12/6/11

Aleksandr I. Solzhenitsyn -Bất ngờ tại nhà ga Krechetovka (3)

Aleksandr I. Solzhenitsyn
Bất ngờ tại nhà ga Krechetovka

Lê Vũ dịch


3

.........

"Nó vào loại toa có cân ghi Tám ngựa hay mười bốn người thường dùng trong thời nội chiến ấy".

"Vậy là toa mười sáu tấn rồi. Ông nhớ là không có lính hộ tống hả?"

"Hình như không có thì phải".

Từ buồng bên cô Valia gọi vọng sang:

"Vassily!"

Có tiếng cô nói tiếp vào điện thoại:

"Đây là sở chuyến hàng quân đội!"

Rồi cô cao giọng gọi tiếp:

"Trung uý có muốn nói chuyện với Đại uý không?"

"Không biết tôi có nên nói chuyện với Đại uý không. Có thể hàng hoá ấy không phải là hàng hoá của nhà binh".

"Trung uý có muốn em tìm xem việc này ra sao không?"

"Valia, xin cô vui lòng tìm xem sao nhé. Có thể số chăn ấy chỉ là hàng tạm chuyển đi nơi khác thôi, ai biết được? Bảo họ xoát xét lại số hàng ấy cho thật kỹ lưỡng, lập bản kê khai rõ ràng, rồi niêm phong lại, cô chịu khó để ý xem mọi công việc ấy có được đầy đủ không nhé".

"Được Vassily, trung uý cứ để em làm".

"Cảm ơn cô Valia hết sức, cảm ơn lắm nhé, cô thật là tháo vát quá!"

Valia mỉm cười với chàng, mái tóc quăn xoã xuống mặt:

"A lô! Michurinsk-Uraisky…?"

Zotov đóng cửa lại, chàng vẫn còn xúc động lắm, chàng đi đi lại trong phòng riêng, hai nắm tay chàng đấm đấm vào nhau Chàng hậm hực:

"Ta không thể nào giải quyết hết mọi việc được, thế mà họ không cho thêm mình một người phụ giúp nào cả! Số chăn ấy có thể bị người ta ăn cắp mất hết. Chắc có một số bị mất rồi cũng nên!"

Chàng cứ đi lại trong phòng một hồi lâu, rồi sau mới lại ngồi xuống ghế. Chàng bỏ kính đem mắt ra, lau lại mặt kính bằng miếng nỉ. Cặp kính bỏ ra khiến cho gương mặt đầy ưu tư suy nghĩ vì công việc của chàng lập tức trở thành như mặt con nít, gương mặt ấy nay chỉ còn có chiếc mũ lưỡi trai màu xanh che chở.

Iveritinov vẫn lặng lẽ kiên nhẫn ngồi đợi… Ông ta rầu rĩ nhìn lên bức chân dung Kaganovich bận bộ đồng phục với huy hiệu hỏa xa cao nhất; rồi ánh mắt ông ta hết nhìn bức chân dung lại lơ đãng quay sang nhìn các lò sưởi, hết lò sưởi lại đến thúng đầy than và cuối cùng là nhìn cái xẻng.

Trong căn phòng quá nóng này, chiếc áo khoác đầy bụi than bẩn thỉu của ông ta quả thật là khó chịu, Iveritinov liền tuột chiếc áo khỏi vai, khăn quàng cổ bằng len cũng cởi ra nốt.
Ông Trung uý lại đeo cặp kính lên mắt, đoạn lại cuối xuống đọc lại tờ lộ trình thư. Phải thật thà mà nói rằng mảnh giấy này không thể coi được là một tài liệu nói rõ lý lịch của người mang nó, mà nó chỉ thuộc về người ấy qua lời nói của họ mà thôi. Lời nói ấy, lại có thể là nói sai, cũng có thế là nói đúng. Zotov nhận được các chỉ thị nói là phải hết sức cẩn thận đối với những người bị tập trung, nhất là đối với những người đi một mình chứ không đi chung với một đoàn một nhóm nào. Iveritinov không thể chứng minh được rõ ràng rằng ông ta lỡ chuyến tầu ở Pavelet thì sao? Và trong khoảng thời gian ấy ông có thể đã đi Mạc Tư Khoa, hoặc nơi nào khác mà ông được cử tới.

Mặt khác, sự kiện ông ta đã tới được Krechetovka mau đến như vậy là một điều may cho ông ta.

Nhưng ai là người dám quả quyết lời ông ta nói về chuyến tầu ông ta đi đến đây là đúng thật? ai dám chắc lời ông ta nói là đúng!

"Như thế mà trên đoạn đường tới đây, ông được thoải mái ấm cúng lắm phải không?"

"Dạ phải, tôi mong là sẽ lại được đi với những điều kiện như vậy".

"Thế tại sao ông lại bỏ con tàu ấy?"

"Để trình cho ông biết. Trở lại Tyazhsk, tôi được lệnh là khi nào tới đây tôi phải trình ngay cho sĩ quan vận chuyển biết".

Tất cả những nét trên khuôn mặt Iveritinov đều lớn; trán cao, rộng, lông mày rậm và lớn, mũi dài lớn. Cằm và má lởm chởm râu ria màu xám đen.

"Làm cách nào ông biết được đây là Krechetovka?"

"Trong toa tầu ấy có mấy người xứ Georgia ngủ cạnh tôi, họ nói cho tôi biết".

"Người xứ Georgia? Y là nhà binh? Cấp bực ra sao?"

"Tôi không biết. Ông ta đắp chăn kín cả chỉ có đầu là ở ngoài chăn thôi".

Trong câu trả lời của Iveritinov đượm giọng buồn. Càng nói, điệu buồn càng thêm nữa, như thế càng nói ông ta càng bị mất thêm một cái gì.

Zotov đẩy tờ lộ trình thư sang một bên, hỏi:

"Thôi bây giờ ông cho tôi biết, ông còn những giấy tờ gì khác nào?"

Iveritinov mỉm cười buồn:

"Tôi không có giấy tờ gì khác cả. Tôi lấy giấy tờ ở đâu được?"

"Tôi hiểu. Ông bảo ông không còn giấy tờ gì khác nữa phải không?"

"Khi chúng tôi bị quân Đức bao vây, chúng tôi đã phải huỷ hết các giấy tờ đi rồi".

"Nhưng sau đấy, khi ông trở lại lãnh thổ Xô Viết, chắc chắn người ta phải cấp cho ông chứng thư lý lịch nào chứ?"

"Họ không cấp gì cả. Họ chỉ lập một bản danh sách, chia chúng tôi ra từng nhóm mỗi nhóm bốn mươi người rồi gửi chúng tôi đi".

Sự việc như vậy là đúng. Khi mỗi người còn ở trong toán, thì là một phần tử trong số bốn mươi người và không có bất cứ một lý lịch riêng tư nào.

Nhưng Zotov muốn có một vài bằng chứng cụ thể nào đấy cho cái bản năng cảm tình của mình đối với người đàn ông có phong độ vững vàng và vẻ mặt nghiêm trang này.

"Không có giấy tờ gì… Trong các túi quần ông có sót lại mảnh giấy nhỏ nào không, mảnh giấy gì cũng được?"

"Không… Chỉ có vài cái ảnh. Ảnh gia đình…"

"Cho tôi xem!"

Dù rằng lời nói của Zotov có ý nghĩa là yêu cầu, xin được xem các tấm ảnh ấy chứ không phải là một mệnh lệnh, nhưng Iveritinov cũng khẽ cau mày. Ông ta mỉm nụ cười, vẫn nụ cười như lúc nẫy, có vẻ hơi lúng túng rồi lấy cũng ở trong túi áo ấy (túi bên kia mất khuy cài, ông ta không dùng) một gói giấy mầu vàng cam ra. Ông ta mở gói giấy trên đầu gối lấy ra hai bức ảnh, ngắm nghía, rồi đứng dậy đưa hai cái ảnh ấy cho Trung uý, ghế ông ta sát ngay bàn giấy lẽ ra ông ta không cần phải đứng lên cũng đưa được hai cái ảnh ấy cho Zotov. Zotov cúi người về phía trước cầm lầy, rồi ngắm nghía. Iveritinov vẫn giữ gói giấy vàng cam trên đầu gối, cũng cố nghển cổ đứng nhìn hai cái ảnh trong tay Zotov.

Một cái ảnh chụp cảnh một ngôi vườn nhỏ trong một ngày trời nắng – chắc phải là một ngày đầu xuân, vì cây cối lá mọc còn rất nhỏ và có thể trông qua được cả một lùm cây – có một cô gái trạc mười bốn tuổi mặc chiếc áo có sọc thưa thắt lại ở chỗ ngang thắt lưng. Cổ cô bé gầy, cao vươn lên khỏi cổ áo, mặt cô bé hơi cúi xuống gầy gò, không có vẻ gì là xúc động lúc ấy cả, nhưng lại làm cho ta có cảm tưởng là cô bé vừa rùng mình. Hình ảnh có một cái gì non nớt, chụp vội quả không diễn tả được điều gì, không có vẻ gì là thân mật trong bức ảnh cả.
Zotov thấy thích cô bé ở trong ảnh lắm. Môi chàng trễ xuống. Chàng hỏi một cách thật thản nhiên:

"Cô bé này tên chi?"

Iveritinov lúc ấy đã ngồi xuống ghế, hai mắt ông ta nhắm lại. Ông ta đáp bằng cái giọng vẫn trầm tĩnh, bây giờ có lẽ càng trầm tĩnh hơn nữa:

"Lala".

Đáp xong, ông ta mở bừng mắt, chữa vội lại:

"Không phải, tên nó là Irina".

"Ảnh này chụp hồi nào?"

"Năm nay".

"Ở chỗ nào đây?"

"Ngoại ô Mạc Tư Khoa".

Nửa năm trời! Một nửa năm trời đã trôi qua kể từ khi ấy đến nay, hồi ông ta nói: "Sẵn sàng, Lala, chụp này!" và bấm… Và từ đấy, hàng ngàn hàng vạn họng súng gầm thét, tung hàng triệu giọt đất đen vọt lên trời, khiến cho hàng triệu người quay cuồng trong cái trò chạy quanh bi thảm, những con người chân không từ Lithuanie chạy đi, những người chạy trốn bằng xe lửa từ Irkutsk đi nơi khác… Và đêm nay, một đêm lẫn lộn cả tuyết phủ, mưa rơi, lất phất tuyết xuống nơi nhà ga xe lửa với những chuyến tầu đợi khởi hành này, nơi những con người đi lang thang vơ vẩn suốt cả ngày cho đến bây giờ thì nằm lăn ra sàn ngủ mê mệt, làm sao có thể tin được rằng cảnh ngôi vườn này, cô gái nhỏ này, bộ áo sọc này, tất cả lại còn có thể tồn tại ở một nơi nào đấy trên thế gian này?

Tấm ảnh kia chụp một người đàn bà và một cậu bé ngồi trên một chiếc trường kỷ, cả hai đang xem một cuốn sách hình thật lớn. Hình dáng người mẹ gầy gầy, có những nét thanh nhã, vóc có vẻ cao, trong khi ấy thì thằng bé phải vào khoảng bẩy tuổi lại có gương mặt thật rắn rỏi, thằng bé không nhìn vào quyển ảnh mà lại nhìn mẹ nó, vẻ mặt thằng bé rất sáng sủa, dường như nó đang chú hết tinh thần nghe mẹ nó giảng giải về những hình ảnh. Hai mắt thằng bé rất lớn, giống như cặp mắt mẹ nó.

Nhìn chung, tất cả mọi người trong cái gia đình này hình như là những người được chụp có lựa chọn, có mục đích gì. Chính Zotov cũng chưa bao giờ được biết một gia đình nào như gia đình này, nhưng trong ký ức nhỏ bé xa xôi nào đấy của chàng còn mơ hồ ghi lại một vài chi tiết còn sót lại trong Viện triển lãm Tretyakov, từ một sân khấu, hay từ những câu chuyện tiểu thuyết nào, những thứ ấy có mô tả về cuộc sống như cuộc sống trong bức ảnh này của gia đình. Bỗng chàng cảm thấy như từ hai tấm ảnh này thoáng hiện ra luồng văn hoá và dễ chịu.

Vừa trả lại Iveritinov hai bức ảnh, chàng vừa hỏi:

"Ông có vẻ nực. Sao ông không bỏ hẳn áo ngoài ra?"

"Tôi xin phép".

Rồi ông ta cởi áo, chiếc áo bẩn thỉu. Rồi ông ta lúng túng không biết mắc cái áo vào đâu. Zotov giơ tay chỉ về phía ghế trường kỷ:

"Ông để trên ghế ấy".

Bây giờ thì có thể thấy được bộ quần áo mặc mùa hè thật luộm thuộm nghèo nàn của ông ta: tất cả các khuy trên áo ông ta đều mỗi thứ một cái, chẳng cái nào giống cái nào. Zotov lại nhận thấy Iveritinov rất vụng về về cách quấn xà cạp – có vòng thì chặt quá, có vòng lỏng quá tuột cả xuống. Nhìn chung, thì nhân vật này có vẻ khôi hài với cái đầu to tướng mầu xám.
Ngay từ đầu khi giọng nói của Iveritinov, Zotov không ngớt cảm thấy thích cái giọng nói êm đềm ấy. Chàng hỏi, giọng có vẻ kính trọng:

"Thế còn ông, ông làm nghề gì?"

Iveritinov vừa gói mấy cái ảnh lại, vừa buồn rầu đáp:

"Tôi là kịch sĩ".

Zotov kêu lên ngạc nhiên:

"Thế hả! Tôi lấy làm lạ sao tôi lại không nhận ra nhỉ. Quả thật ông trông giống một kịch sĩ thật!"

(Bây giờ thật ra trông ông ta chẳng có chút gì là một kịch sĩ cả).

"Tôi đoán ông là một kịch sĩ trong đoàn "Huy chương" phải không?" [1]

"Không phải".

"Thế ông diễn ở đâu?"

"Tại Sân khấu Kịch nghệ Mạc Tư Khoa".

"Tôi chỉ mới được tới Mạc Tư Khoa có một lần. Tôi có viếng thăm Sân khấu Nghệ thuật. Nhưng tôi thường xem diễn tại sân khấu Ivanov. Ông có bao giờ diễn ở sân khấu Ivanov không?"

"Không, tôi chưa bao giờ diễn ở đấy".

"Phải, bên ngoài thì chẳng thấy gì. Nhưng bên trong thì mới thật là vĩ đại nhỉ! Tôi rất thích đi xem diễn kịch. Tôi thấy xem kịch không còn là để giải trí nữa. Xem kịch, tôi thấy mình học hỏi được một cái gì hay, nếu vở kịch ấy là vở kịch khá. Ông có đồng ý như vậy không?"

Đã hắn là Zotov rất hiểu chàng có nhiều công việc, giấy tờ bề bộn về vụ chuyến tầu bị hư hại, nhưng công việc cũng phải mất đến trọn hai ngày mới giải quyết xong, do đó chàng có phí đi một tiếng đồng hồ để nói chuyện với một kịch sĩ danh tiếng, thêm kinh nghiệm, thì cũng chẳng sao.

"Ông hay đóng những vai nào?"

"Nhiều vai lắm…"

Iveritinov trả lời, nở một nụ cười chẳng có vẻ gì là khoan khoái cả, ông ta tiếp:

"Tôi chẳng thể nào kể hết ra cho ông nghe được, tôi đóng kịch nhiều năm rồi".

"Hiện giờ ông vẫn còn đóng kịch chứ?"

"Có, vai Đại tá Verhinin này… Rồi vai Bác sĩ Rank này…"

Zotov không thể nhớ được những vai ấy. Chàng hỏi:

"Hừ! Có bao giờ ông đóng một vai nào đấy trong các vở kịch của Gorky không?"

"Tự nhiên, cần gì phải nói nữa".

"Gorky là nhà viết kịch tôi thích nhất, nói chung thì Gorky là nhà văn tôi thích nhất. Gorky là khuôn mặt quan trọng nhất trong văn học nước ta đấy, ông đồng ý không?"

Iveritinov hơi nhíu đôi mày, ông ta cố tìm câu trả lời nhưng không được, đành im lặng.

"Tôi chắc tôi có thể nhớ được tên ông… Ông bảo ông không phải là một kịch sĩ Huy chương phải không?"

Sắc mặc Zotov bây giờ hồng hào với một vẻ vui sướng trong câu chuyện.

"Tôi nghĩ rằng, nếu tôi là một kịch sĩ Huy chương thì chắc lúc này tôi chẳng ngồi đây".

Iveritinov vừa nói vừa khoan thai xoè bàn tay giơ ra phía trước, cử chỉ của ông ta có vẻ thất vọng.

"Tại sao ông lại nói như vậy? A phải rồi, tôi hiểu rồi, vì ông không được gọi…"

"Người ta không nhận tôi. Tôi tình nguyện gia nhập quân đội. Chúng tôi đã qua các trung tâm tuyển mộ rồi".

"Chắc cũng có một số các kịch sĩ Huy chương trong số các ông cũng tình nguyện nhập ngũ chứ?"

