14/7/10

Con đường sáng tạo (12) - Rainer Maria Rilke : Thư cho một thi sĩ trẻ tuổi

Con đường sáng tạo
(Tư tưởng và quan niệm về sáng tác của Nietzsche, Rimbaud, Henry Miller, Schopenhauer, William Faulkner, André Gide, Georges Simenon, Rainer Maria Rilke, Emerson, Thomas Wolfe)
Nguyễn Hữu Hiệu dịch và giới thiệu


Rainer Maria Rilke

Thư cho một thi sĩ trẻ tuổi

“Aber alles, was vielleicht einmal vielen möglich sein wird, kann der Einsame jetzt schon vorbereiten und bauen mit seinen Händen, die weniger irren. Darum, lieber Herr, lieben Sie Ihre Einsamkeit, und tragen Sie den Schmerz, den sie Ihnen verursacht, mit schön klingender Klage.’’

“Nhưng tất cả những gì một mai có thể trở thành khả thể cho bao người, thì ngay từ bây giờ kẻ Cô Đơn đã có thể đổ nền xây móng bằng hai hàn tay hắn, hai bàn tay rất ít sai lầm. Bởi vậy, ông thân mến, hãy yêu thương nỗi Cô đơn và hãy chịu đựng nỗi Khổ Đau do nó gây ra với lời ai ca diễm lệ.”

(Briefe an einen jungen Dichter)


Giới thiệu

1.

Rainer Maria Rilke chào đời ngày 4 tháng Chạp tại Prague.

Từ năm 1886 tới năm 1890: Rilke theo học trường Thiếu Sinh quân ở Saintpolten, rồi trường võ bị Militär–Oberrealschule. Năm 1891, sức khỏe yếu kém, ông bỏ trường võ bị, theo học trường thương mại ở Linz. Năm 1895: Phân Khoa Triết Đại Học Prague. Năm 1896, Luật Khoa.

Năm 1899, du lịch qua Nga với Lou-Andreas-Salomé. Gặp Tolstoi. 1901 lập gia đình với Clara Westhoff, từ năm 1905 đến 1906 làm việc với Rodin ở Pháp. Sau đó là những năm xê dịch không ngừng cho tới chết: 1906-1907: Bỉ, Đức, Áo, Tiệp Khắc, Ý. 1908: Pháp. 1910: Rome, Venise, Paris, 1911: Algérie, Tunisie, Ai Cập. 1912-1913: Tây Ban Nha. 1914: Paris, Leipzig, Munich, Berlin. 1915-1916: bị động viên sau đó được giải ngũ vì lý do sức khỏe. 1919: Thụy Sĩ. 1920: Locarno, Bâle, Venise, Berne, Zurich, Genève, Bâle. 1921: Paris. Tháng Bẩy: ẩn dật tại lâu đài Muzot.

Rilke từ trần ngày 29 tháng Chạp năm 1926 tại dưỡng đường ở Valmont, Lausane.


2.

Rilke là kẻ suốt đời lầm lũi đi tìm hoang vắng tịch liêu.

Đó là một khuôn mặt trầm tư, một tâm hồn nghiêng mãi xuống lòng đời. Một cách vô cùng tin tưởng, kiên trì, khoan hóa và rộng mở. Một cách tuyệt đối không thắc mắc, không hối thúc, không dò hỏi. Một cách tuyệt đối lặng lẽ, tuyệt đối trầm lặng đón chờ cái Vô Ngôn. Vô Danh. Vô Hình Vô Ảnh của UYÊN NGUYÊN KHƠI MỞ - das Offene.

Chúng ta là những con ong vô hình. Chúng ta say sưa hút mật của hữu hình để tích chứa trong bọng ong vàng óng của Vô Hình.

Chỉ có cái dừng mới dừng được cái dừng của vạn vật và nước lặng thì sáng. Rilke và Trang Tử gặp nhau ở cõi tiêu dao lồng lộng và đồng thời lắng đọng.


3.

“Sáng tạo” và “cô đơn” là hai khai ngữ của Rilke.

Sáng tạo không phải chỉ là một hành động của con người. Đó chính là sự biểu lộ của dòng đời. Đó chính là sự khơi mở dòng đời.

“Sáng tạo (schaffen) có nghĩa là múc nước ở nguồn (schöpfen). Và múc nước ở nguồn là nhận chịu cái câm lặng và cưu mang nó như đã chịu nhận từ thuở ban đầu. Và như thuở ban đầu hồn nhiên, thơ dại [1] .

Sáng tạo là mở ra cái mở phơi, là lắng chìm với các chìm lắng, và là sống với tất cả cái sống: làm một với Thiên Nhiên. Muốn thế kẻ sáng tạo phải trong sáng, trầm tĩnh, đơn giản, kiên nhẫn, nguyên vẹn – nghĩa là phải cô đơn vậy.

Cô Đơn, nỗi cô đơn nội tâm mênh mang”

(Einsamkeit, grosse innere Einsamkeit) đó là điều duy nhất cần thiết.

Cô đơn, như đứa trẻ cô đơn, khi người lớn đi tới đi lui, bận túi bụi với những công việc dường như lớn lao đối với trẻ con, và quan trọng chỉ vì người lớn vướng mắc vào và đứa trẻ không hiểu ất giáp gì.

Cô đơn, như thiếu phụ mang thai cô đơn, khi phải bảo vệ thai nhi trứng nước và một mình phải đương đầu với một cuộc phiêu lưu sinh tử mà không ai giúp được mình mảy may.

Cô đơn là điều kiện của cảm hứng.

Cô đơn là chất liệu của cảm hứng.

Cô đơn chính là cảm hứng. Tất cả mọi tác phẩm vĩ đại đều được sáng tạo dưới bóng dáng uy nghi của cô đơn. Tất cả mọi tôi luyện đều là một giai đoạn ẩn tu khép kín trong liêu vắng.

Vì cô đơn là điều kiện thiết yếu để tập trung tinh thần, một cơ hội để nung nấu nghị lực, một dịp may để thu nhiếp trọn vẹn con người mình. Là một lần nhìn rõ mình, một lần can đảm chấp nhận thân phận người để vượt qua mãi mãi. Là một nền tảng vững chắc để xây dựng, một khởi điểm rõ rệt cho một cuộc hành trình, không phải về với hữu hạn mà về với vô biên, một cuộc chạy đua, không phải với Tử Thần thù nghịch mà là cùng với nỗi chết thân yêu, không phải trước sự chứng kiến của mọi người. Nhưng dưới những vì sao bất diệt.

Chúng ta cô đơn vô tả. Chúng ta cô đơn khôn tả xiết: đó là một sự kiện căn bản của thân phận con người, một sự thật thật hơn gỗ đá và chắc chắn hơn cái chết.

Cô đơn là khí hậu tự nhiên của con người. Đó là số phận của tất cả những tâm hồn siêu đẳng. Vĩ đại có nghĩa là bị ngộ nhận, bị xua đuổi, bị chà đạp. Vĩ đại có nghĩa là cô đơn. Là những kẻ sáng tạo, chúng ta phải sống thuận hòa với cô đơn như cá với nước.

Cô đơn là quê hương của chúng ta. Chúng ta phải trung thành với cô đơn như kẻ vong quốc lưu đầy luyến nhớ cố hương.

Cô đơn là đức hạnh của ta. Chúng ta phải kiêu hãnh vì cô đơn như một vương tử mất ngôi trong chế độ dân chủ bảo trì ngọc tỷ.

Cô đơn là mái nhà yên ấm của ta. Chúng ta phải ôm ấp cô đơn như người tình ấp ủ người tình.

Cô đơn là tình ta. Chúng ta phải trìu mến cô đơn như kẻ tình nhân nâng niu mối tình thiêng liêng. Mối tình đầu tiên, mối tình cuối cùng.

Ôi cô đơn! hãy trở về! cuộc sống sáng tạo của chúng ta bắt đầu từ đây. Nghĩa là từ khi chúng ta khẳng định như Rilke rằng: “Chúng ta là nỗi cô đơn.” (Wir sind einsam.) [2]

Những bài thơ của Rilke là những lời ru vọng về từ cô đơn, khuyến dụ cô đơn, vỗ về cô đơn.

Thi ca Rilke chính là khúc Ngợi Ca Cô Đơn (Dithyrambe de la Solitude) như tư tưởng Nietzsche.

Ôi cô đơn! Mi là tổ quốc của ta; cô đơn! Giọng nói với ta sao mà hân hoan và dịu dàng làm vậy.

Chúng ta không hỏi han nhau điều gì, chúng ta không than thở với nhau điều gì, thong dong chúng ta cùng nhau vượt qua những cánh cửa mở rộng.

Bởi vì tất cả đều rộng mở và sáng lóa nơi mi; và thời khắc nữa, cũng trôi đi bằng những bước thầm rất nhẹ (…)

Nơi đây phát hiện cho ta yếu tính và sự biểu lộ của tất cả những cái gì hiện hữu.

(Also sprach Zarathustra)

Đi sâu vào bản chất của cô đơn chúng ta sẽ thấy cô đơn là một điều kiện của Cách vật và Vật Hóa. Vì cô đơn là gì nếu không phải là khép lại với nhân sự (choses humaines) và mở ra với sự vật - tại - thể (chose en - soi)? [3] . Khi đã hiểu thế nào là Vật thể chúng ta sẽ hiểu thế nào là Hiện thể. Khi đã hiểu thế nào là Hiện thể, chúng ta hiểu thế nào là Toàn thể. Và khi đã hiểu thế nào là toàn thể, chúng ta sẽ hiểu thế nào là Nhất thể. Khi đã hiểu thế nào là Nhất thể, chúng ta sẽ hiểu thế nào là Linh thể.

Vạn vật như rừng rậm tối mù, nhưng nơi đây, trong cô đơn, trong một nơi linh thánh (in a holy place) tất cả đều mở ra, đều sáng lòa cho chúng ta. “Nơi đây phát hiện cho ta, yếu tính và sự biểu lộ của tất cả những gì hiện hữu” (Nietzsche) vì tại nơi đây “Chúng ta đứng trước niềm bí nhiệm của thế giới nơi Hiện thể đi vào Hiển thể và Nhất thể đi vào Phức thể . (We stand before the secret of the world where Being passes into Appearance and Unity into Variety – Emerson, “The Poet”).

Tất cả những gì tách ra khỏi Toàn thể đều xấu xa, tất cả những gì ly khai khỏi Linh thể đầu tầm thường, nên thi sĩ, kẻ tái-kết sự vật vào thiên nhiên và Toàn thể (the poet who re-attaches thíng to nature and the Whole) chính là kẻ sửa chữa sự suy đồi của sự vật [4] , kẻ vớt sự vật lên tại nguồn và gọi tên sự vật theo giấy khai sinh. Hắn chỉ có thể thể thực hiện được công trình đó bằng cách “buông thả mình theo bản chất của sự vật” với niềm tin tưởng rằng bên trên năng lực mà hắn thủ đắc và ý thức được còn có một sức mạnh vô biên liên tục ào ạt trôi chảy trên hắn như một đại dương mà hắn chỉ thể hoà nhập bằng cách khơi dòng từ nơi hắn rồi cởi bỏ tất cả mọi y phục, khôi giáp, mở tung những cánh cửa nhân loại, liều lĩnh lăn xuống dòng.

Nhập lưu!

Bằng cách khuất mình chịu nhận sức mạnh siêu nhiên dìu dặt thổi qua các vật thể, bằng cách can đảm chịu đựng tất cả mọi vết thương của một sinh vật nhậy cảm không có vỏ, bằng cách chịu đựng mọi nhục nhằn như một kẻ cô đơn, bằng cách kiên trì như một trái cây phơi mình hứng nắng gió mưa bão qua các mùa, hắn mới có thể nhập được vào đời sống vũ trụ. Lúc đó lời nói của hắn sẽ là sấm sét, tư tưởng của hắn sẽ là luật lệ, ngôn ngữ của hắn sẽ phổ quát dễ hiểu như cỏ cây muông thú. Và tác phẩm của hắn sẽ là những cơn mưa nguồn đưa hắn ra khơi.

“Đây là khúc hoài cảm; ngụ cư trên sóng nước và chẳng bao giờ có chỗ trú ẩn trong thời gian;
Và đây là những ước vọng; chuyện trò thầm thì về giờ phút âm thầm thường nhật với ngàn thu.”

Thi sĩ, kẻ không cửa không nhà, kẻ vô sở trú (cet être sans abri) trong thời gian và không gian, khước từ mọi yên ổn, lầm lũi một mình đi theo dấu vết của những thần thánh đã biệt vô tăm tích hướng về UYÊN NGUYÊN KHƠI MỞ, chờ đợi một cách thành kính, trong đêm tối phong ba bão táp, ánh sáng chói lòa của Linh thể.


*



Thư cho một thi sĩ trẻ tuổi

Ông hỏi tôi, thơ ông có được không. Ông hỏi tôi. Ông đã hỏi những người khác trước đó. Ông đã gửi những bài thơ ấy tới các tạp chí. Ông so sánh thơ ông với những bài thơ khác và ông bối rối khi một vài chủ bút khước từ những cố gắng của ông. Bây giờ (vì ông đã cho phép tôi khuyên ông) tôi xin ông hãy chấm dứt tất cả những việc đó. Ông đang hướng ngoại, và đó là điều trên tất cả mọi điều từ nay ông không nên làm nữa. Không một ai có thể khuyên nhủ hay giúp đỡ ông, không một ai. Chỉ có một con đường duy nhất. Đi sâu vào con người ông. Tìm lý do bắt buộc ông phải viết; tìm xem nó có cắm rễ vào những nơi sâu kín của tâm hồn ông không, hãy tự thú nhận với mình xem ông có chết khi bị cấm viết hay không? Nhất là điều này: hãy tự hỏi ông vào những giờ phút tĩnh lặng nhất của đêm: ta có bắt buộc phải viết không? Hãy đào xới trong ông cho ra một câu trả lời là khẳng định, nếu ông có thể đối đầu với một câu“Ta phải viết” mãnh liệt và đơn giản, lúc ấy hãy xây dựng đời ông theo nhu cầu ấy; cuộc đời ông ngay cả trong những giờ phút lạnh lùng hờ hững và ăn xổi ở thì vô nghĩa nhất cũng phải thở thành dấu hiệu và chứng tích của sự thôi thúc này. Rồi ông hãy lại gần Thiên Nhiên. Rồi hãy cố gắng nói, như con người đầu tiên trên trái đất, điều ông thấy và cảm nghiệm, yêu và mất. Đừng làm thơ tình; trước hết hãy tránh những đề tài quá dễ dãi và thông thường đó; đó là những đề tài khó nhất, vì cần phải vận dụng một sức mạnh mãnh liệt và viên mãn để tạo nên một cái gì độc đáo của riêng mình nơi truyền thống vững chắc, đôi khi tuyệt luân đã cống hiến hàng rừng. Bởi thế hãy tránh những đề tài thông thường đó và hãy tìm những đề tài mà đời sống hàng ngày đem lại cho ông; hãy mô tả nỗi ưu sầu và ước vọng của ông, những ý nghĩ thoáng qua và niềm tin vào một vẻ đẹp nào đó – hãy mô tả tất cả những điều đó với một tấm lòng chân thành thân mật, trầm tĩnh và khiêm tốn và hãy dùng những sự vật xung quanh ông, những hình ảnh của giấc mơ ông, những vật của những kỷ niệm ông, để tự diễn tả mình. Nếu đời sống thường nhật của ông có vẻ nghèo nàn, đừng lên án nó; hãy lên án chính mình chưa đủ thi sĩ để vời gọi những sự phong phú của đời; vì đối với kẻ sáng tạo không có sự nghèo khó và không có nơi nào nghèo nàn, lãnh đạm cả và ngay cả khi ông ở trong nhà tù, tường vách bưng bít không để lọt một âm thanh nào đến với giác quan ông - phải chăng lúc đó ông vẫn còn tuổi thơ, của cải quí báu, vương giả, kho tàng kỷ niệm? Hãy hướng tâm trí ông về nơi đó; hãy cố gắng vớt lên những cảm giác chìm đắm của quá khứ ăm ắp bao la đó; cá tính ông sẽ vững mạnh, nỗi cô đơn của ông sẽ trải rộng ra và sẽ trở thành một chốn ẩn trú âm u mà những tiếng động ồn ào của những kẻ khác sẽ thẩm qua rất cách xa, - Và nếu từ cuộc trở về nội tâm nầy, từ cuộc lặn lội sâu vào thế giới riêng tư này những vần thơ đến, thì lúc đó ông sẽ không nghĩ tới chuyện hỏi những vần thơ đó có hay không. Ông cũng chẳng quan tâm tới việc gọi các tạp chí để ý tới những công trình này; bởi ông hân hưởng nhìn thấy ở đó vật sở hữu tự nhiên thân yêu, một mảnh và một tiếng nói của cuộc đời ông. Một tác phẩm nghệ thuật hay khi nó phát xuất từ một nhu cầu. Sự thẩm định nằm ngay trong chính bản chất của khởi nguyên nó; không có sự thẩm định nào khác. Bởi thế, ông thân mến, tôi không biết khuyên ông điều gì ngoài điều này: đi sâu vào lòng mình, thăm dò những chiều sâu nơi bắt nguồn cuộc sống của ông: tại suối nguồn đó, ông sẽ tìm thấy câu trả lời cho câu hỏi ông có phải sáng tạo hay không. Hãy đón nhận âm vang của nó không tra tấn sục sạo bên trong. Có thể từ đó ông được vời gọi trở thành người nghệ sĩ. Vậy thì hãy mang lấy mệnh, chịu lấy nghiệp, với sức nặng và sự vĩ đại của nó mà không bao giờ hỏi phần thưởng nào có thể đến từ bên ngoài. Bởi kẻ sáng tạo phải là cả một vũ trụ cho riêng mình và tìm thấy tất cả mọi sự trong mình và trong phần thiên nhiên đó mà hắn đã luyến lưu kết hợp vào.

Nhưng có thể sau cuộc đi sâu vào lòng mình và vào nỗi cô đơn sâu thẳm ông sẽ từ bỏ ý định trở thành thi sĩ; như tôi đã nói, chỉ cần cảm thấy mình có thể sống không cần viết là đủ buộc mình không được viết. Nhưng dù vậy, cuộc đi sâu vào lòng mình mà tôi yêu cầu ông thực hiện không phải là uổng công vô ích đâu. Cuộc đời ông trong mọi trường hợp đều tìm thấy từ đó những nẻo đường, và mong sao cho những nẻo đường đó tốt lành, giầu sang và rộng rãi. Tôi cầu chúc cho ông nhiều hơn tôi có thể nói.

