mini hớn hở reo lên "ông Cabul, ông Cabul" và đôi bạn khởi sự những trò đùa thường lệ, thì tôi lại yên tâm ngay.
Một buổi sáng vài ngày trước khi lão về nhà, tôi đang chữa lại bản thảo trong phòng viết. Trời rất lạnh. Qua song cửa, ánh mặt trời chiếu vào sưởi ấm hai chân tôi. Lúc ấy vào khoảng tám giờ, những khách bộ hành đi đường đang trùm khăn lạnh. Bỗng chốc tôi nghe ngoài đường huyên náo. Nhìn ra thì thấy Rahman đang bị còng tay dẫn đi giữa hai người cảnh sát, sau lưng là một lũ trẻ tò mò. Áo quần Rahman dính đầy máu, và một trong hai cảnh sát đang cầm một con dao. Tôi vội bước ra hỏi xem có chuyện gì. Từ mỗi người một ít, tôi được biết rằng một người lối xóm đã nợ Rahman tiền mua một cái khăn quàng, nhưng lại chối, bảo không từng mua nó. Trong lúc cãi vã, Rahman đã đánh người kia. Bấy giờ , trong cơn tức giận, phạm nhân chửi rủa đối phương đủ điều. Và điều tệ nhất đã xảy ra. Nhưng bỗng chốc từ hiên nhà tôi, Mini đã xuất hiện với tiếng reo thường lệ "Ông Cabul, ông Cabul". Gương mặt người Cabul rạng rỡ lên khi nhìn thấy cô bé. Hôm nay lão không mang chiếc bị, nên cô bé không thể nói về con voi với lão. Bởi thế cô hỏi sang câu thứ hai:
- Ông về nhà ông nhạc ấy à ?
Rahman cười lớn bảo:
- Chính thế, bé ơi !
Rồi thấy câu trả lời không làm cô bé thích thú, lão đưa hai bàn tay bị còng lên:
- A ! Đáng lẽ tôi đánh cho vỡ mặt ông nhạc, nhưng tay tôi bị còng rồi.
Bị kết tội cố ý giết người, Rahman ở tù nhiều năm. Thời gian trôi nhanh, Rahman đã bị quên lãng. Công việc thường ngày trong chỗ ở thường ngày vẫn tiếp diễn, nên chúng tôi không bao giờ nghĩ đến một người thượng du nghèo khó đang chịu tù tội trong ngục thất. Cả đến cô bé Mini cũng đã quên mất người bạn cũ của nàng. Càng lớn, nàng càng có nhiều mối quan hệ với bạn gái, và không còn vào phòng làm việc của tôi như trước. Bởi thế tôi rất hiếm dịp nói chuyện với con.
Nhiều năm trôi qua, lại một mùa thu trở về. Chúng tôi đang sửa soạn hôn lễ cho cô gái Mini của chúng tôi. Đám cưới sẽ cử hành trong một dịp lễ. Với Mini, về nhà chồng, có nghĩa là ánh sáng của ngôi nhà cũng sẽ đi theo, để lại cha nàng trong bóng tối.
Buổi mai ấy thật tươi sáng. Sau những ngày mưa, không trung như đã được rửa sạch và ánh sáng mặt trời trông như ánh vàng ròng. Những tường gạch cũ kỹ ngoài đường phố cũng sáng lên dưới ánh nắng trong vắt. Từ rạng đông, những hồi còi đã vang lên báo hiệu hôn lễ. Mỗi hồi còi làm cho tim tôi rộn ràng muôn mối, đồng thời cũng làm tăng nỗi đau buồn của tôi trước cảnh chia ly. Mini sẽ về nhà chồng đêm ấy. Trong sân, lọng che rợp đất. Những đèn lồng và lục lạc được treo khắp các phòng và hiên nhà. Khắp nơi người ta vội vàng hối hả. Tôi đang ngồi trong phòng một mình tư lự thì bỗng một người đi vào lễ phép chào, và đứng trước mặt tôi. Đấy là Rahman, người Cabul dạo nọ. Ban đầu, tôi không nhận ra lão, vì lão không mang bị, mảng tóc dài đã được hớt cao, và vẻ cường tráng năm xưa không còn nữa. Nhưng khi lão mỉm cười, tôi lại nhận ra ngay.
- Ông về lúc nào thế, Rahman ?
Lão Rahman đáp:
- Tôi được thả tối qua.
Những lời ấy làm tôi hơi choáng. Tôi chưa bao giờ nói chuyện với một người nào từng cố ý đã thương đồng loại. Lòng tôi đau nhói khi nhớ ra điều này, vì tôi nghĩ ngày ấy sẽ tốt hơn nếu hắn ta đừng xuất hiện.
- Hôm nay nhà có việc, và tôi đang bận. Có lẽ ông có thể đến vào một dịp khác chăng ?
Lão liền quay đi, nhưng khi ra đến cửa, lão ngập ngừng bảo:
- Thưa ông, tôi có thể thăm cô bé một lát ?
Lão tin tưởng rằng Mini vẫn còn bé xíu như ngày xưa. Chắc lão mường tượng cô bé sẽ chạy ra hớn hở gọi "ông Cabul, ông Cabul" như dạo nào, và họ sẽ cười đùa với nhau như trước. Quả vậy, cũng như những ngày xưa, hôm nay lão cũng mang đến ít đậu phụng và nho khô gói kỹ trong bọc giấy. Những thứ ấy không biết làm thế nào lão kiếm được trong lúc mới ở tù về.
Tôi lặp lại:
- Nhà có việc, ông không thể gặp ai hôm nay cả.
Lão sa sầm nét mặt, và nhìn tôi với vẻ thèm muốn số phận của tôi, đoạn nói một lời chúc tụng rồi đi ra. Tôi hơi thương hại, muốn gọi lão trở vào. Nhưng lão đã tự ý quay trở lại, đến cạnh tôi và nói:
- Thưa ông, tôi đã đem lại chút quà này biếu cô bé. Ông có thể trao lại dùm tôi ?
Tôi nhận gói quà, định trả tiền, nhưng ông ngăn lại:
- Ông thật quý hoá. Xin ông hãy nhớ đến tôi là đủ. Đừng cho tôi tiền. Ông có một cô con gái. Tôi cũng có một bé gái giống như thế ở quê nhà. Tôi nhớ con tôi, nên mang quà tới cho cô bé, chứ không phải để hòng kiếm chác gì đâu.
Nói xong, lão sờ tay vào túi trong, lấy ra một mảnh giấy dơ dáy, mở ra vuốt thật thẳng bằng cả hai tay trên mặt bàn. Mảnh giấy in hình một bàn tay nhỏ xíu. Không phải một bức ảnh, hay bức hoạ, mà chỉ là dấu mực in một tay bé con trên tờ giấy nhàu nát. Hình bàn tay của con gái lão, lão đã luôn mang theo bên trái tim mình, từ khi lão đến xứ này bán hàng rong năm này qua năm khác.
Mắt tôi ướt đẫm. Tôi quên rằng lão là một người thượng du nghèo khó, còn tôi?. Ồ không, tôi có gì hơn lão ? Lão cũng là một người cha.
Bàn tay in của cô bé con lão ở vùng thượng du quê nhà xa xăm của lão, nhắc tôi nhớ đến con tôi. Tôi cho gọi ngay Mini vào. Cô bé đang mặc chiếc áo cưới bằng lụa đỏ, trang sức kiểu cô dâu, rụt rè tiến đến bên tôi. Người Cabul dường như kinh ngạc trước sự xuất hiện này. Lão không thể làm sống lại tình bạn ngày trước. Cuối cùng lão mỉm cười:
- Cô bé, có phải cô sắp về nhà ông nhạc đấy không ?
Bây giờ thì Mini đã hiểu nghĩa danh từ "ông nhạc", nên không trả lời, đỏ mặt đứng trước lão, với vẻ e lệ của cô dâu mới. Tôi nhớ cái ngày họ gặp nhau lần đầu, và lòng tôi se lại. Khi con tôi trở vào nhà trong, Rahman thở dài buồn bả, ngồi phịch trên sàn nhà. Có lẽ lão bỗng nhớ rằng con gái lão cũng phải lớn lên nhiều, torng thời gian lão xa quê. Lão sẽ phải làm quen với cô bé trở lại. Chắc chắn lão không còn gặp lại một cô bé như ngày lão từ giã ra đi. Ngoài ra, biết đâu lại không có bao nhiêu chuyện xảy đến cho nàng sau mười mấy năm xa cách.
Tiếng còi lại vang lên, ánh mặt trời dịu của mùa thu lan khắp không trung, Rahman ngồi trên mảnh đất này mà tưởng như thấy trước mặt một miền núi khô cằn của quê hương. Tôi lấy ra một xấp bạc, và bảo:
- Rahman, hãy về quê với con gái ông đi. Cầu nguyện cho cuộc hạnh ngộ của cha con ông sẽ đem lại cho con gái tôi nhiều may mắn !Sau khi biếu lão món tiền, tôi đã giảm bớt nhiều lễ lạc, như không thể bắt điện, cũng không thể mướn ban nhạc giúp vui, và điều này làm nhiều bà thất vọng. Nhưng với tôi, buổi hôn lễ thật rực rỡ hơn lên, khi nghĩ rằng ở miền đất xa xăm kia, có một người cha biệt tích tha phương đang được trở về gặp lại đứa con gái dấu yêu.".
( Truyện ngắn Rabindranath Tagore).
Chiến tranh đi qua những truyện ngắn của Y Uyên
Chiến tranh đi qua những truyện ngắn của Y Uyên
Nguyễn Lệ Uyên
2.07.2010
"Không có nỗi ngây ngất nào rực rỡ như nỗi ngây ngất chiến tranh,
phía sau có lửa, phía trước có máu của mình"
(Y Uyên, Mùa Xuân Qua Đèo)
Trên tờ tuần báo Nghệ Thuật, số dầu tiên ra ngày 1-10-1965, Mai Thảo đã dựng lên một tuyên ngôn của những người cầm bút (trong nhóm) về thái độ của nhà văn trước thực tế của đất nước, bằng một cái nhan rất kêu: “Văn học Nghệ thuật trong chiến tranh hiện tại và hoà bình tương lai” bằng thái độ chọn lựa rạch ròi, bằng trách nhiệm và bổn phận trước quốc gia, dân tộc, lịch sử mà nghe cứ như lời rao giảng ngày tận thế với cơn đại hồng thuỷ và chiếc thuyền của Noé: “Nói đến đời sống, cái chết, chiến tranh và hoà bình, lửa máu và nước mắt, nhân phẩm và danh dự, nói đến hạnh phúc, bất công áp bức, ý thức, thượng đế, thân phận con người, triết thuyết, hành động, thực tế và trí tuệ, cá nhân và toàn thể, nói ở đâu bằng ở Việt Nam không nói, nói ở đâu bằng Việt Nam đau khổ, nói ở đâu bằng Việt Nam treo căng trên từng từng bất hạnh, nói ở đâu bằng Việt Nam có quyền nói đến trước tiên? Văn học nghệ thuật chúng ta phải nói lên bằng được sự thực vĩ đại hiện hình trên Việt Nam quằn quại. Vai trò của Văn học nghệ thuật hiện nay do đó là phải đi vào thực tế chiến tranh, boi thực tế ấy là một sự thực…” (SĐD). Một tuyên ngôn như vậy, trên một tờ báo văn nghệ như vậy, trong thời khắc chiến tranh bắt đầu lan nhanh như một vết dầu bẩn trên phần đất này một cách ồ ạt, khốc liệt có vẻ như thừa, như thiếu hơi, đuối sức?
Trước đó, trước khi nhóm Sáng Tạo hụt hơi trì kéo những trường phái siêu thực, hiện sinh vào văn học miền Nam Việt Nam, thì đã có rất nhiều nhiều người cầm bút đã chọn lựa một thái độ, một trách nhiệm trước cuộc chiến rồi, tác phẩm của họ ít nhiều đã vẽ lên bộ mặt xấu xa, kinh tởm của chiến tranh rồi!
Và như vậy, các nhà văn, khi viết về chiến tranh Việt Nam, mỗi người chọn một đề tài khác nhau, bối cảnh khác nhau, các nhân vật khác nhau, không ai giống ai; muôn màu muôn vẻ để, người đọc có thể nhìn thấy, một cách trọn vẹn, bộ mặt gớm ghiếc của cuộc chiến tranh phi nhân, phi nghĩa này, một cuộc chiến khởi đi từ những mù quáng, căm thù… đẩy cả dân tộc vào thảm cảnh đau thương nhất trong lịch sử.
Ở Tiền Đồn, Thế Uyên nhìn chiến tranh như là một sự phi lý được khắc hoạ một cách kinh hoàng nhất, tởm lợm nhất qua thân xác của người phụ nữ bị kẹp giữa hai lằn ranh của thù hận: ban ngày là sự gần gũi vội vã của người chồng và ban đêm là sự “hì hục cuồng nhiệt” của anh du kích. Tất cả đều diễn ra trên thân xác của người phụ nữ như biểu tượng nhục nhằn của lịch sử, dân tộc. Chị không có sự chọn lựa nào khác giữa vùng xôi đậu này, ở đó Việt Cộng và Quốc Gia thay phiên nhau “cai trị” những người dân hớt hải chạy, hớt hải về. Nói cho đúng, chị không có quyền lựa chọn. Sự chọn lựa đã được sắp đặt sẵn, để thân xác chị luôn bị dày xéo một cách tàn nhẫn từ hai phía. Người đàn bà tên Ba, nhân vật chính trong Tiền Đồn là biểu tượng của sự nhục nhã nhất mà cả dân tộc phải gánh chịu trên vai. Thật kinh khủng!
Với Nhã Ca, bộ mặt chiến tranh cũng trở nên bi thảm không kém đối với những người dân sống “bình yên” trong thành phố. Họ còn trẻ, và là những trí thức đang đứng trước những chọn lựa, những tái độ phải bày tỏ bằng những hành vi cụ thể. Chất bi thảm của thế hệ trẻ là sự lắng nghe, nhìn thấy một cách mơ hồ chiến tranh đang diễn ra đâu đó ngoài rìa thành phố với những cảm giác đầy sợ hãi phập phồng trong Đêm Dậy Thì, Đêm nghe Tiếng Đại Bác. Đến Phan Nhật Nam, Trần Hoài Thư… thì chiến tranh là sự đụng mặt gần sát, là những cuộc hành quân, bao vây, phục kích, là súng nổ, người chết, dân lành gồng gánh trong nước mắt, hối hả chạy trên bờ ruộng hẹp, lo sợ những viên đạn cắm phập vào tim, nhưng không thể không ngoái nhìn lại căn nhà tranh vách đất chẳng đáng giá là bao (nhưng chứa đựng biết bao tình cảm thiêng liêng) đang bốc cháy ngùn ngụt phía sau. Chiến tranh trong tác phẩm của họ là sự nhìn thấy rõ ràng, rất cụ thể: súng nổ, người chết. Những người tham gia các trận đánh là những người bạn, người lính thân yêu bên cạnh mình, từ từ, lần lượt ngã xuống… Và không chỉ có dùng súng đạn để đánh nhau, thậm chí họ còn sử dụng cả lời nói để hạ gục đối phương: “Staline của Nga chết, cha Tố Hữu của ngoài mầy làm thơ: “ông Staline ơi… ông Staline ơi… Thương cha thương một, thương ông thương mười”. Anh Kennedy, Kennedy là Tổng Thống thứ 35 của Mỹ, đẹp trai, con nhà giàu, giỏi, chết, mầy thấy có thằng làm báo miền Nam nào viết bài thơ khóc cái anh Kennedy này chưa? Và sau cùng hết, mầy chỉ làm được một việc này với tao thì tao gọi mầy là thánh tao chịu nghe hết lời của mầy, tao tin mầy là “dân chủ xã hội”. Bây giờ tao hô “đả đảo đế quốc tư bản Mỹ”, mầy hô:”đả đảo đế quốc Trung Hoa đỏ, đả đảo đế quốc Liên Sô”. Đấy mầy và tao cùng hô một lần, tao đếm 1,2,3… thì bắt đầu. Tôi hô: 1,2,3… Nghe trong máy có tiếng rè rè của tầng số bị phá…” (Phan Nhật Nam, Mùa Hè Đỏ Lửa trg 136, NXB Sáng Tạo, SG 1972). Đó là chưa kể nỗi xót xa, đau đớn đến tận cùng khi đồng đội bị thương, khó lòng vượt qua cái chết đang cận kề, đã van nài nhân vật xưng tôi (THT) “mày hãy bắn tao đi, mày hãy bắn chết tao đi!”. Mà đâu chỉ có một mình Trần Hoài Thư mới chứng kiến cảnh đau lòng, xé nát tim gan anh như vây? Hầu hết các nhà văn quân đội khác tôi đã đọc tác phẩm của họ, ít nhiều đều ghi lại những cảnh hãi hùng đó!
