Aleksandr I. Solzhenitsyn
Bất ngờ tại nhà ga Krechetovka
Lê Vũ dịch
Bất ngờ tại nhà ga Krechetovka (The Incident at the Krechetovka Station) là một truyện "bực thầy", được diễn đạt qua ngòi viết của danh sĩ Aleksandr I. Solzhenitsyn, mô tả và ghi lại những dằn vặt, ray rứt, những băn khoăn khôn cùng của một người trẻ tuổi đụng đầu phải với những thực tế của chủ nghĩa cộng sản… Cuộc vật lộn nội tâm thực tế chỉ được ghi lại một cách vô tư...
Bantam Books
"A lô! Đây có phải là nơi gửi hàng đấy không?"
"Ừm!"
"Ai đấy vậy? Dyachikhin phải không?"
"Ừm!"
"Đừng có "ừm" như vậy. Tôi hỏi có phải là Dyachikhin đấy không?"
"Chuyển các toa chở nước từ Đường Bẩy sang Đường Ba, rồi cho đi… vâng, đây là Dyachikhin".
"Đây là sĩ quan phụ tá vận chuyển, Trung úy Zotov. Có việc gì vậy? Cô còn cần gì cho chuyến đi Lipetsk, chuyến Sáu Bẩy Mươi… có phải thế không, Valia?"
"Tám".
"Sáu Bảy Mươi Tám".
"Không có gì chở theo cả".
"Cái gì, không có gì là thế nào?"
"Không có đầu máy. Vamakov đấy hả? Xem bốn toa chở than ấy có phải trên đường số sáu không? Dồn mấy toa ấy lại luôn nhé".
"Này, không có đầu máy là sao hả? Đứng từ cửa sổ phòng tôi, tôi thấy rõ ràng sáu cái xếp hàng dài cơ mà".
"Ừ thì là một đoàn".
"Một đoàn là thế nào?"
"Một đoàn đầu máy. Từ nghĩa địa về đấy. Các đầu máy ấy di chuyển đi nơi khác".
"Đúng, nhưng vẫn còn hai cái đầu máy đang chuyển đường mà!"
"Đồng chí Trung úy! Tôi thấy các đầu máy đang chuyển đường. Có ba cái cơ!"
"Tôi có viên Trung sĩ hộ tống đứng ngay cạnh tôi đây. Y vừa mới cho tôi hay có ba đầu máy đang chuyển đường. Để cho tôi một".
"Không thể lấy được đầu máy ấy..."
"Cô nói sao không thể được hả? Cô có biết số hàng ấy quan trọng ra sao không? Không thể để chậm một phút nào được, cô..."
"Chuyển các toa ấy lên đồi".
"Rồi cô sẽ trì hoãn đến cả ngày trời!"
"Chưa đến cả ngày".
"Thế cô định như thế nào, cả ngày ở nhà dục anh hay ở phòng gửi đồ? Làm sao chịu nổi bọn con nít la khóc chứ?"
"Hừ, tất cả kẹt lại đây hết. Các đồng chí, tôi đã nói với các đồng chí không biết bao nhiêu lần rồi mà! Xin các đồng chí vui lòng dọn dẹp cho sạch sẽ đi. Tôi không thể nào chuyển bất cứ thứ gì của các đồng chí đi được. Ngay đến cả các đồ tiếp tế của nhà binh cũng chịu, phải đợi!"
"Chuyến tàu ấy chở máu dự trữ gửi đến cho y viện. Cô phải biết như vậy mới được!"
"Tôi biết hết, Vamakow hả? Nào bây giờ thì tháo ra rồi tới tháp nước. Lấy mười nhé".
"Này, nếu trong vòng nửa giờ nữa không có chuyến tầu cho tôi, tôi sẽ báo cáo về cô ngay! Đây không phải là chuyện giỡn, cô sẽ trả lời về vụ này!"
"Trung úy Zotov, giấy nhận đâu đưa tôi. Tôi phải giữ giấy ấy mới được..."
"Tôi giao giấy nhận cho nhân viên gửi hàng nhà binh rồi".
"Nikolad Perovich hả? Valentina Podshebyakina đang nói chuyện đây. Nầy, ở xưởng chữa đầu tầu có việc gì thế? Cái gì, một đầu tầu SU đã sẵn sàng xăng nhớt rồi à?"
"Phải, đồng chí Trung sĩ, đồng chí tới toa hộ tống đi, nếu trong bốn mươi phút... được nếu họ không gửi cho đồng chí trước sáu giờ ba mươi, đến cho tôi hay ngay".
"Dạ, thưa Trung úy, tôi sẽ báo cáo lên Trung úy. Bây giờ tôi đi được chưa ạ?"
"Đi đi!"
Viên trưởng đoàn hộ tống nhanh nhẩu quay gót, bàn tay rời khỏi vành mũ, chân bước đi.
Trung uy Zotov sửa ngay ngắn lại cặp kính mát, nó làm Trung úy vẻ mặt không khắc khổ bỗng thoáng vẻ khắc khổ, Trung úy nhìn ra cô Podshebykina, nhân viên gửi hàng nhà binh, một cô gái mặc bộ quần áo hỏa xa, mái tóc cô dầy, nâu, lọn ngắn xõa xuống trước trán. Cô đang nói chuyện qua ống điện thoại kiểu cổ lỗ sĩ. Trung úy đi qua căn phòng nhỏ bé của cô, rồi vào phòng riêng của ông, phòng của ông cũng nhỏ, xa hơn phòng ông còn có phòng khác nữa.
Căn phòng của cơ quan chuyển vận quân đội là một căn phòng từng dưới cùng, ở góc tòa nhà. Ngay phía trên góc tòa nhà, ống máng lớn phun nước đã bị hư. Một dòng nước lớn phun vào bức vách ở bên ngoài, nghe như từng cơn gió giật thổi vào khung cửa sổ phía trái và góc sân bay, thổi vào hành lang hẹp đằng trước khung cửa sổ bên phải. Tháng Mười sương nhạt, buổi sáng cả nhà ga sương giá phủ trắng, nhưng mấy ngày mới đây thời tiết lại chuyển sang ẩm thấp, và từ hôm qua mưa lạnh đổ xuống liên miên chẳng ngớt, khiến ta phải lấy làm lạ không hiểu nước ở đâu mà có thể đổ xuống nhiều đến như vậy được.
Nhưng trời mưa, lại cho nơi này có trật tự. Mưa khiến cho thiên hạ hết cả chen lấn xô đẩy nhau một cách vô nghĩa, khiến cho đám thường dân hết cả lang thang không ngừng trên các sân thượng hay trên các đường rầy làm cho cả nhà ga không còn vẻ gì là trật tự nữa. Tất cả những con người ấy đều đã tìm chỗ trú mưa ; không còn ai lê bước trên cả bốn lối đi giữa các đường rầy dưới những toa tầu, hay trèo lên các bực nữa ; dân địa phương không còn đến với những thúng khoai và lúc nhúc trong các toa chở súc vật như thể đây là một cái chợ hàng rong, những người áo ngoài, áo trong, những thứ đồ len, tất cả vắt trên vai và trên hai cánh tay giơ ra để rao hàng của họ. Cái lối buôn bán này làm cho Trung úy Zotov bối rối không cùng: buôn bán như vậy là không được phép, nhưng cũng lại chẳng làm thế nào cấm họ được, bởi vì các người di cư đều không được cấp phát gì cả.
Mưa chỉ không xua đuổi được những người có công việc. Bên ngoài cửa sổ, Trung úy Zotov có thể nhìn thấy người lính gác đứng ở sân ga gần các kiện hàng phủ vải dầu. Nước mưa chẩy vào người anh lính, nhưng anh ta vẫn đứng đấy chẳng buồn rũ nước đi. Trên đường số 3 đầu tầu đang nối toa kéo các toa chở nước, người bẻ ghi khoác áo tơi mưa vải dầu đầu đội mũ quả dưa sụp xuống, tay gã cầm cờ phất phất ra hiệu. Rồi đến lượt bộ mặt xủn xoẳn u tối của người gác thắng đi dọc đoàn tầu trên đường số 2, vừa đi vừa cúi xuống xem xét dưới gầm mỗi toa tầu. Ngoài ra không còn gì ngoài mưa xiên xiên, ray rứt. Trong cái lạnh, gió dai dẳng xiết xuống nóc và vách các toa chở hàng hóa, thổi thẳng vào các đầu máy, rít lên và xoắn vặn các lớp sắt bọc ngoài bị rách xoạc của nhiều toa tầu (các toa tầu này bị hư hại nhiều chỗ vì một cuộc tấn công của máy bay, nhưng bộ phận máy móc không bị hỏng nên bây giờ các toa này được kéo ra dùng), gió trút xuống bốn khẩu đại bác không có đồ che đậy đứng trơ trơ trên sân ga, và hòa vào với cái tối đang phủ xuống, để kéo thành một lớp màn xám phía trên đĩa điện báo màu xanh, và trên những tàn lửa thỉnh thoảng vọt lên từ ống khói lò ở các toa chở súc vật đầy người. Sân ga số 1 tráng nhựa đã ngập nước sủi bong bóng, nước đọng chưa kịp rút đi; nước làm cho các đường rầy loáng loáng trong bóng tối; và những vũng dầu không thấm đi được rung rinh trong bóng tối mầu nâu của bờ thiết lộ.
Cả vùng không một âm thanh, trừ những đợt rung nhẹ của mặt đất và tiếng kèn như thiếu hơi của người bẻ ghi, vì còi tầu đã bị cấm kéo từ lúc chiến tranh bùng nổ.
Chỉ có tiếng nước mưa rít trong ống mái bể.
Ở chỗ cửa sổ bên kia, trên con đường chạy dọc bức tường nhà kho, có một cây sồi non. Cái cây bị gió xoắn vặn, sũng nước, và những chiếc lá thẫm mầu cuối cùng bây giờ cũng bị gió bứt đi nốt.
Không còn thì giờ để đứng và nhìn mãi như vậy, Trung úy đã hạ cuộn giấy che bớt ánh sáng xuống hướng ánh đèn cho đúng chỗ rồi ngồi xuống làm việc. Trước khi ông rời bàn giấy vào hồi 9 giờ đêm, ông đã làm việc đầy đủ lắm rồi.
Nhưng thay vì hạ chao đèn che bớt ánh sáng ông lại bỏ mũ, mũ ông là mũ sĩ quan có lưỡi trai màu xanh, ông có thời quen cứ đội nguyên mũ ngồi làm việc tại bàn giấy. Ông bỏ kính đeo mắt ra và đứng đấy chậm chậm giơ tay dụi mắt, cặp mắt ông đã mệt mỏi với công việc chép những con số mật mã hàng hóa vận chuyển từ một bản danh sách quay ronéo sang một bản giấy khác. Không, không phải là mệt mỏi, mà là một thứ buồn bã dai dẳng nó chậm chậm dâng lên từ cái ánh sáng nhá nhem ốm yếu nầy rồi nó bám vào người ông.
Mối buồn ray rứt cũng không phải ông buồn vì vợ ông lúc này một mình ở lại tận Belorussia hiện nằm trong tay quân Đức; vợ đang có thai. Mối buồn của ông cũng không phải là vì những nhớ tiếc về dĩ vãng bởi vì ông chẳng có dĩ vãng nào để mà luyến tiếc. Mối buồn cũng không phải vì ông tiêu tan tài sản, vì chẳng bao giờ ông có tài sản gì, và cũng chẳng bao giờ ông mơ ước có tài sản.
Nỗi chán chường của Zotov chẳng cần gào to lên cho bớt trĩu nặng trong lòng chính là vì chiến tranh mà ra, khó lòng thoát ra được dòng lôi cuốn của chiến tranh. Thật không thể nào hiểu rõ được tuyến đầu chiến trận ở đâu qua các bản thông cáo của Xô Viết do cơ quan Thông tin phổ biến, và cũng hoàn toàn không rõ Khaslov và Kaluga ai là người soạn ra các bản thông cáo ấy. Nhưng đám người hỏa xa thì lại biết rất chắc là các chuyến tầu không còn đi quá Uzlovaya trên đường Tula nữa, và quá Yelets thì các chuyến tầu cũng lắm là tới Verkhovye mà thôi. Máy bay oanh tạc lúc hiện ra ở đây, có lúc lại ở chỗ khác, và vài quả bom dội xuống đường Ryazan - Voronezh, làm cho nhà ga Krechetovka cũng bị vạ lây. Chừng mười ngày trước đây, có hai tên người Đức cuồng điên cưỡi mô tô chạy lạc tới đây, hai tên xả súng máy bắn xối xả vào ga Krechetovka. Một tên bị hạ, tên còn lại bỏ chạy, nhưng vụ súng nổ này đã làm cho nhà ga bị thiệt hại nặng, và ông sĩ quan trách nhiệm về đội phá hoại lúc ấy đang đứng bên cạnh định chuẩn bị lánh đi nơi khác, đã làm nổ khối thuốc TNT đặt sẵn từ trước, phá tung cả tháp nước. Vì thế mà bây giờ họ phải gọi đến chuyến tầu sửa chữa, họ sửa chữa mất ba hôm rồi.
Thật ra, việc chẳng xảy ra ở Krechetovka, nhưng tại sao chiến tranh lại xảy ra thì đã xảy ra rồi. Trên toàn cõi Âu châu chẳng hề có cách mạng bùng ra, như điều người ta suy đoán giả thiết. Và chẳng phải chỉ có những người lính Xô Viết là không xông vào cuộc để ủng hộ cho những đám quần chúng nổi dậy với cái giá rẻ là vài mạng sống chống lại tất cả các kẻ xâm lăng hợp một, thay vì thế thì chiến tranh lại đổ xuống đầu chính chúng ta! Liệu chiến tranh sẽ kéo dài bao lâu? Và, dù khi làm việc ngay ban ngày hoặc khi đêm xuống lúc trở lại văn phòng, Zotov lúc nào cũng suy nghĩ: "Chiến tranh sẽ kéo dài bao lâu?" Và khi rời bàn giấy, về ngủ ở nhà trọ, chàng vẫn bật dậy vào hồi 6 giờ sáng, lúc ấy trong đầu óc tràn đầy hy vọng là cuối cùng sẽ được nghe bản thông cáo chiến thắng ấy. Nhưng từ cái ống phóng thanh màu đen ấy vẫn chỉ đổ ra những lời y như cũ về những gì đang xảy ra "ở vùng lân cận của" Vyazma và Volokolamsk, chàng lạ lùng thấy như có chiếc kìm lớn vươn ra chực kẹp lấy tim chàng, "Nếu Mạc Tư Khoa mà cũng đầu hàng nốt thì sao?" Dĩ nhiên không phải là chàng sẽ chỉ không bao giờ hỏi lớn cái câu hỏi ấy lên (vì như thế nguy hiểm lắm), mà chàng còn thấy sợ hỏi đến câu hỏi ấy ngay trong tâm tư mình nữa, tâm tư chàng lúc nào cũng nghĩ tới câu hỏi ấy trong lúc cố làm việc cho thật vất vả để khỏi nghĩ đến nó.
Tuy thế, câu hỏi ám ảnh ấy cũng chưa phải là câu hỏi chót. Sự đầu hàng của Mạc Tư Khoa vẫn chưa phải là chỗ hết của chiến tranh. Mạc Tư Khoa đã thất thủ vào tay Nã Phá Luân. Chàng lại thấy lo lắng bồn chồn về việc khác nữa: sau đây thì sao? Nếu địch tràn tới tận vùng Ural thì sao? Trung úy Vassily Zotov cảm thấy chỉ nghĩ thôi, chỉ cho phép mình nghĩ thoáng đến ý nghĩ như vậy trong đầu thôi, cũng đã là có tội rồi. Nghĩ như vậy là bất kính, là báng bố, là xúc phạm đến đấng Cha và Tôn sư hằng hữu ở khắp nơi, người thầy trước hết thấy mọi việc, và người bao giờ cũng có ngay mọi biện pháp cần thiết để đẩy lui sự tai biến hoạn nạn.
Nhưng các viên chức hỏa xa từ Mạc Tư Khoa tới, và những ai từng ở Mạc Tư Khoa hồi giữa tháng Mười đều kể lại những điều khó lòng tin được về tình cảnh mạnh ai nấy chạy của ngành quản trị kỹ nghệ, sự cướp bóc các ngân hàng, các cửa tiệm và cực hình âm thầm ray rứt trong tim Trung úy Zotov.
Cách đây chưa lâu, khi trên đường tới đây Zotov có dừng lại đôi ngày ở trại huấn luyện các sĩ quan trừ bị. Một chiều, họ đưa tới đây một tay ngâm thơ tài tử, và trong chiều hôm ấy một Trung úy gầy gò, mặt xanh xao, tóc rối bù đã đứng ra ngâm ít câu thơ của anh ta, những câu thơ trước đấy chưa hề được ai duyệt lại và chấp thuận trước. Hồi ấy, Zotov chẳng bao giờ nghĩ rằng chàng nhớ đến những người ấy, nhưng sau này những nét mặt ấy lại hiện ra ở vài nơi. Còn bây giờ, thì dù đang khi chàng bước đi ở Krechetovka hay trên xe lửa đang chạy về nha Chuyển vận quân đội Trung ương, hay đang lúc chàng lái xe tới một ngôi làng Xô Viết là nơi chàng được trao cho trách nhiệm huấn luyện bọn con nít và các cựu chiến binh, Zotov lúc nào cũng lẩm nhẩm lại những câu thơ chàng tưởng do chính chàng đặt ra:
Quê hương ta ngút lửa, thị thành ta ngập khói, Tim ta một ám ảnh – cực hình, cực hình – Ôi đến bao giờ mới hết cảnh nghẹt thở này. Giặc vẫn tiến tới, chẳng chùn bước?
Và:
Nếu những gì Lenin từng xây dựng được quanh ta sụp đổ cả, cuộc sống sẽ khởi đầu ở đâu?
Khi chiến tranh bùng nổ, chính Zotov cũng chẳng quan tâm gì đến phần còn lại trong một bài thơ. Nếu cuộc sống vô nghĩa của chàng chẳng có ý nghĩa gì cả, thì nó lại có thể sẽ là hữu ích cho cách mạng. Nhưng mặc dầu với những lời cầu xin được ra tiền tuyến của chàng, chàng vẫn bị dính liền vào với cơ quan chuyển vận thiết lộ này.
Tìm cách sống cho riêng mình, quả thật chẳng có ý vị gì cả. Ngay cả đến trường hợp chàng cần phải sống cho vợ chàng, cho đứa con sẽ ra đời của chàng, cũng chẳng có gỉ đáng gọi là tuyệt đối cần thiết cả. Còn nếu như quân Đức từ các ngả tràn đến Hồ Baikal, và nếu Zotov vì sự huyền nhiệm nào đấy mà còn sống sót, thì chàng sẽ vượt đường bộ mà tới tận Kyakhta, rồi từ đấy vượt biên giới trốn sang Hoa lục, hay sang Ấn Độ, hay vượt đại dương nhưng là phải nhằm mục đích duy nhất là tìm đến một đơn vị chiến đấu nào đấy rồi trở về đất Nga, trở về Âu châu với vũ khí trong tay mới được.
Bây giờ thì chàng đứng trong bóng tối, mưa vẫn đỗ, gió vẫn rì rào xô đẩy ở bên ngoài khung cửa sổ, chàng ngâm đi ngâm lại mãi bài thơ.
Bóng đêm trong phòng đã dầy đặc, cánh cửa rực đỏ màu nâu hạt dẻ của lò lửa trông càng rõ hơn nữa, và tia sáng đèn vàng vọt lọt qua khung kính ngang phía trên khung cửa ra vào mà sang phòng bên cạnh, trong căn phòng ấy nhân viên giữ việc gửi hàng hóa nhà binh bằng đường hỏa xa cũng đã bật đèn cho sáng.
Nhân viên gửi hàng quân đội, tên là Valentia (Valia) Podshebyakina thật ra không trực tiếp phụ thuộc vào viên phụ tá sĩ quan chuyển vận nhà binh thực thụ, nhưng nàng không thể thực hiện các công việc của mình mà lại không phải qua tay ông sĩ quan ấy, bởi vì hoặc là nàng không biết tính chất của hàng gửi đi, hoặc không biết là gửi tới đâu, nàng chỉ biết có những con số các toa tầu chở các hàng ấy. Các con số ấy do bà Aunt Frosya chuyển đến cho nàng, bà là một bà già có công việc là ghi lại các kiện hàng. Có người vừa đi vào phòng bà, gió hút mạnh vào chân bà.
Bà thốt tiếng than:
"Hừ, trời mưa, rõ thật sũng những nước là nước! Mưa ác dữ, lắm nước quá! Mưa này còn lâu!"
Valia Podshebyakina bảo:
"Này bà, mưa thì mưa chứ các số toa chuyển tầu Bẩy Sáu Mười Lăm vẫn phải ghi đầy đủ cả đấy!"
"Được rồi, chị ghi mà. Cho chị cái đèn để xem cho rõ số nào em!"
Cánh cửa ra vào giữa hai căn phòng mỏng manh lắm, lại thêm cánh cửa không khép kín, cho nên Zotov có thể nghe rõ mồn một hai người nói chuyện với nhau.
Bà Aunt Frosya bảo:
"May quá, chị có mang theo ít hòn than, bây giờ thì không sợ gì cả nữa, chị sẽ giữ cho các mầm khoai sống được. Em có biết mụ Dasha Malentyeva không – mụ ấy cũng còn chưa bới khoai của mụ ấy đấy. Bây giờ mụ mới lặn lội trong bùn để bới khoai!"
"Rồi chị thấy, thế nào sương giá cũng xuống sớm mà xem. Trời càng ngày càng lạnh hơn mãi".
"Năm nay trời lạnh sớm. Lạnh sớm như vậy là cần lắm cho ta đấy – thứ chiến tranh này, và một mùa đông lạnh sớm mở đầu… Còn em, em bới được bao nhiêu khoai?"
Zotov thở dài và với tay buông tầm sáo che ánh sáng trên cửa sổ xuống, chàng thật nhẹ tay, thận trọng đẩy tầm sáo cho sát vào cánh cửa, không gây tiếng động nào.
Đấy là một điều chàng không hiểu được – nó làm chàng buồn lòng, có khi còn làm cho chàng cảm thấy cô độc nữa. Tất cả những con người bận rộn chung quanh chàng xem ra có vẻ nghe các bản thông cáo với một nỗi buồn thê thiết đúng y như chàng rồi lắng lặng rời xa các ống loa khuyếch thanh trong lòng cũng trĩu nặng nỗi niềm đau đớn như chàng, không nói ra được. Nhưng Zotov nhận thấy có điều khác lạ là: những người ở chung quanh chàng đây, dường như nhờ ở một điều gì đó mà sống được, chứ không phải sống vì những tin tức từ mặt trận gửi về, họ bới khoai, vắt sữa bò, xả gỗ, sơn cửa… Và họ nói chuyện với nhau về những công việc ấy dường như còn hệ trọng đối với họ nhiều hơn là các tin tức từ mặt trận gửi về.
Đúng là con mụ già ngu ngốc! Thì ra mụ giấu giếm được vài hòn than, cho nên bây giờ chẳng sợ gì cả nữa. Chắc mụ cũng chẳng thèm sợ cả những xe tăng của tướng Đức Guderian?
Gió vật vã cái cây ở cạnh nhà kho rập cánh cửa sổ đằng trước nghe rầm rầm chói tai.
Zotov hạ hết tầm sáo che ánh sáng xuống, rồi vặn đèn. Căn phòng sạch sẽ không rộng không hẹp trở nên dễ chịu thoải mái, có vẻ yên ổn, và tâm tư của chàng trở lại vui tươi.
Ngay dưới ngọn đèn, là bàn giấy của viên sĩ quan, đằng sau cái bàn là lò than, kệ đựng giấy tờ: gần cửa sổ là một trong những chiếc ghế tràng kỷ kiểu cổ bằng gỗ sồi, có lưng tựa khắc sơ sài hình ảnh một đường hỏa xa. Cũng có đêm Zotov ngủ trên chiếc ghế trường kỷ ấy, dù rằng chàng lúc nào cũng rất bận rộn. Trong phòng còn có thêm hai chiếc ghế đẩu. Giữa hai khung cửa sổ là bức chân dung Kaganovich vẽ mẫu, Kaganovich mặc bộ đồng phục công nhân hỏa xa. Một tấm bản đồ thiết lộ cũng thường treo ở đấy, nhưng ông đại úy sĩ quan trưởng về vận chuyển quân sự của nhà ga đã ra lệnh bỏ tấm bản đồ ấy đi rồi vì lẽ: tất cả mọi thứ người vào trong phòng này, và nếu trong số ấy lại có kẻ thù trà trộn vào, thì khi nhìn tấm bản đồ ấy tất kẻ thù biết được ngay đường xe lửa này chạy về đâu, đường kia đi chỗ nào.
Trong căn phòng bên cạnh, tiếng mụ Aunt Frosya khoe khoang phách lác:
"Chị phải tích trữ mới có đấy. Chị phải mậu dịch năm chiếc chả khoai mới đổi được đôi bít tất (vớ) lụa ấy đấy. Từ giờ cho đến lúc hết chiến tranh, có lẽ sẽ không còn có bít tất nữa đâu. Này em, em phải mau lên mới được, đừng để phí thì giờ. Em hãy về xin má làm cho mấy cái chả khoai đi rồi mau mau chạy ra chỗ mấy toa tầu chở súc vật ấy, ở mấy cái toa ấy người ta ngồi thiếu gì. Họ sẽ vồ mấy cái chả của em ngay. Ngày nọ, mụ Grunda kiếm được một áo ngủ đàn bà lạ lùng lắm, chiếc áo có những chỗ hở ở các "nơi ấy", cứ trông thấy cũng đủ buồn cười vỡ bụng ra rồi! Con mụ đem về nhà mặc thử, thôi thì chẳng còn thiếu mụ nào trong lối xóm lại chẳng đổ xô đến xem, rồi cả bọn cười lăn cười bò ra… Em cũng có thể kiếm được xà phòng của họ rẻ hơn các nơi khác nhiều lắm, em phải nhớ rằng mấy ngày nay khan hiếm xà phòng lắm đấy. Mua ngoài không có đâu. Em phải bảo má em ngay mới được. Đừng có để lỡ mất cơ hội quý báu này nhé".
"Chị Aunt Frosya, em không biết! Em không biết…"
"Cái gì, bộ cô không thèm bít tất đấy chứ?"
"Em thèm lắm chứ, thèm ghê lắm, nhưng em thấy kiếm chác ở những người di cư tỵ nạn như vậy, có điều không phải, không tốt…"
"Bọn họ là dân di cư tỵ nạn hả? Họ đúng là những người ngay thẳng có những thứ đó. Họ mang theo nào là áo dài, áo ngắn, áo bộ, nào là xà phòng, trông họ chẳng khác nào như họ dự hội chợ triển lãm ấy. Cô sẽ thấy bọn họ có vài người mặt mày phì nộn béo tốt. Có người lại chỉ ưa thịt gà rán, không có gà rán là họ không chịu đổi chác gì cả! Người ta còn bảo chị rằng đám người ấy có người tiền nhiều vô số kể, cuộn lại thành từng cuộn nhét đầy trong các va li, các rương ấy, như thể bọn họ cướp được tiền của nhà băng ấy! Nhưng mình cần gì tiền, tiền ấy họ cứ việc giữ lấy".
"Thì mình cho họ ở trọ…"
"Bọn họ không phải là ai cũng giống nhau đâu. Họ chẳng mang theo thứ gì trên lưng cả, họ bị tan cơ nghiệp. Họ là người ở Kiew, lúc ra đi họ như thế nào, thì họ đến đây cũng vẫn đúng y như thế. Chị lấy làm lạ, không hiểu họ làm cách nào mà nhiều tiền như vậy được. Con mụ Paulina làm ở nhà giây thép ấy, mụ cũng có tiền, nhưng mụ sống ra sao thì ai việc gì phải lo lắng đến nào? Chị có hôm mở cửa hầm rượu nhà chị ra cho mẹ của mụ ấy xem, rồi chị bảo: "Đấy, các bà cứ tự tiện sẵn khoai đấy, sẵn dưa bắp cải đấy, cứ việc ăn, tôi không muốn lấy tiền phòng gì cả". Đấy em xem, Valia, chị lúc nào cũng vui vẻ giúp đỡ người nghèo lắm chứ, còn đối người giàu thì chị không thương xót gì cả!"
Trên bàn giấy của Zotov có hai cái máy điện thoại – một cái loại cổ lỗ sĩ, chiếc máy có một cái hộp màu vàng trên hộp có cái tay xách, nhân viên giữ việc gửi hàng quân đội cũng có một cái máy điện thoại dùng cho đường hỏa xa đúng y như vậy: cái máy thứ hai, là máy điện thoại của người báo hiệu có đường dây gắn thẳng vào phòng làm việc của ông quan ba và phòng gác của nhà kho ga xe lửa. Các binh lính gác các nhà kho là lực lượng quân sự duy nhất do cơ quan vận chuyển quân sự sử dụng, đám binh lính ấy cũng là những người có nhiệm vụ đốt lò sưởi ở đây, lau các phòng cho sạch, và canh gác cả khu này. Vì thế, bên cạnh chiếc lò là một chiếc sọt đựng những hòn than thật to để dành.
Chuông điện thoại đường hỏa xa reo vang. Lúc ấy, Zotov đã qua cơn buồn chán. Chàng bước nhanh lại chỗ điện thoại, một tay nhấc ống nghe lên, một tay hất chiếc mũ lên rồi chõ vào ống nói trả lời người ở đầu dây đằng kia. Khi điện thoại từ xa gọi đến, thường bao giờ chàng cũng phải gào to lên, vì đường liên lạc không được tốt, hay bị hư.
Đây là từ ga Bogoyavlenskaya gọi tới để hỏi xem chàng đã nhận được các chỉ thị nào và chưa nhận được những chỉ thị nào. Các chỉ thị này là những huấn thị mật mã thường dành riêng cho mỗi chuyến tầu, do cơ quan chuyển vận quân đội tại nhà ga trên gửi tới cho biết những chuyến tầu nào rẽ tới và sẽ đi về đâu, các chỉ thị mật mã nầy được đánh đi bằng điện tín. Mới chỉ một giờ trước đây thôi, Zotov đã trao một số các chỉ thị như vậy cho cô điện tín viên, và cô ta trao lại cho chàng một số các chỉ thị khác. Chàng vội vã cho lựa chọn các hàng hóa phải được thu góp chung lại để sẽ gửi đi tới nhà nào sẽ nhận các hàng hóa ấy, chỉ thị cho nhân viên chuyển hàng quân đội biết các toa tầu nào phải nối với đoàn tầu, rồi thảo và gửi các chỉ thị mới đi kèm.
Vừa mắc ống nói lại máy điện thoại xong, là Zotov vội vã ngồi xuống ghế, cúi gập mình trên mặt bàn y như người cận thị đọc giấy tờ, chàng bắt đầu cặm cụi viết các chỉ thị.
Cuộc nói chuyện của hai người đàn bà trong căn phòng bên cạnh, làm chàng khó chịu đôi chút. Có tiếng một người đàn ông vào căn phòng, đôi giầy y dậm trên mặt sàn, và có tiếng y buông mạnh chiếc túi da trong đựng các đồ dùng bằng kim khí xuống sàn. Mụ Aunt Frosya hỏi người đàn ông xem có phải tầu thay đổi chuyến đi không. Người đàn ông lẩm bẩm điều gì, rồi tiếng gã ngồi xuống.
(Thật ra, nước trong ống máng bị bể không phun ra mạnh đến nỗi phát lên tiếng rít lớn như khi nó xối vào bức vách, nhưng gió thì thổi càng mạnh thêm và càng rập mạnh vào cánh cửa sổ).
Valia bật hỏi:
"Này ông già, ông nói sao?"
Lão già giọng ồm ồm đáp:
"Trời lạnh thêm nữa".
Mụ Aunt Frosya hỏi lão già:
"Này Nikitich, ông nghe đúng đấy chứ!"
Lão già đáp:
"Nghe đúng chứ, đúng như tiếng nện chít chát trong tai tôi đây này!"
"Thế nhưng lúc ấy ông xét lại các toa ra sao, sau khi ông đánh họ ấy?"
"Không có đánh gì cả".
"Valia, cô không biết ông này rồi. Ông già này từ Krechetovka tới đây đấy, ông ta tên là Nikitich. Tất cả các người làm nghề thợ sửa đều học nghề của ông này cả đấy. Lúc chiến tranh bùng nổ, thì ông ta đã nghỉ làm nghề được cả mười năm rồi. Bây giờ thì ông ta lại mò ra, cô thấy đấy".
Và mụ Aunt Frosya lại lạch cạch va chạm vào thứ gì. Cuộc nói chuyện này lại bắt đầu làm cho Zotov thấy khó chịu trong đầu, chàng đã định đứng dậy đuổi lão già đi, nhưng chàng lại vểnh tai lên mà nghe ba người đang nói chuyện vụ rắc rối ngày hôm qua về chuyến tầu chở người ta mà lại có lính an ninh đi theo vây quanh.
Zotov được nghe một ông bạn đồng nghiệp của chàng kể cho biết vụ này, người bạn cũng là sĩ quan phụ tá chuyển vận như chàng, lúc xảy ra vụ rắc rối thì người bạn chàng đang bận việc. Lúc Zotov đến giúp người bạn công việc thì anh ta kể cho chàng nghe về việc ấy. Người bạn chàng đích thân phải lo vụ ấy, bởi vì ga Krechetovka không có một quân cảnh riêng. Sáng hôm qua cùng một lúc có hai chuyến xe lửa cùng về tới ga. Một chuyến có ba mươi toa chở súc vật, các toa ấy đầy những người từ Shchigry đến Otrozhka với một toán hộ tống chỉ có năm nhân viên sở mật vụ NKVD, năm người này dĩ nhiên là không thể nào canh gác được hết ba mươi toa tầu lèn đầy những người đáng sợ. Chuyến tầu kia thì từ Rtishchev đến, chuyến tầu này chở toàn bột mì. Bột ngọt phần chở trên các toa kín, một phần chất trên các toa trống trải. Đám người bị tập trung thấy chuyến xe lửa chở bột đậu ngay cạnh họ, thế là họ tấn công các toa chở bột trống trải. Họ xông lên các toa tầu, dùng dao díp rạch tung các bao bột mà cướp. Bọn người cởi áo ra làm bao mà đựng bột. Chuyến tầu chở bột chỉ có hai người lính canh, một người đứng ở đầu tầu, thật ra chẳng lớn gì hơn một thằng con nít, y có hô lên mấy lần để cản đám người không cho cướp bột. Nhưng chẳng ai thèm để vào tai những lời hô của chú lính ấy, năm người lính mật vụ NKVD cũng mặc kệ chẳng giúp gì cho người lính tầu chở bột. Thế là chú lính nổ súng. Phát súng duy nhất của gã bắn trúng đầu một người đàn ông, người đàn ông ngã ngay trên toa tầu.
Zotov vẫn lắng tai nghe, nghe nữa. Câu chuyện họ nói với nhau không đúng hẳn. Họ không hiểu. Chàng không thể ngồi yên được, phải sang giảng cho họ nghe mới được. Chàng đẩy cửa và đứng ngay ở ngưỡng cửa, chàng giương cặp mắt kính tròn lên mà nhìn ba người.
Cô Valia thân hình mảnh dẻ lúc ấy đang ngồi tại bàn, phía bên phải chàng trước mặt họ là những tờ giấy kẻ dòng và chia từng phần có những ô vuông tô màu.
Trên chiến tràng kỷ phía dưới cửa sổ, cửa sổ che bằng giấy chắn ánh sáng mầu xanh thẫm, mụ Aunt Frosya ngồi, mụ là người đàn bà trọng tuổi, vóc người to lớn vững chắc có vẻ uy quyền, khuôn mặt như mặt đàn ông, ta thường thấy nơi những người đàn bà Nga giỏi cả việc trong nhà lẫn việc tại sở làm. Chiếc áo tơi mưa bằng vải dầu mầu xám xanh, sũng nước nhăn nhúm của mụ Aunt mặc mỗi khi làm việc lúc trời mưa, treo ở trên vách, mụ ngồi ở chỗ cái áo, đôi giầy cao cổ cũng sũng nước, đầu mụ vẫn đội chiếc mũ rộng vành mầu đen lỗ chỗ rách, mụ đang loay hoay vặn lại tim chiếc đèn dầu hình vuông xách tay.
Trên cánh cửa ra vào, có mảnh giấy mầu hồng in câu khẩu hiệu: "Cẩn thận bệnh chấy rận!" Khẩu hiệu này dán ở khắp nơi tại nhà ga Grechetovka. Mảnh giấy in khẩu hiệu mầu hồng tựa như mầu da người bệnh chấy rận, hay như những mảnh kim loại rách nát cháy đỏ ở các toa tầu sau trận tấn công của máy bay.