Tôi còn phải nói gì với ông nữa đây? Tất cả mọi sự, đối với tôi, dường như đều có tầm quan trọng của chúng; và sau cùng tôi chỉ muốn khuyên ông tiếp tục trưởng thành một cách trầm lặng và trang nghiêm qua suốt cuộc tăng trưởng của ông; ông không được khuấy động sự tiến triển của ông một cách tàn bạo hơn nữa bằng cách hướng ra bên ngoài và chờ đợi từ bên ngoài những lời giải đáp cho những câu hỏi mà chỉ tình cảm sâu kín nhất của ông trong giờ phút tĩnh lặng nhất mới có thể mang lại cho ông…

Tác phẩm nghệ thuật là một niềm cô đơn vô hạn và không có gì tệ hại đối với những tác phẩm nghệ thuật cho bằng phê bình. Duy chỉ có tình yêu mới có thể lãnh hội, bảo tồn, công bình với chúng – Hãy luôn luôn cho tình cảm của ông có lý khi nó chống lại những phân tách, đúc kết, giới thiệu đó. Dù ông có sai lầm đi chăng nữa thì sự trưởng thành tự nhiên của đời sống nội tâm của ông cũng sẽ dẫn dắt ông một cách thong dong, với thời gian, tới một trạng thái khác của nhận thức. Hãy để cho những phán đoán của ông sự phát triển riêng tư, lặng lẽ. Đừng chống đối nó, bởi, như tất cả mọi tiến triển, nó phải phát xuất từ đáy sâu con người ông và không thể bị bức bách hay thôi thúc. Cưu mang cho đến hạn kỳ rồi mãn nguyệt khai hoa: tất cả là ở đó. Ông phải để mỗi ấn tượng, mỗi mầm mống tình cảm chín muồi trong ông, trong bóng tối, trong vô ngôn, trong vô thức, những cõi niềm khép kín đối với trí tuệ. Hãy chờ đợi với lòng khiêm cung và kiên nhẫn giờ khai sinh của một hào quang mới: như thế mới là nghệ sĩ; trong lãnh hội cũng như trong sáng tạo.

Ở đây thời gian không phải là tiêu chuẩn đo lường, một năm không đáng kể gì, và mười năm không có nghĩa lý gì cả, là nghệ sĩ có nghĩa là không tính toán và không đếm, là nẩy nở như cây cối, không hối thúc nhựa của mình và tin tưởng hứng chịu những cơn gió lớn của mùa xuân mà không sợ rằng hạ kia không đến. Mùa hạ nhất định sẽ đến. Nhưng nó chỉ đến với kẻ biết chờ đợi, lắng đọng và mở rộng như thể họ có cả thiên thu trước mặt. Tôi học hỏi điều này hàng ngày, học hỏi dưới vô vàn nỗi đau khổ mà tôi vẫn thầm cảm tạ: Kiên Nhẫn là tất cả!

Ông Kappus thân mến: tôi đã để bức thư của ông rất lâu không có hồi âm, không phải là vì tôi đã quên nó – trái lại: đó là một trong những lá thư người ta luôn luôn đọc lại khi tìm thấy trong chồng thư cũ, và tôi đã tìm thấy ông rất gần kề qua lá thư này. Đó là thứ thư viết vào ngày mồng hai tháng năm, chắc ông còn nhớ. Bây giờ, khi đọc lại bức thư đó, trong niềm tĩnh lặng mênh mông của vùng xa xôi này, tôi xúc động bởi mối ưu tư đẹp đẽ của ông về cuộc đời, xúc động hơn cả khi còn ở Paris, nơi tất cả đều huyên náo và tắt lịm một cách khác hẳn bởi tiếng động quá ồn ào làm mọi sự chấn động. Nơi đây, nơi một vùng quê bao la trải ra xung quanh tôi, trên đó gió từ biển lướt qua, nơi đây tôi cảm thấy trong thâm sâu của chúng, những câu hỏi và tình cảm của ông có đời sống riêng, không ai có thể trả lời được: do đó những bậc trác tuyệt nhất cũng nhầm lẫn trong chữ nghĩa của họ khi họ đòi hỏi chúng biểu thị những cái vô cùng tế nhị và đôi khi ngay cả cái không thể diễn tả được. Tuy nhiên tôi tin tưởng rằng ông sẽ không phải chịu chờ đợi trong bằn bặt không giải đáp nếu ông bám sát sự vật, tương tự những sự vật mà mắt tôi hiện đang hồi phục lại. Nếu ông gắn bó với thiên nhiên, với cái nhỏ bé mà gần như ít người lưu ý, và những cái, do sự lưu tâm đó có thể đột nhiên trở nên vĩ đại và vô lượng; nếu ông có lòng yêu dấu những cái nhỏ nhoi tầm thường và nếu ông khiêm tốn như kẻ tôi đòi, tìm cách thu phục lòng tin cậy của cái có vẻ nghèo nàn, thì lúc đó mọi sự sẽ trở nên dễ dàng hơn, liên kết hơn và một cách nào đó hòa hợp với ông hơn, có thể không ở trong trí thức ông, trí thức đầy ải cái kỳ diệu ra đằng sau, nhưng trong tâm thức sâu thẳm nhất của ông, ở trong tỉnh thức và nhận thức. Ông hãy còn trẻ quá, nên trước mọi khởi đầu, tôi hết sức ân cần xin ông, ông thân mến, hãy kiên nhẫn với tất cả những gì chưa giải đáp trong lòng ông và hãy cố gắng yêu chính những câu hỏi như những căn phòng khóa kín và những cuốn cách viết bằng ngoại ngữ rất xa lạ. Đừng tìm kiếm những câu câu trả lời bây giờ, những câu trả lời không thể tới với ông bởi ông chưa thể sống được chúng. Và vấn đề là phải sống tất cả mọi sự. Bây giờ hãy uống những câu hỏi. Có thể, dần dần, ngoài sự chú ý của ông, vào một ngày xa xôi nào đó, ông sẽ sống trong câu trả lời. Có thể ông mang trong ông khả năng tác tạo và hình thành như một lối sống đặc biệt hạnh phúc và thanh khiết, hãy luyện mình thích hợp với khả năng ấy, nhưng hãy đón nhận tất cả những gì xẩy đến với lòng tìn cậy chân thành, và nếu sự việc đến chỉ từ ý chí của ông, từ một vài như cầu của con người sâu thẳm nhất của ông, hãy nhận lãnh nó và đừng ghét bỏ điều gì cả. Dục tính là một điều khó khăn, thực tế. Nhưng chính khó khăn là cái chúng ta phải cưu mang; hầu như tất cả những gì quan trọng đều khó khăn và tất cả đều quan trọng. Nếu ông nhận thức được điều đó và đạt tới tự ông, từ bản chất và đường lối của riêng ông, từ kinh nghiệm và tuổi thơ với sức mạnh của riêng ông, để tựa thành một tương giao với tình dục hoàn toàn của riêng ông (chứ không phải bị ảnh hưởng bị ước lệ và tập quán) thì lúc đó ông khỏi cần phải sợ mất mình và trở nên không xứng đáng với sở hữu thể quí báu tuyệt vời của ông nữa.

Khoái cảm nhục thể là một kinh nghiệm của đời sống lạc quan không khác thị giác thuần túy hay vị giác thuần túy mà một trái cây tươi đẹp đến dưới đầy đầu lưỡi ta; đó là một kinh nghiệm vĩ đại, không cùng, hiến dâng cho chúng ta, một sự hiểu biết về thế giới, sự tràn đầy và huy hoàng của tất cả mọi sự hiểu biết. Và không phải sự chấp nhận nó của chúng ta xấu xa; điều xấu xa là đa số lạm dụng và phung phí kinh nghiệm này và dùng nó như một kích thích trong những lúc mệt mỏi của cuộc đời họ và như một trò giải trí thay vì như một cuộc tập trung hướng về những khoảnh khắc xuất thần. Người ta thường làm ngay cả việc ăn uống nữa thành một cái gì khác hẳn: sự cần thiết một đằng, sự thừa thãi một nẻo, đã làm lu mờ sự phân minh của nhu cầu này, và tất cả những nhu cầu sâu thẳm, giản đơn mà trong đó đời sống tự đổi mới cũng trở thành cùn nhụt một cách tượng tự như vậy. Nhưng cá nhân có thể làm sáng tỏ những nhu cầu ấy cho chính mình và sống chúng một cách minh bạch (và nếu không phải cá nhân, kẻ quá phụ thuộc thì ít nhất là kẻ cô đơn ). Kẻ cô đơn có thể nhớ rằng tất cả mọi vẻ đẹp trong cỏ cây muông thú là một hình thức bền bỉ của tình yêu và khát vọng, và hắn có thể thấy muông thú, như hắn thấy cỏ cây, kiên nhẫn và ngoan ngoãn giao hợp, sinh sôi nẩy nở và tăng trưởng, không phải vì mê luyến xác thịt cũng không phải vì đau đớn thể chất mà là vì cúi đầu tuân theo những nhu cầu cao viễn hơn đau khổ và khoái lạc, và mãnh liệt hơn ý chí và sự kháng cự. Ôi, ước gì con người có thể cưu mang niềm bí ẩn này, niềm bí ẩn mà thế giới đầy ắp, ngay cả nơi những sự vật nhỏ bé nhất, cưu mang một cách khiêm tốn cho chính mình và gánh vác nó, chịu đựng nó, một cách nghiêm trọng hơn và cảm thấy nó khó khăn một cách kinh khủng biết nhường nào thay vì coi nó một cách khinh xuất nhẹ dạ. Ước gì hắn có thể cung kính hơn đối với sự phong phú của hắn, sự phong phú này là một, mặc dù nó có có thể là tinh thần hay vật chất; bởi sự sáng tạo tinh thần cũng phát xuất từ vật chất, đồng một bản chất với nó và chỉ như sự lặp lại khoái cảm thể chất một cách dịu dàng hơn, xuất thần hơn và trường cửu hơn thôi. “Cảm thức mình là kẻ sáng tạo, có thể sinh sản, tạo tác” không là gì cả nếu không có sự chuẩn nhận và thể hiện vĩ đại thường trực trên thế giới, không là gì cả nếu không có sự phù hợp muôn ngàn lối nơi sự vật và thú vật – và sự hân hưởng khả tính đó đẹp đẽ và phong phú vô tả chỉ bởi nó chứa đầy những kỷ niệm thừa kế về thai nghén và sinh đẻ của muôn triệu người. Trong một tư tưởng Sáng Tạo một ngàn đêm ân ái lãng quên phục sinh và làm chan hòa tư tưởng ấy với vẻ siêu phàm và xuất thần ngây ngất…

Có lẽ nam tính và nữ tính gần gũi nhau nhiều hơn người ta tưởng: và sự hồi sinh lớn lao của thế giới chắc chắn bắt nguồn từ điều này: người đàn ông và người đàn bà, một khi thoát khỏi mọi sự sai lầm, mọi khó khăn, sẽ không còn tìm nhau như những đối thể, mà là như anh em, như thân quyến và sẽ kết hợp như những con người để, trang trọng và kiên nhẫn, cùng nhau gánh vác gánh nặng của xác thịt khó khăn mà cả hai đã được phó thác.

Nhưng tất cả những gì một mai có thể trở thành khả thể cho bao người thì ngay từ bây giờ kẻ cô đơn đã có thể đổ nền xây móng bằng hai bàn tay hắn, bàn tay rất ít sai lầm. Bởi vậy, ông thân mến, hãy yêu thương nỗi Cô Đơn và hãy chịu đựng nỗi khổ đau do nó gây ra với lời ai ca diễm lệ…

Thật là điều tốt lành khi ông đã chấp nhận một chức nghiệp khiến ông độc lập và trao ông hoàn toàn trở lại cho chính ông, trong mọi ý nghĩa [5] . Hãy nhẫn nại chờ xem đời sống nội tâm sâu thẳm nhất của ông có cảm thấy bực bội trong khuôn khổ nghề nghiệp của ông không. Tôi cho rằng nghiệp kiếm cung này rất khó khăn và đầy bức bách, nặng trĩu công thức, không chừa một chỗ nào cho cá tính cả. Nhưng nỗi cô đơn của ông, ngay cả trong những hoàn cảnh ngang trái này, cũng vẫn sẽ là nơi nương tựa và là quê hương ông, và cũng chính từ nỗi cô đơn này mà ông sẽ tìm thấy cả những con đường ông sẽ đi…

Hầu như tất cả mọi người đều trải qua những giờ phút mà họ sẵn sàng đổi lấy bất cứ một cuộc giao thiệp nào, dù tầm thường và thô thiển thế nào đi chăng nữa, đổi lấy cái bề ngoài hòa hợp hời hợt với bất cứ kẻ nào chợt đến, dù là kẻ không xứng đáng nhất. Nhưng có lẽ những giờ phút đó chính là những giờ phút mà nỗi cô đơn lớn rộng và sự lớn dậy của nó gây đau đớn như sự lớn dậy của trẻ thơ, và buồn như buổi trước xuân về. Ông không nên chộn rộn. Chỉ có một điều duy nhất cần thiết: Cô đơn, nỗi cô đơn nội tâm mênh mang. Đi sâu vào trong tâm hồn và không gặp gỡ bất cứ người nào trong nhiều giờ đằng đẵng, - đó là điều người ta phải đạt tới…

Ông thân mến, xin ông hãy nghĩ tới thế giới mà ông mang trong ông, và muốn gọi tư tưởng này là gì cũng được; dù nó gợi lại tuổi thơ của ông hãy ao ước hướng về tương lai – thì ông cũng hãy chăm chú chú ý tới điều khởi lên trong ông và đặt nó lên trên tất cả những gì quan sát xung quanh ông. Điều đến trong bản thể sâu kín nhất của ông xứng đáng tất cả tình yêu của ông; một cách nào đó ông phải chuyên cần phục vụ nó và đừng mất quá nhiều thì giờ và quá nhiều nghị lực để soi sáng thái độ của ông đối với kẻ khác. Hơn nữa, ai bảo ông phải ôm đồm việc đó chứ? – Tôi biết nghề nghiệp ông cực nhọc và trái nghịch với ông, tôi đoán trước được những lời than thở của ông và biết chắc rằng chúng sẽ đến. Bây giờ những lời than thở ấy đã đến rồi, tôi không thể trấn an ông được, tôi chỉ có thể khuyên ông hãy thử nghĩ xem chẳng phải tất cả mọi nghề nghiệp đều không giống như vậy sao, nghĩa là đầy yêu sách, đầy thù nghịch chống lại cá thể, nhiễm đầy oán ghét của những kẻ thấy mình câm lặng và gắt gỏng trước một bổn phận vô vị. Hoàn cảnh mà bây giờ ông đang phải sống không hẳn là đầy công thức, thành kiến và lỗi lầm hơn tất cả những hoàn cảnh khác đâu, và nếu có kẻ nào bề ngoài có vẻ tự do thong dong hơn thì cũng vẫn chưa có kẻ nào có những kích thích tự chúng rộng rãi và bao la và giao tiếp với những thực tại vĩ đại và tạo nên cuộc sống đích thực. Chỉ có cá thể, kẻ cô đơn, giống như một vật đặt dưới những lề luật sâu thẳm, và khi hắn bước ra trước buổi rạng đông mới bừng lên hay nhìn vào buổi hoàng hôn đang phủ xuống đầy biến cố này và nếu hắn linh cảm điều đang thành tựu trong đó thì lúc đó tất cả mọi thân phận đều rớt ra khỏi hắn như rớt ra khỏi một người chết mặc dầu lúc đó hắn đang đứng giữa lòng đời chân thật. Điều mà bây giờ ông đang nếm trải như một sĩ quan, ông Kappus thân mến, là điều ông chắc chắn ông sẽ phải nếm trải trong bất cứ nghề nghiệp vững chãi nào; và dầu ngoài tất cả mọi địa vị ông chỉ tìm một vài giao tiếp nhẹ nhàng và độc lập với xã hội, ông cũng vẫn không thoát khỏi cảm giác câu thúc này. - Bất cứ ở đâu cũng vậy; nhưng đó không phải là lý do để sợ hãi hay buồn rầu; nếu không có sự chung hợp giữa ông và những kẻ khác, hãy cố gắng lại gần sự vật, sự vật không bao giờ bỏ rơi ông; đêm còn kia và còn những cơn gió lướt qua cành và qua những cánh đồng; trong thế giới sự vật và thú vật tất cả hãy còn đầy cơ ngẫu trong đó ông có thể tham dự; và trẻ em hãy còn nguyên vẻ thơ ngây như vậy. – Và nếu ông hồi tưởng lại tuổi thơ của ông, ông sẽ lại sống giữa chúng, giữa những đứa trẻ trơ trọi, và những người lớn không là gì cả, và phẩm cách họ chẳng có một chút giá trị nào.

Và nếu ông cảm thấy kinh hoàng và bứt rứt khi khơi lại tuổi thơ của ông trong tất cả sự đơn giản và lặng lẽ của nó, bởi ông không còn có thể tin vào Linh Thể hiện ra trên mỗi bước chân, lúc ấy, hỡi ông Kappus thân mến, ông hãy tự hỏi có phải chăng ông đã thực sự mất Linh Thể. Đúng hơn phải chăng ông chưa bao giờ có Linh Thể? Thực ra thì khi nào ông mới có Linh Thể? Ông có tin rằng đứa trẻ thơ có thể ôm Linh Thể trong hai cánh tay nó, Linh Thể mà người lớn phải mang với biết bao khổ cực và trọng lực đè bẹp người già? Ông có tin rằng kẻ đã có Linh Thể có thể đánh mất Linh Thể như thể người ta đánh mất một hòn sỏi! Sao ông không nghĩ rằng kẻ nào đã có Linh Thể chỉ là kẻ dễ mất mình vì Linh Thể? – Nhưng nếu ông chỉ nhận thấy rằng Linh Thể không hiện hữu trong tuổi thơ ông cũng như không có trước ông, nếu ông linh cảm thấy rằng đấng Christ đã bị lừa bởi tình thương của Ngài cũng như Mahommet bởi lòng kiêu ngạo, nếu ông cảm thấy kinh hoàng ngay trong giây phút mà chúng ta nói về Linh Thể cảm thấy rằng Linh Thể không hiện hữu thế thì làm thế nào ông thiếu Linh Thể cũng như thiếu quá khứ, vì Linh Thể chưa từng hiện hữu và tại sao lại tìm kiếm Linh Thể như thể ông đã đánh mất vậy?

Tại sao lại không nghĩ rằng Linh Thể là Đấng Sẽ Đến, kẻ từ vĩnh cửu phải đến, kẻ chính là Tương Lai, trái chín muồi của một cây mà chúng ta là những phiến lá? Cái gì đã ngăn ông trù liệu sự đến của Linh Thể trong vòng biến dịch và sống cuộc đời ông như một trong những ngày đau đớn và đẹp một vẻ đẹp phi phàm của thai nghén? Ông không thấy rằng tất cả những gì đến luôn luôn là một sự bắt đầu của Linh Thể sao? Ôi biết bao vẻ kiều diễm trong tất cả những gì khởi đầu! Tựa những con ong chúng ta kiến tạo Linh Thể bằng cái dịu dàng nhất của mỗi sự vật. Cái nhỏ bé nhất, mờ khuất nhất đến từ tình yêu đều là chất liệu để chúng ta phác họa Linh Thể. Chúng ta bắt đầu phác họa Linh Thể trong công việc, trong sự nghỉ ngơi tiếp sau đó, trong im lặng, trong trào hân hoan nội tâm ngắn ngủi. Chúng ta bắt đầu phác họa Linh Thể trong tất cả những gì chúng ta làm một mình, không có sự trợ giúp, không có sự tham gia của những kẻ khác. Chúng ta sẽ không biết Linh Thể trong cuộc đời của chúng ta, cũng như tổ tiên chúng ta không thể biết chúng ta trong cuộc đời họ vậy. Tuy nhiên cổ nhân vẫn sống trong chúng ta, trong chiều sâu của những khuynh hướng chúng ta, trong nhịp đập của máu ta, họ đè nặng lên định mệnh chúng ta, họ là cử chỉ dâng lên từ đáy sâu thời gian.