Những người trong cuộc lẫn những người dân vô tội đứng bên ngoài hay trong cuộc chiến tương tàn, đều chung một số phận bi hài như nhau.
Nhưng với Y Uyên thì khác, nói như Lê Văn Chính (SBT): “Trước ngày nhập ngũ, anh đã viết nhiều truyện thời chiến. Lúc đó anh còn là nhà giáo, nên truyện thường mang nặng tính chất tưởng tượng hoặc dựa theo những kinh nghiệm chiến tranh mà anh được nghe kể lại” (Núi Tà Dôn và dấu Chân Uy, đăng trong số này). Đúng, khi đọc một tác phẩm ta có quyền lựa chọn, có quyền bình phẩm theo ý thích của riêng ta. Đó là quyền của người đọc. Riêng với nhà văn, khi viết ta viết điều ta yêu thích, điều ta cảm, ta gần gũi, ta sống với nó, hít thở với nó, chứng kiến nó diễn ra hàng ngày, thậm chí ôm nó vào lòng lăn lộn với từng giấc ngủ đầy mộng mị hãi hùng.
Y Uyên sống trong thời khắc cuộc chiến nổ ra ác liệt nhất, trên vùng đất kinh hoàng nhất. Ví dẫu rằng: nếu như anh chưa hề là nhà văn, chưa hề cầm bút thì hàng ngày anh không thể không nhìn thấy chiến tranh diễn ra ngay trước mắt anh, diễn ra một cách bình thường, lặng lẽ mà đau đớn đến nát tan cõi lòng. Với người cầm bút thì anh càng không thể đứng ngoài ngắm nhìn như kẻ bàng quang, kẻ ngoài cuộc, thậm chí là kẻ trốn chạy khỏi vòng vây chiến tranh. Tôi vẫn nhớ như in, hồi còn học Văn Khoa Sài Gòn, GS Nguyễn Văn Trung luôn tự hào về giảng khoá cho đám sinh viên năm dự bị, với cái nhan Nhà văn, người là ai, với ai? Ông đã dựa vào những phát biểu trong bài diễn văn của nhà văn A. Camus đọc tại giảng đường Viện Đại Học Upsal, Thuỵ Điển nhân dịp nhận giải Nobel văn chương năm 1957, xoay quanh cái trục trách nhiệm và thái độ của nhà văn trước cuộc sống để rao giảng cho chúng tôi, những thanh niên mới bước chân vào cổng trường Đại Học, rằng “khi một nhà văn quyết định cầm bút viết văn tức là tự nhận lấy một chức vụ trong xã hội. Từ nay, người đó (ý nói nhà văn) ra khỏi đám đông, quần chúng vô danh, trở thành một nhân vật, được thiên hạ biết đến và sẽ được khen chê ủng hộ đả đảo tùy theo lối nhìn, thái độ của họ” (Nguyễn Văn Trung, Nhà Văn, Người Là Ai, Với ai). Xin lạm nhắc lại chuyện xưa, để nhìn lại thái độ của Y Uyên và những tác phẩm của anh trước cuộc chiến khủng khiếp này!
Những truyện anh viết về chiến tranh không bao giờ có súng đạn nổ chát chúa, không có cảnh quân hai bên giương súng bắn vào nhau, vây nhau tầng tầng lớp lớp như chọn lựa cách viết của Phan Nhật Nam, Trần Hoài Thư, Thảo Trường… mà lại là những điều, những thứ bị cuộc chiến xô đẩy tới bờ vực của đổ nát tan thương, của tiếng lòng dội xé. Đó cũng là cách chọn lựa đề tài, nhân vật, bối cảnh của Dương Nghiễm Mậu, của Võ Phiến, Doãn Quốc Sỹ…
Hầu hết những truyện anh viết và “đọc được” đều bắt nguồn từ khi anh dạy học ở Tuy Hoà, một thị xã nhỏ bé của duyên hải miền Trung giữa lúc chiến tranh đổ ập xuống nửa phần đất nước một cách khốc liệt nhất. Cái thị xã tí xíu mà anh và bạn bè anh đang sống, chẳng phải là một khu phi quân sự, một vòng đai an toàn mà là một lò lửa. Đạn luôn nổ, người chết, nhà cháy, đồng khô, dân quê bồng bế nhau chạy trốn hòn tên mũi đạn, ngày Quốc gia, đêm Cộng sản giành giật nhau… Cuộc chiến rất kỳ cục, phi nhân ấy cứ thế mà diễn ra ngày này sang năm khác để người dân khốn đốn kêu lên “chiến tranh mẹ gì mà lâu dữ vậy?”. Cuộc chiến quái gở ấy không phải chỉ có anh và tôi đánh nhau, mà một bên là có sự trợ giúp công khai, một bên là lén lút nhận vũ khí, quân trang quân dụng để “giương cao ngọn cờ chính nghĩa” đã đẩy người dân vô tội xô dạt bên này hay bên nọ (cốt để tránh hòn tên mũi đạn). Không khí truyện của Y Uyên không “nhảy tọt” vào giữa chiến trường, bởi anh chưa hề là một chiến binh thực thụ, mà anh “chạy theo, áp sát vào” những xô dạt không chừng mực trong những lần chạy giặc dài ngắn để nghe, để thấy, để cảm và chia sẻ nỗi đau của họ.
Những nhân vật của anh luôn là những nông dân nghèo, lam lũ, những người bình thường nhất đang sống ở vùng xôi đậu, đêm chạy trốn nơi an toàn, ngày mò về chắt mót từng hột lúa, củ khoai, là những thầy giáo, cô giáo, những đứa trẻ ngơ ngác. Anh yêu mến tất thảy bọn họ chẳng qua vì anh quá gần gũi với họ hàng ngày, hiểu được những trớ trêu của bọn họ.
Tất cả các nhân vật nữ của Y Uyên không có ai như chị Ba trong Tiền Đồn, như chị Tư trong Người Đàn Bà Mang Thai Trên Kinh Đồng Tháp bị dày xéo, chà đạp đến tàn nhẫn, như là những biểu tượng tượng trưng cho thân phận của toàn thể mọi người dân ở phần đất bị bom đạn cày xới nát tan, phải ngửa mặt ra hứng lấy mọi tai hoạ.
Cái chất dịu dàng, thong thả, nhẫn nhục của người phụ nữ, đa phần là dân quê, lánh nạn ra thị xã. Đó là những người bình thường nhất trong xã hội được Y Uyên phác hoạ là những người trung thực, bị đẩy đưa do hoàn cảnh, chấp nhận sống trong hoàn cảnh bi đát ấy. Những Bích, những Hiền và chị Hiền là một phần của đất nước bị băm vằm bằng nhiều nhát dao oan nghiệt. Họ vì cuộc sống mà phải bỏ làng tản cư lên thị xã, phải nhắm mắt làm người phụ nữ “sạch sẽ” nhất trong thời loạn: “Một lần nghi Bích không tin mình, giấu tiền không cho mình vay, lúc hai người đang nằm ở giường, anh ta chợt nẩy ý tưởng đòi khám Bích. Bích từ chối cầm chừng. Lúc trật hai chiếc xú-chiêng xuống nửa chừng, anh ta sững sờ một lát rồi ôm Bích thật chặt, hôn Bích như một sự đánh liều để cố quên mình đang có một cơ thể bị đòi hỏi hành hạ. Sau đó anh ta nói một câu kỳ quặc nhưng hơi mất bình tĩnh “Vú Bích sáng ngời, nóng và trơn thế mà từ lâu nay nào anh có hay”… Một nửa anh bị ám ảnh bỡi bộ ngực của Bích, một nửa anh ngại, nếu tiến thêm,Bích sẽ nhoà đi như những người đàn bà anh đã gặp” (Bên Ngoài Khán Đài).
Và dẫu không “dữ dội, bi thảm” như chị Ba, chị Tư của Thế Uyên, Thảo trường nhưng những “người đàn bà có chồng lên núi mấy năm nay” của Y Uyên lại phải chịu đựng một cách khác, dơ dáy một cách khác, bi thảm một cách khác:
“-Ai đó?
Giọng Bích cố thoát ra khỏi hai hàm răng. Một cánh tay vòng lấy lưng Bích chắc nịch.
-Qua đây chớ ai.
Nghe có tiếng nói cất lên, Bích thấy đỡ sợ nhưng xúc động sợ hãi vẫn còn rung da thịt. Bích thấy kẻ ôm lưng mình là một bóng den cao lớn đã chui vào mùng từ lúc nào. Vòng tay đó thắt chặt lại. Một tờ giấy được nhét vào tay Bích.Bích chắc là một tờ giấy bạc và thấy mình bị kéo xuống khỏi giường. Bích vùng đạp mạnh vào Hiền, cố giật người thoát ra khỏi vòng tay sau lưng. Hiền nhỏm dậy hỏi:
-Chi đó?
Vòng tay tự nhiên nới rộng, mở ra. Hiền yên lặng đứng dậy, bước ra điềm nhiên:
-Ong xã đó phải không?
Bích đã hết sợ, ngồi dựa vào góc tường, ngạc nhiên.
-Ai ngủ với em trong đó?
Giọng người đàn ông hỏi uy quyền.
-Bạn em đó.
Người đàn ông im lặng một lát rồi Bích thấy Hiền như bị ôm sát.
-Bữa nay có bạn em…
-Bạn em thì sao?
Bích thấy Hiền bị nhấc bổng ra khỏi mùng, theo bước chân người đàn ông ra khỏi cửa. Một lát, bên giường chị Hiền có tiếng trở mình. Bích thấy chị rón rén bước sang giường mình. Bích hỏi:
-Chuyện gì đó chị hai?
Người chị Hiền ghé ngồi vào mùng, nhỏ giọng:
-Còn chuyện chi nữa.
-Hiền nó đi với người đàn ông đến đâu?
-Ra ngoài hiên chớ đâu.
Bích ngạc nhiên:
-Cha đó vào bằng lối nào kìa?
Mùi khế úng lại thoảng vào trong mùng. Bích nghe như có một giọng đáp từ xa:
-Nhà này có khác chi nhà ông xã” (Bên Ngoài Khán Đài)
Hình như ông xã của Y Uyên và tay du kích của Thế Uyên làm cho chiến tranh thêm đậm mùi hơn, cái “mùi khế úng” bay vào chỗ tận cùng của thánh thiện và dơ bẩn nhất của cuộc đời này?
Đó cũng là nỗi lo sợ vu vơ, những hoài nghi vu vơ ngay chính bản thân mình và cho người khác trước cuộc chiến ngày một lan rộng, dữ dội:
“Chiêu hỏi:
-Chừng nào anh vô lại SàiGòn?
Mường ngạc nhiên:
-Anh không có ý định đó.
Chiêu giận:
-Anh giấu em.
(…)
Chiêu quả quyết:
-Có tin những điều anh nói không?
-Không.
-Thực may cho anh. Chính anh cũng không hiểu phải nói gì với Chiêu.
Chiêu bật khóc. “Anh khinh em”. Mường yên lặng thấy mình ngây ngô.” (Gió Cuối Năm)
Làm sao mà Chiêu không “bật khóc” và Mường không “ngây ngô” khi sự chờ đợi của người thiếu nữ là sự chờ đợi mỏi mòn và anh Mường mới giải ngũ không thể tự định đoạt nổi số phận chính mình, huống hồ đèo bòng “thứ tình yêu mới lớn của Chiêu” ? Rồi những chị Bước (Chiều Trong Làng), Kiều (Miền Không Vết Chân Người) vẫn cứ nhẩn nha giữa những tai hoạ đang vây bủa chung quanh, giữa một vùng cát tị nạn ngui ngút những căn lều tạm bợ, ở đó hai vợ chồng một nông dân, một thợ dệt cứ lo ngay ngáy sao cho chiếc giường không kêu “rắc rắc” như chiếc giường của vợ chồng Hai Bát kê ngay bên cạnh. Đó, chiến tranh dưới ngòi bút Y Uyên nó mò sát tới chân giường của đôi vợ chồng nghèo. Rõ ràng anh không hề tưởng tượng hay nghe kể lại, mà chính anh đã “tận mắt ngắm nhìn” một cách cẩn thận để chia sẻ! Bởi hàng ngày anh đụng mặt với nó, bởi những nhân vật kia là phụ huynh của những đứa trẻ anh đang dạy dỗ, là những hàng xóm trong khu nhà trọ, ông chủ quán nấu cơm tháng…
Đến như Bão Khô, một trong số ít truyện ngắn được đánh giá là hay nhất của Y Uyên, thì không khí chiến tranh càng kinh hoàng, thê thảm hơn. Chiến tranh đang tiếp tục lởn vởn, bay nhảy trên thân thể anh lính lệch vai, trên chiếc khăn tang của người đàn bà, những tờ sấm truyền tụi học trò ngồi trong lều chợ buổi trưa, chép chuyền tay nhau, là chiếc xe đò Vạn Hưng bán đồ uống cho Mỹ, là người lính Mỹ ngủ gà gật bên thềm chợ, mấy người đàn ông ăn bánh tráng, bà chủ quán mặc áo dài đi chân đất, là hai người đàn ông mặc áo xanh của một giáo phái kỳ bí với “những lời sấm bọn học trò truyền nhau chép và họ dường như có một liên lạc vu vơ”… Những nhân vật ấy xoay quanh một ngôi chợ tồi tàn bên kia cầu, hằng ngày anh lên xuống bốn bận đi dạy học. Đâu có súng nổ, đâu có bom rơi, đâu có cảnh quân hai bên xung phong xáp lá cà? Vậy mà nó, chiến tranh hiện ra một cách tàn nhẫn trên từng lời nói, cử chỉ, ngôn ngữ của bao nhiêu con người ấy. Nó làm cho ta quay quắt một nỗi đau không cùng. Và giả dụ như những kẻ cầm đầu cuộc chiến tương tàn này, đọc Bão Khô (cùng những tác phẩm khác của những nhà văn khác), họ sẽ nghĩ gì? Sẽ đẩy cuộc chiến tới mức tồi tệ nào nữa?
Với giọng văn rất bình thản, anh đi dần vào thế giới đau thương, tan tác đó bằng những tấm bảng hiệu “Laundry number one” trước hiên quán, hoặc “Refreshment” bên hông xe ba bánh, đến khi người lính lệch vai xuất hiện trên khu chợ, hỏi thăm chiếc xe đò Vạn Hưng phủ kín tấm màn màu đỏ sặc sỡ:
“Người lính nhìn thằng bé lê trên mặt đất với cái mẹt trước mặt.
-Mầy có biết mấy người con gái bán trong xe đó không?
Thằng bé lắc đầu chỉ cho người lính thấy vùng đất bên dưới dốc ngổn ngang những vệt bánh xe.
-Làm sao thấy mà biết. Cửa xe có vải đỏ che kín, đậu dưới đó ai mà dám xuống.
-Con đĩ.
Tiếng người lính nguyền rủa giận dữ. Anh ta bỏ đi vào phí chợ”. (Bão Khô)
Người đàn bà ấy là ai, đi đâu, làm gì?:
“Nỗi sợ hãi thiệt không hình dạng. Đột ngột như cái rùng mình của một cơn say. Anh không muốn hỏi, muốn nghĩ gì cả. Anh không muốn. Người đàn bà chết thảm đó không thể là vợ anh được. Nó đang giấu mặt trong trong chiếc xe đò Vạn Hưng đó… Anh gục xuống với nỗi sợ hãi chập chờn trước mặt. Cánh tay cổ tròn vạch lên tường ngày gà khởi ấp vẫn hợp với người đàn bà gánh lúa, gánh thóc lúc chồng vắng nhà hơn. Những lời đồn đãi về vợ anh, từ trước tới giờ cuối cùng anh vẫn thấy gần lòng tin nhất. Vợ anh ngồi sau tấm màn đỏ theo lời đồn và chết lúc gánh gạo theo trí tưởng tượng mơ hồ và có lý như nhau” (sđd ).
Và người đàn bà thứ hai trong truyện này:
“Từ dưới bãi cát người đàn bà khăn tang trở lên, hai ống quần ướt và quệt đầy bụi. Người lính hỏi bà chủ quán:
-Chồng chết?