Lão già thì ngồi bệt xuống sàn, ngay cạnh chỗ cửa ra vào, vì thế ông sĩ quan không bị vướng lối đi. Lão ngồi tựa lưng vào tường, cách chiếc lò một chút. Bên cạnh lão là chiếc túi da cũ kỹ, trong có các đồ dùng bằng sắt nặng nề, chiếc túi lão quăng một chỗ không làm bít lối đi, bên cạnh chiếc túi đồ dùng, là đôi bàn tay làm việc be bét dầu máy. Lão già từ lúc mới vào ngồi xuống sàn như thế nào, thì cho đến lúc này lão vẫn ngồi yên như vậy, lão chẳng thèm rũ nước trên người mà cũng chẳng cởi bỏ áo khoác ngoài, nước mưa trên người lão chảy từ đôi giầy và chiếc áo tơi mưa xuống đọng thành vũng ở trên sàn. Giữa hai đầu gối nửa gập lại của hai chân gã cũng có một ngọn đèn lù mù y như cây đèn của mụ Aunt Frosya. Lão già khoác áo tơi mưa, bên trong là chiếc áo lót mầu đen, cáu đất bẩn thỉu, quanh bụng lão là chiếc thắt lưng nâu cũng cáu bẩn. Chiếc mũ áo tơi mưa hất ngược lại sau lưng, đầu tóc gã bù xù đội một chiếc mũ phu hỏa xa cũ. Cái lưỡi trai ở chiếc mũ làm cho vùng mắt lão tối lại, và ánh đèn tù mù chỉ đủ xoi rõ chiếc mũi đỏ to tướng và cặp môi dầy. Lão cắn giữa cặp môi một điếu thuốc lá vấn bằng giấy báo, khói từ trong mồm lão tuôn ra cuồn cuộn. Hàng ria mép lão còn vài sợi mầu đen chen lẫn những sợi mầu xám lởm chởm.
Valia vừa gõ gõ đầu bút chì xuống mặt bàn vừa nói:
"Nếu không bắn thì người lính còn biết làm thế nào khác được? Anh ta lúc ấy đang gác, đang ở chỗ gác của mình mà?"
Lão già gạt một cục tàn thuốc lá đỏ hồng thật to xuống sàn, cà cà vào nắp chiếc đèn, lão đáp:
"Thì đúng thế! Đúng chứ có sai đâu. Mọi người ai cũng muốn được ăn cả mà!"
Cô gái cau mày:
"Lão nói như vậy là thế nào? Ai là mọi người nào?"
Lão già vừa làm hiệu vừa đáp:
"Phải, cả hai đứa chúng ta cũng vậy".
"Này lão, lão nói thế là lẫn lộn cả rồi! Lão không muốn nói là những người ấy đói chứ gì? Họ được nhà nước cấp khẩu phần mà. Lão tất hiểu rõ là nhà nước chở họ đi như vậy không phải là không cấp khẩu phần ăn cho họ!"
Lão già đáp:
"Đúng!"
Lại thêm một cục tàn thuốc đỏ lửa nữa rụng xuống, lần này tàn thuốc rơi xuống đầu gối và quần lão.
Mụ Aunt Frosya kêu lên:
"Ấy kia, cẩn thận không bỏng bây giờ!"
Lão già lặng lẽ nhìn tàn thuốc cháy đỏ tàn đi, áo quần đen bẩn, ẩm ướt của lão, lão thản nhiên không buồn phủi đi, khi tàn thuốc tắt hẳn lão mới khẽ ngửng chiếc đầu vẫn đội chiếc mũ sùm sụp lên, rồi nói:
"Này các bà có bao giờ các bà ăn bột sống quấy với nước lã chưa?"
Mụ Aunt ngạc nhiên:
"Sao lại ăn bột sống? Bột thì phải nhào trộn, rồi nướng lên mà ăn chứ!"
Lão già chép miệng, cái miệng gã với cặp môi dầy nhợt nhạt, lão không trả lời ngay – lời lão nói ra chẳng bao giờ đi thẳng ngay vào điều muốn nói. Những lời lão nói ra như thể tự nhiên nó bay ra, không suy nghĩ:
"Thế là chẳng bao giờ các người hiểu được thế nào là nạn đói rồi, các nàng ơi!"
Trung úy Zotov bước tới, chàng góp lời:
"Này lão, thế lão không hiểu lời thề trung thành là cái gì hả?"
Giọng nói của Zotov đặc giọng người miền Volga.
Lão già nhìn Trung úy vẻ thật ngạc nhiên. Lão già vóc dáng không lấy gì làm to lớn lắm, nhưng đôi giầy của lão thì thật đồ sộ, nặng nề, sũng nước, trây chát khắp nơi bẩn thỉu vì đất sét dính ở đế giầy.
Lão lầm bầm:
"Biết chớ! Chính lão cũng đã năm lần thề trung thành rồi đấy!"
"Thề với ai? Với hoàng đế Nick hả?"
Lão già lắc đầu:
"Xa hơn nữa".
"Hả? Có lẽ nào lại thề với hoàng đế Alexander Đệ Tam được chắc?"
Lão già chép chép miệng một cách chán chường, rồi tiếp tục hút thuốc.
Lão nói:
"Đúng đấy! Nhưng bây giờ thì thề với nhân dân. Có thấy chỗ khác biệt ấy không?"
Tàn thuốc lại rớt xuống đầu gối lão.
Valia hất mái tóc xòa trước trán ra đằng sau, nóng nẩy:
"Thế bột mì ấy là của ai? Chẳng phải là bột của nhân dân là gì? Lão cho là bột ấy chở đến cho ai – chắc chắn không phải là bọn Đức?"
Lão vẫn cái giọng bâng quơ như chẳng bao giờ có ý tranh biện:
"Đúng! Còn cái bọn người ấy cũng lại không phải là người Đức, cũng chẳng phải là dân ta nữa".
Lão hút hết điếu thuốc vấn bằng giấy báo, lão vê vê rồi dụi mẫu thuốc vào nắp chiếc đèn.
Zotov giọng khó chịu:
"Lão này điên rồi! Lão cho luật pháp với trật tự là thế nào? Nếu ai thích gì cứ việc làm nấy, thì liệu sẽ xảy ra sao đây, giả thử tôi thích gì cứ việc đoạt thứ ấy, lão thích gì cứ việc lấy, thì liệu làm thế nào để ta thắng trận được đây?"
Valia góp lời, giọng giận dữ:
"Tại sao đám người ấy lại cướp bóc rạch tung các bao bột như vậy chứ? Có ai lại làm như vậy bao giờ không? Đám người ấy mà là đồng bào của ta được sao?"
Lão già lấy tay quệt mũi, rồi đáp:
"Tôi cho là bọn cướp bóc rạch tung các bao bột, là vì họ đói quá".
Mụ Aunt Frosya quát lên giọng phẫn nộ:
"Đói mà phí của như vậy à? Làm cho bột đổ cả xuống đường rầy như vậy được hả? Bọn chúng nó xé tan các bao bột rồi làm phí mất cả, này đồng chí Trung úy, tôi không hiểu số bột ấy đem nuôi ăn thì được bao nhiêu người nhỉ!"
Lão già nói:
"Phải, ta đánh cuộc với các người là số bột còn lại trên các toa tầu trống trải ấy, thế nào cũng bị hư hỏng nốt cho mà xem!"
Zotov có vẻ giận mình là tại sao lại đi góp lời vào cái câu chuyện chẳng ra đâu vào với đâu, với những lý sự sơ đẳng này, chàng bảo:
"Ôi dào! Có nói với lão già này cũng bằng thừa! Thôi im đi, đừng có ồn ào quá như vậy, tôi không làm việc được!"
Mụ Aunt Frosya đã sửa xong tim đèn, châm lửa. Mụ đứng dậy, giơ tay nhấc chiếc áo tơi mưa cứng nhắc, nhăn nhúm. Mụ bảo:
"Này Valia cưng ơi, cho chị mượn cái bút chì chút nào. Bây giờ chị chắc là chị ghi đến toa số Bẩy Sáu Năm đây".
Zotov quay về phòng riêng.
Vụ rắc rối ngày hôm qua, có thể sẽ có nhiều hậu quả tai hại. Khi đám người ấy thấy có người của bọn họ bị bắn ngã, thì họ liền bỏ cả bột, gào thét giận dữ đổ xô đến anh lính gác. Họ cướp súng của anh lính, anh ta chẳng chống cự lại, rồi họ xúm vào đánh đập anh ta. Nếu không có người trưởng đoàn hộ tống chạy đến giữ lấy anh lính, rồi dẫn anh ta đi, thì có lẽ đám người đến xé xác anh ta ra mất.
Khi có chuyến tầu vào sân ga để chở đám người ấy đi, thì các chức quyền quân sự địa phương vội vội vàng vàng tống khứ đám người ấy đi cho thật sớm. Đêm hôm qua, một chuyến tầu như vậy nữa – chuyến 245.413 từ Pavelets đi Archeda. Lúc vào ga Krechetovka thì lúc ấy Zotov đang làm việc, chàng nhận chuyến tầu rồi lại gấp rút cho chuyến tầu lên đường ngay. Chuyến tầu chỉ ngừng lại ở ga có hai mươi phút, đám người bị tập hợp lúc ấy ngủ gà ngủ gật, không một ai ra khỏi các toa tầu. Có nhiều người trong đám những người bị tập trung và bị đưa đi có hộ tống ấy, tỏ vẻ lo sợ hãi hùng lắm. Họ không phải là một đơn vị quân đội, họ không có vũ khí nhưng chính họ tự cho mình hôm qua là nhà binh, bởi vì họ là những người giống y như những người hồi tháng Bẩy nắm giữ những vị trí trước Bobruisk, hay hồi tháng Tám trước Kiew, hay hồi tháng Chín trước Orel.
Zotov cảm thấy sợ sệt các người ấy, sự sợ sệt ấy có lẽ cũng giống như sự sợ hãi của người lính trẻ lúc anh ta vội trao súng cho đám đông chứ không dám bắn đến phát đạn thứ hai. Zotov thấy xấu hổ về chức vụ sĩ quan hậu cần như thể này của mình. Chàng thèm ước được như họ, chàng sẽ sung sướng nếu được góp phần vào những tội lỗi như họ, nó khiến cho chàng cảm thấy mình đang được chiến đấu, đang xông pha ở chiến tuyến đang vượt sông dưới hỏa lực từ đằng sau bắn tới.
Các bạn học của chàng, các bằng hữu của chàng, tất cả lúc này đang ở mặt trận.
Và chàng một mình ở nơi này.
Được sống như vậy, tất chàng thi hành các công việc mới thật là nồng nhiệt hơn nữa. Chàng cảm thấy các công việc ấy vượt xa ra ngoài các công việc của nhà ga đặt dưới sự kiểm soát, các công việc ấy làm cho chàng thấy lúc nào cũng được thoải mái ở trong lòng. Chàng sẽ làm việc nhiều hơn nữa, chàng sẽ tỏ ra càng quán xuyến, càng có khả năng hơn nữa, đến mức độ chót, trong mùa thu khủng hoảng này, với ngày kỷ niệm Cách mạng năm thứ hai mươi bốn sắp tới. Ngày mồng 7 tháng Mười một là ngày nghỉ yêu thích nhất của chàng, một ngày mừng vui hoan lạc mặc dầu đang giữa một mùa âm u buồn tẻ, nhưng năm nay tâm tư nghĩ về ngày kỷ niệm Cách mạng ấy lại đang ray rứt tâm hồn chàng.
Ngoài những công việc thường lệ, chàng còn dành ra một tuần lễ để làm các công việc khác ngay trong lúc chàng đang thi hành công việc thường nhật. Trong một cuộc không tập, các máy bay Đức đánh trúng một chuyến tầu hỏa chở các đồ tiếp liệu của quân đội, trong đó một số là thực phẩm. Nếu cuộc không tập ấy hủy diệt trọn chuyến tầu, thì mọi việc đã xong xuôi rồi. Nhưng có điều may mắn, là phần lớn các hàng hóa trên chuyến tầu ấy không bị thiệt hại. Và vì thế mà bây giờ Zotov mới được lệnh lập bốn bản đầy đủ danh sách của:
(1) các thứ hoàn toàn hỏng không dùng được (những thứ ấy phải ghi vào các danh sách để gửi về sở quân cụ để được đổi thứ khác);
(2) các hàng hóa bị hư hại từ bốn mươi đến tám mươi phần trăm (các thứ này sẽ được quyết định sau là sẽ dùng vào các trường hợp như thế nào);
(3) các hàng hóa bị hư hại từ mười đến bốn mươi phần trăm (các thứ này sẽ phải gửi về nơi cấp phát, kèm theo giải thích đầy đủ, hoặc nhân đấy có thể được đổi thứ mới);
(4) và cuối cùng là các hàng hóa hoàn toàn không bị hư hại, còn nguyên vẹn.
Điều làm cho công việc gặp phải khó khăn, phức tạp, là tất cả các thứ hàng hóa của chuyến tầu bị ném bom đều chất trong các nhà kho, các hàng ấy không được cất giữ đúng phép, lại thêm đủ thứ người lạ mặt lởn vởn quanh nhà ga, bọn người ấy có vẻ muốn ăn trộm ăn cắp các hàng hóa. Khó khăn hơn cả, là việc xem xét rồi giám định xem tỷ lệ phần trăm bị hư hại của các hàng hóa là bao nhiêu, đòi hỏi phải đợi các chuyên viên từ Michurinsk và Voronez tới mới làm nổi, khiến sinh ra một khó khăn vô cùng khác nữa là vấn đề xê dịch các thùng hàng hóa ấy trong các nhà kho, giữa khi ấy thì lại quá thiếu phu khuân vác, chuyển vận.
Ném bom các chuyến tấu chở hàng hóa thì phi công tồi tệ đến đâu cũng làm được, nhưng đây chỉ mới ở giai đoạn mò mẫn thôi!
Nhưng một khi Zotov vì cái tính tự mình thích muốn mọi việc phải thật rõ ràng, và chàng thực hiện mỗi việc thật tỉ mỉ thận trọng, thì chàng cũng tự tay lập được rất nhiều danh sách các thứ hàng hóa rồi. Chàng nghĩ rằng trong hôm nay chàng sẽ lập được một ít danh sách nữa, và hi vọng trong vòng một tuần lễ nữa thì làm xong xuôi được hết.
Công việc ấy là công việc hàng ngày của chàng, ngoài công việc ấy chàng còn để mắt đến công việc khác nữa. Ở đây Zotov là một người ăn học cao, có khiếu tổ chức, chàng làm công việc của người đứng mũi chịu sào, cho nên cần phải có kinh nghiệm nhiều. Hiện giờ chàng có thể nhìn thấy thật rõ ràng các thiếu sót, khiếm khuyết trong kế hoạch động viên hiện hữu của Xô Viết khi chiến tranh bùng nổ, chàng cũng nhận thấy các khuyết điểm, các bất toàn trong vấn đề kiểm soát sự vận chuyển các loại chiến cụ, công tác này sẽ phải giao phó cho cơ quan Vận chuyến Hỏa xa Lục quân đảm nhiệm. Đấy chẳng phải là công việc trực tiếp của chàng là gì, công việc của chàng là ghi chép tất cả, cân nhắc ước lượng tất cả, rồi lập bản tường trình gửi về bộ Quốc phòng. Giả thử các cố gắng của chàng không thể thực hiện được trong trận chiến tranh này, thì các khả năng ấy cũng sẽ thể hiện hoàn toàn trong trận chiến tranh sau.
Và đây là công việc Zotov thấy cần phải có thì giờ và nghị lực nhưng nếu chàng đem ý tưởng ấy của mình mà thổ lộ cho cấp trên của chàng hay cho cơ quan chỉ huy giao lộ hỏa xa nghe, thì thể nào họ cũng cười vào mũi chàng ngay. Nhưng vì cái thái độ ấy, chàng thấy họ là những con người không mấy phong phú về trí tưởng tượng.
Vì vậy chàng thấy tốt hơn hết là gấp rút làm việc, cuối cùng là với những chỉ thị đính kèm như vậy! Zotov xoa xoa hai bàn tay, các ngón tay xủn xoẳn của chàng kỳ kỳ vào lòng bàn tay, rồi chàng cầm cây viết chì (loại viết chì không thể tẩy xóa được mực) di di trên các con số để xem lại, biên xuống những con số dài dằng dặc, thỉnh thoảng lại ghi riêng con số các chuyến tầu, hàng hóa và các toa tầu lên nhiều tờ lật ngược trở lại. Công việc làm này không thể được phép lỗi lầm dù là lỗi lầm nhỏ bé nhất chẳng khác nào như bộ phận nhằm đích của một cây súng. Trong lúc cặm cụi làm việc, tinh thần tập trung cả vào những con số, hai hàng lông mày chàng cau lại môi dưới trễ ra.
Đúng lúc ấy, Valia Podshebyakina gõ cửa phòng.
"Trung úy Vassily, em vào được không?"
Và không đợi chàng cho phép, cô đã đẩy cửa bước vào. Cô cũng cầm trên tay một bản danh sách.
Đại cương mà nói, thì cô không nên vào trong buồng này; các việc cô cần hỏi Trung úy chỉ cần đứng ở cửa mà hỏi cũng đủ rồi, hoặc cứ đứng ở ngay cửa phòng cô mà hỏi cũng được. Tuy nhiên có điều: giờ làm việc của Zotov và Valia lại thường thường trùng nhau và chàng cảm thấy nếu cấm nàng vào phòng làm việc của chàng thì là một điều khiếm nhã, không khôn khéo.
Chàng ngừng lại ở con số ấy, lấy mảnh giấy chặn vào cột đang làm dở để cho nhớ.
"Trung úy Vassily, em làm rộn ông phải không! Xin phiền ông…"
Chiếc ghế phụ không tiện tầm tay, vì thế cô Valia phải nghiêng người trên cạnh bàn để chỉ cho Zotov thấy một trang chính thức trên có những dòng số tẩy xóa, gian lận.
Cô nói:
"Trong chuyến tầu Bốn Bốn Sáu có một toa mang số Năm Mươi Bẩy Tám Mươi Ba. Em phải ghi vào chỗ nào?"
"Cô đợi tôi tí, tôi tìm cho".
Zotov kéo một ngăn kéo, mau lẹ dò tìm con số cần tìm trong ba hàng cột hồ sơ, rồi mở nhanh hồ sơ (vì thế cô Valia không nhìn thấy kịp), chàng tìm ngay thấy con số.
"Đây rồi, Năm Mươi Bẩy Tám Ba Một, đi Pachelma".
"Em thấy rồi…"
Valia vừa nói vừa ghi xuống chữ "pac".
Xong việc, cô chưa đi ra, cứ tiếp tục nghiêng người trên bàn giấy của Zotov, cô vẫn chăm chú nhìn lên tờ giấy, môi cô mút mút đầu cục tẩy ở bút chì.
Zotov mắng:
"Cô xem chữ "c" này xem, viết như thế thì không thể nào bảo là chữ "v" được. Viết như thế thì các toa tầu sẽ bị gửi đi Pavelets mất!"
Valia đáp, giọng vẫn tự nhiên:
"Dạ, đúng! Vassily đừng rầy em nhé!"
Rồi qua mái tóc nâu buông xõa, cô liếc nhanh nhìn Trung úy. Rồi cô lấy bút khoanh tròn chữ "c" lại.
Cô tiếp:
"Bây giờ đến chỗ khác".
Giọng cô nũng nịu, cô lại đưa bút lên môi. Mái tóc cô thật dầy, vàng hoe uốn cong vươn xa khỏi trán, che khuất cặp mắt cô. Nhưng cô vẫn để mặc cho tóc xõa như vậy chứ không vén ra một bên. Mái tóc cô có vẻ óng ả, sạch sẽ và mềm mại lắm… Zotov tưởng tượng nếu vuốt ve mái tóc ấy chắc thú vị biết là bao!
"Đây rồi, toa tầu không mui này, toa số Một Không Năm Trăm Mười".
"Một toa tầu nhỏ hả?"
"Không, toa lớn".
"Tôi nghi quá".
"Tại sao vậy?"
"Có lẽ có thêm một số nữa".
Cô hất mái tóc ra đằng sau, cặp mày trên mắt cô cũng đẹp như mái tóc cô, cô nói:
"Mình phải làm sao bây giờ?"
"Sao, dĩ nhiên là phải tìm xem chứ! Cô Valia, cô phải thận trọng thêm tí nữa mới được. Có phải là toa ấy cùng trong một chuyến tầu không?"
"Đúng".
Zotov lại lật hồ sơ, tra cột các con số, trong khi ấy cô Valia nhìn Trung úy, chàng có hai tai vểnh trông thật buồn cười, mũi thì có hình như một củ khoai, còn mắt thì qua cặp kính cô có thể thấy rõ hai con mắt chàng mầu xanh lợt với một cái chấm nhỏ mầu xám. Trong những lúc làm việc như thế này, chàng hay cáu kỉnh, bí mật.
Zotov cáu kỉnh:
"A, xem này! Cô thế này thì có gọi là đem mà bắn bỏ: Không phải là Không Năm, mà là Không Không Năm, hả, cô!..."
"Hai số không?"
Valia đáp có vẻ ngạc nhiên, cô ghi thêm một số không nữa.
"Có phải cô đã học hết bực trung học rồi không? Quả thật tự cô nhục mạ cả sự học của cô rồi!"
"Vassily, em không thấy trung học ăn nhằm gì vào với công việc này cả. Còn toa tầu này đi đâu đấy?"
"Đi Kirsanow".
Valia vừa ghi vừa nói:
"Rồi, em hiểu!"
Nhưng cô vẫn chưa đi. Cô vẫn cứ nghiêng người như vậy trên cạnh bàn giấy của Zotov ngay bên cạnh chàng. Cô đang suy nghĩ lung lắm, cô gãi gãi chỗ thớ gỗ xước ra ở cạnh bàn, cô vân vê mảnh gỗ rồi lại ráp mảnh gỗ vào chỗ cũ.
Ánh mắt nhìn của Zotov không thoát được cặp vú nhỏ nhắn trẻ trung của nàng Valia, bây giờ thì hình dáng đôi nhũ hoa ấy nhìn thấy rất rõ ràng vì cô cúi nửa người về phía trước, thường thường thì cặp nhũ hoa ấy bị nén chặt dưới bộ quần áo hỏa xa vải thô kệch.
Cô bảo:
"Buổi gác đêm của chúng mình cũng sắp hết rồi".
Cô nói, cặp môi trễ xuống. Cặp môi cô rất mọng, hồng, đầy vẻ trẻ trung.
"Nhưng, trước khi hết phiên gác, cũng còn có việc phải làm".
Zotov ngừng nói, chàng cau mày ngắm nghía cô gái.
"Rồi thì cô về với bà già chủ nhà trọ ấy của cô chứ?"
"Vâng, chứ còn về đâu nữa?"
"Thế cô chẳng bao giờ đi thăm người nào khác à?"
"Lúc này em thấy không phải là lúc đi xã giao!"
"Nhưng cô làm sao mà sống được với mụ đàn bà ấy chứ? Đến một mái lều cỏ cô cũng không có, phải ghép các thùng đồ cũ vào làm giường mà ngủ".
"Tại sao ông biết như vậy?"
"Thì người ta nói, cô hiểu không! Cô Valia, tôi thấy bây giờ không phải lúc để nằm đệm êm, nhất là như trường hợp của tôi. Tôi thấy mình ở đây chứ không ở nơi mặt trận, là một điều xấu hổ quá!"
"Em thì em không thấy như vậy. Ông chẳng đang thi hành nhiệm vụ của ông là gì? Thế thì tại sao lại phải xấu hổ chứ? Dù sao đi nữa, em đánh cuộc rằng thế nào ông cũng vẫn còn đủ thời giờ để có lúc nằm trong hầm hố chiến hào mà. Vả lại, ai biết trước được là liệu ông có còn sống để được thấy hoà bình hay không… Vì thế, em thấy khi ông còn được may mắn, tại sao ông lại không sống cho đúng với nghĩa sống của một con người bình thường nào?"
Zotov nhấc mũ ra, chàng miết miết ngón tay trên trán. Chiếc mũ hơi chật nhưng chàng không làm sao tìm được lấy một cái rộng hơn trong suốt các kho của sở quân trang.
Trên góc tờ giấy ghi các hàng số, cô Valia tẩn mẩn vẽ hình lăng nhăng, nét bút chì thật mềm mại, trông từa tựa như hình một cái móng vuốt.
"Tại sao ông lại thôi không ở trọ nhà Avdeyevs? Em thấy ông ở đấy, khá lắm chứ, phải không ông?"
"Tôi đi khỏi đấy, có thế thôi!"
Zotov sụp mí mắt nhìn xuống, tự nhiên chàng thấy mặt nóng bừng. Valia thì cứ tô đậm mãi cái hình lăng nhăng tựa như cái móng vuốt.
Cả hai im lặng. Valia đưa mắt nhìn cái đầu của Zotov theo chiều nghiêng, đầu Zotov tròn tròn. Nếu không có cặp kính, thì cái đầu ấy là đầu một thằng bé con, tóc chàng không dầy nhưng óng ả, loáng thoáng có vài nơi tóc chàng quăn quăn như hình cái dấu hỏi.
"Ông thì chẳng bao giờ đi xem hát bóng. Ông tất phải mê sách kinh khủng. Ông cho em mượn vài cuốn nhé!"
Zotov ngước mắt nhìn lên, mặt chàng vẫn còn đỏ:
"Ai nói với cô về truyện sách vở?"
"Em đoán là ông có nhiều sách".
"Tôi chẳng có sách gì cả. Sách tôi để cả ở nhà".
"Ông nói thế chẳng qua là vì ông không muốn cho em mượn chứ gì!"
"Không, không phải đâu cô, tôi không có cuốn nào cả mà. Vả lại làm sao tôi có thể đem theo được? Người lính mỗi người chỉ có một cái ba lô, người lính chỉ được phép có như vậy thôi".
"Nếu vậy thì để em cho ông mượn vài cuốn nhé".
"Cô có nhiều sách không?"
"Mời ông qua xem tủ sách".
"Các sách ấy là loại sách nào?"
"A… A…, cuốn The Blast Furnances này, cuốn Prince Serebrenny này, đủ mọi loại khác nữa này".
"Thế còn cô, cô đọc các cuốn ấy chưa?"
"Em có đọc vài cuốn rồi…"
Đột nhiên ngửng đầu, cô nhìn chăm chăm vào hai mắt chàng rồi nói một hơi:
"Vassily, tại sao ông không dọn sang ở cùng với chúng tôi? Phòng của bà Vova bỏ trống mà, ông có thể ở căn phòng ấy được. Trong phòng ấy có lò sưởi, như vậy ấm cúng hơn. Má em sẽ nấu ăn cho ông. Ông đừng nhắc đến cái bà già chủ nhà trọ ấy nữa!"
Hai người vẫn nhìn nhau, mỗi người che giấu nỗi niềm bí ẩn của mình.
Valia thấy Zotov ngập ngừng, chàng có vẻ sắp nhận lời rồi. Tại sao cái anh chàng dáng điệu tức cười này lại không nhận lời như vậy chứ? Anh chàng nhà binh nào cũng thường nói là mình không có vợ chỉ riêng có một mình chàng thì lại bảo là mình có vợ. Các chàng quân nhân nào cũng ở trọ trong các căn nhà thật êm đềm ở trong làng, ở trọ như vậy được sung sướng hơn nhiều, lại được trông nom săn sóc tốt nữa. Cả cha lẫn em nàng Valia đều ở trong quân ngũ và ra trận cả rồi, nên nàng rất cần có một người đàn ông ở trong nhà. Cả hai có thể cùng về nhà, mỗi khi hết buổi gác vào mãi đêm khuya, đường về nhà phải qua những con đường tối tăm, lầy lội (lúc ấy chắc chàng phải dắt tay nàng), đến khi hai người về đến nhà rồi, hai người cùng ăn cơm với nhau, bông đùa với nhau…
Vassily Zotov có vẻ sợ hãi, chàng nhìn cô gái, người mới vừa công khai nêu ý kiến là chàng đến ở trong nhà cô ta. Cô ta chỉ kém chàng khoảng ba tuổi, và nếu như nàng đối xử với chàng có phần kính trọng thì tất không là vì vấn đề tuổi tác của chàng, mà là vì cái lon Trung úy chàng đeo trên áo. Chàng hiểu rằng mọi sự sẽ không chỉ dừng lại ở phạm vi những bữa ăn, và trong một căn phòng riêng, ấm cúng. Chàng sẽ thấy thèm được luồn bàn tay vào những lọn tóc quăn óng ả mềm mại của nàng.
Không thể được!
Chàng kéo trễ cổ áo xuống, góc cổ áo chàng có dấu hiệu mầu đỏ chỉ cấp bực của chàng, dù rằng cổ áo không chật, rồi chàng nhấc lại gọng kính cho ngay ngắn.
"Không, Valia ạ, tôi không đi đâu cả. Và, nói tóm lại. Tôi còn nhiều công việc phải làm, mình nói chuyện như vậy phí thì giờ quá".
Chàng đội mũ lại, chiếc mũ mầu xanh nhạt có lưỡi trai nó làm cho cái gương mặt chàng càng thêm khắc khổ với cái mũi hếch.
Cô gái nheo nheo hàng mi nhìn chàng, giọng nũng nịu:
"Phải rồi, phải rồi, Vassily nhỉ, nói đủ rồi…"
Cô thở dài. Rồi đứng thẳng dậy, cử động khó khăn, không giống như một thiếu nữ, cánh tay cô buông thõng có vẻ mềm nhũn, cô cầm cái bản danh sách dài lượt thượt ấy đi ra khỏi phòng.
Chàng chớp chớp mắt một cách uể oải vẻ bơ vơ, chàng cảm thấy nếu nàng quay trở lại rồi nhắc lại đề nghị của nàng lần nữa thật quyết liệt thì có lẽ chàng sẽ chịu thua nàng mất.
Nhưng nàng không trở lại.
Zotov không có ai để có thể tâm sự được tại sao chàng lại phải sống trong một căn nhà lạnh lẽo, bẩn thỉu với cái mụ già ấy và ba đứa cháu của mụ, lại thêm cái giường của chàng là cái nắp thùng cũ chẳng có chút tiện nghi nào như vậy. Trước đây, hồi năm 1941 giữa những đoàn chàng trai đông vô cùng ấy, chúng đã cười nhiều lần, chê cười chàng vì chàng nói rằng "chàng yêu vợ lắm", rằng chàng có ý đặt niềm tin vào nàng cho đến khi hết chiến tranh, còn nàng thì phải giữ mãi sự trung trinh đối với chàng. Bọn bằng hữu mới mẻ ấy đã cười rú cả lên, đấm thùm thụp vào lưng chàng y như một bọn điên, rồi bọn bằng hữu ấy khuyên chàng là hãy cố hi vọng, đừng bao giờ để mất hi vọng nhé! Từ đấy, chàng không còn nói những điều ấy ra làm gì nữa. Nhưng thỉnh thoảng, vì những giày vò trong tâm can, những buồn rầu ghê gớm chịu không nổi tự nhiên vụt đến, nhất là những lúc nửa đêm chàng chợt thức giấc rồi suy nghĩ lo lắng trong lòng không hiểu vợ mình bây giờ sao, bây giờ nàng ở mãi xa xôi, trong vùng của quân Đức, và nàng đang chờ ngày khai hoa nở nhụy.
Nhưng cũng không phải là vì lý do vợ chàng mà chàng lúc nãy từ chối lời đề nghị của nàng Valia. Vì lý do Paulina nhiều hơn.
Và cũng lại chẳng thực sự vì lý do Paulia nữa, mà là vì…
Paulina, cô gái xứ Kiew có nước da mịn tuyệt vời, mái tóc ngắn, cô là một trong những cô sống với mụ Aunt Frosya và làm việc ở nhà bưu điện. Cứ lúc nào có thì giờ rảnh, là Zotov lại đến nhà bưu điện để đọc báo, đa số các báo thường đến rất trễ, đến bất thường và đến từng chuyến một. Đến đọc như vậy, chàng được đọc sớm hơn, và trong cùng một lúc có thể xem được tất cả các báo thay vì mỗi lần chỉ được đọc một hay hai tờ. Có điều nhà bưu điện, không phải là phòng đọc sách báo, không ai bắt buộc phải để cho chàng đọc báo, nhưng nàng Paulina thì rất thông cảm với chàng, cô đem tất cả các báo ra cho chàng đọc, vì thế chàng có thể đứng vào một góc ghi sê nào đấy có nhiều gió mát mà đọc xấp báo. Đối với Paulina, cũng như đối với Zotov, thì chiến tranh đúng là một guồng máy bánh xe không cảm xúc, không xúc động, một bánh xe đang quay cuồng không thể nào làm lệch đường quay của nó đi được – nó là cả cuộc đời nàng, cả tương lai của nàng, và để tìm cách chen vào tương lai ấy, nàng lẩn tay vào mở các trang báo với cả nỗi bồn chồn nóng nẩy đúng y như chàng, và cũng đúng như chàng tìm đọc, nàng cũng tìm những tin tức hé chút xíu dấu hiệu nào có thể giải thích được cho nàng biết về cuộc chiến đang diễn ra như thế nào. Thường, hai người chung nhau một tờ báo cùng một lúc, chỉ cho nhau thấy những đoạn tin tin tức quan trong. Với cả hai người, báo chí là một cái gì thay thế cho những bức thư chẳng bao giờ nhận được. Paulina chăm chú đọc những thông cáo về các trận đánh ở tiền tuyến, cô băn khoăn không biết chồng mình có ở mặt trận ấy không, và theo lời khuyên của Zotov cô cũng đọc cả những mục nói về chiến lược của bộ binh và thiết giáp trong tờ Sao Đỏ, mỗi lần đọc các bài ấy cặp mày cô lại phải nhíu lại trong cố gắng. Các bài trong tờ Ehrenburg đối với Zotov làm chàng thích lắm, chàng thường đọc to lên cho Paulina nghe. Mỗi khi chàng năn nỉ được Paulina cho chàng mượn những tờ báo không được đọc, chàng thường cắt một vài bài trong tờ báo để làm của riêng của mình.
Bây giờ chàng có liên hệ quá sâu xa với nàng Paulina, với mẹ nàng và con nàng rồi, sự liên hệ ấy nếu là người chưa từng trải qua những khốn khổ bất hạnh ở đời này thì nhất định chẳng bao giờ có được với nhau. Chàng có thể lấy phần đường ăn của chàng đem cho thằng bé con nàng được.
Nhưng trong lúc lật từng trang các tờ báo, không bao giờ Zotov lại dám chạm vào bàn tay trắng muốt của Paulina – cái lý do của không dám đụng chạm ấy không phải là chồng nàng hay vợ chàng, mà chính là vì nỗi niềm u uẩn thiêng liêng nó ràng buộc hai người với nhau.
Paulina trở thành người bạn thân nhất của chàng, là lương tri của chàng, là chứng nhân cho niềm tin của chàng ở Krechetovka này, hay ở bất cứ nơi nào, bất cứ mặt trận nào ở bên này chiến tuyến, như vậy thì làm sao chàng lại có thể đến ở nhà Valia được? Liệu nàng Paulina sẽ nghĩ như thế nào về chàng?
Nhưng giả thử chẳng có Paulina đi nữa, thì chàng cũng chẳng bao giờ lại đi tìm an ủi với một người đàn bà giữa lúc mọi sự thân yêu nhất đối với chàng đang bị nguy cơ có thể bị sụp đổ cả.
Và bằng cách này hay cách nào đi nữa, thì chàng cũng thấy xấu hổ nếu chấp nhận lời đề nghị của Valia, và với các sĩ quan anh em của chàng là những người cùng chung các phiên trực với chàng ở nhà ga, rằng đêm nào chàng cũng đọc, rằng chàng có một cuốn sách – một cuốn sách duy nhất lấy từ một tủ sách nào đấy trong những cuộc hành quân điên cuồng trong năm nay, cuốn sách ấy bây giờ theo chàng đi khắp nơi, nó nằm trong ba lô của chàng.
------------------------------------------------------------------------------------
Nguồn: Aleksandr I. Solzhenitsyn, Bất ngờ tại nhà ga Krechetovka, nguyên bản Nga ngữ, bản Việt ngữ của Lê Vũ dịch theo bản Anh ngữ The Incident at the Krechetovka Station của Andrew Mc Andrew, bìa Hồ Thành Đức trình bày, Hành Trình xuất bản, giấy phép xuất bản số 1953/PTUDV/KBCNT/KSALP ngày 07-6-1973. In 2000 cuốn tại nhà in Tiến Hoá, số 164 Võ Tánh, Sài Gòn, phát hành ngày 05-8-1973.
12/6/11
Alexandre Soljenitsyne: Tác phẩm – Con người và Cuộc đời (3)
Trần Tử
Alexandre Soljenitsyne: Tác phẩm – Con người và Cuộc đời
Phần 4: Biên bản cuộc họp tranh luận của Thư ký đoàn Hội Liên hiệp các Nhà văn Liên Xô
Hiện diện: 30 vị thư ký trong tổng số 42 vị hiện diện trong cuộc họp.
Đồng chí Malentev, Ủy viên Ủy ban Văn hoá Trung ương Đảng cũng có mặt tham dự phiên họp.
Đệ nhứt Thư ký K. A. Fedine chủ tọa buổi họp.
Chương trình nghị sự: Thảo luận về mấy lá thư của nhà văn Alexandre Soljenitsyne gởi Thư ký đoàn và Đại hội Hội các Nhà văn.
Cuộc họp khai mạc hồi 13g và bế mạc hồi 18g ngày 22 tháng 9 năm 1967.
Sau những thủ tục nghi lễ, chủ tọa mở lời:
FEDINE: Tôi hết sức bất mãn với lá thư thứ hai của Soljenitsyne (về sau tên này xin viết tắt là A.S.) những lý do A.S. nêu ra để chứng minh rằng vấn đề của ông ta đã bị xếp lại rất yếu ớt mà còn bao hàm ý nghĩa nhục mạ chính cả Hội các Nhà văn chúng ta.
Ba tháng rưỡi đâu có phải là một thời gian quá dài để xét toàn bộ thủ bản tác phẩm của A.S.? Vậy mà luận điệu của lá thư kia chất đầy đe dọa và các dữ kiện đưa ra có tính chất uy hiếp rõ rệt.
Trong lá thư thứ hai, A.S. đòi chúng ta phải lo cho tác phẩm của anh ta được xuất bản cấp kỳ. Trong lá thư này, A.S. đã trình bày hoàn cảnh bi đát của anh ta với đầy đủ chi tiết làm cho mọi người phải xúc động thương cảm. Nhưng đồng thời, cũng trong lá thư ấy, tác giả lại mạt sát tất cả chúng ta.