Vậy thì tại sao chúng ta lại không thể hy vọng một ngày kia được sống trong lòng Linh Thể, bên ngoài tất cả mọi giới hạn?

Hãy cử hành lễ Giáng Sinh, ông Kappus thân mến, trong cảm thức kính tín này, Để bắt đầu trong tâm hồn ông, phải chăng Linh Thể cũng sẽ cần niềm kinh hoàng của ông trước cuộc đời? Những ngày lao đao hiện tại có lẽ là thời gian mà tất cả những gì trong ông đều làm việc phục vụ cho Linh Thể. Ngày xưa, khi còn thơ dại, ông đã phục vụ cho Linh Thể, đến hụt hơi. Ông hãy kiên nhẫn và đầy thiện chí và hãy nghĩ rằng, điều tối thiểu mà chúng ta có thể làm là đừng làm gì cản trở sự giáng sinh của Linh Thể cũng như trái đất không cản trở mùa xuân khi mùa xuân tới.

Hãy hân hoan và tin tưởng.

Đừng để phiền muộn trong cảnh cô đơn của ông vì cảm thấy những ý nghĩ nhất thời muốn đạp bỏ cô đơn để bước ra. Những ý hướng này cũng phải giúp ông nếu ông dùng chúng trong sự điềm tĩnh và trầm tư như một dụng cụ để trải rộng nỗi cô đơn của ông tới một xứ miền phong phú và bao la hơn. Người ta thường có những giải đáp dễ dãi (ước lệ) với tất cả mọi sự. Tuy nhiên rõ ràng là chúng ta phải trì giữ sự khó khăn. Tất cả những cái đang sống đều nương tựa vào cái khó khăn. Mỗi sinh vật phát tiển và tự vệ tùy theo thể cách của mình và rút tỉa tự chính mình dạng thức độc đáo của đặc hữu của riêng mình, với bất cứ giá nào và chống lại bất cứ chướng ngại nào. Chúng ta biết được bao nhiêu, nhưng chúng ta phải cầm chắc sự khó khăn, đó là một sự xác thực mà chúng ta không được quyền từ bỏ. Cô đơn là một điều tốt lành, bởi sự cô đơn là một điều khó khăn; nếu một sự việc nào đó khó khăn thì đó là một lý do thêm nữa để chúng ta phải làm.

Yêu đương cũng là điều tốt lành, vì tình yêu khó khăn. Tình yêu của một con người đối với một con người có lẽ đó là thử thách khó khăn nhất đối với mỗi chúng ta. Đó là bằng chứng tối cao của chúng ta, công việc tối cao mà tất cả những công việc khác chỉ là những chuẩn bị.

Chớ tưởng rằng tình yêu vĩ đại mà ông biết khi ông trai trẻ trôi vào quên lãng: chẳng phải tình yêu ấy đã gieo nơi ông những khát vọng phong phú và mãnh liệt, những dự định mà chỉ đến cả ngày nay ông hãy còn đang sống đó sao? Tôi tin tưởng rằng sở dĩ tình yêu đó đã sống còn một cách mạnh mẽ như thế trong hoài niệm ông là bởi vì nó là dịp đầu tiên cho ông được cô đơn nơi cùng thẳm của tâm hồn, nỗ lực đầu tiên và mãnh liệt mà ông đã thử trong đời ông…

Tôi tin rằng hầu như tất cả mọi nỗi ưu sầu của chúng ta đều là những giây phút căng thẳng mà chúng ta cảm thấy tê liệt bởi chúng ta không còn cảm thấy mình sống nữa. Bởi chúng ta trơ trọi với kẻ xa lạ đã thâm nhập vào trong chúng ta ấy: bởi tất cả sự vật thân mật và quen thuộc đều bị lấy mất đi trong giây lát, bởi chúng ta đứng giữa một chuyển đoạn nên chúng ta không thể đứng yên. Chính vì lý do đó mà nỗi ưu sầu cũng phải đi qua: sự vật mới trong chúng ta, đã len vào lòng chúng ta, đã đi vào gian phòng sâu kín nhất và đã không còn trong tâm hồn chúng ta, nó đã hòa vào máu chúng ta và như vậy chúng ta không còn biết cái gì xẩy ra nữa. Người ta đã dễ dàng khiến chúng ta tin tưởng rằng không có gì xẩy ra cả. Song le, đúng là chúng ta đã chuyển hóa như một chốn ngụ cư đã chuyển hóa bởi sự có mặt của một tân khách. Chúng ta không thể nói rằng ai đến, có lẽ chẳng bao giờ chúng ta biết được. Nhưng nhiều dấu hiệu chứng tỏ rằng tương lai đã đi vào chúng ta theo kiểu đó để tự chuyến hóa trong chúng ta rất lâu trước khi nó xẩy ra. Và đó là lý do tại sao cô đơn và chuyên chú là điều vô cùng quan trọng khi người ta buồn rầu: bởi giây phút khởi đầu có vẻ đầy biến cố lúc tương lai đặt chân vào trong chúng ta vô cùng gần gũi cuộc sống hơn là khoảnh khắc ồn ào và ngẫu nhiên xẩy đến với chúng ta như thể nó đến từ bên ngoài. Chúng ta càng lặng lẽ, kiên nhẫn và mở lòng ra bao nhiêu khi chúng ta ưu sầu thì cái mới lạ đi vào chúng ta càng sâu xa và càng vững vàng bấy nhiêu, chúng ta càng khiến nó trở thành thành phần của chúng ta một cách hữu hiệu bấy nhiêu, nó càng trở thành định mệnh của chúng ta nhiều hơn bấy nhiêu và một ngày kia khi nó “xẩy ra” (nghĩa là bước mạnh bạo ra khỏi chúng ta để đến với thế giới) thì trong thâm tâm chúng ta, chúng ta sẽ cảm thấy gần gũi và thân mật với nó hơn bấy nhiêu. Và đó là điều cần thiết. Điều cần thiết – và cũng chính là đích điểm mà sự trưởng thành của chúng ta dần dần hướng tới là không có gì xa lạ xẩy đến cho chúng ta duy cái lâu nay đã thuộc về chúng ta. Chúng ta đã phải đổi lại rất nhiều quan niệm về vận hành chúng ta sẽ dần dần còn phải học nhận thức rằng cái mà chúng gọi là định mệnh phát xuất từ bên trong con người chứ không phải từ bên ngoài con người. Chỉ vì nhiều người không thu nhiếp được định mệnh họ trong bản thân mình trong khi nó đang sống trong họ mà họ không nhận thức được rằng định mệnh phát xuất từ nơi họ; nó quá xa lạ với họ đến nỗi, trong sự ngỡ ngàng sợ hãi của họ, họ nghĩ rằng nó phải đi vào trong họ vào chính lúc đó, bởi họ quả quyết thề chưa từng gặp cơ sự gì tương tự như vậy trong họ trước kia. Cũng như từ lâu người ta nhầm lẫn về sự vận hành của cái Đang Xẩy Ra. Tương lai đứng yên, ông Kappus thân mến, nhưng chúng ta di động hoài trong không gian vô biên.

Thế thì định mệnh không khó khăn với chúng ta sao được?

Và nếu chúng ta trở lại nỗi cô đơn càng ngày chúng ta còn thấy rõ rằng, trong thâm sâu của nó, nỗi cô đơn chẳng phải là cái chúng ta có thể tùy ý muốn lấy hay bỏ đi. Chúng ta là nỗi cô đơn. Quả thực chúng ta có thể lừa dối và làm như thể có không có vậy. Chỉ có thế. Nhưng tốt hơn chúng ta nên nhận thức rằng chúng ta cô đơn, vâng, và bắt đầu từ chân lý này. Tất nhiên chúng ta sẽ bị quay cuồng choáng váng; bởi tất cả những cứ điểm trên đó nhỡn mục chúng ta thường dừng nghỉ đều bị lấy đi khỏi chúng ta, chẳng còn gì gần gũi nữa, và tất cả những cái xa cách đều xa cách đến vô biên. Chỉ có người nào gần như bất thình lình bị lôi ra khỏi phòng riêng hắn và bị đặt lên đỉnh rặng núi cao thì mới có cảm giác tương tự như vậy; một nỗi bất an vô song, một sự buông thả cho một cái gì vô danh gần như sẽ hủy hoại hắn. Hắn sẽ cảm tưởng mình đang rơi hay bị quăng vào thinh không hoặc nổ tung thành muôn ngàn mảnh: tâm trí hắn phải bịa đặt trí trá biết chứng nào để khôi phục lại và giải thích trạng thái của cảm quan hắn! Đối với kẻ nào trở nên cô đơn cũng vậy, tất cả mọi khoảng cách, tất cả mọi kích thước đều thay đổi; phần lớn những thay đổi này đều xẩy ra đột ngột, và rồi, như đối với người ở chót vót trên đỉnh núi, biết bao hình ảnh dị thường và cảm giác quái gở dâng lên trong hắn dường như vượt ra ngoài tất cả mọi chịu đựng. Nhưng chúng ta cũng cần phải cảm nghiệm điều đó nữa. Chúng ta phải đảm đương cuộc Hiện Sinh của chúng ta bằng bất cứ cách nào càng rộng rãi bao nhiêu càng hay bấy nhiêu; tất cả mọi sự, ngay cả cái chưa từng nghe thấy bao giờ có thể cũng phải bao gồm trong đó nữa. Tựu trung, lòng can đảm duy nhất đòi hỏi chúng ta là: phải có can đảm đối diện với cái dị thường nhất, cái kỳ diệu nhất và cái bất khả giải minh nhất mà chúng ta có thể gặp phải nhân loại hèn nhát trong ý hướng đó đã gây ra cho cuộc đời không biết bao nhiêu là thiệt hại: cái kinh nghiệm được gọi là “tinh thần thế giới”, sự chết, tất cả những điều này vô cùng quan thiết với chúng ta, đã bị sự phòng vệ thường nhật xô giạt ra khỏi đời sống đến nỗi những quan năng giúp chúng ta thâu nhận chúng đều bị muội lược đi. Chưa nói chi tới Linh Thể. Nhưng sự sợ hãi đối với cái bất khả giải minh chẳng những bần cùng hóa cuộc hiện sinh của cá thể mà mối tương giao giữa một con người với một kẻ khác cũng bị co thắt bởi nó, như thể mối tương giao ấy đã bị nhấc ra khỏi lòng sông của những khả tính vô hạn và đặt xuống một nơi an toàn trên bờ, nơi không có sự việc gì xẩy ra. Bởi chẳng những một mình sự ù lì chịu trách nhiệm đối với những tương giao giữa con người về sự tẻ nhạt không tả xiết và lập đi lập lại không đổi mới chán chường; mà cả sự e dè trước bất cái mới lạ, kinh nghiệm bất khả tiên liệu mà con người nghĩ mình không đủ sức đương đầu cũng phải chịu trách nhiệm nữa. Chỉ có kẻ nào sẵn sàng đón nhận tất cả mọi sự, kẻ không loại trừ bất cứ sự việc gì, ngay cả cái bí ẩn nhất, mới sống được với người khác như một cái gì sống động và mới khai thác cạn nguồn cuộc hiện hữu của mình. Vì nếu chúng ta nghĩ về cuộc hiện hữu này như một căn phòng lớn hay nhỏ, thì chúng ta sẽ thấy rõ rằng phần đông mọi người chỉ học biết có một xó của căn phòng của họ thôi, một chỗ bên cửa sổ, một sàn ván trên đó họ đi tới đi lui. Do đó họ có được một chút an ổn nào, Nhưng tuy nhiên chính sự bất an nguy hiểm lại có tính chất người hơn cả. nó khiến những tù nhân trong truyện của Poe sờ mó được hình thù ngục tối khủng khiếp của họ và không cảm thấy xa lạ với sự kinh hoàng vô tả của nơi họ ở. Song le chúng ta không phải là tù nhân. Không có cạm bẫy nào giương ra xung quanh chúng ta, không có gì đe dọa hay khiến chúng ta phải lo âu. Chúng ta được đặt trong cuộc sống như trong một yếu tố thích hợp với chúng ta nhất và trên cả sự kiện này, qua muôn ngàn năm thích ứng chúng ta đã trở nên giống hệt đời sống đến nỗi, khi chúng ta giữ mình tĩnh lặng, bằng một sự bắt chước diễm phúc, chúng ta khó mà phân biệt được mình với tất cả những gì xung quanh chúng ta. Chúng ta không có lý do gì để nghi kỵ thế giới, vì nó đâu có nghịch lại ta. Nếu nó có những sự khủng khiếp thì đó là sự khủng khiếp của chúng ta, nếu nó có những vực thẳm, thì những vực thẳm này thuộc về chúng ta, nếu có những hiểm họa dàn ra bên chúng ta, thì chúng ta phải cố mà yêu những hiểm hoạ ấy. Và nếu chúng ta xếp đặt cuộc đời chúng ta theo nguyên tắc khuyên nhủ chúng ta rằng chúng ta phải ôm ghì sự khó khăn thì lúc đó cái hiện nay có vẻ thù nghịch nhất sẽ trở thành cái chúng ta tin cậy nhất và thấy trung thành nhất với chúng ta. Làm thế nào chúng ta có thể quên những thần thoại cổ xưa mà người ta thấy ở khởi thủy lịch sử của tất cả mọi dân tộc những thần thoại về những con rồng khủng khiếp vào giây phút tối hậu đã biến thành những nàng công chúa đang chờ đợi để nhìn thấy chúng ta đẹp và kiêu hùng một lần. Có lẽ tất cả những gì khủng khiếp trong tự thể thâm sâu đều là một cái gì bơ vơ không nơi nương tựa đang cần chúng ta trợ giúp.

Vậy, ông Kappus thân mến, ông không nên sợ hãi khi nỗi buồn sầu dâng lên trong ông, dầu cho nó là một nỗi buồn lớn hơn tất cả những nỗi buồn mà ông đã trải qua. Khi một nỗi xao xuyến đi qua, như bóng tối hay ánh sáng của mây nổi, trên bàn tay và trên công việc ông làm, thì ông phải nghĩ rằng có một cái gì đang hình thành trong ông, rằng cuộc đời không quên ông, rằng cuộc đời giữ ông trong tay của đời và sẽ không bao giờ bỏ rơi ông. Tại sao ông lại muốn loại ra khỏi cuộc đời ông những khổ đau, lo âu, những ưu sầu trĩu nặng mà ông không biết công việc mà những trạng thái này đang tác thành trong ông? Tại sao ông lại tự hành hạ ông với câu hỏi: tất cả những điều đó từ đâu đến, tất cả những điều đó sẽ đi đến đâu? – Ông đã biết rõ rằng ông là cuộc cách mạng và không muốn gì cho ông ngoài thay đổi mà. Nếu một vài trạng thái nào đó trong ông có vẻ bệnh hoạn, hãy tự nhủ rằng bệnh hoạn là một cách cho cơ thể xua đuổi cái gì trái ngược với nó. Vậy ông phải giúp bệnh tật này tiếp tục lộ trình của nó. Đó là cách duy nhất cho cơ thể dễ tự vệ và tăng trưởng. Biết bao sự việc đang tác thành trong ông trong giây phút đó! Hãy kiên nhẫn như một bệnh nhân và tin tưởng như một người đang lành bệnh: có thể ông là một trong hai kẻ đó. Hơn thế nữa: ông còn là thầy thuốc và ông phải tin cậy nơi ông. Nhưng trong tất cả mọi bệnh tật đều có những ngày thầy thuốc cũng không biết làm gì hơn là chờ đợi. Và nếu ông là thầy thuốc cho chính ông, thì đây là việc ông phải làm trên tất cả mọi việc.

Đừng quan sát ông nhiều quá. Tránh đừng rút ra từ cái đang xẩy ra trong ông những kết luận hấp tấp: hãy cứ để kệ nó làm. Nếu không ông sẽ đi đến chỗ khiển trách (tôi muốn nói về phương diện luân lý) quá khứ của ông hiện đang góp một phần vào tất cả những gì đang tình cờ xẩy đến với ông hôm nay… Nói chung, chúng ta phải dè dặt về cách dùng chữ và thường khi chỉ nguyên một danh từ tội lỗi cũng đủ làm tan vỡ một cuộc đời chứ không phải chính sự việc vô danh kia đáp ứng với một nhu cầu và tìm thấy dễ dàng chỗ đứng trong đời sống. Sự tiêu dùng sức lực đối với ông có vẻ quá đáng vì ông quá đề cao sự chiến thắng. Sự việc “to tát” mà ông đã làm không nằm trong sự chiến thắng dầu rằng cảm thức mà ông có về một cuộc chiến thắng đúng. Sự việc to tát là ông đã thay thế nổi một sự dối trá bằng cái chân thành và chân thật…

Bây giờ nói về những tình cảm thanh khiết là những tình cảm mà chúng ta tập trung toàn thể con người chúng ta và nâng cao chúng ta, không thanh khiết là những tình cảm chỉ đáp ứng một phần chúng ta và do đó làm ta méo mó.

Sự hoài nghi cũng có thể trở thành một điều tốt nếu ông huấn luyện nó, nó phải thành một dụng cụ của nhận thức và lựa chọn. Hãy hỏi nó khi nó muốn dìm một điều gì tại sao nó thấy điều đó xấu. Đòi nó những chứng cứ. Ông sẽ thấy nó lúng túng và bối rối và có thể nó sẽ kháng cự. Nhưng ông đừng chịu thua. Một ngày kia kẻ phá hoại này sẽ trở thành một trong những người thợ giỏi nhất của ông, có thể là người thông minh nhất trong số những kẻ làm việc để kiến tạo đời ông không biết chừng (…)

Tôi luôn luôn nghĩ đến ông trong những ngày lễ vừa qua và tưởng tượng thấy ông sống rất trầm lặng trong đồn binh heo hút giữa núi rừng hoang vu trùng điệp mà trên đó cuồng phong dầy vò xối xả như muốn ăn tươi nuốt sống.

Sự trầm lặng phải mênh mông mới chứa nổi âm thanh và chuyển động như vậy và khi nghĩ rằng thêm vào đó còn có sự hiện diện của đại dương xa như âm ba thân mật nhất của một cuộc hòa khúc tiền sử, lúc đó người ta chỉ có thể ước mong ông buông thả mình cho nỗi cô liêu huy hoàng tráng lệ đó với lòng kiên nhẫn và tin tưởng không có gì có thể cướp được nỗi cô liêu ấy ra khỏi cuộc đời ông nữa, nó sẽ lặng lẽ tác động một cách liên tục và hữu hiệu như một sức mạnh vô danh trên tất cả những gì ông sống và làm, như máu huyết của tổ tiên chúng ta trong chúng ta hòa hợp với máu chúng ta để làm thành một cái gì độc nhất vô nhị không lặp lại mà chúng ta biểu lộ ở mỗi khúc quanh của đời sống chúng ta.

Vâng, tôi vui lòng được biết ông trong cuộc sống vững chãi với quân giai, quân phục, công vụ kia với tất cả những thực tế giới hạn sờ kia trong khuôn khổ nghề nghiệp ông chỉ huy một toán quân ít ỏi đơn lẻ như thế mà vẫn giữ được tính chất trang nghiêm, thiết yếu không còn là trò chơi và sự tiêu phí thì giờ của binh nghiệp nữa, đó là chức vụ tỉnh thức không những không trái nghịch với cá tính mà còn làm nó vững mạnh nữa. Một cách sống thách thức chúng ta và dựng lên những chướng ngại xa xa cho những việc vĩ đại của cuộc đời – đó là điều cần thiết.