-Chết mìn hôm trước đó. Một cái xe Lam, một cái xe nhà binh, chết sáu mươi mấy người.
-Kiếm chi dưới đó?
-Cánh tay có mang cà rá của chồng. Lúc điên, lúc tỉnh, lúc dại, lúc khôn, biết sao mà tin.
Người lính lầm bầm chửi tục, trề môi:
-Chồng chết lấy chống khác, mắc mớ chi mà điên” (sđd)
Và kết thúc truyện:
“Bằng những bước đi dài và nhẹ, chị ta khom người từ từ vào sâu lòng chợ, nơi có một con chó không chạy vào lều, ngồi cúi đầu gậm một khúc xương. Người lính say mửa một hồi lại gục xuống mặt bàn, người như chúi về một phía.
(…) Có một giọng đàn bà lẫn với tiếng gió ở sau tấm liếp như tiếng mẹ thằng bé. Nó nhìn lên mặt lộ. Trên con đường lổn nhổn đá xanh dẫn lên trên đó, người đàn bà có khăn tang nhẩy qua nhẩy lại, rượt theo một con chó ngậm trong mồm một khúc xương” (sđd ).
Cái khúc xương mà con chó ngậm trong mồm có phải là cánh tay người chồng chị đàn bà mang khăn tang bị mìn nổ banh xác? Hay đó là khúc xương người phụ nữ có cổ tay tròn ghi ngày gà khởi ấp trên tường (cũng bị mìn nổ) chết đâu đó? Chị ta là nhân vật chỉ xuất hiện trong truyện qua những dòng suy nghĩ của anh lính lệch vai, chồng chị. Rõ ràng anh ta không mong chị chết, nếu đổi cái chết ấy với chuyện chị ngồi trong chiếc xe đò Vạn Hưng vẫn hơn. Nỗi nhục nhằn buộc phải chứng kiến cảnh nhớp nháp của vợ với những người lính ngoại quốc trong chiếc xe đò phủ vải đỏ sặc sỡ vẫn làm người lính yên lòng hơn là vợ anh chết thật sự, chết đâu đó mất xác như cái chết của chồng người đàn bà khăn tang kia!
Trong lối ví von, so sánh Y Uyên đã đẩy tới tận cùng sự tan nát, đớn đau: thà làm đĩ, có nhơ nhuốc thật, nhưng còn sống vẫn hơn là chết bờ chết bụi!?
Rồi chỉ với một khúc xương trong mồm con chó, Y Uyên đã vẽ ra một cảnh thê lương, hãi hùng của chiến tranh đang phủ chụp xuống, không chừa một ai: Nỗi đau chết trận và nỗi đau của mất mát, chịu đựng không cái nào nhẹ hơn, bỡi một đằng là tức thì với cảnh banh ruột máu me đầm đìa, một đằng kéo dài âm ỉ đau, âm ỉ khổ nhục… Cả hai vẫn thế.
Những người phụ nữ bình thường ở nông thôn, dưới ngòi bút Y Uyên luôn phải mang trên vai những gánh nặng khổ ải nhất trong thời chiến. Chiến tranh không nổ ra ngay tại những toà dinh thự lộng lẫy của các lãnh tụ hai phía, mà diễn ra khắp cùng các làng mạc ở nông thôn, xua đẩy những nông dân xác xơ chạy lánh nơi an toàn ở thị xã, thị trấn. Và như vậy, buộc họ phải coi trọng cái ăn. Những người đàn ông không thể về vùng quê xôi đậu để mang lúa lên sống chờ chiến tranh kết thúc, như anh Hai của Bình, mà là người vợ, chị Hai. Chuyến về lấy lúa ấy, chị mất tích luôn. Chị đi đâu? Làm gì? sống chết? Toàn là những lời đồn đại không thể kiểm chứng:
“… Bình lấy giọng bình thường bảo anh:
-Anh giận hoài chị Hai, tội quá. Chị có chịu khổ như vậy cũng vì phải về lấy lúa lên sống.
-Không nói nữa, mệt quá. Nó nhơ nhuốc, độc ác như con cú mèo.
Bình phủi lớp bụi bám trên vai áo da, kiên nhẫn:
-Anh chị dù sao cũng sống với nhau bảy tám năm rồi…
-Nó đi Nha Trang rồi…
-Anh gặp chị hồi nào hay chỉ nghe nói?
-Cả xã Đại Tùng người ta biết nó. Nó bắt một đứa nhỏ mồ côi đi theo để ăn mày cho dễ (…) Đầu nó bào nhẵn như đầu thầy chùa. Nó băng qua bãi cát mà ra biển. Tới gốc cây đại thọ nó mang thằng nhỏ vào cái hang rễ cây, cầm xương rồng khô đốt cháy mà trui mặt mũi, chân tay thằng nhỏ. Muôn đời nó không dám về cái xứ này nữa.
-Người ta bày đặt, anh chớ có tin … Anh gắng để ý kiếm chị một chút.
-Kiếm để ăn đạn, ăn mìn sao? Không nói nữa, mệt quá” (Mùa Xuân Mặc Áo Vàng)
Đó, chiến tranh đi qua truyện Y Uyên bằng thứ đạo đức xổ dốc, bằng những nhân cách lạnh lùng, bằng sự ích kỷ, sợ sệt bám riết theo các nhân vật. Họ có nhau, là của nhau, nhưng luôn chia lìa, xa cách trong những ý nghĩ hoang mang tột độ; hoang mang với bản thân và với chồng vợ. Hành động của anh Hai, chị Hai không thuộc về bản chất, nó thuộc về một thế giới khác, thế giới của hữu hình và vô hình trộn lẫn để đẩy con người ta vào hóc kẹt tối tăm làm người. Cái thế giới trộn lẫn ấy chính là điều Y Uyên muốn nói đến, nhắc đến, bỡi hàng ngày anh đi qua, anh nhìn thấy, chứng kiến, sờ đụng…
Chiến tranh cùng khắp, ồn ào và không ồn ào, nổ chát chúa và nổ bùm bụp trong cõi lòng. Nổ tung từ vùng nông thôn lan tận rìa thành phố, đâu đâu cũng là sự nhớp nháp của chiến tranh, đẩy con người từ già trẻ gái trai tụt dần xuống miệng hố đen ngòm. Trong hàng triệu con người nhếch nhác ấy, Y Uyên dựng lên một nhân vật có thật, nhếch nhác hơn thế: ông Mịch. Ong muốn bảo vệ cho thứ luân lý, đạo đức, trật tự có sẵn, ngay thẳng, trong sạch nhưng bị kết án là: “Ong già làm bộ giả điên để chửi tất cả cho sướng mồm” (Đuốc Sậy). Ông Mịch ca ngợi Tán Thuật, gây sự với lính Đại Hàn, chửi người lính già commando, theo đoàn người biểu tình chiếm Ty Tâm lý chiến, ”ông kéo lùi chiếc xe díp của một thiếu tá, giữ lại cho mọi người chất vấn, ép phải hô lớn ‘Mẹ Việt Nam bất diệt! Tổ quốc Việt Nam muôn năm!’”. Ông tiếp tục gây sự với mọi người và kêu gào mọi người hãy tham gia vào việc thiết lập tật tự đạo đức bị chà đạp, xuống cấp nghiêm trọng
“Ong túm lấy một người con gái đội mũ nan chóp nhọn, chỉ vào mặt:
-Bọn mầy ở mấy cái xổng chở đĩ tới đây hồi hôm?
Người đàn ông lùi lại kêu lắp bắp:
-Ông không có quyền…
(…) Ông Mịch lùi vào bức cửa sắt đóng kín, hai tay dang ngang, hét lớn “đồ đĩ, đồ đĩ của Mỹ. Tao phải giết hết”. Ong vỗ vào cánh tay, vén ống áo lên tới nách lúc tiến lúc lùi, thủ thế” (ĐS).
Theo sát những hành động và những lời chửi bới điên khùng kia là cảnh: “Bọn người ở dưới làng lên ngủ nhờ bắt đầu đông. Họ vào nhà, cất nón cất xe, hỏi thăm Sương nhưng không ai lên lầu gặp ông Mịch. Họ ra trước cửa ngồi la liệt dưới mái hiên trên hè đường ồn ào nói chuyện” . Nhưng chạy đàng nào, đi ngủ nhờ đàng nào rồi họ cũng nhìn thấy: “Đạn lửa đỏ rực lừng lững nối đuôi nhau, bay trên cánh đồng, ngang qua mặt quốc lộ ngoài kia”. Và rồi mọi chuyện cũng phải kết thúc bỡi đạn bom không chừa một ai, ngay cả người hô hào sự công bằng, đạo đức, lên án mọi phia nghĩa đang bày ra nhan nhản trước mặt: “Những chiếc khăn trắng nhờ nhờ trải đầy trên mặt cát. Ong Mịch đã bỏ đi, đứng cách đó khá xa. Người ông cũng nhuộm màu mây đỏ. Sương thấy ông chậm rãi nằm úp tai xuống cát. Chiếc mũ sắt cắm vục xuống nom đen đủi, tròn bóng. Chắc ông lại nghe xem đoàn quân Tán Thuật lại gần hay chưa?”. Những dòng cuối cùng để kết thúc truyện Đuốc Sậy là sự gãy gập đoạn trường bỡi những biểu tượng cho lòng ngay thẳng, thanh tao, mọi giá trị nhân bản cũng đều gục ngã theo ông Mịch “người ông cũng nhuộm màu mây đỏ”.
Từ những người nông dân chạy loạn, đến ông trí thức giả điên hay điên thật đều được phơi bày một cách trần trụi, bình thản như những tấm lưng cong oằn chịu đựng, như cơn giận bốc lên bất ngờ của ông Mịch. Nhưng những số phận heo hắt đó, đâu chỉ dành riêng cho những người “nhà quê”. Nó còn đè nặng và hơn hết là cảnh sống mỏi mòn chờ đợi của những công chức là các thầy giáo trong ngôi trường ở quận lỵ miền núi, ngày đến lớp, đêm cùng học trò ra trốn ở các lùm bụi rậm, chỉ cách thị xã không bao xa: “Những người dạy ở An Bình tuy cách thị xã cả ba bốn chục cây số, tuy rất dễ gặp một ổ phục kích, một trận đánh, một trái mìn giữa đường, nhưng đường về thị xã còn có thể đi lại được. Ở đây thì hoàn toàn cô lập” (Những Ngày Cuối Năm Trên Miền Núi). Bỡi “đường bị cô lập”, nên những Huỳnh, Ngưỡng, Phan… vẫn còn kẹt tại nơi đèo heo hút gió này, ngóng đợi từng chuyến trực thăng bay về thị xã, với những tâm trạng nôn nao trong những ngày giáp tết để rồi ngày hai bữa vẫn phải ngồi vào bàn ăn: “Vẫn đĩa trứng thường xuyên, vẫn hai bát rau muống chẻ, một khúc cá và ba tô canh bầu hạt tổ bự”. Ngày ngày vẫn phải tới lớp, tối vẫn phải chui trốn với lũ học trò, vẫn phải chứng kiến cảnh: “… có đứa nghỉ hôm trước, hôm sau gửi cho thầy một lá thư đầy lỗi chính tả hẹn ngày “giải phóng” cho thầy”. Và một đứa học trò khác với Ngưỡng: “Thưa thầy em muốn xin rút lại hồ sơ… Em muốn xin thôi học lấy lại hồ sơ để…đi biệt kích” – “Đi biệt kích?” Ngưỡng lạ lùng. “Nhỏ như em làm sao đi lính?”. Thằng bé tự tin: “Em đã hỏi cẩn thận rồi. Cứ lên gặp họ, nói không có chỗ trốn Việt Cộng, họ nhận liền”. Hai đứa học trò bậc tiểu học, một đứa lấy lại hồ sơ để “giải phóng” cho thầy, đứa kia xin đi biệt kích, chỉ vì “không có chỗ trốn Việt Cộng”!? Thử hỏi còn cảnh nào bi thương hơn? Chiến tranh là thứ gì mà nó bóp nát những quả tim bé thơ dưới ngòi bút Y Uyên đến vậy? Mối tình với cô giáo Diệu không thể nào xoá đi cảnh “bốn chiếc oanh tạc cơ bay thành hình bầu dục trên rặng núi trước cổng trường” trong buổi lễ cuối năm.
“Những chiếc máy bay sà xuống thật thấp, lao vút vào những cột khói đen sậm ở chân núi. Những trái rockets như những cái chầy bạc lấp lánh dưới nắng tới tấp phóng xuống trước nền rặng núi xanh đậm. Đất rùng rùng từng đợt dữ dội. Bọn trẻ nhao hướng về phía đó”. (NNCNTMN).
Các nhân vật “học trò” kia không rõ chúng có thực hiện điều mà chúng nói, viết thư cho thầy giáo Ngưỡng hay không, nhưng những toan tính buổi đầu của chúng là sự dã-man-đến-tận-cùng của chiến tranh. Nó không chừa một ai, không dung tha một ai. Tất cả đều bị cuốn hút vào guồng máy súng đạn khổng lồ, căm thù chất ngất, phi lý đến cùng cực, bỡi nó không có hình thù, mặt mũi, chân tay mà lại có thể bất ngờ siết cổ họng anh đến ngạt thở, đưa tay moi móc ruột gan mọi người banh ra ngoài, chiến tranh không có giấc ngủ… : “Chiến tranh và nỗi khổ hỗn độn xung quanh như không trộn lẫn được những người công chức thị xã với người dân nạn nhân.Những đêm nghe bom, đại bác dội về rung cả cánh cửa, anh thấy chiến tranh không có giấc ngủ. Nhưng lúc nom những xác người nằm trong một căn hòng nhà thương, anh lại thấy chiến tranh gồm toàn những giấc ngủ triền miên, anh chẳng thể hỏi han như hỏi han bà hàng vịt lộn” (Bên Ngoài Khán Đài).
Mới hôm nào anh còn là trí thức trên giảng đường đại học, ngoảnh một cái, anh chui tọt vào vòng xoáy chiến tranh, đánh mất tất cả mọi niềm tin: “Tôi chạy đến thì anh tôi đã bỏ đi. Một đám đông bu trước tiệm nước. Chiếc khăn bàn anh tôi ngồi rũ xuống một góc được giữ lại bằng một lưỡi dao ngập trên bàn” (Có Heo May Hà Nội). Hành động của anh chàng đã từng “cắp nách những cuốn triết hoặc cần cù tô từng nét chữ Hán cho đậm nét” kia giờ đã là người lính bất đắc dĩ. Chuyện giận dữ vô cớ cắm lưỡi dao trên bàn, chuyện cãi nhau với mẹ, chuyện xin phép đơn vị về đám giỗ… chỉ là cái cớ để anh trút tất cả nỗi thất vọng, hoài nghi của thế hệ mình vào lớp trí thức sa lông như chú anh (chồng của cô ruột) vẫn cứ hăng hái nói về những lý tưởng, nhớ nhung quá khứ, những người thuộc thế hệ quá khư đều là những anh hùng, sẽ cứu lấy đất nước rách nát, xác xơ này và nhìn ngắm lũ trẻ như là bọn vô tích sự. Và rồi bọn trẻ kia cũng đâu chịu lép vế, họ cũng vùng lên, phản kháng yếu ớt:
“Tao không chịu được những bộ mặt trí thức thất bại lộ ra cả trrong việc theo vợ đi ăn giỗ, nói chuyện thời thế và Hà Nội. Họ khôn khéo ăn nói những thứ mọi người đang thích ăn thích nói để che lấp nỗi nhớ tiếc vốn là mầm sống của họ. Họ không nhớ một mình Hà Nội, cũng không nhớ Hà Nội như tình cảm của một chiến bại, hoặc cao hơn,, một nỗi nhớ cần nhiều cố gắng thực tại để bù đắp sự thất bại còn dây dưa chưa biết đến bao giờ. Họ còn thương nhớ cả những nếp suy nghĩ của mình nữa. Trước tình thế này, họ nên khuất mắt, đừng lẩn quẩn bên chân những người vừa mới lớn lên đã phải nhào vào chống đỡ những sụp đổ do họ gây ra” (CHMHN).