"Ai cũng tình nguyện hết, ngay cả đến các ông giám đốc cũng vậy, nhưng danh sách các người ấy bị phân ra làm đôi bằng một cái gạch ngang, những người nào có tên ở dưới cái vạch ngang ấy thì được vào quân đội, những ai tên ở trên cái vạch ngang thì phải ở lại".

"Ông đã được huấn luyện quân sự bao giờ chưa?"

"Có, mới cách đây vài ngày thôi. Chúng tôi được học đánh lưỡi lê, đánh gậy, học cách ném lựu đạn…"

Hai mắt Iveritinov đăm đăm nhìn xuống sàn nhà, đăm đăm nhìn đến nỗi hai mắt đờ đẫn.

"Sau khi học người ta có cấp súng cho ông không?"

"Có, sau đấy chúng tôi sẵn sàng lên đường đi ra mặt trận, họ phát cho chúng tôi loại súng kiểu năm 1901. Chúng tôi đi bộ suốt cho đến Vyazma, tại đấy chúng tôi bị lọt phục kích của địch".

"Trận ấy các ông bị thiệt hại nhiều không?"

"Tôi đoán phần đông là bị bắt sống. Một số chúng tôi gặp một đơn vị chiến đấu từ chiến tuyến tới, chính đơn vị ấy cứu chúng tôi ra khỏi vòng vây của địch. Hiện giờ tôi cũng chẳng hiểu mặt trận hồi ấy là chỗ nào nữa. Ông có bản đồ không?"

"Không, tôi không có, còn các thông cáo thì không rõ ràng, nhưng tôi cho là không cần bản đồ tôi cũng có thể nói cho ông biết nơi ấy là chỗ nào được. Chúng ta bị chặn lại ở Sebastopol và một ít ở các vùng chung quanh, chúng ta còn Taganrog, vùng Thung lũng Donet cũng vẫn còn trong tay quân ta… Nhưng địch chiếm mất Orel và Kursk…"

"Hả! Như vậy là đến sát chung quanh Mạc Tư Khoa rồi?"

"Thật khó mà biết được hiện giờ đang ra sao. Theo các thông cáo nói thì chiến trận đang xẩy ra ở một vài vùng nghỉ mát ở ngoại ô. Còn đường đi Leningrad, thì hoàn toàn bị cắt đứt".

Trán Zotov nhăn lại, hai mắt chàng nheo lại vẻ đau khổ. Chàng nói:

"Thế mà tôi chẳng bao giờ được ra tiền tuyến cả!"

"Ông đừng buồn, đúng lúc tất ông sẽ được ra mặt trận".

"Tôi cho là thế nào tôi cũng sẽ được ra mặt trận, vì hiện giờ thì chiến trận lan rộng chắc sẽ còn kéo dài".

"Trước ông làm gì – sinh viên hả?"

"Vâng. Tuy thế nhưng ngay từ khi chiến tranh bùng nổ, tôi đã nộp giấy tờ xong rồi. Nhưng không còn có thi nữa. Lẽ ra chúng tôi thi vào tháng Chạp, nhưng họ báo chúng tôi là cứ hoạch định bất cứ biểu đồ và tính toán cũ nào có thể thực hiện được".

Zotov thật sự say mê trong câu chuyện những lời chàng nói ra lời nọ lẫn sang cả lời kia, chàng có vẻ muốn nói hết thẩy mọi việc ra, nói cho hết, nói cho hả.

"Hầu hết cả năm năm… Franco khởi đầu cuộc nổi dậy… Rồi họ đầu hàng quân Áo… Tiệp Khắc… Rồi là khởi đầu Thế giới chiến tranh lần Thứ hai… và trận chiến tranh Phần Lan nữa… Hitler tràn vào nước Pháp! Quân phát xít tấn công Hy Lạp, rồi Nam Tư!... Như vậy ông thử tưởng tượng xem chúng tôi được dễ dàng biết mấy trong việc tập trung sáng kiến vào các máy dệt! Nhưng đấy cũng không phải là điều tôi muốn nói. Ngay sau khi chúng tôi đoạt được mảnh bằng rồi, họ cử phần lớn chúng tôi vào học lớp động cơ cơ khí hoá do Hàn lâm Viện Khoa học tổ chức. Nhưng họ không nhận tôi vì mắt tôi kém – tôi cận thị nặng quá, ông thấy đấy. Vì thế tôi mới đi vận động với các nhân vật nhà binh. Tôi được việc làm đầu tiên vào năm 1937. Nhưng công việc của tôi là một người bảo lãnh hỏa xa cho Trường Tiếp liệu Quân đội. Rồi với cái chức bảo lãnh hỏa xa ấy, tôi đi Mạc Tư Khoa, việc làm đầu tiên của tôi là đến Bộ Quốc phòng. Tôi vận động xin gặp được một ông Đại tá già, lúc tôi vào gặp ông ta thì ông ta đang vội lắm, ông mở vội cặp giấy. Tôi nói với ông ta là tôi không muốn ở trong ngành tiếp tế vì tôi là một kỹ sư. Ông ta lại bảo: "Được, tôi sẽ hỏi anh đúng một câu hỏi thôi, nếu anh trả lời được đúng câu hỏi ấy thì anh chính là người kỹ sư từ lâu tôi vẫn mong muốn. Nào, bây giờ anh trả lời cho tôi biết, tay quay là cái gì?" Tôi mới trả lời rằng: "Một cái tay quay là một bộ phận nối liền vào với trục chuyển ráp vào một sợi dây trân để…" Vừa mới đến đấy, ông ta gạch bỏ Trường Tiếp liệu trên giấy thông hành của tôi, rồi viết thay vào đấy chữ Trường Vận chuyển. Rồi ông đóng cặp giấy lại. Tôi mừng rỡ quá? Nhưng khi tôi đến Trường Vận chuyển Quân đội thì họ lại không nhận thêm bất cứ người nào nữa, thế là họ gửi tôi đi học một lớp về vận tải hỏa xa thay vào đấy vậy. Thế là truyện cái tay quay cũng chẳng cứu vãn được gì cho tôi cả!"

Zotov hiểu rằng đây không phải là lúc để mà ngồi chuyện ngẫu nhắc lại việc ngày xưa, nhưng anh không thể nào cưỡng lại được cái cơ hội để trút ra bầu tâm sự của anh, tâm sự của một người có ăn học.

Bỗng chàng sực nhớ ra, hỏi:

"Ông có hút thuốc không? Ông cứ tự nhiên nhé. Đây cũng có một ít thuốc lá có cả giấy vấn nữa đây. Họ phát phần thuốc hút cho tôi, nhưng tôi không biết hút thuốc".

Chàng liếc mắt nhìn tờ giấy thông hành hỏa xa của Iveritinov, rồi rút từ trong ngăn kéo bàn ra một gói thuốc lá đẩy lại phía Iveritinov.

"Vâng, tôi có hút thuốc".

Iveritinov đáp như vậy, vẻ mặt ông ta rạng sáng với cả trước khi hút hơi thuốc đầu tiên. Ông ta hơi ngồi cao lên, cúi mình lại phía gói thuốc, nhưng, thay vì vấn điếu thuốc thì ông ta lại hít hít một cách say sưa những sợi thuốc mầu nâu, Zotov thấy dường như ông ta còn thốt ra tiếng rên rỉ nữa thì phải. Rồi ông ta đọc nhãn hiệu trên gói thuốc, gật gù:

"Thuốc xứ Amernie đây!"

Rồi ông ta vấn một điếu thật lớn, thè lưỡi liếm cạnh tờ giấy, ghé mồm châm lửa ở que diêm Zotov vừa bật cho ông ta.

Zotov bảo:

"Tôi chắc khi ông cuộn tròn trong đống chăn ấy, không có ai hút thuốc cả?"

"Tôi không thấy".

Iveritinov trả lời lấy lệ, ông ta đang chìm trong hạnh phúc vô biên của khói thuốc. Ông ta nói tiếp:

"Tôi đoán thì bọn họ không ai có thuốc lá cả".

Ông ta tiếp tục hút, hai mắt lim dim.

Bỗng Iveritinov hỏi:

"Thế còn việc ông nói về năm 1937 là thế nào?"

Zotov nồng nhiệt:

"Vâng, ông nhất định phải nhớ đến cái bầu không khí của thời ấy rồi! Trận Nội chiến Tây Ban Nha, bọn phát xít tiến lại gần Khu Định cư sinh viên Madrid, Lữ đoàn Quốc tế, Guadalajara, Teruel! Thật khó lòng mà ngồi yên được! Chúng tôi hò hét đòi hỏi các lớp mở rộng về tiếng Tây Ban Nha, nhưng họ lại cho chúng tôi học tiếng Đức. Tôi có một cuốn tự học tiếng Tây Ban Nha, rồi ngồi cặm cụi học thay vì sửa soạn cho các kỳ thi. Tôi cảm thấy chúng tôi đã dính líu ghê gớm vào tình hình Tây Ban Nha và cái ý thức cách mạng của chúng tôi làm cho chúng tôi không thể nào im lặng đứng bên lề các sự việc được nữa, nhưng tôi lại nhận thấy rằng: các báo chí của ta chẳng biểu lộ được chút nào về ý thức cách mạng ấy, và tôi cũng lấy làm lạ là tại sao mình lại lạc lõng tới đây. Giả thử trốn đi Odessa, lén xuống thuyền mà ra đi thì đã hẳn đấy quả là một ý tưởng trẻ con, vả chăng hành động như vậy khó lòng thành công được với các đạo quân tuần phòng biên cảnh của nước ta. Ấy cũng vì thế mà tôi mới đến Bộ Quốc phòng, năn nỉ các vị Tư lệnh các Đệ Tứ, Đệ Tam, rồi Đệ Nhị, cuối cùng là Đệ Nhất Phân Khu, xin các vị ấy cho chúng tôi được đi Tây Ban Nha. Các vị ấy đều cười vào mặt tôi, các vị ấy hỏi tôi: "Anh có mất trí không đấy? Ở đấy làm gì có người đồng bào nào của anh đâu, vậy thì anh nghĩ như thế nào và anh định làm gì ở xứ Tây Ban Nha ấy nào?!!..." Ấy, tôi thấy ông có vẻ thích hút thuốc, ông cứ giữ cả gói thuốc mà hút. Tôi để thuốc ấy chỉ để mời mọi người thôi đấy mà, vả lại ở nhà tôi còn thuốc nữa mà… Không, không, xin ông cứ cất bao thuốc ấy đi, như thế tôi lại còn hài lòng là ông sẽ không quên nó. Những ngày như ngày này thuốc lá nó sẽ mở những cánh cửa cho ông, tôi tin chắc là nó cũng lại sẽ tiện cho ông nữa… Rồi có một ngày tôi mới đọc trong một tờ Sao Đỏ - trong những ngày ấy tôi vớ được báo gì là đọc hết các báo ấy – tôi đọc thấy một đoạn trích ở một tờ báo Pháp nào đấy, mẫu bài ấy nằm giữa các tin tức bài vở khác, nó viết rằng: "Đức và Nga cùng nhìn Tây Ban Nha như là vùng đất cho một cuộc trắc nghiệm chiến tranh". Đoạn văn ấy nó làm cho tôi thấy mệt mỏi. Suốt trong ba ngày tôi đợi chờ, mong đợi được đọc một bài bình luận nào đấy chống lại, bác bỏ những ý tưởng ở trong mẩu tin trích của báo Pháp. Nhưng chẳng có bài báo nào viết như vậy cả. Thế là tôi lại đến Bộ Quốc phòng, tôi mang theo cả tờ Sao Đỏ nữa. Tôi đưa bài báo cho họ đọc. Tôi bảo: "Mời các ông đọc chỗ này xem. Tôi đợi mãi không thấy có cái chỉnh gì cả, vì thế tôi thấy đây đúng là sự thật, sự thật là chúng ta có những hoạt động chiến tranh tại Tây Ban Nha. Vì thế tôi xin được các ông cho tôi đi Tây Ban Nha với tư cách là thằng binh nhì thôi là được". Ông nhân viên Bộ Quốc phòng mới quát lên, đấm xuống bàn mà rằng: "Anh không được đến đây gây sự với tôi! Ai gửi anh đến đây làm gì? Nếu ở đây cần anh, người ta sẽ cử anh đi! Cút ra!"

Nhắc lại việc ấy, Zotov cười ngất thật thành thật, sung sướng. Vẻ vui sướng lại hiện ra trên gương mặt chàng. Chàng cảm thấy nói chuyện với nhà kịch sĩ này thoải mái dễ chịu lắm, rồi chàng lại còn kể về chuyện mấy nhà hàng hải Tây Ban Nha tới và chàng được gọi đến để dùng tiếng Tây Ban Nha mà trả lời cho họ biết.

Chàng cũng muốn hỏi Iveritinov xem sao lại cảm thấy bị quân Đức bao vây, xem ông ta nghĩ như thế nào và chiến tranh, và nhất là để được nói chuyện thêm nữa với người có học thức, thông minh.

Nhưng cửa mở, Valia bước vào, cô bảo:

"Vassily! Sở gửi hàng dân sự hỏi xem Trung uý có hàng hoá gì gửi đi với chuyến Bẩy Chín Bốn hay không? Nếu không có gì, thì ta nên để cho chuyến tầu đi luôn!"

Zotov nhìn vào bản ghi. Chàng hỏi:

"Chuyến tầu nầy đi đâu? Có phải là chuyến đi Povorino đấy không?"

"Thưa đúng!"

"Đã tới chưa?"

"Thưa, khoảng độ mươi phút nữa thì chuyến tầu ấy đến".

"Chuyến tầu này hình như chỉ có vài toa hàng hoá của quân đội. Ngoài ra còn có những toa nào khác?"

"Thưa còn có vài toa chở vật liệu kỹ nghệ và vài toa hành khách".

Zotov quay sang Iveritinov:

"Ồ, thật là lạ! Đây là chuyến tầu tôi sẽ để ông đi đấy! Chuyến tầu này rất tiện cho ông, ông sẽ không cần phải đổi tầu gì nữa cả. Còn cô Valia, hàng hoá thì ở đây cả rồi, cô có thể gửi đi được ngay. Lúc tầu đến, tôi muốn cho đậu lại gần, vào Đường Một hay Hai. Cô bảo cho họ biết thế nhé!"

"Vâng, Trung uý!"

Valia đi ra.

Zotov quay về Iveritinov:

"Thôi thật hết sức buồn là không có gì ăn được để mời ông cả. Xin ông hiểu cho tôi nhé, đến một cái bánh bít quy nhỏ tôi cũng chẳng có nốt!"

Zotov kéo ngăn kéo bàn giấy ra thật rộng để chứng minh là trong ngăn kéo của chàng quả thật không có gì ăn được cả. Trong ngăn kéo trống trơn, chàng có thói quen là khẩu phần của chàng được đem vào tận bàn giấy, và bao giờ chàng cũng ăn hết ngay. Chàng bảo:

"Tôi chắc là từ khi ông bị lỡ tầu đến giờ vẫn chưa ăn thứ gì cả, phải không ông?"

Iveritinov xoè bàn tay ấp lên ngực áo bẩn thỉu, đáp:

"Cảm ơn ông, nhưng ông đừng lo gì cho tôi cả. Quả thật tôi chưa ăn gì cả, nhưng tôi thấy mến ông vô cùng…"

"Ông làm ấm lòng tôi, ấm cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen. Ông là một người tốt. Tính tình tốt ấy của ông trong cái thời khó khăn này làm cho người ta phải quý trọng lắm. Nhưng bây giờ thì xin ông vui lòng cho hay nhé, đi khỏi nơi này thì tôi sẽ tới chỗ nào, sau đấy thì tôi phải làm gì, hở ông?"

Zotov giải thích thật trôi chảy:

"Trước hết là ông phải đến tận Gryazi. Tôi không có cái bản đồ để chỉ cho ông rõ, thật xấu hổ… Ông có thể tưởng tượng ra được nơi này không?"

"Tôi không chắc lắm… Tuy thế tôi tin là tôi có nghe nói đến cái tên chỗ ấy".

"Chỗ ấy là giao lộ quan trọng lắm đấy. Bây giờ nếu, trong ban ngày ông tới Gryazi, ông mang theo lộ trình thư – tôi đã thêm vào trong đó để chứng thực là ông đã tới tôi rồi – đến gặp sĩ quan chuyển vận quân đội ở đó, họ sẽ cấp cho ông một thẻ khẩu phần, ông có thể mang thẻ khẩu phần ấy đến lĩnh thực phẩm ở nhà kho, như vậy là ông có phần ăn trong hai ngày".

"Cảm ơn ông lắm lắm!"

"Nếu ông tới đấy vào ban đêm, ông vẫn còn liên hệ chặt chẽ với chuyến tầu này đấy! Lúc ấy ắt ông còn quấn chặt trong đống chăn, xuống tầu tất khổ lắm – không biết ông có dậy nổi hay không! Rồi chuyến tầu sẽ đưa ông từ Gryazi đến Povorino, nhưng dù có đến Povorino rồi, ông cũng đừng rời toa tầu trừ phi đi lấy các khẩu phần của mình. Đừng để chuyến tầu lại bỏ rơi ông lần nữa, sau đấy thì tầu sẽ đưa ông tới Archeda, đấy chính là nơi chuyến tầu của ông phải tới – chuyến Hai Bốn Mươi Lăm Bốn Một Ba".

