Tăng Mức lương tối thiểu ở Hoa Kỳ: Thuận Hay Chống?

Mức lương tối thiểu luôn là vấn đề thu hút mối quan tâm của hầu hết người dân Mỹ vì nó liên quan đến nhiều thành phần kinh tế trong xã hội đặc biệt giới chủ nhân của các công ty bán lẻ, nhà hàng, khách sạn, và giới công nhân với lương thấp.  Từ đầu năm 2013 đến nay, mức lương tối thiểu ở Hoa Kỳ được bàn đến nhiều hơn vì Tổng thống Obama không những kêu gọi tăng mức lương tối thiểu áp dụng cho nhân viên làm việc trong những hợp đồng với chánh phủ liên bang mà còn yêu cầu Quốc Hội chấp thuận mức lương mới cho toàn quốc. Chúng ta sẽ bàn đến hai sự kiện này trong bài phân tách này.

Tăng mức lương tối thiểu cho hợp đồng chính phủ liên bang

Tổng thống Obama vừa ký sắc lệnh hành pháp vào ngày 12-2-2014 để tăng mức lương tối thiểu từ $7.25 lên $10.10 mỗi giờ cho những người làm việc trong các hợp đồng mới và những hợp đồng thay thế cho những hợp đồng hết hạn với chánh phủ liên bang kể từ ngày 1.1.2015. Mức lương hiện nay sẽ tăng ba lần, mỗi lần 95 xu.

Sắc lệnh này cũng được áp dụng cho những công nhân được hưởng tiền thưởng (tip) để bảo đảm rằng họ sẽ thu nhập tổng cộng ít nhất $10.10/giờ bao gồm tiền thưởng và lương căn bản do người sử dụng công nhân trả.  Hiện nay lương căn bản tối thiểu là $2.43/giờ.  Lương căn bản này không thay đổi trong 20 năm nay.  Theo sắc lệnh kể trên lương căn bản tối thiểu sẽ là $4.90/giờ.  Mức lương này sẽ tăng 95 xu mỗi năm cho đến khi nó bằng 70% của mức lương tối thiểu bình thường.

Theo luật lệ hiện hành, công nhân tàn tật được trả lương thấp vì năng suất thấp so với những người làm cùng một việc trong những chương trình được chứng nhận đặc biệt.  Theo sắc lệnh của Tổng thống Obama, những công nhân tàn tật cũng được trả lương bình đẳng như những người khác trong hợp đồng với chánh phủ. [1]

Theo một viên chức của chánh phủ, sắc lệnh của Tổng thống Obama ảnh hưởng tới 2 triệu công nhân. [2]  Đây là một con số khá nhỏ vì sắc lệnh này chỉ áp dụng vào những hợp đồng mới hoặc những hợp đồng được tái tục với những thay đổi. Sắc lệnh này chỉ áp dụng cho khu vực công trong thẩm quyền của hành pháp.  Để có thể áp dụng mức lương tối thiểu đồng đều trên toàn quốc kể cả khu vực tư, Hoa Kỳ cần phải có một đạo luật được Quốc Hội phê chuẩn.

Dự luật mức lương tối thiểu công bằng của 2013

Tiếp theo lời kêu gọi tăng mức lương tối thiểu ở Hoa Kỳ của Tổng thống Obama trong bài diễn văn về tình trạng liên bang vào đầu năm 2013, TNS Tom Harkin (Dân Chủ, Iowa) và DB George Miller (Dân Chủ, California) đã đệ trình lên Quốc Hội Hoa Kỳ dự luật Fair Minimum Wage Act of 2013 (Dự Luật Mức Lương Tối Thiểu Công Bằng Của Năm 2013). Dự luật này có những điểm chính tương tự như sắc lệnh của Tổng Thống Obama:

  1. Tăng mức lương tối thiểu liên bang từ $7.25 lên đến $10.10/giờ trước 1.1.2015 bằng ba bước, mỗi lần tăng 95 xu.
  2. Điều chỉnh mức lương tối thiểu liên bang theo giá sinh hoạt gia tăng bắt đầu từ năm 2016. Hiện nay đã có 10 tiểu bang thi hành biện pháp này.
  3. Tăng mức lương tối thiểu liên bang của các công nhân được hưởng tiền thưởng (tip) từ $2.13/giờ trong hơn 20 năm vừa qua lên đến 70% của mức lương tối thiểu liên bang bình thường.
Ý kiến thuận

Theo thống kê của Bộ Lao Động Hoa Kỳ, mức lương tối thiểu liên bang theo giờ ở Mỹ đã tăng từ $0.25 vào năm 1938, lên đến $1.60 vào năm 1968, và từ 2009 đến nay là $7.25. Nếu tính theo giá cố định của năm 2012 để loại trừ ảnh hưởng của lạm phát, mức lương tối thiểu của ba năm 1938, 1968, và 2012 sẽ lần lượt là $4.07, $10.56, và $7.25.  Do đó mức lương tối thiểu hiện nay thấp hơn cả mức lương của 1968.