Ấn hành tác phẩm của A.S. là một vấn đề phức tạp như thế nào? Không một ai ở đây là không biết rõ cũng như không một ai ở đây phủ nhận tài năng của A.S.! Nhưng luận điệu của anh ta lại hết sức bất công.
Đọc lá thư, tôi có cảm tưởng là mình bị tát tai vì lá thư đó cho rằng chúng ta ở đây đều bất tài, không đại diện nổi cho giới trí thức và nghệ sĩ. Rốt cuộc, chính A.S. đã làm chậm trễ và ngăn cản việc giải quyết vấn đề, vì tham vọng quá lớn. Đọc lá thư của A.S., tôi thấy nó không có một chút dấu vết nào của tình đồng nghiệp, giữa nhà văn.
Cho nên, dù muốn dù không, ngày hôm nay chúng ta cũng phải đề cập đến lá thư này.
SOLJENITSYNE: (đứng lên xin phép được nói vài lời tuyên cáo viết sẵn): Tôi được biết rằng trong cuộc họp để xét cuốn Trại ung thư, các vị thư ký lại được đề nghị xét cả cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng, một kịch bản của tôi nhưng tôi đã vứt xó không đọc lại cách đây chừng 19 năm và hủy mọi bản khác đi, trừ cái bản duy nhất mà người ta đã tước đoạt rồi đem phổ biến. Tôi đã giải thích đi giải thích lại mãi rằng: Tác giả của nó không phải là Alexandre Soljenitsyne mà là tên tù mang thẻ đính bài số S. 232, viết trong những năm xa xưa tại một nơi mà người tù chính trị không có qua một chút hy vọng tranh thủ được sự tự do, không có qua một tổ chức nào – kể cả Hội các Nhà văn – đứng lên chống lại – bằng lời lẽ hay hành động – chủ trương đàn áp các dân tộc. Ngày hôm nay, tôi không thể chịu trách nhiệm về kịch bản này cũng như nhiều lần nhà văn ở đây không muốn ai nhắc đến các bài diễn văn và tác phẩm viết hồi 1949. Bi kịch ấy đã phản ảnh tình trạng tuyệt vọng của tù nhân các nhà lao thời bấy giờ. Lương tâm con người ở đó, lúc bấy giờ, bị sự sống chi phối hoàn toàn và chắc là con người ở đó sẽ không cầu nguyện cho những kẻ đã gây ra tội ác đàn áp được bình yên! Vở kịch ấy không có liên quan gì đến các tác phẩm viết trong giai đoạn này. Những người lôi kịch phẩm ấy ra để xét muốn gạt bỏ sự nghiên cứu khách quan và vô tư truyện Trại ung thư. Mặt khác, tôi xin phép nói rằng là đạo đức nghề nghiệp của nhà văn sẽ bị thương tổn khi đem một tác phẩm tước đoạt trong nhà riêng của người ta ra mổ xẻ. Tác phẩm này không phải là tác phẩm kia. Việc mổ xẻ cuốn Nhóm thứ nhất là một vấn đề riêng, không liên quan đến việc thảo luận cuốn Trại ung thư.
KORNESCHOUK: Tôi cũng có một câu hỏi muốn đặt ra với A.S. Bạn nghĩ sao về sự tuyên truyền ồ ạt của đối phương khi lá thư thứ hai được tung ra? Tại sao Soljenitsyne lại không chọn một lập trường xa cách đối phương hơn nữa? Tại sao A.S. lại im lặng trước những luận điệu của họ? Tại sao Radios của đối phương lại phổ biến lá thư ấy trước cả đại hội.
FEDINE: Mời A. S. trả lời.
SOLJENITSYNE đáp rằng anh không phải là học trò để phải trả lời từng câu một; đến lượt, ông cũng sẽ lên diễn đàn như mọi người.
FEDINE: Đề nghị mọi người đặt câu hỏi để cho A.S. trả lời chung một lượt.
BAROUZINE: Dù Soljenitsyne phản đối việc thảo luận cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng, chúng ta cũng phải thảo luận đến. Tôi không hiểu vì sao mà A.S. lại nhắc đến vở kịch ấy?
SALINSKY: Tôi yêu cầu A.S. cho biết rõ: thủ bản tác phẩm và giấy tờ bạn bị tước đoạt lúc nào? Từng trường hợp nào? Ai tước đoạt? Sau đó, bạn đã đòi lại chưa? Đòi với ai, có quen không nào?
FEDINE: Yêu cầu A.S. trả lời những câu hỏi trên.
SOLJENITSYNE nhắc lại ý kiến cũ, được một số người trong phòng họp ủng hộ…
FEDINE: Nhưng Thư ký đoàn cũng chỉ có thể thảo luận khi được nghe giải đáp những câu hỏi trên.
Một số người khác trong phòng họp: A.S. cũng có quyền từ chối, không thảo luận với Thư ký đoàn… có muốn như vậy thì nói lên đi.
SOLJENITSYNE: Vậy tôi xin trả lời. Radios ngoại quốc phổ biến lá thư sau – sau, không phải là trước – ngày Đại hội và cũng không phải là phổ biến liền sau ngày Đại hội (rồi rút ra một tờ giấy đọc tiếp).
Ở đây, người ta dùng tiếng “ngoại quốc” với một ý nghĩa phóng đại, cho ý kiến của ngoại quốc như là ý kiến của thượng cấp, rất quan trọng, cần phổ biến cho sâu rộng trong quần chúng. Điều này quá dễ hiểu đối với những người dùng phần lớn thì giờ ở nước ngoài rồi về trút vào văn chương Nga những ý niệm hời hợt bề ngoài, của nước ngoài. Với tôi, điều này thực kỳ cục. Tôi chưa bao giờ ra nước ngoài và hoàn cảnh đâu có cho phép tôi biết đến ngoại quốc. Tôi không hiểu vì sao người ta lại băn khoăn vì những gì của ngoại quốc mà không xúc động vì những gì liên quan đến nước nhà, đến dư luận của quần chúng xung quanh ta.
Tất cả đời sống của tôi là ở đây: trên mảnh đất quê hương. Tôi chỉ lắng nghe những niềm đau của tổ quốc và viết về những niềm đau ấy.
Tại sao tôi phải nhắc đến cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng? Thiết tưởng nội dung lá thư tôi gởi Hội đã nói lên rõ ràng rồi còn gì nữa: tôi phản đối sự tịch thu bất hợp pháp; sự phổ biến tác phẩm mà không có sự ưng thuận của tác giả. Về các thủ bản tác phẩm và tài liệu giấy tờ, tôi đã viết thư kêu gọi Trung ương Đảng từ 1965 đến nay. (Ngừng một chút để lấy ra một tờ giấy khai, A.S. đọc tiếp.)
Mới đây, một luận điệu mới sáng tác có liên quan đến sự tịch thu các tác phẩm của tôi được tung ra, luận điệu ấy như sau:
Người giữ các tác phẩm và tài liệu của A.S., Tevsh có liên lạc với một người tên tuổi được giữ kín. Người này bị Sở Quan thuế (sở quan thuế nào không ai biết) bắt và sở này giữ những gì cũng là một bí mật! Nhưng không tìm được những gì cần tìm của A.S. nơi Tevsh vì A.S. đề phòng quá kỹ.
Tất cả những chi tiết nói trên đều bịa đặt hoàn toàn. Sự thực như sau:
Cách đây hai năm, Tevsh – bạn tôi – có bị thẩm vấn nhưng không có một người nào hỏi anh về cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng. Tài liệu của tôi bị mất, nghĩa là bị tịch thu: bị chặn đường ngoài phố, sau khi đã rình rập theo dõi tôi từ nhà, có khi bị chặn ngay trước cửa để xét… nghe trộm điện thoại v.v… Nghĩa là bị tịch thu bằng những phương pháp quen thuộc, chẳng ai lạ gì. Có lạ chăng là khi một lập luận bôi nhọ vừa được tung ra là cả nước này biết rồi. Bằng cớ là lập luận trên đã được ông Potemkine phổ biến cho một cử tọa đông đảo và một vị thư ký của Hội ta thì đem ra cho các nhà văn ở Mạc Tư Khoa biết. Vị thư ký này cũng cho các văn hữu ở thủ đô hay rằng chính tôi đã phải thừa nhận sự thực trên, mặc dù Hội không có chất vấn gắt gao. Do đó, nếu tôi được cho biết là luận điệu nói trên đã được phổ biến rộng rãi thì đấy cũng là chuyện thường.
Tiếng một người nào đó trong phòng họp: Tòa soạn Novy Mir nhận đăng hay loại bỏ cuốn Trại ung thư?
ABDOMOMOVNOV: Tòa soạn Novy Mir phải xin phép cơ quan nào mới được đăng cuốn truyện ấy? Ai có cái quyền này?
TVARDOVSKY (Chủ nhiệm Novy Mir, một nhân vật xuất sắc của văn giới Nga, hai giải thưởng Staline và nguyên Ủy viên Trung ương Đảng): Thông thường, chính tòa soạn tự quyết định lấy việc in hay không in một tác phẩm. Nhưng với A.S., một trường hợp đặc biệt, quyền quyết định thuộc Thư ký đoàn của Hội.
VORONKOV: A.S. chưa bao giờ viết thư thẳng cho Thư ký đoàn. Sau khi nhận được lá thư của A.S. gởi đến, anh em trong Thư ký đoàn đã định gặp Soljenitsyne để thảo luận và cuối cùng sẽ thỏa mãn những đòi hỏi của ông ta… Nhưng lá thư của A.S. được báo chí bẩn thỉu của Tây phương đăng tải mà Soljenitsyne lại nín thinh không hề có một phản ứng nào…
TVARDOVSKY (ngắt lời diễn giả): … Cũng như vậy, Hội các Nhà văn đã có phản ứng nào đâu!
VORONKOV (nói tiếp khi Tvardovsky nói hết câu): … Thì ý muốn thỏa mãn các đòi hỏi ấy biến mất, khi nhận được lá thư thứ hai của A.S. anh em trong Thư ký đoàn chúng tôi thấy rõ đấy là một tối hậu thư, một sự nhục mạ, không xứng đáng với Hội. A.S. ám chỉ đến một vị thư ký Hội đã phổ biến cái mà anh ta gọi là “luận điệu bôi nhọ” ông ta với các nhà văn ở Mạc Tư Khoa. Vị thư ký ấy là tôi. Anh Soljenitsyne, người ta đã mách cho anh biết nhanh đấy, nhưng lại mách sai. Về việc tịch thu, tôi chỉ nói trong buổi họp ấy rằng những thủ bản tác phẩm bắt được đúng là của anh, dù nhà anh chưa bị xét lần nào. Nghĩa là tôi đã nói những điều chẳng khác gì những điều anh đã nói. Sau lá thư, tự nhiên chúng tôi phải tìm kiếm và đòi phải có mọi tác phẩm của anh. Thế thôi! Tôi tưởng chỉ có vậy mà anh đã dùng cái ngôn ngữ đã dùng để nói với các bạn văn học (chỉ chữ Pháp: camarade de plume) cùng là văn sĩ như anh thì đâu có phải!
Còn Alexandre Troplimovitch (tức TVARDOVSKY) nữa! Nếu anh thấy nên đăng cuốn (Trại ung thư) và tác giả đã bằng lòng cho anh sửa chữa thì anh cứ đăng đi! Thư ký đoàn có can dự gì vào việc ấy đâu.
TVARDOVSKY: Anh quên vụ Beck rồi sao? Lúc bấy giờ Thư ký đoàn đã khuyến cáo và can thiệp mạnh mẽ khiến cho truyện của Beck đâu có được đăng mặc dù Novy Mir đã loan báo nhiều lần.
(Chú thích: Tòa soạn Novy dưới quyền của TVARDOVSKY đã có một quan điểm rộng rãi. Truyện “Công việc mới” của Beck đã được tòa soạn chấp nhận nhưng Thư ký đoàn Hội các Nhà văn chống lại.)
VORONKOV: Nơi đây, chỉ có vấn đề của người công dân Alexandre Soljenitsyne là đáng chú ý. Tại sao A.S. không phản ứng trước luận điệu tuyên truyền hèn nhát của tư bản? Tại sao A.S. chống đối và cư xử với chúng ta như thù nghịch?
MOUSREPOV: Tôi cũng muốn hỏi A.S. một câu: Tại sao A.S. lại dám cả gan viết: “Có những đồng chí ở cấp cao nhất đã đau khổ và tiếc đứt một khi tôi không chết trong nhà tù”. Sao anh táo gan thế?
STARIPOV: Thư của A.S. được đưa ra ngoài bằng ngã nào?
FEDINE: Yêu cầu A.S. trả lời.
SOLJENITSYNE: Phải! Tôi được người ta chú ý rất nhiều và nói đến rất nhiều. Có một vị hiện đang giữ một chức vụ đặc biệt quan trọng ở Trung ương đã công khai tuyên bố rằng ông rất tiếc không được dự vào bộ ba đã xử tội năm xưa; nếu được đóng vai một ông tòa, ông đã xử bắn tôi rồi… Tôi không tiện nêu tên tuổi vị này ra đây nhưng chắc chắn là tôi không dám đặt ra chuyện…
Tôi muốn nói đến việc Hội nghị này đã giải thích lá thư của tôi như là một tối hậu thư: “Hoặc ta phải xuất bản trước, hoặc Tây phương xuất bản trước”.
Nếu muốn hiểu như vậy thì xin các bạn hiểu cho rằng không phải là tôi hạ tối hậu thư cho các bạn, tôi đâu dám; chính đời sống đã hạ tối hậu thư cho tất cả chúng ta, nghĩa là cho các bạn và cả cho tôi nữa! Bởi lo lắng vì việc này cho nên tôi đã trình rằng sự phổ biến của hàng trăm cuốn sách đánh máy làm tôi lo ngại (con số này chỉ đúng tương đối mà thôi, tôi không đếm kỹ được).
TIẾNG NHIỀU NGƯỜI: Tại sao có chuyện lạ như vậy nhỉ?
ALEXANDRE: Sách của tôi có tính chất đặc biệt. Mỗi khi có người quen đến nằn nì mượn sách và mượn được là họ đem về đánh máy để đọc và giữ lại một bản, các bản còn lại họ đem cho người khác mượn, vậy là cuốn sách đánh máy tăng lên cách đây một năm. Phân bộ Mạc Tư Khoa đã được phần đầu của truyện. Tôi rất ngạc nhiên vì đồng chí Voronkov đã nói là kiếm không đâu ra, phải nhờ Sở An ninh KGB kiếm hộ cho.
Cách đây ba năm, cuốn Mấy truyện nho nhỏ của tôi – thơ viết thành văn xuôi – cũng đã được phổ biến như sấm sét: Vừa cho một người mượn đọc một cuốn, chẳng bao lâu sau tôi đã thấy cuốn đó có mặt ở khắp nơi trong nước.
Sau đó, chính Novy Mir đã nhận được một lá thư từ Tây phương gởi tới cho hay là cuốn Truyện nho nhỏ của tôi đã xuất bản ở bển rồi.
Chính vì muốn ngăn cho truyện Trại ung thư khỏi bay sang Tây phương xuất bản trước, tôi đã khẩn thiết yêu cầu Thư ký đoàn giải quyết vấn đề. Tôi rất ngạc nhiên khi Thư ký đoàn đã bỏ lơ, không phản ứng gì hết khi nhận được thư của tôi, trước khi Tây phương đăng tải.
Đồng chí VORONKOV đã nói đến danh từ bạn văn học đẹp đẽ? Vậy mà tất cả các bạn văn học đã điềm nhiên tọa thị khi thấy tôi bị theo dõi, làm khó dễ, bôi nhọ và đàn áp trong gần ba năm vừa qua.
TVARDOVSKY: Không phải là tất cả đều ngồi yên…
SOLJENITSYNE: Các biên tập viên báo chí – và đồng chí của tôi – đã không chịu đăng lời biện minh của tôi. (A.S. dừng lại, lấy một tờ giấy ra đọc.)
Tôi không nói đến chuyện sách của tôi bị cấm trong nhà tù. Ở đó, những loại sách như vậy làm sao lọt vô qua mấy lần khám xét; hơn nữa, sách của tôi lại thuộc về loại bị cấm triệt để.
Nhưng tại sao sách của tôi vẫn bị cấm cả trong thời gian mà các tạp chí đều khen ngợi cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch và loan báo rằng “các biện pháp cấm đoán như vậy không thể diễn lại được nữa”! Mới đây, cuốn này lại bị rút ra khỏi các thư viện công cộng một cách lặng lẽ. Tôi có nhận được một số thư ở nhiều nơi cho hay rằng sách của tôi không được đem ra cho mượn nữa. Nhân viên cho mượn sách đã được chỉ thị trả lời cho những người mượn cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch rằng sách ấy đang được đem đóng lại hoặc đang được xếp lại theo một hệ thống thư mục khác, lấy ra không được v.v… Tóm lại, cấm không cho độc giả mượn cuốn ấy nữa.
Tại thư viện quận, người ta đã bí mật rỉ tai cho tôi – khách quen lâu năm của thư viện – hay rằng sách của ông đã bị rút đi rồi, theo lệnh trên. Một cô thư ký của thư viện muốn tặng cho tôi một cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch để làm kỷ niệm nhưng một bạn đồng nghiệp đã chặn lại kịp thời: “Chết! Cuốn này đã bị cấm rồi, chị không biết sao? Tất cả mọi cuốn sách này đều được đưa vào khu đặc biệt, để riêng! Biếu cuốn này nguy lắm đấy!”. Tôi tưởng cũng nên nhắc lại một chút là cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch đã được tạp chí Roman Gazeta đăng tải!
Cố nhiên là không phải tất cả mọi thư viện đều rút hết sách của tôi; vẫn có thể tìm thấy cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch tại một số thư viện. Nhưng ngay tại tỉnh Rjazan, bà con láng giềng của tôi đã cho hay là lần nào đến mượn cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch họ cũng bị nhân viên thư viện chối quanh và cuối cùng không ai mượn được hết!
Từ bao giờ đến nay, luận điệu dùng để bôi nhọ thiên hạ bao giờ cũng dồi dào; luôn luôn có sẵn luận điệu bôi nhọ thiên hạ mới mẻ! Nhưng khi phải đóng vai trò nạn nhân của một chiến dịch mới mẻ, đặc biệt mới mẻ ở điểm các luận điệu và kế hoạch ấy phát triển từ các giới cao cấp, không ai khỏi bàng hoàng sửng sốt! Như luận điệu bôi nhọ tôi đã có một tiếng vang mạnh mẽ vì nó được truyền đi thẳng băng không gặp một cản lực nào. Đến nỗi người ta đã quả quyết xác định rằng Soljenitsyne đã bị bắt làm tù binh hồi thế chiến và cộng tác với bọn Quốc xã. Chưa hết! Ở Bolchevs, trong mùa hè năm ngoái, cán bộ tuyên truyền đã giảng trong các lớp chính trị rằng Soljenitsyne bây giờ mang quốc tịch mới sau khi trốn sang Ai Cập. Tất nhiên luận điệu này sẽ được các đảng viên dự lớp huấn luyện đưa về phổ biến rộng ra nữa…
Ngay vùng sát nách tại thủ đô, luận điệu này đã được phổ biến xuống đến hạ tầng thôn xóm, khu phố. Trong khi đó, ở Solikamsk, ông thiếu tá Chestakov lại nói rằng tôi đã lợi dụng một chuyến du lịch để trốn sang Anh. “A.S. trốn sang Anh” khi một vị Phó Ủy viên của Ban Chính trị đã khẳng định như vậy, còn ai dám nghi ngờ gì nữa? Chestakov còn nói thêm: “Soljenitsyne đã bị cấm viết một cách chính thức!”. Lời tuyên bố thứ hai này của ông quan tuy thế mà gần đúng sự thực!
Các giới chức cao cấp bấy lâu nay vẫn quả quyết rằng: “Soljenitsyne đã được hưởng biện pháp khoan hồng, tha trước thời hạn, tha không có lý do”.
Có lý do hay không? Văn khố Tòa án Tối cao còn đó. Chỉ việc xem các văn kiện án từ đó: “Ban phụ trách văn án của những công dân được phục vụ nơi kho hồ sơ Công an Quân pháp là biết ngay tôi được thả có lý do hay không có lý do! Vả lại tất cả các tài liệu này đã đệ trình Thư ký đoàn rồi.
TUARDOOSKYS: Tài liệu này còn xác nhận cả lý lịch của sĩ quan pháo binh Soljenitsyne nữa!
ALEXANDRE SOLJENITSYNE: Biểu thức chính trị và tư pháp “trước thời hạn” ở đây nghe thực mỉa mai! Bị xử tám năm tù, ở hết tám năm cộng thêm một tháng nửa tại “Trung tâm Chọn lọc tù”… Đây là một chi tiết vụn vặt không nên nhắc đến nếu như tôi không bị coi là người được tha trước thời hạn! Tôi xin nhắc lại rằng sau thời gian một tháng kia, người ta không thèm xét xử gì hết, chụp luôn cho tôi một bản án “An trí và quản thúc vô thời hạn”. Mang bảng án “An trí vô thời hạn” này, tôi đã phải sống kiếp lưu đày ba năm trời và được tha nhờ Đại hội XX và do đó, được gọi là tha trước thời hạn.
Biểu thức “tha trước thời hạn” này đã diễn tả tuyệt đúng quan niệm chắc nịch của thời 1949-1953. Đã bị tù mà không chết trong bốn bức tường cao nhà ngục, không ra khỏi tù bằng cách bò bằng đầu gối là được trả tự do “trước thời hạn”! Bị xử an trí vĩnh viễn thì những gì xảy ra trước khi chết, với tù nhân đều là “trước thời hạn” cả!
Ngài cựu Tổng trưởng Semichastry vốn sính văn chương, cũng đã hạ mình xét đến trường hợp của tôi. Sau đây là một lời phán của ông ta, một lời phán xét nghiêm trang ít chất khôi hài:
“Alexandre Soljenitsyne có tội ủng hộ bọn tư bản về mặt vật chất tiền bạc vì anh ta đã không lãnh tác quyền những cuốn sách xuất bản ở đâu đó ngoài thế giới Tây phương”!
Theo tôi hiểu, chỉ có cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch mà thôi, không có cuốn nào khác. Nếu các bạn có biết, tiếc gì các bạn lại không chỉ giùm cho tôi? Sống một mình ở Rjazan, tôi chẳng được biết gì hết ở bên ngoài!
Đối với vụ này, cơ quan nào hay Ủy ban Ngoại vụ Hội các Nhà văn phải chịu trách nhiệm mang tác quyền về! Còn tôi chưa bao giờ tôi được nghe nói “Bổn phận của mày là phải lấy tiền ấy về!”. Đây quả là một thứ chuyện hoạt kê, tiếu lâm!
Semichastry không còn giữ chức Tổng trưởng nữa nhưng ý kiến của ông vẫn được nhiều người tán thành tin tưởng. Như các nhân viên tuyên truyền của Hội Truyền bá Kiến thức Khoa học Liên Xô chẳng hạn, vẫn bảo vệ ý kiến nói trên. Một tỷ dụ:
Ngày 16-7-1967, tại Câu lạc bộ Sverdlovsk của Hội nói trên, ông A.A. Freifeld đem lập luận “A.S. ủng hộ vật chất cho tư bản” ra thuyết. Hai ngàn thính giả đều há hốc miệng ra nghe Freifeld và nghĩ bụng: “Quái thiệt! Thằng cha Soljenitsyne này quái quỷ thực! Một đồng Kopeach dính túi cũng không có, cả đời chưa ra khỏi nước Nga mà nó vẫn ủng hộ được tiền bạc cho phe tư bản thì quái thiệt”.
Những luận điệu như vậy đó – diễn “hết chỗ nói” – vẫn được đưa ra kể đi kể lại mãi; những người kể đã không bị chỉ trích sửa sai mà còn được khen thưởng nữa.
Nói gì đâu xa xôi, ngay tại trụ sở này của Hội, đã có một cuộc họp trang nghiêm diễn ra trong ngày 12 tháng 6 vừa qua. Vậy mà ngay tại Mạc Tư Khoa, đã có một luận điệu được tung ra, mô tả diễn biến cuộc họp sai với sự thực hoàn toàn. Cứ theo luận điệu ấy thì Tuardousky đã chỉ trích Soljenitsyne một cách kịch liệt, vừa nói vừa đấm tay xuống mặt bàn thình thình! Tất cả các bạn đi dự họp đều biết rõ đấy: Có gì đâu?
Ngay cuộc họp này, ai dám bảo rằng ngày mai nó sẽ không bị xuyên tạc? Chúng ta đã nghe phát biểu nhưng ai dám đảm bảo rằng ngay sự phát biểu này sẽ được ghi lại đúng đắn?
Vậy thì, cùng là bạn văn, cùng theo nghiệp bút nghiên, cho phép tôi trích đề nghị thứ nhất: “Hãy tả cuộc họp này thực trung thực, không thêm bớt xuyên tạc”.
Tôi chỉ có một mình cô độc, những kẻ bôi nhọ tôi có đến hàng vạn người. Dĩ nhiên tôi không thể tự vệ và cũng không biết trước được những luận điệu bôi nhọ tôi sau này có những gì nữa! Giá mai đây có người nói rằng tôi là phần tử bảo hoàng cũng không có gì là lạ.
SALYNSKY: Tôi muốn nói đến cuốn Trại ung thư. Tôi cho rằng phải xuất bản cho bằng được cuốn này vì nó là một tác phẩm có giá trị đích thực.
Đành rằng tác giả đã mô tả bệnh tật bằng ngôn ngữ y khoa xác thực, nhưng nó vẫn hỏng ở điểm làm cho độc giả bị sự sợ hãi ung thư – vốn là một căn bệnh của thời đại này – đè nặng. Dù sự sợ hãi này xét ra vô ý thức, khía cạnh này phải được cắt đi và thay thế một cách nào đó, cũng như khía cạnh ảm đạm của tác phẩm, khía cạnh ảm đạm thuyết “phơi-ơ-tông” (viết để đăng báo, khúc nọ tiếp theo khúc kia, hằng ngày) cũng phải được sửa lại!
Một điều đáng trách nữa là sự thăng trầm của các nhân vật bằng cách này hay cách khác đều bị buộc chặt với trại tập trung và đời sống bên trong các trại này!
Cuộc đời chìm nổi của Rostoglotov Roujanov coi là được đi! Nhưng tại sao cuộc đời Vadim, Chaloubine và nhất là cuộc đời của người binh sĩ cũng chìm nổi nốt? Tại sao? Cuối cùng,ta mới biết người lính đây không phải là một chiến binh thường mà là lính cảnh vệ gác trại.
Nói chung, nếu tôi hiểu không sai thì chú ý của cuốn truyện là môt tả thời cáo chung của một quá khứ buồn tẻ! Vậy thôi! Còn chủ nghĩa xã hội và luân lý của chủ nghĩa riêng tôi không thấy có gì bậy bạ hết. Soljenitsyne chỉ đáng ghê tởm khi anh cổ võ cho một chủ nghĩa xã hội vô luân. Cuốn truyện chỉ đáng lên án khi nó ca tụng chủ nghĩa Quốc xã hay chủ nghĩa xã hội quốc gia kiểu Tàu Mao Trạch Đông. Tôi nghĩ rằng mọi người đều có quyền suy nghĩ về chủ nghĩa xã hội và sự diễn biến của nó theo ý riêng mình. Cá nhân tôi, tôi cho rằng chủ nghĩa xã hội bị tác dụng của các quy luật kinh tế chi phối. Nhưng điều này có thể thảo luận được. (Rồi diễn giả yêu cầu Thư ký đoàn chống lại một cách quyết liệt những luận điệu bôi nhọ Soljenitsyne).
SIMONOV: Tôi không thừa nhận cuốn Nhóm thứ nhất và chống lại việc xuất bản cuốn này. Ngược lại, tôi tán thành việc xuất bản cuốn Trại ung thư. Không phải tôi thích tất cả mọi chi tiết trong cuốn này. Nhưng một cuốn sách đâu có cần phải thỏa mãn một người? Tác giả cũng cần phải chấp nhận một vài nhận xét về cuốn ấy nhưng cũng không bị bắt buộc phải nhận hết tất cả. Chúng ta cũng có trách nhiệm phải lên án những luận điệu bôi nhọ Soljenitsyne. Phải xuất bản một hợp tuyển truyện ngắn của Soljenitsyne với một lời tựa có hiệu lực đính chính những sai lầm về tiểu sử tác giả. Với tựa này sẽ thanh toán những sự bôi nhọ Soljenitsyne. Chính chúng ta phải thanh toán những luận điệu ấy, không phải anh ta. Tôi chưa đọc và cũng không muốn đọc cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng vì tác giả không muốn như vậy!
TVARDOVSKY: Hoàn cảnh của Soljenitsyne không cho phép anh ta lên tiếng. Chính chúng ta - Hội các Nhà văn, chúng ta phải đưa ra một thông cáo lên án những lập luận bôi nhọ anh ấy. Ngược lại, ta cũng phải nghiêm khắc cảnh cáo Soljenitsyne về cách thức không thể chấp nhận được mà anh ta đã dùng để nói với Đại hội qua việc lá thư gởi Đại hội cũng được gởi cho một số đông người. Tòa soạn Novy Mir không thấy có gì cản trở trong việc đăng tải truyện Trại ung thư với điều kiện phải sửa chữa một vài đoạn. Chúng tôi chỉ yêu cầu Thư ký đoàn tán thành hay ít nhất không phản đối việc này (rồi Tvardovsky quay sang yêu cầu Vorondov đưa bản văn dự thảo thông cáo của Thư ký đoàn soạn hồi tháng Sáu ra để Đại hội thông qua).
VORONDOV ngập ngừng: Một số người chúng tôi chưa định gì hết. Còn có người chống nữa mà!
FEDINE: Không! Chuyện như vậy đâu có được! Thư ký đoàn không thể cho ra gì hết, không cải chính gì hết. Có phải chúng ta cảm thấy, có phải chúng ta có mặc cảm phạm lỗi hay không? (nói với Tvardovsky) Có lẽ anh Alexandre Trophmovitch, anh cảm thấy có lỗi, nên mới thấy phải lên tiếng chăng?
TVARDOVSKY (giọng quả quyết và nói rất nhanh): Tôi ấy à? Không!
FEDINE: Không cần phải tìm những lý do nhân tạo để vẽ ra một bản tuyên cáo, tiếng đồn không đâu có đủ! Nhưng trong trường hợp này, nếu chính Soljenitsyne muốn nhân cơ hội mà giải quyết vấn đề thì lại khác. Bây giờ là lúc Soljenitsyne có thể phát biểu ý kiến một cách đàng hoàng, công khai (hướng về phía Soljenitsyne).
Theo ý anh, Alexandre Jsaevitch, một bản tuyên cáo của Thư ký đoàn phản đối lại những luận điệu bôi nhọ kia có lợi gì không? Trước hết anh phải lên tiếng phản đối các địch thủ Tây phương đã sử dụng tên tuổi của anh một cách khốn nạn. Dĩ nhiên cơ hội này, anh cũng có thể nói lên một vài điểm bất mãn mà anh, ngày hôm nay đã đưa ra cho Thư ký đoàn. Nếu văn kiện này có một lập luận và một ngôn ngữ khéo léo, chúng tôi sẽ cho đăng tải và sẽ giúp đỡ anh.
Muốn biện minh, anh phải đi theo đường này. Không có việc in tác phẩm của anh và cũng không có vấn đề mặc cả của anh! Chúng tôi được quyền đọc tác phẩm của anh được bao lâu? Ba tháng hay bốn tháng? Việc này ghê gớm lắm sao? Việc đáng ghê gớm là tên tuổi anh đã xuất hiện và bị sử dụng trong những công việc hạ cấp ở Tây phương.
KORNESCHOUK: Chúng tôi mời anh đến đâu có phải để sỉ vả mà để giúp đỡ anh thoát khỏi khó khăn, phức tạp này. Chúng tôi đã đặt các câu hỏi nhưng anh lại tránh né, thấy rằng tình hình diễn biến này là một trận đại chiến lớn vô cùng, bao trùm cả vũ trụ trong những điều kiện hết sức phức tạp hay sao? Chúng ta đâu có thể đứng ngoài được bằng các tác phẩm. Chúng ta phải bảo vệ Chính phủ, Đảng và nhân dân ta. Anh đã mỉa mai những người xuất ngoại bằng cách gán cho họ đi du hí! Ngược lại những người bị mỉa mai là chúng tôi – lại ra ngoại quốc để chiến đấu và khi trở về mệt đừ nhưng có cảm tưởng là đã làm tròn nhiệm vụ! Anh đừng tưởng rằng đã làm nhục được tôi bằng cách nhắc đến vấn đề viết lách. Tôi không viết được vì tôi đâu có phải đi để viết mà để phục vụ cho Ủy ban Bảo vệ Hòa bình Thế giới.
Chúng tôi biết là anh đã phải chịu đựng nhiều đau đớn! Nhưng không phải chỉ có một mình anh chịu. Có nhiều người, nhiều người khác không phải là anh, đã bị đi tù, kể cả những đảng viên cộng sản thâm niên. Từ nhà họ, họ đã đi thẳng ra mặt trận. Trong quá khứ, không phải chỉ có sự bất đồng mà thôi, còn có chủ nghĩa anh hùng nữa.
Nhưng anh đã không nhận thấy sự nổi loạn của anh phát xuất từ chỗ bị truy tố tư pháp. Cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng xấu xa bẩn thỉu bất chính mà lại được phổ biến để dân chúng đọc. Anh đã bị đem đi lưu đày trong trại tập trung chứ gì? Nhưng không phải bị năm 37, lúc chúng tôi đã đến đó. Nhưng lịch sử không có dừng lại!
Constantin Alexandrovitch (Fedine) đã nói phải lên tiếng tấn công sự tuyên truyền của Tây phương một cách công khai. Chiến đấu chống lại kẻ thù của xứ sở đi. Anh hẳn phải biết rằng trên thế giới có bom khinh khí? Và phải biết mặc dù các cố gắng bảo vệ hòa bình của chúng ta, Hoa Kỳ vẫn có thể đem ra chứ?
SOLJENITSYNE: Tôi xin tuyên bố thêm một lần nữa, rằng đem cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng ra bàn là không lương thiện và xin nhấn mạnh đến việc phải đem vấn đề thảo luận về cuốn này ra khỏi cuộc tranh luận.
SOURKOV: Anh lấy quyền gì mà bịt miệng những người khác?
KOJEUNIKOV: Thời gian đủ để nghiên cứu kể từ ngày có lá thư của Soljenitsyne cho đến ngày hôm nay hội nghị họp, chứng tỏ rằng Thư ký đoàn đã cẩn trọng đến mức nào. Nếu đem lá thư ấy ra thảo luận lúc bấy giờ, còn sốt dẻo chúng tôi có lẽ còn cứng rắn hơn, còn quyết liệt hơn nữa với anh.
Nhưng chúng tôi đã quyết định phải tìm hiểu kỹ những tác phẩm bị coi là chống đối. Tôi viết và phải đọc kỹ, đọc lâu.
Bản tướng mạo quân vụ của Soljenitsyne hình như có đủ tài liệu biện minh cho anh ta. Nhưng ở đây chúng ta bàn về nhà văn, không bàn về Soljenitsyne sĩ quan. Hôm nay, lần đầu nghe Soljenitsyne phủ nhận công khai cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng nhưng tôi cũng vẫn không khỏi rùng mình khi đọc tác phẩm có tham vọng phản ảnh thực tế Xôviết ấy. Tôi không dám tin vào sự phủ nhận bi kịch ấy của Soljenitsyne, có lẽ vì tôi đã thấy được nơi cuốn ấy chính tinh thần báo thù đối với tất cả những gì đã cảm thấy, trong cuốn Nhóm thứ nhất và trong cuốn Trại ung thư.
Khi nói đến số phận của các tác phẩm, tác giả phải nhớ đến các bổn phận đối với tổ chức đã khám phá ra nhà văn.
Lúc ấy, tôi là một trong những người đầu tiên đã phát biểu những sự nghi ngờ về những gì đã được kể trong cuốn Ngôi nhà của Matriona. Chúng tôi đã mất thời giờ, chúng tôi đã đọc các tác phẩm lệch lạc mà anh không dám đưa cho một tòa soạn tạp chí nào đăng hết. Cuốn Trại ung thư làm cho ta thấy buồn nôn vì bút pháp tự nhiên chữ nghĩa hung hãn, khuynh hướng muốn lồng vào những mối sợ hãi có thể có và có thể tưởng tượng ra mặc dù nền tảng căn bản của nó không phải là y học mà là xã hội, mặc dù nền tảng này không được chấp nhận cũng vậy.
Trong lá thư thứ hai, anh muốn dẹp đi, về việc ấn hành một tác phẩm mà anh không đọc lại nữa. Cách làm “xăng ta” này có xứng đáng với một nhà văn không?
Ở đây, tất cả mọi nhà văn đều vui lòng nghe lời khuyên của các bộ biên tập và không bao giờ ép buộc họ.
SOLJENITSYNE: Bất chấp sự giải thích và phản đối của tôi, bất chấp tính chất phi lý cùng cực của việc thảo luận về một tác phẩm viết cách đây hai mươi năm trong những điều kiện khác và của một con người cũng khác hẳn với con người Soljenitsyne viết văn, mặc dù tác phẩm mà tôi bị cưỡng đoạt ấy chưa được in, chưa có một người đọc.