Zotov trao lại cho Iveritinov lộ trình thư, Iveritinov vừa cất tờ giấy vào túi áo – bên túi có khuy cài - vừa nói:

"Archeda Archeda? Tôi chưa bao giờ nghe đến cái tên này. Acheda ở chỗ nào nhỉ?"

"Phải, Acheda là vùng ngoại ô của Stalingrad".

"Một vùng ngoại ô của Stalingrad…"

Iveritinov gật gù, rồi ông ta nhíu mày ra vẻ cố nhớ:

"Xin lỗi ông, Stalingrad… Trước nơi này tên là gì nhỉ?"

Trong người Zotov bỗng nhiên có gì rúng động và băng giá lại. Có thể nào lại như thế này được không – một công dân Xô Viết mà lại không biết Stalingrad được sao? Quả là một điều không thể nào tưởng tượng được! Tuyệt đối không thể nào tưởng tượng được! Không, không! Chàng không thể chấp nhận được bất cứ một sự việc nào như thế này cả!

Dù thế, chàng cũng cố trấn tĩnh, cố kiểm soát lấy mình. Chàng ngồi thẳng dậy, sửa lại mục kính cho ngày ngắn, nói thật bình tĩnh:

"Trước kia thường gọi là Tsaritsyn đấy mà".

(Như thế thì người này có thể không phải là một quân nhân Hồng Quân từng thoát hiểm trong một cuộc bị bao vây. Người này đã được cấy vào đám người ấy mất rồi. Một cán bộ của địch! Có thể là một trong những người Nga di cư, một lính Bạch vệ…) Phải, có thế mới giảng rõ được các tính tình, cử chỉ của y…

"A phải rồi – Tsaritsyn… Phòng tuyến danh tiếng của Tsaritsyn… (có lẽ ông ta là một sĩ quan Bạch vệ ngụỵ trang nữa cũng nên? Chắc rồi, chẳng thế tại sao ông ta lại hỏi bản đồ? Nhưng ông ta ngụỵ trang với những thứ áo quần lôi thôi rách rưới như thế này, thì chẳng là quá đáng một chút, nó làm cho người ta chú ý đến ông ta là gì?)

Mấy tiếng "sĩ quan Bạch vệ" tạo cho Zotov một cảm nghĩ vất vả, khổ sở về hình ảnh nguyên thuỷ của một tâm hồn Xô Viết: tâm tư ấy rất ồn ào, nhưng không nói thành lời được, nó hành hạ Zotov như đâm chém chàng bằng lưỡi lê cũng không bằng.

(Hà, ông ta thế là bị rơi vào bẫy rồi! Ông ta để lộ cái chỗ dại dột ra rồi! Tự ông ta chui đầu vào tròng, hãy thận trọng, hãy cẩn thận. Rồi bây giờ ông ta sẽ làm gì đây? Ông ta sẽ làm gì?)
Zotov nhấc ống nói điện thoại, tiếng chuông reo thật lâu.

Chàng áp ống nghe vào tai, hi vọng đầu giây bên kia Đại uý sẽ nghe.

Nhưng Đại uý không nhấc ống nghe.

Iveritinov nói:

"Trung uý, tôi thấy lấy cả gói thuốc của ông thì có tội nhiều lắm".

"Không sao, ông cứ giữ cả đi".

Zotov vừa nói vừa xua tay.

(Hà, hắn, Zotov, đã cư xử như một mụ đàn bà trong sạch – trong lòng hoàn toàn dịu dàng! Y đang giơ lưng ra cho địch thấy mà lại không biết làm cách nào để khiến cho địch được vui lòng!)
"Vâng, nếu vậy tôi xin phép được hút ở trong phòng của Trung uý thêm lần nữa – nếu Trung uý không thích thì tôi xin ra ngoài hút?"

(Y muốn ra ngoài? Có thể là một cái cớ thật giản dị - y đã biết là phạm phải một lỗi lầm, để lộ một hớ hênh rồi, và bây giờ y chạy trốn.)

"Không, không sao, ông cứ việc ngồi đây mà hút. Tôi thích ngửi mùi khói thuốc mà".

(Zotov mong rằng y nghĩ về một việc gì đấy. Không biết hắn sẽ hành động ra sao, làm thế nào để hành động?)

Zotov giục chuông điện thoại ba lần. Đầu giây đằng kia có tiếng động?)

"Phòng gác, tôi nghe!"

"Trung uý Zotov đây".

"Vâng, đồng chí Trung uý?"

"Guskov có đấy không?"

"Thưa đồng chí Trung uý, ông ấy vừa ra ngoài rồi".

"Ông ấy đi đâu? Ông ấy đi có việc gì? Trong vòng năm phút nữa xem ông ấy có ở bàn giấy không nhé!"

(Như vậy là cái anh chàng vô tích sự ấy chắc lúc này đang hú hí với một cô nào chứ gì!)

Zotov lấy một tờ giấy, không để cho Iveritinov trông thấy, chàng viết lên tờ giấy giòng chữ lớn: "Valia, vào phòng, rồi bảo rằng chuyến tầu Bẩy Chín Bốn đến trễ một tiếng đồng hồ nhé."

Chàng gấp tờ giấy, cầm đến cửa, trao cho Valia và nói:

"Đây, đồng chí Podshebyakina! Đây là những gì về chuyến tầu tôi nói lúc nẫy!"

"Chuyến tàu nào, Vassily?"

"Chuyến tầu mang số hiệu tôi ghi trên đó đó!"

Cô Valia bộ điệu thật ngạc nhiên, cô đi lại chỗ cửa đón lấy tờ giấy Zotov trao cho cô, Zotov không đợi chờ gì, chàng quay trở lại bàn giấy ngay.

Iveritinov lúc ấy đã mặc lại áo khoác ngoài xong.

Ông ta hỏi, giọng thật thân mật:

"Chúng mình không thể lỡ chuyến tầu này được đâu nhỉ, phải không?"

"Không, lần này chúng ta không lỡ đâu!"

Zotov đứng lên đi đi lại lại trong phòng, tránh không nhìn Iveritinov. Ông ta kéo tà áo xuống làm cái gì nhúc nhích một chút ở phí trên thắt lưng ông ta, ông ta ấn khẩu súng từ phía đằng sau lưng lại phía bên phải đội lại chiếc mũ lầu xanh cho ngay ngắn. Ông ta chỉ làm có như vậy, cũng không nói gì thêm.

Với Zotov, thì gian dối đã hẳn là không tốt lắm.

Chàng mong Iveritinov nói ra vài lời, vài điều. Nhưng ông ta giữ im lặng, kín đáo.

Bên ngoài cửa sổ, nước xiết mạnh trong máng xối, gió giật từng hồi.

Trung uý dừng lại bên bàn giấy, một tay vịn vào góc bàn, chàng lặng lẽ nhìn mấy ngón tay.
(Chàng hiểu rằng chàng có thể nhìn ông ta bằng con mắt lúc trước được, vì thế mà ông ta sẽ không cảm thấy gì, không thấy có gì thay đổi, nhưng chàng không muốn buộc mình nhìn như vậy được).

Zotov nói, và nóng nẩy đợi câu trả lời:

"Chỉ còn vài ngày nữa là đến ngày lễ rồi!"

(Nếu như ông ta mà hỏi là "Lễ gì?" thì thật không còn gì phải nghi ngờ thêm nữa.)

Nhưng ông ta lại đáp:

"Phải, phải…"

Zotov liếc nhìn Iveritinov, ông ta vừa hút thuốc vừa tiếp tục gật gù với tiếng "phải". Zotov bảo:

"Tôi không hiểu năm nay có diễn binh ở Công Trường Đỏ không nhỉ?"

(Ai lại có thể nghĩ đến một cuộc diễn binh được. Chàng không còn lạ gì về cuộc diễn binh cả, nhưng chàng cứ nói để cho qua thì giờ).

Có tiếng gõ cửa.

"Xin lỗi, đồng chí Trung uý…"

Valia thò đầu qua khe cửa ra vào. Vừa trông thấy cô, Iveritinov đi lại gần cái ba lô của ông ta. Valia nói tiếp:

"Chuyến tầu Bẩy Chín Bốn bị trễ ở chặng chót, vì thế phải một giờ nữa chuyến tầu mới tới đây được".

Zotov thốt kêu lên:

"Hả, cô đừng nói vậy! Rầy rà thật!"

Giọng chàng nghe ra khó chịu, bực mình với cái âm thanh giả dối:

"Thôi được, cảm ơn đồng chí Podshehyakina".

Đầu Valia lui khỏi cửa.

Ở bên ngoài, ngay sát căn phòng, trên Đường Số Một, Zotov có thể nghe được tiếng sì sì của đầu máy giảm sức và tiếng lịch kịch của các toa tầu chạm vào nhau khi sắp dừng lại. Mặt đất rung nhè nhẹ.

Zotov nói to lên:

"Làm sao bây giờ đây? Bây giờ phải đến nhà kho mới được…"

Iveritinov vẻ lo lắng vì gặp khó khăn. Ông ta bảo:

"Thôi tôi xin ra ngoài. Tôi đi loanh quanh đâu đây để đợi vậy…"

Ông ta đứng lên, nhấc cái ba lô lên.

Zotov nhấc áo khoác ra khỏi chiếc đinh treo trên tường. Chàng bảo:

"Ở ngoài lạnh lắm, ông ra làm gì cho bị lạnh? Ông vào phòng đợi không được đâu, vì người ta ngủ ở đấy đông nghẹt cả, không còn chỗ mà len chân được. Nếu ông muốn thì ông đi với tôi đến nhà kho vậy? Có thể tôi xoay xở được gì cho ông ăn chăng?"

Chàng nói chứ không tin là được việc, mặt nóng bừng.

Câu nói có thể khiến Iveritinov không vui! Nhưng ông ta lại có vẻ vui vẻ:

"Như vậy thì ông tốt quá rồi. Tôi thật không dám xin xỏ ông quá nhiều như vậy…"

Zotov quay đi, liếc nhìn bàn giấy, thận trọng đi ra cửa, tắt đèn.

"Tốt, thôi ta đi".

Vừa khoá cửa, chàng vừa bảo với Valia:

"Nếu có ai gọi dây nói cho tôi, cô bảo là tôi đi vắng vài phút rồi trở lại ngay nhé!"

Iveritinov đi trước Zotov, ông ta vẫn khoác chiếc áo lạ lùng và với đôi xà cạp quấn vụng về, cả hai đi qua dãy hành lang vừa lạnh vừa tối, hành lang có ngọn đèn mầu xanh, rồi bước ra ngoài sân ga.

Trong bóng đêm tối đen, dưới bầu trời mù mịt, nặng trĩu, chẳng có gì hơn là một trận mưa tuyết trắng xoá, tuyết ở độ đang tan.

Chuyến tầu đậu trên đường Số Một, ngay cạnh đấy. Chuyến tầu đen ngòm, mầu đen còn đen hơn cả bầu trời cho nên vẫn có thể nhận ra được những đường nét của mui các toa tầu. Phía bên trái, là đầu tầu, khoang chứa than sáng rực với tro hồng nóng bỏng rơi xuống đường rầy và lập tức bị gió cuốn đi ngay.

Quá về đằng trước chút nữa, ở chỗ cao hơn đầu tầu, có một ngọn đèn tròn mầu xanh đứng trơ trọi một mình, ngọn đèn treo ở đấy như không dính vào đâu cả. Ở phía đằng kia, về phía đằng đuôi chuyến tầu, có những tàn than đỏ nhấp nhánh bốc lên từ các ống khói lò sưởi các toa chở hành khách và các toa trống trải chở súc vật. Về phía những vệt nhấp nhánh sống động ấy, có những khuôn mặt đàn bà to lớn, hấp tấp đi lại dọc trên sân nhà ga; hơi thở của họ nặng nhọc dưới những gói nặng trong đêm đen không trông rõ được, tất cả lẫn vào nhau thành một âm thanh hổn hển thật lớn. Có vài bà lại lôi xềnh xệch ở đằng sau mấy đứa trẻ, có đứa khóc lóc, có đứa im lặng… Có hai bóng người vừa thở hồng hộc vừa xấn xổ vẹt đường mà đi, xô bắn Zotov ra một bên, hai bóng người trong bóng tối dường như khiêng một vật gì như một khúc cây lớn. Đằng sau hai người ấy, lại có mấy người khác đang đẩy một vật gì xem ra còn nặng hơn vật hai người kia khiêng, họ kéo vật ấy bằng một sợi dây.

(Người ta chọn đúng ngay vào những ngày này, khi sự đi lại đã trở thành nguy hiểm chết người như vậy, để bắt đầu lôi kéo đám con nít, các bà, nào hòm nào rương lớn nặng không làm sao vác lên được, những cái bó quá khổ phải to bằng cả một chiếc ghế trường kỷ lại thêm những đống gì như cái thân cây lớn bằng cả một cái tủ chén bát…, họ lôi tất cả những thứ ấy đằng sau họ, chen nhau mà đi).

Nếu không có những tro than sáng rực ở đầu máy, ngọn đèn xanh treo trên cao, tàn than bay phía trên các toa tầu, và những ánh đèn lù mù của công nhân hỏa xa đi ở xa, thì không ai lại có thể tin được rằng có nhiều đoàn tầu đến nằm cạnh nhau ở nơi này, rằng đây là một nhà ga chứ không phải là một nơi ở giữa rừng hoang, cũng không phải là một vùng bao la trống trải đang sửa soạn cho mùa đông tới.

Nhưng tai nghe rõ các toa tầu đang nối vào nhau, tiếng còi của người bẻ ghi, tiếng phì phò của các đầu tầu, và tiếng người ta ồn ào.

"Đường này!"

Zotov gọi to lên, chỉ một con đường từ sân ga chạy đi ngả khác.

Zotov xách một chiếc đèn bão, kính che chung quanh cây đèn sơn phủ một nước sơn xanh, chàng giơ cây đèn soi nhiều lần vào chân Iveritinov để ông ta có thể trông thấy đường mà đi.
Iveritinov làu nhàu:

"Hà, gió mạnh thật, khéo không lại bay mất cả mũ mất!"

Zotov lặng lẽ bước đi.

Iveritinov nói nữa, dường như để bắt chuyện:

"Cái thứ đang đổ xuống đây không phải là tuyết, nhưng nó lọt vào cổ áo sao mà lạnh thế!"

Áo khoác ngoài của ông ta không có cổ.

Lúc cả hai đang bước vào nơi bùn lầy lội, đặc quánh, Zotov bảo:

"Coi chừng, chỗ này bùn không à!"

Nhưng trong bóng đêm, không làm sao nhìn ra được lấy đường đi chỗ nào khô ráo.

Bỗng có tiếng quát của người lính gác nào đấy ở ngay bên cạnh:

"Đứng lại! Ai?"

Iveritinov giật bắn người, Zotov đáp:

"Trung uý Zotov".

Bùn ngập đến mắt cá chân, có khi còn sâu hơn thế nữa, rút được chân lên thật vất vả, hai người vượt gió đi về phía nhà kho. Lại gần chỗ cửa vào ở phía bên kia. Hai người giậm chân thật mạnh, rũ áo quần phủi tuyết rơi trên vai áo. Zotov vặn to ngọn đèn lên, dẫn Iveritinov vào một thứ phòng như phòng đợi, trong phòng có một chiếc bàn lớn và hai chiếc ghế dài – Các binh sĩ trong đội canh gác nhà ga thường thường ăn và nhận các chỉ thị tại nơi này, nhưng lúc này thì trong phòng hoàn toàn vắng vẻ. Giữa mặt bàn, có một ngọn đèn lù mù, sắp tắt, trong các góc phòng tối dầy đặc.

Cánh cửa phòng gác mở ra, một người lính xuất hiện, đèn điện bật sáng trong phòng gác chiếu từ phía sau lưng người lính lại, mặt người lính vẫn chìm trong bóng tối.

Zotov hỏi, giọng nghiêm nghị:

"Guskov đâu?"

Bên ngoài người lính quát hỏi:

"Đứng lại! Ai?"

Có bước chân nơi cửa vào, và Guskov hiện ra, theo sau là người lính đi tìm anh ta, cả hai bước vào.

Guskov phác một cử chỉ chào loáng thoáng như lối chào của nhà binh, y nói:

"Thưa đồng chí Trung uý, tôi đến để trình Trung uý rõ".

Trong bóng mờ của căn phòng, Zotov nhận rõ nét mặt khó chịu cau có, vẻ mặt y bao giờ cũng có vẻ kiêu căng, y rõ ràng là bực mình với ông Trung uý này, Trung uý hiện không phải là thượng cấp trực tiếp của y, làm cho y lúc nào cũng thấy bực mình, và bực mình về đủ mọi lý do.

Bỗng Zotov giận dữ:
"Trung sĩ Guskov, phiên trực của trung sĩ có bao nhiêu người?"