Nghệ thuật nữa, đó cũng chỉ là một cách sống, và người ta có thể sửa soạn cho lối sống đó mà không biết trong khi sống nó bằng cách này hay cách khác; trong tất cả những gì đáp ứng với thực tại người ta gần nghệ thuật hơn những nghề nghiệp không căn cứ chút nào vào đời sống, những nghề nghiệp tự nhận là nghệ sĩ, trong khi bắt chước nghệ thuật, lại chối bỏ và xúc phạm nó. Báo chí cũng vậy, hầu như tất cả ngành phê bình, ba phần tư của cái người gọi hay muốn gọi là văn nghệ. Nói tóm lại, tôi vui mừng thấy ông tránh những nẻo đường này và cô đơn và can trường trong thực tế gian nan thô bạo. Mong rằng năm tới sẽ lưu giữ ông và giúp ông mạnh tiến trên con đường đó.

Thân ái. Bạn ông mãi mãi.

R. M. Rilke


[1]Heidegger, Chemins qui ne mènent nulle part, Gallimard. 1962. p. 243.
[2]Briefe an einen jungen Dichter, 12 August 1904, z.41.
[3]cf. Chamfort, Pensées, Maximeset Mnecdotes : “Trong cô đơn người ta hạnh phúc hơn trong thế giới. Điều đó chẳng phải do vì trong cô đơn người ta nghĩ tới những sự vật và vì trong thế giới người ta bắt buộc phải nghĩ tới những con người sao?”
[4]Emerson, “The Poet”.
[5]Ông Kappus lúc ấy là một sĩ quan trong quân đội – N. H. H


Nguồn: Quế Sơn Võ Tánh ấn hành lần thứ nhất 1971, Hồng Hà ấn hành lần thứ hai 1973 tại Sài Gòn.

Con đường sáng tạo (11 )

Con đường sáng tạo
(Tư tưởng và quan niệm về sáng tác của Nietzsche, Rimbaud, Henry Miller, Schopenhauer, William Faulkner, André Gide, Georges Simenon, Rainer Maria Rilke, Emerson, Thomas Wolfe)
Nguyễn Hữu Hiệu dịch và giới thiệu

Henry Miller

Tại sao bạn không thử viết đi?
Mười một điều răn, chương trình làm việc hàng ngày


Giới thiệu

Trong bài tiểu luận nổi tiếng nhan đề “Thi sĩ”, Emerson viết rằng tất cả mọi người đều sống bằng chân lý và đều cần sự tỏ bầy. Trong tình yêu, trong nghệ thuật, trong sự ích kỷ, trong chính trị, trong cần lao, trong bạc bài đen đỏ, chúng ta nghiên cứu để tìm cách thốt lên niềm bí ẩn đau thương của chúng ta. “Con người chỉ là mình một nửa, nửa kia chính là sự diễn tả tỏ bầy của hắn vậy.” (The man is only half himself, the other half is his expression.)

Sự tỏ bầy đó có thể là hành động hay lời nói. Nhưng viết mới là cách diễn tả trọn vẹn nhất.

Viết là một phương tiện giải thoát. Bằng cách viết, chúng ta thoát khỏi những bóng ma quá khứ. Kỷ niệm, dù là kỷ niệm hạnh phúc hay đớn đau, đẹp hay xấu đều ray rứt, ám ảnh, nhắc nhở, đòi tái hiện hay hồi sinh vào hiện tại. Chúng ta hoặc muốn trìu mến vuốt ve hay xua đuổi tàn nhẫn quá khứ. Hồi tưởng hay quên lãng. Cách nào thì chúng ta cũng cần đến sự tỏ bầy. Viết chính là cuộc hành hương về dĩ vãng. Một lần viết là một lần đi tảo mộ thanh xuân. Một lần mãi mãi. Bởi vì từ đây kỷ niệm đã được phục sinh, đã nhận được một đời sống riêng của nó. Và chúng ta có thể thanh thản ra đi; chúng ta đã thanh toán xong với quá khứ.

Bằng cách viết, chúng ta cũng thoát khỏi những ước vọng bất khả. Có lẽ không ai bằng lòng với cuộc sống hiện tại của mình. Nếu chúng ta không khao khát một cuộc sống khác, thì ít ra, chúng ta cũng mong muốn một cuộc sống phong phú hơn, rực rỡ hơn, mãnh liệt hơn và nồng nàn hơn. Nhưng xã hội trì chiết chúng ta, luân lý ràng buộc chúng ta và những kẻ khác giới hạn chúng ta. Chỉ bằng cách viết chúng ta mới có thể sống cuộc sống chúng ta đến độ tràn đầy mơ ước. Tác phẩm nghệ thuật là cái hơn nữa thêm vào cho cuộc đời.

Viết là một cách cầu kinh. Sự sung sướng có khuynh hướng tự mãn và trông tìm nghỉ ngơi. Chính nỗi đau khổ khôn nguôi khiến người ta hướng tới tôn giáo và nghệ thuật. Như một niềm an ủi cuối cùng.

Viết còn là một cách sám hối. Đứa trẻ không cần viết vì nó ngây thơ. “Một người viết là để liệng đi độc tố mà hắn đã tích lũy bởi cách sống lầm lạc của hắn. Hắn cố gắng khôi phục lại sự hồn nhiên của hắn (Henry Miller, Sexus, Grove Press, p. 24). Sẽ không còn một ai cầm bút viết một chữ nào trên giấy nếu hắn có cơ hội, nếu hắn có can đảm sống đến tận cùng, đến hết điều hắn tin tưởng.

Nhưng điều này cũng thực không kém: Tất cả mọi người đều có thể trở thành nhà văn, nhà văn quyến rũ nữa, nếu hắn thành thật và can đảm nói lên tất cả những điều hắn tin tưởng và cảm nghiệm theo cách riêng của hắn. Tiêu chuẩn về chân thiện mỹ của hắn, những điều hắn yêu thương và ghét bỏ, hối tiếc và thù hận, trở nên lôi cuốn, nếu được sống một cách chân thành, được phát lộ một cách đơn giản, không che đậy.

“Tại sao bạn không thử viết đi?” Câu hỏi đó hắn sẽ ray rứt chúng ta nhiều. Nhất là khi chúng ta đã từng sống, từng yêu thương, từng khắc khoải. Nhất là khi chúng ta ý thức được rằng chúng ta có tất cả trong ta. Rằng chúng ta là một khối cốt mìn. Rằng chúng ta chỉ cần một tia lửa nhỏ.

Tia lửa ấy chính là lòng tự tin.

“Tại sao bạn không thử viết đi?” Henry Miller tự hỏi mình và hỏi mọi người câu hỏi đó. Riêng cá nhân ông, ông thích thú chứng tỏ rằng “tôi cũng có thể viết, như bất cứ một người nào” (I proved to my satisfaction that, like any other mortal, I too could write. – Art and Outrage). “Vì thiếu thốn, tôi diệt bài ca. Giống hệt như một chiến sĩ, thách đấu một trận sinh tử mà không có một tấc khí giới trong tay, trước hết phải tự tôi luyện lấy khí giới của mình” (Sđd). Trong tiến trình đó, hắn phải mang vào tất cả cuộc đời hắn. Mục đích của công việc chẳng bao lâu sẽ bị bỏ quên hay bị gạt ra ngoài: nhà văn viết để viết. Và vì nhà văn thường viết vì một nhu cầu cá nhân, họ thường có khuynh hướng coi cuộc đời và tác phẩm họ như một cái gì riêng tư, chẳng liên quan tới ai. Nhưng tác phẩm của họ, “tựa những trái táo được hái lúc còn xanh, tự ủ chín lấy mình, mỗi ngày một trở nên dịu ngọt và chan chứa ý nghĩa” (Pasternak, Bác sĩ Zhivago). Như trái táo được hái xuống không còn thuộc về cây táo nữa, tác phẩm nghệ thuật được viết xong không còn là của riêng nhà văn. Nó thuộc về tất cả mọi người. Nó tham sự vào đời sống, trở thành chính đời sống, độc lập với nhà văn, do đó giải thoát nhà văn khỏi cuộc sống riêng tư, khỏi cuộc sống nói chung và khỏi thân phận của một kẻ thụ tạo. Tác phẩm nghệ thuật giúp nhà văn đi sâu vào lòng mình và lòng đời, đồng thời cho phép hắn rời xa chính mình và rời xa đồng loại đồng thời với mình; nó củng cố niềm tin của nhà văn vào chính mình như một kẻ sáng tạo. Đầy quyền năng và siêu thoát.

Vậy tại sao bạn không thử viết đi?


*


Tại sao bạn không thử viết đi?

Buổi chiều hôm đó, thay vì lao ra khỏi nhà ngay sau bữa ăn tối, như thường lệ, tôi lại nằm trên sập, trong bóng tối và chìm đắm vào mộng mơ.“Tại sao bạn không thử viết đi?” Đó là câu hỏi không ngừng ám ảnh tôi suốt ngày, thôi thúc liên miên, ngay cả lúc tôi cám ơn bạn tôi MacGregor vì tờ giấy bạc mười dollar tôi đã giật lửa được của hắn sau khi đã nịnh hót tán tỉnh hắn bằng đủ điều nhục nhã.

Nằm trong bóng tối, tôi bắt đầu lần trở về nguồn. Tôi bắt đầu hồi tưởng lại những ngày thơ ấu diễm phúc, những ngày hè dài lê thê khi mẹ tôi nắm tay tôi, dắt tôi băng qua cánh đồng đến thăm Joey và Tony, những người bạn nhỏ của tôi. Là một đứa trẻ, tôi không thể cảm thấu niềm bí ẩn của nguồn vui do cảm thức tự tôn mạng lại. Cảm giác khác thường đó, cho người gia nhập và đồng thời quan sát sự gia nhập của mình, đối với tôi dường như là khả năng thiên phú của tất cả mọi người. Tôi hân hưởng tất cả mọi sự nhiều hơn những đứa trẻ khác đồng tuổi tôi mà không hay. Sự chia cách giữa tôi và những kẻ khác đó chỉ ló ra dần dần với thời gian.

Viết, tôi nghĩ, phải là một hành động vô cầu. Chữ nghĩa, như con nước lớn dưới đáy sâu, phải trào vọt lên mặt bởi xung lực của chính nó. Đứa trẻ không cần viết: nó ngây thơ. Một người viết là để liệng bỏ đi độc tố mà hắn đã tích lũy vì lối sống lầm lạc của hắn. Hắn gắng khôi phục lại sự hồn nhiên của hắn, tuy nhiên tất cả thành quả hắn đạt được trong khi hành động (bằng cách viết) là tiêm chích vào thế giới mầm độc của sự tỉnh mộng của hắn. Không một người nào viết một dòng nào trên giấy nếu hắn có can đảm sống hết tất cả những gì hắn tin tưởng. Cảm hứng của hắn bị lái sang hướng khác ở khởi nguồn. Nếu hắn muốn sáng tạo một thế giới chân, mỹ và thần thông tại sao hắn lại đặt hàng triệu chữ giữa hắn và thực tại của thế giới đó? Tại sao hắn triển hạn hành động - trừ phi, như những người khác, điều hắn thực sự ao ước là sức mạnh, danh vọng, thành công. Balzac nói rằng: “Sách vở là hành động chết của con người”. Tuy nhiên, sau khi nhận thấy sự thật, hắn giao nhất quyết thiên thần cho ác quỉ ám ảnh hắn.

Một nhà văn cũng mị độc giả của mình một các bẩn thỉu y hệt một chính trị gia hay bất cứ một ông lang băm nào: hắn muốn bắt mạch lớn, cho đơn như một y sĩ, dành cho chính mình một chỗ, được công nhận như một sức mạnh, nhận được một ly đầy nịnh bợ, dầu cho phải chờ đợi ngàn năm. Hắn không muốn một thế giới mới có thể được thiết lập ngay tức khắc bởi vì hắn biết thế giới đó không bao giờ thích hợp với hắn. Hắn muốn một thế giới bất khả, bị chế ngự bởi những sức mạnh hoàn toàn ngoài sự kiểm soát của hắn trong đó hắn là một đấng quân vương không thụ phong. Hắn bằng lòng cai trị một cách xảo quyệt trong thế giới tượng trưng tưởng tượng - bởi nguyên ý tưởng giao tiếp với những thực tại phũ phàng cũng đủ khiến hắn sợ hãi rồi. Đúng là hắn có khả năng thâu tóm chụp bắt thực tại lớn hơn người khác, nhưng hắn từ chối không chịu bắt thế giới phải chấp nhận thực tại cao cả đó bằng sức mạnh của gương mẫu. Hắn chỉ bằng lòng thuyết pháp, lết đi trong dấu vết của những thảm họa và tai ương, một kẻ tiên tri gở lạ luôn luôn bị ném đá, luôn bị xa lánh bởi những kẻ thiếu khả năng sẵn sàng đứng ra nhận trọng trách gánh vác việc đời. Nhà văn lớn thực thụ không hề thèm viết: hắn muốn thế giới là một cõi hắn có thể sống an bình với những giấc mộng lớn mộng con của hắn. Chữ rung động thứ nhất mà hắn đặt lên giấy là chữ của thiên thần bị thương: đau khổ. Viết tương đương với việc uống thuốc mê. Nhận thấy cuốn sách dưới tay mỗi ngày một dầy lên, tác giả cuốn sách lòng đầy ảo tưởng về sự vĩ đại của mình. “Ta cũng là một kẻ chinh phục – có lẽ là kẻ chinh phục vĩ đại nhất thế giới! Ngày vinh quang của ta đã tới. Ta sẽ cai trị trần gian - bởi sức mạnh phù thủy của ngôn ngữ…” Et cetera ad nauseam.

Câu hỏi gọn ghẽ: "Tại sao bạn không thử viết đi?” luôn luôn dìm tôi vào đầm lầy tuyệt vọng của rối loạn như lúc ban đầu. Tôi muốn mê hoặc chứ không muốn cai trị; tôi muốn một cuộc sống rộng lớn, phong phú nhưng không bám vào kẻ khác; tôi muốn giải phóng óc tưởng tượng của tất cả mọi người ngay tức thì bởi vì nếu không có sự trợ giúp của toàn thế giới, nếu không có một thế giới đồng thời tưởng tượng, thì tưởng tượng phóng túng sẽ trở thành một tật xấu. Tôi không trọng việc sáng tác per se một chút nào hơn Thượng Đế per se. Không một ai, không một nguyên tắc nào, không một ý tưởng nào tự nó hữu hiệu hết. Chỉ hữu hiệu phần thực tại, kể cả Thượng Đế, được tất cả cộng đồng nhân loại công nhận. Người ta lo lắng về số phận của thiên tài. Tôi không bao giờ lo lắng về thiên tài: thiên tài tự lo liệu lấy thiên tài trong con người. Tôi luôn luôn dành mối quan tâm của tôi cho con người tầm thường, con người mất mình trong sự chà đạp, con người quá đỗi trung bình, quá đỗi tầm thường đến nỗi sự hiện diện của hắn cũng không được ai thèm để ý tới. Những thiên tài không hứng khởi lẫn cho nhau. Có thể nói tất cả mọi thên tài đều là những con đỉa đói. Họ cùng nuôi dưỡng từ cùng một suối nguồn – dòng máu đời. Điều quan trọng nhất đối với thiên tài là tự khiến mình trở thành vô dụng, là trầm mình trong dòng suối chung, lại trở thành một con cá trong nước chứ không phải một con quái vật. Tôi nghĩ rằng điều lợi ích duy nhất mà sự sáng tác có thể cung hiến cho tôi là dời chuyển những sự khác biệt đã chia cách tôi với đồng loại. Tôi hoàn toàn không muốn trở thành một nghệ sĩ theo nghĩa trở thành một cái gì khác lạ, một cái gì tách biệt và ở ngoài dòng đời.

Cái hay nhất của việc trứ tác không phải là việc viết chữ nọ kế chữ kia, đặt hòn gạch nọ lên hòn gạch kia hiện tại mà là những sự trù liệu, công việc mở đường khai lối, được thực hiện trong im lặng, trong mọi hoàn cảnh, trong mộng mị cũng như trong trạng thái thức tỉnh. Nói tóm lại, thời kỳ thai nghén vậy. Chưa bao giờ có một người nào viết lên giấy điều hắn có ý định viết: sự sáng tạo nguyên thủy, miên man bất tận dù khi người ta viết hay không viết, thuộc về sự tuôn trào ban sơ; nó không chiều hướng, không hình thức, không cả yếu tố thời gian. Trong trạng thái trù tính là sáng tạo chứ không phải sinh đẻ này, cái gì biến mất không hề bị tiêu diệt; có một cái gì vẫn hiện hữu đó, một cái gì bất khả hủy diệt, như ký ức, hay vật chất, hoặc Thượng Đế, được mời gọi tới trong đó người ta lắt lay như một cành củi nhỏ trong dòng cuồng lưu. Chữ, câu, ý tưởng, bất kể vi tế hay chất phác thế nào, sự chạy trốn điên cuồng nhất của thi ca, những giấc mộng sâu thẳm nhất, những viễn tưởng ám ảnh nhất chỉ là những chữ tượng hình thô sơ được trạm trổ bằng đau đớn và ưu sầu để truy niệm một biến cố bất khả di dịch. Trong một thế giới được xếp đặt thông minh không cần gì phải vận dụng một cố gắng phi lý để thiết định những tình cờ mầu nhiệm đó. Quả thật, việc đó vô nghĩa, bởi vì nếu con người dựng lại để nhận định, ai là kẻ bằng lòng với sự giả tạo trong khi cái chân thật ở ngay trong tầm tay mình? Ai còn muốn vặn nút máy truyền thanh và lắng nghe, Beethoven chẳng hạn vậy, khi chính hắn có thể cảm nghiệm những hòa âm mà Beethoven đã cố gắng ghi lại một cách tuyệt vọng? Một tác phẩm nghệ thuật vĩ đại, nếu đạt tới một cái gì, phục vụ chúng ta hồi tưởng, hay có thể nói khiến chúng ta mộng tưởng về cái không thể đụng chạm tới được. Nghĩa là vũ trụ vậy. Nó không thể được hiểu: nó chỉ có thể được chấp nhận hay bị khước từ. Nếu được chấp nhận, chúng ta sẽ được bồi tiếp sinh lực, nếu bị khước từ, chúng ta bị giảm thiểu. Dầu đối tượng nó nhắm đến là gì đi chăng nữa, nó cũng chẳng bao giờ đạt tới, nó luôn luôn là một cái gì thêm nữa mà chữ cuối cùng sẽ không bao giờ được nói ra. Cái gì thêm nữa ấy là tất cả những gì chúng ta đặt vào bởi lòng khao khát điều chúng ta phủ nhận mỗi ngày trong cuộc sống chúng ta. Nếu chúng ta tự chấp nhận chúng ta một cách toàn diện, thì tác phẩm nghệ thuật, đúng ra toàn thể thế giới nghệ thuật sẽ chết vì thiếu ăn. Bất cứ một tên Ất Giáp nào trong chúng ta cũng di động mà không dùng đến chân tay ít ra vài giờ mỗi ngày, khi mắt hắn nhắm và thân thể hắn nghỉ ngơi. Một ngày kia người ta sẽ đi tới chỗ có thể thủ đắc được nghệ thuật mơ mộng trong khi hoàn toàn tỉnh thức. Rất lâu trước đó sách vở sẽ không còn nữa, bởi khi người ta có thể vừa hoàn toàn tỉnh táo vừa mơ mộng thì những khả năng giao cảm (với nhau cũng như với tinh thần điều động nhân loại) sẽ được gia tăng mạnh mẽ đến nỗi khiến cho tác phẩm nghệ thuật chẳng khác nào những tiếng càu nhàu gắt gỏng và rời rạc của một tên ngốc.