Một số diễn giả vẫn tập trung mũi dùi vào vào độc có một tác phẩm ấy mà thôi. Đây là một việc còn vô nghĩa hơn chuyện Maxim Gorki bị hạ trong một Đại hội các Nhà văn dưới đây, vô nghĩa hơn cả vụ Serge Chensky và việc ấn hành lại các thư từ trao đổi của ông cách đây mới mười lăm năm và Kornejchouk đã nói rằng “một việc như vậy chưa bao giờ xảy ra và cũng không bao giờ xảy ra” và “ta chưa bao giờ được thấy chuyện như vậy trong văn học sử Nga” đúng quá nhỉ?
OZEROV: Lá thư gởi Đại hội ấy của Soljenitsyne đã tạo nên một hành vi chính trị có hậu quả xấu nhất. Nó có thể đi đến chỗ có lợi, cho kẻ thù. Lá thư ấy có những khẳng định của tác giả sai với sự thực giữa những nhà văn bị đàn áp một cách oan uổng người ta nói cả đến Zamzatine nữa.
Về vấn đề ấn hành cuốn Trại ung thư, ta có thể đi đến một sự đồng ý với tòa soạn Novy Mir; có thể sửa chữa và thảo luận với tác giả về những chỗ sửa chữa này. Cuốn truyện có những phần giá trị khác nhau quá xá; có nhiều đoạn rất thành công, có nhiều đoạn dở.
Nhưng tôi không chịu cái bút pháp viết truyền đơn, cái lối phỏng bút của Soljenitsyne. Tôi yêu cầu phải cắt bớt nhiều đoạn mà tôi không thể đi sâu vào chi tiết vì thiếu thì giờ. Triết lý chủ nghĩa xã hội nhân bản vốn là yếu tố chủ thể của nội dung tác phẩm hình như do tác giả đưa ra không chấp nhận được.
SOURKOV: Tôi cũng vậy, tôi đã đọc cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng mà lập trường, rốt cuộc lại, có thể tóm tắt như sau. Tất cả đều khốn nạn!”. Trong cuốn Trại ung thư người ta cũng thấy lại một giọng ấy. Trong thành phần nhân vật của nó có ai ở trong thế giới của các anh hùng không? Chỉ có anh Shulubine kỳ cục được A.S. tả giống như người cộng sản, cũng như tôi giống… (diễn giả thiếu một chữ) Shulubine, với các ý tưởng lạc hậu. Tôi không cần che giấu, tôi là một người trí thức, tôi hiểu các học thuyết triết lý, chính trị và xã hội, tôi đã ngửi thấy trong đó có Mikhailovsky và Vladimir Soloviev và đồng thời có cả ý kiến thơ ngây rằng “kinh tế có thể lệ thuộc vào đạo đức”.
Sau bao nhiêu thử thách, anh có quyền cảm thấy bị đè ép, lăng mạ, nhân danh con người, anh Alexandre Soljenitsyne! Nhưng anh lại là nhà văn. Tôi có biết những người cộng sản già đã bị đưa đi “căng” nhưng không phải vì thế mà thế giới quan của họ thay đổi.
Không, sách của anh không có chất sinh lý học mà là chính trị. Sách của anh đã đề cập đến những vấn đề căn bản! Và thần tượng được nêu ra trong vị trí cao nhất cũng không phải là đài kỷ niệm cho Marx.
Trại ung thư, nếu in ra sẽ có hại cho chúng ta; hại hơn Ký ức của Sveslara nữa! Đành là ta phải ngăn cấm Tây phương xuất bản nhưng hết sức khó. Tôi đã là láng giềng của Anna Andreievna Akhmatova trong những năm cuối cùng của bà và biết rằng sau khi bà cho một vài người đọc tập Requiem chừng vài tuần lễ là đã thấy Tây phương xuất bản cuốn ấy rồi. Dĩ nhiên, độc giả của chúng ta đã đủ tiến bộ và giàu kinh nghiệm; họ đâu có để cho mấy cuốn sách nho nhỏ ấy kéo đi xa chủ nghĩa cộng sản! Tuy nhiên, tác phẩm của Soljenitsyne còn tai hại hơn sách của Pasternak nhiều. Pasternak là một người chán đời, trong khi Soljenitsyne là người hoạt bát chiến đấu, tư tưởng đã dứt khoát A.S. là một người có đầu óc.
Chúng ta, những người của cuộc cách mạng đầu tiên trong lịch sử nhân loại, không bao giờ chúng ta xa rời các khẩu hiệu, xa rời các ngọn cờ cách mạng.
“Chủ nghĩa xã hội đạo đức” là một thứ chủ nghĩa xã hội khá tư sản (quay sang Salynsky), tôi không hiểu tại sao người ta có thể hiểu nó và còn thấy nó có một vài giá trị và muốn bảo vệ!
SALYNSKY: Tôi có bảo vệ gì đâu.
RIOURRIKOV: Soljenitsyne đã chịu thiệt hại vì những kẻ bôi nhọ anh ta và cũng bị luôn vì những kẻ đã ca tụng anh ta quá mức, gán cho anh ta những đức tính anh không hề có. Nếu phải phủ nhận, Soljenitsyne cũng cần phải phủ nhận một cái gọi là người nối tiếp của chủ nghĩa hiện thực Nga sao anh ta tự gán cho mình. Tác phong của thống chế Rokossovsky, của Đại tướng Gordetov lương thiện hơn tác phong của các nhân vật trong truyện của Soljenitsyne nhiều. Nguồn gốc năng lực của nhà văn này phát xuất từ những cảm nghĩ chua chát, những cảm tưởng bị nhục mạ, đàn áp. Tôi có thể hiểu được Soljenitsyne trên một vài khía cạnh nhân bản.
Soljenitsyne, anh viết là người ta đã cấm các tác phẩm của anh hả? Đâu, kiểm duyệt có đụng đến một cuốn nào đâu? Tôi lấy làm lạ về chuyện Tvardovsky xin phép Thư ký đoàn để đăng truyện của anh. Tôi bất kỳ là chuyện như thế nào tôi cũng không bao giờ xin phép Hội của Nhà văn để đăng tải.
Rồi Riourrikov yêu cầu Soljenitsyne hãy nghe theo khuyến cáo của tòa soạn Novy Mir và hứa “nhân danh những người hiện diện” sẽ có những lời chú giải bên cạnh từng trang một cuộc Trại ung thư.
BAROUDJINE: Tôi là một trong những người đã không hoan nghênh tác phẩm của Soljenitsyne ngay từ đầu. Ngay cuốn Ngôi nhà của Matriona đã kém hơn hẳn tác phẩm đầu của anh ta và cuốn Nhóm thứ nhất đã có nhiều yếu điểm: Staline Abakoumov và Proskreby chưa được mô tả như những con người thời đại bán khai. Trại ung thư kế tiếp là một chuyện phản nhân bản. Kết cục của cuốn chuyện là sự khẳng định rằng “có lẽ phải đi tìm một con đường khác”.
Soljenitsyne đã tưởng rằng hai lá thư “được coi như là tài liệu tranh luận sẽ được Đại hội đọc tức khắc hay sao? Đại hội đã nhận bao nhiêu thư cả thảy?
VOROWKOV: Gần năm trăm lá!
BAROUDJINE: Anh nghe ra chưa, Soljenitsyne? Làm sao có thể đọc tức khắc được? Tôi không đồng ý với Rjoukov: Việc xin phép xuất bản phải đặt ra nói với Thư ký đoàn là đúng. Thư ký đoàn của chúng ta càng ngày càng phải biến thành cơ quan phụ trách việc sáng tác và không nêu tiếc các khuyến cáo với các hội đồng biên tập.
ABDOMUNOV: Việc Soljenitsyne có can đảm phủ nhận cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng có một ý nghĩa tích cực, bây giờ anh ta cũng phải có can đảm thực hiện cái đề nghị của Alexandrovitch Constantin (Fedine)! Bây giờ mà in cuốn Trại ung thư sẽ có những chuyện rắc rối lớn hơn khi có bức thư đầu của Soljenitsyne nữa! Trong truyện có Rousanov, có những người chết vì chủ nghĩa vĩ đại bây giờ là người các trại tập trung nhưng những người khác nữa ở đâu? Xã hội Xôviết ở đâu? Không thể ép buộc phải nhấn mạnh đến điều này. Nhưng cũng không thể viết một cuốn tiểu thuyết trong đó không có một chút ánh sáng vui vẻ nào thoát ra hết. Và có nhiều đoạn kéo dài, nhiều chỗ lặp lại, nhiều cảnh của bút pháp tự nhiên. Tất cả những thứ đó phải cắt bỏ!
ABASHIDZE: Tôi chỉ mới đọc được chừng có 150 trang của cuốn Trại ung thư và do đó không thể phê phán về nội dung. Tôi không thấy có gì là tôi không thể có ý kiến về nội dung cuộn truyện. Có thể là những chuyện thiết yếu nhắc ở đoạn sau cũng nên.
Tất cả chúng ta, nhà văn lương thiện và có ý thức, chúng ta luôn luôn chống lại những thứ trang sức hoa hoè hoa sói, kể cả trường hợp việc làm ấy rất khó coi. Nhưng Soljenitsyne đang bị nguy vì rớt vào chỗ đối lập “đoảng”: một vài đoạn chỉ là miêu tả thuần túy.
Nghệ sĩ như đứa bé, nó tháo chiếc xe hơi ra để xem có gì ở trong đó. Nhưng nghệ thuật lại nằm trong sự lấp lại, dựng nên chiếc xe hơi. Tôi thấy Soljenitsyne hỏi người ngồi bên cạnh tên của một vài diễn giả, tại sao nhìn không biết mặt một người nào trong những người chúng ta ở đây? Chỉ vì chúng ta đã không mời anh ta… Đề nghị của Constantin Alexandrovitch rất đúng. Chính Soljenitsyne phải tự trả lời lấy những sự bôi nhọ!
BROVKA: Ở Bélorussie, có nhiều người bị đưa đi trại tập trung. Tỷ dụ như Sezge Grakhovsky chẳng hạn đã phải giam đến hai mươi năm. Nhưng họ đều hiểu rằng: dân tộc, Đảng và quyền uy chính trị không chịu trách nhiệm về những sự bất công ấy.
Trong hồi ký của Staline, chỉ có sự ngồi lê đôi mách của đàn bà. Nhân dân hiểu điều này và chỉ cười thôi. Nhưng ở đây chúng ta có một người được thế giới thừa nhận tài năng, đang đặt vấn đề xuất bản sách cho đương sự.
Đúng là Soljenitsyne đã cảm thấy những nỗi đau khổ của tổ quốc, một cách thực tình quá lố, nhưng anh ấy lại không có những cảm tưởng vui sướng hân hoan. Trại ung thư quá ảm đạm, không thể ấn hành được (rồi cũng như diễn giả trước và những diễn giả lên diễn đàn sau ông ta, BROVKA ủng hộ đề nghị của Fedine: Soljenitsyne phải lên tiếng chống lại những luận điệu bôi nhọ của Tây phương lợi dụng lá thư).
JASHEN: (Chỉ trích cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng): Tác giả không phải bị băn khoăn vì sự bất công mà bị đầu độc vì hận thù. Mọi người đều bất bình vì có một nhà văn như vậy trong Hội. Tôi đề nghị khai trừ y ra khỏi Hội. Soljenitsyne không phải là người duy nhất bị hành hạ, còn những người khác nữa, nhưng họ hiểu sai bi kịch của thời đại này, như chàng thanh niên Ikramoe chẳng hạn. Trong Trại ung thư hiển nhiên là ta có một ngòi bút bậc thầy. Nhưng tại sao trong trận Léningrad những kẻ bị lên án còn có – ngoài Hitler “cả những người khác nữa”? Tôi không hiểu “những người khác nữa” là ai? Là Béria? Hay là các nhà lãnh đạo sáng suốt hiện tại của chúng ta? Phải nói rõ ra. (Tuy thế diễn giả lại ủng hộ cái giải pháp can đảm của Tvardovsky sửa lại tác phẩm cùng với Soljenitsyne và sau đó có thể cho một độc giả hạn chế đọc.)
KERBALEV: Tôi đã đọc xong Trại ung thư cùng với tất cả sự ghê tởm? Mọi nhân vật đều là những tù nhân cũ, tất cả đều ảm đạm, không có lấy một chút ấm áp trong suốt cả tác phẩm.
Véra dâng cho người hùng cả ngôi nhà và sự tiếp đón của nàng nhưng chàng, chàng lại từ chối đời sống. Và câu “chín mươi chín người khóc, một người cười” nghĩa là gì? Tôi đồng ý với Korneijchouk. Tại sao tác giả lại nhìn tất cả dưới một màu đen tối.
Tác giả chối bỏ cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng chưa đủ, tôi sẽ công nhận Soljenitsyne là người can đảm ngày nào anh ta chối bỏ luôn Trại ung thư. Lúc ấy, tôi sẽ hoan hỉ đón tiếp anh ta y như một người anh em thân thích.
TCHRIDOV: Tôi không cần nói đến tương lai và sẽ khai trừ Soljenitsyne ra khỏi Hội. Trong vở bi kịch của Soljenitsyne, tất cả những gì là Xôviết đều bị trình bày một cách tiêu cực, kể cả Savourov. Tôi đồng ý là Soljenitsyne phải chối bỏ cuốn Trại ung thư. Quốc gia này đã làm cho đất đai hoang phế trở nên màu mỡ và đi từ thành công này đến thành công khác.
NOVICHENKO: Bức thư gửi Đại hội là một vi phạm mọi luật lệ và nó đã ngáng ngang đò của Hội Nhà văn. Tôi tán thành đề nghị nghiêm khắc của TVARDOVSKY phải cương quyết lên án việc làm ấy của tác giả.
Tôi cũng không đồng ý với những yêu sách của lá thư; ta không có thể cho phép tất cả đều được ấn hành. Ta có thể in cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng không?
Bây giờ bàn về Trại ung thư. Phản ứng của tôi rất phức tạp. Tôi không phải là trẻ con, tôi biết tôi phải chết và có thể chết trong sự đau đớn của những nhân vật Soljenitsyne. Nhưng ngay trong hoàn cảnh ấy, vấn đề quan trọng hơn cả vẫn là lương tâm ở đâu? Ta còn có những di sản luân lý nào? Nếu cuốn truyện dừng lại ở đây, tôi thấy rất cần in. Nhưng cái ảnh phóng bút tả người con gái của Rousanov là một sự can thiệp hạ cấp đối với những tục lệ văn hoá của chúng ta. Ý nghĩa chính trị - ý thức hệ của chủ nghĩa xã hội đạo đức là sự từ chối chủ nghĩa Mác – Lê, câu cuối mượn lời của Pouchkine: “Con người bao giờ cũng là một nhà độc tài, một tên phản bội hoặc một kẻ nô lệ” là sản phẩm của một học thuyết nhục mạ… Dứt khoát không thể chấp nhận được những điều ấy.
Trong cuốn truyện, chỉ có những kẻ bị đọa đày đứng lên chỉ trích phê phán xã hội… cũng là một sự nhục mạ nữa… Cá nhân của Rousanov bị méo mó ngh trình bày như là một người nguyên vẹn đẹp đẽ. Không thể chấp nhận việc bưng Rousanov lên làm phát yếu nhân của xã hội chính thức của chúng ta. Tôi cũng rất bực bội khi tên của Gorki lại bị cái miệng bẩn thỉu của Rousanov nhắc tới. Dù có được sửa chữa thực cẩn thận, cuốn sách này cũng không bao giờ là một tác phẩm của chủ nghĩa hiện thực xã hội.
Tuy nhiên nó vẫn tạo nên một biến cố về văn học; nó là tác phẩm của cây bút có tài. Tôi cũng đã đọc được cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng và phải nói rằng mối tương quan giữa tôi và tác giả, đã có một cái gì thay đổi. Phải xóa bỏ hết những dấu vết của bi kịch ấy…
MARKOV (Vừa ở Sibérie về tới và đã diễn thuyết 5 lần trước những đám người rất đông): Phải hiểu rằng Soljenitsyne chẳng gây được ảnh hưởng ở đâu hết khắp mọi nơi, chẳng mấy ai nói gì về Soljenitsyne hết. Chỉ có một người đưa cho tôi một tờ giấy và hỏi tôi – tôi xin lỗi phải nói thực rằng: “Đến bao giờ thằng cha Soljenitsyne ấy mới thôi phá hoại văn học Nga”.
Chúng ta chờ đợi nơi Soljenitsyne một phản ứng thực chính xác, đập đúng vào đầu bọn tư sản bôi nhọ chúng ta, bằng một tuyên ngôn gởi cho báo chí. Y phải bảo vệ danh dự nhà văn Xôviết của y. Sự phủ nhận cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng của Soljenitsyne làm cho ngực tôi như nhẹ hẳn đi. Về cuốn Trại ung thư, tôi đồng ý: Tác phẩm dựa trên một nền tảng cá biệt, ý thức tổng quát về xã hội của nó không chấp nhận được. Khi quả quyết rằng “đã có người sống trên nền tảng ấy” tác giả muốn phác ra những đường hướng mịt mù, không ai biết được. Dựa vào sự hợp tác thân thiện giữa tác giả và tòa soạn Novy Mir, tôi nghĩ rằng cả hai bên phải họp lại bổ khuyết thêm cho tác giả; dù mất công đến mấy cũng phải chịu vì không thể để như vậy rồi đem ra in.
Cách thức tiến hành như thế nào? Cụ thể Alexandre Isaevitch (Soljenitsyne) phải chuẩn bị cái tuyên dương được nói đến từ nãy đến giờ đúng vào lúc sắp kỷ niệm năm năm cuộc cách mạng Xôviết; sau đó, ít lâu nữa, thư ký đoàn sẽ có thể đưa ra một thông cáo về việc này.
Mặc dù vậy, tôi vẫn tiếp tục coi Soljenitsyne là bạn. Nhưng Alexandre Isaevitch ạ, anh đang tự đặt mình vào cái thế cô độc ấy, những người khác không phải là những người phạm lỗi. Về cái đề nghị khai trừ Soljenitsyne, tôi nghĩ rằng chúng ta không nên hấp tấp vì giữa chúng ta tình thân hữu vẫn còn có giá trị…
SOLJENITSYNE: Thêm một lần nữa trong ngày hôm nay, tác phẩm đối lại việc đem cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng ra tranh luận và có lẽ còn phải phản đối nữa… Cuối cùng người ta có thể buộc tội các ngài lẫn kẻ chống lại học thuyết tiến hoá nếu các ngài thực tình nghĩ rằng một con người không thay đổi gì hết cả trong hai mươi năm khi hoàn cảnh đã thay đổi.
Nhưng tôi lại được nghe ở đây những lời buộc tội khác quan trọng hơn nhiều. Kornejchouk Baroudjne và nhiều vị đã nói cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng đã được lưu hành và dân chúng đã đọc nó. Tôi sẽ nói rất thong thả để cho từng chữ một của tôi được ghi lại đúng đắn.
Rằng nếu cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng được in ra hoặc được lưu hành rộng rãi thì tôi xin tuyên bố là trách nhiệm hoàn toàn do cơ quan đã cưỡng đoạt bản viết duy nhất chưa có ai được đọc, của thiên bi kịch ấy – đem ra ấn hành ngay khi tôi còn sống và ngược với ý muốn của tôi. Chính tổ chức ấy đã phổ biến thiên bị kịch ấy.
Hơn một năm rưỡi nay, tôi luôn nhắc nhở quý vị rằng chuyện này rất nguy hiểm. Ở đây, chúng ta không có một phòng đọc những bản viết tay tác phẩm được chuyền từ người nọ sang người kia, quý vị mang nó về nhà, nơi con trai con gái của quý vị ở. Nhưng tất cả các ngăn bàn ngăn tủ đâu có phải là có chứa tất cả? Tôi đã báo trước với quý vị việc này và bây giờ cũng xin báo trước quý vị thêm một lần nữa.
Xin bàn đến cuốn Trại ung thư. Người ta đã chỉ trích tôi về cả cái tiêu đề của tác phẩm vì nó không phải là một đề tài y học mà là một cái gì có ý thức tiêu biểu, tượng trưng.
Tôi xin trả lời: Đấy thực không phải là một biểu trưng vô hại nếu phải trải qua tất cả các giai đoạn của bệnh ung thư và thời kỳ hấp hối để khám phá nó. Chỉ vì một biểu trưng mà thôi, các ngài không thấy cái tính chất của nó quá nhiều, quá dày hay sao? Chỉ vì một biểu trưng các ngài không thấy rằng nó có quá nhiều chi tiết y khoa hay sao? Nhiều nhà chuyên môn nổi tiếng về ung thư – xem cuốn sách do tôi gởi cho họ đọc và hỏi ý kiến - đã cho biết rằng, trên quan điểm y khoa, nó không có gì sai lầm có thể bài xích được cả, ngay trong hiện tại. Đấy là bệnh ung thư, đúng như bệnh trạng mà văn chương tiêu khiển không hề nói đến nhưng các bệnh nhân bị ung thư hằng ngày đã cảm thấy, kể cả các người thân thích và biết đâu có lẽ mai đây sẽ có một trong những quý vị đây sẽ phải vào điều trị nơi một bệnh viện ung thư để hiểu rằng đấy không phải là một biểu trưng.
Tôi thực tình không hiểu tại sao lại có lập luận buộc tội cuốn Trại ung thư phản nhân bản? Đúng ra nó là một cái gì trái ngược với lập luận buộc tội ấy, đấy là sự vượt qua cái chết của sự sống, vượt qua quá khứ của tương lai. Vì bẩm tính trời sinh của tôi, tôi không bao giờ tự ép mình phải viết một truyện như vậy. Nhưng tôi quan niệm rằng văn chương đối với xã hội cũng như đối với từng con người một, có bổn phận nói ra một cách thành thực, chứ không che giấu hay làm nhẹ đi, sự thực như thế nào và người ta chờ đợi nơi nó những gì? Phương ngôn Nga nói về việc này, rất giàu có:
“Đừng yêu những kẻ cam chịu, hãy mến những kẻ dám chống đối.”
“Những đứa ngọt ngào thổ lộ không phải là những người tốt.”
Trên đại cương, sứ mạng nhà văn không hạn chế ở chỗ bảo vệ hay chỉ trích hệ thống phân phối lợi tức xã hội này hoặc hệ thống kia, không hạn chế ở chỗ chỉ bảo vệ hoặc chống đối hình thức tổ chức quốc gia này hoặc hình thức tổ chức kia. Sứ mạng đó là nói về những đề tài phổ biến hơn, vĩnh cửu hơn. Những bí mật của con tim và của lương tâm con người, sự hội ngộ của cái chết và sự sống, sự vượt qua những đau đớn về tinh thần. Sự tìm kiếm những dự luật phát ra từ những tầng sâu của vạn đại không thể thăm dò, giờ này vẫn còn bám lấy lịch sử của nhân loại cho đến ngày tận thế.
Việc quý đồng nghiệp đọc một vài đoạn nhưng không chú ý đến để bây giờ đưa ra những sự giải thích và phê bình méo mó đã làm cho tôi buồn thấm thía. Lẽ ra chuyện này không nên xảy ra mới phải. Thí dụ như “chín mươi chín người khóc, một người cười” là một câu phương ngôn quen thuộc ở đồng quê ta. Trong truyện Kostoglotov nói tạt vào mặt cái con người định tách ra khỏi hàng ngũ để ra oai với mình cho hắn ta biết gã là người như thế nào; chỉ có thế thôi! Ở đây trái lại, người ta đã kết luận rằng như vậy là đến toàn thể Liên bang Xôviết.
Souskov đã làm tôi ngạc nhiên, trước hết, tôi không tài nào hiểu nổi tại sao anh ấy lại đem Marx ra nói gì trong truyện của tôi có gì dính đến Marx đâu? Alexandrovitch ạ, anh là thi sĩ, một con người có năng khiếu nghệ thuật rất tinh tế; nhưng ở đây, cái năng khiếu ấy đã chơi anh một vố đau đấy. Anh không hiểu màn ấy hay sao Chouloubine đem Bacon ra lòe và dẫn đến thuật “thần tượng của hàng chợ” và Kostoglotov ráng tưởng tượng ra một cái chợ ở giữa có một thần tượng nhờn nhợt màu da. Chouloubine thuyết về thần tượng của kịch trường và Kostoglotov tượng trưng ra một thần tượng giữa kịch viên nhưng vì thần tượng không có ở đó, y bèn đặt nó vào công việc kế cận. Làm sao anh có thể nghĩ rằng tôi nói đến Mạc Tư Khoa và đài kỷ niệm Marx chưa được dựng?
Đồng chí Soukov có nói là chỉ cần có vài tuần lễ là cuốn Requiem dù chỉ được có một số rất ít người được đọc – đã sang Tây phương. Thế mà phần đầu cuốn Trại ung thư đã được chuyền tay nhau đọc hơn một năm rồi. Vì thế tôi mới lo và nói phải cấp báo với Thư ký đoàn.
Dẫu chỉ Soukov khuyên tôi đừng tiếp tục đi theo chủ nghĩa hiện thực Nga. Tôi xin hứa sẽ nghe theo lời khuyên ấy.
RIOURIKOV: Tôi không khuyên anh từ bỏ con đường hiện thực xã hội chủ nghĩa Nga mà khuyên anh hãy từ bỏ cái vai trò của anh đang được trình bày ở Tây phương.
SOLJENITSYNE: Bây giờ xin bàn đến đề nghị của Constantin Alexandrovitch, một đề nghị mà tôi phải hoan nghênh. Việc ấn hành, đấy là điều mà tôi đã tranh đấu suốt trong bao lâu nay. Khỏi phải trốn tránh, khỏi phải bao phủ những bài diễn từ, khỏi phải niêm phong những bản đánh máy tác phẩm. Sau cuộc thảo luận về cuốn Trại ung thư, tại phân bộ các nhà văn (Section de la prose) ở Mạc Tư Khoa đã định giữ bản đánh máy nội dung cuộc thảo luận cho những người tham dự và có liên hệ và làm vậy là phải quá rồi. Vậy mà người ta đã không cho tôi lấy, người ta vẫn giấu tôi – tác giả cuốn ấy. Cuộc tranh luận ngày hôm nay đây sẽ có bản đánh máy ghi chép nội dung cuộc tranh luận và tôi có hy vọng sẽ được nhận một bản thủ, anh Constantin Alexandrovitch?
Constantin Alexandrovitch có hỏi: ấn hành những lời phản đối của anh để làm gì? Câu trả lời của tôi hết sức rõ ràng lắm: Để phục vụ văn hoá xứ sở nhưng quan niệm của Alexandrovitch cho rằng tôi phải tự giải quyết lấy vấn đề hết sức phi lý. Người ta đã trói chân tay tôi, bịt miệng tôi thì tôi làm thế nào được?
Hình như việc làm này, với Hội các Nhà văn đầy uy thế, hết sức dễ:
Tôi bị chặn hết mọi cửa trong khi Hội có toàn thể và tờ báo để sử dụng. Chỉ cần tôi ký tên vào một lời kêu gọi dân chúng bảo vệ miền Baikal là tờ Komsomolskai Pravda dẹp ngay tên tôi rồi.
Dù vậy, tôi vẫn không hiểu tại sao thư tôi không được đọc trước Đại hội. Bây giờ Constantin Alexandrovitch lại đề nghị chống lại các hậu quả chứ không phải chống lại nguyên nhân, nghĩa là chống lại dư luận ở Tây phương chung quanh bức thư của tôi. Nhưng bức thư này có một phần tổng quát, một phần riêng biệt. Tôi có phải chống lại cả phần tổng quát không? Không, vì tôi vẫn giữ cái ý kiến ấy không có lơ một chữ nào hết. Lá thư ấy đề cập đến cái gì?
NHIỀU NGƯỜI TRẢ LỜI: Kiểm duyệt.
SOLJENITSYNE: Nếu như vậy các bạn chẳng hiểu gì hết. Lá thư ấy nói đến giá trị của nền văn nghệ vĩ đại của chúng ta một thời đã chinh phục được nhân loại, làm cho nhân loại ngây ngất. Ngày nay đã đánh mất chỗ ngồi của nó rồi. Ở Tây phương người ta bảo rằng “tiểu thuyết Nga chết rồi” và chúng ta nhào ra đem hết sức mạnh ra tổ chức những buổi nói chuyện, diễn thuyết để chứng minh rằng điều này sai với sự thực. Tổ chức các buổi nói chuyện thuyết trình mà làm gì? Chưa phải viết những cuốn truyện ánh sáng rực rỡ; thế là “Tiểu thuyết mới” của ta sẽ rơi vào quên lãng để cho các cuốn truyện của thế hệ “Các nhà văn tiền phong” mới ra đời. Tôi có cần phải tuyên bố là tám điểm trong phần thứ hai của lá thư đều sai lầm và bất công hay không? Nhưng các điểm ấy đúng với sự thực hoàn toàn. Tôi có cần phải tuyên bố là đã được thỏa mãn một phần hay không? Cho đến nay, chưa có gì được sửa chữa, chưa có gì được dẹp đi trong sự đối xử đối với tôi. Vậy thì chính các bạn phải hành động trước đi để cho tôi có thể đưa ra bản tuyên ngôn ấy: hãy cho in các lá thư của tôi và cho biết những biện pháp các bạn đã chọn lựa đối với những điểm đặc biệt hoặc ít nhất cũng nói đến các biện pháp sẽ áp dụng đối với một vài điểm trong đó; lúc ấy tôi xin viết ngay bản tuyên ngôn mà các bạn đã yêu cầu. Trong trường hợp này, tôi cũng xin ấn hành luôn lời tuyên bố của tôi đối với cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng mặc dù tôi không hiểu các lý do đưa đến cuộc tranh luận về một cuốn sách mà tác giả bị cướp giựt và về sự tiết lộ một bức thư chưa được ấn hành? Ngày 12 tháng 6, Thư ký đoàn đã hứa sẽ đưa ra bản thông cáo mà không có điều kiện nào; bây giờ các bạn lại đặt điều kiện. Có gì đã thay đổi?
Người ta đem cuốn Một ngày trong đời của Ivan Denissovitch. Chiến dịch bôi nhọ tôi vẫn được tiếp tục và còn được đẩy mạnh thêm. Chỉ có các bạn mới có thể phản công lại được, tôi thì không! Điều duy nhất mà tôi lấy làm an ủi là không một luận điệu trong các luận điệu bôi nhọ làm cho tôi xây xẩm mặt mày: tôi đã được tôi luyện trong các trại tập trung của Staline rồi.
FEDINE: Không! Trật tự như vậy đã bị đảo ngược! Tuyên ngôn thứ nhất phải là của anh. Sau những nhận xét khích lệ về tài năng và về biện pháp của anh, anh phải tìm ra hình thức thích hợp cho tuyên ngôn ấy. Không có những lý do chính đáng để chúng tôi lên tiếng trước rồi anh mới nói sau.
TVARDOUSKY: Trong trường hợp này, lá thư có được công bố không?
FEDINE: Không. Nếu phải in thì in lúc ấy, còn bây giờ, ngoại quốc đã làm ồn ào rồi, ta không có lý do để công bố nữa.
SOLJENITSYNE: Chậm còn hơn không. Còn tám điểm của tôi thì sao?
FEDINE: Sau đó, chúng tôi sẽ tính.
SOLJENITSYNE: Tôi đã trả lời. Và hy vọng tất cả đều được đánh máy thật đúng.
SOURKOV: Anh cũng phải nói rằng anh chẳng có gì liên quan với vai trò lãnh tụ đối lập mà Tây phương đã gán cho anh nữa.
SOLJENITSYNE: Alexei Alexandrovitch (Sourkov), tôi thực sửng sốt khi nghe anh nói như vậy? Nghệ sĩ của ngôn ngữ và lãnh tụ đối lập chính trị? Làm thế nào dung hòa hai công việc này được?
Một vài người nữa lên diễn đàn nhấn mạnh là yêu cầu Soljenitsyne chấp nhận đề nghị của Fedine.
Tiếng nói của mấy người một lúc: Hãy nghĩ đến đề nghị ấy đi.
Soljenitsyne tuyên bố thêm một lần nữa rằng không thể nào đưa ra một tuyên ngôn như vậy vì độc giả người Nga sẽ không hiểu đương sự muốn gì trong bản tuyên ngôn ấy.
*
Hai tháng sau, Thư văn của Thư ký đoàn Hội các Nhà văn Liên Xô số 3141 ngày 25 tháng 11 năm 1967 gửi nhà văn Alexandre viết như sau:
Ngày 22 tháng 9, Thư ký đoàn của Ủy ban Nhân dân Lãnh đạo Hội Liên hiệp các Nhà văn Xôviết đã xét bức thư của bạn. Cuộc thảo luận đã cho chúng tôi hiểu rõ thái độ của các giới văn nghệ Xôviết đối với bạn và các hoạt động văn nghệ của bạn. Cuộc họp đã chấm dứt nhưng chưa có kết luận. Tuy nhiên, chúng tôi hy vọng rằng bạn sẽ suy nghĩ về những nhận xét đưa ra trong cuộc thảo luận để hành động thích ứng.
Thư ký đoàn mong được biết quyết định của bạn về vấn đề này.
Ký tên,
Ủy viên Thư ký
K. Voronkov
Phần 5: Thư gởi thư ký đoàn sau hội nghị
Kính gởi Thư ký đoàn Hội Liên hiệp các Nhà văn
Thư văn của Hội số 3.142 ngày 25 tháng 11 năm 1967 không làm tôi hiểu rõ:
1. Rằng Hội có bảo vệ tôi chống lại chiến dịch bôi nhọ phát động từ ba năm nay, hay không?
Mới đây lại có một vài sự kiện mới nữa:
Ngày 5 tháng 10 năm 1967, tại Hội quán báo chí Léningrad, ông chủ nhiệm tờ Pravda Zinzarine lại đưa ra cái luận điệu bôi nhọ cũ kỹ “Soljenitsyne, bị tù vì lý do tư pháp”. Biện pháp này như quý vị đã rõ, vốn là biện pháp thông thường và quen thuộc nhất được đem ra áp dụng với những người bị chế độ ác cảm. Ngoài ra ông Zizarine còn quả quyết rằng quá khứ bị tù tội trong trại tập trung đã làm cho tôi có định kiến với chế độ không thể sửa đổi. Đặc biệt hơn nữa các nhân vật thuộc cơ quan tuyên huấn của Sở An ninh K.B.G. còn phóng ra những nguồn tin rất động trời, đại để như nguồn tin: “Có thể là Soljenitsyne đã dựng ra trong quân đội, một tổ chức chưa biết nên coi là tổ chức chủ bại hay khủng bố! Nếu có như vậy mà Ủy ban Quân sự của Tòa án Tối cao không khám phá ra chuyện này thì thực là vô lý!
2. Thư ký đoàn có biện pháp nào để ngăn cản việc áp dụng các biện pháp phi lý và độc đoán sau đây:
Rút sách của tôi ra khỏi các thư viện
Sở kiểm duyệt còn cấm nhắc đến tên tôi trong các bài phê bình văn nghệ (biện pháp này còn được dịch ra Nhật ngữ trên Voprosy literatury).
Ở Viện Đại học Perm, một thảo luận về tác phẩm của tôi do một nhóm sinh viên viết để đưa vào Tuyển tập các công trình nghiên cứu khoa học của họ, đã bị cấm.
3. Thư ký đoàn có định ngăn cản ngoại quốc xuất bản cuốn Trại ung thư một cách tự do không ai kiểm soát, hay không? Hay mối hiểm nguy này không có gì đáng chú ý, theo ý kiến của Thư ký đoàn? Thư ký đoàn có can thiệp để cho tạp chí Literaturnaia Gazeta ấn hành những đoạn trích trong cuốn truyện mà Novy Mir đăng tải toàn bộ?
4. Thư ký đoàn có dự định làm áp lực với Chính phủ để Liên Xô gia nhập “Tổ chức quốc tế bảo vệ tác quyền” hay không? Thiết tưởng việc gia nhập tổ chức này giúp cho các tác giả của chúng ta có biện pháp hiện hữu chống lại việc ấn hành bất hợp pháp tác phẩm của họ, chống lại việc cạnh tranh bất chính của những nhà xuất bản ngoại quốc đã đem tác phẩm của chúng ta ra in ở ngoài nước Nga trước cả chúng ta nữa.
5. Sáu tháng sau lá thư giải hội, Thư ký đoàn đã có biện pháp thanh toán dứt khoát một lần chót những cơ sở ấn loát “bất hợp pháp” đã trình đem ra in và lưu hành những đoạn nhỏ rút từ bản thảo viết tay của tôi hay chưa? Loại ấn phẩm bất hợp pháp này đã được hủy chưa?
6. Thư ký đoàn có biện pháp thu hồi thủ bản các tác phẩm kể cả thủ bản cuốn Nhóm thứ nhất khi hội đã tuyên bố rằng tôi đã được trả lại đầy đủ rồi (Lời tuyên bố của Ủy viên Thư ký Ozerov).
7. Thư ký đoàn đã có quyết định nào đối với đề nghị của K.M. Simonov cho in một tuyển tập các truyện của tôi?
Xin cho biết Thư ký đoàn chấp thuận hay bác bỏ đề nghị?
8. Xin cho biết vì sao tôi lại không được phát biên bản của Hội (bản sao đánh máy) về nội dung cuộc tranh luận ngày 22 tháng 9 năm 1967 đặng có tài liệu nghiên cứu?
Trong khi chờ đợi một sự giải thích rõ ràng những thắc mắc nói trên, tôi xin trân trọng cảm tạ quý vị.