Guskov cứng cỏi, không sợ sệt, dù rằng anh ta có đôi chút ngạc nhiên – Zotov không bao giờ lớn giọng cả.

"Có hai người, nhưng trung uý đã biết…"

"Tôi không biết cái gì cả! Tìm hai người ấy ngay, thi hành đúng như trong quy định!"

Môi Guskov lại cong cớn:

"Binh nhì Bobiev! Lấy súng vào trạm gác!"

Người lính đi tìm Guskov đi ngang mọi người, y giậm chân thật mạnh, rồi đi vào phòng bên.

"Còn Trung sĩ, đi với tôi lên bàn giấy!"

Trước đây một lát, Guskov đã nhận thấy có điều gì đặc biệt xẩy ra.

Người lính đi ra ngoài phòng gác, tay anh ta cầm cây súng có gắn lưỡi lê, anh ta thận trọng đi ngang chỗ mọi người, rồi đứng gác ở chỗ cửa.

Và lúc ấy Zotov bỗng nhiên rụt rè, ngập ngừng, những lời chàng nói ra như thể không phải do chính ở cửa miệng chàng thốt ra nữa. Giọng Zotov hết sức dịu dàng, chàng hết sức cố gắng nhìn thẳng vào mặt Iveritinov:

"Ô… Tôi… Tôi phải đợi một việc…"

Giọng nói người xứ Volga lúc này thật rõ ràng, nghe rành mạch:

"Ông vui lòng ngồi ở đây. Ông không phải đợi lâu đâu. Xin ông vui lòng đợi…"

Cái đầu ông ta trông có vẻ không hợp với vành mũ xụp xuống, nó làm cho hiện ra hai cái bóng ông có vẻ nặng nề, khó nhọc – một cái bóng in lên trên tường, một cái hằn trên trần nhà. Chiếc khăn quàng quấn quanh cổ dài thòng như một cái mũi.

"Ông muốn bỏ tôi một mình ở đây? Như thế này thì tôi lỡ chuyến tầu mất… Không, thôi tốt hơn cả là tôi ra đợi ở ngoài, đợi ở sân ga tốt hơn, còn nếu như,…"

"Không, không… Ông phải đợi ở đây…"

Zotov bước nhanh lại phía cửa.

Và Iveritinov chợt hiểu ra. Ông ta kêu lên:

"Ông… Ông bắt tôi? Nhưng, đồng chí Trung uý, tại sao thế, tại sao thế? Xin ông cho tôi đi, cho tôi đợi chuyến tầu".

Ông ta lại làm cử chỉ như lúc ông ta cảm ơn Zotov – bàn tay ông ta xoè năm ngón ra đặt lên ngực. Ông ta bước ra phía cửa toan theo chân trung uý Zotov bước ra ngoài, nhưng người lính gác nhanh trí giơ ngay súng có gắn lưỡi lê ra cản đường ông ta.

Zotov không dám quay đầu lại nhìn ông ta lần chót nữa. Và, trong cái ánh sáng lù mù của ngọn đèn, trong những thứ âm u vây quanh, chàng nhìn thấy gương mặt của một thứ "Hoàng Đế Lear".

Iveritinov gào lên, giọng ông ta sang sảng như tiếng chuông vang dội:

"Ông làm gì kỳ vậy! Ông làm gì kỳ vậy! Ông nhớ lại xem, có bao giờ ông lại làm như thế này được!"

Iveritinov buông tay. Cổ tay ông vươn ra khỏi tay áo, tay áo có vẻ hơi ngắn. Một tay ông ta xách cái ba lô nhà binh, bây giờ thì dường như cái bóng của ông nở rộng ra cùng với bóng tối chung quanh, vì vậy trần nhà như đè xập xuống đầu ông ta.

Zotov nói như dỗ dành an ủi, chàng cảm thấy đế giầy đè trên ngưỡng cửa:

"Ông đừng phiền lòng, đừng phiền lòng. Có một chút xíu việc cần xét cho rõ ràng lại thôi mà…"

Rồi chàng quay gót bước đi.

Guskov đi theo Zotov.

Lúc đi ngang qua phòng của Valia, Trung uý Zotov bảo:

"Cô giữ chuyến tầu nầy chậm lại một chút nhé!"

Vào trong phòng, ngồi xuống trước bàn, chàng viết:

"Gửi: Toán Hành Động NKVD

Tôi xin gửi đến các ông một người khai tên là Iveritinov, Igor Dementievich, Ông ta khai là quân nhân trong lực lượng Xô Viết thoát chết trong một cuộc bao vây của địch. Người nầy khai là trễ chuyến tầu số 24-54-13 tại Skopin".

"Trong lúc nói chuyện với tôi…"

Zotov bảo Guskov:

"Chuẩn bị. Lấy một người rồi dẫn y tới trung tâm".

Ít ngày trôi qua. Ngày lễ lại gần.

Nhưng Zotov không tài nào quên được con người có nụ cười chưng hửng và tấm ảnh chụp người con gái ông ta trong bộ quần áo có sọc.

Tuy thế, dường như chàng đã hành động đúng, làm được một điều phải.

Đúng, và cũng không đúng.

Zotov cho rằng người đàn ông ấy là một cán bộ địch trá hình. Vì thế chàng mới báo cho mật vụ NKVD biết.

"Tôi đưa đến các ông một người khai tên là Iveritinov vào ngày mồng một tháng Mười một. Xin quý ông có thể vui lòng cho tôi được biết về trường hợp của ông ấy đã rõ ràng như thế nào chưa?"

NKVD trả lời bằng điện thoại một cách cứng rắn, rằng:

"Trung uý Zotov, công việc điều tra còn đang tiến hành! Và theo các tài liệu liên quan đến số hàng hoá bị hư hại lên đến tám chục phần trăm, chắc chắn có những điều mờ ám gì trong vụ này đây. Đây là một việc hết sức quan trọng, vụ này có kẻ nhúng tay vào đây".

Và suốt mùa đông, Zotov làm việc vẫn tại nhà ga ấy với chức vụ sĩ quan phụ tá cho sĩ quan chuyển vận trưởng quân đội. Nhiều lần chàng muốn hỏi lại NKVD xem việc trước ra sao. Nhưng hỏi mãi như thế tất người ta nghi ngờ.

Có một lần, thẩm tra viên của Mật vụ NKVD từ trạm trung ương tới, Zotov liền hỏi xem ông ta có biết vụ ấy không:

"Ông có nhớ một người có cái tên là Iveritinov không? Hồi mùa thu năm ngoái tôi có bắt giữ ông ta ấy mà!"

Người Thẩm tra viên cau mày có vẻ khó chịu, giọng quan trọng:

"Tại sao ông lại hỏi việc ấy?"

"Thưa, bởi vì… tôi băn khoăn không hiểu ông ta ra sao".

"Người ta sẽ điều tra cặn kẽ về việc cái tên Iveritinov ấy của ông, ông không phải lo ngại gì cả. Chúng tôi không bao giờ bỏ rơi một vụ nào lưng chừng cả".

Nhưng sau đây, thì trong suốt cả cuộc đời, Zotov không bao giờ quên được con người ấy nữa.

Hết

*

Vài nét về Aleksandr I. Solzhenitsyn và tác phẩm Bất ngờ tại nhà ga Krechetovka

Aleksandr I. Solzhenitsyn, nhà văn lớn Nga Sô mới được độc giả Việt Nam "làm quen" trong vòng 2 năm mới đây, và cũng chỉ xuất hiện trên văn đàn thế giới vừa đúng một thập niên, đã là một hiện tượng có một không hai của lịch sử văn chương thế giới: lần đầu tiên, vào năm 1970 giải Nobel Văn chương đã được trao cho 1 nhà văn chỉ có mới 8 năm văn nghiệp!

Nhưng toàn thể dư luận thế giới không tỏ một chút ngạc nhiên nào về quyết định trên của Hàn lâm viện Thụỵ Điển, mà ngược lại nhất loạt tán tụng sự chọn lựa xứng đáng này. Bởi lẽ, tuy chỉ mới xuất hiện trên văn đàn có 8 năm, nhưng cuộc đời của Solzhenitsyn đã là cả một cái kho tàng cho văn tài của ông sinh sôi lớn mạnh.

Ông sinh năm 1918 tại Kitslovodsk, một tỉnh nhỏ thuộc vùng Caucasus ở miền nam nước Nga. Cha mất sớm từ thuở ông còn nhỏ, Solzhenitsyn sống với mẹ tại Rostov và được cho ăn học cho đến khi ông tốt nghiệp Đại học đường Rostov năm 1941 về ngành toán và vật lý.

Vừa ra trường và lập gia đình không lâu thì chiến tranh bùng nổ, cũng trong năm 1941 ông nhập ngũ vào ngành pháo binh, tham dự hầu hết các trận đánh tại các mặt trận Leningrad, Balan, Đông Thổ, được tuyên dương công trạng 2 lần.

Năm 1945, trong khi đang chiến đấu với cấp bậc đại uý, ông đột ngột bị cơ quan phản gián Nga bắt giữ, đánh đập về tội viết lời phỉ báng Stalin trong 1 lá thư gởi bạn. Ông bị kết án 8 năm tù và bị đưa đi làm lao công tại các công trường xây cất ở Mạc Tư Khoa.

Sau đó, vì có bằng chuyên môn về toán và vật lý, ông được đưa về Maverino, một trại giam gần Mạc Tư Khoa chuyên nhốt tù trí thức. Vài năm sau, ông lại bị đưa đến 1 trại tập trung ở Tây Bá Lợi Á làm nghề thợ nề.

Mãn hạn tù, ông ra khỏi trại lao công nhưng vẫn bị lưu đầy ở Tây Bá Lợi Á, và đây chính là thời gian ông viết lại những điều tai nghe mắt thấy trong những năm sống dưới chế độ lao tù của C.S. Nga.

Đến năm 1957, một năm sau khi Kruschev hạ bệ Stalin, Solzhenitsyn mới được phục hồi quyền công dân, và ông trở về nghề giáo sư toán, sống khắc khổ tại một tỉnh nhỏ cách Mạc Tư Khoa 250 cây số về phía Đông Nam. Thời gian này ông tiếp tục viết, và đến cuối năm 1961, ông gởi cuốn truyện đầu tiên đến nguyệt san văn chương Thế Giới Mới xin đăng (đó là cuốn Một ngày trong đời Ivan Denisovich).

Đích thân Kruschev đã cho phép đăng truyện này trong số ra tháng Giêng 1962, và chỉ trong vòng vài ngày đầu, 95.000 số báo đã bán hết; cuốn truyện được in thành 100.000 ấn bản tiếp đó cũng bán sạch. Toàn thể nước Nga rúng động vì sự xuất hiện của một nhà văn lớn, nhà văn mà các văn sĩ tên tuổi tại Nga đã không ngần ngại tặng cái danh hiệu "nhà văn lớn nhất còn sống của Nga Sô".

Nhưng đến năm 1965, khi phong trào phục hồi Stalin bành trướng, Solzhenitsyn đã bắt đầu bị "hất hủi" ra mặt. Các tác phẩm sau đó của ông như Khu ung thư và Tầng đầu địa ngục đều bị cấm xuất bản ở Nga, và chỉ được lén lút chuyển ra ngoại quốc để ấn hành. Càng ngày ông càng bị nhà cầm quyền C.S. đàn áp, công khai bôi nhọ và bị cấm nhắc đến trên hệ thống thông tin.

Ngày 12-11-1969, Solzhenitsyn bị khai trừ ra khỏi Hội các Nhà văn Sô Viết, một biện pháp kỷ luật tối quan trọng đối với một nhà văn Nga. Nhưng đền bù lại, ông đã được công bố trao tặng giải Nobel Văn chương 1970. Tuy nhiên ông không được hưởng cái vinh dự đi nhận giải ở Thụỵ Điển vì nhà cầm quyền Nga tìm mọi cách ngăn cản ông.

Cho đến nay, Solzhenitsyn vẫn chưa nhận được giải Nobel. Ông hiện sống hoàn toàn cô lập với vợ và 2 con tại ngoại ô Mạc Tư Khoa. Vợ chồng ông bị Cộng đảng Nga cấm làm việc và cấm hoạt động văn nghệ, nhưng với uy tín quá lớn của ông, nhà cầm quyền Sô Viết chưa dám hạ độc thủ với ông.

Các tác phẩm chính của ông gồm: Một ngày trong đời Ivan Denisovich, Tầng đầu địa ngục, Khu ung thư, Căn nhà của Matriona và Tháng Tám năm 1814 [2] . Cuốn Bất ngờ tại nhà ga Krechetovka tuy ngắn hơn các cuốn kia, nhưng đã được các nhà xuất bản Hoa Kỳ chọn lọc và xếp vào hạng tác phẩm xuất sắc tiêu biểu nhất cho trung thiên tiểu thuyết của nền văn chương Nga.

Cuốn sách này khác với các tác phẩm kia của Solzhenitsyn ở chỗ: trong khi các cuốn kia mô tả đời sống u uất của con người dưới chế độ cộng sản, từ phía những "nạn nhân", thì cuốn Bất ngờ tại nhà ga Krechetovka được viết dưới cái nhìn của một sĩ quan ưu tú thuộc quân đội Sô Viết.

Trung uý Zotov, viên sĩ quan trẻ tuổi nhiệt thành và hết lòng tin tưởng ở chế độ Sô Viết, nhân vật chính của cuốn truyện, đã nhìn chế độ mà mình phục vụ ra sao, đã có những phản ứng, những cảm nghĩ như thế nào trước những biến cố đang xảy ra trước mắt, dưới sự cai trị của chế độ? Diễn biến tâm lý của Zotov là điểm đặc biệt bàng bạc trong khắp cuốn truyện.

Đọc xong cuốn truyện, người ta có thể thấy thấm thía hơn bao giờ hết, khi nghĩ đến cái thân phận tù hãm của mọi cá nhân con người – bất cứ là kẻ được ưu đãi hay kẻ bị bạc đãi – trong chế độ Sô Viết. và đọc xong cuốn này, người ta cũng sẽ thấy thấm thía hơn bao giờ hết khi nghe Solzhenitsyn tuyên bố trong 1 lá thư ngỏ gởi Hội các Nhà văn Sô Viết năm 1967 tại Mạc Tư Khoa: "Tôi có một lương tri sáng suốt, bởi lẽ tôi đã hoàn tất các bổn phận nhà văn của tôi trong mọi tình huống và bởi lẽ tôi sẽ còn hoàn tất chúng một cách thành công hơn nữa khi mà tôi chết đi hơn là tôi có thể hoàn tất lúc tôi còn sống. Không một ai có thể ngăn cản con đường đưa đến sự thật. Tôi sẵn sàng chấp nhận sự chết cho cuộc vận hành đó…"


Nxb Hành Trình


[1]Ở nước Nga, các nghệ sĩ sân khấu hạng nhất, các lực sĩ, v.v. được tưởng thưởng nhiều danh hiệu nhà nước, những danh hiệu ấy cũng là cấp bậc nghề nghiệp của họ.
[2]Tại Việt Nam chỉ mới xuất bản 2 cuốn: Một ngày trong đời Ivan Denisovich (1971) và Tầng đầu địa ngục (năm 1973). Cuốn này là cuốn thứ 3 được dịch sang Việt ngữ.

Nguồn: Aleksandr I. Solzhenitsyn, Bất ngờ tại nhà ga Krechetovka, nguyên bản Nga ngữ, bản Việt ngữ của Lê Vũ dịch theo bản Anh ngữ The Incident at the Krechetovka Station của Andrew Mc Andrew, bìa Hồ Thành Đức trình bày, Hành Trình xuất bản, giấy phép xuất bản số 1953/PTUDV/KBCNT/KSALP ngày 07-6-1973.

Aleksandr I. Solzhenitsyn -Bất ngờ tại nhà ga Krechetovka (2)

Aleksandr I. Solzhenitsyn
Bất ngờ tại nhà ga Krechetovka

Lê Vũ dịch

2

Thật ra, cuốn sách dầy, hơi nhỏ khổ, đóng bìa mầu xanh, nó là Cuốn 1 bộ Tư bản luận của Karl Marx, giấy hơi vàng và đã mục, ấn bản trong những năm 1930.

Suốt thời gian năm năm ở đại học, chàng đã chăm chú đọc cuốn sách thiêng liêng này, và nhiều lần chàng đã đem nó ra khỏi thư viện đại học. Chàng muốn ghi chú và tóm tắt cuốn sách lại, chàng giữ cuốn sách ấy hết hạn mượn, là một năm. Nhưng chẳng bao giờ chàng có thì giờ rảnh, chàng phải dự các cuộc họp, những công tác của Đảng, và dĩ nhiên là có cả những cuộc khảo nghiệm, các cuộc thi chàng phải chuẩn bị, sửa soạn để thi. Trang đầu tiên của bản tóm tắt của chàng còn chưa xong, thì chàng đã tới hạn phải trả cuốn sách lại cho thư viện, rồi đến khoá thi tháng Sáu. Ngay cả lúc các sinh viên học về kinh tế học thì việc đọc cuốn Tư bản luận hiển nhiên là thuận tiện nhất, đúng lúc nhất, thì giáo sư cũng lại khuyên các sinh viên là đừng có đọc cuốn đó – "Các anh các chị sẽ bị sa lầy, sẽ bị chết đuối trong bộ sách đó!" – giáo sư khuyên các sinh viên tốt hơn hết là nên dành thời giờ để mà đọc các sách giáo khoa, và nên ôn tập lại các điều ghi chú được trong lúc ông giảng dạy. Và thật ra, các sinh viên cũng chỉ có thể làm việc được như vậy là cùng rồi.