Nằm trong bóng tối hoài niệm về một ngày mùa hạ, tôi suy nghĩ và biết tất cả điều đó mà không luyện hay ngay cả cố gắng ít nhiều chân thành, luyện nghệ thuật đọc chữ tượng hình sơ đẳng. Ngay cả trước khi bắt đầu, tôi ghê tởm sự cố gắng của những bậc thầy được công nhận. Không có đủ khả năng cũng như sự hiểu biết để làm dù là một cái cửa chính ở mặt tiền của một lâu đài lớn, tôi phê bình và ta thán chính ngành kiến trúc. Nếu tôi chỉ là viên gạch tí hon trong ngôi nhà thờ lớn kiểu cổ này có lẽ tôi sẽ sung sướng hơn bội phần: tôi sẽ có đời sống, đời sống của toàn thể cơ cấu, dù như một thành phần cực tiểu của nó. Nhưng tôi ở bên ngoài, mọi tên mọi rợ không vẽ nổi vài nét phác nguệch ngoạc, hướng hồ cả một đồ hình của tòa lâu đài hắn mơ ước ngụ cư. Tôi mơ ước một thế giới mới huy hoàng rực rỡ nhưng sụp đổ ngay khi ánh sáng dọi lên. Một thế giới biến mất nhưng không chết bởi tôi chỉ cần trở nên tĩnh lặng trở lại và mở to mắt nhìn vào bóng tối là nó lại hiện ra… Vậy thì trong tôi có một thế giới hoàn toàn không giống bất cứ thế giới nào tôi biết. Tôi không nghĩ rằng đó là của đặc hữu của tôi - chỉ có khía cạnh nhìn của tôi là đặc biệt thôi bởi nó độc nhất vô nhị. Nếu tôi nói ngôn ngữ của viễn quan độc nhất này, thì không ai hiểu tôi cả: tôi tha hồ xây một tòa lâu đài dù đồ sộ đến đâu thì nó vẫn vô hình. Tôi bị tư tưởng này ám ảnh. Ích lợi gì khi xây dựng một miếu đường vô hình vô ảnh? (…)

Chính trong phòng làm việc của Ulric cách đây mấy tháng không lâu tôi hoàn tất cuốn sách đầu tiên của tôi - cuốn sách viết về mười hai người đưa điện tín. Tôi thường làm việc trong phòng của anh hắn, nơi trước đây ít lâu một tên chủ bút tạp chí, sau khi đọc mấy trang của một truyện ngắn chưa in, lạnh lùng báo cho tôi biết rằng tôi chẳng có một chút xíu tài năng nào, rằng tôi chẳng biết ngay cả điều sơ đẳng về nghệ thuật viết – tóm lại hoàn toàn thất bại và tốt hơn cả, con ơi, là quên văn nghệ đi, ráng kiếm ăn một cách lương thiện. Một tên ngớ ngẩn khác đã biết một cuốn sách rất thành công về Jesus – người thợ-mộc đã nói với tôi tương tự như vậy. Nếu những lá thư từ chối có chút giá trị nào thì đó chỉ là sự trợ gúp để hỗ trợ cho sự phê bình của những đầu óc báo động này “Những thằng chó chết này là những tên nào vậy?” Tôi thường hỏi Ulric. “Chúng nó căn cứ vào đâu để nói với tôi những điều đó? Chúng nó đã làm được cái quái gì, trừ việc chứng tỏ rằng chúng biết cách kiếm tiền?

Vậy là tôi đã nói về Joey và Tony. Tôi nằm trong bóng tối, như cành củi nhỏ trôi bồng bềnh trong dòng Kourochivo. Tôi trở lại câu thần chú đơn giản, rơm rạ làm ra gạch ngói, nét phác thô sơ, miếu đường phải dựng trên thịt da xương máu, và tự khiến mình biểu lộ trước mắt toàn thể thế giới. Tôi trở dậy và vặn ngọn đèn êm dịu. Tôi cảm thấy trầm tĩnh và sáng suốt tựa một bông sen mãn khai. Không một bước đi tới đi lui tàn bạo, không bứt tóc nhổ râu tận gốc rễ. Tôi chậm rãi ngồi xuống một chiếc ghế cạnh bàn và với một cây bút chì, tôi viết. Tôi mô tả bằng những chữ đơn giản cảm giác nắm tay mẹ và băng qua cánh đồng hoe nắng như thế nào, cảm giác nhìn thấy Joey và Tony chạy về phía tôi cánh tay mở rộng, mặt hân hoan rạng rỡ như thế nào. Tôi đặt viên gạch nọ lên viên gạch kia như một người thợ hồ lương thiện. Một cái gì có tính chất vươn lên đã xẩy ra – không một ngọn cỏ chồi lên nhưng là một cái gì có tính cách cơ cấu, một cái gì bằng phẳng. Tôi không gắng sức để kết thúc nó; tôi ngừng lại khi tôi đã nói tất cả những gì tôi có thể nói. Tôi đọc lại điều tôi viết, một cách bình thản. Tôi xúc động đến nỗi nước mắt tôi trào ra. Đó không phải là cái để đưa cho một ông chủ bút: đó là một cái gì để cất vào ngăn kéo, để giữ như một nhắc nhở cho những quá trình tự nhiên như một hứa hẹn viên thành.

Mỗi ngày chúng ta tàn sát những xung lực tinh túy nhất của chúng ta. Đó là lý do tại sao ta đau nhói trong tim khi đọc những dòng viết bởi bàn tay một bậc thầy và nhận thấy chúng chính là của chúng ta, là những chồi non mềm mại mà chúng ta đã làm thui chột đi bởi chúng ta thiếu lòng tin để tin tưởng vào những khả năng của chúng ta, tiêu chuẩn chân thiện mỹ của riêng chúng ta. Bất cứ người nào, khi hắn tĩnh lặng, khi hắn trở nên lương thiện với chính mình một cách tuyệt vọng, đều có thể nói lên những sự thực sâu xa. Tất cả chúng ta đều phát nguyên từ một nguồn. Chẳng có chi huyền bí về nguồn gốc của sự vật. Tất cả chúng ta đều tham dự vào sự sáng tạo. Tất cả chúng ta đều là vua chúa, tất cả chúng ta đều là thi sĩ, tất cả chúng ta đều là nhạc sĩ: chúng ta chỉ cần mở tung, để khám phá xem cái gì đã sẵn có ở đó.

Điều xẩy ra cho tôi trong khi viết về Joey và Tony tương đương với sự phát lộ. Tôi được khải ngộ rằng tôi có thể nói điều tôi muốn nói - nếu tôi không nghĩ đến một điều gì khác, nếu tôi đặc biệt chú tâm đến điều đó mà thôi – và nếu tôi sẵn sàng cam chịu những hậu quả mà một hành động thuần túy luôn luôn bao hàm.


*


Commandments

1. Work on one thing at a time until finished.
2. Start on more new books, add no more new material to Black Spring.
3. Don’t be nervous. Work calmly, joyously, recklessly on whatever is in hand.
4. Work according to Program and not according to mood. Stop at the appointed time!
5. When you can’t create you can work.
6. Cement a little every day, rather than add new fertilizers.
7. Keep human! See people, go places, drink if you like it.
8. Don’t be a draught-horse! Work with pleasure only.
9. Discard the program when you feel like it but go back to it next day. Concentrate. Narrow down. Exclude.
10. Forget the books you want to write. Think only of the book you are writing.
11. Write first and always. Painting, musics, friends, cinema: all these come afterwards.


Mười một điều răn

1. Hãy làm một việc trong một thời hạn cho đến khi hoàn tất.
2. Không khởi sự một cuốn sách nào mới nữa, không thêm chất liệu mới nào nữa vào cuốn Mùa xuân đen”.
3. Đừng nóng nẩy. Hãy làm việc một cách bình thản, vui vẻ, khoái hoạt với bất cứ cái gì có trong tay.
4. Làm việc theo chương trình chứ không theo tâm tính. Dừng lại ở thời gian ước định.
5. Khi bạn không thể sáng tạo bạn vẫn có thể làm việc.
6. Củng cố một ngày một chút hơn là thêm phân bón.
7. Giữ nhân tính! Thăm người, viếng cảnh, uống rượu nếu thích.
8. Đừng là một con ngựa kéo xe! Chỉ làm việc với thích thú thôi.
9. Dẹp chương trình sang một bên nếu cảm thấy thích nhưng trở lại với nó ngày hôm sau. Tập trung tinh thần. Thu hẹp lại. Loại trừ.
10. Hãy quên những cuốn sách bạn muốn viết, chỉ nghĩ tới cuốn sách bạn đang viết thôi.
11. Viết trước hết và luôn luôn. Hội họa, âm nhạc, bạn hữu, cinema, tất cả những thứ đều đến sau.


Trên đây là những điều răn Henry Miller đặt ra cho mình vào những năm 1932-1933, thời kỳ sáng tạo nhất của ông, khi ông đang viết cuốn Mùa xuân đen. Nhưng những điều răn này còn có thể áp dụng cho ông mọi lúc và cho mọi nhà văn. Đó là những lời răn vô cùng thiết thực: kỷ luật mà bất cứ nhà văn nào cũng phải tuân theo khi sáng tác.

Dưới đây là chương trình làm việc hàng ngày của ông. Những điều răn và Chương trình này được thu thập trong Henry Miller Miscellanea.

Mornings:

If groggy, type note and allocate, as stimulus.
If in fine fettle, write.

Afternoons:

Work on section in hand, following plan of section scrupulously. No intrusions, no diversions. Write to finish one section at a time, for good and all.

Evenings:

See friends. Read in cafés.
Explore unfamiliar sections - on foot if wet, on bicycle, if dry.
Write, if in mood, but only on Minor Program.
Paint if empty or tired.
Make notes. Make Chart, Plans. Make corrections of MS.
Note: Allow sufficent time during daylight to make an occasional visit to museums or an occasional sketch or occasional bike ride. Sketch in cafés and trains anh streets. Cut the movies! Library for references once a week.

Buổi sáng:

Nếu váng vất, đánh máy ghi chú và phân phối để gợi hứng.
Nếu khoẻ khoắn, viết.

Buổi chiều:

Làm việc theo phân đoạn trong tay, theo sát sơ đồ của phân đoạn một cách chi li. Đừng bức bách, đừng xao lãng. Luôn luôn viết cho xong một phân đoạn trong một thời hạn.

Buổi tối:

Thăm bạn hữu. Đọc trong quán café.
Thám hiểm những đoạn xa lạ - bằng mọi cách.
Viết, nếu hứng, nhưng chỉ viết theo Chương Trình Phụ thôi.
Vẽ nếu trống rỗng hay mệt mỏi.
Ghi chú. Lập Đồ Biểu, Dàn Ý. Sửa BT.
Chú thích: Trong lúc ban ngày dành thì giờ đủ cho phép thỉnh thoảng thăm viếng viện bảo tàng hay phác họa hoặc đạp xe máy đi chơi. Phác họa trong quán café, trên xe hỏa và ở ngoài phố. Nghỉ coi chiếu bóng! Tới thư viện tham khảo mỗi tuần một lần.

Nguồn: Quế Sơn Võ Tánh ấn hành lần thứ nhất 1971, Hồng Hà ấn hành lần thứ hai 1973 tại Sài Gòn.

Con đường sáng tạo (10)

Con đường sáng tạo
(Tư tưởng và quan niệm về sáng tác của Nietzsche, Rimbaud, Henry Miller, Schopenhauer, William Faulkner, André Gide, Georges Simenon, Rainer Maria Rilke, Emerson, Thomas Wolfe)

Nguyễn Hữu Hiệu dịch và giới thiệu

Phần thứ ba

André Gide

Lời khuyên nhà văn trẻ tuổi


Giới thiệu

1. Tôi sinh ngày 22 tháng mười một năm 1869. Cha mẹ tôi lúc đó ngụ ở một căn nhà bốn hay năm tầng gì đó ở phố Médicis mà các người rời đi vài năm sau và tôi không còn giữ lại chút kỷ niệm nào về nó cả. Tuy nhiên tôi vẫn thấy lại cái bao lơn công trường từ trên cao nhìn xuống và tia nước ở hồ nước công trường - hoặc rõ rệt hơn nữa tôi thấy lại những con rồng giấy cha tôi cắt, mà chúng tôi đứng từ trên bao lơn phóng xuống, bay theo gió, bay qua hồ nước công trường tới tận vườn Lục-Xâm-Bảo nơi những cành trắng của những cây hạt dẻ neo móc chúng lại.

Tôi cũng còn nhìn thấy một cái bàn khá lớn chắc hẳn là cái bàn của phòng ăn, trên phủ một tấm thảm buông trùng. Tôi chui xuống dưới gầm bàn đó với con người gác cổng, thằng nhỏ bằng tuổi tôi thỉnh thoảng lại chơi với tôi.

“Mấy cậu làm gì ở dưới đó?” bà vú của tôi hét.

“Có làm gì đâu. Chúng em chơi mà.”

Và chúng tôi khua ầm ĩ mấy thứ đồ chơi chúng tôi mang vào cốt để đánh lừa bà. Thực ra chúng tôi chơi khác: người nọ cạnh người kia, tuy nhiên không phải người nọ với người kia, chúng tôi làm điều mà sau này tôi biết người ta gọi là “những thói hư tật xấu”.

Những “thói hư tật xấu” ấy là một chất liệu của tác phẩm Gide và ông chỉ đoạn tuyệt vào năm ông đã gần năm mươi tuổi. Đó là “một bí ẩn thể chất nhỏ bé, một sự bất mãn của xác thịt, một nỗi xao xuyến, một quái trạng” cần yếu cho một nhà cải tạo [1] .

Trong tác phẩm viết về Dostoievsky, Gide viết: “Ở khởi nguyên mỗi cuộc canh tân tinh thần lớn, nếu chúng ta tìm kiếm kỹ chúng ta sẽ luôn luôn thấy có một bí ẩn thể chất nhỏ bé, một sự bất mãn của xác thịt, một nỗi xao xuyến, một quái trạng không thường (…) Ở khởi nguyên mỗi một cuộc canh tân bao giờ cũng có một nỗi bất an: nỗi bất an mà nhà cải tạo phải chịu là nỗi bất an của một trạng thái mất quân bình nội tâm. Những cấm đoán luân lý, những giá trị tinh thần, địa vị xã hội bắt hắn làm khác hẳn thế, và nhà cải tạo khao khát một sự quân bình mới: tác phẩm của hắn chỉ là một sự cố gắng tổ chức lại sự hỗn loạn hắn cảm thấy trong hắn, biện minh cho nó [2] Dĩ nhiên bất quân bình chưa đủ để trở thành một nhà cải tạo, “nhưng tất cả những nhà cải tạo đều là một kẻ bất quân bình (…) Mahomet là một người mắc chứng động kinh, mắc chứng động kinh những nhà tiên tri Israel, và Luther và Dostoievsky. Socrate có con quỉ của ông ta, thánh Paul có “cái dằm trong da thịt” huyền bí, Pascal có vực thẳm của mình, Nietzsche và Rousseau có chứng điên (Dostoievsky, pp. 209-210).

Gide đã viết, và “sẵn sàng viết lại” điều này, điều ông coi là một chân lý hiển nhiên không cần chứng tỏ: “Với tình cảm đẹp, người ta chỉ tạo nên một thứ văn chương tồi tệ ”(C’est avec les beaux sentiments qu’on fait de la mauvaise littérature.) Những ý hướng tốt nhất thường làm thành những tác phẩm nghệ thuật tồi nhất và nghệ sĩ có thể làm soa đọa nghệ thuật của mình khi muốn nó có tính cách xây dựng (Journal, Septembre 1910, p. 83)

André Gide đã đi sâu vào mê lộ lạc lõng. Đó chính là CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT mà một Siddharta của Hermann Hesse đã chứng nghiệm và thể nghiệm bằng thân thể qua tác phẩm Câu chuyện của dòng sông và đó cũng chính là CON ĐƯỜNG SÁNG TẠO Nietzsche đề xướng:

“Ý chí đau khổ”; Các ngươi phải sống một thời gian nữa trong cuộc đời, các ngươi những kẻ sáng tạo. Các ngươi phải suýt bị tiêu hủy và sau đó các ngươi phải ca ngợi mê lộ và sự lạc lõng của các ngươi. Nếu không, các ngươi không thể sáng tạo mà chỉ có thể chết. Các ngươi phải có những buổi bình minh và hoàng hôn của các ngươi. Các ngươi phải có điều xấu ác của các ngươi và các ngươi phải gánh vác lại một thời gian nữa điều xấu ác ấy. Các ngươi là những kẻ trở về vĩnh cửu, các ngươi phải biến chính các ngươi thành một cuộc trở về.”

Theo Sartre [3] , “Gide là một gương mẫu không thể thay thế được” vì ông “đã chọn trở thành chân lý của mình ”. Tất cả mọi chân lý, nói theo Hegel, đều đang trở thành. Nhưng người ta thường hay quên điều đó. Người ta chỉ nhìn thấy kết quả mà không thấy cuộc hành trình. Người ta coi ý tưởng như một sản phẩm hoàn toàn mà không thấy rằng ý tưởng không là gì khác hơn sự trưởng thành tiệm tiến của chính nó, không là gì khác hơn một chuỗi những sai lầm nối tiếp sửa sai cho nhau, một chuỗi những cái nhìn phiến diện bổ túc và mở rộng cho nhau. Điều đáng ca ngợi nhất nơi Gide là ông “đã sống những ý tưởng của mình”, nhất là ý tưởng Thượng Đế đã chết. Ông không chỉ sống bằng tâm hồn; ông còn sống bằng cả thể xác nữa. Và nếu nghệ thuật cốt yếu là phải đi đến cùng thì chúng ta phải công nhận cùng với Sartre rằng: “Điều đáng quí nhất mà Gide cung hiến cho chúng ta chính là quyết định sống cho đến cùng cái hấp hối và cái chết của Thượng Đế.” Vinh quang của ông là ở đó. Sự thống khổ của ông cũng là ở đó. Theo Heidegger (Chemins) có nhiều người nghĩ rằng “Thượng Đế đã chết” nhưng họ sống như thể Thượng Đế còn có vậy. Sự vĩ đại của Gide là đã lì lợm chịu đựng đến cùng độ hậu quả của chân lý trên. Là đã ôm ấp trong lòng mình cả một cái chết vĩ đại, là đã mang trong hồn sự đổ vỡ tan hoang của những giá trị cũ, là đã sống trọn vẹn trong cả hồn lẫn xác chủ nghĩa hư vô vô thần ghê lạnh.