A. Soljenitsyne
1-12-1967
Thư gởi các Hội viên sau Hội nghị
Kính gởi quý vị Hội viên Hội Liên hiệp các Nhà văn Liên Xô
Từ ngày lá thư của tôi gởi Đại hội của Hội Liên hiệp các Nhà văn Liên Xô đến nay, một thời gian khá dài một năm đã trôi qua, vậy mà tôi vẫn không được phúc đáp dù đã gởi tiếp cho Thư ký đoàn hai lá thư và ba lần đến trụ sở Hội để trực tiếp yêu cầu các nhà lãnh đạo Hội giải quyết vấn đề.
Chẳng có một thay đổi nào đáng kể từ đấy đến nay. Thủ bản tác phẩm vẫn chưa được trả lại, sách không được in và tên tuổi vẫn bị bôi nhọ.
Tôi cũng đã báo trước Thư ký đoàn về việc sách của tôi sẽ được ấn hành ở ngoại quốc căn cứ vào sự phổ biến rộng rãi của các “bản chép tay” cuốn Trại ung thư ở Nga từ lâu đến nay. Nhưng Thư ký đoàn đã không khuyến khích tạp chí Novy Mir đăng tải nó mà còn ngăn cản. Chi hội các nhà văn xuôi của Hiệp hội các Nhà văn ở Mạc Tư Khoa phần II cuốn truyện.
Cho nên, sau một năm trời lãng phí, chuyện phải đến đã đến.
Và hôm trước đây; phụ trang văn chương báo Times đã đăng vài chương cuốn Trại ung thư. Rất có thể có những tác phẩm khác nữa sẽ bị ấn hành ở ngoại quốc và cũng có thể là những ấn phẩm ấy dựa vào những bản văn tác phẩm không chính xác, chưa được sửa lại.
Những chuyện đã xảy ra trên đây buộc tôi phải trình bày với các giới văn nghệ nội dung những lá thư, những lập luận của tôi trước đại hội ngõ hầu nêu lên rõ ràng lập trường và trách nhiệm của Thư ký đoàn Hiệp hội các Nhà văn ngày 22 tháng 9 năm 1967. Bản văn này do chính tay tôi ghi chép. Tuy không hoàn toàn chính xác từng câu từng chữ, bản văn này đã phản ảnh trung thực sự thực và có thể được coi là một tài liệu đầy đủ trước khi bản văn chính thức được ấn hành.
Ngày 16-4-1968
Tài liệu đính kèm:
Thư gửi các vị Thư ký đoàn của Hiệp hội các Nhà văn
Biên bản cuộc họp Thư ký đoàn ngày 22 tháng 9 năm 1967
Thư gởi Thư ký đoàn ngày 1 tháng 12 năm 1967.
Thư gởi Thư ký đoàn Hội các Nhà văn, hội viên và các tạp chí văn nghệ
Kính gởi Thư ký đoàn Hội các Nhà văn
Tòa soạn Tạp chí Novy Mir
Tòa soạn Literaturnaia Gazeta
Các Hội viên Hội các Nhà văn
Tôi được xem tại Tòa soạn Novy Mir bức điện văn sau đây gởi ông chủ nhiệm:
IMO. 177 Francfort sur le M. – 16h20 M.A.I gởi Tvardovsk, tạp chí Novy Mir.
Cho bạn hay là Ủy ban An ninh Quốc gia đã gởi sang Tây phương qua trung gian của Viktor Louis một bản sao cuốn Trại ung thư để ngăn cản Novy Mir ấn hành cuốn này.
“Chúng tôi đã quyết định ấn hành nó tức khắc”.
Tòa soạn tạp chí Grami
Là tác giả, tôi đã nhất quyết phản đối việc ấn hành cuốn Trại ung thư dù nhà xuất bản là tạp chí Grami hoặc bất kỳ một nhà xuất bản nào đã được Viktor Louis đến điều đình.
Tuy nhiên, tính chất khiêu khích và phá hoại của bức điện văn đòi hỏi chúng ta phải làm sáng tỏ mấy điểm sau đây:
1. Có phải do chính tòa soạn Grami gởi bức điện nào cho tòa soạn Novy Mir hay do một người hoặc một cơ quan nào đó mượn tên tòa soạn tạp chí này. Việc này giải quyết không khó. Bưu điện Mạc Tư Khoa có thể nhờ cơ quan điện tín quốc tế hỏi lại bưu điện Francfort là biết.
2. Người có tên Viktor Louis là ai? Làm gì? Có phải y đã mang bản thảo cuốn Trại ung thư ra khỏi Liên Xô hay không? Y còn trao cho ai nữa? Có ai khác nữa, ở vùng khác, đe dọa sẽ in nó nữa không?
Nếu Thư ký đoàn Hội các Nhà văn coi việc này có một tầm quan trọng đáng lưu ý, nếu quan niệm rằng Hội có trách nhiệm tìm hiểu sự thực và ngăn cản việc ấn hành cuốn Trại ung thư cũng như mọi tác phẩm của người Nga ở ngoại quốc.
Thì kính xin quý vị giúp tôi tìm hiểu sự thực nhanh chừng nào hay chừng nấy.
Chuyện kỳ cục này khiến cho chúng ta phải liên tưởng và suy nghĩ đến những con đường quanh co và tăm tối của những tác phẩm – do các nhà văn Nga viết – lại đem ra ngoại quốc. Theo tôi sự kiện vừa qua là một sự cảnh cáo cấp thiết:
Văn nghệ không thể bị đẩy đến chỗ chỉ là những món hàng có lợi cho những tay buôn lậu có thông hành. Tác phẩm của nhà văn Nga phải được ấn hành trong nước Nga và không thể là một thứ hàng đem giao cho các nhà xuất bản ngoại quốc.
A. Soljenitsyne
18-4-1968
Giải Nobel và văn nghệ giới Việt Nam
Giá trị văn học thế giới tự do hầu như định đoạt bằng cái giải thưởng Nobel đối với các nhà văn ngày nay vậy; tuy nhiên có những tác phẩm bên kia bức màn sắt được trao tặng giải thưởng này.
Và những nhà văn chiếm giải như thế hầu như là luôn luôn bị các hội đồng văn hoá của chính quyền Xôviết lên án gắt gao, các tác giả đều bị khép vào các tội chính trị, phá hoại chế độ, phạm vi tổ quốc, hay có lợi cho tư bản ngoại trừ một vài người, như Mikhail Cholokhov, nhà văn chiếm giải Nobel mà chế độ đề cao hơn các nhà văn khác.
Sự thật thì có những tư tưởng gia lỗi lạc, những nhà văn hoá, triết gia lớn thỉnh thoảng từ chối giải Nobel, như Jean Paul Sartre chẳng hạn, giải thưởng Nobel thường được giao cho các nhà văn Anh, Mỹ, Pháp hơn là cho Đông phương. Một vài người như Tagore của Ấn Độ, Kawabata của xứ mặt trời mọc chỉ là một vài vì sao le lói bên cạnh những tiếng tăm bay dậy mịt mù André Gide, Albert Camus v.v… Trong các năm gần đây dường như muốn cho văn học có tiếng nói, dù là tiếng nói đơn thuần, nhỏ nhoi của kẻ vừa thoát xiềng xích nô lệ, bại vong, được lên tiếng bày giải thân phận mình. Khía cạnh đó có lẽ được nêu lên trong các buổi hội nghị về văn hoá của các cụ Hàn lâm Thụy Điển, đó cũng là một lý do rất giản dị, của thứ tinh thần bình đẳng tương trợ. Hay là các cụ Hàn nọ, đã chán cái thứ văn nghệ Âu Mỹ đầy dẫy dục tính, cả thứ dục tính sâu thẳm nhất trong lĩnh vực siêu hình, các cụ Hàn này quay về tìm các chất liệu tươi mát của văn hoá Á đông.
Nói như vậy không có nghĩa là văn nghệ hay văn học Việt Nam, trên lĩnh vực tư tưởng thấp kém hơn văn học nghệ thuật của thế giới. Cả về văn, thơ và các tác phẩm triết học xưa nay. Nói như thế cũng không có nghĩa là dựa theo lịch sử chiến đấu bốn ngàn năm của dân tộc đâu.
Thứ nhất là đằng sau những vần thơ lục bát, vòm tư tưởng của nghệ thuật ẩn hiện, không cách gì người ngoại quốc có thể cảm thông đến được.
Năm nay các cụ Hàn Thụy Điển vừa gây ra xôn xao dư luận trong giới văn nghệ miền Nam với một văn thư gởi cho Hội Văn bút đề nghị hội này chọn giùm tác phẩm gởi đi dự giải Nobel.
Hội Văn bút từ lâu đã tham gia nhiều cuộc viễn du mang chuông đi đánh xứ người, nhất là các cụ Vũ Hoàng Chương, Thanh Lãng, sau này thêm một số nhân tài mới dự Hội Văn hoá ở Đại Hàn với các anh Nguyên Sa, Trần Dạ Từ, Nguyễn Thị Hoàng v.v… Riêng nhà thơ Nguyên Sa về đã có bài tường thuật lai rai đăng ở báo Trình bày với các câu chuyện… Đông du ký.
Sự thật thì chẳng ai rõ lắm về các hoạt động của các nhà văn ra ngoại quốc, những thành quả thiếu phổ biến, không được chính quyền lẫn báo chí tư nhân quan tâm.
Vì vậy mà các giới văn nghệ trẻ, tương lai mù mịt ở xứ ta vẫn mù tịt với các buổi hội nghị, và không được theo dõi các diễn biến tốt xấu của các nhân vật đi dự hội nghị về văn hoá, có thể nói đối với quốc tế họ là đại diện cho các nhà văn nhà thơ Việt. Còn ở Việt Nam thì khác.
Mãi chờ một vài sự bàn tán, ít ra cũng bàn tán về văn học nghệ thuật ở các xứ dầu sôi lửa bỏng này, của văn nghệ giới, chính quyền cũng không hề do đó để gây nên một vài phong trào yêu nghệ thuật, phổ biến và nâng đỡ nghệ thuật. Nghĩa là công tác đi về ăn ở của các nhà văn, của Hội Văn bút, những kết quả tốt xấu, những tương lai hậu quả về văn hoá của những người làm văn hoá không được mấy chú trọng, mặc dù văn học nghệ thuật là sinh khí của dân tộc.
Cho đến nay sự hoạt động văn hoá của Hội Văn bút đã gây được một sự chú ý của các cụ Hàn Thụy Điển. Giải Nobel rất quan trọng, rất tăm tiếng với địch với bạn nêu cao danh nghĩa Việt Nam với quốc tế cũng không nghe có một tiếng nói, một góp sức nào tạo nên hoàn cảnh thuận tiện cho những nhà văn chân chính.
Lịch sử Việt Nam không phải chỉ tiến triển ở chiến tranh, chiến tranh càng khốc liệt, thì dân tộc càng gian lao nguy hiểm và chết chóc hận thù, lịch sử dân tộc càng nhờ văn hoá đi lên, những kẻ yêu quê hương phải là những nhà văn hoá chân chính.
Không phải dân tộc Việt có bao nhiêu ngàn năm lịch sử, phải cần ở một cái giải Nobel mới sáng tỏ giá trị văn học nghệ thuật của mình. Nhưng dù sao giải Nobel hay các tác phẩm dự giải Nobel của một thế giới cần sự phô trương, dù là phô trương tài đức cũng nên xem nó như là một cuộc triển lãm cần phải có sự chăm sóc.
Văn nghệ giới chín mươi chín phần trăm là chịu thiệt thòi trước bạo lực, trước thế giới khuynh đảo của kim tiền, chỉ có những kẻ buôn bán văn nghệ phẩm, những kẻ áp-phe giỏi trong khi làm văn nghệ mới đủ sức vươn lên, để có tiếng vang tạo nên thế lực để được dự giải Nobel, ngoài ra những văn nghệ sĩ lớn lao không bao giờ được nhìn thấy và không bao giờ được sự nâng đỡ xứng đáng, chỉ được những sự chế giễu thiệt thòi.
Nguồn: Trần Tử. Alexandre Soljenitsyne: Tác phẩm – Con người và Cuộc đời. Tủ sách Nhân Loại Mới, 1971.
Alexandre Soljenitsyne: Tác phẩm – Con người và Cuộc đời
Phần 4: Biên bản cuộc họp tranh luận của Thư ký đoàn Hội Liên hiệp các Nhà văn Liên Xô
Hiện diện: 30 vị thư ký trong tổng số 42 vị hiện diện trong cuộc họp.
Đồng chí Malentev, Ủy viên Ủy ban Văn hoá Trung ương Đảng cũng có mặt tham dự phiên họp.
Đệ nhứt Thư ký K. A. Fedine chủ tọa buổi họp.
Chương trình nghị sự: Thảo luận về mấy lá thư của nhà văn Alexandre Soljenitsyne gởi Thư ký đoàn và Đại hội Hội các Nhà văn.
Cuộc họp khai mạc hồi 13g và bế mạc hồi 18g ngày 22 tháng 9 năm 1967.
Sau những thủ tục nghi lễ, chủ tọa mở lời:
FEDINE: Tôi hết sức bất mãn với lá thư thứ hai của Soljenitsyne (về sau tên này xin viết tắt là A.S.) những lý do A.S. nêu ra để chứng minh rằng vấn đề của ông ta đã bị xếp lại rất yếu ớt mà còn bao hàm ý nghĩa nhục mạ chính cả Hội các Nhà văn chúng ta.
Ba tháng rưỡi đâu có phải là một thời gian quá dài để xét toàn bộ thủ bản tác phẩm của A.S.? Vậy mà luận điệu của lá thư kia chất đầy đe dọa và các dữ kiện đưa ra có tính chất uy hiếp rõ rệt.
Trong lá thư thứ hai, A.S. đòi chúng ta phải lo cho tác phẩm của anh ta được xuất bản cấp kỳ. Trong lá thư này, A.S. đã trình bày hoàn cảnh bi đát của anh ta với đầy đủ chi tiết làm cho mọi người phải xúc động thương cảm. Nhưng đồng thời, cũng trong lá thư ấy, tác giả lại mạt sát tất cả chúng ta.
Ấn hành tác phẩm của A.S. là một vấn đề phức tạp như thế nào? Không một ai ở đây là không biết rõ cũng như không một ai ở đây phủ nhận tài năng của A.S.! Nhưng luận điệu của anh ta lại hết sức bất công.
Đọc lá thư, tôi có cảm tưởng là mình bị tát tai vì lá thư đó cho rằng chúng ta ở đây đều bất tài, không đại diện nổi cho giới trí thức và nghệ sĩ. Rốt cuộc, chính A.S. đã làm chậm trễ và ngăn cản việc giải quyết vấn đề, vì tham vọng quá lớn. Đọc lá thư của A.S., tôi thấy nó không có một chút dấu vết nào của tình đồng nghiệp, giữa nhà văn.
Cho nên, dù muốn dù không, ngày hôm nay chúng ta cũng phải đề cập đến lá thư này.
SOLJENITSYNE: (đứng lên xin phép được nói vài lời tuyên cáo viết sẵn): Tôi được biết rằng trong cuộc họp để xét cuốn Trại ung thư, các vị thư ký lại được đề nghị xét cả cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng, một kịch bản của tôi nhưng tôi đã vứt xó không đọc lại cách đây chừng 19 năm và hủy mọi bản khác đi, trừ cái bản duy nhất mà người ta đã tước đoạt rồi đem phổ biến. Tôi đã giải thích đi giải thích lại mãi rằng: Tác giả của nó không phải là Alexandre Soljenitsyne mà là tên tù mang thẻ đính bài số S. 232, viết trong những năm xa xưa tại một nơi mà người tù chính trị không có qua một chút hy vọng tranh thủ được sự tự do, không có qua một tổ chức nào – kể cả Hội các Nhà văn – đứng lên chống lại – bằng lời lẽ hay hành động – chủ trương đàn áp các dân tộc. Ngày hôm nay, tôi không thể chịu trách nhiệm về kịch bản này cũng như nhiều lần nhà văn ở đây không muốn ai nhắc đến các bài diễn văn và tác phẩm viết hồi 1949. Bi kịch ấy đã phản ảnh tình trạng tuyệt vọng của tù nhân các nhà lao thời bấy giờ. Lương tâm con người ở đó, lúc bấy giờ, bị sự sống chi phối hoàn toàn và chắc là con người ở đó sẽ không cầu nguyện cho những kẻ đã gây ra tội ác đàn áp được bình yên! Vở kịch ấy không có liên quan gì đến các tác phẩm viết trong giai đoạn này. Những người lôi kịch phẩm ấy ra để xét muốn gạt bỏ sự nghiên cứu khách quan và vô tư truyện Trại ung thư. Mặt khác, tôi xin phép nói rằng là đạo đức nghề nghiệp của nhà văn sẽ bị thương tổn khi đem một tác phẩm tước đoạt trong nhà riêng của người ta ra mổ xẻ. Tác phẩm này không phải là tác phẩm kia. Việc mổ xẻ cuốn Nhóm thứ nhất là một vấn đề riêng, không liên quan đến việc thảo luận cuốn Trại ung thư.
KORNESCHOUK: Tôi cũng có một câu hỏi muốn đặt ra với A.S. Bạn nghĩ sao về sự tuyên truyền ồ ạt của đối phương khi lá thư thứ hai được tung ra? Tại sao Soljenitsyne lại không chọn một lập trường xa cách đối phương hơn nữa? Tại sao A.S. lại im lặng trước những luận điệu của họ? Tại sao Radios của đối phương lại phổ biến lá thư ấy trước cả đại hội.
FEDINE: Mời A. S. trả lời.
SOLJENITSYNE đáp rằng anh không phải là học trò để phải trả lời từng câu một; đến lượt, ông cũng sẽ lên diễn đàn như mọi người.
FEDINE: Đề nghị mọi người đặt câu hỏi để cho A.S. trả lời chung một lượt.
BAROUZINE: Dù Soljenitsyne phản đối việc thảo luận cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng, chúng ta cũng phải thảo luận đến. Tôi không hiểu vì sao mà A.S. lại nhắc đến vở kịch ấy?
SALINSKY: Tôi yêu cầu A.S. cho biết rõ: thủ bản tác phẩm và giấy tờ bạn bị tước đoạt lúc nào? Từng trường hợp nào? Ai tước đoạt? Sau đó, bạn đã đòi lại chưa? Đòi với ai, có quen không nào?
FEDINE: Yêu cầu A.S. trả lời những câu hỏi trên.
SOLJENITSYNE nhắc lại ý kiến cũ, được một số người trong phòng họp ủng hộ…
FEDINE: Nhưng Thư ký đoàn cũng chỉ có thể thảo luận khi được nghe giải đáp những câu hỏi trên.
Một số người khác trong phòng họp: A.S. cũng có quyền từ chối, không thảo luận với Thư ký đoàn… có muốn như vậy thì nói lên đi.
SOLJENITSYNE: Vậy tôi xin trả lời. Radios ngoại quốc phổ biến lá thư sau – sau, không phải là trước – ngày Đại hội và cũng không phải là phổ biến liền sau ngày Đại hội (rồi rút ra một tờ giấy đọc tiếp).
Ở đây, người ta dùng tiếng “ngoại quốc” với một ý nghĩa phóng đại, cho ý kiến của ngoại quốc như là ý kiến của thượng cấp, rất quan trọng, cần phổ biến cho sâu rộng trong quần chúng. Điều này quá dễ hiểu đối với những người dùng phần lớn thì giờ ở nước ngoài rồi về trút vào văn chương Nga những ý niệm hời hợt bề ngoài, của nước ngoài. Với tôi, điều này thực kỳ cục. Tôi chưa bao giờ ra nước ngoài và hoàn cảnh đâu có cho phép tôi biết đến ngoại quốc. Tôi không hiểu vì sao người ta lại băn khoăn vì những gì của ngoại quốc mà không xúc động vì những gì liên quan đến nước nhà, đến dư luận của quần chúng xung quanh ta.
Tất cả đời sống của tôi là ở đây: trên mảnh đất quê hương. Tôi chỉ lắng nghe những niềm đau của tổ quốc và viết về những niềm đau ấy.
Tại sao tôi phải nhắc đến cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng? Thiết tưởng nội dung lá thư tôi gởi Hội đã nói lên rõ ràng rồi còn gì nữa: tôi phản đối sự tịch thu bất hợp pháp; sự phổ biến tác phẩm mà không có sự ưng thuận của tác giả. Về các thủ bản tác phẩm và tài liệu giấy tờ, tôi đã viết thư kêu gọi Trung ương Đảng từ 1965 đến nay. (Ngừng một chút để lấy ra một tờ giấy khai, A.S. đọc tiếp.)
Mới đây, một luận điệu mới sáng tác có liên quan đến sự tịch thu các tác phẩm của tôi được tung ra, luận điệu ấy như sau:
Người giữ các tác phẩm và tài liệu của A.S., Tevsh có liên lạc với một người tên tuổi được giữ kín. Người này bị Sở Quan thuế (sở quan thuế nào không ai biết) bắt và sở này giữ những gì cũng là một bí mật! Nhưng không tìm được những gì cần tìm của A.S. nơi Tevsh vì A.S. đề phòng quá kỹ.
Tất cả những chi tiết nói trên đều bịa đặt hoàn toàn. Sự thực như sau:
Cách đây hai năm, Tevsh – bạn tôi – có bị thẩm vấn nhưng không có một người nào hỏi anh về cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng. Tài liệu của tôi bị mất, nghĩa là bị tịch thu: bị chặn đường ngoài phố, sau khi đã rình rập theo dõi tôi từ nhà, có khi bị chặn ngay trước cửa để xét… nghe trộm điện thoại v.v… Nghĩa là bị tịch thu bằng những phương pháp quen thuộc, chẳng ai lạ gì. Có lạ chăng là khi một lập luận bôi nhọ vừa được tung ra là cả nước này biết rồi. Bằng cớ là lập luận trên đã được ông Potemkine phổ biến cho một cử tọa đông đảo và một vị thư ký của Hội ta thì đem ra cho các nhà văn ở Mạc Tư Khoa biết. Vị thư ký này cũng cho các văn hữu ở thủ đô hay rằng chính tôi đã phải thừa nhận sự thực trên, mặc dù Hội không có chất vấn gắt gao. Do đó, nếu tôi được cho biết là luận điệu nói trên đã được phổ biến rộng rãi thì đấy cũng là chuyện thường.
Tiếng một người nào đó trong phòng họp: Tòa soạn Novy Mir nhận đăng hay loại bỏ cuốn Trại ung thư?
ABDOMOMOVNOV: Tòa soạn Novy Mir phải xin phép cơ quan nào mới được đăng cuốn truyện ấy? Ai có cái quyền này?
TVARDOVSKY (Chủ nhiệm Novy Mir, một nhân vật xuất sắc của văn giới Nga, hai giải thưởng Staline và nguyên Ủy viên Trung ương Đảng): Thông thường, chính tòa soạn tự quyết định lấy việc in hay không in một tác phẩm. Nhưng với A.S., một trường hợp đặc biệt, quyền quyết định thuộc Thư ký đoàn của Hội.
VORONKOV: A.S. chưa bao giờ viết thư thẳng cho Thư ký đoàn. Sau khi nhận được lá thư của A.S. gởi đến, anh em trong Thư ký đoàn đã định gặp Soljenitsyne để thảo luận và cuối cùng sẽ thỏa mãn những đòi hỏi của ông ta… Nhưng lá thư của A.S. được báo chí bẩn thỉu của Tây phương đăng tải mà Soljenitsyne lại nín thinh không hề có một phản ứng nào…
TVARDOVSKY (ngắt lời diễn giả): … Cũng như vậy, Hội các Nhà văn đã có phản ứng nào đâu!
VORONKOV (nói tiếp khi Tvardovsky nói hết câu): … Thì ý muốn thỏa mãn các đòi hỏi ấy biến mất, khi nhận được lá thư thứ hai của A.S. anh em trong Thư ký đoàn chúng tôi thấy rõ đấy là một tối hậu thư, một sự nhục mạ, không xứng đáng với Hội. A.S. ám chỉ đến một vị thư ký Hội đã phổ biến cái mà anh ta gọi là “luận điệu bôi nhọ” ông ta với các nhà văn ở Mạc Tư Khoa. Vị thư ký ấy là tôi. Anh Soljenitsyne, người ta đã mách cho anh biết nhanh đấy, nhưng lại mách sai. Về việc tịch thu, tôi chỉ nói trong buổi họp ấy rằng những thủ bản tác phẩm bắt được đúng là của anh, dù nhà anh chưa bị xét lần nào. Nghĩa là tôi đã nói những điều chẳng khác gì những điều anh đã nói. Sau lá thư, tự nhiên chúng tôi phải tìm kiếm và đòi phải có mọi tác phẩm của anh. Thế thôi! Tôi tưởng chỉ có vậy mà anh đã dùng cái ngôn ngữ đã dùng để nói với các bạn văn học (chỉ chữ Pháp: camarade de plume) cùng là văn sĩ như anh thì đâu có phải!
Còn Alexandre Troplimovitch (tức TVARDOVSKY) nữa! Nếu anh thấy nên đăng cuốn (Trại ung thư) và tác giả đã bằng lòng cho anh sửa chữa thì anh cứ đăng đi! Thư ký đoàn có can dự gì vào việc ấy đâu.
TVARDOVSKY: Anh quên vụ Beck rồi sao? Lúc bấy giờ Thư ký đoàn đã khuyến cáo và can thiệp mạnh mẽ khiến cho truyện của Beck đâu có được đăng mặc dù Novy Mir đã loan báo nhiều lần.
(Chú thích: Tòa soạn Novy dưới quyền của TVARDOVSKY đã có một quan điểm rộng rãi. Truyện “Công việc mới” của Beck đã được tòa soạn chấp nhận nhưng Thư ký đoàn Hội các Nhà văn chống lại.)
VORONKOV: Nơi đây, chỉ có vấn đề của người công dân Alexandre Soljenitsyne là đáng chú ý. Tại sao A.S. không phản ứng trước luận điệu tuyên truyền hèn nhát của tư bản? Tại sao A.S. chống đối và cư xử với chúng ta như thù nghịch?
MOUSREPOV: Tôi cũng muốn hỏi A.S. một câu: Tại sao A.S. lại dám cả gan viết: “Có những đồng chí ở cấp cao nhất đã đau khổ và tiếc đứt một khi tôi không chết trong nhà tù”. Sao anh táo gan thế?
STARIPOV: Thư của A.S. được đưa ra ngoài bằng ngã nào?
FEDINE: Yêu cầu A.S. trả lời.
SOLJENITSYNE: Phải! Tôi được người ta chú ý rất nhiều và nói đến rất nhiều. Có một vị hiện đang giữ một chức vụ đặc biệt quan trọng ở Trung ương đã công khai tuyên bố rằng ông rất tiếc không được dự vào bộ ba đã xử tội năm xưa; nếu được đóng vai một ông tòa, ông đã xử bắn tôi rồi… Tôi không tiện nêu tên tuổi vị này ra đây nhưng chắc chắn là tôi không dám đặt ra chuyện…
Tôi muốn nói đến việc Hội nghị này đã giải thích lá thư của tôi như là một tối hậu thư: “Hoặc ta phải xuất bản trước, hoặc Tây phương xuất bản trước”.
Nếu muốn hiểu như vậy thì xin các bạn hiểu cho rằng không phải là tôi hạ tối hậu thư cho các bạn, tôi đâu dám; chính đời sống đã hạ tối hậu thư cho tất cả chúng ta, nghĩa là cho các bạn và cả cho tôi nữa! Bởi lo lắng vì việc này cho nên tôi đã trình rằng sự phổ biến của hàng trăm cuốn sách đánh máy làm tôi lo ngại (con số này chỉ đúng tương đối mà thôi, tôi không đếm kỹ được).
TIẾNG NHIỀU NGƯỜI: Tại sao có chuyện lạ như vậy nhỉ?
ALEXANDRE: Sách của tôi có tính chất đặc biệt. Mỗi khi có người quen đến nằn nì mượn sách và mượn được là họ đem về đánh máy để đọc và giữ lại một bản, các bản còn lại họ đem cho người khác mượn, vậy là cuốn sách đánh máy tăng lên cách đây một năm. Phân bộ Mạc Tư Khoa đã được phần đầu của truyện. Tôi rất ngạc nhiên vì đồng chí Voronkov đã nói là kiếm không đâu ra, phải nhờ Sở An ninh KGB kiếm hộ cho.
Cách đây ba năm, cuốn Mấy truyện nho nhỏ của tôi – thơ viết thành văn xuôi – cũng đã được phổ biến như sấm sét: Vừa cho một người mượn đọc một cuốn, chẳng bao lâu sau tôi đã thấy cuốn đó có mặt ở khắp nơi trong nước.
Sau đó, chính Novy Mir đã nhận được một lá thư từ Tây phương gởi tới cho hay là cuốn Truyện nho nhỏ của tôi đã xuất bản ở bển rồi.
Chính vì muốn ngăn cho truyện Trại ung thư khỏi bay sang Tây phương xuất bản trước, tôi đã khẩn thiết yêu cầu Thư ký đoàn giải quyết vấn đề. Tôi rất ngạc nhiên khi Thư ký đoàn đã bỏ lơ, không phản ứng gì hết khi nhận được thư của tôi, trước khi Tây phương đăng tải.
Đồng chí VORONKOV đã nói đến danh từ bạn văn học đẹp đẽ? Vậy mà tất cả các bạn văn học đã điềm nhiên tọa thị khi thấy tôi bị theo dõi, làm khó dễ, bôi nhọ và đàn áp trong gần ba năm vừa qua.
TVARDOVSKY: Không phải là tất cả đều ngồi yên…
SOLJENITSYNE: Các biên tập viên báo chí – và đồng chí của tôi – đã không chịu đăng lời biện minh của tôi. (A.S. dừng lại, lấy một tờ giấy ra đọc.)
Tôi không nói đến chuyện sách của tôi bị cấm trong nhà tù. Ở đó, những loại sách như vậy làm sao lọt vô qua mấy lần khám xét; hơn nữa, sách của tôi lại thuộc về loại bị cấm triệt để.
Nhưng tại sao sách của tôi vẫn bị cấm cả trong thời gian mà các tạp chí đều khen ngợi cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch và loan báo rằng “các biện pháp cấm đoán như vậy không thể diễn lại được nữa”! Mới đây, cuốn này lại bị rút ra khỏi các thư viện công cộng một cách lặng lẽ. Tôi có nhận được một số thư ở nhiều nơi cho hay rằng sách của tôi không được đem ra cho mượn nữa. Nhân viên cho mượn sách đã được chỉ thị trả lời cho những người mượn cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch rằng sách ấy đang được đem đóng lại hoặc đang được xếp lại theo một hệ thống thư mục khác, lấy ra không được v.v… Tóm lại, cấm không cho độc giả mượn cuốn ấy nữa.
Tại thư viện quận, người ta đã bí mật rỉ tai cho tôi – khách quen lâu năm của thư viện – hay rằng sách của ông đã bị rút đi rồi, theo lệnh trên. Một cô thư ký của thư viện muốn tặng cho tôi một cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch để làm kỷ niệm nhưng một bạn đồng nghiệp đã chặn lại kịp thời: “Chết! Cuốn này đã bị cấm rồi, chị không biết sao? Tất cả mọi cuốn sách này đều được đưa vào khu đặc biệt, để riêng! Biếu cuốn này nguy lắm đấy!”. Tôi tưởng cũng nên nhắc lại một chút là cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch đã được tạp chí Roman Gazeta đăng tải!
Cố nhiên là không phải tất cả mọi thư viện đều rút hết sách của tôi; vẫn có thể tìm thấy cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch tại một số thư viện. Nhưng ngay tại tỉnh Rjazan, bà con láng giềng của tôi đã cho hay là lần nào đến mượn cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch họ cũng bị nhân viên thư viện chối quanh và cuối cùng không ai mượn được hết!
Từ bao giờ đến nay, luận điệu dùng để bôi nhọ thiên hạ bao giờ cũng dồi dào; luôn luôn có sẵn luận điệu bôi nhọ thiên hạ mới mẻ! Nhưng khi phải đóng vai trò nạn nhân của một chiến dịch mới mẻ, đặc biệt mới mẻ ở điểm các luận điệu và kế hoạch ấy phát triển từ các giới cao cấp, không ai khỏi bàng hoàng sửng sốt! Như luận điệu bôi nhọ tôi đã có một tiếng vang mạnh mẽ vì nó được truyền đi thẳng băng không gặp một cản lực nào. Đến nỗi người ta đã quả quyết xác định rằng Soljenitsyne đã bị bắt làm tù binh hồi thế chiến và cộng tác với bọn Quốc xã. Chưa hết! Ở Bolchevs, trong mùa hè năm ngoái, cán bộ tuyên truyền đã giảng trong các lớp chính trị rằng Soljenitsyne bây giờ mang quốc tịch mới sau khi trốn sang Ai Cập. Tất nhiên luận điệu này sẽ được các đảng viên dự lớp huấn luyện đưa về phổ biến rộng ra nữa…
Ngay vùng sát nách tại thủ đô, luận điệu này đã được phổ biến xuống đến hạ tầng thôn xóm, khu phố. Trong khi đó, ở Solikamsk, ông thiếu tá Chestakov lại nói rằng tôi đã lợi dụng một chuyến du lịch để trốn sang Anh. “A.S. trốn sang Anh” khi một vị Phó Ủy viên của Ban Chính trị đã khẳng định như vậy, còn ai dám nghi ngờ gì nữa? Chestakov còn nói thêm: “Soljenitsyne đã bị cấm viết một cách chính thức!”. Lời tuyên bố thứ hai này của ông quan tuy thế mà gần đúng sự thực!
Các giới chức cao cấp bấy lâu nay vẫn quả quyết rằng: “Soljenitsyne đã được hưởng biện pháp khoan hồng, tha trước thời hạn, tha không có lý do”.
Có lý do hay không? Văn khố Tòa án Tối cao còn đó. Chỉ việc xem các văn kiện án từ đó: “Ban phụ trách văn án của những công dân được phục vụ nơi kho hồ sơ Công an Quân pháp là biết ngay tôi được thả có lý do hay không có lý do! Vả lại tất cả các tài liệu này đã đệ trình Thư ký đoàn rồi.
TUARDOOSKYS: Tài liệu này còn xác nhận cả lý lịch của sĩ quan pháo binh Soljenitsyne nữa!
ALEXANDRE SOLJENITSYNE: Biểu thức chính trị và tư pháp “trước thời hạn” ở đây nghe thực mỉa mai! Bị xử tám năm tù, ở hết tám năm cộng thêm một tháng nửa tại “Trung tâm Chọn lọc tù”… Đây là một chi tiết vụn vặt không nên nhắc đến nếu như tôi không bị coi là người được tha trước thời hạn! Tôi xin nhắc lại rằng sau thời gian một tháng kia, người ta không thèm xét xử gì hết, chụp luôn cho tôi một bản án “An trí và quản thúc vô thời hạn”. Mang bảng án “An trí vô thời hạn” này, tôi đã phải sống kiếp lưu đày ba năm trời và được tha nhờ Đại hội XX và do đó, được gọi là tha trước thời hạn.
Biểu thức “tha trước thời hạn” này đã diễn tả tuyệt đúng quan niệm chắc nịch của thời 1949-1953. Đã bị tù mà không chết trong bốn bức tường cao nhà ngục, không ra khỏi tù bằng cách bò bằng đầu gối là được trả tự do “trước thời hạn”! Bị xử an trí vĩnh viễn thì những gì xảy ra trước khi chết, với tù nhân đều là “trước thời hạn” cả!
Ngài cựu Tổng trưởng Semichastry vốn sính văn chương, cũng đã hạ mình xét đến trường hợp của tôi. Sau đây là một lời phán của ông ta, một lời phán xét nghiêm trang ít chất khôi hài:
“Alexandre Soljenitsyne có tội ủng hộ bọn tư bản về mặt vật chất tiền bạc vì anh ta đã không lãnh tác quyền những cuốn sách xuất bản ở đâu đó ngoài thế giới Tây phương”!
Theo tôi hiểu, chỉ có cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch mà thôi, không có cuốn nào khác. Nếu các bạn có biết, tiếc gì các bạn lại không chỉ giùm cho tôi? Sống một mình ở Rjazan, tôi chẳng được biết gì hết ở bên ngoài!
Đối với vụ này, cơ quan nào hay Ủy ban Ngoại vụ Hội các Nhà văn phải chịu trách nhiệm mang tác quyền về! Còn tôi chưa bao giờ tôi được nghe nói “Bổn phận của mày là phải lấy tiền ấy về!”. Đây quả là một thứ chuyện hoạt kê, tiếu lâm!
Semichastry không còn giữ chức Tổng trưởng nữa nhưng ý kiến của ông vẫn được nhiều người tán thành tin tưởng. Như các nhân viên tuyên truyền của Hội Truyền bá Kiến thức Khoa học Liên Xô chẳng hạn, vẫn bảo vệ ý kiến nói trên. Một tỷ dụ:
Ngày 16-7-1967, tại Câu lạc bộ Sverdlovsk của Hội nói trên, ông A.A. Freifeld đem lập luận “A.S. ủng hộ vật chất cho tư bản” ra thuyết. Hai ngàn thính giả đều há hốc miệng ra nghe Freifeld và nghĩ bụng: “Quái thiệt! Thằng cha Soljenitsyne này quái quỷ thực! Một đồng Kopeach dính túi cũng không có, cả đời chưa ra khỏi nước Nga mà nó vẫn ủng hộ được tiền bạc cho phe tư bản thì quái thiệt”.
Những luận điệu như vậy đó – diễn “hết chỗ nói” – vẫn được đưa ra kể đi kể lại mãi; những người kể đã không bị chỉ trích sửa sai mà còn được khen thưởng nữa.