Nhưng bây giờ là mùa thu năm 1941, trong cái xó xa xôi ở bên lề cuộc đại họạ này, Vassily Zotov đã có thời giờ rảnh để mà đọc cuốn Tư bản luận. Chàng đọc cuốn sách trong những giờ ngoài giờ làm việc ở văn phòng, khi chàng không có công tác đặc biệt nào do Đảng giao phó cho. Trọ trong gia đình nhà Avdeyevs, chàng ngồi trong phòng khách của gia đình này giữa những cây hoa lương thảo và dứa rừng, bên một chiếc bàn con khập khiễng và một ngọn đèn dầu (máy điện không đủ sức cung cấp điện cho cả làng). Tay chàng mân mê trang giấy sần sùi, mắt chàng đọc đoạn văn, mỗi đoạn chàng đọc ba lần – lần thứ nhất để có được một ý nghĩa về toàn thể đoạn văn, lần thứ hai là để hiểu rõ vấn đề hơn nữa, và lần cuối cùng là để ghi chú và nhớ kỹ vào trong đầu thật thứ tự, mạch lạc. Khi các bản thông cáo về chiến tranh càng có phần đen tối, bi đát, thì chàng lại càng mài miệt cặm cụi hơn nữa vào cuốn sách dầy khổ nhỏ bìa xanh ấy, và chàng cảm thấy lúc ấy óc chàng đón nhận được thật đầy đủ văn sách, cất kỹ những ý tưởng vào trong đầu, mai này chàng có thể sẽ trở thành một tay vô địch, không thể thua được trong trận đấu ý thức hệ, dù rằng đầy vẫn mới chỉ là cuốn đầu tiên trong bộ sách Tư bản luận.

Nhưng hầu như chàng không được hưởng đủ những buổi chiều yên tịnh ấy, và chàng mới chỉ ghi được có một trang giấy thì Antonina Ivanovna đến khiến chàng không thể đọc sách và ghi chú tiếp được nữa.

Antonia Ivanovna là một người ở trọ trong gia đình nhà Avdeyevs giống y như chàng. Bà ta là người ở Liski tới đây, và là chủ quán cà phê ở nhà ga Krechetovka này. Bà ta là một người đàn bà có đầu óc đanh đá lắm, vì thế nếu công kích bà ta điều gì thì quả là một điều nguy hiểm. Tại quán cà phê, sau này Zotov mới khám phá ra, khách hàng phải trả một rúp (tại chỗ cái cửa sổ con con) mới mua được một bát miến lơ thơ vài sợi thả trong thứ nước lèo trong trong như mắt ma chẳng có tí mỡ tí thịt nào. Bây giờ, nếu người khách hàng cầu kỳ không xì xụp húp được bát nước trong ấy thì phải bỏ ra một đồng rúp khác nữa gọi là tiền đặt cọc lúc ấy mới được bà chủ quán trao cho một chiếc thìa bằng gỗ sứt mẻ. Chiều nào cũng vậy, Antonina ra lệnh cho bà chủ nhà trọ đun một ấm nước, rồi nướng ổ bánh mì quét một ít bơ thật. Bà ta tuổi mới hai mươi lăm, nhưng những lúc bà ra lệnh thì vẻ mặt uy quyền lắm; nước da bà ta trắng, mịn màng, rõ ra là được săn sóc cẩn thận lắm. Bà ta lúc nào cũng săn đón chào hỏi ông trung uý một cách thật thân mật, và chàng thường đáp lại lời chào hỏi săn đón một cách thờ ơ vô tình, suốt trong một thời gian khá lâu chàng vẫn cứ tưởng bà ta là họ hàng gì với bà chủ trọ. Ngồi trong cái phòng khách chung bé nhỏ, Zotov gập người cặm cụi đọc cuốn sách, chàng chẳng để ý gì tới bà ta, chàng cũng không nghe thấy tiếng chân bà đi lại chỗ chàng, lúc ấy bà ta mới từ quán cà phê trở về nhà trọ. Bà ta sẽ đi về phòng riêng ở đầu dẫy nhà, rồi đi ngang phòng khách để tới chỗ bà chủ trọ, rồi quay trở lại phòng riêng, rồi lại tới phòng bà chủ trọ lần nữa. Sau đấy, thế nào bà ta cũng lại đúng như thói quen là dừng chân bên cạnh chàng và hỏi:

"Đồng chí Trung uý, ông đọc gì thế?"

Chàng sẽ gập cuốn sách lại, rồi trả lời vài câu lửng lơ.

Có lần bà ta hỏi chàng:

"Này Trung uý, đêm ngủ em không khoá cửa phòng, Trung uý có cho là nguy hiểm không nhỉ?"

Zotov hỏi lại:

"Sợ gì mà sợ? Sao, tôi ở đây mà. Tôi có súng mà".

Rồi vài ngày sau đó, lúc chàng đang ngồi đọc sách bỗng thấy bà ta ngừng xông xáo đi lại, rồi đóng đô ở ngay trong phòng khách. Chàng quay đầu lại nhìn. Chàng trố mắt tưởng đến lọt tròng ra ngoài: bà ta dọn giường ngủ ngay trên chiếc tràng kỷ trong phòng khách, rồi bả thản nhiên leo lên nằm trên chiếc gối, hai vai trắng nuốt hiện ra lồ lộ. chàng gương mắt sững sờ mà nhìn ba ta, chàng không biết phải làm sao bây giờ.

Bà ta giọng chế nhạo, hỏi:

"Em nằm đây không phiền gì Trung uý chứ?"

Zotov đứng dậy, chàng không thể nào giữ cho đầu óc suy nghĩ trong đường ngay lẽ phải được. Chàng bước tới, nhưng nhìn cái thân hình tròn trịa đầy vẻ mời chào thống khoái trong cuộc vụng trộm ái ân ấy thay vì thúc giục lôi cuốn chàng, thì hoá ra nó lại xua đuổi chàng, đẩy chàng tránh ra xa.

Chàng cũng không nói được lời nào với bà ta, cổ họng chàng tự nhiên như bị sự ghê tởm nó chẹn nghẹt lại. Chàng quay đi, gập cuốn Tư bản luận lại, chàng tìm lại được đủ bình tĩnh, cất cuốn sách vào trong ba lô, rồi bước nhanh tới chỗ cái đinh treo chiếc áo khoác và chiếc mũ, chàng nhấc giây lưng có khẩu súng nặng trĩu xuống khỏi chiếc giây lưng lại chỗ cũ; rồi chàng ra khỏi nhà.

Ra đến ngoài, chàng cảm thấy mình đắm giữa một vùng tối đen dầy đặc, ánh sáng đèn không lọt qua những khung cửa sổ che kín, ánh sáng cũng không từ trên bầu trời u ám rọi xuống. Gió thu lạnh ngắt cuốn theo mưa giăng giăng và thì thầm khắp chung quanh chàng. Chàng bước đi dẵm bừa cả vào những vũng nước, những ổ gà, lội bừa cà vào bùn, chàng đi về hướng nhà ga mà không biết là mình tay còn cầm chiếc giây lưng có súng nằm trong bao da. Chàng cảm thấy giận dữ, tức bực, và kinh tởm quá, chàng bấn loạn, đi giữa bóng đêm lộng gió và trời tối thẫm chàng muốn bật khóc thành tiếng.

Cuối cùng, thì chàng thấy không thể nào sống ở nhà trọ Avdeyes được nữa. Đúng, bà Antonina đã không cần biết đến chàng, và bắt đầu đưa về nhà vài anh chàng mặt phị, một người thường dân nhưng lại mang giầy ống cao đến tận đầu gối, khoác một chiếc áo kiểu nhà binh thật là đúng với thời trang hồi đó. Zotov cố đọc cuốn Tư bản luận, nhưng Antonina có lẽ có dụng ý nên để cửa phòng mở hé khiến chàng mới đầu có thể nghe được tiếng cười của bà ta và người đàn ông, sau thì là tiếng rên rỉ và hổn hển thở gấp của bà ta.

Từ đấy chàng trở về căn nhà với cung cách của một ông già tai điếc, ngôi nhà nơi chàng ở chỉ có một chiếc thùng cũ dùng làm giường nằm, và một mảnh vải thô dùng làm màn che, chàng đi ngủ.

Nhưng bây giờ thì dường như thiên hạ xầm xì về chàng và Antonia suốt cả Krechetovka. Xầm xì bậy bạ này có lẽ rồi sẽ lọt đến tai Paulina mất. Thật là kinh tởm…

Những ý nghĩ ấy ám ảnh chàng, làm cho chàng không làm việc được. Chàng cầm cây bút, cố bắt đầu óc tập trung hết cả vào những chỉ thị dẫn kèm của chàng, và lại ghi chép những con số các toa tầu và hàng hoá trong các cột chữ, chàng lập các bản tài liệu mới để sẽ sắp xếp thành các chuyến tầu tại ga Krechetovka. Công việc này chàng có thể hoàn tất đầy đủ được, nếu chàng chẳng gặp vài khó khăn vì số hàng lớn từ Kamyshin tới, với chuyến tầu này thì chàng không biết phải cắt ra làm sao và dàn xếp thành chuyến tầu mới như thế nào. Chỉ có ông đại uý là có thể giải quyết được việc này. Zotov nhắc ống nói máy điện thoại, đợi chờ. Chàng quay thêm lần nữa, vẫn im lìm, chàng quay thêm lần nữa. Ông đại uý không trả lời. Ông Đại uý lúc này không có mặt tại văn phòng. Có lẽ ông ta về nhà để ngủ một giấc sau bữa cơm trưa. Chắc chắn ông đại uý sẽ trở lại và nghe các báo cáo qua điện thoại, và chắc chắn là thế nào ông cũng trở lại bàn giấy trước khi Zotov và các nhân viên khác hết giờ làm việc.

Trong căn phòng khác, Valia nhiều lần gọi giây nói cho sở gởi hàng quân sự. Mụ Aunt Frosya vào phòng rồi lại đi ra. Rồi có tiếng đôi giầy nặng nề giậm xuống mặt sàn, có tiếng gõ cửa, kèm theo tiếng người hỏi vọng vào:

"Tôi vào được không?"

Và, không đợi để được mời vào, hai người đẩy cửa bước vào phòng Zotov. Người thứ nhất, vóc dáng cao lớn như lính phóng lựu, cử chỉ nhanh nhẹn, mềm mại, mặt anh ta đỏ ửng vì giá lạnh, anh ta bước vào giữa phòng, giậm chân chào rồi xưng danh:

"Trung sĩ Gaidukov, trưởng đoàn hộ tống tầu Chín Mươi Lăm Năm Không Năm; chuyến tầu có ba mươi tám toa xong xuôi cả, sẵn xàng để lên đường!"

Trung sĩ mặc chiếc áo khoác mùa đông, loại áo khoác rộng hạng sang dành cho các sĩ quan có đường xẻ ở vạt sau: chiếc giây lưng to bản của y có khoá hình như ngôi sao, đôi giầy bằng da tốt đánh bóng lộn.

Còn người thứ hai, đứng chỉ cao hơn vai Trung sĩ Gaidukov có một chút. Người này vẫn đứng ở chỗ cửa ra vào, làm như thể đi vào thêm chút nữa tất mệt nhọc lắm. Anh ta đứng ngây mặt, bộ mặt anh ta tưởng như tạc bằng gỗ, u tối. Rồi như miễn cưỡng, anh ta nâng bàn tay, chụm năm ngón, giơ lên chào, và thay vì xưng rõ tên cấp bực, nói cho to lên, lưu loát với cái giọng như là ca hát mới phải, thì anh ta thản nhiên nói:

"Trung sĩ Hạng hai Dygin, trưởng đoàn hộ tống tầu Bẩy Mươi Mốt Sáu Hai Tám. Bốn toa mười sáu tấn".

Một vạt áo nhà binh của anh ta bị rách một cách thảm hại, giắt trong chiếc thắt lưng vải thô, vạt áo ấy dường như bị một chiếc máy nào đấy cuốn vào rồi nghiền rách không thể vá víu lại được nữa; đôi giầy của anh ta quăn lên ở chỗ mắt cá chân, đôi giầy há mồm trông y như hai chiếc đàn phong cầm bị rách.

Trung sĩ Dygin có hàng lông mày thật đậm, quai hàm bạnh - đúng y như Chkalov (một vị anh hùng trong cuộc Nội chiến Nga), không phải là Chkalov chết trẻ, nhưng là một Chkalov đã từng lăn lộn, từng sống nhiều và trưởng thành.

Trung uý Zotov vừa nói vừa đứng dậy:

"Tốt lắm, tốt lắm!"

Đối với Zotov, thì chẳng có việc gì khiến chàng phải đứng lên để gặp một ông trung sĩ vào phòng chàng có việc cả. Nhưng trong lúc này đây chàng lại rất mừng được gặp bất cứ ai, và chàng mong được làm việc thật hữu hiệu với bất cứ người nào có khả năng đảm đương công việc. Từ khi sĩ quan phụ tá chuyển vận không có các nhân viên thuộc quyền trực tiếp nữa, thì những người này đây là những người duy nhất để Zotov có thể thi thố được tài khéo và mối quan tâm của một vị sĩ quan, dù rằng những người ấy chỉ ghé lại nhà ga trong năm ba phút hay vài đôi ngày.

Chàng bảo:

"Tôi biết, tôi biết, tôi vừa nhận được các chỉ thị về các chuyến tầu của hai anh".

Chàng nhặt bản chị thị từ mặt bàn giấy lên xem xét. Chàng ngước mắt thân thiện nhìn hai trung sĩ:

"Đây rồi, Chín Mươi Lăm Năm Không Năm và Bẩy Mươi Mốt Sáu Hai Tám đây rồi".

Áo khoác và mũ của hai trung sĩ này chỉ hơi ẩm một chút chàng thấy trên áo họ lấm tấm những giọt nước nhỏ, Chàng hỏi:

"Sao các anh làm thế nào được khô ráo như vậy? Trời tạnh mưa rồi à?"

Chàng trung sĩ cao lớn đẹp trai Gaidukov mỉm cười đáp:

"Thưa trung uý, trời có lúc mưa, lúc tạnh đấy ạ!"

Chàng trung sĩ tuy không còn đứng nghiêm chào kính nữa, nhưng thân hình anh ta vẫn vươn thẳng, nghiêm chỉnh. Anh nói:

"Thưa trung uý, gió bắc đã bắt đầu báo hiệu sắp thổi tới rồi đấy ạ!"

Người trung sĩ tuổi chỉ trên dưới mười chín là cùng, nhưng những ngày lăn lộn ở mặt trận, dưới hỏa lực đạn thù, nét mặt trẻ trung của người trung sĩ đã sạm mầu sớm trưởng thành trước tuổi, chẳng khác nào như vết sạm nắng phong sương.

Chính những vết phong trần vì chiến trận nơi tiền tuyến ấy đã làm cho Zotov đứng lên, rời bàn giấy để đến gặp hai chàng trai này, dù rằng với tư cách sĩ quan như chàng thật ra chẳng có gì để nói nhiều với họ cả. Vả chăng luật lệ cấm không được nói cho họ biết về thứ hàng hoá gì chở đi, bởi vì trong nhiều trường hợp các toa tầu được niêm phong kín, và chính các trung sĩ hộ tống cũng chẳng có ý nghĩ gì về việc đi hộ tống cho thứ gì.

Nhưng viên sĩ quan phụ tá chuyển vận tại một trạm lại có thể là một người rất có ích cho họ, vì thế hai cặp mắt nhìn dò xét chàng một cách thật chăm chú hai cặp mắt, thì một cặp đầy ánh vui vẻ, lanh lợi, một cặp thì ưu tư buồn bã.

Gaidukov đang tìm cách cố dò xem anh chàng sĩ quan này có phải khó chịu trong quân đội hay không, hay chàng sĩ quan liệu rồi đây có nhất định đòi khám xét chuyến tầu hay hàng hoá do mình hộ tống đi hay không.