Người chú trí thức (chồng của bà cô ruột), người anh trí thức đang vào lính (anh của nhân vật xưng tôi), hai thế hệ khác nhau cùng sống trong một giai đoạn lịch sử đầy bấc trắc, biến động và cùng có những ảo tưởng khác nhau về cuộc đời, số phận, về trách nhiệm, bổn phận… trước lịch sử, một lịch sử trong thời kỳ mọt rỗng, một đất nước trong thời kỳ mọt rỗng, một bên hiển hiện rõ ràng bằng máu và nước mắt, khăn tang, một bên là những hoài niệm về một thời vàng son của cả dân tộc cùng đứng lên kháng chiến:
“Những ảo tưởng về tương lai tuy chua xót, nhưng bao giờ cũng đáng phấn khởi hơn những ảo tưởng về những chuyện đã qua, dù đẹp nhưng tình và chết như bóng thím Hương trên bức tường hoa, bên nữnh trụ gạch dát hình rồng phượng bằng các mảnh sành mảnh sứ” (CHMHN).
Vâng, con rồng con phượng chỉ là hình tượng đẹp trong trí nhớ mọi người. Còn những mảnh sành sứ là có thật, là những mảnh vỡ được ghép lại!
Chiến tranh đi qua tác phẩm Y Uyên thực không rõ ràng, không hình dạng, bị băm vằm ra từng mảnh. Khi đọc, ta gặp chỗ này một chút, chỗ kia một ít, nhưng khi gập sách lại, chắp nối các chi tiết tác giả đã mô tả, dẫn dắt, bày tỏ thì mới thấy hết phía sâu thẳm tận cùng, bên trong. Có lẽ đây là điều gây khó chịu cho người đọc, làm cho người đọc không thích truyện Y Uyên nhưng vẫn phải đọc, đọc để tìm ra điều tác giả gây khó chịu ấy. Ví như truyện dài Ngựa Tía, những nhân vật Thừa, bốn Phây, Diễn, thằng Mạnh, Thu, Thương… xoay vòng vòng những tâm trạng thấp thỏm âu lo cho công việc, số phận: Thừa trở lại quê nhà tạm nghỉ để chờ chuyến đi tiếp chỉ có thể nhìn thấy cuộc chiến qua hình ảnh của người cha và con ngựa tía; như Thương, một thiếu nữ đầy bất hạnh mang lời ca để vỗ về những người cầm súng hôm qua ở bên kia, hôm nay ở bên này; như ông Phước Hải nuôi chim yến làm giàu và qua hình ảnh ông, người ta như nhìn thấy những kỷ niệm của chính mình do ông cất giữ như một cái bảo tàng, bảo tàng của kỷ niệm, bảo tàng của thứ tình cảm riêng tây?… cùng hàng loạt những nhân vật khác. Tất cả đều xoay vòng vòng đến khó chịu, như câu ca dao anh dẫn ra:
“Con ngựa tía ăn quanh đèo Cả
Vầng nguyệt đem rằm bóng ngả về đông…”.
Trong Ngựa Tía, chiến tranh đi qua đời sống mỗi nhân vật như một định mệnh oan khốc của chính mính, bắt đầu từ làng quê, vùng ngoại ô, rồi lan xuống thành phố vây chặt lấy số phận họ và từ lúc nào nó bùng vỡ ồ ạt mà không ai hay. Tất cả đều lạc lõng, đều bơ vơ trước một nghịch lý cay đắng nhất. Những người trẻ tuổi trong Ngựa Tía như Thừa, Diễn… là những người có số phận buồn thảm nhất. Buồn thảm đến độ bi hài như chính lão chủ quán cơm:
“Ở quầy hàng, một người lính trẻ tuổi gây gỗ với gã chủ tiệm vì gã bắt quân nhân phải đóng trước tiền nửa tháng cơm. Gã chủ tiệm một mắt méo mồm, vận bộ bà ba trắng mặt nhô sau quầy, như không phân giải, không cãi lý, chỉ căng rộng mồm kêu: “… trận núi Sầm vừa rồi, bẩy người không trả tiền cơm, trận Đồng Leo năm người, bữa mìn nổ ở cây số 3 cũng mất hai người nữa, tôi không thể dễ dãi hoài như vậy, tôi không thể dễ dãi, dễ dãi tôi chết cả nhà tôi, tôi không thể…, trận Long Biền mất bốn, trận…” (Ngựa Tía, trg 55).
Đọc đến dòng cuối cùng của trang cuối cùng, người đọc không hề tìm thấy chiến tranh nổ ra, quân hai bên đánh nhau khủng khiếp như những bài bút ký của Phan Nhật Nam, những truyện viết dưới hầm, bên trong lô cốt của Trần Hoài Thư… Vậy mà, sao nó cứ đeo bám nhùng nhằng trên vai mỗi người có mặt trong truyện? Phải chăng vì, như Thanh Tâm Tuyền đã nhận xét về anh: “Y Uyên đã hội đủ những điều kiện để trở thành một nhà văn: có một khung cảnh của riêng mình (như Dickens có Luân Đôn, như Dostoievski có St. Pétersbourg), có những nhân vật mà mình yêu mến) (VĂN số 129).
Những nhân vật của Y Uyên chẳng có gì xa lạ, họ không phải là chàng thanh niên và cô thôn nữ của Lê Xuyên ngồi nấp sau bờ ruộng chờ đợi nụ hôn, không phải là các bà mệnh phụ trong những căn phòng lộng lẫy, những thiếu nữ đài các than thở về mối tình sứt sẹo của bà Tùng Long, hay những trí thức sống trong tháp ngà của Mai Thảo…, mà là những con người rất đỗi tầm thường như Bước, như Phon, như Kiểm… Họ ngơ ngác nhìn tai hoạ đổ ập xuống bụi cỏ xác xơ, bụi tre làng cao ngọn lay lắc buồn thảm, những con đường làng trở nên vắng vẻ, âm u. Lúc nào và ở đâu chiến tranh cũng có thể nhìn thấy được, ngay cả trong giấc ngủ, ngay trong câu nói bâng quơ của người nông dân ít học, ít hiểu biết thời sự nhất:
“-Trước, một buổi mai bán ở chợ dưới, hàng bán còn gấp đôi số hàng bán cả hai buổi bây giờ. Chợ chi mà chỉ có người bán.
-Chiến tranh mà chị
-Chiến tranh mẹ gì mà lâu dữ vậy” (Chiều Trong Làng)
Họ, những người nông dân chất phác, quê mùa chẳng thể biết, hiểu được chiến tranh là cái gì. Nhưng nó, chiến tranh, cứ đeo bám bên hông họ, bên mẹt hàng của họ từ ngày này đến năm khác để phải bật ra tiếng kêu “chiến tranh mẹ gì mà lâu dữ vậy”. Chính cái dây dưa cà cuống nhùng nhằng đó mới đẩy một ông Mịch trở thành kẻ điên, đẩy Bước thành một kẻ luôn lo sợ vu vơ, thành một ám ảnh, thành nỗi hoang mang vô cớ và thường trực trong đầu óc Bước:
“Thuở nhỏ Bước sợ ma quỷ bắt về âm phủ… Bây giờ từ miệng một người phu xe qua thôn, từ một thành phố Bước chỉ tin là có vì được nghe phát thanh chốc chốc nhắc lại “Đây là tiếng nói nước Việt Nam phát thanh từ…” từ một ngôi nhà làng… đâu đâu cũng có lệnh cho Bước, ai ai cũng có thể ra lệnh cho Bước. Dẫu Bước không có một căn cứ cụ thể như có bụi cây để nghĩ ma quỷ lẩn quất ở đó là hợp lẽ, bây giờ Bước vẫn phải tin và tuân những lệnh đóvà vẫn sợ những trừng phạt kèm theo” (Chiều Trong Làng).
Nhắc lại rằng, trong hầu hết các tác phẩm của Y Uyên, các nhân vật không trực tiếp tham gia hay đối diện với những cái chết kinh hãi, của cảnh bom rơi đạn nổ kinh hoàng, nhưng giữa những đổ nát ấy, giữa cảnh máu đổ thịt rơi đang xảy ra đâu đó xa chỗ họ đứng, họ sống thì chiến tranh vẫn thường trực đè nặng lên người họ, tâm trí họ. Những nhân vật hiền lành như Nhưỡng, một giáo viên, như Diệu người yêu của anh ta, đang đi bên nhau vẫn nẩy ra một cảm giác lo sợ vu vơ, bất an ngay trong ý nghĩ:
“Nghe tiếng lá khô loạt xoạt cọ vào nhau liên hồi, Ngưỡng vững lòng. Nếu có người bò trong đám mía, có vấp ngã, những tiếng loạt xoạt cũng át đi, khỏi sợ lộ” (Ngày Về Của Bọn Họ).
Đó cũng là tâm trạng của Hồ, anh cố vượt qua con đèo dài để kịp về sum họp với người thân yêu trong những ngày tết, nhưng anh vẫn cảm thấy như sự bất trắc của bom mìn vẫn chờ chực đâu đó, chờ bước chân anh đi qua, của đoàn người qua đèo mà nổ tung lên:
“Một nỗi hoảng sợ đến kinh dị chiếm lấy Hồ. Hồ cắm đầu chạy nhào đuổi theo đoàn người trước mặt.Lúc đã tới chân dốc, Hồ mới nhận ra vẻ hớt hải của mình”. (Mùa Xuân Qua Đèo).
Truyện ngắn duy nhất mà Y Uyên vẽ ra khuôn mặt người lính là truyện Tiếng Hát Của Người Gác Cầu trong tập truyện ngắn Tượng Đá Sườn Non do nhà Thời Mới xuất bản năm 1966. Đó là truyện ngắn có hình dạng, có chân dung của người lính hẳn hòi. Nhưng những người lính xuất hiện trong truyện không phải là những người anh hùng, không phải là những thiên thần, không có cấp bậc, không bao giờ biết ngồi lên xe “díp” là gì. Họ là những người nông dân vào lính, là những bè bạn trong làng vào lính và cầm súng. Chuyện vào lính của họ là đương nhiên, không thể cưỡng lại, đứng ngoài; còn cách cầm súng của họ không phải ra ngoài mặt trận bắn nhau, mà là để đứng gác trên chiếc cầu dài, mặt phải luôn nhìn xuống dòng nước lũ trôi qua gầm cầu, ở dưới đó sẽ có những bất trắc cho tính mạng chiếc cầu, tính mạng người lính và đám đông. Nhưng thỉnh thoảng người lính gác cầu cũng nhìn đoàn xe chạy vụt qua, nhìn chiếc bảng cấm ở đầu cầu xoay đi xoay lại như chính cuộc đời của bọn họ, những thanh niên nông dân, là bạn bè thân thiết nhau. Đó là Nhựt, Thấu, Phon, Đành… cùng vào nghĩa quân. Phon đứng gác trên cầu nhìn dòng nước lũ và nhìn những con bò, ngựa chết trôi sông và ao ước “có tụi nó ngồi nhậu”. Còn tụi nó, tức đám bạn thân của Phon là nghĩa quân ở xã, cũng nhớ Phon nay đã lên quận, đang ngồi nhậu thịt ngựa với rượu đế và nhớ lời ca ruột của bạn: “Cúc Hoa ơi nếu chúng ta còn cách xa nhau vì kẻ tuyền đài người dương thế thì mãi mãi anh còn là kẻ bị đày ải đơn côi trong ngục thất của tâm hồn…”.
Ngày nào cũng như ngày nào, Phon cầm súng đứng trên cầu và nhìn xuống dòng sông đục ngầu, thỉnh thoảng nhìn tấm bảng xoay qua xoay lại và nhìn xuống dòng nước coi có xác con vật nào trôi qua? Cảnh nhàm chán ấy cứ lặp đi lặp lại mãi đến nỗi Phon cất tiếng hát bài ca của đứa bạn đã chết tên Xanh, như một thói quen nhớ bạn bè. Nỗi nhớ cuồn cuộn chảy dưới gầm cầu được Y Uyên miêu tả đến tận cùng sâu thẳm của tâm hồn Phon, phơi trần bản chất đặc sệt nông dân từ trong suy nghĩ đến hành động. Người con người cùng khổ ấy chỉ có mỗi một ao ước cháy bỏng là được nhậu một bữa cho ra nhậu. Những giọt nước mưa bám trên mặt mũi anh cũng gợi một sự liên tưởng, như một nỗi ám ảnh không nguôi: “Phon ước những giọt nước mưa trên môi mình là rượu. Phon vuốt mặt, nhô ra khỏi cây sắt”. Sự ám ảnh ấy, lại còn dính chặt tầm mắt Phon theo xác con vật trôi trên sông: “Con vật trôi mau. Tựa bụng vào thành cầu, Phon cúi xuống nhìn. Chiếc đầu với hai cái sừng nhô lên một lần nữa. Con vật chắc mới chết. LúcPhon ra gác cầu, trận đánh mạn trên sông mới bắt đầu. Phon chắc nó cũng trúng đạn như con bò tuần trước trôi qua đây (…) Phon bứt rức lắng tai xem có tiếng động nào chứng tỏ con vật còn đang ở dưới chân cầu. Chỉ có tiếng nước xoáy.
-Nó đã bị kẹt vào dây kẽm gai”.
Cái nhìn thấy, sự suy nghĩ của người lính dưới ngòi bút Y Uyên vẫn nguyên hình là những anh nông dân chất phác, thật thà, không chỉ riêng mỗi một nhân vật Phon mà còn cả những nhân vật khác, là bạn thân của Phon đang là lính nghĩa quân dưới làng: “Không phải thịt con ngựa hồi hôm đâu anh Năm. Lòng ngựa xổ cả đống lẫn lộn với lòng Cai Bốn, ai mà dám ăn”. Những người lính nông dân đi cầm súng chỉ để cầm súng, chỉ để ước ao điều mình chưa đạt tới “ngồi trên xe thiết giáp chạy qua bên kia quận” như cách rông chơi chứ không phải đi đánh nhau, và hơn hết:”Một đùi thịt bò còn nóng máu, một xị rượu lúc đã thay quần áo khô, có lẽ không còn điều gì đáng ước ao hơn thế. Tay Phon nhiều lúc đặt trên cán dao bên thắt lưng. Một đùi bò, một xị rượu…”.
Bóng dáng chiến tranh trong hầu hết các truyện ngắn của Y Uyên là sự chập chờn qua dòng suy nghĩ, là lời kể lại, là nhìn thấy một sự khôi hài rất khôi hài, ví như chính trong truyện này, anh đã mô tả lại cảnh cãi nhau giữa hai thiếu uý ngồi trên xe “díp” và những người ngồi trên chiếc M113 ở giữa cầu, để anh lính gác cầu là: “Phon ngẩn ngơ nhìn theo, nghĩ thầm:
-Mỗi ngày gặp một vụ như vậy có khi đỡ sầu”.
Người lính gác cầu buồn vì xa làng, xa bạn, xa những cuộc nhậu, đêm ngày chỉ quanh quẩn bên chiếc cầu dài hun hút, nhìn tấm bảng quay qua, quay lại, nhìn đoàn người xe qua lại một chiều như thể khắc trong đầu anh nỗi buồn thật sự. Đó là những tai ách làm anh và đám bạn anh phải xa nhau, phải buồn.Và rất hiếm hoi, anh mới có chút hăm hở để thấy mình thật sự là mình như từ trước khi vào nghĩa quân:
“Nắng lộ dần trên các vòm cầu. Cánh cửa đóng im ỉm ở đầu nhà ga bật mở. Người con gái sang ngủ ngày với Trưởng đồn nắm chiếc khăn tay đi ra, bước lên một chiếc xe Lam-bét-ta. Phon nắm một con dao, bước xuống bờ sông” (THCNGC)
Đó là mấy dòng cuối cùng của truyện Tiếng Hát Của Người Gác Cầu khép lại một cách lạnh lùng, bình thản như chiến tranh bình thản đi qua trên mỗi số phận, mỗi cuộc đời.
Và rồi khi Đành ở lại xã, đôi bạn nghĩa quân nhớ nhau, Đành đã lên quận tìm Phon đang đứng gác dưới mưa. Mẫu đối thoại giữa đôi bạn thân thật ra không có gì đặc biệt đáng lưu tâm, nó vô vị nhạt nhẽo như nhận xét của nhiều người, đôi lúc có cảm tưởng như anh cố tình kéo dài ra lấp đầy trang. Mẫu đối thoại không đâu vào đâu, không ăn nhập gì tới sự nhớ thương nhau cả:
“Phon giơ tay vẫy, chân bước sang mạn cầu bên kia chờ bạn. Đành hất mặt lên cười với bộ mặt bóng nước.Hắn đạp xe lên, dừng trước mặt Phon, chân phải đặt trên đường dành cho bộ hành.
-Mạnh giỏi mầy?
-Mạnh. Có chuyện chi đó?