Nói gì đâu xa xôi, ngay tại trụ sở này của Hội, đã có một cuộc họp trang nghiêm diễn ra trong ngày 12 tháng 6 vừa qua. Vậy mà ngay tại Mạc Tư Khoa, đã có một luận điệu được tung ra, mô tả diễn biến cuộc họp sai với sự thực hoàn toàn. Cứ theo luận điệu ấy thì Tuardousky đã chỉ trích Soljenitsyne một cách kịch liệt, vừa nói vừa đấm tay xuống mặt bàn thình thình! Tất cả các bạn đi dự họp đều biết rõ đấy: Có gì đâu?
Ngay cuộc họp này, ai dám bảo rằng ngày mai nó sẽ không bị xuyên tạc? Chúng ta đã nghe phát biểu nhưng ai dám đảm bảo rằng ngay sự phát biểu này sẽ được ghi lại đúng đắn?
Vậy thì, cùng là bạn văn, cùng theo nghiệp bút nghiên, cho phép tôi trích đề nghị thứ nhất: “Hãy tả cuộc họp này thực trung thực, không thêm bớt xuyên tạc”.
Tôi chỉ có một mình cô độc, những kẻ bôi nhọ tôi có đến hàng vạn người. Dĩ nhiên tôi không thể tự vệ và cũng không biết trước được những luận điệu bôi nhọ tôi sau này có những gì nữa! Giá mai đây có người nói rằng tôi là phần tử bảo hoàng cũng không có gì là lạ.
SALYNSKY: Tôi muốn nói đến cuốn Trại ung thư. Tôi cho rằng phải xuất bản cho bằng được cuốn này vì nó là một tác phẩm có giá trị đích thực.
Đành rằng tác giả đã mô tả bệnh tật bằng ngôn ngữ y khoa xác thực, nhưng nó vẫn hỏng ở điểm làm cho độc giả bị sự sợ hãi ung thư – vốn là một căn bệnh của thời đại này – đè nặng. Dù sự sợ hãi này xét ra vô ý thức, khía cạnh này phải được cắt đi và thay thế một cách nào đó, cũng như khía cạnh ảm đạm của tác phẩm, khía cạnh ảm đạm thuyết “phơi-ơ-tông” (viết để đăng báo, khúc nọ tiếp theo khúc kia, hằng ngày) cũng phải được sửa lại!
Một điều đáng trách nữa là sự thăng trầm của các nhân vật bằng cách này hay cách khác đều bị buộc chặt với trại tập trung và đời sống bên trong các trại này!
Cuộc đời chìm nổi của Rostoglotov Roujanov coi là được đi! Nhưng tại sao cuộc đời Vadim, Chaloubine và nhất là cuộc đời của người binh sĩ cũng chìm nổi nốt? Tại sao? Cuối cùng,ta mới biết người lính đây không phải là một chiến binh thường mà là lính cảnh vệ gác trại.
Nói chung, nếu tôi hiểu không sai thì chú ý của cuốn truyện là môt tả thời cáo chung của một quá khứ buồn tẻ! Vậy thôi! Còn chủ nghĩa xã hội và luân lý của chủ nghĩa riêng tôi không thấy có gì bậy bạ hết. Soljenitsyne chỉ đáng ghê tởm khi anh cổ võ cho một chủ nghĩa xã hội vô luân. Cuốn truyện chỉ đáng lên án khi nó ca tụng chủ nghĩa Quốc xã hay chủ nghĩa xã hội quốc gia kiểu Tàu Mao Trạch Đông. Tôi nghĩ rằng mọi người đều có quyền suy nghĩ về chủ nghĩa xã hội và sự diễn biến của nó theo ý riêng mình. Cá nhân tôi, tôi cho rằng chủ nghĩa xã hội bị tác dụng của các quy luật kinh tế chi phối. Nhưng điều này có thể thảo luận được. (Rồi diễn giả yêu cầu Thư ký đoàn chống lại một cách quyết liệt những luận điệu bôi nhọ Soljenitsyne).
SIMONOV: Tôi không thừa nhận cuốn Nhóm thứ nhất và chống lại việc xuất bản cuốn này. Ngược lại, tôi tán thành việc xuất bản cuốn Trại ung thư. Không phải tôi thích tất cả mọi chi tiết trong cuốn này. Nhưng một cuốn sách đâu có cần phải thỏa mãn một người? Tác giả cũng cần phải chấp nhận một vài nhận xét về cuốn ấy nhưng cũng không bị bắt buộc phải nhận hết tất cả. Chúng ta cũng có trách nhiệm phải lên án những luận điệu bôi nhọ Soljenitsyne. Phải xuất bản một hợp tuyển truyện ngắn của Soljenitsyne với một lời tựa có hiệu lực đính chính những sai lầm về tiểu sử tác giả. Với tựa này sẽ thanh toán những sự bôi nhọ Soljenitsyne. Chính chúng ta phải thanh toán những luận điệu ấy, không phải anh ta. Tôi chưa đọc và cũng không muốn đọc cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng vì tác giả không muốn như vậy!
TVARDOVSKY: Hoàn cảnh của Soljenitsyne không cho phép anh ta lên tiếng. Chính chúng ta - Hội các Nhà văn, chúng ta phải đưa ra một thông cáo lên án những lập luận bôi nhọ anh ấy. Ngược lại, ta cũng phải nghiêm khắc cảnh cáo Soljenitsyne về cách thức không thể chấp nhận được mà anh ta đã dùng để nói với Đại hội qua việc lá thư gởi Đại hội cũng được gởi cho một số đông người. Tòa soạn Novy Mir không thấy có gì cản trở trong việc đăng tải truyện Trại ung thư với điều kiện phải sửa chữa một vài đoạn. Chúng tôi chỉ yêu cầu Thư ký đoàn tán thành hay ít nhất không phản đối việc này (rồi Tvardovsky quay sang yêu cầu Vorondov đưa bản văn dự thảo thông cáo của Thư ký đoàn soạn hồi tháng Sáu ra để Đại hội thông qua).
VORONDOV ngập ngừng: Một số người chúng tôi chưa định gì hết. Còn có người chống nữa mà!
FEDINE: Không! Chuyện như vậy đâu có được! Thư ký đoàn không thể cho ra gì hết, không cải chính gì hết. Có phải chúng ta cảm thấy, có phải chúng ta có mặc cảm phạm lỗi hay không? (nói với Tvardovsky) Có lẽ anh Alexandre Trophmovitch, anh cảm thấy có lỗi, nên mới thấy phải lên tiếng chăng?
TVARDOVSKY (giọng quả quyết và nói rất nhanh): Tôi ấy à? Không!
FEDINE: Không cần phải tìm những lý do nhân tạo để vẽ ra một bản tuyên cáo, tiếng đồn không đâu có đủ! Nhưng trong trường hợp này, nếu chính Soljenitsyne muốn nhân cơ hội mà giải quyết vấn đề thì lại khác. Bây giờ là lúc Soljenitsyne có thể phát biểu ý kiến một cách đàng hoàng, công khai (hướng về phía Soljenitsyne).
Theo ý anh, Alexandre Jsaevitch, một bản tuyên cáo của Thư ký đoàn phản đối lại những luận điệu bôi nhọ kia có lợi gì không? Trước hết anh phải lên tiếng phản đối các địch thủ Tây phương đã sử dụng tên tuổi của anh một cách khốn nạn. Dĩ nhiên cơ hội này, anh cũng có thể nói lên một vài điểm bất mãn mà anh, ngày hôm nay đã đưa ra cho Thư ký đoàn. Nếu văn kiện này có một lập luận và một ngôn ngữ khéo léo, chúng tôi sẽ cho đăng tải và sẽ giúp đỡ anh.
Muốn biện minh, anh phải đi theo đường này. Không có việc in tác phẩm của anh và cũng không có vấn đề mặc cả của anh! Chúng tôi được quyền đọc tác phẩm của anh được bao lâu? Ba tháng hay bốn tháng? Việc này ghê gớm lắm sao? Việc đáng ghê gớm là tên tuổi anh đã xuất hiện và bị sử dụng trong những công việc hạ cấp ở Tây phương.
KORNESCHOUK: Chúng tôi mời anh đến đâu có phải để sỉ vả mà để giúp đỡ anh thoát khỏi khó khăn, phức tạp này. Chúng tôi đã đặt các câu hỏi nhưng anh lại tránh né, thấy rằng tình hình diễn biến này là một trận đại chiến lớn vô cùng, bao trùm cả vũ trụ trong những điều kiện hết sức phức tạp hay sao? Chúng ta đâu có thể đứng ngoài được bằng các tác phẩm. Chúng ta phải bảo vệ Chính phủ, Đảng và nhân dân ta. Anh đã mỉa mai những người xuất ngoại bằng cách gán cho họ đi du hí! Ngược lại những người bị mỉa mai là chúng tôi – lại ra ngoại quốc để chiến đấu và khi trở về mệt đừ nhưng có cảm tưởng là đã làm tròn nhiệm vụ! Anh đừng tưởng rằng đã làm nhục được tôi bằng cách nhắc đến vấn đề viết lách. Tôi không viết được vì tôi đâu có phải đi để viết mà để phục vụ cho Ủy ban Bảo vệ Hòa bình Thế giới.
Chúng tôi biết là anh đã phải chịu đựng nhiều đau đớn! Nhưng không phải chỉ có một mình anh chịu. Có nhiều người, nhiều người khác không phải là anh, đã bị đi tù, kể cả những đảng viên cộng sản thâm niên. Từ nhà họ, họ đã đi thẳng ra mặt trận. Trong quá khứ, không phải chỉ có sự bất đồng mà thôi, còn có chủ nghĩa anh hùng nữa.
Nhưng anh đã không nhận thấy sự nổi loạn của anh phát xuất từ chỗ bị truy tố tư pháp. Cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng xấu xa bẩn thỉu bất chính mà lại được phổ biến để dân chúng đọc. Anh đã bị đem đi lưu đày trong trại tập trung chứ gì? Nhưng không phải bị năm 37, lúc chúng tôi đã đến đó. Nhưng lịch sử không có dừng lại!
Constantin Alexandrovitch (Fedine) đã nói phải lên tiếng tấn công sự tuyên truyền của Tây phương một cách công khai. Chiến đấu chống lại kẻ thù của xứ sở đi. Anh hẳn phải biết rằng trên thế giới có bom khinh khí? Và phải biết mặc dù các cố gắng bảo vệ hòa bình của chúng ta, Hoa Kỳ vẫn có thể đem ra chứ?
SOLJENITSYNE: Tôi xin tuyên bố thêm một lần nữa, rằng đem cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng ra bàn là không lương thiện và xin nhấn mạnh đến việc phải đem vấn đề thảo luận về cuốn này ra khỏi cuộc tranh luận.
SOURKOV: Anh lấy quyền gì mà bịt miệng những người khác?
KOJEUNIKOV: Thời gian đủ để nghiên cứu kể từ ngày có lá thư của Soljenitsyne cho đến ngày hôm nay hội nghị họp, chứng tỏ rằng Thư ký đoàn đã cẩn trọng đến mức nào. Nếu đem lá thư ấy ra thảo luận lúc bấy giờ, còn sốt dẻo chúng tôi có lẽ còn cứng rắn hơn, còn quyết liệt hơn nữa với anh.
Nhưng chúng tôi đã quyết định phải tìm hiểu kỹ những tác phẩm bị coi là chống đối. Tôi viết và phải đọc kỹ, đọc lâu.
Bản tướng mạo quân vụ của Soljenitsyne hình như có đủ tài liệu biện minh cho anh ta. Nhưng ở đây chúng ta bàn về nhà văn, không bàn về Soljenitsyne sĩ quan. Hôm nay, lần đầu nghe Soljenitsyne phủ nhận công khai cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng nhưng tôi cũng vẫn không khỏi rùng mình khi đọc tác phẩm có tham vọng phản ảnh thực tế Xôviết ấy. Tôi không dám tin vào sự phủ nhận bi kịch ấy của Soljenitsyne, có lẽ vì tôi đã thấy được nơi cuốn ấy chính tinh thần báo thù đối với tất cả những gì đã cảm thấy, trong cuốn Nhóm thứ nhất và trong cuốn Trại ung thư.
Khi nói đến số phận của các tác phẩm, tác giả phải nhớ đến các bổn phận đối với tổ chức đã khám phá ra nhà văn.
Lúc ấy, tôi là một trong những người đầu tiên đã phát biểu những sự nghi ngờ về những gì đã được kể trong cuốn Ngôi nhà của Matriona. Chúng tôi đã mất thời giờ, chúng tôi đã đọc các tác phẩm lệch lạc mà anh không dám đưa cho một tòa soạn tạp chí nào đăng hết. Cuốn Trại ung thư làm cho ta thấy buồn nôn vì bút pháp tự nhiên chữ nghĩa hung hãn, khuynh hướng muốn lồng vào những mối sợ hãi có thể có và có thể tưởng tượng ra mặc dù nền tảng căn bản của nó không phải là y học mà là xã hội, mặc dù nền tảng này không được chấp nhận cũng vậy.
Trong lá thư thứ hai, anh muốn dẹp đi, về việc ấn hành một tác phẩm mà anh không đọc lại nữa. Cách làm “xăng ta” này có xứng đáng với một nhà văn không?
Ở đây, tất cả mọi nhà văn đều vui lòng nghe lời khuyên của các bộ biên tập và không bao giờ ép buộc họ.
SOLJENITSYNE: Bất chấp sự giải thích và phản đối của tôi, bất chấp tính chất phi lý cùng cực của việc thảo luận về một tác phẩm viết cách đây hai mươi năm trong những điều kiện khác và của một con người cũng khác hẳn với con người Soljenitsyne viết văn, mặc dù tác phẩm mà tôi bị cưỡng đoạt ấy chưa được in, chưa có một người đọc.
Một số diễn giả vẫn tập trung mũi dùi vào vào độc có một tác phẩm ấy mà thôi. Đây là một việc còn vô nghĩa hơn chuyện Maxim Gorki bị hạ trong một Đại hội các Nhà văn dưới đây, vô nghĩa hơn cả vụ Serge Chensky và việc ấn hành lại các thư từ trao đổi của ông cách đây mới mười lăm năm và Kornejchouk đã nói rằng “một việc như vậy chưa bao giờ xảy ra và cũng không bao giờ xảy ra” và “ta chưa bao giờ được thấy chuyện như vậy trong văn học sử Nga” đúng quá nhỉ?
OZEROV: Lá thư gởi Đại hội ấy của Soljenitsyne đã tạo nên một hành vi chính trị có hậu quả xấu nhất. Nó có thể đi đến chỗ có lợi, cho kẻ thù. Lá thư ấy có những khẳng định của tác giả sai với sự thực giữa những nhà văn bị đàn áp một cách oan uổng người ta nói cả đến Zamzatine nữa.
Về vấn đề ấn hành cuốn Trại ung thư, ta có thể đi đến một sự đồng ý với tòa soạn Novy Mir; có thể sửa chữa và thảo luận với tác giả về những chỗ sửa chữa này. Cuốn truyện có những phần giá trị khác nhau quá xá; có nhiều đoạn rất thành công, có nhiều đoạn dở.
Nhưng tôi không chịu cái bút pháp viết truyền đơn, cái lối phỏng bút của Soljenitsyne. Tôi yêu cầu phải cắt bớt nhiều đoạn mà tôi không thể đi sâu vào chi tiết vì thiếu thì giờ. Triết lý chủ nghĩa xã hội nhân bản vốn là yếu tố chủ thể của nội dung tác phẩm hình như do tác giả đưa ra không chấp nhận được.
SOURKOV: Tôi cũng vậy, tôi đã đọc cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng mà lập trường, rốt cuộc lại, có thể tóm tắt như sau. Tất cả đều khốn nạn!”. Trong cuốn Trại ung thư người ta cũng thấy lại một giọng ấy. Trong thành phần nhân vật của nó có ai ở trong thế giới của các anh hùng không? Chỉ có anh Shulubine kỳ cục được A.S. tả giống như người cộng sản, cũng như tôi giống… (diễn giả thiếu một chữ) Shulubine, với các ý tưởng lạc hậu. Tôi không cần che giấu, tôi là một người trí thức, tôi hiểu các học thuyết triết lý, chính trị và xã hội, tôi đã ngửi thấy trong đó có Mikhailovsky và Vladimir Soloviev và đồng thời có cả ý kiến thơ ngây rằng “kinh tế có thể lệ thuộc vào đạo đức”.
Sau bao nhiêu thử thách, anh có quyền cảm thấy bị đè ép, lăng mạ, nhân danh con người, anh Alexandre Soljenitsyne! Nhưng anh lại là nhà văn. Tôi có biết những người cộng sản già đã bị đưa đi “căng” nhưng không phải vì thế mà thế giới quan của họ thay đổi.
Không, sách của anh không có chất sinh lý học mà là chính trị. Sách của anh đã đề cập đến những vấn đề căn bản! Và thần tượng được nêu ra trong vị trí cao nhất cũng không phải là đài kỷ niệm cho Marx.
Trại ung thư, nếu in ra sẽ có hại cho chúng ta; hại hơn Ký ức của Sveslara nữa! Đành là ta phải ngăn cấm Tây phương xuất bản nhưng hết sức khó. Tôi đã là láng giềng của Anna Andreievna Akhmatova trong những năm cuối cùng của bà và biết rằng sau khi bà cho một vài người đọc tập Requiem chừng vài tuần lễ là đã thấy Tây phương xuất bản cuốn ấy rồi. Dĩ nhiên, độc giả của chúng ta đã đủ tiến bộ và giàu kinh nghiệm; họ đâu có để cho mấy cuốn sách nho nhỏ ấy kéo đi xa chủ nghĩa cộng sản! Tuy nhiên, tác phẩm của Soljenitsyne còn tai hại hơn sách của Pasternak nhiều. Pasternak là một người chán đời, trong khi Soljenitsyne là người hoạt bát chiến đấu, tư tưởng đã dứt khoát A.S. là một người có đầu óc.
Chúng ta, những người của cuộc cách mạng đầu tiên trong lịch sử nhân loại, không bao giờ chúng ta xa rời các khẩu hiệu, xa rời các ngọn cờ cách mạng.
“Chủ nghĩa xã hội đạo đức” là một thứ chủ nghĩa xã hội khá tư sản (quay sang Salynsky), tôi không hiểu tại sao người ta có thể hiểu nó và còn thấy nó có một vài giá trị và muốn bảo vệ!
SALYNSKY: Tôi có bảo vệ gì đâu.
RIOURRIKOV: Soljenitsyne đã chịu thiệt hại vì những kẻ bôi nhọ anh ta và cũng bị luôn vì những kẻ đã ca tụng anh ta quá mức, gán cho anh ta những đức tính anh không hề có. Nếu phải phủ nhận, Soljenitsyne cũng cần phải phủ nhận một cái gọi là người nối tiếp của chủ nghĩa hiện thực Nga sao anh ta tự gán cho mình. Tác phong của thống chế Rokossovsky, của Đại tướng Gordetov lương thiện hơn tác phong của các nhân vật trong truyện của Soljenitsyne nhiều. Nguồn gốc năng lực của nhà văn này phát xuất từ những cảm nghĩ chua chát, những cảm tưởng bị nhục mạ, đàn áp. Tôi có thể hiểu được Soljenitsyne trên một vài khía cạnh nhân bản.
Soljenitsyne, anh viết là người ta đã cấm các tác phẩm của anh hả? Đâu, kiểm duyệt có đụng đến một cuốn nào đâu? Tôi lấy làm lạ về chuyện Tvardovsky xin phép Thư ký đoàn để đăng truyện của anh. Tôi bất kỳ là chuyện như thế nào tôi cũng không bao giờ xin phép Hội của Nhà văn để đăng tải.
Rồi Riourrikov yêu cầu Soljenitsyne hãy nghe theo khuyến cáo của tòa soạn Novy Mir và hứa “nhân danh những người hiện diện” sẽ có những lời chú giải bên cạnh từng trang một cuộc Trại ung thư.
BAROUDJINE: Tôi là một trong những người đã không hoan nghênh tác phẩm của Soljenitsyne ngay từ đầu. Ngay cuốn Ngôi nhà của Matriona đã kém hơn hẳn tác phẩm đầu của anh ta và cuốn Nhóm thứ nhất đã có nhiều yếu điểm: Staline Abakoumov và Proskreby chưa được mô tả như những con người thời đại bán khai. Trại ung thư kế tiếp là một chuyện phản nhân bản. Kết cục của cuốn chuyện là sự khẳng định rằng “có lẽ phải đi tìm một con đường khác”.
Soljenitsyne đã tưởng rằng hai lá thư “được coi như là tài liệu tranh luận sẽ được Đại hội đọc tức khắc hay sao? Đại hội đã nhận bao nhiêu thư cả thảy?
VOROWKOV: Gần năm trăm lá!
BAROUDJINE: Anh nghe ra chưa, Soljenitsyne? Làm sao có thể đọc tức khắc được? Tôi không đồng ý với Rjoukov: Việc xin phép xuất bản phải đặt ra nói với Thư ký đoàn là đúng. Thư ký đoàn của chúng ta càng ngày càng phải biến thành cơ quan phụ trách việc sáng tác và không nêu tiếc các khuyến cáo với các hội đồng biên tập.
ABDOMUNOV: Việc Soljenitsyne có can đảm phủ nhận cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng có một ý nghĩa tích cực, bây giờ anh ta cũng phải có can đảm thực hiện cái đề nghị của Alexandrovitch Constantin (Fedine)! Bây giờ mà in cuốn Trại ung thư sẽ có những chuyện rắc rối lớn hơn khi có bức thư đầu của Soljenitsyne nữa! Trong truyện có Rousanov, có những người chết vì chủ nghĩa vĩ đại bây giờ là người các trại tập trung nhưng những người khác nữa ở đâu? Xã hội Xôviết ở đâu? Không thể ép buộc phải nhấn mạnh đến điều này. Nhưng cũng không thể viết một cuốn tiểu thuyết trong đó không có một chút ánh sáng vui vẻ nào thoát ra hết. Và có nhiều đoạn kéo dài, nhiều chỗ lặp lại, nhiều cảnh của bút pháp tự nhiên. Tất cả những thứ đó phải cắt bỏ!
ABASHIDZE: Tôi chỉ mới đọc được chừng có 150 trang của cuốn Trại ung thư và do đó không thể phê phán về nội dung. Tôi không thấy có gì là tôi không thể có ý kiến về nội dung cuộn truyện. Có thể là những chuyện thiết yếu nhắc ở đoạn sau cũng nên.
Tất cả chúng ta, nhà văn lương thiện và có ý thức, chúng ta luôn luôn chống lại những thứ trang sức hoa hoè hoa sói, kể cả trường hợp việc làm ấy rất khó coi. Nhưng Soljenitsyne đang bị nguy vì rớt vào chỗ đối lập “đoảng”: một vài đoạn chỉ là miêu tả thuần túy.
Nghệ sĩ như đứa bé, nó tháo chiếc xe hơi ra để xem có gì ở trong đó. Nhưng nghệ thuật lại nằm trong sự lấp lại, dựng nên chiếc xe hơi. Tôi thấy Soljenitsyne hỏi người ngồi bên cạnh tên của một vài diễn giả, tại sao nhìn không biết mặt một người nào trong những người chúng ta ở đây? Chỉ vì chúng ta đã không mời anh ta… Đề nghị của Constantin Alexandrovitch rất đúng. Chính Soljenitsyne phải tự trả lời lấy những sự bôi nhọ!
BROVKA: Ở Bélorussie, có nhiều người bị đưa đi trại tập trung. Tỷ dụ như Sezge Grakhovsky chẳng hạn đã phải giam đến hai mươi năm. Nhưng họ đều hiểu rằng: dân tộc, Đảng và quyền uy chính trị không chịu trách nhiệm về những sự bất công ấy.
Trong hồi ký của Staline, chỉ có sự ngồi lê đôi mách của đàn bà. Nhân dân hiểu điều này và chỉ cười thôi. Nhưng ở đây chúng ta có một người được thế giới thừa nhận tài năng, đang đặt vấn đề xuất bản sách cho đương sự.
Đúng là Soljenitsyne đã cảm thấy những nỗi đau khổ của tổ quốc, một cách thực tình quá lố, nhưng anh ấy lại không có những cảm tưởng vui sướng hân hoan. Trại ung thư quá ảm đạm, không thể ấn hành được (rồi cũng như diễn giả trước và những diễn giả lên diễn đàn sau ông ta, BROVKA ủng hộ đề nghị của Fedine: Soljenitsyne phải lên tiếng chống lại những luận điệu bôi nhọ của Tây phương lợi dụng lá thư).
JASHEN: (Chỉ trích cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng): Tác giả không phải bị băn khoăn vì sự bất công mà bị đầu độc vì hận thù. Mọi người đều bất bình vì có một nhà văn như vậy trong Hội. Tôi đề nghị khai trừ y ra khỏi Hội. Soljenitsyne không phải là người duy nhất bị hành hạ, còn những người khác nữa, nhưng họ hiểu sai bi kịch của thời đại này, như chàng thanh niên Ikramoe chẳng hạn. Trong Trại ung thư hiển nhiên là ta có một ngòi bút bậc thầy. Nhưng tại sao trong trận Léningrad những kẻ bị lên án còn có – ngoài Hitler “cả những người khác nữa”? Tôi không hiểu “những người khác nữa” là ai? Là Béria? Hay là các nhà lãnh đạo sáng suốt hiện tại của chúng ta? Phải nói rõ ra. (Tuy thế diễn giả lại ủng hộ cái giải pháp can đảm của Tvardovsky sửa lại tác phẩm cùng với Soljenitsyne và sau đó có thể cho một độc giả hạn chế đọc.)
KERBALEV: Tôi đã đọc xong Trại ung thư cùng với tất cả sự ghê tởm? Mọi nhân vật đều là những tù nhân cũ, tất cả đều ảm đạm, không có lấy một chút ấm áp trong suốt cả tác phẩm.
Véra dâng cho người hùng cả ngôi nhà và sự tiếp đón của nàng nhưng chàng, chàng lại từ chối đời sống. Và câu “chín mươi chín người khóc, một người cười” nghĩa là gì? Tôi đồng ý với Korneijchouk. Tại sao tác giả lại nhìn tất cả dưới một màu đen tối.
Tác giả chối bỏ cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng chưa đủ, tôi sẽ công nhận Soljenitsyne là người can đảm ngày nào anh ta chối bỏ luôn Trại ung thư. Lúc ấy, tôi sẽ hoan hỉ đón tiếp anh ta y như một người anh em thân thích.
TCHRIDOV: Tôi không cần nói đến tương lai và sẽ khai trừ Soljenitsyne ra khỏi Hội. Trong vở bi kịch của Soljenitsyne, tất cả những gì là Xôviết đều bị trình bày một cách tiêu cực, kể cả Savourov. Tôi đồng ý là Soljenitsyne phải chối bỏ cuốn Trại ung thư. Quốc gia này đã làm cho đất đai hoang phế trở nên màu mỡ và đi từ thành công này đến thành công khác.
NOVICHENKO: Bức thư gửi Đại hội là một vi phạm mọi luật lệ và nó đã ngáng ngang đò của Hội Nhà văn. Tôi tán thành đề nghị nghiêm khắc của TVARDOVSKY phải cương quyết lên án việc làm ấy của tác giả.
Tôi cũng không đồng ý với những yêu sách của lá thư; ta không có thể cho phép tất cả đều được ấn hành. Ta có thể in cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng không?
Bây giờ bàn về Trại ung thư. Phản ứng của tôi rất phức tạp. Tôi không phải là trẻ con, tôi biết tôi phải chết và có thể chết trong sự đau đớn của những nhân vật Soljenitsyne. Nhưng ngay trong hoàn cảnh ấy, vấn đề quan trọng hơn cả vẫn là lương tâm ở đâu? Ta còn có những di sản luân lý nào? Nếu cuốn truyện dừng lại ở đây, tôi thấy rất cần in. Nhưng cái ảnh phóng bút tả người con gái của Rousanov là một sự can thiệp hạ cấp đối với những tục lệ văn hoá của chúng ta. Ý nghĩa chính trị - ý thức hệ của chủ nghĩa xã hội đạo đức là sự từ chối chủ nghĩa Mác – Lê, câu cuối mượn lời của Pouchkine: “Con người bao giờ cũng là một nhà độc tài, một tên phản bội hoặc một kẻ nô lệ” là sản phẩm của một học thuyết nhục mạ… Dứt khoát không thể chấp nhận được những điều ấy.
Trong cuốn truyện, chỉ có những kẻ bị đọa đày đứng lên chỉ trích phê phán xã hội… cũng là một sự nhục mạ nữa… Cá nhân của Rousanov bị méo mó ngh trình bày như là một người nguyên vẹn đẹp đẽ. Không thể chấp nhận việc bưng Rousanov lên làm phát yếu nhân của xã hội chính thức của chúng ta. Tôi cũng rất bực bội khi tên của Gorki lại bị cái miệng bẩn thỉu của Rousanov nhắc tới. Dù có được sửa chữa thực cẩn thận, cuốn sách này cũng không bao giờ là một tác phẩm của chủ nghĩa hiện thực xã hội.
Tuy nhiên nó vẫn tạo nên một biến cố về văn học; nó là tác phẩm của cây bút có tài. Tôi cũng đã đọc được cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng và phải nói rằng mối tương quan giữa tôi và tác giả, đã có một cái gì thay đổi. Phải xóa bỏ hết những dấu vết của bi kịch ấy…
MARKOV (Vừa ở Sibérie về tới và đã diễn thuyết 5 lần trước những đám người rất đông): Phải hiểu rằng Soljenitsyne chẳng gây được ảnh hưởng ở đâu hết khắp mọi nơi, chẳng mấy ai nói gì về Soljenitsyne hết. Chỉ có một người đưa cho tôi một tờ giấy và hỏi tôi – tôi xin lỗi phải nói thực rằng: “Đến bao giờ thằng cha Soljenitsyne ấy mới thôi phá hoại văn học Nga”.
Chúng ta chờ đợi nơi Soljenitsyne một phản ứng thực chính xác, đập đúng vào đầu bọn tư sản bôi nhọ chúng ta, bằng một tuyên ngôn gởi cho báo chí. Y phải bảo vệ danh dự nhà văn Xôviết của y. Sự phủ nhận cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng của Soljenitsyne làm cho ngực tôi như nhẹ hẳn đi. Về cuốn Trại ung thư, tôi đồng ý: Tác phẩm dựa trên một nền tảng cá biệt, ý thức tổng quát về xã hội của nó không chấp nhận được. Khi quả quyết rằng “đã có người sống trên nền tảng ấy” tác giả muốn phác ra những đường hướng mịt mù, không ai biết được. Dựa vào sự hợp tác thân thiện giữa tác giả và tòa soạn Novy Mir, tôi nghĩ rằng cả hai bên phải họp lại bổ khuyết thêm cho tác giả; dù mất công đến mấy cũng phải chịu vì không thể để như vậy rồi đem ra in.
Cách thức tiến hành như thế nào? Cụ thể Alexandre Isaevitch (Soljenitsyne) phải chuẩn bị cái tuyên dương được nói đến từ nãy đến giờ đúng vào lúc sắp kỷ niệm năm năm cuộc cách mạng Xôviết; sau đó, ít lâu nữa, thư ký đoàn sẽ có thể đưa ra một thông cáo về việc này.
Mặc dù vậy, tôi vẫn tiếp tục coi Soljenitsyne là bạn. Nhưng Alexandre Isaevitch ạ, anh đang tự đặt mình vào cái thế cô độc ấy, những người khác không phải là những người phạm lỗi. Về cái đề nghị khai trừ Soljenitsyne, tôi nghĩ rằng chúng ta không nên hấp tấp vì giữa chúng ta tình thân hữu vẫn còn có giá trị…
SOLJENITSYNE: Thêm một lần nữa trong ngày hôm nay, tác phẩm đối lại việc đem cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng ra tranh luận và có lẽ còn phải phản đối nữa… Cuối cùng người ta có thể buộc tội các ngài lẫn kẻ chống lại học thuyết tiến hoá nếu các ngài thực tình nghĩ rằng một con người không thay đổi gì hết cả trong hai mươi năm khi hoàn cảnh đã thay đổi.
Nhưng tôi lại được nghe ở đây những lời buộc tội khác quan trọng hơn nhiều. Kornejchouk Baroudjne và nhiều vị đã nói cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng đã được lưu hành và dân chúng đã đọc nó. Tôi sẽ nói rất thong thả để cho từng chữ một của tôi được ghi lại đúng đắn.
Rằng nếu cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng được in ra hoặc được lưu hành rộng rãi thì tôi xin tuyên bố là trách nhiệm hoàn toàn do cơ quan đã cưỡng đoạt bản viết duy nhất chưa có ai được đọc, của thiên bi kịch ấy – đem ra ấn hành ngay khi tôi còn sống và ngược với ý muốn của tôi. Chính tổ chức ấy đã phổ biến thiên bị kịch ấy.
Hơn một năm rưỡi nay, tôi luôn nhắc nhở quý vị rằng chuyện này rất nguy hiểm. Ở đây, chúng ta không có một phòng đọc những bản viết tay tác phẩm được chuyền từ người nọ sang người kia, quý vị mang nó về nhà, nơi con trai con gái của quý vị ở. Nhưng tất cả các ngăn bàn ngăn tủ đâu có phải là có chứa tất cả? Tôi đã báo trước với quý vị việc này và bây giờ cũng xin báo trước quý vị thêm một lần nữa.
Xin bàn đến cuốn Trại ung thư. Người ta đã chỉ trích tôi về cả cái tiêu đề của tác phẩm vì nó không phải là một đề tài y học mà là một cái gì có ý thức tiêu biểu, tượng trưng.
Tôi xin trả lời: Đấy thực không phải là một biểu trưng vô hại nếu phải trải qua tất cả các giai đoạn của bệnh ung thư và thời kỳ hấp hối để khám phá nó. Chỉ vì một biểu trưng mà thôi, các ngài không thấy cái tính chất của nó quá nhiều, quá dày hay sao? Chỉ vì một biểu trưng các ngài không thấy rằng nó có quá nhiều chi tiết y khoa hay sao? Nhiều nhà chuyên môn nổi tiếng về ung thư – xem cuốn sách do tôi gởi cho họ đọc và hỏi ý kiến - đã cho biết rằng, trên quan điểm y khoa, nó không có gì sai lầm có thể bài xích được cả, ngay trong hiện tại. Đấy là bệnh ung thư, đúng như bệnh trạng mà văn chương tiêu khiển không hề nói đến nhưng các bệnh nhân bị ung thư hằng ngày đã cảm thấy, kể cả các người thân thích và biết đâu có lẽ mai đây sẽ có một trong những quý vị đây sẽ phải vào điều trị nơi một bệnh viện ung thư để hiểu rằng đấy không phải là một biểu trưng.
Tôi thực tình không hiểu tại sao lại có lập luận buộc tội cuốn Trại ung thư phản nhân bản? Đúng ra nó là một cái gì trái ngược với lập luận buộc tội ấy, đấy là sự vượt qua cái chết của sự sống, vượt qua quá khứ của tương lai. Vì bẩm tính trời sinh của tôi, tôi không bao giờ tự ép mình phải viết một truyện như vậy. Nhưng tôi quan niệm rằng văn chương đối với xã hội cũng như đối với từng con người một, có bổn phận nói ra một cách thành thực, chứ không che giấu hay làm nhẹ đi, sự thực như thế nào và người ta chờ đợi nơi nó những gì? Phương ngôn Nga nói về việc này, rất giàu có:
“Đừng yêu những kẻ cam chịu, hãy mến những kẻ dám chống đối.”
“Những đứa ngọt ngào thổ lộ không phải là những người tốt.”
Trên đại cương, sứ mạng nhà văn không hạn chế ở chỗ bảo vệ hay chỉ trích hệ thống phân phối lợi tức xã hội này hoặc hệ thống kia, không hạn chế ở chỗ chỉ bảo vệ hoặc chống đối hình thức tổ chức quốc gia này hoặc hình thức tổ chức kia. Sứ mạng đó là nói về những đề tài phổ biến hơn, vĩnh cửu hơn. Những bí mật của con tim và của lương tâm con người, sự hội ngộ của cái chết và sự sống, sự vượt qua những đau đớn về tinh thần. Sự tìm kiếm những dự luật phát ra từ những tầng sâu của vạn đại không thể thăm dò, giờ này vẫn còn bám lấy lịch sử của nhân loại cho đến ngày tận thế.
Việc quý đồng nghiệp đọc một vài đoạn nhưng không chú ý đến để bây giờ đưa ra những sự giải thích và phê bình méo mó đã làm cho tôi buồn thấm thía. Lẽ ra chuyện này không nên xảy ra mới phải. Thí dụ như “chín mươi chín người khóc, một người cười” là một câu phương ngôn quen thuộc ở đồng quê ta. Trong truyện Kostoglotov nói tạt vào mặt cái con người định tách ra khỏi hàng ngũ để ra oai với mình cho hắn ta biết gã là người như thế nào; chỉ có thế thôi! Ở đây trái lại, người ta đã kết luận rằng như vậy là đến toàn thể Liên bang Xôviết.
Souskov đã làm tôi ngạc nhiên, trước hết, tôi không tài nào hiểu nổi tại sao anh ấy lại đem Marx ra nói gì trong truyện của tôi có gì dính đến Marx đâu? Alexandrovitch ạ, anh là thi sĩ, một con người có năng khiếu nghệ thuật rất tinh tế; nhưng ở đây, cái năng khiếu ấy đã chơi anh một vố đau đấy. Anh không hiểu màn ấy hay sao Chouloubine đem Bacon ra lòe và dẫn đến thuật “thần tượng của hàng chợ” và Kostoglotov ráng tưởng tượng ra một cái chợ ở giữa có một thần tượng nhờn nhợt màu da. Chouloubine thuyết về thần tượng của kịch trường và Kostoglotov tượng trưng ra một thần tượng giữa kịch viên nhưng vì thần tượng không có ở đó, y bèn đặt nó vào công việc kế cận. Làm sao anh có thể nghĩ rằng tôi nói đến Mạc Tư Khoa và đài kỷ niệm Marx chưa được dựng?