 Tính đến ngày 1/1/2014, 19 tiểu bang có mức lương tối thiểu cao hơn mức lương tối thiểu của liên bang. Trong số này Michigan có mức lương tối thiểu thấp nhất là $7.40 và Washington có mức lương tối thiểu cao nhất là $9.32. California sẽ có mức lương tối thiểu là $9.00 vào tháng 7, 2014. [3]Delaware vào cuối tháng 1 vừa qua cũng đã thông qua một đạo luật để tăng mức lương tối thiểu từ $7.25 lên đến $7.75 vào 1-6-2014 và $8.25 vào 1-6-2015. District of Columbia vào năm ngoái quyết định tăng mức tối thiểu từ $8.25 lên $11.50 trước 2016. Thành phố SeaTac của tiểu bang Washington vào cuối năm 2013 đã chấp thuận nâng mức lương tối thiểu từ $9.19 (áp dụng cho toàn tiểu bang) lên $15. Mức lương mới đã bắt dầu có hiệu lực vào ngày 1-1-2014. Tuy nhiên nhiều cơ sở thương mại nhỏ được miễn trả lương tối thiểu mới này.

Lương tối thiểu ở Hoa Kỳ hiện nay tương đương với 27% mức lương trung bình, thấp hơn tất cả những quốc gia trong Tổ Chức Hợp Tác và Phát Triển Kinh Tế (Organization for Economic Co-operation and Development – OECD), ngoại trừ Mexico, so với con số của Pháp là gần 50% vào năm 2012.  Đan Mạch là một những quốc gia có lợi tức tương đối quân bình và có đời sống hạnh phúc nhất. Lương tối thiểu khoảng $20/giờ ở Đan Mạch được quy định bởi một số nhóm chủ nhân và một số nghiệp đoàn. [4]



Cũng theo thống kê của Bộ Lao Động Hoa Kỳ, hiện nay chỉ có khoảng 1.6 triệu công nhân lãnh lương ở mức tối thiểu trong năm 2012, chiếm khoảng 2.1%  của số công nhân làm việc theo giờ. Gần 1/3 số người này là trẻ em thuộc lớp tuổi 16-19 được phép làm việc với một số giờ giới hạn. Khoảng 2/3 còn lại trong lớp tuổi 20 trở lên. Không phải tất cả những người trong nhóm thứ hai này đều  nghèo.

Dự Luật Mức Lương Tối Thiểu Công Bằng Của Năm 2013 sẽ ảnh hưởng đến rất nhiều người nếu kể cả những công nhân hiện nay có lương dưới $10.10. Theo một cuộc nghiên cứu của Viện Nghiên Cứu Chính Sách Kinh Tế (Economic Policy Institute), Dự Luật Mức Lương Tối Thiểu Công Bằng Của Năm 2013 sẽ tăng lợi tức của hơn 30 triệu công nhân, tạo thêm 140,000 việc làm toàn thời gian mới, và giúp nền kinh tế phát triển thêm $32 tỉ. [5]

Một cuộc nghiên cứu mới đây của Trung Tâm Nghiên Cứu Kinh Tế và Chánh Sách (Center for Economic and Policy Research) cho thấy rằng tăng mức lương tối thiểu không làm giảm đáng kể số việc làm. [6]

Một cuộc nghiên cứu khác của Arindrajit Dube, T. William Lester, và Michael Reich vào năm 2010 đưa đến một kết luận rằng việc tăng mức lương tối thiểu không ảnh hưởng đến việc làm sau khi các tác giả đã so sánh mức việc làm của 250 quận kế cận nhau với mức lương tối thiểu khác nhau trong hai năm 1990 và 2006. [7]

Một cuộc nghiên cứu tương tự của Sylvia A. Allegretto, Arindrajit Dube, và Michael Reich  vào năm 2011 đã tìm thấy rằng gia tăng mức lương tối thiểu ngay cả trong thời gian có mức thất nghiệp cao cũng không làm mất việc. [8]