-Có chuyện chi đâu.
-Rảnh chuyện vậy na.
-Ờ, tụi tao mà.
Phon sờ vào chiếc áo lụng thụng của bạn:
-Tụi mầy xếp thiệt.
Đành liếm nước quanh môi, nghe những tiếng súng từ vùng núi đầu sông vọng xuống.
-Vậy là đỡ rồi. Chỉ còn có hai tháng nữa mầy đã có lương.
-Bữa đó tao gắng xin về gặp tụi mầy. Nghe nói sau bữa tao đi thằng Năm có chuyện với tụi mầy.
-Nó thông cảm rồi. Bữa thằng con nó chết nó cũng mời tụi tao lại nhậu. Con nó chết được hơn tháng.
-Thiệt tội
-Thằng Thấu nói hay quá nó cũng đỡ sầu.
-Ờ Thấu…
Một chiếc xe ríp phóng vụt qua, Phon quay mặt ra thành cầu
-Cấm nói chuyện trên cầu?
-Cấm.
Đành ngó trước ngó sau rồi vòng xe trở lại:
-Vậy tao về.
Phon dựa lưng vào thành cầu:
-Tao có lời thăm Thấu”
(Tiếng Hát Của Người Gác Cầu).
Chịu khó đọc lại mẫu đối thoại trên lần nữa, ta thấy dường cái vô vị nhạt nhẽo dẫn dần trôi ra khỏi trí óc khi Đành nói “Vậy tao về”. Bình thường, giản dị, cứ y như ta nghe hai người nói chuyện ngoài đời chứ không phải nói trong văn chương. Vậy mà Y Uyên bê vào nguyên xi để ta cảm được cái tầm thường của những người nông dân, ngoài chuyện nghĩ đến ăn nhậu, miếng cơm manh áo, chuyện lo sợ nơm nớp tai hoạ của chiến tranh đổ xuống, nó còn toát lên cái tình, tình bạn chân thành, không giấu giếm, úp mở, khách sáo… và một sự chịu đựng ghê gớm của tầng lớp nông dân đang chạy loạn ở miền duyên hải Trung phần “Vậy tao về” rõ ràng không phải là sự hờn dỗi. Câu nói tầm thường này là cả một sự dàn trải về lòng nhẫn nại, cam chịu, nhịn nhục xuyên suốt toàn bộ cốt truyện. Cái khó chịu trong phong cách sử dụng chữ nghĩa của Y Uyên là chỗ đó, đồng thời nó tạo cho anh có một bút pháp riêng biệt, không giống ai. Nói như nhà văn Võ Phiến, thì: “Giữa một văn đàn náo nhiệt, Y Uyên, kẻ nhỏ tuổi nhất, lại nhỏ nhẹ, bình tĩnh, kín đáo. Y Uyên như thể không bao giờ chịu nói hết lời. Chỉ có chuyện băng ngang qua một quãng đồng dưới nắng rồi ngồi lại duỗi cẳng cho con bú, chỉ có xách Solex đi thăm cô bạn cũ một ngày mưa mù, chuyện vãn lai rai rồi chiều lại xách xe về, vậy mà người đọc đọc xong, buông cuốn sách xuống, ngồi lặng lờ, thấy nhạt cả mồm, thấy ngao ngán. Đời không là thành sầu bể khổ gì ráo, đời không phi lý không hữu lý gì cả, không làm ai buồn nôn lợm giọng gì cả …
Nhưng cuộc sống sao mà … nhếch nhác một cách … "tự nhiên", làm ta rùng mình. Một nỗi buồn nhẹ nhàng cứ lặng lẽ thấm dần, liễm dần vào hồn ta như mưa bụi lặng lẽ thấm ướt cảnh vật một chỗ quận lỵ .
Truyện để lại một âm vang xúc động tựa như thơ.
Cái ma lực của một phong cách văn chương. Ghê thật ."
(Võ Phiến, Văn Học Miền Nam, trg 1856, NXB Văn Nghệ, Hoa Kỳ 1999)
26 tuổi với 7 tác phẩm đã được đón nhận như một nhà văn có cá tính, chân tài đã gây xúc động cho biết bao độc giả yêu mến anh, bạn bè anh, người thân khi anh nằm xuống bên dòng suối dưới chân núi Tà Dôn. Và, 35 năm sau, kể từ ngày anh bỏ bạn bè, rong chơi ở cõi vĩnh hằng, đọc lại những truyện anh viết về một thời loạn lạc, tôi vẫn thấy sự loạn lạc ấy chưa hề chấm dứt như điều anh từng ước mơ “chiến tranh mẹ gì mà lâu dữ vậy?”. Vâng, “Quê Nhà” anh vẫn chưa thật bình yên, mọi người ở quê nhà vẫn là hình bóng con Ngựa Tía của anh…
l’ Aveyron , tháng 11-2004
Nguyễn Lệ Uyên
2.07.2010
"Không có nỗi ngây ngất nào rực rỡ như nỗi ngây ngất chiến tranh,
phía sau có lửa, phía trước có máu của mình"
(Y Uyên, Mùa Xuân Qua Đèo)
Trên tờ tuần báo Nghệ Thuật, số dầu tiên ra ngày 1-10-1965, Mai Thảo đã dựng lên một tuyên ngôn của những người cầm bút (trong nhóm) về thái độ của nhà văn trước thực tế của đất nước, bằng một cái nhan rất kêu: “Văn học Nghệ thuật trong chiến tranh hiện tại và hoà bình tương lai” bằng thái độ chọn lựa rạch ròi, bằng trách nhiệm và bổn phận trước quốc gia, dân tộc, lịch sử mà nghe cứ như lời rao giảng ngày tận thế với cơn đại hồng thuỷ và chiếc thuyền của Noé: “Nói đến đời sống, cái chết, chiến tranh và hoà bình, lửa máu và nước mắt, nhân phẩm và danh dự, nói đến hạnh phúc, bất công áp bức, ý thức, thượng đế, thân phận con người, triết thuyết, hành động, thực tế và trí tuệ, cá nhân và toàn thể, nói ở đâu bằng ở Việt Nam không nói, nói ở đâu bằng Việt Nam đau khổ, nói ở đâu bằng Việt Nam treo căng trên từng từng bất hạnh, nói ở đâu bằng Việt Nam có quyền nói đến trước tiên? Văn học nghệ thuật chúng ta phải nói lên bằng được sự thực vĩ đại hiện hình trên Việt Nam quằn quại. Vai trò của Văn học nghệ thuật hiện nay do đó là phải đi vào thực tế chiến tranh, boi thực tế ấy là một sự thực…” (SĐD). Một tuyên ngôn như vậy, trên một tờ báo văn nghệ như vậy, trong thời khắc chiến tranh bắt đầu lan nhanh như một vết dầu bẩn trên phần đất này một cách ồ ạt, khốc liệt có vẻ như thừa, như thiếu hơi, đuối sức?
Trước đó, trước khi nhóm Sáng Tạo hụt hơi trì kéo những trường phái siêu thực, hiện sinh vào văn học miền Nam Việt Nam, thì đã có rất nhiều nhiều người cầm bút đã chọn lựa một thái độ, một trách nhiệm trước cuộc chiến rồi, tác phẩm của họ ít nhiều đã vẽ lên bộ mặt xấu xa, kinh tởm của chiến tranh rồi!
Và như vậy, các nhà văn, khi viết về chiến tranh Việt Nam, mỗi người chọn một đề tài khác nhau, bối cảnh khác nhau, các nhân vật khác nhau, không ai giống ai; muôn màu muôn vẻ để, người đọc có thể nhìn thấy, một cách trọn vẹn, bộ mặt gớm ghiếc của cuộc chiến tranh phi nhân, phi nghĩa này, một cuộc chiến khởi đi từ những mù quáng, căm thù… đẩy cả dân tộc vào thảm cảnh đau thương nhất trong lịch sử.
Ở Tiền Đồn, Thế Uyên nhìn chiến tranh như là một sự phi lý được khắc hoạ một cách kinh hoàng nhất, tởm lợm nhất qua thân xác của người phụ nữ bị kẹp giữa hai lằn ranh của thù hận: ban ngày là sự gần gũi vội vã của người chồng và ban đêm là sự “hì hục cuồng nhiệt” của anh du kích. Tất cả đều diễn ra trên thân xác của người phụ nữ như biểu tượng nhục nhằn của lịch sử, dân tộc. Chị không có sự chọn lựa nào khác giữa vùng xôi đậu này, ở đó Việt Cộng và Quốc Gia thay phiên nhau “cai trị” những người dân hớt hải chạy, hớt hải về. Nói cho đúng, chị không có quyền lựa chọn. Sự chọn lựa đã được sắp đặt sẵn, để thân xác chị luôn bị dày xéo một cách tàn nhẫn từ hai phía. Người đàn bà tên Ba, nhân vật chính trong Tiền Đồn là biểu tượng của sự nhục nhã nhất mà cả dân tộc phải gánh chịu trên vai. Thật kinh khủng!
Với Nhã Ca, bộ mặt chiến tranh cũng trở nên bi thảm không kém đối với những người dân sống “bình yên” trong thành phố. Họ còn trẻ, và là những trí thức đang đứng trước những chọn lựa, những tái độ phải bày tỏ bằng những hành vi cụ thể. Chất bi thảm của thế hệ trẻ là sự lắng nghe, nhìn thấy một cách mơ hồ chiến tranh đang diễn ra đâu đó ngoài rìa thành phố với những cảm giác đầy sợ hãi phập phồng trong Đêm Dậy Thì, Đêm nghe Tiếng Đại Bác. Đến Phan Nhật Nam, Trần Hoài Thư… thì chiến tranh là sự đụng mặt gần sát, là những cuộc hành quân, bao vây, phục kích, là súng nổ, người chết, dân lành gồng gánh trong nước mắt, hối hả chạy trên bờ ruộng hẹp, lo sợ những viên đạn cắm phập vào tim, nhưng không thể không ngoái nhìn lại căn nhà tranh vách đất chẳng đáng giá là bao (nhưng chứa đựng biết bao tình cảm thiêng liêng) đang bốc cháy ngùn ngụt phía sau. Chiến tranh trong tác phẩm của họ là sự nhìn thấy rõ ràng, rất cụ thể: súng nổ, người chết. Những người tham gia các trận đánh là những người bạn, người lính thân yêu bên cạnh mình, từ từ, lần lượt ngã xuống… Và không chỉ có dùng súng đạn để đánh nhau, thậm chí họ còn sử dụng cả lời nói để hạ gục đối phương: “Staline của Nga chết, cha Tố Hữu của ngoài mầy làm thơ: “ông Staline ơi… ông Staline ơi… Thương cha thương một, thương ông thương mười”. Anh Kennedy, Kennedy là Tổng Thống thứ 35 của Mỹ, đẹp trai, con nhà giàu, giỏi, chết, mầy thấy có thằng làm báo miền Nam nào viết bài thơ khóc cái anh Kennedy này chưa? Và sau cùng hết, mầy chỉ làm được một việc này với tao thì tao gọi mầy là thánh tao chịu nghe hết lời của mầy, tao tin mầy là “dân chủ xã hội”. Bây giờ tao hô “đả đảo đế quốc tư bản Mỹ”, mầy hô:”đả đảo đế quốc Trung Hoa đỏ, đả đảo đế quốc Liên Sô”. Đấy mầy và tao cùng hô một lần, tao đếm 1,2,3… thì bắt đầu. Tôi hô: 1,2,3… Nghe trong máy có tiếng rè rè của tầng số bị phá…” (Phan Nhật Nam, Mùa Hè Đỏ Lửa trg 136, NXB Sáng Tạo, SG 1972). Đó là chưa kể nỗi xót xa, đau đớn đến tận cùng khi đồng đội bị thương, khó lòng vượt qua cái chết đang cận kề, đã van nài nhân vật xưng tôi (THT) “mày hãy bắn tao đi, mày hãy bắn chết tao đi!”. Mà đâu chỉ có một mình Trần Hoài Thư mới chứng kiến cảnh đau lòng, xé nát tim gan anh như vây? Hầu hết các nhà văn quân đội khác tôi đã đọc tác phẩm của họ, ít nhiều đều ghi lại những cảnh hãi hùng đó!
Những người trong cuộc lẫn những người dân vô tội đứng bên ngoài hay trong cuộc chiến tương tàn, đều chung một số phận bi hài như nhau.
Nhưng với Y Uyên thì khác, nói như Lê Văn Chính (SBT): “Trước ngày nhập ngũ, anh đã viết nhiều truyện thời chiến. Lúc đó anh còn là nhà giáo, nên truyện thường mang nặng tính chất tưởng tượng hoặc dựa theo những kinh nghiệm chiến tranh mà anh được nghe kể lại” (Núi Tà Dôn và dấu Chân Uy, đăng trong số này). Đúng, khi đọc một tác phẩm ta có quyền lựa chọn, có quyền bình phẩm theo ý thích của riêng ta. Đó là quyền của người đọc. Riêng với nhà văn, khi viết ta viết điều ta yêu thích, điều ta cảm, ta gần gũi, ta sống với nó, hít thở với nó, chứng kiến nó diễn ra hàng ngày, thậm chí ôm nó vào lòng lăn lộn với từng giấc ngủ đầy mộng mị hãi hùng.
Y Uyên sống trong thời khắc cuộc chiến nổ ra ác liệt nhất, trên vùng đất kinh hoàng nhất. Ví dẫu rằng: nếu như anh chưa hề là nhà văn, chưa hề cầm bút thì hàng ngày anh không thể không nhìn thấy chiến tranh diễn ra ngay trước mắt anh, diễn ra một cách bình thường, lặng lẽ mà đau đớn đến nát tan cõi lòng. Với người cầm bút thì anh càng không thể đứng ngoài ngắm nhìn như kẻ bàng quang, kẻ ngoài cuộc, thậm chí là kẻ trốn chạy khỏi vòng vây chiến tranh. Tôi vẫn nhớ như in, hồi còn học Văn Khoa Sài Gòn, GS Nguyễn Văn Trung luôn tự hào về giảng khoá cho đám sinh viên năm dự bị, với cái nhan Nhà văn, người là ai, với ai? Ông đã dựa vào những phát biểu trong bài diễn văn của nhà văn A. Camus đọc tại giảng đường Viện Đại Học Upsal, Thuỵ Điển nhân dịp nhận giải Nobel văn chương năm 1957, xoay quanh cái trục trách nhiệm và thái độ của nhà văn trước cuộc sống để rao giảng cho chúng tôi, những thanh niên mới bước chân vào cổng trường Đại Học, rằng “khi một nhà văn quyết định cầm bút viết văn tức là tự nhận lấy một chức vụ trong xã hội. Từ nay, người đó (ý nói nhà văn) ra khỏi đám đông, quần chúng vô danh, trở thành một nhân vật, được thiên hạ biết đến và sẽ được khen chê ủng hộ đả đảo tùy theo lối nhìn, thái độ của họ” (Nguyễn Văn Trung, Nhà Văn, Người Là Ai, Với ai). Xin lạm nhắc lại chuyện xưa, để nhìn lại thái độ của Y Uyên và những tác phẩm của anh trước cuộc chiến khủng khiếp này!
Những truyện anh viết về chiến tranh không bao giờ có súng đạn nổ chát chúa, không có cảnh quân hai bên giương súng bắn vào nhau, vây nhau tầng tầng lớp lớp như chọn lựa cách viết của Phan Nhật Nam, Trần Hoài Thư, Thảo Trường… mà lại là những điều, những thứ bị cuộc chiến xô đẩy tới bờ vực của đổ nát tan thương, của tiếng lòng dội xé. Đó cũng là cách chọn lựa đề tài, nhân vật, bối cảnh của Dương Nghiễm Mậu, của Võ Phiến, Doãn Quốc Sỹ…
Hầu hết những truyện anh viết và “đọc được” đều bắt nguồn từ khi anh dạy học ở Tuy Hoà, một thị xã nhỏ bé của duyên hải miền Trung giữa lúc chiến tranh đổ ập xuống nửa phần đất nước một cách khốc liệt nhất. Cái thị xã tí xíu mà anh và bạn bè anh đang sống, chẳng phải là một khu phi quân sự, một vòng đai an toàn mà là một lò lửa. Đạn luôn nổ, người chết, nhà cháy, đồng khô, dân quê bồng bế nhau chạy trốn hòn tên mũi đạn, ngày Quốc gia, đêm Cộng sản giành giật nhau… Cuộc chiến rất kỳ cục, phi nhân ấy cứ thế mà diễn ra ngày này sang năm khác để người dân khốn đốn kêu lên “chiến tranh mẹ gì mà lâu dữ vậy?”. Cuộc chiến quái gở ấy không phải chỉ có anh và tôi đánh nhau, mà một bên là có sự trợ giúp công khai, một bên là lén lút nhận vũ khí, quân trang quân dụng để “giương cao ngọn cờ chính nghĩa” đã đẩy người dân vô tội xô dạt bên này hay bên nọ (cốt để tránh hòn tên mũi đạn). Không khí truyện của Y Uyên không “nhảy tọt” vào giữa chiến trường, bởi anh chưa hề là một chiến binh thực thụ, mà anh “chạy theo, áp sát vào” những xô dạt không chừng mực trong những lần chạy giặc dài ngắn để nghe, để thấy, để cảm và chia sẻ nỗi đau của họ.