Đồng chí Soukov có nói là chỉ cần có vài tuần lễ là cuốn Requiem dù chỉ được có một số rất ít người được đọc – đã sang Tây phương. Thế mà phần đầu cuốn Trại ung thư đã được chuyền tay nhau đọc hơn một năm rồi. Vì thế tôi mới lo và nói phải cấp báo với Thư ký đoàn.
Dẫu chỉ Soukov khuyên tôi đừng tiếp tục đi theo chủ nghĩa hiện thực Nga. Tôi xin hứa sẽ nghe theo lời khuyên ấy.
RIOURIKOV: Tôi không khuyên anh từ bỏ con đường hiện thực xã hội chủ nghĩa Nga mà khuyên anh hãy từ bỏ cái vai trò của anh đang được trình bày ở Tây phương.
SOLJENITSYNE: Bây giờ xin bàn đến đề nghị của Constantin Alexandrovitch, một đề nghị mà tôi phải hoan nghênh. Việc ấn hành, đấy là điều mà tôi đã tranh đấu suốt trong bao lâu nay. Khỏi phải trốn tránh, khỏi phải bao phủ những bài diễn từ, khỏi phải niêm phong những bản đánh máy tác phẩm. Sau cuộc thảo luận về cuốn Trại ung thư, tại phân bộ các nhà văn (Section de la prose) ở Mạc Tư Khoa đã định giữ bản đánh máy nội dung cuộc thảo luận cho những người tham dự và có liên hệ và làm vậy là phải quá rồi. Vậy mà người ta đã không cho tôi lấy, người ta vẫn giấu tôi – tác giả cuốn ấy. Cuộc tranh luận ngày hôm nay đây sẽ có bản đánh máy ghi chép nội dung cuộc tranh luận và tôi có hy vọng sẽ được nhận một bản thủ, anh Constantin Alexandrovitch?
Constantin Alexandrovitch có hỏi: ấn hành những lời phản đối của anh để làm gì? Câu trả lời của tôi hết sức rõ ràng lắm: Để phục vụ văn hoá xứ sở nhưng quan niệm của Alexandrovitch cho rằng tôi phải tự giải quyết lấy vấn đề hết sức phi lý. Người ta đã trói chân tay tôi, bịt miệng tôi thì tôi làm thế nào được?
Hình như việc làm này, với Hội các Nhà văn đầy uy thế, hết sức dễ:
Tôi bị chặn hết mọi cửa trong khi Hội có toàn thể và tờ báo để sử dụng. Chỉ cần tôi ký tên vào một lời kêu gọi dân chúng bảo vệ miền Baikal là tờ Komsomolskai Pravda dẹp ngay tên tôi rồi.
Dù vậy, tôi vẫn không hiểu tại sao thư tôi không được đọc trước Đại hội. Bây giờ Constantin Alexandrovitch lại đề nghị chống lại các hậu quả chứ không phải chống lại nguyên nhân, nghĩa là chống lại dư luận ở Tây phương chung quanh bức thư của tôi. Nhưng bức thư này có một phần tổng quát, một phần riêng biệt. Tôi có phải chống lại cả phần tổng quát không? Không, vì tôi vẫn giữ cái ý kiến ấy không có lơ một chữ nào hết. Lá thư ấy đề cập đến cái gì?
NHIỀU NGƯỜI TRẢ LỜI: Kiểm duyệt.
SOLJENITSYNE: Nếu như vậy các bạn chẳng hiểu gì hết. Lá thư ấy nói đến giá trị của nền văn nghệ vĩ đại của chúng ta một thời đã chinh phục được nhân loại, làm cho nhân loại ngây ngất. Ngày nay đã đánh mất chỗ ngồi của nó rồi. Ở Tây phương người ta bảo rằng “tiểu thuyết Nga chết rồi” và chúng ta nhào ra đem hết sức mạnh ra tổ chức những buổi nói chuyện, diễn thuyết để chứng minh rằng điều này sai với sự thực. Tổ chức các buổi nói chuyện thuyết trình mà làm gì? Chưa phải viết những cuốn truyện ánh sáng rực rỡ; thế là “Tiểu thuyết mới” của ta sẽ rơi vào quên lãng để cho các cuốn truyện của thế hệ “Các nhà văn tiền phong” mới ra đời. Tôi có cần phải tuyên bố là tám điểm trong phần thứ hai của lá thư đều sai lầm và bất công hay không? Nhưng các điểm ấy đúng với sự thực hoàn toàn. Tôi có cần phải tuyên bố là đã được thỏa mãn một phần hay không? Cho đến nay, chưa có gì được sửa chữa, chưa có gì được dẹp đi trong sự đối xử đối với tôi. Vậy thì chính các bạn phải hành động trước đi để cho tôi có thể đưa ra bản tuyên ngôn ấy: hãy cho in các lá thư của tôi và cho biết những biện pháp các bạn đã chọn lựa đối với những điểm đặc biệt hoặc ít nhất cũng nói đến các biện pháp sẽ áp dụng đối với một vài điểm trong đó; lúc ấy tôi xin viết ngay bản tuyên ngôn mà các bạn đã yêu cầu. Trong trường hợp này, tôi cũng xin ấn hành luôn lời tuyên bố của tôi đối với cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng mặc dù tôi không hiểu các lý do đưa đến cuộc tranh luận về một cuốn sách mà tác giả bị cướp giựt và về sự tiết lộ một bức thư chưa được ấn hành? Ngày 12 tháng 6, Thư ký đoàn đã hứa sẽ đưa ra bản thông cáo mà không có điều kiện nào; bây giờ các bạn lại đặt điều kiện. Có gì đã thay đổi?
Người ta đem cuốn Một ngày trong đời của Ivan Denissovitch. Chiến dịch bôi nhọ tôi vẫn được tiếp tục và còn được đẩy mạnh thêm. Chỉ có các bạn mới có thể phản công lại được, tôi thì không! Điều duy nhất mà tôi lấy làm an ủi là không một luận điệu trong các luận điệu bôi nhọ làm cho tôi xây xẩm mặt mày: tôi đã được tôi luyện trong các trại tập trung của Staline rồi.
FEDINE: Không! Trật tự như vậy đã bị đảo ngược! Tuyên ngôn thứ nhất phải là của anh. Sau những nhận xét khích lệ về tài năng và về biện pháp của anh, anh phải tìm ra hình thức thích hợp cho tuyên ngôn ấy. Không có những lý do chính đáng để chúng tôi lên tiếng trước rồi anh mới nói sau.
TVARDOUSKY: Trong trường hợp này, lá thư có được công bố không?
FEDINE: Không. Nếu phải in thì in lúc ấy, còn bây giờ, ngoại quốc đã làm ồn ào rồi, ta không có lý do để công bố nữa.
SOLJENITSYNE: Chậm còn hơn không. Còn tám điểm của tôi thì sao?
FEDINE: Sau đó, chúng tôi sẽ tính.
SOLJENITSYNE: Tôi đã trả lời. Và hy vọng tất cả đều được đánh máy thật đúng.
SOURKOV: Anh cũng phải nói rằng anh chẳng có gì liên quan với vai trò lãnh tụ đối lập mà Tây phương đã gán cho anh nữa.
SOLJENITSYNE: Alexei Alexandrovitch (Sourkov), tôi thực sửng sốt khi nghe anh nói như vậy? Nghệ sĩ của ngôn ngữ và lãnh tụ đối lập chính trị? Làm thế nào dung hòa hai công việc này được?
Một vài người nữa lên diễn đàn nhấn mạnh là yêu cầu Soljenitsyne chấp nhận đề nghị của Fedine.
Tiếng nói của mấy người một lúc: Hãy nghĩ đến đề nghị ấy đi.
Soljenitsyne tuyên bố thêm một lần nữa rằng không thể nào đưa ra một tuyên ngôn như vậy vì độc giả người Nga sẽ không hiểu đương sự muốn gì trong bản tuyên ngôn ấy.
*
Hai tháng sau, Thư văn của Thư ký đoàn Hội các Nhà văn Liên Xô số 3141 ngày 25 tháng 11 năm 1967 gửi nhà văn Alexandre viết như sau:
Ngày 22 tháng 9, Thư ký đoàn của Ủy ban Nhân dân Lãnh đạo Hội Liên hiệp các Nhà văn Xôviết đã xét bức thư của bạn. Cuộc thảo luận đã cho chúng tôi hiểu rõ thái độ của các giới văn nghệ Xôviết đối với bạn và các hoạt động văn nghệ của bạn. Cuộc họp đã chấm dứt nhưng chưa có kết luận. Tuy nhiên, chúng tôi hy vọng rằng bạn sẽ suy nghĩ về những nhận xét đưa ra trong cuộc thảo luận để hành động thích ứng.
Thư ký đoàn mong được biết quyết định của bạn về vấn đề này.
Ký tên,
Ủy viên Thư ký
K. Voronkov
Phần 5: Thư gởi thư ký đoàn sau hội nghị
Kính gởi Thư ký đoàn Hội Liên hiệp các Nhà văn
Thư văn của Hội số 3.142 ngày 25 tháng 11 năm 1967 không làm tôi hiểu rõ:
1. Rằng Hội có bảo vệ tôi chống lại chiến dịch bôi nhọ phát động từ ba năm nay, hay không?
Mới đây lại có một vài sự kiện mới nữa:
Ngày 5 tháng 10 năm 1967, tại Hội quán báo chí Léningrad, ông chủ nhiệm tờ Pravda Zinzarine lại đưa ra cái luận điệu bôi nhọ cũ kỹ “Soljenitsyne, bị tù vì lý do tư pháp”. Biện pháp này như quý vị đã rõ, vốn là biện pháp thông thường và quen thuộc nhất được đem ra áp dụng với những người bị chế độ ác cảm. Ngoài ra ông Zizarine còn quả quyết rằng quá khứ bị tù tội trong trại tập trung đã làm cho tôi có định kiến với chế độ không thể sửa đổi. Đặc biệt hơn nữa các nhân vật thuộc cơ quan tuyên huấn của Sở An ninh K.B.G. còn phóng ra những nguồn tin rất động trời, đại để như nguồn tin: “Có thể là Soljenitsyne đã dựng ra trong quân đội, một tổ chức chưa biết nên coi là tổ chức chủ bại hay khủng bố! Nếu có như vậy mà Ủy ban Quân sự của Tòa án Tối cao không khám phá ra chuyện này thì thực là vô lý!
2. Thư ký đoàn có biện pháp nào để ngăn cản việc áp dụng các biện pháp phi lý và độc đoán sau đây:
Rút sách của tôi ra khỏi các thư viện
Sở kiểm duyệt còn cấm nhắc đến tên tôi trong các bài phê bình văn nghệ (biện pháp này còn được dịch ra Nhật ngữ trên Voprosy literatury).
Ở Viện Đại học Perm, một thảo luận về tác phẩm của tôi do một nhóm sinh viên viết để đưa vào Tuyển tập các công trình nghiên cứu khoa học của họ, đã bị cấm.
3. Thư ký đoàn có định ngăn cản ngoại quốc xuất bản cuốn Trại ung thư một cách tự do không ai kiểm soát, hay không? Hay mối hiểm nguy này không có gì đáng chú ý, theo ý kiến của Thư ký đoàn? Thư ký đoàn có can thiệp để cho tạp chí Literaturnaia Gazeta ấn hành những đoạn trích trong cuốn truyện mà Novy Mir đăng tải toàn bộ?
4. Thư ký đoàn có dự định làm áp lực với Chính phủ để Liên Xô gia nhập “Tổ chức quốc tế bảo vệ tác quyền” hay không? Thiết tưởng việc gia nhập tổ chức này giúp cho các tác giả của chúng ta có biện pháp hiện hữu chống lại việc ấn hành bất hợp pháp tác phẩm của họ, chống lại việc cạnh tranh bất chính của những nhà xuất bản ngoại quốc đã đem tác phẩm của chúng ta ra in ở ngoài nước Nga trước cả chúng ta nữa.
5. Sáu tháng sau lá thư giải hội, Thư ký đoàn đã có biện pháp thanh toán dứt khoát một lần chót những cơ sở ấn loát “bất hợp pháp” đã trình đem ra in và lưu hành những đoạn nhỏ rút từ bản thảo viết tay của tôi hay chưa? Loại ấn phẩm bất hợp pháp này đã được hủy chưa?
6. Thư ký đoàn có biện pháp thu hồi thủ bản các tác phẩm kể cả thủ bản cuốn Nhóm thứ nhất khi hội đã tuyên bố rằng tôi đã được trả lại đầy đủ rồi (Lời tuyên bố của Ủy viên Thư ký Ozerov).
7. Thư ký đoàn đã có quyết định nào đối với đề nghị của K.M. Simonov cho in một tuyển tập các truyện của tôi?
Xin cho biết Thư ký đoàn chấp thuận hay bác bỏ đề nghị?
8. Xin cho biết vì sao tôi lại không được phát biên bản của Hội (bản sao đánh máy) về nội dung cuộc tranh luận ngày 22 tháng 9 năm 1967 đặng có tài liệu nghiên cứu?
Trong khi chờ đợi một sự giải thích rõ ràng những thắc mắc nói trên, tôi xin trân trọng cảm tạ quý vị.
A. Soljenitsyne
1-12-1967
Thư gởi các Hội viên sau Hội nghị
Kính gởi quý vị Hội viên Hội Liên hiệp các Nhà văn Liên Xô
Từ ngày lá thư của tôi gởi Đại hội của Hội Liên hiệp các Nhà văn Liên Xô đến nay, một thời gian khá dài một năm đã trôi qua, vậy mà tôi vẫn không được phúc đáp dù đã gởi tiếp cho Thư ký đoàn hai lá thư và ba lần đến trụ sở Hội để trực tiếp yêu cầu các nhà lãnh đạo Hội giải quyết vấn đề.
Chẳng có một thay đổi nào đáng kể từ đấy đến nay. Thủ bản tác phẩm vẫn chưa được trả lại, sách không được in và tên tuổi vẫn bị bôi nhọ.
Tôi cũng đã báo trước Thư ký đoàn về việc sách của tôi sẽ được ấn hành ở ngoại quốc căn cứ vào sự phổ biến rộng rãi của các “bản chép tay” cuốn Trại ung thư ở Nga từ lâu đến nay. Nhưng Thư ký đoàn đã không khuyến khích tạp chí Novy Mir đăng tải nó mà còn ngăn cản. Chi hội các nhà văn xuôi của Hiệp hội các Nhà văn ở Mạc Tư Khoa phần II cuốn truyện.
Cho nên, sau một năm trời lãng phí, chuyện phải đến đã đến.
Và hôm trước đây; phụ trang văn chương báo Times đã đăng vài chương cuốn Trại ung thư. Rất có thể có những tác phẩm khác nữa sẽ bị ấn hành ở ngoại quốc và cũng có thể là những ấn phẩm ấy dựa vào những bản văn tác phẩm không chính xác, chưa được sửa lại.
Những chuyện đã xảy ra trên đây buộc tôi phải trình bày với các giới văn nghệ nội dung những lá thư, những lập luận của tôi trước đại hội ngõ hầu nêu lên rõ ràng lập trường và trách nhiệm của Thư ký đoàn Hiệp hội các Nhà văn ngày 22 tháng 9 năm 1967. Bản văn này do chính tay tôi ghi chép. Tuy không hoàn toàn chính xác từng câu từng chữ, bản văn này đã phản ảnh trung thực sự thực và có thể được coi là một tài liệu đầy đủ trước khi bản văn chính thức được ấn hành.
Ngày 16-4-1968
Tài liệu đính kèm:
Thư gửi các vị Thư ký đoàn của Hiệp hội các Nhà văn
Biên bản cuộc họp Thư ký đoàn ngày 22 tháng 9 năm 1967
Thư gởi Thư ký đoàn ngày 1 tháng 12 năm 1967.
Thư gởi Thư ký đoàn Hội các Nhà văn, hội viên và các tạp chí văn nghệ
Kính gởi Thư ký đoàn Hội các Nhà văn
Tòa soạn Tạp chí Novy Mir
Tòa soạn Literaturnaia Gazeta
Các Hội viên Hội các Nhà văn
Tôi được xem tại Tòa soạn Novy Mir bức điện văn sau đây gởi ông chủ nhiệm:
IMO. 177 Francfort sur le M. – 16h20 M.A.I gởi Tvardovsk, tạp chí Novy Mir.
Cho bạn hay là Ủy ban An ninh Quốc gia đã gởi sang Tây phương qua trung gian của Viktor Louis một bản sao cuốn Trại ung thư để ngăn cản Novy Mir ấn hành cuốn này.
“Chúng tôi đã quyết định ấn hành nó tức khắc”.
Tòa soạn tạp chí Grami
Là tác giả, tôi đã nhất quyết phản đối việc ấn hành cuốn Trại ung thư dù nhà xuất bản là tạp chí Grami hoặc bất kỳ một nhà xuất bản nào đã được Viktor Louis đến điều đình.
Tuy nhiên, tính chất khiêu khích và phá hoại của bức điện văn đòi hỏi chúng ta phải làm sáng tỏ mấy điểm sau đây:
1. Có phải do chính tòa soạn Grami gởi bức điện nào cho tòa soạn Novy Mir hay do một người hoặc một cơ quan nào đó mượn tên tòa soạn tạp chí này. Việc này giải quyết không khó. Bưu điện Mạc Tư Khoa có thể nhờ cơ quan điện tín quốc tế hỏi lại bưu điện Francfort là biết.
2. Người có tên Viktor Louis là ai? Làm gì? Có phải y đã mang bản thảo cuốn Trại ung thư ra khỏi Liên Xô hay không? Y còn trao cho ai nữa? Có ai khác nữa, ở vùng khác, đe dọa sẽ in nó nữa không?
Nếu Thư ký đoàn Hội các Nhà văn coi việc này có một tầm quan trọng đáng lưu ý, nếu quan niệm rằng Hội có trách nhiệm tìm hiểu sự thực và ngăn cản việc ấn hành cuốn Trại ung thư cũng như mọi tác phẩm của người Nga ở ngoại quốc.
Thì kính xin quý vị giúp tôi tìm hiểu sự thực nhanh chừng nào hay chừng nấy.
Chuyện kỳ cục này khiến cho chúng ta phải liên tưởng và suy nghĩ đến những con đường quanh co và tăm tối của những tác phẩm – do các nhà văn Nga viết – lại đem ra ngoại quốc. Theo tôi sự kiện vừa qua là một sự cảnh cáo cấp thiết:
Văn nghệ không thể bị đẩy đến chỗ chỉ là những món hàng có lợi cho những tay buôn lậu có thông hành. Tác phẩm của nhà văn Nga phải được ấn hành trong nước Nga và không thể là một thứ hàng đem giao cho các nhà xuất bản ngoại quốc.
A. Soljenitsyne
18-4-1968
Giải Nobel và văn nghệ giới Việt Nam
Giá trị văn học thế giới tự do hầu như định đoạt bằng cái giải thưởng Nobel đối với các nhà văn ngày nay vậy; tuy nhiên có những tác phẩm bên kia bức màn sắt được trao tặng giải thưởng này.
Và những nhà văn chiếm giải như thế hầu như là luôn luôn bị các hội đồng văn hoá của chính quyền Xôviết lên án gắt gao, các tác giả đều bị khép vào các tội chính trị, phá hoại chế độ, phạm vi tổ quốc, hay có lợi cho tư bản ngoại trừ một vài người, như Mikhail Cholokhov, nhà văn chiếm giải Nobel mà chế độ đề cao hơn các nhà văn khác.
Sự thật thì có những tư tưởng gia lỗi lạc, những nhà văn hoá, triết gia lớn thỉnh thoảng từ chối giải Nobel, như Jean Paul Sartre chẳng hạn, giải thưởng Nobel thường được giao cho các nhà văn Anh, Mỹ, Pháp hơn là cho Đông phương. Một vài người như Tagore của Ấn Độ, Kawabata của xứ mặt trời mọc chỉ là một vài vì sao le lói bên cạnh những tiếng tăm bay dậy mịt mù André Gide, Albert Camus v.v… Trong các năm gần đây dường như muốn cho văn học có tiếng nói, dù là tiếng nói đơn thuần, nhỏ nhoi của kẻ vừa thoát xiềng xích nô lệ, bại vong, được lên tiếng bày giải thân phận mình. Khía cạnh đó có lẽ được nêu lên trong các buổi hội nghị về văn hoá của các cụ Hàn lâm Thụy Điển, đó cũng là một lý do rất giản dị, của thứ tinh thần bình đẳng tương trợ. Hay là các cụ Hàn nọ, đã chán cái thứ văn nghệ Âu Mỹ đầy dẫy dục tính, cả thứ dục tính sâu thẳm nhất trong lĩnh vực siêu hình, các cụ Hàn này quay về tìm các chất liệu tươi mát của văn hoá Á đông.
Nói như vậy không có nghĩa là văn nghệ hay văn học Việt Nam, trên lĩnh vực tư tưởng thấp kém hơn văn học nghệ thuật của thế giới. Cả về văn, thơ và các tác phẩm triết học xưa nay. Nói như thế cũng không có nghĩa là dựa theo lịch sử chiến đấu bốn ngàn năm của dân tộc đâu.
Thứ nhất là đằng sau những vần thơ lục bát, vòm tư tưởng của nghệ thuật ẩn hiện, không cách gì người ngoại quốc có thể cảm thông đến được.
Năm nay các cụ Hàn Thụy Điển vừa gây ra xôn xao dư luận trong giới văn nghệ miền Nam với một văn thư gởi cho Hội Văn bút đề nghị hội này chọn giùm tác phẩm gởi đi dự giải Nobel.
Hội Văn bút từ lâu đã tham gia nhiều cuộc viễn du mang chuông đi đánh xứ người, nhất là các cụ Vũ Hoàng Chương, Thanh Lãng, sau này thêm một số nhân tài mới dự Hội Văn hoá ở Đại Hàn với các anh Nguyên Sa, Trần Dạ Từ, Nguyễn Thị Hoàng v.v… Riêng nhà thơ Nguyên Sa về đã có bài tường thuật lai rai đăng ở báo Trình bày với các câu chuyện… Đông du ký.
Sự thật thì chẳng ai rõ lắm về các hoạt động của các nhà văn ra ngoại quốc, những thành quả thiếu phổ biến, không được chính quyền lẫn báo chí tư nhân quan tâm.
Vì vậy mà các giới văn nghệ trẻ, tương lai mù mịt ở xứ ta vẫn mù tịt với các buổi hội nghị, và không được theo dõi các diễn biến tốt xấu của các nhân vật đi dự hội nghị về văn hoá, có thể nói đối với quốc tế họ là đại diện cho các nhà văn nhà thơ Việt. Còn ở Việt Nam thì khác.
Mãi chờ một vài sự bàn tán, ít ra cũng bàn tán về văn học nghệ thuật ở các xứ dầu sôi lửa bỏng này, của văn nghệ giới, chính quyền cũng không hề do đó để gây nên một vài phong trào yêu nghệ thuật, phổ biến và nâng đỡ nghệ thuật. Nghĩa là công tác đi về ăn ở của các nhà văn, của Hội Văn bút, những kết quả tốt xấu, những tương lai hậu quả về văn hoá của những người làm văn hoá không được mấy chú trọng, mặc dù văn học nghệ thuật là sinh khí của dân tộc.
Cho đến nay sự hoạt động văn hoá của Hội Văn bút đã gây được một sự chú ý của các cụ Hàn Thụy Điển. Giải Nobel rất quan trọng, rất tăm tiếng với địch với bạn nêu cao danh nghĩa Việt Nam với quốc tế cũng không nghe có một tiếng nói, một góp sức nào tạo nên hoàn cảnh thuận tiện cho những nhà văn chân chính.
Lịch sử Việt Nam không phải chỉ tiến triển ở chiến tranh, chiến tranh càng khốc liệt, thì dân tộc càng gian lao nguy hiểm và chết chóc hận thù, lịch sử dân tộc càng nhờ văn hoá đi lên, những kẻ yêu quê hương phải là những nhà văn hoá chân chính.
Không phải dân tộc Việt có bao nhiêu ngàn năm lịch sử, phải cần ở một cái giải Nobel mới sáng tỏ giá trị văn học nghệ thuật của mình. Nhưng dù sao giải Nobel hay các tác phẩm dự giải Nobel của một thế giới cần sự phô trương, dù là phô trương tài đức cũng nên xem nó như là một cuộc triển lãm cần phải có sự chăm sóc.
Văn nghệ giới chín mươi chín phần trăm là chịu thiệt thòi trước bạo lực, trước thế giới khuynh đảo của kim tiền, chỉ có những kẻ buôn bán văn nghệ phẩm, những kẻ áp-phe giỏi trong khi làm văn nghệ mới đủ sức vươn lên, để có tiếng vang tạo nên thế lực để được dự giải Nobel, ngoài ra những văn nghệ sĩ lớn lao không bao giờ được nhìn thấy và không bao giờ được sự nâng đỡ xứng đáng, chỉ được những sự chế giễu thiệt thòi.
Nguồn: Trần Tử. Alexandre Soljenitsyne: Tác phẩm – Con người và Cuộc đời. Tủ sách Nhân Loại Mới, 1971.
Alexandre Soljenitsyne: Tác phẩm – Con người và Cuộc đời (2)
Trần Tử
Alexandre Soljenitsyne: Tác phẩm – Con người và Cuộc đời
Phần 2:
Thư gửi Đại hội Liên hiệp các nhà văn Xôviết
“Lịch sử nước Nga chúng ta chưa bao giờ đẹp hơn nhờ chủ trương chặn ngòi bút của nhà văn.”
A. Soljenitsyne
Kính gởi Chủ tịch đoàn và các đại biểu Hội Liên hiệp Các nhà văn Liên Xô
Kính gởi quý vị biên tập viên các tạp chí và nhựt báo
Không được sử dụng diễn đàn hội nghị, tôi yêu cầu đại hội nghiên cứu các vấn đề sau: “Chúng nó chỉ biết yêu thương người chết rồi”.
Hội Liên hiệp Các nhà văn Liên Xô, trong tương lai, phải quyết liệt chống đối lại chủ trương kiểm duyệt, hàng chục năm vẫn nô lệ hoá nền văn nghệ của chúng ta một cách không thể tha thứ được. Vốn không được hiến pháp ưng thuận, chủ trương kiểm duyệt rõ ràng có tính chất bất hợp pháp. Tuy vậy, kiểm duyệt – nấp sau danh hiệu mập mờ là cơ quan văn hoá Glavit và không được đưa ra công khai – vẫn đè nặng lên nền văn nghệ của xứ sở. Nhân viên kiểm duyệt – vô học về văn chương – vẫn chi phối được tư tưởng của các nhà văn.
Là sản phẩm thời Trung cổ dai dẳng đến ngày nay, chủ trương kiểm duyệt đã đem tàn tích của tổ tiên xa xưa chụp lên đầu nhân loại bên bờ thế kỷ (XX). Mang bản chất phá hoại và chí chóe nhưng kiểm duyệt lại giành lấy khả năng phân biệt những tác phẩm có và không có giá trị một trong thời gian vô cùng. Nó không thừa nhận cho nhà văn có quyền phát biểu và trình bày những nhận xét lớn cả về đời sống tinh thần và đời sống luân lý của con người và của xã hội; không cho nhà văn giải thích một cách độc lập những vấn đề xã hội, những kinh nghiệm lịch sử được đánh dấu một cách sâu đậm trong đời sống của xứ sở chúng ta.
Tác phẩm nào phản ảnh được những âu lo và những ý nghĩ chín chắn của quần chúng, tác phẩm nào có tác dụng đối với những dân trên địa hạt tinh thần hoặc trên sự tiến hoá của lương tâm nhân loại nhất thiết phải kiểm duyệt cấm chỉ hoặc đàn áp vì những lý do ích kỷ, ngắn hạn, bất chấp đến những đòi hỏi nội tại của đời sống quần chúng.
Đã có nhiều tác phẩm giá trị của nhiều nhà văn trẻ, không tên tuổi bị các tòa soạn từ chối vì “sách không qua kiểm duyệt”. Nhiều hội viên của Hội, kể cả một số đại biểu hiện diện tại Đại hội này hiểu rõ mức tai hại của sự đầu hàng kiểm duyệt như thế nào.
Phải nghe theo kiểm duyệt về nội dung và hình thức; phải thay đổi các chương của các tác phẩm, phải đổi và chọn một tiêu đề vô thưởng vô phạt v.v…
Nghĩa là tác giả phải phá hỏng tác phẩm hoàn toàn hết mong sửa chữa… chỉ để được ấn hành. Quy luật của văn chương sẽ làm cho tác phẩm mất hết giá trị chỉ vì sự sửa chữa này… khi tác giả của nó là một cây bút có tài. Ngược lại, tác phẩm của những cây bút hạng bét sẽ không bị hư hỏng gì hết vì sự sửa chữa này. Kết quả: phần tinh hoa của văn chương Nga chỉ được chào đời sau khi đã chịu một sự sửa chữa cắt xén như vậy của kiểm duyệt! Có gì thê thảm hơn?
Phải! Thực là thê thảm, cái lý do thông thường của kiểm duyệt viện ra “có hại về ý thức hệ” bệnh hoạn chỉ là những lý do chỉ có một giá trị ngắn hạn, cục bộ và đổi thay cũng vì quan điểm chính trị của con người.
Đã có thời người ta cấm cả Dostoievski, nhà văn đã làm cho văn chương của nhân loại bừng sáng rực rỡ! Ngay cả trong tác phẩm của “Đốt”, đâu đã được in đủ. Dostoievski vẫn bị loại ra khỏi công trình giáo dục của học đường, khỏi các thư viện quần chúng.
Không những thế mà thôi, văn hào còn bị bôi nhọ đủ thứ tội! Ngoài “Đốt”, còn khối nhà văn khác cũng bị áp dụng một chế độ khốc liệt.
Esenin trong bao năm qua, chẳng đã bị coi là một tên “phản cách mạng” là gì? Những người đọc và giữ sách của Esenin nào thoát khỏi lỗi thời?
Rồi Maiakovsky trước đây là gì ngoài nhãn hiệu “tên vô chính phủ khốn kiếp”?
Còn nhiều nữa: Thơ của nữ sĩ Akhmatova và bị coi là “chống chế độ Xôviết” trong mấy chục năm liền… Mười lăm năm trước, các cố gắng rụt rè nhằm vận động cho thơ của nữ sĩ thiên tài Tsvetaeva bị coi là một sai lầm chính trị lớn lao!
Bây giờ thì những nhà văn nhà thơ bị bôi nhọ đã được phục hồi danh dự một phần. Bounine Boulgakov và Platonow đã được trả lại chỗ ngồi… chậm vài chục năm! Mandelstam, Volochine và Kljonew ngày nay đã được phục hồi giá trị dễ dàng, không bị ngăn cản nữa. Và cuối cùng, ngày Zanjatire và Kumizev trở lại văn đàn cũng không còn xa nữa!
Những người nói trên được phục hồi trong những điều kiện vào ngày nhắm mắt của nhà văn bị bôi nhọ là một thời gian quan trọng: Chỉ có khi lìa đời rồi, nhà văn chống chế độ mới được phục hồi danh dự, sớm hay muộn tùy theo lúc có thể đưa ra một luận vụ về sự sai lầm của người quá vãng! Cách đây chưa lâu, ai dám nhắc đến Pasternak, sách của ông được in và có khi còn được bình trong các cuộc hội họp văn nghệ! Đúng như Louchkine đã tiên đoán: “Chúng nó chỉ yêu được người chết rồi”.
Giấy phép “phục hồi danh dự” sách được xuất bản của nhà văn đã chết có tên kể trên đâu có gì bù đắp nổi những thiệt hại về xã hội và văn nghệ mà dân tộc này phải chịu chỉ vì chủ trương để chậm quái gở kia, vì chủ trương nô lệ hoá lương tâm nghệ thuật (những nhà văn đàn anh trong chu kỳ thập niên thứ hai của thế kỷ này như Pilnjak Platonov và Mandelstam đã tố cáo chủ trương nô lệ hoá văn nghệ ngay khi những mầm mống của chủ trương thần thánh hoá cá nhân, tính chất bất thường, nơi cá tính Staline mới bắt đầu lộ liễu. Nhưng họ bị thanh toán ngay hoặc bị bịt chặt miệng tức khắc, có ai nghe được họ?).
Văn chương không thể phát triển được khi bị phân loại “loại chấp nhận được’, “loại phải loại bỏ” khi “phải viết về cái này”, “không được viết về cái kia”! Một nền văn chương không phải là khí trời của thời đại, không dám truyền đến cho xã hội những đau khổ và khát vọng của nhân loại, không tiếp nhận kịp thời những nguy cơ về xã hội và luân lý đang đe dọa con người, sẽ không xứng đáng là văn chương. Nó sẽ không được quang cảnh tin cậy. Sách vở của văn chương này đâu có phải viết để đọc; nó chỉ đáng đem hủy đi mà thôi.
Văn chương Nga ngày nay đã đánh mất vai trò dẫn đạo cho văn chương của nhân loại như nó đã giữ được trong thế kỷ vừa qua và đầu thế kỷ này. Nó cũng mất luôn tính chất thực nghiệm phong phú – yếu tính văn chương đã khiến cho nó sáng chói trong thời gian từ 1920 trở về trước. Sinh hoạt văn chương của chúng ta xuất hiện trước thế giới quá nghèo nàn với loại tác phẩm sản xuất hàng loạt đồng đều, một màu sắc hình thức, trông còn tồi tàn hơn sinh hoạt thực tế của nó. Đây là một sự thực để chứng minh vô cùng: văn chương Nga sẽ khởi sắc ngay khi nó không bị đàn áp, hạn chế.
Văn chương Nga nghèo nàn làm cho văn chương nhân loại nghèo nàn thêm và mặt khác nó càng làm cho dư luận thế giới có một định kiến nặng nề về xứ sở chúng ta. Tôi dám quyết rằng nếu khai thác được thành quả của văn chương Nga, giải thoát nó khỏi những móng vuốt kìm hãm, văn chương của nhân loại sẽ thu thập được những kinh nghiệm tinh thần và trí thức của chúng ta sâu xa hơn. Bước tiến nghệ thuật của nhân loại sẽ rẽ theo một bước ngoặt, được tất cả sinh lực để đạt tới một bình diện mới của sự phát triển.
Bởi vậy tôi tha thiết đề nghị Đại hội – bằng lối đầu phiếu - đi đến chỗ dẹp bỏ mọi hình thức kiểm duyệt – công khai và mật – đối với mọi sáng tạo nghệ thuật và cho các nhà xuất bản cái quyền được in mà khỏi phải trình báo và xin phép bất kỳ cơ quan nào.
1. Bao nhiêu tài năng đã tiêu ma trong tù ngục?
Nội quy của Hội Liên hiệp các Nhà văn Xôviết không nêu lên rõ ràng và chính xác bổn phận của Hội đối với các hội viên như: “Bảo vệ tác quyền của nhà văn”, “bảo vệ quyền lợi khác của nhà văn” v.v… nên chúng ta đã có một kinh nghiệm đau xót trong ba mươi năm vừa qua.
Chúng ta đã có một Hội Liên hiệp của các Nhà văn Xôviết không bảo vệ quyền lợi của các nhà văn: Hội đã không chú ý đến tác quyền và cũng không thèm bảo vệ các quyền lợi khác của các nhà văn bị đàn áp.
Rất nhiều nhà văn như Boulgakov, Akhmatova, Platonov, Alexandre, Grine, Zoshchenko, Tsvetaeva, Pasternak và Vassili Grossman, hồi sinh thời, đã bị bôi nhọ trong các trang báo, các diễn đàn công cộng mà không được cấp một phương tiện để tự vệ nào. Hội Liên hiệp các Nhà văn đã không cho họ sử dụng các cơ quan ngôn luận của Hội để biện minh chống đỡ mà còn phụ họa với kiểm duyệt chính các nhân vật lãnh đạo Hội đã là những người đi đầu trong hàng ngũ những người đã đàn áp họ. Những nhà văn nhà thơ đã làm cho văn học và nghệ thuật Nga thế kỷ XX có quyền kiêu hãnh đã bị khai trừ, bị ngăn cản nhưng không được gia nhập Hội. Các nhà lãnh đạo Hội vì hèn nhát đã bỏ rơi hội viên, để cho họ bị lưu đày tù tội và chết chóc: Pavel Vassitiev, Mendestam, Artem Vassely Lilnjak, Babel Tabidze Fabolotsky… và nhiều người khác nữa. Tôi nói nhiều, rất nhiều từ Đại hội XX đến nay đã có hơn sáu trăm nhà văn và nhà thơ hoàn toàn vô tội vẫn bị Hội Liên hiệp các Nhà văn – quá ngoan ngoãn với chính phủ – bỏ rơi trong tù và trên đất lưu đày!
Danh sách những người bất hạnh này chắc phải dài hơn nữa. Chắc chắn là đoạn chót còn dài hơn nữa, ngoài sự hiểu biết của chúng tôi. Tôi chỉ nắm được nơi đây tên tuổi của các nhà văn và nhà thơ trẻ mà tôi được quen biết một cách tình cờ, tài năng bị tiêu ma trong ngục tối, tác phẩm nằm chết trong căn phòng của cảnh sát chính thời Yagoda-Ezhov-Beria Abalaounov.
Các nhà lãnh đạo hội mới được bầu lên đâu có bị bắt buộc phải che giấu tội trạng của những nhà lãnh đạo Hôi tiền nhiệm, đâu có phải chịu trách nhiệm về những gì đã xảy ra trước nhiệm kỳ này.