Theo những cuộc nghiên cứu của National Employment Law Project, việc tăng mức lương tối thiểu không ảnh hưởng đến giới tiểu thương vì 2/3 công nhân với lương thấp làm việc cho những công ty lớn có 100 nhân viên trở lên. Những công ty lớn mướn nhiều công nhân với lương thấp những chuỗi công ty bán lẻ như Walmart, Kmart, và Target hay chuỗi nhà hàng bán thức ăn nhanh như McDonald và Burger King lời nhiều sẵn sàng trả lương tối thiểu cao hơn. [9]

Một câu hỏi được đặt ra là tăng mức lương tối thiểu có làm tăng mức lạm phát hay không? Nếu xảy ra như vậy, tăng lương không có ích lợi gì cả.  Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng tăng mức lương tối thiểu lên 10% chỉ tăng giá thực phẩm lên không quá 4% và giá toàn bộ lên không quá 0.4%. [10]

Một nghiên cứu của Daniel Aaronson ước tính rằng tăng mức lương tối thiểu 10% sẽ làm tăng giá burger của McDonald, gà của KFC và pizza của Pizza Hut cũng khoảng 10%.  Điều này chứng tỏ rằng các công ty bán đồ ăn nhanh đã chuyển giá phí nhân công gia tăng qua người tiêu thụ, không ảnh hưởng gì đến số việc làm. [11]

Nhiều nhà nghiên cứu kinh tế tin rằng 30 triệu công nhân gần như chắc chắn sẽ dùng số lợi tức có thêm do mức lương tối thiểu tăng vào những chi tiêu cần thiết và do đó họ sẽ đóng góp vào sự phát triển kinh tế. Mặt khác, tăng mức lương tối thiểu làm giảm tỉ lệ thôi việc, tăng tinh thần công nhân, và cải thiện năng suất.

Ý kiến chống

Lương bổng là giá định đoạt bởi thị trường cũng như gạo hay than. Một số không ít kinh tế gia nhận định rằng tăng mức lương tối thiểu là phản lại luật cung cầu trong một hệ thống kinh tế tự do. Tăng mức lương tối thiểu bằng luật pháp là tăng giá nhân công một cách giả tạo. Làm như thế là giảm số việc làm và hậu quả là nạn thất nghiệp tăng. Khi giá nhân công tăng, chủ nhân thường có khuynh hướng giảm số nhân công xuống và trong dài hạn mức cầu giảm nhiều hơn ngắn hạn vì chủ nhân tìm những phương pháp sản xuất tiết kiệm nhân công.



Khi tăng mức lương tối thiểu, số công nhân tiếp tục có việc làm được hưởng lương cao hơn. Số công nhân mất việc, hoặc số giờ làm việc bị cắt bớt đi hoặc không kiếm được việc làm với mức lương tối thiểu mới thường là những người trẻ không có kinh nghiệm hoặc chuyên môn cần thiết. Nhiều bằng chứng cho thấy rằng tăng 10% mức lương tối thiểu làm giảm từ 1% đến 3% số việc làm của số công nhân ít kinh nghiệm trong ngắn hạn và số việc làm mất đi sẽ lớn hơn trong dài hạn.  [12]

Vào tháng Hai vừa qua Văn Phòng Ngân Sách Quốc Hội (Congressional Budget Office - CBO) đã công bố phúc trình về ảnh hưởng của dự luật tăng mức lương tối thiểu.  Theo đó, tăng lương sẽ giúp 900,000 người thoát ra khỏi sự nghèo khó nhưng sẽ làm mất 500,000 việc làm tức là khoảng 0.3% lực lượng lao động.  [13]Tuy nhiên CBO nhìn nhận rằng đây chỉ là những ước tính. Số việc làm thực sự bị mất có thế từ không đáng kể (very slight) cho đến 1 triệu.  [14]

Ngoài phúc trình của CBO, khá nhiều nghiên cứu khác trước đó cũng đã nói rằng tăng lương tối thiểu sẽ tăng mức thất nghiệp.  [15] Chúng ta trích dẫn ở đây một hai thí dụ.  Theo James Dorn, vào năm 2007, trước khi xẩy ra khủng hoảng kinh tế lớn, tỉ lệ thất nghiệp của lớp tuổi 14-19 da đen là 29%. Nay tỉ lệ này trên 40%.  Ông kết luận đây là hậu quả của việc tăng mức lương tối thiểu của liên bang từ $5.15 lến $7.25. [16]