Những nhân vật của anh luôn là những nông dân nghèo, lam lũ, những người bình thường nhất đang sống ở vùng xôi đậu, đêm chạy trốn nơi an toàn, ngày mò về chắt mót từng hột lúa, củ khoai, là những thầy giáo, cô giáo, những đứa trẻ ngơ ngác. Anh yêu mến tất thảy bọn họ chẳng qua vì anh quá gần gũi với họ hàng ngày, hiểu được những trớ trêu của bọn họ.
Tất cả các nhân vật nữ của Y Uyên không có ai như chị Ba trong Tiền Đồn, như chị Tư trong Người Đàn Bà Mang Thai Trên Kinh Đồng Tháp bị dày xéo, chà đạp đến tàn nhẫn, như là những biểu tượng tượng trưng cho thân phận của toàn thể mọi người dân ở phần đất bị bom đạn cày xới nát tan, phải ngửa mặt ra hứng lấy mọi tai hoạ.
Cái chất dịu dàng, thong thả, nhẫn nhục của người phụ nữ, đa phần là dân quê, lánh nạn ra thị xã. Đó là những người bình thường nhất trong xã hội được Y Uyên phác hoạ là những người trung thực, bị đẩy đưa do hoàn cảnh, chấp nhận sống trong hoàn cảnh bi đát ấy. Những Bích, những Hiền và chị Hiền là một phần của đất nước bị băm vằm bằng nhiều nhát dao oan nghiệt. Họ vì cuộc sống mà phải bỏ làng tản cư lên thị xã, phải nhắm mắt làm người phụ nữ “sạch sẽ” nhất trong thời loạn: “Một lần nghi Bích không tin mình, giấu tiền không cho mình vay, lúc hai người đang nằm ở giường, anh ta chợt nẩy ý tưởng đòi khám Bích. Bích từ chối cầm chừng. Lúc trật hai chiếc xú-chiêng xuống nửa chừng, anh ta sững sờ một lát rồi ôm Bích thật chặt, hôn Bích như một sự đánh liều để cố quên mình đang có một cơ thể bị đòi hỏi hành hạ. Sau đó anh ta nói một câu kỳ quặc nhưng hơi mất bình tĩnh “Vú Bích sáng ngời, nóng và trơn thế mà từ lâu nay nào anh có hay”… Một nửa anh bị ám ảnh bỡi bộ ngực của Bích, một nửa anh ngại, nếu tiến thêm,Bích sẽ nhoà đi như những người đàn bà anh đã gặp” (Bên Ngoài Khán Đài).
Và dẫu không “dữ dội, bi thảm” như chị Ba, chị Tư của Thế Uyên, Thảo trường nhưng những “người đàn bà có chồng lên núi mấy năm nay” của Y Uyên lại phải chịu đựng một cách khác, dơ dáy một cách khác, bi thảm một cách khác:
“-Ai đó?
Giọng Bích cố thoát ra khỏi hai hàm răng. Một cánh tay vòng lấy lưng Bích chắc nịch.
-Qua đây chớ ai.
Nghe có tiếng nói cất lên, Bích thấy đỡ sợ nhưng xúc động sợ hãi vẫn còn rung da thịt. Bích thấy kẻ ôm lưng mình là một bóng den cao lớn đã chui vào mùng từ lúc nào. Vòng tay đó thắt chặt lại. Một tờ giấy được nhét vào tay Bích.Bích chắc là một tờ giấy bạc và thấy mình bị kéo xuống khỏi giường. Bích vùng đạp mạnh vào Hiền, cố giật người thoát ra khỏi vòng tay sau lưng. Hiền nhỏm dậy hỏi:
-Chi đó?
Vòng tay tự nhiên nới rộng, mở ra. Hiền yên lặng đứng dậy, bước ra điềm nhiên:
-Ong xã đó phải không?
Bích đã hết sợ, ngồi dựa vào góc tường, ngạc nhiên.
-Ai ngủ với em trong đó?
Giọng người đàn ông hỏi uy quyền.
-Bạn em đó.
Người đàn ông im lặng một lát rồi Bích thấy Hiền như bị ôm sát.
-Bữa nay có bạn em…
-Bạn em thì sao?
Bích thấy Hiền bị nhấc bổng ra khỏi mùng, theo bước chân người đàn ông ra khỏi cửa. Một lát, bên giường chị Hiền có tiếng trở mình. Bích thấy chị rón rén bước sang giường mình. Bích hỏi:
-Chuyện gì đó chị hai?
Người chị Hiền ghé ngồi vào mùng, nhỏ giọng:
-Còn chuyện chi nữa.
-Hiền nó đi với người đàn ông đến đâu?
-Ra ngoài hiên chớ đâu.
Bích ngạc nhiên:
-Cha đó vào bằng lối nào kìa?
Mùi khế úng lại thoảng vào trong mùng. Bích nghe như có một giọng đáp từ xa:
-Nhà này có khác chi nhà ông xã” (Bên Ngoài Khán Đài)
Hình như ông xã của Y Uyên và tay du kích của Thế Uyên làm cho chiến tranh thêm đậm mùi hơn, cái “mùi khế úng” bay vào chỗ tận cùng của thánh thiện và dơ bẩn nhất của cuộc đời này?
Đó cũng là nỗi lo sợ vu vơ, những hoài nghi vu vơ ngay chính bản thân mình và cho người khác trước cuộc chiến ngày một lan rộng, dữ dội:
“Chiêu hỏi:
-Chừng nào anh vô lại SàiGòn?
Mường ngạc nhiên:
-Anh không có ý định đó.
Chiêu giận:
-Anh giấu em.
(…)
Chiêu quả quyết:
-Có tin những điều anh nói không?
-Không.
-Thực may cho anh. Chính anh cũng không hiểu phải nói gì với Chiêu.
Chiêu bật khóc. “Anh khinh em”. Mường yên lặng thấy mình ngây ngô.” (Gió Cuối Năm)
Làm sao mà Chiêu không “bật khóc” và Mường không “ngây ngô” khi sự chờ đợi của người thiếu nữ là sự chờ đợi mỏi mòn và anh Mường mới giải ngũ không thể tự định đoạt nổi số phận chính mình, huống hồ đèo bòng “thứ tình yêu mới lớn của Chiêu” ? Rồi những chị Bước (Chiều Trong Làng), Kiều (Miền Không Vết Chân Người) vẫn cứ nhẩn nha giữa những tai hoạ đang vây bủa chung quanh, giữa một vùng cát tị nạn ngui ngút những căn lều tạm bợ, ở đó hai vợ chồng một nông dân, một thợ dệt cứ lo ngay ngáy sao cho chiếc giường không kêu “rắc rắc” như chiếc giường của vợ chồng Hai Bát kê ngay bên cạnh. Đó, chiến tranh dưới ngòi bút Y Uyên nó mò sát tới chân giường của đôi vợ chồng nghèo. Rõ ràng anh không hề tưởng tượng hay nghe kể lại, mà chính anh đã “tận mắt ngắm nhìn” một cách cẩn thận để chia sẻ! Bởi hàng ngày anh đụng mặt với nó, bởi những nhân vật kia là phụ huynh của những đứa trẻ anh đang dạy dỗ, là những hàng xóm trong khu nhà trọ, ông chủ quán nấu cơm tháng…
Đến như Bão Khô, một trong số ít truyện ngắn được đánh giá là hay nhất của Y Uyên, thì không khí chiến tranh càng kinh hoàng, thê thảm hơn. Chiến tranh đang tiếp tục lởn vởn, bay nhảy trên thân thể anh lính lệch vai, trên chiếc khăn tang của người đàn bà, những tờ sấm truyền tụi học trò ngồi trong lều chợ buổi trưa, chép chuyền tay nhau, là chiếc xe đò Vạn Hưng bán đồ uống cho Mỹ, là người lính Mỹ ngủ gà gật bên thềm chợ, mấy người đàn ông ăn bánh tráng, bà chủ quán mặc áo dài đi chân đất, là hai người đàn ông mặc áo xanh của một giáo phái kỳ bí với “những lời sấm bọn học trò truyền nhau chép và họ dường như có một liên lạc vu vơ”… Những nhân vật ấy xoay quanh một ngôi chợ tồi tàn bên kia cầu, hằng ngày anh lên xuống bốn bận đi dạy học. Đâu có súng nổ, đâu có bom rơi, đâu có cảnh quân hai bên xung phong xáp lá cà? Vậy mà nó, chiến tranh hiện ra một cách tàn nhẫn trên từng lời nói, cử chỉ, ngôn ngữ của bao nhiêu con người ấy. Nó làm cho ta quay quắt một nỗi đau không cùng. Và giả dụ như những kẻ cầm đầu cuộc chiến tương tàn này, đọc Bão Khô (cùng những tác phẩm khác của những nhà văn khác), họ sẽ nghĩ gì? Sẽ đẩy cuộc chiến tới mức tồi tệ nào nữa?
Với giọng văn rất bình thản, anh đi dần vào thế giới đau thương, tan tác đó bằng những tấm bảng hiệu “Laundry number one” trước hiên quán, hoặc “Refreshment” bên hông xe ba bánh, đến khi người lính lệch vai xuất hiện trên khu chợ, hỏi thăm chiếc xe đò Vạn Hưng phủ kín tấm màn màu đỏ sặc sỡ:
“Người lính nhìn thằng bé lê trên mặt đất với cái mẹt trước mặt.
-Mầy có biết mấy người con gái bán trong xe đó không?
Thằng bé lắc đầu chỉ cho người lính thấy vùng đất bên dưới dốc ngổn ngang những vệt bánh xe.
-Làm sao thấy mà biết. Cửa xe có vải đỏ che kín, đậu dưới đó ai mà dám xuống.
-Con đĩ.
Tiếng người lính nguyền rủa giận dữ. Anh ta bỏ đi vào phí chợ”. (Bão Khô)
Người đàn bà ấy là ai, đi đâu, làm gì?:
“Nỗi sợ hãi thiệt không hình dạng. Đột ngột như cái rùng mình của một cơn say. Anh không muốn hỏi, muốn nghĩ gì cả. Anh không muốn. Người đàn bà chết thảm đó không thể là vợ anh được. Nó đang giấu mặt trong trong chiếc xe đò Vạn Hưng đó… Anh gục xuống với nỗi sợ hãi chập chờn trước mặt. Cánh tay cổ tròn vạch lên tường ngày gà khởi ấp vẫn hợp với người đàn bà gánh lúa, gánh thóc lúc chồng vắng nhà hơn. Những lời đồn đãi về vợ anh, từ trước tới giờ cuối cùng anh vẫn thấy gần lòng tin nhất. Vợ anh ngồi sau tấm màn đỏ theo lời đồn và chết lúc gánh gạo theo trí tưởng tượng mơ hồ và có lý như nhau” (sđd ).
Và người đàn bà thứ hai trong truyện này:
“Từ dưới bãi cát người đàn bà khăn tang trở lên, hai ống quần ướt và quệt đầy bụi. Người lính hỏi bà chủ quán:
-Chồng chết?
-Chết mìn hôm trước đó. Một cái xe Lam, một cái xe nhà binh, chết sáu mươi mấy người.
-Kiếm chi dưới đó?
-Cánh tay có mang cà rá của chồng. Lúc điên, lúc tỉnh, lúc dại, lúc khôn, biết sao mà tin.
Người lính lầm bầm chửi tục, trề môi:
-Chồng chết lấy chống khác, mắc mớ chi mà điên” (sđd)
Và kết thúc truyện:
“Bằng những bước đi dài và nhẹ, chị ta khom người từ từ vào sâu lòng chợ, nơi có một con chó không chạy vào lều, ngồi cúi đầu gậm một khúc xương. Người lính say mửa một hồi lại gục xuống mặt bàn, người như chúi về một phía.
(…) Có một giọng đàn bà lẫn với tiếng gió ở sau tấm liếp như tiếng mẹ thằng bé. Nó nhìn lên mặt lộ. Trên con đường lổn nhổn đá xanh dẫn lên trên đó, người đàn bà có khăn tang nhẩy qua nhẩy lại, rượt theo một con chó ngậm trong mồm một khúc xương” (sđd ).
Cái khúc xương mà con chó ngậm trong mồm có phải là cánh tay người chồng chị đàn bà mang khăn tang bị mìn nổ banh xác? Hay đó là khúc xương người phụ nữ có cổ tay tròn ghi ngày gà khởi ấp trên tường (cũng bị mìn nổ) chết đâu đó? Chị ta là nhân vật chỉ xuất hiện trong truyện qua những dòng suy nghĩ của anh lính lệch vai, chồng chị. Rõ ràng anh ta không mong chị chết, nếu đổi cái chết ấy với chuyện chị ngồi trong chiếc xe đò Vạn Hưng vẫn hơn. Nỗi nhục nhằn buộc phải chứng kiến cảnh nhớp nháp của vợ với những người lính ngoại quốc trong chiếc xe đò phủ vải đỏ sặc sỡ vẫn làm người lính yên lòng hơn là vợ anh chết thật sự, chết đâu đó mất xác như cái chết của chồng người đàn bà khăn tang kia!
Trong lối ví von, so sánh Y Uyên đã đẩy tới tận cùng sự tan nát, đớn đau: thà làm đĩ, có nhơ nhuốc thật, nhưng còn sống vẫn hơn là chết bờ chết bụi!?
Rồi chỉ với một khúc xương trong mồm con chó, Y Uyên đã vẽ ra một cảnh thê lương, hãi hùng của chiến tranh đang phủ chụp xuống, không chừa một ai: Nỗi đau chết trận và nỗi đau của mất mát, chịu đựng không cái nào nhẹ hơn, bỡi một đằng là tức thì với cảnh banh ruột máu me đầm đìa, một đằng kéo dài âm ỉ đau, âm ỉ khổ nhục… Cả hai vẫn thế.
Những người phụ nữ bình thường ở nông thôn, dưới ngòi bút Y Uyên luôn phải mang trên vai những gánh nặng khổ ải nhất trong thời chiến. Chiến tranh không nổ ra ngay tại những toà dinh thự lộng lẫy của các lãnh tụ hai phía, mà diễn ra khắp cùng các làng mạc ở nông thôn, xua đẩy những nông dân xác xơ chạy lánh nơi an toàn ở thị xã, thị trấn. Và như vậy, buộc họ phải coi trọng cái ăn. Những người đàn ông không thể về vùng quê xôi đậu để mang lúa lên sống chờ chiến tranh kết thúc, như anh Hai của Bình, mà là người vợ, chị Hai. Chuyến về lấy lúa ấy, chị mất tích luôn. Chị đi đâu? Làm gì? sống chết? Toàn là những lời đồn đại không thể kiểm chứng:
“… Bình lấy giọng bình thường bảo anh:
-Anh giận hoài chị Hai, tội quá. Chị có chịu khổ như vậy cũng vì phải về lấy lúa lên sống.
-Không nói nữa, mệt quá. Nó nhơ nhuốc, độc ác như con cú mèo.
Bình phủi lớp bụi bám trên vai áo da, kiên nhẫn:
-Anh chị dù sao cũng sống với nhau bảy tám năm rồi…
-Nó đi Nha Trang rồi…
-Anh gặp chị hồi nào hay chỉ nghe nói?
-Cả xã Đại Tùng người ta biết nó. Nó bắt một đứa nhỏ mồ côi đi theo để ăn mày cho dễ (…) Đầu nó bào nhẵn như đầu thầy chùa. Nó băng qua bãi cát mà ra biển. Tới gốc cây đại thọ nó mang thằng nhỏ vào cái hang rễ cây, cầm xương rồng khô đốt cháy mà trui mặt mũi, chân tay thằng nhỏ. Muôn đời nó không dám về cái xứ này nữa.