Trung sĩ không có gì phải lo về hàng hoá trên chuyến tầu anh ta hộ tống, với các hàng hoá ấy không phải chỉ là một người đi canh gác mà thôi mà hiện giờ anh còn ham thích việc đi hộ tống này nữa, Anh đi hộ tống cho một chuyến tầu chở nhiều trăm ngựa, số ngựa này do ngài Binh Lương gửi đi, ngài Binh Lương vì không tin cậy vào việc cung cấp đầy đủ cỏ khô cho đám ngựa trong suốt cuộc hành trình, nên đã cung cấp cho thật nhiều rơm ép để đem theo cho đàn ngựa có cái ăn. Gaidukov lớn lên ở làng quê, từ bé chàng đã rất thích ngựa, vì thế bây giờ chàng xem ngựa như là bạn của mình chứ không phải là vì chàng có nhiệm vụ phải trông nom bầy ngựa và giúp đỡ cho mấy người lính được cử trông nom ngựa và cho ngựa ăn. Cứ mỗi lần chàng đẩy cánh cửa lùa, leo vào một toa tầu chở súc vật bằng một chiếc thang giây, thì cả mười sáu con ngựa trong toa - nào là ngựa hồng, ngựa nâu, ngựa đốm xám, đủ mọi thứ ngựa đều cùng một lúc quay những cái mõm dài dài của chúng lại phía chàng, có con lại hếch mõm lên lưng con khác, đàn ngựa nhìn chàng bằng cặp mắt buồn bã không chớp, tai chúng vẫy vẫy liên hồi làm như thể chúng muốn được chàng cho ăn thêm ít rơm khô nữa - đàn ngựa như đợi chàng bảo cho biết chúng nó đang bị đưa đi đâu mà lại phải bị giam cả lại trong cái thùng đầy tiếng động ầm ĩ, lắc lư này. Và Gaidukov đi giữa bầy ngựa, len lỏi giữa những bộ mông nóng hổi, chàng thọc bàn tay vào bờm ngựa, và những lúc không có lính ở đây chàng lại còn vuốt ve mặt ngựa và lẩm bẩm nói chuyện với chúng nữa. Ở mặt trận, ngựa có phần vất vả khổ cực hơn người nhiều lắm. Vả chăng, chúng làm sao để gánh vác cho hết các công việc cho được?

Gaidukov sợ ông trung uý có thể đi xem xét chuyến tầu chàng đi hộ tống. Mặc dù đám lính trong toán hộ tống của Gaidukov đều là lính mới tuyển, chàng vẫn có cái trách nhiệm của một công tác chiến đấu, chàng từng bị thương tại mặt trận Duieper hồi tháng Bảy, phải nằm mất hai tháng ở bệnh viện và làm việc tại phòng tiếp tế và dự trữ của bệnh viện, bây giờ thì chàng lại được cử ra mặt trận. Bởi vậy chàng rất hiểu các quy luật quân đội của mình, và hiểu rõ về vấn đề vi phạm kỷ luật và bỏ bê không trông nom đầy đủ đàn ngựa. Chàng và đoàn hộ tống gồm hai mươi binh sĩ của chàng rất tình cờ mà lãnh nhiệm vụ đi hố tống này, và ngay sau khi bọn chàng trao bầy ngựa cho nơi nhận xong là lập tức liên lạc liền với một sư đoàn tác chiến với tư cách là bổ sung quân số. Có thể trong vài ngày, các bộ quân phục mới của bọn chàng đã phủ đầy những đất thó đất sét ở các hầm hố rồi… Phải, nếu ở đâu cũng gặp được hầm hố, là một điều may mắn lớn cho bọn chàng, hồi tháng Bảy, chàng chỉ có được một vài đụn cát nhỏ để làm nơi trú ẩn tránh nhìn của bọn Đức cho nên mới bị thương khốn khổ như vậy. Và cũng vì vậy, chàng muốn được hưởng nốt những ngày cuối cùng đầy êm ả, ấm cúng đầy hoan lạc này. Trong toa tầu rộng rãi, có hai chiếc lò sưởi bằng sắt phải luôn luôn bỏ thêm than vào, than phải lấy từ các chuyến tầu khác, và phải dùng móc mà móc hay gắp. Chuyến tầu của chàng không bao giờ ngừng lại ở đâu một thời gian lâu, nhưng mỗi ngày phải ba lần tiếp tế nước uống cho ngựa, và lấy phần ăn chiếu theo các chứng minh thư lộ trình của toán hộ tống. Bây giờ, kể từ khi tầu đi lại nhanh như vậy, có nhiều người lại chỉ lo làm sao kịp lên tầu. Và, mặc dầu theo quy luật thì thường dân cấm không được lên toa hộ tống, thì Gaidukov và quân nhân phó trưởng toán của anh vẫn cảm thấy rằng không thể nhìn một cách thờ ơ trước cảnh những người chen lấn nhau lên xuống giữa những chuyến tầu dưới một bầu trời lộng gió được. Gaidukov không để cho bất cứ ai xin lên toa của chàng cũng được, nhưng với chàng một vài người có thể từ chối được thì cứ từ chối. Chỉ cần đổi một ca rượu Vodka cất lấy tại nhà, là một ông thanh tra khéo léo đã có thể lên tầu được rồi ; chỉ một miếng mỡ thôi, là một ông già tóc đỏ hoe đã được lên tầu rồi chứ không phải bị lặn lội trong gió lạnh nữa. Cũng có lúc bọn chàng để cho người ta lên tầu mà không đòi hỏi gì cả, nhưng thường thường thì đàn bà con gái bao giờ cũng được lính hộ tống hết lời mời chào lên tầu, lính hộ tống lăng xăng giúp đỡ cho các người đẹp hoài mà chẳng bao giờ thấy mệt. Bây giờ, trong toa tầu ấm cúng, ông già tóc đỏ lẩm bẩm kể lại vài câu chuyện về thời Đệ nhất Thế chiến, hồi đó ông ta được huy chương như thế nào, trong khi ấy thì một trong những cô gái - cô gái này không chịu để cho ai đụng chạm đến người cơ ngồi sát cánh ngay ông già - cô gái này cũng lách lại gần bên lò sưởi co ro như một con chim con. Vì hơi nóng, các cô gái khác đã bỏ áo khoác ngoài từ lâu rồi, các cô cũng cởi cả áo len. Có một cô, chỉ mặc một chiếc áo cụt tay màu đỏ, giặt quần áo của trẻ con, và lúc vắt chỗ quần áo giặt ấy cho ráo nước, vắt làm sao cho càng được ráo nước càng hay, thì mảnh áo lót ẩm ướt ở người giúp tay cho chị ta lại làm cho chàng thấy sôi nổi trong lòng. Hai cô gái khác thì đang nấu ăn cho cả bọn, hai cô lấy mỡ nấu nướng biến chế các khẩu phần quân đội thành những món ăn hoàn toàn khác hẳn. Còn một cô gái nữa ngồi ở góc toa, cô ta đang khâu lại một chỗ rách trên cái áo hay cái quần gì đó.

Và khi tầu ra khỏi ga, họ bắt đầu ăn, họ ngồi bên cánh lò sưởi một lát, hát một vài câu theo nhịp bánh xe lăn nhanh làm cho cả con tầu lắc lư, và rồi chẳng cần phải để ý xem ai là người phải trực canh, ai là người được rảnh (cả bọn ai cũng mệt mỏi như nhau), họ rời nhau mỗi người leo lên phần giường ngủ của mình làm bằng gỗ thô không bào nhẵn mà ngủ. Và đám phụ nữ hôm nay, cũng như đám phụ nữ ngày hôm qua, những thiếu phụ vừa mới tiễn chồng ra chiến trận và trong đám các cô gái nữa, tất cả không phải là có thể cưỡng được với sự cám dỗ của cuộc tình, nên trong những góc nơi ánh đèn không chiếu tỏ, nhiều bà nhiều cô nằm gọn trong lòng người tình của họ.

Người lính khốn khổ hôm nay lên đường ra mặt trận, tình ý buồn nản ra sao? Ai biết được, có thể giờ đây người lính ấy đang sống những ngày cuối cùng của cuộc đời mình.

Ấy cũng chính vì thế, mà trung sĩ Gaidukov mong muốn được trung uý cho phép chuyến tầu lên đường thật sớm, mong ước này của Gaidukov là mong ước lớn lao nhất trong lúc này. Và chàng cũng muốn các bà các cô không cùng một đường đi của chàng, chàng biết các bà các cô sẽ xuống ở đâu, và chàng cũng hiểu mình sẽ xuống chỗ nào, chàng biết mình sẽ phải tới khu vực chiến trường nào và lần này có phải chiến đấu hay không, chàng cũng mong ước được đi qua nhà chàng.

Trung uý vừa đọc các chỉ thị dẫn kèm của toán hộ tống, vừa bảo:

"Tôi hiểu. Các chuyến tầu của các anh không đến cùng một chỗ à?"

"Bao nhiêu lâu thì hai chuyến tầu gặp nhau?"

"Thưa vài chặng ngừng ngược trở lại".

Cặp kính mắt trung uý đăm đăm nhìn các giòng chữ, môi ông trề ra, ông hỏi:

"Tôi lấy làm lạ là tại sao người ta lại cử anh đi đường này?"

Trung uý ngửng đầu, ông nhìn Trung Sĩ Dygin, anh chàng có khuôn mặt hao hao giống ông già Chkalov, hỏi tiếp:

"Trước anh không ở Penza à?"

Giọng Trung sĩ Dygin khàn khàn:

"Thưa vâng".

"Thế thì tại sao người ta lại cho anh đi vòng vo quanh cả một vòng đến tận Ryazhsk như thế này? Người ta làm việc lạ lùng thật!"

Trung sĩ Gaidukov hỏi:

"Thưa Trung uý, khi hai chúng tôi rời nơi này, hai chúng tôi có cùng đường đi với nhau không ạ?"

Trong lúc đi đến phòng sĩ quan chuyển vận của nhà ga, chàng đã tìm ra được Trung sĩ Dygin từ đâu tới, nhờ đấy chàng hi vọng khám phá ra được nơi trung sĩ này sẽ phải đến.

"Phải, từ đây đến Gryazi các anh đi cùng đường với nhau".

"Thưa, sau đấy thì sao ạ?"

"Sau đấy hả, là một bí mật quân sự!

Zotov nói với cái giọng người Volga nhừa nhựa đầy vui vẻ, chàng nheo nheo mắt, phóng tia mắt qua mục kính nhìn chàng trung sĩ vóc dáng cao lớn.

Trung sĩ Gaidukov hơi cúi người xuống phía ông Trung uý, và cố gắng tán tỉnh để may ra biết thêm được chút tin tức nào nữa không:

"Thưa Trung uý, hai đứa chúng em không được may mắn đi ngang gần Kastornaya hay sao hở Trung uý?"

"Rồi các anh sẽ được biết mà!"

Giọng Zotov làm ra vẻ nghiêm nghị. Nhưng cặp môi chàng lại hơi mỉm cười, và vì thế Trung sĩ Gaidukov hiểu là lộ trình của hai người có đi qua Kastornaya.

"Thưa Trung uý, chúng em đi ngay tối hôm nay à, Trung uý?"

Bỗng Dygin nói như bắn gắt:

"Tôi không thể đi được".

"Sao, anh nói là anh không đi được hả? Anh bị ốm hả, hay có điều gì?"

"Cả chuyến tầu không thể đi được".

"Tôi không hiểu gì cả. Tại sao anh lại bảo thế? Tại sao?"

"Bởi vì chúng tôi không phải là những con chó!"

Dygin thốt giọng gằn xuống, hai tròng mắt anh đảo quanh dưới mi mắt có vẻ giận dữ.

Zotov bật đứng thẳng lên, cặp mày chàng cau lại:

"Chuyện gì lạ vậy! Trung sĩ nên thận trọng lời nói!"

Lúc ấy Zotov mới nhận thấy trên cổ áo Dygin chỉ có một dấu hiệu Trung sĩ hạng hai hình tam giác mầu xanh, còn cổ áo bên kia thì không có, chỗ cổ áo không có lon trung sĩ ấy chỉ có một cái lỗ thủng. Hai giải mũ lòng thòng thứ mũ bắt đầu dùng từ thời cách mạng, dài xuống đến tận ngực trông tựa như hai cái tai cụp xệ xuống.

Ánh mắt Dygin nhìn thật dữ dội, giọng y khàn khàn thứ giọng khàn của một người cuống họng đau:
"
Bởi vì chúng tôi suốt từ mười một ngày nay, chưa được ăn một thứ gì cả!"

"Hả!"

Zotov giật giọng, mục kính tuột xuống một bên vành tai. Chàng vội đưa tay giữ mục kính, đeo lại ngay ngắn, rồi tiếp:

"Làm sao lại như vậy được?"

"Đúng như vậy. Đúng thế… Giản dị lắm".

"Anh có lộ trình thư với thẻ khẩu phần không?"

"Ăn mớ giấy ấy chẳng được ích gì".

"Nhưng rồi làm thế nào mà sống được chứ?"

"Chúng tôi đã xoay sở đủ cả rồi".

Làm thế nào mà sống được chứ? Cái câu hỏi con nít, ngu si ấy thật ra từ cửa miệng anh chàng "bốn mắt" vóc vạc nhỏ thó này làm cho Dygin mất hẳn cơn giận dữ, và y nhủ thầm trong bụng là đừng có trông mong gì được giúp đỡ ở cái trạm nhà ga Krechetovka này trong thời gian còn lưu lại ở đây. Làm thế nào mà sống được chứ! Không phải chỉ vì có đói không, mà sự giận dữ nó làm cho quai hàm trung sĩ Dygin bạnh ra, y hầm hầm nhìn ông sĩ quan phụ tá chuyển vận có nước da vàng vọt, trắng bệch, ông sĩ quan vùi cuộc đời trong căn phòng sạch sẽ ấm cúng này. Cách đây bẩy ngày, bọn họ đã ăn trộm hai bao củ cải đường trong đống các bao, và suốt một tuần lễ bọn họ đã luộc số củ cải ấy mà ăn hết cả rồi. Cuối cùng, đêm hôm kia, lúc chuyến tầu của họ đợi ở ga Alexander Nevsky, trung sĩ Dygin đưa mắt buồn bã nhìn đám lính của anh, đám người mệt mỏi, tất cả đều là lính trừ bị và nhiều người còn lớn tuổi hơn cả anh, mặc dù bây giờ anh cũng chẳng còn trẻ trung gì nữa. Trung sĩ Dygin suy nghĩ, và đứng dậy. Gió lùa trong các bánh xe toa tầu, và rên rỉ qua những kẽ hở. Dygin phải đi tìm vài thứ gì để cho đám lính ăn tạm qua cơn đói, dù rằng chỉ kiếm được một chút thôi cũng được. Và y lần bước vào trong bóng đêm. Chừng một tiếng rưỡi đồng hồ sau y trở về quăng ba ổ bánh mì lên giường. Người lính ngồi sát ngay cạnh chàng ngạc nhiên, y không tin mắt y nhìn đúng sự thực.

Người lính kêu lên:

"Cái gì, lại có cả bánh tráng nữa cơ à!"

Dygin đưa mắt nhìn mấy ổ bánh, giọng thản nhiên:

"Cả bánh tráng nữa hả? Tao không để ý đấy!"

Và chẳng bao giờ Dygin lại có thể nói ra cho sĩ quan cấp trên của mình biết được là bọn chàng làm cách nào xoay sở để sống được. Trong những ngày ấy, bốn người trong bọn họ đã đi qua nơi quê hương bản quán của mình, cả bọn tưởng như mình đang đi giữa một bãi sa mạc hoang vắng. Hàng hoá bọn họ đang hộ tống đây, là gồm có hai mươi ngàn chiếc xẻng bôi đầy mỡ nhà máy, số xẻng này để đưa đến cho công binh sử dụng. Và ngay từ lúc mới khởi hành, Dygin đã biết là cả bọn phải đưa số xẻng ấy đi từ Gorky tới tận Tbilisi. Tất cả các thứ hàng hoá khác ưu tiên đều bị bác bỏ, để lấy chỗ chất số hàng hoá lạnh cứng trong lớp mỡ bò. Chuyến tầu đã đi được hơn hai tuần lễ, thế mà vẫn chưa được một nửa đường. Anh chàng sĩ quan gửi hàng vóc người bé nhỏ bần tiện này cần phải nhớ kỹ trong đầu như vậy, và phải nhớ là còn bốn toa tầu chưa mắc vào nốt, sau đấy thì để mặc cho cả đoàn tầu lâm cảnh khốn cùng tại một trạm giao liên hoang vắng xa ngút ngàn nào đấy. Bọn họ được lĩnh khẩu phần cho ba ngày đường tại trạm Gorky, tới trạm Saransk thì được lĩnh thêm khẩu phần cho một ngày nữa. Sau đấy, khi đến bất cứ nhà ga nào, ở bất cứ nơi nào và bất cứ lúc nào cũng vậy, bọn họ đều thấy các kho lương thực quân đội bao giờ cũng đóng kín cửa. Mặc dù vậy họ cũng phải đứng cho vững, vẫn phải sống, bọn họ đã chịu đựng cái đói một cách thật kiên nhẫn năm ngày nữa, như thế giả thử chỉ có lời hứa là khẩu phần trọn mười lăm ngày sẽ được cấp phát cho họ đã làm cho họ sống được rồi. Nhưng bụng họ cồn cào, kêu đòi có bánh, và tâm hồn họ rên xiết bởi vì họ hiểu rằng quy chế nhà binh không bao giờ cấp phát số khẩu phần đã quá ngày chưa phát ra. Những gì đã xảy ra, là đi kiếm thực phẩm, đi tìm cái ăn.
Trung uý Zotov muốn tìm hiểu. Chàng hỏi:

"Thế tại sao các thẻ khẩu phần của các anh lại không được người ta cấp phát thực phẩm nhỉ?"