Joseph Sabia, Richard Burkhauser, và Benjamin Hansen tìm thấy rằng khi tiểu bang New York tăng lương tối thiểu từ $5.15 lên $6.75 trong 2004-06, khoảng 20.2% đến 21.8% thành phẩn trẻ ít học mất việc làm, trong đó lớp tuổi 16-24 bị thiệt hại nhiều nhất. [17]

Việc áp dụng mức lương tối thiểu vi phạm quyền tự do lựa chọn của cả chủ nhân lẫn công nhân. Thật vậy những luật mức lương tối thiểu cấm chủ nhân không được mướn nhân công với giá thị trường thấp hơn mức lương do luật pháp ấn định. Nó cũng cấm những công nhân chấp nhận lương thấp để có việc làm thay vì thất nghiệp, nghĩa là không có lợi tức nào cả.

Phần lớn những chủ nhân không dễ tăng giá bán để bù vào mức lương tối thiểu cao hơn, đặc biệt trong khu vực dịch vụ cạnh tranh cao. Giả sử nếu chủ nhân có thể tăng giá, người tiêu thụ sẽ bớt tiêu dùng và như thế sẽ làm giảm số việc làm. Nếu lợi tức của chủ nhân giảm vì mức lương tối thiểu gia tăng, họ sẽ bớt đầu tư và kinh tế sẽ phát triển yếu đi.

Kết luận

Một trong những đạo luật đầu tiên ở Hoa Kỳ về lương tối thiểu là đạo luật của tiểu bang Oregon được thông qua vào năm 1913. Đạo luật chỉ thị thành lập Hội Đồng An Sinh Công Nghiệp (Industrial Welfare Commission). Hội Đồng này đã ấn định số giờ làm việc mỗi tuần là 50 giờ, 9 giờ mỗi ngày, thời gian nghỉ ăn trưa là 45 phút, và tiền lương mỗi tuần không được dưới $8.64, tức là 17.3 xu mỗi giờ. [18] Một trong những nghiên cứu đầu tiên về ảnh hưởng của mức lương tối thiểu ở Hoa Kỳ được thực hiện vào 1915.  Cho tới nay đã gần một thế kỷ, nhiều nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục làm công việc này, nhất là mỗi khi chánh quyền bị áp lực phải tăng mức lương tối thiểu. Như chúng ta đã thấy ở trên, kết quả vẫn không rõ ràng.

Phe ủng hộ thì lập luận rằng tăng lương tối thiểu giúp công nhân lương thấp thoát khỏi nghèo khó. Phe chống chứng minh rằng tăng lương tối thiểu làm tăng mức thất nghiệp. Kinh tế học không phải là một khoa học chính xác nên không phe nào đưa ra được những chứng cớ thuyết phục tuyệt đối. Công nhân cần cơm ăn áo mặc hàng ngày không thể chờ đợi các kinh tế gia tìm ra chân lý. Cuối cùng lý lẽ nhường cho cảm tính.

Theo DB George Miller (Dân Chủ, California) 40% số công nhân Hoa Kỳ phải chịu một mức lương tối thiểu có giá trị thấp hơn mức lương gần một nửa thế kỷ trước.  Một điều trái với đạo đức. [19]  Đa số công luận ở Hoa Kỳ xem ra đồng ý với Ông Miller.

Theo kết quả của một cuộc điều nghiên của Viện Gallup vừa được phổ biến vào ngày 17-2-2014, gần 25% của số người được phỏng vấn nói rằng họ lo ngại nhiều nhất về nạn thất nghiệp. [20] Việc làm luôn luôn là một vấn đề nóng bỏng, nhất là trong năm bầu cử giữa nhiệm kỳ 2014.