-Người ta bày đặt, anh chớ có tin … Anh gắng để ý kiếm chị một chút.
-Kiếm để ăn đạn, ăn mìn sao? Không nói nữa, mệt quá” (Mùa Xuân Mặc Áo Vàng)
Đó, chiến tranh đi qua truyện Y Uyên bằng thứ đạo đức xổ dốc, bằng những nhân cách lạnh lùng, bằng sự ích kỷ, sợ sệt bám riết theo các nhân vật. Họ có nhau, là của nhau, nhưng luôn chia lìa, xa cách trong những ý nghĩ hoang mang tột độ; hoang mang với bản thân và với chồng vợ. Hành động của anh Hai, chị Hai không thuộc về bản chất, nó thuộc về một thế giới khác, thế giới của hữu hình và vô hình trộn lẫn để đẩy con người ta vào hóc kẹt tối tăm làm người. Cái thế giới trộn lẫn ấy chính là điều Y Uyên muốn nói đến, nhắc đến, bỡi hàng ngày anh đi qua, anh nhìn thấy, chứng kiến, sờ đụng…
Chiến tranh cùng khắp, ồn ào và không ồn ào, nổ chát chúa và nổ bùm bụp trong cõi lòng. Nổ tung từ vùng nông thôn lan tận rìa thành phố, đâu đâu cũng là sự nhớp nháp của chiến tranh, đẩy con người từ già trẻ gái trai tụt dần xuống miệng hố đen ngòm. Trong hàng triệu con người nhếch nhác ấy, Y Uyên dựng lên một nhân vật có thật, nhếch nhác hơn thế: ông Mịch. Ong muốn bảo vệ cho thứ luân lý, đạo đức, trật tự có sẵn, ngay thẳng, trong sạch nhưng bị kết án là: “Ong già làm bộ giả điên để chửi tất cả cho sướng mồm” (Đuốc Sậy). Ông Mịch ca ngợi Tán Thuật, gây sự với lính Đại Hàn, chửi người lính già commando, theo đoàn người biểu tình chiếm Ty Tâm lý chiến, ”ông kéo lùi chiếc xe díp của một thiếu tá, giữ lại cho mọi người chất vấn, ép phải hô lớn ‘Mẹ Việt Nam bất diệt! Tổ quốc Việt Nam muôn năm!’”. Ông tiếp tục gây sự với mọi người và kêu gào mọi người hãy tham gia vào việc thiết lập tật tự đạo đức bị chà đạp, xuống cấp nghiêm trọng
“Ong túm lấy một người con gái đội mũ nan chóp nhọn, chỉ vào mặt:
-Bọn mầy ở mấy cái xổng chở đĩ tới đây hồi hôm?
Người đàn ông lùi lại kêu lắp bắp:
-Ông không có quyền…
(…) Ông Mịch lùi vào bức cửa sắt đóng kín, hai tay dang ngang, hét lớn “đồ đĩ, đồ đĩ của Mỹ. Tao phải giết hết”. Ong vỗ vào cánh tay, vén ống áo lên tới nách lúc tiến lúc lùi, thủ thế” (ĐS).
Theo sát những hành động và những lời chửi bới điên khùng kia là cảnh: “Bọn người ở dưới làng lên ngủ nhờ bắt đầu đông. Họ vào nhà, cất nón cất xe, hỏi thăm Sương nhưng không ai lên lầu gặp ông Mịch. Họ ra trước cửa ngồi la liệt dưới mái hiên trên hè đường ồn ào nói chuyện” . Nhưng chạy đàng nào, đi ngủ nhờ đàng nào rồi họ cũng nhìn thấy: “Đạn lửa đỏ rực lừng lững nối đuôi nhau, bay trên cánh đồng, ngang qua mặt quốc lộ ngoài kia”. Và rồi mọi chuyện cũng phải kết thúc bỡi đạn bom không chừa một ai, ngay cả người hô hào sự công bằng, đạo đức, lên án mọi phia nghĩa đang bày ra nhan nhản trước mặt: “Những chiếc khăn trắng nhờ nhờ trải đầy trên mặt cát. Ong Mịch đã bỏ đi, đứng cách đó khá xa. Người ông cũng nhuộm màu mây đỏ. Sương thấy ông chậm rãi nằm úp tai xuống cát. Chiếc mũ sắt cắm vục xuống nom đen đủi, tròn bóng. Chắc ông lại nghe xem đoàn quân Tán Thuật lại gần hay chưa?”. Những dòng cuối cùng để kết thúc truyện Đuốc Sậy là sự gãy gập đoạn trường bỡi những biểu tượng cho lòng ngay thẳng, thanh tao, mọi giá trị nhân bản cũng đều gục ngã theo ông Mịch “người ông cũng nhuộm màu mây đỏ”.
Từ những người nông dân chạy loạn, đến ông trí thức giả điên hay điên thật đều được phơi bày một cách trần trụi, bình thản như những tấm lưng cong oằn chịu đựng, như cơn giận bốc lên bất ngờ của ông Mịch. Nhưng những số phận heo hắt đó, đâu chỉ dành riêng cho những người “nhà quê”. Nó còn đè nặng và hơn hết là cảnh sống mỏi mòn chờ đợi của những công chức là các thầy giáo trong ngôi trường ở quận lỵ miền núi, ngày đến lớp, đêm cùng học trò ra trốn ở các lùm bụi rậm, chỉ cách thị xã không bao xa: “Những người dạy ở An Bình tuy cách thị xã cả ba bốn chục cây số, tuy rất dễ gặp một ổ phục kích, một trận đánh, một trái mìn giữa đường, nhưng đường về thị xã còn có thể đi lại được. Ở đây thì hoàn toàn cô lập” (Những Ngày Cuối Năm Trên Miền Núi). Bỡi “đường bị cô lập”, nên những Huỳnh, Ngưỡng, Phan… vẫn còn kẹt tại nơi đèo heo hút gió này, ngóng đợi từng chuyến trực thăng bay về thị xã, với những tâm trạng nôn nao trong những ngày giáp tết để rồi ngày hai bữa vẫn phải ngồi vào bàn ăn: “Vẫn đĩa trứng thường xuyên, vẫn hai bát rau muống chẻ, một khúc cá và ba tô canh bầu hạt tổ bự”. Ngày ngày vẫn phải tới lớp, tối vẫn phải chui trốn với lũ học trò, vẫn phải chứng kiến cảnh: “… có đứa nghỉ hôm trước, hôm sau gửi cho thầy một lá thư đầy lỗi chính tả hẹn ngày “giải phóng” cho thầy”. Và một đứa học trò khác với Ngưỡng: “Thưa thầy em muốn xin rút lại hồ sơ… Em muốn xin thôi học lấy lại hồ sơ để…đi biệt kích” – “Đi biệt kích?” Ngưỡng lạ lùng. “Nhỏ như em làm sao đi lính?”. Thằng bé tự tin: “Em đã hỏi cẩn thận rồi. Cứ lên gặp họ, nói không có chỗ trốn Việt Cộng, họ nhận liền”. Hai đứa học trò bậc tiểu học, một đứa lấy lại hồ sơ để “giải phóng” cho thầy, đứa kia xin đi biệt kích, chỉ vì “không có chỗ trốn Việt Cộng”!? Thử hỏi còn cảnh nào bi thương hơn? Chiến tranh là thứ gì mà nó bóp nát những quả tim bé thơ dưới ngòi bút Y Uyên đến vậy? Mối tình với cô giáo Diệu không thể nào xoá đi cảnh “bốn chiếc oanh tạc cơ bay thành hình bầu dục trên rặng núi trước cổng trường” trong buổi lễ cuối năm.
“Những chiếc máy bay sà xuống thật thấp, lao vút vào những cột khói đen sậm ở chân núi. Những trái rockets như những cái chầy bạc lấp lánh dưới nắng tới tấp phóng xuống trước nền rặng núi xanh đậm. Đất rùng rùng từng đợt dữ dội. Bọn trẻ nhao hướng về phía đó”. (NNCNTMN).
Các nhân vật “học trò” kia không rõ chúng có thực hiện điều mà chúng nói, viết thư cho thầy giáo Ngưỡng hay không, nhưng những toan tính buổi đầu của chúng là sự dã-man-đến-tận-cùng của chiến tranh. Nó không chừa một ai, không dung tha một ai. Tất cả đều bị cuốn hút vào guồng máy súng đạn khổng lồ, căm thù chất ngất, phi lý đến cùng cực, bỡi nó không có hình thù, mặt mũi, chân tay mà lại có thể bất ngờ siết cổ họng anh đến ngạt thở, đưa tay moi móc ruột gan mọi người banh ra ngoài, chiến tranh không có giấc ngủ… : “Chiến tranh và nỗi khổ hỗn độn xung quanh như không trộn lẫn được những người công chức thị xã với người dân nạn nhân.Những đêm nghe bom, đại bác dội về rung cả cánh cửa, anh thấy chiến tranh không có giấc ngủ. Nhưng lúc nom những xác người nằm trong một căn hòng nhà thương, anh lại thấy chiến tranh gồm toàn những giấc ngủ triền miên, anh chẳng thể hỏi han như hỏi han bà hàng vịt lộn” (Bên Ngoài Khán Đài).
Mới hôm nào anh còn là trí thức trên giảng đường đại học, ngoảnh một cái, anh chui tọt vào vòng xoáy chiến tranh, đánh mất tất cả mọi niềm tin: “Tôi chạy đến thì anh tôi đã bỏ đi. Một đám đông bu trước tiệm nước. Chiếc khăn bàn anh tôi ngồi rũ xuống một góc được giữ lại bằng một lưỡi dao ngập trên bàn” (Có Heo May Hà Nội). Hành động của anh chàng đã từng “cắp nách những cuốn triết hoặc cần cù tô từng nét chữ Hán cho đậm nét” kia giờ đã là người lính bất đắc dĩ. Chuyện giận dữ vô cớ cắm lưỡi dao trên bàn, chuyện cãi nhau với mẹ, chuyện xin phép đơn vị về đám giỗ… chỉ là cái cớ để anh trút tất cả nỗi thất vọng, hoài nghi của thế hệ mình vào lớp trí thức sa lông như chú anh (chồng của cô ruột) vẫn cứ hăng hái nói về những lý tưởng, nhớ nhung quá khứ, những người thuộc thế hệ quá khư đều là những anh hùng, sẽ cứu lấy đất nước rách nát, xác xơ này và nhìn ngắm lũ trẻ như là bọn vô tích sự. Và rồi bọn trẻ kia cũng đâu chịu lép vế, họ cũng vùng lên, phản kháng yếu ớt:
“Tao không chịu được những bộ mặt trí thức thất bại lộ ra cả trrong việc theo vợ đi ăn giỗ, nói chuyện thời thế và Hà Nội. Họ khôn khéo ăn nói những thứ mọi người đang thích ăn thích nói để che lấp nỗi nhớ tiếc vốn là mầm sống của họ. Họ không nhớ một mình Hà Nội, cũng không nhớ Hà Nội như tình cảm của một chiến bại, hoặc cao hơn,, một nỗi nhớ cần nhiều cố gắng thực tại để bù đắp sự thất bại còn dây dưa chưa biết đến bao giờ. Họ còn thương nhớ cả những nếp suy nghĩ của mình nữa. Trước tình thế này, họ nên khuất mắt, đừng lẩn quẩn bên chân những người vừa mới lớn lên đã phải nhào vào chống đỡ những sụp đổ do họ gây ra” (CHMHN).
Người chú trí thức (chồng của bà cô ruột), người anh trí thức đang vào lính (anh của nhân vật xưng tôi), hai thế hệ khác nhau cùng sống trong một giai đoạn lịch sử đầy bấc trắc, biến động và cùng có những ảo tưởng khác nhau về cuộc đời, số phận, về trách nhiệm, bổn phận… trước lịch sử, một lịch sử trong thời kỳ mọt rỗng, một đất nước trong thời kỳ mọt rỗng, một bên hiển hiện rõ ràng bằng máu và nước mắt, khăn tang, một bên là những hoài niệm về một thời vàng son của cả dân tộc cùng đứng lên kháng chiến:
“Những ảo tưởng về tương lai tuy chua xót, nhưng bao giờ cũng đáng phấn khởi hơn những ảo tưởng về những chuyện đã qua, dù đẹp nhưng tình và chết như bóng thím Hương trên bức tường hoa, bên nữnh trụ gạch dát hình rồng phượng bằng các mảnh sành mảnh sứ” (CHMHN).
Vâng, con rồng con phượng chỉ là hình tượng đẹp trong trí nhớ mọi người. Còn những mảnh sành sứ là có thật, là những mảnh vỡ được ghép lại!
Chiến tranh đi qua tác phẩm Y Uyên thực không rõ ràng, không hình dạng, bị băm vằm ra từng mảnh. Khi đọc, ta gặp chỗ này một chút, chỗ kia một ít, nhưng khi gập sách lại, chắp nối các chi tiết tác giả đã mô tả, dẫn dắt, bày tỏ thì mới thấy hết phía sâu thẳm tận cùng, bên trong. Có lẽ đây là điều gây khó chịu cho người đọc, làm cho người đọc không thích truyện Y Uyên nhưng vẫn phải đọc, đọc để tìm ra điều tác giả gây khó chịu ấy. Ví như truyện dài Ngựa Tía, những nhân vật Thừa, bốn Phây, Diễn, thằng Mạnh, Thu, Thương… xoay vòng vòng những tâm trạng thấp thỏm âu lo cho công việc, số phận: Thừa trở lại quê nhà tạm nghỉ để chờ chuyến đi tiếp chỉ có thể nhìn thấy cuộc chiến qua hình ảnh của người cha và con ngựa tía; như Thương, một thiếu nữ đầy bất hạnh mang lời ca để vỗ về những người cầm súng hôm qua ở bên kia, hôm nay ở bên này; như ông Phước Hải nuôi chim yến làm giàu và qua hình ảnh ông, người ta như nhìn thấy những kỷ niệm của chính mình do ông cất giữ như một cái bảo tàng, bảo tàng của kỷ niệm, bảo tàng của thứ tình cảm riêng tây?… cùng hàng loạt những nhân vật khác. Tất cả đều xoay vòng vòng đến khó chịu, như câu ca dao anh dẫn ra:
“Con ngựa tía ăn quanh đèo Cả
Vầng nguyệt đem rằm bóng ngả về đông…”.
Trong Ngựa Tía, chiến tranh đi qua đời sống mỗi nhân vật như một định mệnh oan khốc của chính mính, bắt đầu từ làng quê, vùng ngoại ô, rồi lan xuống thành phố vây chặt lấy số phận họ và từ lúc nào nó bùng vỡ ồ ạt mà không ai hay. Tất cả đều lạc lõng, đều bơ vơ trước một nghịch lý cay đắng nhất. Những người trẻ tuổi trong Ngựa Tía như Thừa, Diễn… là những người có số phận buồn thảm nhất. Buồn thảm đến độ bi hài như chính lão chủ quán cơm:
“Ở quầy hàng, một người lính trẻ tuổi gây gỗ với gã chủ tiệm vì gã bắt quân nhân phải đóng trước tiền nửa tháng cơm. Gã chủ tiệm một mắt méo mồm, vận bộ bà ba trắng mặt nhô sau quầy, như không phân giải, không cãi lý, chỉ căng rộng mồm kêu: “… trận núi Sầm vừa rồi, bẩy người không trả tiền cơm, trận Đồng Leo năm người, bữa mìn nổ ở cây số 3 cũng mất hai người nữa, tôi không thể dễ dãi hoài như vậy, tôi không thể dễ dãi, dễ dãi tôi chết cả nhà tôi, tôi không thể…, trận Long Biền mất bốn, trận…” (Ngựa Tía, trg 55).
Đọc đến dòng cuối cùng của trang cuối cùng, người đọc không hề tìm thấy chiến tranh nổ ra, quân hai bên đánh nhau khủng khiếp như những bài bút ký của Phan Nhật Nam, những truyện viết dưới hầm, bên trong lô cốt của Trần Hoài Thư… Vậy mà, sao nó cứ đeo bám nhùng nhằng trên vai mỗi người có mặt trong truyện? Phải chăng vì, như Thanh Tâm Tuyền đã nhận xét về anh: “Y Uyên đã hội đủ những điều kiện để trở thành một nhà văn: có một khung cảnh của riêng mình (như Dickens có Luân Đôn, như Dostoievski có St. Pétersbourg), có những nhân vật mà mình yêu mến) (VĂN số 129).