"Tại sao hả, thế ở Trung uý có muốn cấp phát cho họ không?"

Trước khi đoàn tầu dừng hẳn lại tại ga Krechetovka, Dygin đã nhẩy xuống khỏi toa hộ tống, gặp một người lính ở sân ga, Dygin đã hỏi và được biết là tại ga này có một kho quân lương. Rồi Dygin lại được người lính cho biết tiếp là kho quân lương ấy bao giờ cũng đóng cửa khi trời tối, vì thế không có cách gì để đến quấy rầy nhân viên coi kho quân lương ấy được cả. Chính Dygin lúc ấy cũng thấy cửa nhà kho khoá kỹ.

Trung sĩ Gaidukov quên mất cả cử chỉ thận trọng anh đang cố giữ trong lúc đứng trước viên sĩ quan, anh vươn cánh tay dài thậm thượt ra mò mò vai trung sĩ Dygin mà rằng:

"Tại sao bồ không cho mình biết như vậy nhỉ? Bọn tôi giúp bồ được ngay mà!"

Dygin chẳng phản ứng lại việc Gaidukov mò mò vai mình, gã cũng chẳng thèm quay đầu lại nữa. Ánh mắt gã vẫn dữ dội, uất hận, đăm đăm nhìn vào mặt trung uý Zotov. Gã tự khinh mình là vô dụng, cả gã lẫn những người nhiều tuổi hơn gã trong chuyến đi chưa bao giờ ngỏ lời xin thường dân hay các quân nhân khác giúp đỡ, bởi vì ai cũng hiểu rằng trong thời buổi này không ai làm gì có của dư mà cho người khác được. Cũng chẳng có ai ngỏ lời yêu cầu bọn họ hãy đẩy cao tinh thần trong cái toa chở súc vật trống trải dùng làm toa tầu hộ tống ấy, toa tầu vẫn chưa nối vào đoàn tầu và vẫn ở trong tình trạng đợi chờ. Trong lúc đợi chờ như thế, bọn họ không còn công việc gì hơn là hút thuốc. Rồi, vì sườn toa tầu đầy những chỗ nứt vỡ, họ lấy vải dầy bít kín ba trong bốn cửa sổ toa tầu lại vì thế dù ngay giữa ban ngày bên trong toa cũng tối om. Và vì thất vọng đủ mọi bề, họ cũng chẳng buồn chăm chú lắm về việc đốt lò sưởi cho ấm, rồi tại những chặng nghỉ dài thật dài họ ôm gối ngồi quanh chiếc lò tắt lửa có khi trọn cả ngày trời, rồi họ luộc củ cải bằng các bình đựng nước uống, và dùng dao găm để xiên củ cải mà ăn, cả bọn lặng lẽ chẳng ai nói với ai nửa lời.

Trung sĩ Gaidukov về lịch sự đứng thẳng lên hỏi:

"Thưa đồng chí Trung uý, em ra ngoài được không ạ?"

"Được, Trung sĩ cứ việc".

Gaidukov bước ra. Chắc anh ta đi giải quyết vấn đề chia sẻ một ít thức ăn và thuốc lá cho bọn người này. Bọn họ chẳng bao giờ than thở với mụ già đó để mong được chút gì mà ăn, như vậy thì lúc này tốt hơn cả là mụ già ấy đem một ít thức ăn đến cho họ! Và họ lại phải dò xét lần nữa cái túi ba lô của ông thanh tra.

"Họ vẫn còn có thể nghe được cái tiếng động đúng phát ra từ cái ba lô ấy".

Trung uý cố tìm cách giải quyết vấn đề, ông bảo:

"Tôi hiểu, tôi hiểu. Bây giờ quá sáu giờ rồi, kho quân lương đóng cửa mất rồi".

"Vào giờ này thì các kho đều đóng cửa cả. Các kho chỉ mở cửa từ mười giờ sáng đến năm giờ chiều thôi. Ở Penza tôi đứng xếp hàng cả buổi, đến khi được gọi tên thì xe lửa chạy. Đến khi tới Marshanck thì đã nửa đêm rồi, tới Ryazkask cũng đêm nốt".

Zotov bắt đầu bối rối lắm, chàng bảo:

"Được, đợi đấy, đợi đấy, tôi không thể để mặc việc này được. Để tôi thử xem…"

Chàng nhấc ống điện thoại, quay chuông thật dài. Không có ai trả lời. Chàng quay chuông liền ba hồi nữa. Vẫn không có ai trả lời.

"Hà, khốn nạn thật!"

Chàng quay chuông thêm ba lần nữa.

"Guskov đấy hả?"

"Thưa đồng chí Trung uý, vâng!"

"Tại sao không có ai trực điện thoại cả?"

"Có, nó vừa chạy đâu đấy. Nó chạy đi kiếm mấy bình Yaour đấy Trung uý! Trung uý có ăn không, em đem sang mấy bình?"

"Vớ vẩn, tôi không muốn gì cả".

Chàng không nói rõ ra, vì còn có Dygin đang đứng ngay bên cạnh. Chàng không bao giờ cho phép Guskov đem thứ gì đến cho chàng cả. Vì đây là nguyên tắc làm việc, nguyên tắc chỉ huy. Và để giữ cho các giao thiệp được đứng đắn, chàng không thể đòi hỏi các cấp dưới của chàng phải săn sóc đến các công việc của chàng một cách quá kỹ lưỡng như vậy. Zotov đã có lần báo cáo lên ông đại uý về sự vô kỷ luật của Guskov.

Chàng bảo:

"Này Guskov, có việc như sau: có một chuyến tầu tới đây. Đoàn hộ tống của chuyến tầu này gồm bốn người, từ mười một ngày nay họ không được lĩnh tí khẩu phần nào cả".

Có tiếng Guskov huýt sáo trong ống nói:

"Mấy anh chàng ấy thế thì không khá được!"

"Đúng, không khá được. Ta phải dàn xếp vụ này mới được. Này tôi muốn anh đi kiếm Chichischev và Samorukov, bảo họ mở kho cấp lương thực khẩu phần theo đúng với thẻ khẩu phần của mấy người hộ tống này nhé".

"Em không biết tìm hai thằng ấy bây giờ ở đâu được đây? Đồng chí Trung uý, kiếm được chúng không phải là dễ đâu?"

"Ở đâu hả? Tôi cho là cứ tìm ở chỗ làm việc là thấy".

"Bây giờ đang mưa mà trung uý, lội bùn lúc này không tốt, trời lại tối nữa…"

"Chichishev không ở xa đây là mấy".

"Thế còn Samorukov thì sao ạ? Nó ở mãi bên kia bến. Đồng chí Trung uý, chắc chẳng bao giờ nó chịu đến đâu".

"Nhưng Chichishev thì sẽ đến".

Chichishev là một thơ ký dân sự, bị trưng dụng vào quân đội và đeo lon hạ sĩ trong sở tiếp liệu. Nhưng ở đây chẳng ai cho ông ta là một người nhà binh cả, vì thế mọi người vẫn đối xử với ông ta như một thầy thơ ký đã tiêm nhiễm sâu xa cái lề lối làm việc thương mại của ông rồi. Nói chuyện công việc với ông ta mà không có cả bàn tính để ngay bên cạnh thì cũng không được. Cái cung cách làm việc của ông ta còn đến như thế này: chẳng hạn khi ông ta hỏi về giờ giấc:

"Bây giờ là mấy giờ?"

"…"

"Năm giờ hả?"

Và để nhớ là năm giờ, ông ta gẩy năm hạt bàn tính sang một bên. Có khi, đang trong cơn mơ màng suy nghĩ, thì ông ta lại còn lên giọng triết lý như sau:

"Nếu người đàn ông sống độc thân" - ông ta gạt một hạt bàn tính - "cuộc đời ắt sẽ khó khăn vất vả. Rồi người đàn ông ấy" - gạt hột bàn tính thứ hai - "phải cưới vợ".

Khi ông ta ngồi ở bên trong khung cửa sổ ngăn cách với đám lính đang gào thét, la ó ở bên ngoài cố chen lấn nhau để đưa thẻ khẩu phần vào trước, đám lính cố lách cánh tay luồn thẻ khẩu phần vào trong cửa sổ chỉ hé mở vừa đủ cho lọt cánh tay, thì lúc ấy ông ta có thái độ hết sức cứng rắn, ông xô đẩy, gạt tay đám lính ra, rồi đóng xập cánh cửa lại để không cho lính đưa thẻ vào nữa. Nhưng mỗi khi ông ta ra khỏi cái nơi trú ẩn ấy của ông ta để gặp gỡ thẳng với đám lính, hoặc giả có bọn lính nào xoay xở tìm cách lọt được vào phòng làm việc của ông ta, thì lập tức ông ta liền kéo xẹp ngay hai cánh mũ phủ xuống hai vai hẹp của ông mà cất giọng thật êm ái: "Các bạn…" - rồi ông ta đóng dấu lên thẻ khẩu phần cho họ ngay. Đứng trước các cấp trên, ông ta lại khúm núm hèn hạ, lúc nào cũng ra vẻ lo lắng sợ sệt, chưa bao giờ ông ta lại từ chối một điều gì với bất cứ ai có mang cấp bậc cao trên cổ áo. Kho quân lương không thuộc quyền hành khiển của sĩ quan chuyển vận nhưng Zotov tin rằng Chichishev sẽ không từ chối lời yêu cầu của mình.

Gushov lại nhắc lại:

"Nhưng Samorukov sẽ không đến đâu".

Samorukov chỉ là một hạ sĩ, nhưng y lại coi khinh các trung uý ghê lắm, coi các cấp trung uý chẳng ra gì. Y có vóc người thật to lớn, khoẻ mạnh, dáng điệu của một con chó sói lúc nào cũng no đủ, y đúng là một nhân vật coi kho, một cái máy tính sống của kho quân lương, nhưng y lại cư xử như cung cách một tay anh chị, giang hồ.

Với bộ điệu thật trịnh trọng, y bước tới chỗ nhà kho, xem xét các khoá các chốt cửa, cuối cùng thì mở khoá, nâng cánh cửa sổ lên rồi móc cái móc giữ cho cánh cửa sổ mở đứng như vậy, trong khi ấy thì cái bản mặt phị mỡ, quai hàm bạnh, hãm tài khó lòng thân thiện được của y lại tỏ ra vẻ ta đây lúc nào cũng sẵn sàng phục vụ cho hết thấy mọi người nào đến cầu cạnh. Ấy vậy mà đến khi đám lính hối hả vội vã chỉ đợi mau mau ra tầu cho kịp chuyến, bọn lính vã mồ hôi chen chúc nhau xô đẩy nhau cố làm sao chen đến gần khung cửa sổ hé mở ấy gần thêm chút nữa, thì Samorukov vẫn có thể bình thản, ung dung vén hai tay áo lên để lộ hai cánh tay nung núc mỡ của y rồi vênh mặt lại dấu đóng của Chichishev trên các thẻ khẩu phần rách nát, quăn queo, sau đấy y khoan thai cân số thực phẩm (bao giờ y cũng cân thiếu) chẳng bao giờ y băn khoăn trong đầu tự hỏi xem người lính đi lĩnh khẩu phần ăn ấy liệu có kịp về chỗ tầu đậu đúng giờ hay không. Y ở trọ ở một nơi khá xa nhà ga do đó những lúc ngoài giờ làm việc y không bị ai quấy rầy làm phiền gì cả, và y lại còn cẩn thận chọn bà chủ trọ nào có một cái vườn rau và một con bò.

Nghĩ đến Samorukov Zotov lại thấy giận sôi sục ở trong lòng. Chàng căm ghét những kẻ như y, đúng y như chàng căm thù bọn phát xít, và khó lòng quan niệm được rằng những con người ấy chỉ là một mối đe doạ nhỏ bé. Chàng không làm sao hiểu nổi tại sao đồng chí Staline lại không ra lệnh cho những thứ Samorukov ở trên thế gian này phải bị tội bắn bỏ ở ngay trước kho quân lương của chúng, trước mặt đoàn hành quyết xếp hàng nghiêm chỉnh.

Zotov nghĩ: "Không, thẳng Samorukov sẽ không đến thật", nghĩ như vậy thì chàng lại thấy giận điên lên, đồng thời lại thấy hổ thẹn vì mình sợ y. Nếu để bọn bốn người lính hộ tống bị bỏ đói này ra đi tay không với ba hay năm ngày nữa, thì nhất định chẳng bao giờ Zotov lại dám chọc tức tên Samorukov cả. Ấy vậy mà bọn bốn người này đã bị đói từ mười một ngày nay…

Chàng nói vào ống nói:

"Guskov, anh nghe không, đừng sai lính đi gọi y nghe không, anh phải đích thân đi kiếm y mới được. Anh đừng nói cho y biết về việc bốn người lính hộ tống bị bỏ đói nhé, nhưng anh nói rằng Đại uý gọi y có việc khẩn cấp, qua tôi, anh hiểu chưa? Sau đấy thì anh đưa y đến thẳng tôi. Tôi sẽ giải quyết với y".

Guskov không trả lời.

"Sao anh không trả lời? Anh hiểu lời tôi bảo anh làm không? Nghe lệnh rồi thi hành ngay".

"Nhưng Trung uý đã bàn lại việc với Đại uý chưa?"

"Việc ấy là việc của anh đấy à? Tôi là người chịu trách nhiệm về việc này, không phải anh! Ngay lúc này Đại uý chưa được biết".

"Đại uý sẽ không bao giờ ra lệnh cho y làm như vậy đâu Trung uý ơi. Không có luật lệ nào có thể bắt buộc thẳng Samorukov phải mở cửa kho giữa ban đêm để phát ra vài cân bánh, mấy con cá mòi đâu!
Sự thật đúng là như vậy".

Zotov cố chút nữa:

"Con mấy người này thì sao?"

"Thì cứ để cho họ đợi đến mười giờ sáng mai. Đợi thêm một đêm nữa có gì là ghê gớm đâu, còn bây giờ thì Trung uý cứ bảo họ nắm ép rệp vào với nhau lấy lưng làm chăn cho ấm!"

"Nhưng xe lửa sắp chạy rồi. Chuyến xe này gấp lắm, không cho đi không được. Chuyến tầu trễ lâu rồi, vả lại lúc này đang có nhiều người mong đợi chuyến tầu".

"Nhưng nếu chuyến tầu sắp chạy, thì Samorukov có đi cũng chẳng đến kịp được. Đi bộ lội bùn, xách đèn từ đây đến chỗ nó ở, rồi lại đón nó đi bộ lội bùn về đây, ít ra cũng phải mất một tiếng rưỡi, hai tiếng đồng hồ".

Đúng, Guskov lại nói đúng thêm một điều nữa.

Trung sĩ Dygin quai hàm nghiến chặt vào nhau, hai giải mũ che tai cũ kỹ lòng thòng xuống ngực, y quay gương mặt phong trần về phía ống nói cố hiểu xem người ở đầu dây nói bên kia nói gì. Dygin vừa lắc đầu thất vọng, vừa nói:

"Lại thêm một ngày nữa, việc không xong – bọn chúng tôi lại mất khẩu phần".

Zotov thở dài lấy tay bịt ống nói lại để Guskov ở đầu giây đằng kia không nghe được, chàng bảo:

"Bạn thấy, tôi làm gì được? Thôi cứ coi như là hôm nay không có gì. Tới trạm Gryazi thì sao nào? Chuyến tầu này là chuyến tốc hành đến trạm ấy thì cũng vừa buổi sáng rồi".

Dygin có vẻ sắp đành nhẫn nhục, nhưng bỗng nhiên y chợt thấy ở viên Trung uý này có điểm yếu. Y bảo:

"Tôi không đi. Trung uý có thể bắt giam tôi được, nhưng tôi không đi đâu cả".

Vừa lúc ấy có tiếng gõ cửa. Một người ăn mặc dân sự mặt phì nộn rõ ra là thừa cơm thừa gạo, ông ta đầu đội một chiếc áo choàng mầu xám muối tiêu, ông ta khom mình thật lễ độ để xin phép được vào phòng, ông ta lẩm bẩm thế nào mà đến nỗi Zotov cũng chẳng nghe thấy ông ta nói gì. Zotov vội nói:

"Vào đi, vào đi!"

Rồi chàng nhấc bàn tay che ống nói ra nói tiếp:

"Thôi được, Guskov, tôi sẽ nói lại việc này sau".

Chàng mắc ống nói vào máy.

Ông thường dân ở bên ngoài cửa không nghe thấy Trung uý nói gì, lại hỏi:

"Thưa, tôi vào được không ạ?"

Zotov quá đỗi ngạc nhiên về giọng nói của người lạ, giọng nói của ông ta trầm, quyền uy, giọng nói có sức mạnh dường như chủ nhân nó muốn che giấu không cho lộ ra cái sức mạnh kỳ diệu ấy. Người đàn ông ấy mặc chiếc áo choàng mầu rỉ sắt đậm, áo kiểu thường dân, nhưng ông ta lại mặc quần nhà binh, chân đi giầy lính có quấn xà cạp. Tay ông ta lại cắp thêm một cái sắc nhà binh bẩn thỉu, tay kia ông nhấc mũ xuống, hướng về Zotov lẫn Dygin ông ta nói: "Chào ông".