“Kẻ đi tiên phong bao giờ cũng bị hy sinh [4] ” Nếu tâm hồn Nietzsche không chìm lặn xuống đại dương đêm tối sau khi đã sống hết đời ông trong Buổi hoàng hôn của những thần tượng thì chắc chắn chúng ta phải điên cuồng vì tuyệt vọng. Simenon nói rằng suốt đời Gide mơ ước trở thành một kẻ sáng tạo thay vì một nhà luân lý. Chưa. Gide chưa thể trở thành kẻ sáng tạo những giá trị mới cũng như Nietzsche chưa được quyền làm thơ mà phải triết lý vậy. Quyền sáng tạo những giá trị mới, những giá trị hân hoan, những nguồn vui mới, những hy vọng mới kể từ sau cái chết của Thượng Đế là quyền của chúng ta, là bổn phận của chúng ta. Sứ mệnh của Gide là phải nhận chịu tất cả hậu quả của cái chết của Thượng Đế. Và ông đã làm như vậy. “Ông đã sống cho chúng ta một cuộc sống mà chúng ta chỉ cần sống lại khi đọc ông, ông đã giúp chúng ta tránh được những cái bẫy ông đã gặp phải và thoát ra như ông đã thoát ra…” (Sartre). Nếu được quyết định một cách trừu tượng lúc ông hai mươi tuổi, chủ trương vô thần của ông có thể là giả tạo; thu phục dần dần, kết quả của nửa thế kỷ kiếm tìm, thuyết vô thần đó trở thành chân lý cụ thể của ông và của chúng ta nữa. “Từ đó những con người ngày nay có thể trở thành những chân lý mới mẻ.”

S’il le grain ne meurt

Nếu hạt lúa không chết đi, tên một tác phẩm của Gide, nói lên tất cả ý chí hy sinh thiết tha của một Prométhée và tất cả ý chí chìm đắm anh hùng (volonté de sombrir) mà Nietzsche đề cao.

Quả thật, quả thật ta nói cùng các ngươi nếu hạt lúa rơi xuống đất không chết đi.

Nó sẽ ở tại một mình; nhưng nếu nó chết đi, nó sẽ mang lại nhiều hoa trái.
(“Jean’’, XII, 21, 25).

Nếu kẻ nào hôm nay còn trông vời quá khứ. Nếu kẻ nào hôm nay còn chưa thắng nổi chủ nghĩa hư vô; còn chưa rứt khoát đạp đổ những giá trị cũ, nếu kẻ nào hôm nay còn chưa tìm thấy đủ ý chí và sức mạnh để sáng tạo những giá trị mới thì kẻ đó là chính kẻ phản bội những sự hy sinh lớn lao hắn đã thụ hưởng và thiếu cả bổn phận với những kẻ tới sau.

“Ôi các bạn ta ơi! sự cao nhã của các bạn không được quay nhìn lại đàng sau mà phải nhìn ra bên ngoài! Các bạn phải là kẻ bị trục xuất khỏi tất cả mọi tổ quốc và khỏi tất cả mọi xứ sở của tổ tiên các bạn!

Các bạn phải yêu thương xứ sở của con cái các bạn: mong sao tình yêu này phải trở thành sự cao nhã mới của các bạn. - xứ sở trinh nguyên chưa thám hiểm trong những vùng biển xa xôi, chính xứ sở đó ta ra lệnh cho cánh buồm các bạn lên đường tìm kiếm và tìm kiếm mãi mãi!

Các bạn phải chuộc lại bằng con cái các bạn vinh hạnh là con cái của ông cha các bạn: chính bởi thế các bạn sẽ giải thoát khỏi tất cả quá khứ! Ta đặt trên các bạn bảng giá trị mới mẻ này!”
(Nietzsche, Also sprach Zarathustra).

Con cái ta ở đâu, trẻ thơ ở đâu, sự sáng tạo của ta sẽ hướng về đó và lúc đó chúng ta sẽ có một thứ nghệ thuật “táo bạo, phiêu bồng (flottant), quay cuồng, ngạo mạn, trẻ con, diễm phúc” [5] thay cho nghệ thuật già nua, trịnh trọng, thiếu máu, bi thương mà Gide cam chịu là kẻ cầm cờ đi đoạn hậu.


2. Sinh năm 1869 và mất năm 1951 ở Paris, cuộc đời trải qua giữa hai thế kỷ nhiều biến động nhất, Gide liên tiếp tiếp thu hơi thở cuối cùng của những thiên tài thế kỷ trước: Dostoievsky (mất năm 1881), Rimbaud (1891), Oscar Wilde (1900), Nietzsche (1900), xuất bản những tác phẩm quan trọng và thành danh khi những văn hào, triết gia thế kỷ sau chưa chào đời hay hãy còn cắp sách đến trường: Dưỡng chất trần gian (1897), Prométhée bị trói lỏng (1889), Kẻ vô luân (1902), Ngày trở về của đứa con hoang đàng (1907), Dostoievski (1908), Khung cửa hẹp (1909), Những hầm rượu ở Vatican (1914), Hòa âm điền dã (1919), Những kẻ làm bạc giả (1925-26), Nếu hạt lúa không chết đi (1926), Thésée (1946). Gide là bậc huynh trưởng của những Jean Giono (sinh năm 1895), Montherlant (1896), Saint Exupéry (1900), Malraux (1901), Sartre (1905), Camus (1913)… Là một bậc đàn anh trên văn đàn và một nhà văn ngang chướng, nhưng là một kẻ khiêm cung trong đời sống, Gide tuyên bố vài ngày trước khi từ trần: “Tôi không mang lại một lý thuyết nào, tôi từ chối đưa ra những lời khuyên nhủ và, trong cuộc tranh luận, tôi thường tháo lui ngay lập tức. Nhưng tôi biết ngày nay có một số người đang mò mẫm tìm kiếm và không biết tin cậy ai; với những người đó, tôi sắp nói đây.”

Bài “Lời khuyên nhà văn trẻ tuổi” sau đây đăng trong Nouvelle Revue Française do Gide sáng lập.


*



Lời khuyên nhà văn trẻ tuổi

Và ngay bài khái luận này, tôi cũng thích coi nó như một tác phẩm nghệ thuật.

Thây kệ sự khẳng định liều lĩnh này muốn dẫn tôi tới đâu cũng được!

Vậy tôi chỉ quan tâm tới vấn đề nghề nghiệp. Tôi muốn bắt đầu từ điểm này, từ sự khẳng định một điều thiên vị đặc biệt này và rồi thử xem tôi có thể bị chặn lại ở đâu.

Vậy thì tôi viết tiểu luận này để ca ngợi một người thợ khéo. “Viết một quyển sách là làm một nghề”, La Bruyère thận trọng nói ở đầu một cuốn sách. Tôi xin khuyến cáo ngay với độc giả: ở đây tôi chỉ bàn tới vấn đề nghề nghiệp.

Claudel, từ Viễn Đông trở về nói rằng ông khó chịu biết bao vì sự phí phạm ở Pháp.

Mẹ tôi dậy tôi bao giờ cũng phải uống cạn ly rượu Tần trước khi rời bàn ăn, chỉ ăn số bánh tôi có thể ăn.

Chắc chắn một đôi chút của cái ý tưởng về tiết kiệm đó còn tồn tại trong cái nhu cầu cấp thiết này mà tôi cảm thấy đối với sự chừng mực. Tác phẩm nghệ thuật, tôi muốn coi nó hoàn toàn vô cớ, nhưng tôi không dung thứ một sự phung phí vô nghĩa nào trong đó và chỉ thẩm định rằng sự toàn bích đã đạt được nếu ở đầu ngọn bút tôi còn lại nhiều mực hơn mức cần thiết để diễn tả khít khao tư tưởng tôi. Trong nghệ thuật, tất cả những gì không có ích đều có hại.

Tôi gọi tính cách báo chí, trong văn chương, tất cả những gì ngày mai sẽ ít quan tâm tới hơn ngày hôm nay. Tất cả những gì chẳng bao lâu sẽ kém đẹp, kém huyền bí, kém vui tươi, kém tự tại như nó hiện ra đối với quần chúng hôm nay; và tôi hứng khởi khi nghĩ rằng ngược lại với báo chí tác phẩm nghệ thuật hoàn mỹ thoạt tiên không có vẻ mỹ miều.

Trả lời những cuộc tấn công? Đó là một sự ngứa ngáy mà tôi không khuyên bạn chịu nhịn. Nếu sự tấn công bất công, hãy để độc giả nhìn thấy điều đó, hãy nhắc lại trước hết câu cách ngôn của Cicéron, kế đó câu của Cambronne. Nếu sự tấn công đúng, nếu mũi tên của kẻ thù nhằm vào trúng chỗ, bạn chỉ còn có việc hết sức cố gắng nhấn nó sâu thêm vào vết thương, công bố những nhược điểm của mình và những yếu huyệt của chúng. Còn có điều tệ hơn thế nữa. Tu viện trưởng Brémond, trong bài trả đũa Sauday ít cho ta thấy ông ta đã nhầm lẫn cho bằng đồng thời phát lộ sự thiếu tư cách và tính dễ nổi xung vô ích của ta.

Hãy tin tưởng rằng lời khen tụng làm ta an nghỉ, đưa đến thiếu cố gắng, và sự tấn công chịu đựng đến nơi đến chốn làm ta mạnh thêm. Hãy để tác phẩm của bạn tự bảo vệ và bỏ qua không đếm xỉa tới. Nếu nó không chịu nổi cuộc tấn công, tất cả những phương kế khôn khéo bạn viện ra để cứu vớt nó không thể ngăn cản được sự lụn bại của nó; tốt hơn bạn hãy để tâm sáng tạo tác phẩm khác có thể chịu trận bền bỉ hơn.

Đi sâu vào nghệ thuật của những người khác là một điều thú vị, nhưng tôi không dám quả quyết rằng việc đó có một lợi ích thiết thực nào không. Như tiểu thuyết gia tài ba (bà W…) kể cho tôi nghe rằng sự nghiên cứu, khảo sát phân tích tỉ mỉ tiểu thuyết của văn gia thượng thặng đã chiếm hết tuổi trẻ của bà, đến nỗi chính bà bắt đầu tạo ra tác phẩm rất điêu luyện, phong phú về mọi bí mật, mọi tài nguyên của nghề. Nhưng đó là nghề của những kẻ khác. Sự khéo léo đích thực là sự khéo léo mà ở giây phút cuối cùng sự xúc cảm khuyên bạn. Sự thông minh của xúc cảm.

Người ta gọi là thủ thuật sự thủ đắc kinh nghiệm của những tác phẩm trước. Nó bảo đảm cho những nghệ sĩ tầm thường ít vất vả hơn, thành công lớn hơn. Nhưng đối với người nghệ sĩ chân chính mỗi một đề tài mới đặt ra một khó khăn mới, và để chiến thắng, tất cả những kinh nghiệm trước đều vô nghĩa.

Kỳ tài bao giờ cũng chỉ tạo được cái tầm thường. Vấn đề không phải là tu chỉnh nghề nghiệp bạn mà là chính bản thân bạn.

Nếu bạn cảm thấy khá tin tưởng nơi bạn, tự tin vào sức mạnh của bạn – thì than ôi, tôi phải thêm rằng - nếu bạn không cần “kết quả của công việc bạn”, để sống tôi khuyên bạn (nhưng coi chừng kẻo hối hận) nên chống đối báo chí và ký giả.

Đặc điểm của báo chí là quan tâm tới quần chúng với cái mà ngày mai sẽ ít chú ý tới như ngày hôm nay. Làm sao bạn có thể ăn ý với những thứ đó, trong khi bạn là… Dù sao hãy khiêm cung. Bị thời đại mình làm ngơ để rồi thức dậy năm mươi năm sau như Keats, Nietzsche, Baudelaire hay Stendhal chưa đủ. Nhưng nó cho phép bạn ao ước vinh quang của họ và thích phép lạ đích thực này hơn là sự thành công.

Mong sao mai sau một thanh niên trầm tư và giống kẻ mà tôi có thể trở thành cúi mình trên cuốn Amyntax hay bất cứ tác phẩm nào khác của tôi, nơi sẽ gửi tư tưởng tôi một cách nhịp nhàng nhất, cảm thấy tim đập rộn ràng như trái tim tôi khi đọc: Better be (v.v…, trích Keats) – và nói rằng: đối với tôi anh linh động hơn người bạn sống động nhất, André Gide. Và tôi không tiếc rằng anh đã chết đi; nếu anh còn sống tôi không biết anh – tôi sẽ cho đi tất cả những lời hoan hô của ngày hôm nay, cả ghế của tôi ở Hàn Lâm Viện vì điều đó. Ôi Keats, ôi Baudelire, ôi Verlaine, ôi biết bao kẻ khác mà nỗi khát khao bỏng cháy không dễ làm cho dịu bớt nhanh chóng – không phải tôi chỉ thèm thuồng danh vọng sau khi chết của quí vị, mà cả niềm hy vọng và đợi chờ đau đớn của quí vị! Chính nỗi đam mê của quí vị mà trước hết tôi muốn giống.

Hãy chọn kẻ thù của bạn; nhưng hãy để các bạn của bạn lựa chọn bạn.

Lòng tin tưởng vào sự trường cửu của tác phẩm mình mang lại cho tác phẩm của nghệ sĩ vẻ uy nghiêm vô cùng trong hân hoan, vẻ an nhiên vô cùng trong buồn sầu, sự kiên nhẫn vô cùng, sự bình dị ngạo nghễ vô cùng, phân biệt nó với những tác phẩm chỉ thèm muốn thành công. Người nghệ sĩ mạnh mẽ đích thực không hề ta thán thời đại mình không hiểu mình, người nghệ sĩ ngược lại còn múc ngay trong sự không hiểu đó một bảo đảm cho sự trường cửu.

Sự lầm lẫn lãng mạn là tìm cách đặt cuộc đời bên ngoài tác phẩm.

Ôi thi sĩ của niềm tin hèn mọn! Phải chăng vì sự tán thưởng thoảng qua của những người đồng thời với mình mà bạn lên tiếng nói? Há bạn lại không biết rằng tất cả những gì, vì trung thành, trước hết chôn vùi bạn trong tác phẩm của bạn, mai này, sau khi bạn qua đời, sẽ vươn lên gấp trăm lần hơn sao?

Hai lời khuyên cuối cùng:

Hãy viết càng ít chừng nào càng hay chừng ấy.

Chỉ viết những gì thiết yếu thôi.

Đừng tin tất cả những gì phỉnh phờ mình, tất cả những gì khiến bạn tin rằng điều bạn viết ra hay ho hơn nó có trong thực tế. Đặc biệt tôi nghĩ tới lối ấn loát mà những bạn trẻ cùng lứa tuổi của bạn chấp nhận ngày hôm nay, trình bày bản văn bằng cách lợi nhất, và coi đó là sự độc đáo. Cũng như những câu thơ của Paul Fort không kém vẻ thơ, những vần thơ hay nhất, nếu được in theo lối thơ xuôi, bạn thử nghĩ một câu thơ có mười hai âm như câu thơ đây của Hugo có thể hay hơn không nếu được xếp đặt như sau:

Cheval
foule au pieds
l’homme
et l’homme
et l’homme
et l’homme
hay tôi không biết một lối kỳ cục nào dễ tưởng tượng hơn.

Nếu ở đôi chỗ trong suốt cuốn Dưỡng chất trần gian, tôi đi vào con đường sai lầm này, người ta sẽ nhận rằng tôi làm điều đó với sự thận trọng (…)

Trước hết phải khỏe mạnh. Một nỗi bất an nào đó của tâm hồn chỉ là phản ảnh của nỗi bất an của xác thịt, và, nếu khỏe mạnh, Pascal tất đã tìm thấy Thượng Đế mà ông tìm kiếm với bao kinh hoàng. Có lẽ ông thiếu thiên tài? Nghĩa là ông đã phải khổ công vận dụng óc thông minh tuyệt vời vào những tạo vật chắc chắn nhất.

Nhưng điều làm bạn thích thú nơi ông chính là nỗi kinh hoàng của ông ta, nhờ đó tất cả những gì bệnh hoạn và bạc nhược trong bạn cảm thấy được khuyến khích vuốt ve. Tôi không thể thán phục nhiều một tâm hồn không bao giờ biết tới xao xuyến bất an; nhưng tôi thán phục hơn hết kẻ nào chế ngự được nó và tìm thấy lại an bình, thăng bằng, bên ngoài cái địa ngục mà không có gì nơi hắn còn tồn tại ngoại trừ sự thấu hiểu vô cùng tinh tế và vô cùng phong phú về con người, về những khả năng của con người. Để có thể vẽ thật khéo, cái địa ngục đó, chính mình phải thoát ra cái đã.

Đừng thất vọng khi mất hút mục tiêu. Hãy tin rằng không thể thủ đắc kiệt tác bằng một cuộc theo đuổi trực tiếp; cần phải có mưu thần chước quỉ và kiên nhẫn trong đường ngoắt ngéo. Phải xáp lại nó bằng mọi ngả. Đừng vấp trên một điểm, hãy bỏ qua đừng đếm xỉa tới; hãy nhắc nhủ mình rằng cái gút (kết cấu) chỉ có trong tâm trí; bạn càng co kéo bao nhiêu, nó càng thắt chặt bấy nhiêu; nó sẽ tự tháo gỡ một mình nếu bạn để cho nó nghỉ ngơi đôi chút.

Mỗi một tác phẩm nghệ thuật là một vấn đề đã quyết; một vấn đề gồm vô vàn những vấn đề tương quan nhỏ mà mỗi vấn đề chờ đợi nơi bạn một giải pháp đặc biệt, nghĩa là chữ dùng đúng chỗ; và ngay cả cái mà những nhà lãng mạn gọi là cảm hứng cũng tan rã thành vô số những cố gắng nhỏ.

Sự thống nhất của tác phẩm chính là sự thống nhất của lòng hăng hái của bạn.

Nếu bạn muốn, hãy viết trong say sưa, nhưng hãy chay tịnh, khi bạn đọc lại.

Nếu bạn muốn tiến bộ, không nương tựa vào bất cứ một công thức nào. Không nên nương tựa – Nhưng bạn có cần phải tiến bộ không? Nếu bạn chỉ tìm kiếm sự thành công, bạn hãy tin rằng tất cả những tiến bộ mà bạn sẽ thực hiện sẽ làm hỏng sự thành công ấy. Công chúng bao giờ cũng chỉ hoan nghênh cái họ có thể công nhận; bạn mang lại cho bất cứ điều mới mẻ nào họ cũng đều khó chịu hết. Do đó, việc đầu tiên là xem có phải bạn tìm kiếm thành công hay không. Trong trường hợp đó, không nên theo bất cứ một lời khuyên nào của tôi cả; tốt hơn nên làm ngược lại.

Sự độc đáo đích thực luôn luôn không bao giờ hiển lộ, và trái lại bề ngoài lạ lùng chỉ dùng để che đậy một sự nghèo nàn cùng cực của cảm xúc và, sự tầm thường cỏ giả của tính tình. Sự độc đáo đích thực nhất là sự độc đáo không tự biết mình.

Hãy luôn luôn cố gắng viết càng giản dị chừng nào hay chừng ấy, cần nhất là đừng lừa phỉnh mình; luôn luôn đề phòng chống lại sự tự mãn và không ngừng canh chừng đừng lừa bịp mình. Nếu bạn thích chữ của mình, hãy cho đánh máy. Coi chừng những chữ hoa của bạn.