Những nhân vật của Y Uyên chẳng có gì xa lạ, họ không phải là chàng thanh niên và cô thôn nữ của Lê Xuyên ngồi nấp sau bờ ruộng chờ đợi nụ hôn, không phải là các bà mệnh phụ trong những căn phòng lộng lẫy, những thiếu nữ đài các than thở về mối tình sứt sẹo của bà Tùng Long, hay những trí thức sống trong tháp ngà của Mai Thảo…, mà là những con người rất đỗi tầm thường như Bước, như Phon, như Kiểm… Họ ngơ ngác nhìn tai hoạ đổ ập xuống bụi cỏ xác xơ, bụi tre làng cao ngọn lay lắc buồn thảm, những con đường làng trở nên vắng vẻ, âm u. Lúc nào và ở đâu chiến tranh cũng có thể nhìn thấy được, ngay cả trong giấc ngủ, ngay trong câu nói bâng quơ của người nông dân ít học, ít hiểu biết thời sự nhất:
“-Trước, một buổi mai bán ở chợ dưới, hàng bán còn gấp đôi số hàng bán cả hai buổi bây giờ. Chợ chi mà chỉ có người bán.
-Chiến tranh mà chị
-Chiến tranh mẹ gì mà lâu dữ vậy” (Chiều Trong Làng)
Họ, những người nông dân chất phác, quê mùa chẳng thể biết, hiểu được chiến tranh là cái gì. Nhưng nó, chiến tranh, cứ đeo bám bên hông họ, bên mẹt hàng của họ từ ngày này đến năm khác để phải bật ra tiếng kêu “chiến tranh mẹ gì mà lâu dữ vậy”. Chính cái dây dưa cà cuống nhùng nhằng đó mới đẩy một ông Mịch trở thành kẻ điên, đẩy Bước thành một kẻ luôn lo sợ vu vơ, thành một ám ảnh, thành nỗi hoang mang vô cớ và thường trực trong đầu óc Bước:
“Thuở nhỏ Bước sợ ma quỷ bắt về âm phủ… Bây giờ từ miệng một người phu xe qua thôn, từ một thành phố Bước chỉ tin là có vì được nghe phát thanh chốc chốc nhắc lại “Đây là tiếng nói nước Việt Nam phát thanh từ…” từ một ngôi nhà làng… đâu đâu cũng có lệnh cho Bước, ai ai cũng có thể ra lệnh cho Bước. Dẫu Bước không có một căn cứ cụ thể như có bụi cây để nghĩ ma quỷ lẩn quất ở đó là hợp lẽ, bây giờ Bước vẫn phải tin và tuân những lệnh đóvà vẫn sợ những trừng phạt kèm theo” (Chiều Trong Làng).
Nhắc lại rằng, trong hầu hết các tác phẩm của Y Uyên, các nhân vật không trực tiếp tham gia hay đối diện với những cái chết kinh hãi, của cảnh bom rơi đạn nổ kinh hoàng, nhưng giữa những đổ nát ấy, giữa cảnh máu đổ thịt rơi đang xảy ra đâu đó xa chỗ họ đứng, họ sống thì chiến tranh vẫn thường trực đè nặng lên người họ, tâm trí họ. Những nhân vật hiền lành như Nhưỡng, một giáo viên, như Diệu người yêu của anh ta, đang đi bên nhau vẫn nẩy ra một cảm giác lo sợ vu vơ, bất an ngay trong ý nghĩ:
“Nghe tiếng lá khô loạt xoạt cọ vào nhau liên hồi, Ngưỡng vững lòng. Nếu có người bò trong đám mía, có vấp ngã, những tiếng loạt xoạt cũng át đi, khỏi sợ lộ” (Ngày Về Của Bọn Họ).
Đó cũng là tâm trạng của Hồ, anh cố vượt qua con đèo dài để kịp về sum họp với người thân yêu trong những ngày tết, nhưng anh vẫn cảm thấy như sự bất trắc của bom mìn vẫn chờ chực đâu đó, chờ bước chân anh đi qua, của đoàn người qua đèo mà nổ tung lên:
“Một nỗi hoảng sợ đến kinh dị chiếm lấy Hồ. Hồ cắm đầu chạy nhào đuổi theo đoàn người trước mặt.Lúc đã tới chân dốc, Hồ mới nhận ra vẻ hớt hải của mình”. (Mùa Xuân Qua Đèo).
Truyện ngắn duy nhất mà Y Uyên vẽ ra khuôn mặt người lính là truyện Tiếng Hát Của Người Gác Cầu trong tập truyện ngắn Tượng Đá Sườn Non do nhà Thời Mới xuất bản năm 1966. Đó là truyện ngắn có hình dạng, có chân dung của người lính hẳn hòi. Nhưng những người lính xuất hiện trong truyện không phải là những người anh hùng, không phải là những thiên thần, không có cấp bậc, không bao giờ biết ngồi lên xe “díp” là gì. Họ là những người nông dân vào lính, là những bè bạn trong làng vào lính và cầm súng. Chuyện vào lính của họ là đương nhiên, không thể cưỡng lại, đứng ngoài; còn cách cầm súng của họ không phải ra ngoài mặt trận bắn nhau, mà là để đứng gác trên chiếc cầu dài, mặt phải luôn nhìn xuống dòng nước lũ trôi qua gầm cầu, ở dưới đó sẽ có những bất trắc cho tính mạng chiếc cầu, tính mạng người lính và đám đông. Nhưng thỉnh thoảng người lính gác cầu cũng nhìn đoàn xe chạy vụt qua, nhìn chiếc bảng cấm ở đầu cầu xoay đi xoay lại như chính cuộc đời của bọn họ, những thanh niên nông dân, là bạn bè thân thiết nhau. Đó là Nhựt, Thấu, Phon, Đành… cùng vào nghĩa quân. Phon đứng gác trên cầu nhìn dòng nước lũ và nhìn những con bò, ngựa chết trôi sông và ao ước “có tụi nó ngồi nhậu”. Còn tụi nó, tức đám bạn thân của Phon là nghĩa quân ở xã, cũng nhớ Phon nay đã lên quận, đang ngồi nhậu thịt ngựa với rượu đế và nhớ lời ca ruột của bạn: “Cúc Hoa ơi nếu chúng ta còn cách xa nhau vì kẻ tuyền đài người dương thế thì mãi mãi anh còn là kẻ bị đày ải đơn côi trong ngục thất của tâm hồn…”.
Ngày nào cũng như ngày nào, Phon cầm súng đứng trên cầu và nhìn xuống dòng sông đục ngầu, thỉnh thoảng nhìn tấm bảng xoay qua xoay lại và nhìn xuống dòng nước coi có xác con vật nào trôi qua? Cảnh nhàm chán ấy cứ lặp đi lặp lại mãi đến nỗi Phon cất tiếng hát bài ca của đứa bạn đã chết tên Xanh, như một thói quen nhớ bạn bè. Nỗi nhớ cuồn cuộn chảy dưới gầm cầu được Y Uyên miêu tả đến tận cùng sâu thẳm của tâm hồn Phon, phơi trần bản chất đặc sệt nông dân từ trong suy nghĩ đến hành động. Người con người cùng khổ ấy chỉ có mỗi một ao ước cháy bỏng là được nhậu một bữa cho ra nhậu. Những giọt nước mưa bám trên mặt mũi anh cũng gợi một sự liên tưởng, như một nỗi ám ảnh không nguôi: “Phon ước những giọt nước mưa trên môi mình là rượu. Phon vuốt mặt, nhô ra khỏi cây sắt”. Sự ám ảnh ấy, lại còn dính chặt tầm mắt Phon theo xác con vật trôi trên sông: “Con vật trôi mau. Tựa bụng vào thành cầu, Phon cúi xuống nhìn. Chiếc đầu với hai cái sừng nhô lên một lần nữa. Con vật chắc mới chết. LúcPhon ra gác cầu, trận đánh mạn trên sông mới bắt đầu. Phon chắc nó cũng trúng đạn như con bò tuần trước trôi qua đây (…) Phon bứt rức lắng tai xem có tiếng động nào chứng tỏ con vật còn đang ở dưới chân cầu. Chỉ có tiếng nước xoáy.
-Nó đã bị kẹt vào dây kẽm gai”.
Cái nhìn thấy, sự suy nghĩ của người lính dưới ngòi bút Y Uyên vẫn nguyên hình là những anh nông dân chất phác, thật thà, không chỉ riêng mỗi một nhân vật Phon mà còn cả những nhân vật khác, là bạn thân của Phon đang là lính nghĩa quân dưới làng: “Không phải thịt con ngựa hồi hôm đâu anh Năm. Lòng ngựa xổ cả đống lẫn lộn với lòng Cai Bốn, ai mà dám ăn”. Những người lính nông dân đi cầm súng chỉ để cầm súng, chỉ để ước ao điều mình chưa đạt tới “ngồi trên xe thiết giáp chạy qua bên kia quận” như cách rông chơi chứ không phải đi đánh nhau, và hơn hết:”Một đùi thịt bò còn nóng máu, một xị rượu lúc đã thay quần áo khô, có lẽ không còn điều gì đáng ước ao hơn thế. Tay Phon nhiều lúc đặt trên cán dao bên thắt lưng. Một đùi bò, một xị rượu…”.
Bóng dáng chiến tranh trong hầu hết các truyện ngắn của Y Uyên là sự chập chờn qua dòng suy nghĩ, là lời kể lại, là nhìn thấy một sự khôi hài rất khôi hài, ví như chính trong truyện này, anh đã mô tả lại cảnh cãi nhau giữa hai thiếu uý ngồi trên xe “díp” và những người ngồi trên chiếc M113 ở giữa cầu, để anh lính gác cầu là: “Phon ngẩn ngơ nhìn theo, nghĩ thầm:
-Mỗi ngày gặp một vụ như vậy có khi đỡ sầu”.
Người lính gác cầu buồn vì xa làng, xa bạn, xa những cuộc nhậu, đêm ngày chỉ quanh quẩn bên chiếc cầu dài hun hút, nhìn tấm bảng quay qua, quay lại, nhìn đoàn người xe qua lại một chiều như thể khắc trong đầu anh nỗi buồn thật sự. Đó là những tai ách làm anh và đám bạn anh phải xa nhau, phải buồn.Và rất hiếm hoi, anh mới có chút hăm hở để thấy mình thật sự là mình như từ trước khi vào nghĩa quân:
“Nắng lộ dần trên các vòm cầu. Cánh cửa đóng im ỉm ở đầu nhà ga bật mở. Người con gái sang ngủ ngày với Trưởng đồn nắm chiếc khăn tay đi ra, bước lên một chiếc xe Lam-bét-ta. Phon nắm một con dao, bước xuống bờ sông” (THCNGC)
Đó là mấy dòng cuối cùng của truyện Tiếng Hát Của Người Gác Cầu khép lại một cách lạnh lùng, bình thản như chiến tranh bình thản đi qua trên mỗi số phận, mỗi cuộc đời.
Và rồi khi Đành ở lại xã, đôi bạn nghĩa quân nhớ nhau, Đành đã lên quận tìm Phon đang đứng gác dưới mưa. Mẫu đối thoại giữa đôi bạn thân thật ra không có gì đặc biệt đáng lưu tâm, nó vô vị nhạt nhẽo như nhận xét của nhiều người, đôi lúc có cảm tưởng như anh cố tình kéo dài ra lấp đầy trang. Mẫu đối thoại không đâu vào đâu, không ăn nhập gì tới sự nhớ thương nhau cả:
“Phon giơ tay vẫy, chân bước sang mạn cầu bên kia chờ bạn. Đành hất mặt lên cười với bộ mặt bóng nước.Hắn đạp xe lên, dừng trước mặt Phon, chân phải đặt trên đường dành cho bộ hành.
-Mạnh giỏi mầy?
-Mạnh. Có chuyện chi đó?
-Có chuyện chi đâu.
-Rảnh chuyện vậy na.
-Ờ, tụi tao mà.
Phon sờ vào chiếc áo lụng thụng của bạn:
-Tụi mầy xếp thiệt.
Đành liếm nước quanh môi, nghe những tiếng súng từ vùng núi đầu sông vọng xuống.
-Vậy là đỡ rồi. Chỉ còn có hai tháng nữa mầy đã có lương.
-Bữa đó tao gắng xin về gặp tụi mầy. Nghe nói sau bữa tao đi thằng Năm có chuyện với tụi mầy.
-Nó thông cảm rồi. Bữa thằng con nó chết nó cũng mời tụi tao lại nhậu. Con nó chết được hơn tháng.
-Thiệt tội
-Thằng Thấu nói hay quá nó cũng đỡ sầu.
-Ờ Thấu…
Một chiếc xe ríp phóng vụt qua, Phon quay mặt ra thành cầu
-Cấm nói chuyện trên cầu?
-Cấm.
Đành ngó trước ngó sau rồi vòng xe trở lại:
-Vậy tao về.
Phon dựa lưng vào thành cầu:
-Tao có lời thăm Thấu”
(Tiếng Hát Của Người Gác Cầu).
Chịu khó đọc lại mẫu đối thoại trên lần nữa, ta thấy dường cái vô vị nhạt nhẽo dẫn dần trôi ra khỏi trí óc khi Đành nói “Vậy tao về”. Bình thường, giản dị, cứ y như ta nghe hai người nói chuyện ngoài đời chứ không phải nói trong văn chương. Vậy mà Y Uyên bê vào nguyên xi để ta cảm được cái tầm thường của những người nông dân, ngoài chuyện nghĩ đến ăn nhậu, miếng cơm manh áo, chuyện lo sợ nơm nớp tai hoạ của chiến tranh đổ xuống, nó còn toát lên cái tình, tình bạn chân thành, không giấu giếm, úp mở, khách sáo… và một sự chịu đựng ghê gớm của tầng lớp nông dân đang chạy loạn ở miền duyên hải Trung phần “Vậy tao về” rõ ràng không phải là sự hờn dỗi. Câu nói tầm thường này là cả một sự dàn trải về lòng nhẫn nại, cam chịu, nhịn nhục xuyên suốt toàn bộ cốt truyện. Cái khó chịu trong phong cách sử dụng chữ nghĩa của Y Uyên là chỗ đó, đồng thời nó tạo cho anh có một bút pháp riêng biệt, không giống ai. Nói như nhà văn Võ Phiến, thì: “Giữa một văn đàn náo nhiệt, Y Uyên, kẻ nhỏ tuổi nhất, lại nhỏ nhẹ, bình tĩnh, kín đáo. Y Uyên như thể không bao giờ chịu nói hết lời. Chỉ có chuyện băng ngang qua một quãng đồng dưới nắng rồi ngồi lại duỗi cẳng cho con bú, chỉ có xách Solex đi thăm cô bạn cũ một ngày mưa mù, chuyện vãn lai rai rồi chiều lại xách xe về, vậy mà người đọc đọc xong, buông cuốn sách xuống, ngồi lặng lờ, thấy nhạt cả mồm, thấy ngao ngán. Đời không là thành sầu bể khổ gì ráo, đời không phi lý không hữu lý gì cả, không làm ai buồn nôn lợm giọng gì cả …
Nhưng cuộc sống sao mà … nhếch nhác một cách … "tự nhiên", làm ta rùng mình. Một nỗi buồn nhẹ nhàng cứ lặng lẽ thấm dần, liễm dần vào hồn ta như mưa bụi lặng lẽ thấm ướt cảnh vật một chỗ quận lỵ .
Truyện để lại một âm vang xúc động tựa như thơ.
Cái ma lực của một phong cách văn chương. Ghê thật ."
(Võ Phiến, Văn Học Miền Nam, trg 1856, NXB Văn Nghệ, Hoa Kỳ 1999)
26 tuổi với 7 tác phẩm đã được đón nhận như một nhà văn có cá tính, chân tài đã gây xúc động cho biết bao độc giả yêu mến anh, bạn bè anh, người thân khi anh nằm xuống bên dòng suối dưới chân núi Tà Dôn. Và, 35 năm sau, kể từ ngày anh bỏ bạn bè, rong chơi ở cõi vĩnh hằng, đọc lại những truyện anh viết về một thời loạn lạc, tôi vẫn thấy sự loạn lạc ấy chưa hề chấm dứt như điều anh từng ước mơ “chiến tranh mẹ gì mà lâu dữ vậy?”. Vâng, “Quê Nhà” anh vẫn chưa thật bình yên, mọi người ở quê nhà vẫn là hình bóng con Ngựa Tía của anh…
l’ Aveyron , tháng 11-2004
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)