Một cuộc khảo sát gần đây của CNN cho thấy 73% số người được phỏng vấn ủng hộ tăng mức lương tối thiểu trên toàn quốc Hoa Kỳ. [21]  Cuộc thăm dò ý kiến của Christian Science Monitor tìm thấy rằng 62% số người được hỏi tán thành việc tăng mức lương tối thiểu từ $7.25 lên $10.10 trong khi đó 37% chống đối. Tuy nhiên, khi được nhắc tới tiên đoán của CBO về hậu quả mất 500,000 việc làm, tỉ lệ số người ủng hộ tăng lương tối thiểu giảm xuống và tỉ lệ chống tăng lên cùng tới mức 49%. [22]

Không có một thị trường hoàn toàn tự do và có sự cạnh tranh hoàn hảo trong thế giới này do những luật lệ ràng buộc và ảnh hưởng của những nhóm lợi ích.  Do đó, can thiệp của chánh quyền là cần thiết trong một số trường hợp như chống độc quyền, lợi tức chênh lệch, và giảm nghèo. Do đó, chúng ta nên hỗ trợ dự luật tăng mức lương tối thiểu liên bang.  Mặc dù đây cũng chỉ là một giải pháp ngắn hạn. Giáo dục và huấn luyện công nhân nâng cao kỹ năng là một giải pháp dài hạn cần thiết.



[1] Office of the Press Secretary, “Fact sheet – Opportunity for all: Rewarding hard work,” The White House, February 12, 2014.
[2] Ed Henry, “Obama to sign executive order raising minimum wage for federal contractors,” FoxNews, January 28, 2014.
[3] Jordan Weissmann, “Should We Raise the Minimum Wage? 11 Questions and Answers,” The Atlantic, December 16, 2013.
[4] Peter Coy, “What a higher minimum wage does for workers and the economy,” Business Week, November 27, 2013.
[5] David Cooper, “Raising The Federal Minimum Wage to $10.10 Would Lift Wages for Millions and Provide a Modest Economic Boost,”  Economic Policy Institute, December 19, 2013.
[6] John Smith, “Why does the minimum way have no discernible Effect on Employment?” Center for Economic and Policy Research, February 2013.
[7] Arindrajit Dube, T. William Lester, và Michael Reich, “Minimum wage effects across state borders: Estimates using contiguous counties,” The Review of Economics and Statistics, November 2010.
[8] Sylvia A. Allegretto, Arindrajit Dube, và Michael Reich, “Do minimum Wages really reduce teen employment? Accounting for heterogeneity and selectivity in state panel data,” Industrial Relations, April 2011.
[9] National Employment Law Project, “Big business, Corporate profits, and the minimum wages,” July 2012.
[10] Sara Lemos, “A survey of the effect of the minimum wage on prices,” Journal of Economic Surveys, Volume 22, Issue 1, February 2008.
[11] Daniel Aaronson, “Price pass-through and the minimum wage,” The Review of Economics and Statistics, February 2001.
[12] James Dorn, “The minimum wage delusion, and the dead of common sense,” Forbes, May 07, 2013.
[13] Theo chánh phủ liên bang, mức nghèo khó của 2013 cho một gia đình bốn người là $23,550. Đối với Hawaii và Alaska con số này lần lượt là $27,090 và $29,440.
[14] Zachary A. Gildfarb, “Minimum wage hike would help alleviate poverty but could kill jobs, CBO reports,” Washington Post, February 18, 2014.
[15] Jonathan Meer và Jeremy West; Joseph Sabia, Richard Burkhauser, và Benjamin Hansen; David Newmark và William Wascher; James Dorn.
[16] James Dorn, “The minimum wage delusion, and the dead of common sense,” Forbes, May 07, 2013.
[17] Joseph Sabia, Richard Burkhauser, và Benjamin Hansen, “Are the Effects of Minimum Wage Increases Always Small? New Evidence from a Case Study of New York State,” San Diego State University, Cornell University, and University of Oregon, January 2012.
[18] Dave, “February 17, 1913: Oregon enacts first minimum wage law,” DaveKnows, February 17, 2011.
[19] Kenneth Quinnell, “Miller & Harkin introduce Bill to raise minimum wage to $10.10,” AFL-CIO, March 5, 2013.
[20] Susan Davis, “CBO Report: Minimum wage hike could cost 500,000 jobs,” USA Today, February 18, 2014.
[21] Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ, “Mỹ tăng lương tối thiểu cho nhân viên hợp đồng chính phủ,” 28-01-2014.
[22] Mark Trumbull, “Fed’s Yellen on minimum wage hike: CBO got it right, it would cost jobs,” Christian Science Monitor, January 17, 2014.
---------------

Nguyễn Quốc Khải

Ông Nguyễn Quốc Khải nguyên là tham vấn và chuyên viên nghiên cứu kinh tế tại Ngân Hàng Thế Giới. Ông cũng từng làm tham vấn cho Đài Á Châu Tự Do và là giáo sư thỉnh giảng (professorial lecturer) tại Johns Hopkins 
University.

Source : VOA