C… chiếm đoạt những chữ của J… hắn rêu rao trong những khách thính mà J… không lai vãng tới, khiến người ta cho là của mình; phải công nhận rằng hắn đã làm tăng giá trị cho chúng; giọng hắn trong trẻo, cử chỉ của hắn hàm ngụ, dáng đi của hắn quả quyết.

Hãy hết sức tránh những tối thượng cấp (superlatifs); chỉ bằng cách đó bạn mới duy trì được ý nghĩa trọn vẹn của một số chữ. Nơi nào kẻ yếu phóng đại, người mạnh tự kìm hãm. Sức mạnh của những chữ, ôn tồn tác động trong tâm trí người đọc. Nó trở nên vô hiệu nếu bạn trải nó ra trên giấy.

Khách thính

Đừng tìm sự thành công dễ dãi của người nói hay. Vai trò của bạn là nghe. Một đại nghệ sĩ trước hết là một đại thính giả.

Điều kiện thứ nhất để biết nghe là thoạt tiên biết lặng thinh.

Nếu bạn phiêu lưu trên thế giới, bạn phải như kẻ thợ lặn có mặc áo lặn dưới nước.

Bạn hãy tin rằng trên thế giới chỉ có những gì không phải là vàng, mới sáng lóa.

Bạn hãy tin rằng, trên thế giới, những đồng tiền mới, không thông dụng. Không bao giờ người ta được nổi tiếng là một người tài trí mà không mắc phải đôi chút ngu ngốc.

Thói quen mà những bạn đồng nghiệp của bạn thường có – coi sóc, gợi hứng, nếu có thể còn đọc cho người ta viết nữa, những bài báo trong nhật báo và tạp chí phải chào đón sự xuất hiện của mỗi tác phẩm họ, phải ngăn chặn những nhà phê bình, hướng dẫn dư luận, thông tri danh tiếng bằng cách phải gióng trống khua chiêng và đọc tên tuổi tác giả - tất cả những thứ đó rất tốt và giúp cho danh vọng một cách đắc lực, nhưng đồng thời bạn phải khước từ lợi ích của vận may, có thế, thẩm định bạn quá đáng nếu bạn là người mà tôi hy vọng, nghĩa là mạnh mẽ thực sự và không chuộng thành công trên tất cả.

Quần chúng có thể nhầm lẫn về một cuốn sách, tác giả cuốn sách cũng có thể nhầm lẫn. Tôi tin chắc rằng tất cả những người mà chúng ta ngưỡng mộ, tôi và bạn, không hề tìm cách tiên đoán và cũng không thể tiên đoán được cái ý nghĩa sau cùng những văn phẩm họ. Tác phẩm của họ tựa như những hiện tượng tự nhiên mà mỗi một thế hệ có thể diễn dịch một cách khác nhau và vay mượn một món đặc biệt cho những người tính khí khác nhau nhất.

Vậy hãy vui vẻ nếu điều mà đọc giả hôm nay hoan nghênh nơi bạn, thật ra, chỉ là phần mà bạn cho là không đáng kể nhất của tác phẩm bạn. Hãy tránh đừng làm cho họ tỉnh ngộ, sau này cũng phải thận trọng như vậy. Vả lại, bạn có biết chắc cái gì làm nên giá trị bạn chăng? Cũng vậy nếu quần chúng trách móc những lỗi lầm bạn không hề có, bạn hãy vui vẻ và giao việc giác ngộ quần chúng cho thế hệ sau. Những điều người ta hoan nghênh ngay lập tức vì nguyên nhân tốt đẹp này và điều người ta không thể hoan nghênh vì lý do khác nữa chỉ là những xu hướng nhất thời vô giá trị và chẳng bao lâu sau sẽ chìm vào quên lãng.

Đừng quan tâm nhiều quá tới bọn ngốc. Làm phật ý họ là điều thú vị; nhưng đừng để ý tới bọn ngốc, và nhất là đừng coi tất cả những người mà bạn không biết cách làm cho họ vừa lòng là bọn ngốc.

Đừng sợ gây kinh ngạc hay mếch lòng, người nghệ sĩ đích thực, thực thế, luôn luôn làm người ta thất kinh và chưng hửng – Vâng, nhưng đó chỉ là cách để tự vệ. Trong tác phẩm nghệ thuật sự dị thường duy nhất có giá trị bao giờ cũng ngoài ý muốn.

Nói rằng phần lớn những tác phẩm vĩ đại đều bắt đầu bằng cách gây tai tiếng là một điều rất đúng; nhưng tin rằng chúng gây tai tiếng vì tính cách mới mẻ của chúng là một điều sai lầm, và điều gây tai tiếng trong những tác phẩm ấy, không phải vì chúng mang lại điều gì mới mẻ cho bằng chúng khước từ chuyên chở những cái cũ rích.

Những tính chất sâu thẳm của một tác phẩm nghệ thuật thoạt đầu ẩn khuất. Tác phẩm viên mãn không làm người ta chú ý tới mình.

Đoàn nhóm

Bạn sẽ thấy rằng ít ra là ở Pháp, nhưng tôi tin rằng ở khắp mọi xứ, những lý do nghệ thuật không đủ để tập hợp người ta lại với nhau. Trong trường hợp ấy thế nào cũng phải có một trường phái hay trường phái trở thành một đảng phái. Ở Pháp người ta chỉ tập hợp nhau bằng đảng phái. Điều đó quá mãnh liệt đồng thời quá tự nhiên và ăn sâu đến nỗi thường thường người ta không nhận thấy rằng nghệ thuật hay cái đẹp có thể tồn tại hay ít ra xứng đáng được chúng ta chú ý tới trong chính chúng, hay có thể tồn tại bên ngoài những giới hạn hay phương pháp mà trường phái đặt ra hay bảo vệ. Những sự diễn tiến nghệ thuật ở Pháp (và tôi tin ở tất cả những nước khác luôn luôn thoái hóa trở thành sự diễn tiến của những khuynh hướng đến nỗi mới đầu những diễn tiến này cố gắng khoa trương: người ta không xét đoán tác phẩm hay tác giả theo giá trị nghệ thuật, hay nhân bản, là giá trị duy nhất tiếp sau đó đáng kể; mà theo khuynh hướng, sau đó, ít giá trị đến nỗi người ta thường lưỡng lự không biết Molière, Rousseau, Descartes hay Rimbaud có phải là Thiên Chúa giáo hay không, không biết Dante thuộc phái ủng hộ Giáo hoàng hay thuộc phái khản đối Gibelin, v.v…

Người ta kể lại rằng Géricault, khi đang sáng tác tác phẩm Radeau de la Méduse muốn khép mình trong công việc, cắt đứt liên lạc với thời đại mình, tưởng tượng mình chỉ hớt một mái đầu, tin chắc rằng sự biến mình thành lố bịch như vậy để đến nỗi không dám thò mặt ra ngoài đường nữa.

Tôi thán phục ông ta vì ông đã muốn như vậy.

Tôi thán phục ông hơn nữa nếu ông tự nhốt mình mà không cần viện tới trá thuật – và thán phục hơn nữa nếu ông dám để người ta nhìn thấy mái đầu hớt một nửa của ông.


[1]Cf. Nietzsche: “Ôi những kẻ sáng tạo, những con người siêu đẳng! Kẻ nào phải sinh con, kẻ ấy phải bệnh hoạn; và kẻ nào đã sinh con, kẻ ấy nhơ nhớp.
Hãy hỏi những người đàn bà: người ta không sinh đẻ vì lạc thú. Nỗi đau đớn làm những con gà mái và những thi sĩ la lên.
Ôi những kẻ sáng tạo, trong các ngươi có quá nhiều nhơ nhớp. Bởi vì các ngươi phải làm mẹ.
Một đứa bé mới sinh ra: ôi biết bao nhơ nhớp ra đời! Hãy lánh xa! Kẻ nào đã sinh con phải thanh tẩy tâm hồn.” Also sprach Zarathustra.
[2]cf. Rimbaud: “Tôi coi sự hỗn loạn trong tâm trí tôi là thiêng liêng ”, Délires II.
[3]“Gide vivant”, in Situations VI, Gallimard, 1961.
[4]Nietzsche, Also sprach Zarathustra.
[5]Nietzsche, Gai Savoir, II, 107

Nguồn: Quế Sơn Võ Tánh ấn hành lần thứ nhất 1971, Hồng Hà ấn hành lần thứ hai 1973 tại Sài Gòn.

Con đường sáng tạo (9)

Con đường sáng tạo
(Tư tưởng và quan niệm về sáng tác của Nietzsche, Rimbaud, Henry Miller, Schopenhauer, William Faulkner, André Gide, Georges Simenon, Rainer Maria Rilke, Emerson, Thomas Wolfe)

Nguyễn Hữu Hiệu dịch và giới thiệu

Friedrich Nietzsche

Ba biến thái con đường của kẻ sáng tạo


Giới thiệu

“Tôi là con người tiền định chỉ định những giá trị cho muôn ngàn năm. Một người ẩn khuất, bị thúc bách đủ trăm chiều, một người không hoan lạc, đã khước từ mọi tổ quốc, mọi nghỉ ngơi” (Der Wille zur Macht).

Nhận định trên thâu tóm cả cuộc đời và tư tưởng Nietzsche, một trong những triết gia vĩ đại nhất của lịch sử tư tưởng Tây phương, một khuôn mặt định mệnh, cưỡng bách ta phải có những quyết định tối hậu, một người mà tên tuổi một ngày kia sẽ nối kết với những kỷ niệm của một biến cố khủng khiếp, “kỷ niệm của một cơn khủng hoảng độc nhất trong lịch sử của trái đất, của cuộc xô xát sâu xa giữa những ý thức, một nghị quyết chống lại tất cả những gì đã được tin tưởng, yêu sách và thần thánh hóa từ xưa tới nay” (Ecce Homo). Biến cố đó, cơn khủng hoảng đó, cuộc xô xát đó là cuộc “Đảo hoán mọi giá trị” Nietzsche đã thực hiện. Và hiện thân lý tưởng của sự đảo hoán giá trị Nietzsche gọi là kẻ Sáng tạo (der Schaffende). Nietzsche đã khai chiến chống lại siêu hình học, chống lại tư tưởng trừu tượng về hữu thể. Nietzsche thay thế hữu thể học bằng giá trị học (axiologie). Ông khước từ khái niệm, chủ thuyết duy lý, sự áp chế thực tại của tư tưởng, sự đầu độc cuộc đời của luân lý, tôn giáo, sự nghèo nàn và bất lực hóa con người của Thượng Đế. Ông muốn đòi lại coi như sở hữu và sản phẩm của con người tất cả vẻ đẹp, tất cả sự cao quí mà con người đã cho những sự vật thực hay tưởng tượng vay mượn. “Con người trong vai trò thi sĩ, tư tưởng gia, Thượng Đế, tình yêu, sức mạnh – ôi! Hắn đã lạc quyên cho sự vật, để tự làm nghèo mình đi và cảm thấy khốn khổ với lòng đại lượng vương giả xiết bao! Sự khắc kỷ lớn lao nhất của hắn, cho đến giớ, khi hắn ngưỡng mộ hay tôn thờ, là biết giấu đi không cho mình hay rằng chính hắn đã sáng tạo cái mà hắn tôn thờ ngưỡng mộ” (Der Wille zur Macht). Vì “Con người đã cho sự vật giá trị, để tự bảo tồn; chính hắn đã cho sự vật một ý nghĩa – một ý nghĩa nhân loại. Vì lẽ đó hắn được gọi là người – kẻ thẩm định giá trị”.

Thẩm định giá trị là sáng tạo (Schätzen ist schaffen) (Also sprach Zarathustra). Nếu không có sự sáng tạo này “cuộc đời chỉ là một trái hồ đào rỗng ruột”. Vì cuộc sống không ngừng nên sự sáng tạo cũng phải không ngừng và triệt để. Cái mà chúng ta gọi là thế giới, là cuộc đời, chúng ta phải bắt đầu bằng cách sáng tạo nó: lý trí chúng ta, óc tưởng tượng của chúng ta, ý chí chúng ta, tình yêu chúng ta phải trở thành thế giới ấy, cuộc đời ấy! Trước hết những kẻ sáng tạo là những cá nhân. Luôn luôn kẻ tình nhân và kẻ khổ đau sáng tạo. Lửa yêu thương, lửa hận thù, lửa sưởi ấm tâm hồn cháy đỏ trong mọi giá trị. “Cái gì đã cho sự vật mượn một ý nghĩa, một giá trị, một ý vị?” Trái tim đã sáng tạo, đã khát vọng và đã sáng tạo bởi khát vọng. Nó đã tạo ra lạc thú và đau khổ. Nó muốn phiền não chán chê. Chúng ta phải cảm nghiệm và chấp nhận mọi khổ đau mà người và vật đã từng chịu đựng, và chúng ta phải có một mục đích để cho sự khổ đau có một ý nghĩa”. Không những thế chúng ta còn phải “Tạo khổ đau”. Cho mình và cho người khác để khiến họ “có thể vươn tới một cuộc sống cao cả, cuộc sống của kẻ chiến thắng”.

Con đường sáng tạo là con đường cô đơn, trắc trở; trải qua nhiều hóa thân.

Trước hết tinh thần trở thành lạc đà, lạc đà đi vào sa mạc và trở thành sư tử, sau cùng, sư tử trở thành hài nhi. Lạc đà là con vật chở đồ qua sa mạc, trên lưng nó gánh nặng của văn hóa, truyền thống giáo dục: những giá trị cũ. Sư tử là chúa tể sa mạc, con vật hung hăng đập phá những giá trị đã thiết định. Hài nhi là Trò Chơi, là sự hồn nhiên, là bước khởi đầu, là bánh xe quay trên chính mình, sáng tạo những giá trị mới. Ba biến thái trên tương ứng khít khao với sự tiến triển của tư tưởng và tác phẩm Nietzsche.

Năm 1871, Nietzsche viết Khởi nguyên của bi kịch. Ông diễn dịch, phục hồi nghệ thuật và văn minh Hy Lạp trong ánh sáng tư tưởng hai bậc thầy Schopenhauer và Wagner, theo thị quan nghệ thuật. Đó là thời kỳ lạc đà, thời kỳ thẩm mỹ - tâm lý (esthetico – psychologique) với những tác phẩm: Những suy tưởng phi thời; David Strauss, nhà văn và kẻ nhiệt tin (1873), Schopenhauer nhà giáo dục (1874), Richard Wagner ở Bayreuth (1876).

Năm 1878 bắt đầu giai đoạn sư tử, giai đoạn khoa học – lột mặt nạ (scientico - démystificatrice), phê phán mọi giá trị theo thị quan khoa học duy nghiệm, giai đoạn bất nhẫn, đau yếu, tàn bạo: “Không thể nào đọc được! Không thể nào viết được, trừ họa hoằn! Không giao thiệp với ai! không thể nào nghe được âm nhạc!” Đó là thời kỳ của những tác phẩm bút chiến dữ dội: Phàm phu – quá phàm phu (1878), Viễn khách và bóng hình mình (1880), Bình minh (1884).

Năm 1882, tác phẩm Tri thức hân hoan mở đầu cho giai đoạn cuối cùng: giai đoạn hài nhi, khẳng định mọi sự và sáng tạo giá trị mới theo thị quan Phục hồi vĩnh cửu với Zarathustra đã nói như thế (1883 - 85), Bên kia Thiện Ác (1886), Phổ hệ luân lý (1887), Trường hợp Wagner, Hoàng hôn của những thần tượng, Phản vương, Ecce Homo và Nietzsche chống Wagner (1888). Sau đó là mười năm im lặng câm nín cho đến ngày nhắm mắt. Như thế, trong khoảng thời gian gần hai mươi năm, Nietzsche đã tạo ra một tác phẩm tuyệt vời, gây một cơn chấn động bửa đôi lịch sử tâm linh Tây Phương.

Siêu sử bắt đầu.

La surhistoire commence.

Bắt đầu như thế nào, bắt đầu từ bao giờ? Hỡi kẻ sáng tạo hãy trả lời câu hỏi đó!


*


Về ba biến thể

Ta sắp thuyết minh cho các ngươi về ba biến thái của tinh thần: cách nào tinh thần trở thành lạc đà, cách nào lạc đà trở thành sư tử, và cuối cùng cách nào sư tử trở thành hài nhi.

Có biết bao gánh nặng dành cho tinh thần, cho tinh thần dũng mãnh và kiên trì mà sự kính trọng ngự trị: dũng lực của nó khẩn nài những gánh nặng nặng nề nhất.

Có gì nặng nề đâu? Tinh thần dũng mãnh hỏi: rồi nó quì xuống như con lạc đà và muốn người ta chồng chất nặng.

Đâu là gánh nặng nề nhất, hỡi người anh hùng? Tinh thần dũng mãnh hỏi, để ta chồng chất lên ta và để cho sức mạnh của ta thỏa nguyện.

Há chẳng phải thế này: tự hạ mình để làm đau nhức lòng kiêu hãnh mình? Làm lóe lên cơn cuồng điên của mình để hiến minh triết mình thành trò cười?

Hoặc phải chăng là thế này: bỏ rơi chính nghĩa vào lúc nó mừng chiến thắng? Trèo lên núi cao để cám dỗ ma vương?

Hay là thế này: dinh dưỡng bằng trái dẻ rừng vả cỏ rau trí thức và chịu đói khát trong tâm hồn vì tình yêu chân lý?

Hoặc là thế này: đau bệnh và đuổi về những kẻ chăm sóc, kết bạn với những kẻ điếc không bao giờ nghe thấy điều bạn muốn?

Hoặc là thế này: yêu kẻ khinh bỉ ta và chia tay cho ma quỉ lúc nó muốn nhát ta?

Tinh thần dũng mãnh gánh vác tất cả những gánh nặng đó; như con lạc đà ngay sau khi được chồng chất nặng vội vã hướng về sa mặc, cũng thế tinh thần vội vã hướng về sa mạc của mình.

Nhưng trong thẳm cùng sa mạc tịch liêu nhất viên thành biến thể thứ hai: nơi đây tinh thần trở thành sư tử; nó muốn chinh phục tự do và làm chủ sa mạc của chính mình.

Nó tìm kiếm nơi đây bậc thầy cuối cùng của nó; nó muốn kẻ thù của bậc thầy này và cũng như kẻ thù của thần thánh cuối cùng của nó; nó muốn tranh thắng với con rồng vĩ đại.

Con rồng vĩ đại mà tinh thần không muốn gọi là thần thánh cũng chẳng muốn tôn là thầy là gì? “Mi phải” là tên gọi của con rồng vĩ đại. Nhưng tinh thần của sư tử nói: “Ta muốn”.

“Mi phải” rình rập nó bên đường, lấp lánh ánh vàng dưới lớp vỏ hàng ngàn vẩy và trên mỗi cái vẩy chói sáng bằng những chữ rực vàng: “Mi phải!”.

Những giá trị ngàn đời chói sáng trên những vẩy này và con rồng mạnh mẽ nhất trong những con rồng nói thế này: “Giá trị của mọi sự chói sáng trên ta”.

Tất cả mọi giá trị đều đã được sáng tạo, và tất cả mọi giá trị đã được sáng tạo là ta. Quả thực, không được quyền có thêm “Ta muốn” nữa! Con rồng nói như vậy.

Hỡi anh em, tại sao lại cần sư tử của tinh thần? Con vật mạnh mẽ khắc kỷ và khuất phục chưa đủ sao?