Tôi xin đề nghị Đại hội hãy vạch ra một cách rõ ràng và cụ thể những sự bảo đảm về quyền tự vệ mà Hội sẽ dành cho các hội viên nạn nhân của những hành động bôi nhọ, những đàn áp phi lý và bất công ngõ hầu tiêu diệt những tệ đoan này trong tương lai, nơi chương XXII của nội quy.
*
Nếu Đại hội không muốn làm ngơ trước những gì trình bày trong xã hội này, tôi xin yêu cầu Đại hội nghiên cứu về những biện pháp cấm đoán và đàn áp mà bản thân tôi bị nếm trải.
Cuốn Nhóm thứ nhất (Le premier Cercle) của tôi đã bị cảnh sát chính trị cưỡng đoạt cách đây hai năm và ngăn cản không cho nó được ấn hành theo thủ tục thông thường… Rồi nó được ấn hành trong một lần “xuất bản đặc biệt, không thương mãi” ngoài ý muốn của tác giả, không được thông báo gì hết.
Như vậy qua kỳ xuất bản đặc biệt này, sách in cho một số người đặc biệt, các phần tử cạo giấy của văn chương đọc mà thôi, và đã bị cấm đoán không được ra mắt đa số các nhà văn chân chính, nói gì đến quần chúng.
Tôi không có phương tiện đưa cuốn tiểu thuyết này ra thảo luận tự do trước Hội Liên hiệp các Nhà văn và cũng bị bó tay không ngăn cản được những hành vi lợi dụng đạo văn.
Một số bằng hữu viết từ mười lăm đến hai mươi năm nay, nhiều tác phẩm viết không để xuất bản cũng bị cưỡng đoạt nốt! Rồi người ta đã đem ra trích với một dụng ý rõ rệt, rồi đem in thành một ấn phẩm “xuất bản đặc biệt, không thương mãi” cho những người đặc biệt nói trên đọc.
Trong tập này, có một bản bi kịch thơ tên là Bữa tiệc của những người chiến thắng. Bi kịch này do tôi viết lúc đầy uất hận tại tập trung, bắt tù nhân mang số hiệu trước ngực, sau lưng, trên mũ, cánh tay, nghĩa là nơi chúng tôi bị xử tử cho chết dần bằng cách bỏ đói, bị xã hội bên ngoài bỏ quên, không một ai lên tiếng tố cáo sự đàn áp chúng tôi trong tù. Tác phẩm này đã bị tôi bỏ sau Đại hội XX của Đảng nhưng bây giờ lại được gắn cho nhãn hiệu “sáng tác mới nhất của Soljenitsyne”.
Đối với tôi, người đã tham gia chiến đấu trên cương vị một pháo đội trưởng của quân chủng pháo, được gắn huân chương quân công ngay tại chiến trường, người ta đã đối phó bằng một chiến dịch bôi nhọ kéo dài từ ba năm nay với những lập luận vô nghĩa nào là “Soljenitsyne bị bắt vì tội tư pháp”, nào “Soljenitsyne đã nhảy sang hàng ngũ Đức, hoạt động bên cạnh người Đức, phản bội tổ quốc” v.v…
Người ta phải đưa những lập luận nói trên mới giải thích được việc giam giữ và lưu đày tôi trong mười một năm liền vì tội chỉ trích Staline. Tôi được biết rõ ràng rằng trong các lớp huấn luyện hoạt động đảng viên của Đảng, trong các cuộc họp, nhiều nhân vật có thẩm quyền của Đảng đã thừa nhận các lập luận bôi nhọ này.
Để biện minh và tự vệ, tôi đã khẩn thiết yêu cầu Hội Nhà văn và báo chí giúp tôi minh oan. Báo chí không đăng bài trả lời của tôi, các nhà lãnh đạo Hội cũng làm thinh không trả lời cho tôi. Ngược lại, dựa vào bản thảo cưỡng đoạt được, đem về sửa lại với chủ ý xuyên tạc, năm nay người ta lại tổ chức một chiến dịch bôi nhọ mạnh mẽ gấp đôi trước kia từ những diễn đàn cao đẳng hơn mà không cho tôi một phương tiện trả lời nào hết, và nhắc nhở!
Phần thứ nhất cuốn tiểu thuyết Trại ung thư – được phân bộ tiểu thuyết của Phân hội các Nhà văn Mạc Tư Khoa chấp nhận – chỉ được trích in rời rạc. Năm tạp chí đã từ chối (như Juesda và Prostor chẳng hạn) hoặc không in đúng với nguyên tác như Novy Mir…
Bi kịch Con hươu và nàng kỹ nữ của nhà tù, được kịch viên Sovremenik chọn lựa trình diễn từ năm 1952, đến nay vẫn không được phép đưa lên sân khấu.
Chuyện phim Chiến xa xung kích biết sự thực, bi kịch Ánh sáng ở trong người… và những truyện ngắn “nho nhỏ” của tôi không tìm ra đạo diễn và nhà xuất bản mặc dầu nhiều người muốn.
Truyện của tôi đăng trên tạp chí Novir bị cắt nát ra, không thể tập trung thành một cuốn truyện. Ngoài ra, các cơ quan văn nghệ, tỉ dụ như: Sovietsky, Pisatel, Goslitzzdat, Bibliotheka Ovonyka… đều không được phép phổ biến tác phẩm của tôi. Do đó, mọi tác phẩm của tôi không đến tận quảng đại quần chúng.
Mặt khác, tôi bị tước đoạt hết mọi biện pháp tiếp xúc với độc giả. Như những buổi đọc truyện của tôi trên đài phát thanh chẳng hạn, trước đây đã được ấn định là 10 buổi trong tháng 11 năm 1966 đã bị cúp đến 9 lần vào giờ chót.
Ngoài ra, việc cho người khác đọc và chép lại một thủ bản tác phẩm – vốn là một việc làm tự do cách đây 5 thế kỷ dưới thời Nga hoàng dành cho giới chép sách – bây giờ lại là một việc làm phạm pháp, tại xứ sở này, riêng với tôi. Do đó, việc sáng tác của tôi bị bóp chết cứng, cá nhân bị giam hãm và bôi lọ đủ điều.
Tôi không hiểu rằng trước sự vi phạm thô bạo tác quyền và các quyền khác nữa của nhà văn, Đại hội lần thứ tư của Hiệp hội các Nhà văn liên bang Nga có lên tiếng bênh vực và bảo vệ nạn nhân – là tôi – hay không?
2. Tôi đã sẵn sàng chết cho sự thực sống và tiến lên
Một quyết định như vậy hết sức quan trọng. Nó sẽ có một tác dụng quyết định đối với sự nghiệp văn chương của một số đại biểu tại đại hội này trong tương lai.
Về phần đông tôi hoàn toàn yên tâm vì tôi biết chắc rằng tôi sẽ làm tròn thiên chức của nhà văn trong mọi hoàn cảnh. Tôi biết riêng sứ mạng của nhà văn và như tôi sẽ được hoàn tất một cách rõ ràng đầy vinh quang khi tôi không còn có mặt ở cõi đời nữa.
Nhưng không có một ai ngăn cản được sự thực xuất hiện; riêng cá nhân tôi, tôi rất sẵn lòng chết cho sự thực sống và tiến lên…
Hy vọng rằng những bài học đã nhận được sẽ làm cho chúng ta biết rõ rằng không nên chặn ngòi bút của nhà văn lúc sinh tồn…
Vì chưa bao giờ lịch sử của ta đẹp hơn lên vì chủ trương ấy.
Alexandre Soljenitsyne
16-5-1967
*
Phần 3: Thư gởi thư ký đoàn Hội các Nhà văn
Kính gởi Thư ký đoàn Hội Liên hiệp các Nhà văn
Kính gởi quý vị thư ký
Lá thư của tôi gởi Đại hội Liên bang Nga lần thứ IX của Hiệp hội các Nhà văn đã không có một tiếng vang, một lời phúc đáp nào dù nó được hơn một trăm nhà văn tán thành. Chỉ có một lập luận, một giọng “đồng ca” cùng cất lên để trấn an quần chúng, phù hợp với một khẩu lệnh duy nhất do “trên” đưa xuống.
Bản thảo viết tay mấy tác phẩm bị cưỡng đoạt sẽ trả lại cho tôi.
Cuốn Trại ung thư và một tập truyện ngắn nữa sẽ được ấn hành.
Nhưng, như quý vị đã biết, đấy chỉ là tưởng tượng, dựng đứng hoàn toàn.
Các vị thư ký của Ủy ban Lãnh đạo Hội C. Markov, K.V. Voronkov, Sartakov và L. Solobev, trong buổi họp ngày 12 tháng 6 năm 1967, còn tuyên bố với tôi rằng Ủy ban Lãnh đạo quan niệm rằng Ủy ban có bổn phận phải lên án những lập luận bôi nhọ hạ cấp và sự xuyên tạc bẩn thỉu nhắm vào cá nhân và quá khứ quân sự của tôi. Vậy mà sự thanh minh của Ủy ban chưa ai thấy đâu hết mà sự bội nhọ lại gia tăng mạnh mẽ hơn nhiều.
Ngay trong các cuộc hội thảo của lớp đầu tạo đảng viên hoạt động, người ta còn đẻ ra một luận điệu ngu ngốc mới để đem ra phổ biến: “Alexandre Soljenitsyne sắp chuồn sang Ai Cập hoặc sang Anh”.
Tôi xin quý vị tác giả của luận điệu trên yên tâm vì cơ hội để chuồn ra ngoại quốc, tôi đâu có sẵn như quý vị!
Hơn nữa, các nhân vật tai to mặt lớn còn biểu lộ một cách hăng hái và ồn ào sự thất vọng nặng nề của họ khi tôi không chết trong nhà ngục mà lại được trả tự do.
Các luận điệu bôi nhọ lại càng được phổ biến một cách nặng nề và hăng hái sau khi cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch xuất bản. Bây giờ thì cuốn sách ấy đã được rút ra khỏi các thư viện công cộng một cách kín đáo.
Cũng chính các vị thư ký trên đã hứa sẽ chú trọng đến vấn đề, ít nhất cũng làm cho cuốn Trại ung thư được ấn hành. Nhưng ba tháng đã trải qua trong im lặng, chẳng thấy có gì hết. Trong ba tháng ấy, cả bốn mươi hai vị thư ký của Hội cũng mặc kệ, không ủng hộ tác giả để cuốn truyện được xuất bản. Vì thế, người ta thấy được một hiện tượng kỳ cục: thái độ thiếu nhiệt tình cấm in nó quân bình với nhau suốt cả một năm dài và đưa đến kết quả: sách không thể ra đời! Ngay trong hiện tại, tạp chí Novy Mir muốn đăng truyện Trại ung thư nhưng không được phép.
Phải chăng Thư ký đoàn muốn dùng biện pháp lần khân kéo dài tình trạng dùng dằng này để cho tác phẩm chưa biết bao giờ mới được ra đời rồi cuối cùng sẽ xé lẻ ra và bẻ gãy đi khiến cho nó không thành được chỗ đứng trong văn học sử!
Trong thời gian này, tác phẩm Trại ung thư đã gặt hái được nhiều thành quả hiển nhiên, đặc biệt hơn cả là thành quả nó thu hoạch được với giới văn nghệ. Có hơn một trăm bản đánh máy được độc giả tự phổ biến cho nhau ra ngoài. Do đó, trong cuộc họp ngày 12 tháng 6, tôi đã khuyến cáo Thư ký đoàn về tính chất cấp thiết của việc ấn hành cuốn Trại ung thư, ấn hành thực gấp rút. Nếu không chúng tôi sẽ phải chứng kiến cuốn Trại ung thư xuất bản lần thứ nhất sẽ không phải là sách viết bằng tiếng Nga vì chúng ta bất lực không có đủ quyền hạn để ngăn cản Tây phương xuất bản nó – nếu tình trạng này kéo dài. Vì sự lo lắng nói trên cho phép tôi chấm dứt thái độ im lặng nhẫn nhịn mà tôi đã cố giữ trong mấy tháng vừa qua. Tôi thấy đã đến lúc phải tuyên bố rằng:
“Nếu để cho cuốn tiểu thuyết Trại ung thư được xuất bản lần thứ nhất không phải là sáng tác viết bằng tiếng Nga, xuất bản ở Nga thì đấy là lỗi lầm (hay ý muốn thầm kín?) của Thư ký đoàn Ủy ban Chỉ đạo Hội Liên hiệp các Nhà văn Liên Xô.”
Bởi vậy, tôi xin nhấn mạnh lần chót rằng cuốn truyện này phải được ấn hành gấp rút, tức khắc.
Ngày 12 tháng 9 năm 1967
Nguồn: Trần Tử. Alexandre Soljenitsyne: Tác phẩm – Con người và Cuộc đời. Tủ sách Nhân Loại Mới, 1971.
Alexandre Soljenitsyne: Tác phẩm – Con người và Cuộc đời
Phần 2:
Thư gửi Đại hội Liên hiệp các nhà văn Xôviết
“Lịch sử nước Nga chúng ta chưa bao giờ đẹp hơn nhờ chủ trương chặn ngòi bút của nhà văn.”
A. Soljenitsyne
Kính gởi Chủ tịch đoàn và các đại biểu Hội Liên hiệp Các nhà văn Liên Xô
Kính gởi quý vị biên tập viên các tạp chí và nhựt báo
Không được sử dụng diễn đàn hội nghị, tôi yêu cầu đại hội nghiên cứu các vấn đề sau: “Chúng nó chỉ biết yêu thương người chết rồi”.
Hội Liên hiệp Các nhà văn Liên Xô, trong tương lai, phải quyết liệt chống đối lại chủ trương kiểm duyệt, hàng chục năm vẫn nô lệ hoá nền văn nghệ của chúng ta một cách không thể tha thứ được. Vốn không được hiến pháp ưng thuận, chủ trương kiểm duyệt rõ ràng có tính chất bất hợp pháp. Tuy vậy, kiểm duyệt – nấp sau danh hiệu mập mờ là cơ quan văn hoá Glavit và không được đưa ra công khai – vẫn đè nặng lên nền văn nghệ của xứ sở. Nhân viên kiểm duyệt – vô học về văn chương – vẫn chi phối được tư tưởng của các nhà văn.
Là sản phẩm thời Trung cổ dai dẳng đến ngày nay, chủ trương kiểm duyệt đã đem tàn tích của tổ tiên xa xưa chụp lên đầu nhân loại bên bờ thế kỷ (XX). Mang bản chất phá hoại và chí chóe nhưng kiểm duyệt lại giành lấy khả năng phân biệt những tác phẩm có và không có giá trị một trong thời gian vô cùng. Nó không thừa nhận cho nhà văn có quyền phát biểu và trình bày những nhận xét lớn cả về đời sống tinh thần và đời sống luân lý của con người và của xã hội; không cho nhà văn giải thích một cách độc lập những vấn đề xã hội, những kinh nghiệm lịch sử được đánh dấu một cách sâu đậm trong đời sống của xứ sở chúng ta.
Tác phẩm nào phản ảnh được những âu lo và những ý nghĩ chín chắn của quần chúng, tác phẩm nào có tác dụng đối với những dân trên địa hạt tinh thần hoặc trên sự tiến hoá của lương tâm nhân loại nhất thiết phải kiểm duyệt cấm chỉ hoặc đàn áp vì những lý do ích kỷ, ngắn hạn, bất chấp đến những đòi hỏi nội tại của đời sống quần chúng.
Đã có nhiều tác phẩm giá trị của nhiều nhà văn trẻ, không tên tuổi bị các tòa soạn từ chối vì “sách không qua kiểm duyệt”. Nhiều hội viên của Hội, kể cả một số đại biểu hiện diện tại Đại hội này hiểu rõ mức tai hại của sự đầu hàng kiểm duyệt như thế nào.
Phải nghe theo kiểm duyệt về nội dung và hình thức; phải thay đổi các chương của các tác phẩm, phải đổi và chọn một tiêu đề vô thưởng vô phạt v.v…
Nghĩa là tác giả phải phá hỏng tác phẩm hoàn toàn hết mong sửa chữa… chỉ để được ấn hành. Quy luật của văn chương sẽ làm cho tác phẩm mất hết giá trị chỉ vì sự sửa chữa này… khi tác giả của nó là một cây bút có tài. Ngược lại, tác phẩm của những cây bút hạng bét sẽ không bị hư hỏng gì hết vì sự sửa chữa này. Kết quả: phần tinh hoa của văn chương Nga chỉ được chào đời sau khi đã chịu một sự sửa chữa cắt xén như vậy của kiểm duyệt! Có gì thê thảm hơn?
Phải! Thực là thê thảm, cái lý do thông thường của kiểm duyệt viện ra “có hại về ý thức hệ” bệnh hoạn chỉ là những lý do chỉ có một giá trị ngắn hạn, cục bộ và đổi thay cũng vì quan điểm chính trị của con người.
Đã có thời người ta cấm cả Dostoievski, nhà văn đã làm cho văn chương của nhân loại bừng sáng rực rỡ! Ngay cả trong tác phẩm của “Đốt”, đâu đã được in đủ. Dostoievski vẫn bị loại ra khỏi công trình giáo dục của học đường, khỏi các thư viện quần chúng.
Không những thế mà thôi, văn hào còn bị bôi nhọ đủ thứ tội! Ngoài “Đốt”, còn khối nhà văn khác cũng bị áp dụng một chế độ khốc liệt.
Esenin trong bao năm qua, chẳng đã bị coi là một tên “phản cách mạng” là gì? Những người đọc và giữ sách của Esenin nào thoát khỏi lỗi thời?
Rồi Maiakovsky trước đây là gì ngoài nhãn hiệu “tên vô chính phủ khốn kiếp”?
Còn nhiều nữa: Thơ của nữ sĩ Akhmatova và bị coi là “chống chế độ Xôviết” trong mấy chục năm liền… Mười lăm năm trước, các cố gắng rụt rè nhằm vận động cho thơ của nữ sĩ thiên tài Tsvetaeva bị coi là một sai lầm chính trị lớn lao!
Bây giờ thì những nhà văn nhà thơ bị bôi nhọ đã được phục hồi danh dự một phần. Bounine Boulgakov và Platonow đã được trả lại chỗ ngồi… chậm vài chục năm! Mandelstam, Volochine và Kljonew ngày nay đã được phục hồi giá trị dễ dàng, không bị ngăn cản nữa. Và cuối cùng, ngày Zanjatire và Kumizev trở lại văn đàn cũng không còn xa nữa!
Những người nói trên được phục hồi trong những điều kiện vào ngày nhắm mắt của nhà văn bị bôi nhọ là một thời gian quan trọng: Chỉ có khi lìa đời rồi, nhà văn chống chế độ mới được phục hồi danh dự, sớm hay muộn tùy theo lúc có thể đưa ra một luận vụ về sự sai lầm của người quá vãng! Cách đây chưa lâu, ai dám nhắc đến Pasternak, sách của ông được in và có khi còn được bình trong các cuộc hội họp văn nghệ! Đúng như Louchkine đã tiên đoán: “Chúng nó chỉ yêu được người chết rồi”.
Giấy phép “phục hồi danh dự” sách được xuất bản của nhà văn đã chết có tên kể trên đâu có gì bù đắp nổi những thiệt hại về xã hội và văn nghệ mà dân tộc này phải chịu chỉ vì chủ trương để chậm quái gở kia, vì chủ trương nô lệ hoá lương tâm nghệ thuật (những nhà văn đàn anh trong chu kỳ thập niên thứ hai của thế kỷ này như Pilnjak Platonov và Mandelstam đã tố cáo chủ trương nô lệ hoá văn nghệ ngay khi những mầm mống của chủ trương thần thánh hoá cá nhân, tính chất bất thường, nơi cá tính Staline mới bắt đầu lộ liễu. Nhưng họ bị thanh toán ngay hoặc bị bịt chặt miệng tức khắc, có ai nghe được họ?).
Văn chương không thể phát triển được khi bị phân loại “loại chấp nhận được’, “loại phải loại bỏ” khi “phải viết về cái này”, “không được viết về cái kia”! Một nền văn chương không phải là khí trời của thời đại, không dám truyền đến cho xã hội những đau khổ và khát vọng của nhân loại, không tiếp nhận kịp thời những nguy cơ về xã hội và luân lý đang đe dọa con người, sẽ không xứng đáng là văn chương. Nó sẽ không được quang cảnh tin cậy. Sách vở của văn chương này đâu có phải viết để đọc; nó chỉ đáng đem hủy đi mà thôi.
Văn chương Nga ngày nay đã đánh mất vai trò dẫn đạo cho văn chương của nhân loại như nó đã giữ được trong thế kỷ vừa qua và đầu thế kỷ này. Nó cũng mất luôn tính chất thực nghiệm phong phú – yếu tính văn chương đã khiến cho nó sáng chói trong thời gian từ 1920 trở về trước. Sinh hoạt văn chương của chúng ta xuất hiện trước thế giới quá nghèo nàn với loại tác phẩm sản xuất hàng loạt đồng đều, một màu sắc hình thức, trông còn tồi tàn hơn sinh hoạt thực tế của nó. Đây là một sự thực để chứng minh vô cùng: văn chương Nga sẽ khởi sắc ngay khi nó không bị đàn áp, hạn chế.
Văn chương Nga nghèo nàn làm cho văn chương nhân loại nghèo nàn thêm và mặt khác nó càng làm cho dư luận thế giới có một định kiến nặng nề về xứ sở chúng ta. Tôi dám quyết rằng nếu khai thác được thành quả của văn chương Nga, giải thoát nó khỏi những móng vuốt kìm hãm, văn chương của nhân loại sẽ thu thập được những kinh nghiệm tinh thần và trí thức của chúng ta sâu xa hơn. Bước tiến nghệ thuật của nhân loại sẽ rẽ theo một bước ngoặt, được tất cả sinh lực để đạt tới một bình diện mới của sự phát triển.
Bởi vậy tôi tha thiết đề nghị Đại hội – bằng lối đầu phiếu - đi đến chỗ dẹp bỏ mọi hình thức kiểm duyệt – công khai và mật – đối với mọi sáng tạo nghệ thuật và cho các nhà xuất bản cái quyền được in mà khỏi phải trình báo và xin phép bất kỳ cơ quan nào.
1. Bao nhiêu tài năng đã tiêu ma trong tù ngục?
Nội quy của Hội Liên hiệp các Nhà văn Xôviết không nêu lên rõ ràng và chính xác bổn phận của Hội đối với các hội viên như: “Bảo vệ tác quyền của nhà văn”, “bảo vệ quyền lợi khác của nhà văn” v.v… nên chúng ta đã có một kinh nghiệm đau xót trong ba mươi năm vừa qua.
Chúng ta đã có một Hội Liên hiệp của các Nhà văn Xôviết không bảo vệ quyền lợi của các nhà văn: Hội đã không chú ý đến tác quyền và cũng không thèm bảo vệ các quyền lợi khác của các nhà văn bị đàn áp.
Rất nhiều nhà văn như Boulgakov, Akhmatova, Platonov, Alexandre, Grine, Zoshchenko, Tsvetaeva, Pasternak và Vassili Grossman, hồi sinh thời, đã bị bôi nhọ trong các trang báo, các diễn đàn công cộng mà không được cấp một phương tiện để tự vệ nào. Hội Liên hiệp các Nhà văn đã không cho họ sử dụng các cơ quan ngôn luận của Hội để biện minh chống đỡ mà còn phụ họa với kiểm duyệt chính các nhân vật lãnh đạo Hội đã là những người đi đầu trong hàng ngũ những người đã đàn áp họ. Những nhà văn nhà thơ đã làm cho văn học và nghệ thuật Nga thế kỷ XX có quyền kiêu hãnh đã bị khai trừ, bị ngăn cản nhưng không được gia nhập Hội. Các nhà lãnh đạo Hội vì hèn nhát đã bỏ rơi hội viên, để cho họ bị lưu đày tù tội và chết chóc: Pavel Vassitiev, Mendestam, Artem Vassely Lilnjak, Babel Tabidze Fabolotsky… và nhiều người khác nữa. Tôi nói nhiều, rất nhiều từ Đại hội XX đến nay đã có hơn sáu trăm nhà văn và nhà thơ hoàn toàn vô tội vẫn bị Hội Liên hiệp các Nhà văn – quá ngoan ngoãn với chính phủ – bỏ rơi trong tù và trên đất lưu đày!
Danh sách những người bất hạnh này chắc phải dài hơn nữa. Chắc chắn là đoạn chót còn dài hơn nữa, ngoài sự hiểu biết của chúng tôi. Tôi chỉ nắm được nơi đây tên tuổi của các nhà văn và nhà thơ trẻ mà tôi được quen biết một cách tình cờ, tài năng bị tiêu ma trong ngục tối, tác phẩm nằm chết trong căn phòng của cảnh sát chính thời Yagoda-Ezhov-Beria Abalaounov.
Các nhà lãnh đạo hội mới được bầu lên đâu có bị bắt buộc phải che giấu tội trạng của những nhà lãnh đạo Hôi tiền nhiệm, đâu có phải chịu trách nhiệm về những gì đã xảy ra trước nhiệm kỳ này.
Tôi xin đề nghị Đại hội hãy vạch ra một cách rõ ràng và cụ thể những sự bảo đảm về quyền tự vệ mà Hội sẽ dành cho các hội viên nạn nhân của những hành động bôi nhọ, những đàn áp phi lý và bất công ngõ hầu tiêu diệt những tệ đoan này trong tương lai, nơi chương XXII của nội quy.
*
Nếu Đại hội không muốn làm ngơ trước những gì trình bày trong xã hội này, tôi xin yêu cầu Đại hội nghiên cứu về những biện pháp cấm đoán và đàn áp mà bản thân tôi bị nếm trải.
Cuốn Nhóm thứ nhất (Le premier Cercle) của tôi đã bị cảnh sát chính trị cưỡng đoạt cách đây hai năm và ngăn cản không cho nó được ấn hành theo thủ tục thông thường… Rồi nó được ấn hành trong một lần “xuất bản đặc biệt, không thương mãi” ngoài ý muốn của tác giả, không được thông báo gì hết.
Như vậy qua kỳ xuất bản đặc biệt này, sách in cho một số người đặc biệt, các phần tử cạo giấy của văn chương đọc mà thôi, và đã bị cấm đoán không được ra mắt đa số các nhà văn chân chính, nói gì đến quần chúng.
Tôi không có phương tiện đưa cuốn tiểu thuyết này ra thảo luận tự do trước Hội Liên hiệp các Nhà văn và cũng bị bó tay không ngăn cản được những hành vi lợi dụng đạo văn.
Một số bằng hữu viết từ mười lăm đến hai mươi năm nay, nhiều tác phẩm viết không để xuất bản cũng bị cưỡng đoạt nốt! Rồi người ta đã đem ra trích với một dụng ý rõ rệt, rồi đem in thành một ấn phẩm “xuất bản đặc biệt, không thương mãi” cho những người đặc biệt nói trên đọc.
Trong tập này, có một bản bi kịch thơ tên là Bữa tiệc của những người chiến thắng. Bi kịch này do tôi viết lúc đầy uất hận tại tập trung, bắt tù nhân mang số hiệu trước ngực, sau lưng, trên mũ, cánh tay, nghĩa là nơi chúng tôi bị xử tử cho chết dần bằng cách bỏ đói, bị xã hội bên ngoài bỏ quên, không một ai lên tiếng tố cáo sự đàn áp chúng tôi trong tù. Tác phẩm này đã bị tôi bỏ sau Đại hội XX của Đảng nhưng bây giờ lại được gắn cho nhãn hiệu “sáng tác mới nhất của Soljenitsyne”.
Đối với tôi, người đã tham gia chiến đấu trên cương vị một pháo đội trưởng của quân chủng pháo, được gắn huân chương quân công ngay tại chiến trường, người ta đã đối phó bằng một chiến dịch bôi nhọ kéo dài từ ba năm nay với những lập luận vô nghĩa nào là “Soljenitsyne bị bắt vì tội tư pháp”, nào “Soljenitsyne đã nhảy sang hàng ngũ Đức, hoạt động bên cạnh người Đức, phản bội tổ quốc” v.v…
Người ta phải đưa những lập luận nói trên mới giải thích được việc giam giữ và lưu đày tôi trong mười một năm liền vì tội chỉ trích Staline. Tôi được biết rõ ràng rằng trong các lớp huấn luyện hoạt động đảng viên của Đảng, trong các cuộc họp, nhiều nhân vật có thẩm quyền của Đảng đã thừa nhận các lập luận bôi nhọ này.
Để biện minh và tự vệ, tôi đã khẩn thiết yêu cầu Hội Nhà văn và báo chí giúp tôi minh oan. Báo chí không đăng bài trả lời của tôi, các nhà lãnh đạo Hội cũng làm thinh không trả lời cho tôi. Ngược lại, dựa vào bản thảo cưỡng đoạt được, đem về sửa lại với chủ ý xuyên tạc, năm nay người ta lại tổ chức một chiến dịch bôi nhọ mạnh mẽ gấp đôi trước kia từ những diễn đàn cao đẳng hơn mà không cho tôi một phương tiện trả lời nào hết, và nhắc nhở!
Phần thứ nhất cuốn tiểu thuyết Trại ung thư – được phân bộ tiểu thuyết của Phân hội các Nhà văn Mạc Tư Khoa chấp nhận – chỉ được trích in rời rạc. Năm tạp chí đã từ chối (như Juesda và Prostor chẳng hạn) hoặc không in đúng với nguyên tác như Novy Mir…
Bi kịch Con hươu và nàng kỹ nữ của nhà tù, được kịch viên Sovremenik chọn lựa trình diễn từ năm 1952, đến nay vẫn không được phép đưa lên sân khấu.
Chuyện phim Chiến xa xung kích biết sự thực, bi kịch Ánh sáng ở trong người… và những truyện ngắn “nho nhỏ” của tôi không tìm ra đạo diễn và nhà xuất bản mặc dầu nhiều người muốn.
Truyện của tôi đăng trên tạp chí Novir bị cắt nát ra, không thể tập trung thành một cuốn truyện. Ngoài ra, các cơ quan văn nghệ, tỉ dụ như: Sovietsky, Pisatel, Goslitzzdat, Bibliotheka Ovonyka… đều không được phép phổ biến tác phẩm của tôi. Do đó, mọi tác phẩm của tôi không đến tận quảng đại quần chúng.
Mặt khác, tôi bị tước đoạt hết mọi biện pháp tiếp xúc với độc giả. Như những buổi đọc truyện của tôi trên đài phát thanh chẳng hạn, trước đây đã được ấn định là 10 buổi trong tháng 11 năm 1966 đã bị cúp đến 9 lần vào giờ chót.
Ngoài ra, việc cho người khác đọc và chép lại một thủ bản tác phẩm – vốn là một việc làm tự do cách đây 5 thế kỷ dưới thời Nga hoàng dành cho giới chép sách – bây giờ lại là một việc làm phạm pháp, tại xứ sở này, riêng với tôi. Do đó, việc sáng tác của tôi bị bóp chết cứng, cá nhân bị giam hãm và bôi lọ đủ điều.
Tôi không hiểu rằng trước sự vi phạm thô bạo tác quyền và các quyền khác nữa của nhà văn, Đại hội lần thứ tư của Hiệp hội các Nhà văn liên bang Nga có lên tiếng bênh vực và bảo vệ nạn nhân – là tôi – hay không?
2. Tôi đã sẵn sàng chết cho sự thực sống và tiến lên
Một quyết định như vậy hết sức quan trọng. Nó sẽ có một tác dụng quyết định đối với sự nghiệp văn chương của một số đại biểu tại đại hội này trong tương lai.
Về phần đông tôi hoàn toàn yên tâm vì tôi biết chắc rằng tôi sẽ làm tròn thiên chức của nhà văn trong mọi hoàn cảnh. Tôi biết riêng sứ mạng của nhà văn và như tôi sẽ được hoàn tất một cách rõ ràng đầy vinh quang khi tôi không còn có mặt ở cõi đời nữa.
Nhưng không có một ai ngăn cản được sự thực xuất hiện; riêng cá nhân tôi, tôi rất sẵn lòng chết cho sự thực sống và tiến lên…
Hy vọng rằng những bài học đã nhận được sẽ làm cho chúng ta biết rõ rằng không nên chặn ngòi bút của nhà văn lúc sinh tồn…
Vì chưa bao giờ lịch sử của ta đẹp hơn lên vì chủ trương ấy.
Alexandre Soljenitsyne
16-5-1967
*
Phần 3: Thư gởi thư ký đoàn Hội các Nhà văn
Kính gởi Thư ký đoàn Hội Liên hiệp các Nhà văn
Kính gởi quý vị thư ký
Lá thư của tôi gởi Đại hội Liên bang Nga lần thứ IX của Hiệp hội các Nhà văn đã không có một tiếng vang, một lời phúc đáp nào dù nó được hơn một trăm nhà văn tán thành. Chỉ có một lập luận, một giọng “đồng ca” cùng cất lên để trấn an quần chúng, phù hợp với một khẩu lệnh duy nhất do “trên” đưa xuống.
Bản thảo viết tay mấy tác phẩm bị cưỡng đoạt sẽ trả lại cho tôi.
Cuốn Trại ung thư và một tập truyện ngắn nữa sẽ được ấn hành.
Nhưng, như quý vị đã biết, đấy chỉ là tưởng tượng, dựng đứng hoàn toàn.
Các vị thư ký của Ủy ban Lãnh đạo Hội C. Markov, K.V. Voronkov, Sartakov và L. Solobev, trong buổi họp ngày 12 tháng 6 năm 1967, còn tuyên bố với tôi rằng Ủy ban Lãnh đạo quan niệm rằng Ủy ban có bổn phận phải lên án những lập luận bôi nhọ hạ cấp và sự xuyên tạc bẩn thỉu nhắm vào cá nhân và quá khứ quân sự của tôi. Vậy mà sự thanh minh của Ủy ban chưa ai thấy đâu hết mà sự bội nhọ lại gia tăng mạnh mẽ hơn nhiều.
Ngay trong các cuộc hội thảo của lớp đầu tạo đảng viên hoạt động, người ta còn đẻ ra một luận điệu ngu ngốc mới để đem ra phổ biến: “Alexandre Soljenitsyne sắp chuồn sang Ai Cập hoặc sang Anh”.
Tôi xin quý vị tác giả của luận điệu trên yên tâm vì cơ hội để chuồn ra ngoại quốc, tôi đâu có sẵn như quý vị!
Hơn nữa, các nhân vật tai to mặt lớn còn biểu lộ một cách hăng hái và ồn ào sự thất vọng nặng nề của họ khi tôi không chết trong nhà ngục mà lại được trả tự do.
Các luận điệu bôi nhọ lại càng được phổ biến một cách nặng nề và hăng hái sau khi cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch xuất bản. Bây giờ thì cuốn sách ấy đã được rút ra khỏi các thư viện công cộng một cách kín đáo.
Cũng chính các vị thư ký trên đã hứa sẽ chú trọng đến vấn đề, ít nhất cũng làm cho cuốn Trại ung thư được ấn hành. Nhưng ba tháng đã trải qua trong im lặng, chẳng thấy có gì hết. Trong ba tháng ấy, cả bốn mươi hai vị thư ký của Hội cũng mặc kệ, không ủng hộ tác giả để cuốn truyện được xuất bản. Vì thế, người ta thấy được một hiện tượng kỳ cục: thái độ thiếu nhiệt tình cấm in nó quân bình với nhau suốt cả một năm dài và đưa đến kết quả: sách không thể ra đời! Ngay trong hiện tại, tạp chí Novy Mir muốn đăng truyện Trại ung thư nhưng không được phép.
Phải chăng Thư ký đoàn muốn dùng biện pháp lần khân kéo dài tình trạng dùng dằng này để cho tác phẩm chưa biết bao giờ mới được ra đời rồi cuối cùng sẽ xé lẻ ra và bẻ gãy đi khiến cho nó không thành được chỗ đứng trong văn học sử!
Trong thời gian này, tác phẩm Trại ung thư đã gặt hái được nhiều thành quả hiển nhiên, đặc biệt hơn cả là thành quả nó thu hoạch được với giới văn nghệ. Có hơn một trăm bản đánh máy được độc giả tự phổ biến cho nhau ra ngoài. Do đó, trong cuộc họp ngày 12 tháng 6, tôi đã khuyến cáo Thư ký đoàn về tính chất cấp thiết của việc ấn hành cuốn Trại ung thư, ấn hành thực gấp rút. Nếu không chúng tôi sẽ phải chứng kiến cuốn Trại ung thư xuất bản lần thứ nhất sẽ không phải là sách viết bằng tiếng Nga vì chúng ta bất lực không có đủ quyền hạn để ngăn cản Tây phương xuất bản nó – nếu tình trạng này kéo dài. Vì sự lo lắng nói trên cho phép tôi chấm dứt thái độ im lặng nhẫn nhịn mà tôi đã cố giữ trong mấy tháng vừa qua. Tôi thấy đã đến lúc phải tuyên bố rằng:
“Nếu để cho cuốn tiểu thuyết Trại ung thư được xuất bản lần thứ nhất không phải là sáng tác viết bằng tiếng Nga, xuất bản ở Nga thì đấy là lỗi lầm (hay ý muốn thầm kín?) của Thư ký đoàn Ủy ban Chỉ đạo Hội Liên hiệp các Nhà văn Liên Xô.”
Bởi vậy, tôi xin nhấn mạnh lần chót rằng cuốn truyện này phải được ấn hành gấp rút, tức khắc.
Ngày 12 tháng 9 năm 1967
Nguồn: Trần Tử. Alexandre Soljenitsyne: Tác phẩm – Con người và Cuộc đời. Tủ sách Nhân Loại Mới, 1971.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)