Sáng tạo những giá trị mới, - ngay cả con sư tử cũng chưa đủ khả năng: nhưng trở nên thung dung cho sự sáng tạo mới, - đó là điều quyền năng con sư tử có thể.

Tự giải phóng, đối trị một tiếng “Không” thiêng liêng ngay cả với bổn phận: hỡi anh em, đó là chức phận thuộc sư tử.

Chinh phục quyền sáng tạo những giá trị mới, - đó là một cuộc chinh phục khủng khiếp cho một tinh thần kiên nhẫn và cung kính. Quả thực, đó là một hành động cướp bóc và việc thích hợp với một con vật săn mồi.

Ngày xưa nó yêu chuộng: “Mi phải” như tài sản thiêng liêng nhất của nó: bây giờ nó phải tìm ảo tưởng và sự chuyên chế, ngay cả trong cái thiêng liêng nhất, ngõ hầu bảo đảm tự do của nó nhờ vào tình yêu của nó: phải có một con sư tử cho một hành động cướp bóc này,

Nhưng hãy nói cho ta biết, hỡi anh em, đứa hài nhi có thế làm được điều gì mà con sư tử không làm được? Tại sao con sư tử tàn bạo phải trở thành hài nhi?

Hài nhi là hồn nhiên và quên lãng, một khởi đầu mới mẻ và một trò chơi, một bánh xe quay trên chính mình, một nguyên động đệ nhất, một tiếng “Ừ” thiêng liêng.

Vâng, để cho trò chơi sáng tạo, hỡi anh em, cần phải có tiếng “Ừ” thiêng liêng: chính ý chí nó là điều bây giờ tinh thần muốn, chính thế giới của nó là cái mà kẻ lạc lõng bơ vơ ở đời muốn tiếp thu.

Ta đã trần thuyết cho anh em ba biến thể của tinh thần: cách nào tinh thần trở thành lạc đà, cách nào lạc đà trở thành sư tử, và cách nào cuối cùng sư tử thành hài nhi.

Zarathustra đã nói như vậy. Và trong thời gian đó người tạm lưu lại một thành phố mà người ta gọi là Con Bò Cái nhiều mầu.


Von den drei Verwandlungen

Drei Verwandlungen nenne ich euch des Geistes: wie der Geist zum Kamele wird, und zum Löwen das Kamel, und zum Kinde zuletzt der Löwe.

Vieles Schwere gibt es dem Geiste, dem starken, tragsamen Geiste, dem Ehrfurcht innewohnt: nach dem Schweren und Schwersten verlangt seine Stärke.

Was ist schwer? So fragt der tragsame Geist, so kniet er nieder dem Kamele gleich, und will gut beladen sein.

Was ist das Schwerste, ihr Helden? So fragt der tragsame Geist, daß ich es auf mich nehme und meiner Stärke froh werde.

Ist es nicht das: sich erniedrigen, um seinem Hochmut wehe zu tun? Seine Torheit leuchten lassen, um seiner Weisheit zu spotten?

Oder ist es das: von unserer Sache scheiden, wenn sie ihren Sieg feiert? Auf hohe Berge steigen, um den Versucher zu versuchen?

Oder ist es das: sich von Eicheln und Gras der Erkenntnis nähren und um der Wahrheit willen an der Seele Hunger leiden?

Oder ist es das: krank sein und die Tröster heimschicken und mit Tauben Freundschaft schlieBen, die niemals hören, was du willst?

Oder ist es das: in schmutziges Wasser steigen, wenn es das Wasser der Wahrheit ist, und kalte Frösche und heiBe Kröten nicht von sich weisen?

Oder ist es das: die lieben, die uns verachten, und dem Gespenste die Hand reichen, wenn es uns fürchten machen will?

Alles dies Schwerste ninmt der tragsame Geist auf sich: dem Kamele gleich, das belanden in die Wüste, also eilt er in seine Wüste.

Aber in der einsamsten Wüste geschieht die zweite Verwandlung: zum Löwen wird hier der Geist, Freiheit will er sich erbeuten und Herr sein in seiner eignen Wüste.

Seinen letzten Herrn sucht er sich hier: Feind will er ihm werden und scinem letzten Gotte, um Sieg will er mit dem groBen Drachen ringen.

Welches ist der groBe Drache, den der Geist nicht mehr Herr und Gott heßen mag? "Du sollst" heiBt der große Drache. Aber der Geist des Löwen sagt “Ich will”.

“Du sollst" liegt ihm am Wege, goldfunkelnd, ein Schuppentier, und an jeder Schuppe glänzt golden "Du sollst!”.

Tausendjährige Werte glänzen an diesen Schuppen, und also spricht der mächtigste aller Drachen: “Aller Wert der Dinge – der glänzt an mir.”

“Aller Wert ward schon geschaffen, und aller geschaffene Wert – das bin ich. Wahrlich, es soll kein “Ich will” mehr geben!” Also spricht der Drache.

Meine Bruder, wozu bedarf es des Löwen im Geiste? Was genügt nich das lastbare Tier, das entsagt und ehrfürchtig ist?

Neuw Werte schaffen – das vermag auch der Löwe noch nicht: aber Freiheit sich schaffen zu neuem Schaffen – das vermag die Macht des Löwen.

Freiheit sich schaffen und ein heiliges Nein auch vor der Pflicht: dazu, meine Brüder, bedarf es des Löwen.

Recht sich nehmen zu neuen Werten – das ist das furchtbarste Nehmen für einen tragsamen und ehrfürchtigen Geist. Wahrlich, ein Rauben ist es ihm und eines raubenden Tieres Sache.

Als sein Heiligstes liebte er einst das “Du solls”: nun muß er Wahn und Willkür auch noch im Heiligsten finden, daß er sich Freiheit raube von seiner Liebe: des Löwen bedarf es zu diesem Raube.

Aber sagt, meinn Brüder, was vermag noch das Kind, das auch der Löwe nicht vermochte? Was muß der raubende Löwe auch noch zum Kinde werden?

Unschuld ist das Kind und Vergessen, ein Neubeginnen, ein Spiel, ein aus sich rollendes Rad, eine erste Bewegung, ein heiliges Ja–sagen.

Ja, zum Spiele des Schaffens, meine Brüder, bedarf es eines heiligen Ja–sagens: seinen Willen will nun der Geist, seine Welt gewinnt sich der Weltverlorene.

Drei Verwandlungen nannte ich euch des Geistes: wie der Geist zum Kamele ward, und zum Löwen das Kamel, und der Löwe zuletzt zum Kinde.

Also sprach Zarathustra. Und damals weilte er in der Stadt, welche genannt wird: Die bunte Kuh.


*


Về con đường của kẻ sáng tạo

Bạn muốn đi vào trong cô đơn, hỡi người anh em? Bạn muốn tìm đường dẫn về chính mình? Xin hãy dừng chân giây lát và lắng nghe ta.

“Kẻ nào tìm kiếm sẽ hư mất dễ dàng. Tất cả cô đơn đều lầm lỗi”: bầy thú vật nói như thế. Và lâu nay bạn đã thuộc về bầy thú.

Ngay chính trong bạn nữa, tiếng nói của bầy thú hãy còn vang vọng. Và khi bạn nói: “Ta không chia sẻ ý thức với người nữa,” thì đó sẽ là lời than thở và nỗi đớn đau.

Đây, chính cái ý thức cộng đồng ấy đã sinh ra niềm đau đớn này và ánh sáng cuối cùng của ý thức hãy còn soi tỏ nỗi phiền não bạn.

Nhưng bạn muốn đi theo con đường của nỗi phiền não bạn, con đường dẫn về chính mình. Vậy hãy cho ta thấy bạn có đủ quyền uy và sức mạnh.

Bạn có phải là một sức mạnh mới và một quyền uy mới? Một nguyên động đệ nhất? Một bánh xe quay trên chính mình? Bạn có thể cưỡng bức những vì sao châu tuần quanh bạn?

Than ôi! Biết bao tham muốn hướng về những đỉnh cao! Bao dao động của những kẻ nhiều xa vọng. Hãy cho ta thấy bạn không phải là kẻ tham lam cũng chẳng phải là kẻ nhiều xa vọng!

Than ôi! Biết bao tư tưởng vĩ đại của tác động không hơn bào ảnh bọt bèo. Chúng phồng lên và tan vỡ còn nhanh hơn hết nữa.

Bạn nói bạn giải thoát! Ta muốn biết tư tưởng chủ yếu của bạn chứ không muốn biết rằng bạn đã thoát khỏi một cái ách.

Bạn có phải là kẻ có quyền thoát khỏi ách không? Có những kẻ đánh mất giá trị cuối cùng của họ khi rũ bỏ ách phục tòng.

Giải thoát khỏi cái gì? Điều đó không liên quan gì tới Zarathustra! Nhưng con mắt sáng ngời của bạn phải báo gì cho ta biết: giải thoát để làm gì?

Bạn có kế hoạch định cho chính mình điều thiện ác của chính bạn, và treo ý chí của bạn trên đầu mình như một luật lệ chăng? Bạn có thể là phán quan của chính luật lệ bạn chăng?

Thật là khủng khiếp khi ở một mình với phán quan và kẻ hành hình của chính luật lệ mình. Bởi thế một vì sao lao vào thinh không và vào cơn gió lạnh của cô đơn.

Hôm nay bạn hãy còn đau khổ vì đám đông, bạn kẻ độc nhất: hôm nay lòng can đảm và hy vọng của bạn hãy còn nguyên vẹn.

Nhưng một ngày kia bạn sẽ chán nỗi cô đơn của bạn, lòng kiêu hãnh của bạn cúi đầu và lòng can đảm của bạn nghiến răng. Một ngày kia bạn sẽ la lên: “Ta cô đơn!”.

Một ngày kia bạn sẽ không nhìn thấy cái cao cả trong bạn nữa, và cái thấp hèn sẽ rất gần kề. Ngay cả điều trác tuyệt của bạn cũng khiến bạn sợ hãi như một bóng ma. Một ngày kia bạn sẽ la lên: “Tất cả đều sai lầm!”.

Có những tình cảm muốn giết chết kẻ cô đơn: nếu chúng không đạt mục đích, thì chính chúng phải hủy hoại nhau! Nhưng bạn có thể là kẻ sát nhân chăng?

Bạn ơi, bạn đã hiểu chữ “khinh bỉ” là thế nào chưa? Và nỗi giày vò của công lý bạn buộc bạn phải công bình đối với những kẻ khinh bỉ bạn?

Bạn ép buộc nhiều người phải đổi ý kiến về bạn quá; họ oán hận bạn vô cùng. Bạn lại gần họ và bạn đi qua; họ sẽ không bao giờ tha thứ bạn đâu.

Bạn vượt quá họ: nhưng bạn càng lên cao, con mắt của những kẻ tị hiềm càng nhìn thấy bạn nhỏ bé đi. Và, kẻ bay lên cao nhất chính là kẻ người ta khinh ghét nhất.

“Làm sao các người có thể thành công bình đối với ta! – bạn sẽ phải nói như vậy. – Ta chọn cho ta sự bất công của các ngươi, như phần dành cho ta vậy.

Bất công và rác rưởi, đó là những cái họ ném với theo kẻ cô đơn: tuy nhiên, bạn ơi, nếu bạn muốn là một vì sao, thì bạn phải soi sáng họ dù sao mặc lòng!

Và hãy coi chừng những kẻ tốt và những kẻ công chính! Họ muốn đóng đinh những kẻ sáng tạo ra đức hạnh mình, - họ ghét kẻ cô đơn.

Hãy coi chừng cả sự hồn nhiên thánh thiện nữa! Tất cả cái gì không đơn giản đối với nó đều trái luân thường đạo lý; nó cũng muốn đùa rỡn với lửa – lửa của những đống củi thiêu đốt tội nhân.

Và coi chừng những thái quá của tình yêu bạn! Vội vã thay kẻ cô đơn chìa tay về phía người đầu tiên gặp gỡ.

Có rất nhiều kẻ bạn không được chìa tay ra mà chỉ có thể giơ chân: và ta còn muốn chân bạn phải có móng vuốt nữa.

Nhưng kẻ thù nguy hiểm nhất bạn có thể gặp bao giờ cũng sẽ là chính bạn; bạn rình rập bạn trong tận cùng cốc thâm sơn.

Cô đơn, bạn đi theo con đường dẫn về chính bạn! và con đường của bạn vượt qua trước bạn và trước bầy quỉ của bạn.

Bạn sẽ dị đoan với chính bạn, phù thủy và thầy bói, điên cuồng và bất tín, trái luân thường và hiểm độc.

Bạn phải muốn tự thiêu trong chính ngọn lửa của bạn: làm sao bạn muốn đổi mới mà trước hết lại không hóa thành than!

Cô đơn, bạn đi theo con đường của kẻ sáng tạo: bạn muốn tạo ra một thần thánh và bảy con quỉ của bạn!

Cô đơn, bạn đi theo con đường của tình nhân: bạn yêu chính bạn, vì lẽ đó bạn khinh bỉ bạn, như chỉ những kẻ tình nhân biết khinh bỉ.

Kẻ tình nhân muốn sáng tạo, bởi hắn khinh bỉ! Biết gì về tình yêu, kẻ không biết khinh bỉ chính cái mình yêu cầu.

Hãy đi vào nỗi cô đơn của bạn, hỡi người anh em, với tình yêu của bạn và ý chí sáng tạo của bạn; vào buổi xế chiều công lý sẽ khập khễnh lết lê theo bạn.

Hãy đi vào nỗi cô đơn của bạn, với nước mắt ta, hỡi người anh em. Ta yêu kẻ muốn sáng tạo vượt quá mình và tàn tạ như vậy.”

Zarathustra đã nói như thế.


Vom Wege des Schaffenden

Willst du, mein Bruder, in die Wereinsamung gehen? Willst du den Weg zu dir selber suchen? Zaudere noch ein wenig und höre mich.

“Wer sucht, der geht leicht selber verloren. Alle Vereinsamung ist Schuld”: Also spricht die Herde. Und du gehörtst lange zur Herde.

Die Stimme der Herde wird auch in dir noch tönen. Und wenn du sagen wirst: “ich habe nicht mehr ein Gewissen mit euch”, so wird es eine Klage und ein Schmerz sein.

Siehe, diesen Schmerz selber gebar noch das eine Gewissen: und dieses Gewissens letzter Schimmer glüht noch auf deiner Trübsal.

Aber du wills den Weg deiner Trübsal gehen, welches ist der Weg zu dir selber? So zeige mir dein Recht und deine Kraft dazu!

Bist du eine neue Kraft und ein neues Recht? Eine erste Bewegung? Ein aus sich rollendes Rad? Kannst du auch Sterne zwingen, daß sie um dich sich drehen?

Ach, es gibt so viel Lüsternheit nach Höhe! Es gibt so viel Krämpfe der Ehrgeizigen! Zeige mir, daß ku keiner der Lüsternen und Ehrgeizigen bist!

Ach, es gibt so viel große Gedanken, die tun nicht mehr als ein Blasebalg: sie balsen auf und machen leerer.

Frei nennst du dich? Deinen herrschenden Gedanken will ich hören und nicht, daß du einem Joche entronnen bist.

Bist du ein solcher, der einem Joche entrinnem durfle? Es gibt manchen, der seinen letzten Wert wegwarf, als er seine Dienstbarkeit wegwarf.

Frei wovon? Was schiert das Zarathustra! Hell aber soll mir dein Auge kunden: frei wozu?

Kannst du dir selber dein Böses und dein Gutes geben und deinen Willen über dich aufhängen wie ein Gesetz? Kannst du dir selber Richter sein und Rächer deines Gesetzes?

Furchtbar ist das Alleinsein mit dem Richter und Rächer des eignen Gesetzes. Also wird ein Stern hinausgeworfen in den öden Raum und in den eisigen Atem des Alleinseins.

Heute noch leidest du an den Vielen, du Einer: heute noch hast du deinen Mut ganz und deine Hoffnungen.

Aber einst wird dich die Einsamkeit müdemachen, einst wird dein Stolz sich krümmen und dem Mut knirschen. Schreien wirst du einst “ich bin allein!”.

Einst wirst du dein Hohes nich mehr sehn und dein Niedriges allzunahe; dein Erhabnes selbst wird dich fürchten machen wie ein Gespenst. Schreien wirst du einst: “Alles ist falsch!”.

Es gibt Gefühle, die den Einsamen töten wollen; gelingt es ihnen nicht, nun, so müssen sie selber sterben! Aber vermagst du das, Mörder zu sein?

Kennst du, mein Bruder, schon das Wort “Verachtung”? Und die Qual deiner Gerechtigkeit, solchen gerecht zu sein, die dich verachten?

Du zwingst viele, über dich umzulernen; das rechnen sie dir hart an. Du kamst ihnen nahe und gingst doch vorüber: das verzeihen sie dir niemals.

Du gehst über sie hiaus: aber je höher du steigst, um so kleiner sieht dich das Auge des Neides. Am meisten aber wird der Fliegende gehaßt.

“Wie wolltet ihr gegen mich gerecht sein!” - “mußt du sprechen” – ich erwähle mir eure Ungerchtigkeit als den mir zugemessnen Teil.”

Ungerechtigkeit und Schmutz werfen sie nach dem Einsamen: aber, mein Bruder, wenn du ein Stern sein willst, so mußt du ihnen deshalb nicht weniger leuchten!

Und hüte dich vor den Guten und Gerechten! Sie kreuzigen gerne die, welche sich ihre einge Tugend erfinden, - sie hassen den Einsamen.

Hüte dich auch vor der heiligen Einfalt!

Alles ist ihr unheilig, was nicht einfältig ist; sie spielt auch gerne mit dem Feuer – der Scheiterhaufen.

Und hüte dich auch vor den Anfällen deiner Liebe! Zu schnell streckt der Einsame dem die Hand entgegen, der ihm begegnet.

Manchem Menschen darfst du nich die Hand geben, sondern nur die Tatze: und ich will, daB deine Tatze auch Krallen habe.

Aber der schlimmste Feind, dem du begegnen kannst, wirst du immer dir selber sein; du selber lauerst dir auf in Höhlen und Wäldern.

Einsamer, du gehst den Weg zu dir selber! Und an dir selber führt dein Weg vorbei, und an deinen sichen Teufeln!

Verbrennen mußt du dich wollen in deiner eignen Flamme: wie wolltest du neu werden, wenn du nicht erst Asche geworden bist!

Einsamer, du gehst den Weg des Schaffenden: einen Gott willst du dir schaffen aus deinen sieben Teufeln!

Einsamer, du gehst den Weg des Liebenden: dich sellber liebst du und deshalb verachtest du dich, wie nur Liebende verachten.

Schaffen will der Liebende, weil er verachtet! Was weiß der von Liebe, der nicht gerade verachten mußte, was er liebte!

Mit deiner Lieber gehe in deine Vereinsamung und mit deinem Schaffen, mein Bruder; und spät erst wird die Gerechtigkeit dir nachhinken.

Mit meinen Tränen gehe in deine Vereinsamung, mein Bruder. Ich liebe den, der über sich selber hinaus schaffen will und so zugrunde geht.

Also sprach Zarathustra.

Nguồn: Quế Sơn Võ Tánh ấn hành lần thứ nhất 1971, Hồng Hà ấn hành lần thứ hai 1973 tại Sài Gòn.