Zotov đáp:

"Chào ông!"

Người đàn ông hỏi:

"Xin quý ông vui lòng cho tôi hay: ai là sĩ quan chuyển vận ở đây ạ?"

Ông ta hỏi thật lễ độ nhưng lại không có vẻ gì là khúm núm cả, phong độ ông ta thật đường hoàng hoà hợp dù rằng áo quần ông ta lẫn lộn táp nham đủ thứ.

"Chính tôi là phụ tá sĩ quan chuyển vận đang trong phiên trực!"

"Nếu vậy ông chính là người tôi đang muốn gặp rồi!"

Khách lạ đưa mắt nhìn quanh tìm chỗ treo mũ, chiếc mũ dường như bị bẩn vì than bụi, khách lạ thấy không có chỗ nào mắc chiếc mũ được. Nên ông ta liền kẹp chiếc mũ vào nách, bàn tay kia ông ta lần cởi khuy áo khoác. Chiếc áo lật ngược ra, áo không có cổ - cổ áo đã bị cắt bỏ - cổ ông ta quấn một chiếc khăn len. Đến lúc ấy Zotov mới thấy rõ người lạ mặc bộ quần áo nhà binh vừa bạc cũ, vừa bẩn thỉu, bộ quần áo của Hồng Quân mặc về mùa hạ. Khách lạ bắt đầu giơ tay cởi khuy túi áo ngực.

Zotov giơ tay cản khách lạ:

"Khoan, khoan!..."

Chàng quay sang Dygin, bộ mặt Dygin u ám, y đứng bất động hai mắt nhìn trung uý đăm đăm. Chàng bảo:

"Tôi phải nói để anh hay là tôi sẽ làm tất cả những gì tôi có thể làm được. Tôi sẽ không cho mắc các toa tầu của anh vào chuyến tầu và tôi sẽ để anh đi vào hồi mười giờ sáng mai".

Dygin nói:

"Cảm ơn trung uý".

Hai mắt Dygin ngầu đỏ. Zotov tiếp:

"Không có vấn đề cảm ơn gì cả, thật ra tôi chưa thực sự dàn xếp vụ này. Các anh sẽ đi chuyến tầu khác thật sớm. Cho đến lúc này tôi vẫn chưa biết dàn xếp để các anh vào chuyến nào".

"Dù sao chăng nữa thì chúng tôi cũng phải đi mất hai tuần lễ, vì vậy thì sớm hay muộn thêm một ngày nào có khác gì. Về thứ hàng chúng tôi đi hộ tống…"

Zotov giơ vội ngón tay lên lắc lắc:

"Ấy đừng! Đừng! Vấn đề không phải là anh hay tôi là người quyết định về tính chất khẩn cấp của các hàng ấy là thế nào…"

Chàng liếc mắt về phía người lạ, rồi thay giọng nhưng vẫn nghe rõ cái giọng người Volga của chàng:

"Nếu anh đã biết anh đi hộ tống cho thứ gì rồi, thì anh hãy nghĩ rằng: có bao nhiêu người sẽ dùng số xẻng ấy để đào hố cá nhân? Trọn hai sư đoàn đấy! Xuống được hố cá nhân, có nghĩa là mạng sống của họ được bảo đảm đấy! Vì thế hai vạn chiếc xẻng có nghĩa là hai vạn mạng sống của các binh sĩ hồng quân đã được cứu sống đấy! Phải không?

Zotov lại liếc mắt nhìn người lạ, ông ta hiểu ý nên đã đi ra xa về phía bên kia căn phòng, hai tay ông ta giơ lên bưng lấy tai làm như thể bưng tai cho đỡ lạnh, mà cũng có lẽ là để bịt tai khỏi nghe phải những lời nói chuyện của Zotov.

Zotov điểm nụ cười, hỏi to lên:

"Sao, ông bạn lạnh hả?"

Người lạ quay lại, mỉm cười.

"Thật là lạ, chỉ mới có một giờ đây thôi mà thời tiết bỗng xuống thấp lạnh đến thế này, gió cũng thổi mạnh, cùng lúc trời lại đỗ mưa nữa!"

Phải, gió đang gào thét quất vào góc toà nhà, và khung kính vỡ ở cửa sổ phía bên tay phải phát ra những tiếng lạch cạch ở đằng sau miếng giấy che ánh sáng. Nước trong ống máng bị vỡ lại chẩy xiết ào ào.

Nụ cười của người lạ râu lởm chởm nét mặt khác thường này lại rất đầm ấm rất dịu dàng. Tóc ông ta không cạo hết, tóc kín đầu nhưng tóc ngắn, mềm, lẫn màu xám.

Ông ta trông chẳng ra nhà binh, cũng chẳng ra thường dân.

Ông ta móc trong túi áo ngực ra một mảnh giấy, rồi nói:

"Thưa, đây là giấy của tôi…"

Zotov đỡ lấy tờ giấy chưa vội xem, chàng nói:

"Khoan, khoan. Lát nữa đã. Mời ông ngồi xuống đây, ghế đây!"

Sau khi nhìn người lạ ăn vận kỳ cục lần nữa, chàng đi về chỗ bàn giấy tìm bản ghi các con số, rồi ra hiệu cho Trung sĩ Dygin và đón cả hai sang phòng bên cạnh, phòng của Valia.

Nàng Valia đang bận nói chuyện qua điện thoại, còn mụ Aunt Frosya đang co ro bên cạnh lò sưởi để cho khô quần áo. Zotov đi lại chỗ Valia, nắm cổ tay nàng – tay Valia đang cầm ống nghe.

"Cô Valia…"

Cô gái quay lại, ánh mắt vụt vui sướng hình như cô cảm thấy ấm áp qua bàn tay Zotov nắm cổ tay cô. Nhưng cô tiếp tục nói vào ống nói:

"Chuyến tầu Một Không Không Hai vừa mới tới đây xong. Chúng tôi không có gì gửi đi cả. Petrovich cho chuyến tầu sang đường Tambov nhé!"

"Cô Valia, mau mau bảo bà Aunt Frosya thay danh sách các toa đi nhé – hay tốt hơn cả thì bảo bà ấy để riêng bốn toa của ông này lại cho nhân viên hỏa xa nhé… Ông Trung sĩ đây sẽ đến gặp bà ấy sau – rồi để mấy toa ấy riêng ra cho đến sáng mai nhé".

Mụ Aunt Frosya vẫn ngồi co ro bên cạnh lò sưởi, mụ quay cái bản mặt phèn phẹt lại phía Trung uý rồi trề môi.

Valia đáp:

"Được rồi, Vassily!"

Cô mỉm cười tay vẫn cầm ống nói – có lẽ cô đợi Trung uý buông cổ tay cô ra. Cô tiếp:

"Em sẽ báo bà ấy ngay!"

"Còn bốn toa tầu ấy thì cô dàn xếp sao cho lên đường vào chuyến đầu tiên sáng mai nhé. Cô cố gắng nhé, Valia!"

"Chắc mà, Vassily!"

Cô cười thật tươi, thật rạng rỡ, Zotov quay sang Dygin:

"Rồi, việc vậy đó".

Mụ Aunt Frosya thở dài sườn sượt như bễ lò rèn, rên rỉ rồi đứng dậy. Dygin lặng lẽ giơ tay lên thái dương, chào y cứ giữ mãi cánh tay như vậy. Ở con người y chẳng có gì là nhà binh cả, kể từ cái mũ với hai giải che tai lòng thòng xuống đến ngực trở đi.

"Có phải anh mới nhập ngũ đây không? Trước anh là công nhân nhà máy phải không?"

"Thưa phải".

Ánh mắt nhìn của Dygin tràn đầy sự kính phục, y đăm đăm nhìn trung uý.

Zotov giơ tay chỉ lên bên cổ áo Dygin không có lon cấp bực, rồi bảo:

"Anh nên đeo lon lên cả bên này nữa mới được".

"Tôi chỉ có một chiếc. Chiếc bên này mất rồi".

"Còn cái mũ nữa, ít ra cũng phải buộc hai giải che tai lại chứ, hay là lật nó lên chứ đừng để lòng thòng như vậy. Hiểu không".

Mụ Aunt Frosya vừa khoác xong chiếc áo tơi mưa, mụ tưởng Trung uý bảo mụ, mụ liền cất giọng cằn nhằn có vẻ tức giận:

"Lật mũ lên là thế nào? Ngoài kia mưa lạnh thấy mẹ! Thôi đi ông, nào ta đi!"

"Rồi. Chúc anh may mắn, Trung sĩ! Ngày mai sĩ quan khác sẽ trực ở đây, anh hãy cố xin ông ấy cho đi sớm, đừng trễ nhé".

Zotov trở lại phòng riêng, chàng khép kính cánh cửa. Mới chỉ bốn tháng trở về trước, chàng chưa hề có một ý nghĩ nào về mức độ mau lẹ của chiếc khoá dây lưng nhà binh mỗi lúc cởi ra hay đóng lại, và chàng thấy cái lối chào của nhà binh là có vẻ kỳ cục buồn cười, lại thêm phần không thích hợp.

Khi chàng trở vào phòng, người khách lạ vẫn cứ ngồi im chẳng tỏ vẻ gì là ông ta định đứng dậy, nhưng ông lại có cử chỉ như thể muốn nói rằng: nếu cần thì ông ta sẽ đứng dậy. Chiếc ba lô của ông khách bây giờ để trên sàn, chiếc áo khoác dân sự mầu xám muối tiêu của ông ta để trên chiếc ba lô ấy.

Zotov ngồi xuống ghế ở bàn giấy, chàng nói vội:

"Ông cứ ngồi, cứ ngồi… Nào, xem nào…"

Chàng bắt đầu mở tờ giấy của người khách.

Khách lạ mỉm cười, một nụ cười nhận tội và nói:

"Tôi bị chuyến tầu bỏ rơi đấy ạ".

Zotov đọc tờ giấy, đây là tờ lộ trình thư do sĩ quan vận chuyển ở Ryazhsk ký. Rồi chàng nhìn người lạ, bắt đầu các câu hỏi thường lệ:

"Tên chót của ông là gì?"

"Iveritinov".

"Họ và tên tổ phụ?"

"Igor Dementievich".

"Ông năm nay cũng phải hơn năm mươi tuổi…"

"Không, tôi mới bốn mươi chín".

"Chuyến tầu ông đi số bao nhiêu?"

"Tôi không được biết".

"Họ không cho ông biết hay sao?"

"Không, họ không cho".

"Vậy thì tại sao lại có con số ghi ở đây? Ông phải biết con số này để cho sĩ quan vận chuyển ở Ryazhsk biết chứ?"

Con số ấy là Hai Mươi Bốn Năm Bốn Một Ba, tức là chuyến tầu Zotov cho đi đêm hôm trước rồi.

"Không, tôi không biết. Ở ga Ryazhsk tôi chỉ nói cho họ biết tôi ở đâu tới thôi, rồi từ đấy ông sĩ quan vận chuyển phải đoán ra chuyến số bao nhiêu chứ".

"Ga trước ông đến là ga nào?"

"Ga Skopin".

"Rồi xẩy sự ra sao?"

Iveritinov mỉm cười cầu tài, cặp môi ông ta thật dầy:

"Vâng, tôi xin thưa thật cả. Lúc ấy tôi đi bán vài thứ mang theo trong người, hi vọng là tìm được chút gì ăn đỡ đói… Đúng lúc ấy thì tầu chạy. Tầu chạy mà chẳng kéo còi gì cả, cũng chẳng có loan báo gì hết. Ngày nay các chuyến xe lửa chạy vội quá…"

"Thế việc này xẩy ra đúng ngày nào?"

"Ngày hôm kia".

"Ông vẫn chưa dàn xếp xong?"

"Vẫn chưa xong. Tôi làm cách nào được bây giờ? Ông xem, tìm cách lên được một toa tầu chở hàng hoá có dễ gì, nào là leo thang, đến lính cũng còn không chịu nổi, lại thêm lính canh xua đuổi, đẩy chúng tôi xuống không cho lên. Cho đến lên các toa chở súc vật họ cũng không cho lên. Có người thì bảo là không có chỗ. Có lần tôi còn thấy một chuyến tầu chở hành khách, lần ấy tôi được thấy hai người lái tầu đứng trên các bực toa tầu thấy bất cứ ai muốn lên tầu là đẩy trở xuống. Còn tầu chở hàng hoá, thì không làm sao hỏi được tầu chạy đường nào, suốt thời gian chuyến tầu đứng đợi ở đấy không có đầu tầu nên tôi không làm sao hỏi được xem chuyến tầu ấy chạy đi đâu; đến khi đoàn tầu có đầu tầu rồi thì tôi lại không làm sao hỏi kịp được nữa. Bây giờ thật không làm sao hỏi kịp được nữa. Bây giờ thật không hiểu tại sao người ta không dùng cái lối ngày xưa để cho hành khách biết rõ ràng chuyến tầu chạy đường nào có phải tốt không, chẳng hạn như chỉ đường MOSCOW-MINERALNYEVODY này. Còn hỏi thì không thể nào được rồi, hỏi thì bị mọi người nghi ngờ là gián điệp, nhất là khi lại ăn mặc lôi thôi như tôi thế này. Nói chung thì ngày nay hỏi han điều gì cũng nguy hiểm cả.

"Trong thời chiến tranh, thì chắc chắn đúng thế".

"Ngay cả trước thời chiến tranh cũng nguy hiểm như vậy đấy!"

"Thật tôi chẳng bao giờ được biết như vậy, tôi nói thật đấy".

Iveritinov nheo nheo mắt:

"Thật chứ, nhất là sau hồi 1937".

Zotov ngạc nhiên:

"Năm 1937 thì có gì lạ? Có gì xảy ra năm ấy? Có phải ông định nói đến trận chiến tranh Tây Ban Nha không?"

"Không, không phải…"

Iveritinov lầm bầm và lại mỉm cười, nụ cười thú tội:

"Không phải là chiến tranh Tây Ban Nha…"

Cái khăn quàng len của ông ta không thắt nút, hai đầu buông thõng dưới áo khoác lòng thòng xuống đến gần thắt lưng.

"Ông không phải là nhà binh, làm sao ông đi được? Áo khoác ngoài nhà binh của ông đâu?"

Iveritinov mỉm cười:

"Có bao giờ tôi được phát áo đâu!"

"Thế ông lấy cái áo nầy ở đâu?"

"Có người tốt bụng cho tôi".

Zotov lẩm bẩm:

"A, phải, tôi phải nói thực là ông tới đây được tương đối nhanh đấy. Ông có nói với tôi là sáng hôm qua ông ở sở vận chuyển tại trạm Ryazhsk, và chiều hôm nay ông ở đây. Tôi muốn biết ông làm thế nào mà tới đây được. Ông tới đây bằng đường nào?"

Iveritinov nhìn thẳng vào Zotov, cặp mắt ông ta lớn, thật thà, êm dịu. Zotov thấy tính tình ông này thật hết sức dễ chịu. Chàng cũng lại thấy thích cái cử chỉ của ông ta trong lúc ông ta vừa nói, vừa giải thích cho rõ công việc, ngón tay ông ta nhẹ nhẹ nhịp nhịp.

Ông ta nói:

"Thật là may mắn phúc đức cho tôi quả chừng đấy ông ạ. Tôi xuống tầu ở ga ấy… Trong hai ngày ấy tôi bắt đầu hiểu được tiếng lóng về hỏa xa, trước tôi thường nghe nói đến "toa phẳng" tôi cứ ngỡ rằng cái toa ấy nó phẳng để tiện dụng vào việc nào đấy, phẳng bẹt như đồ trang sức bẹt chẳng hạn này… Tôi mới leo lên bằng một cái thang, tôi thấy rằng nó là một cái "hố bằng sắt", một cái hốc trống trơn chẳng có gì để ngồi, cũng chẳng có gì để tựa hay bấu víu được. Trong toa ấy có than, đến khi tầu chạy, bụi than cuốn lên mù mịt. Thế là tôi được nếm mùi khốn khổ trong toa tầu ấy, nhất là lúc trời mưa xuống mới thật khổ hơn nữa…"

Zotov phá ra cười:

"Vậy mà ông bảo rằng đấy là phúc đức may mắn đấy hả! Tôi chẳng thấy phúc đức may mắn ở chỗ nào cả! Áo quần ông làm sao giặt sạch được!"

Rồi chàng lại cười, hai bên mép chàng vạch ra hai đường nhăn chạy lên đến tận hai bên cánh mũi.

"May mắn phúc đức là khi tôi ra được khỏi toa tầu ấy, rũ bụi than đi và nhận ra rằng đây là chuyến tầu về Nam. Tôi chạy dọc theo đoàn tầu chẳng thấy toa nào mở cửa, toa nào cũng đóng chặt. Rồi tôi thấy có một người lính từ trong một toa trống leo ra ngoài đi tiểu, rồi lại leo trở vào. Tôi bắt chước anh ta cũng leo như vậy. Thật là lạ lùng nói không thể tin được, toa tầu ấy toàn chăn len thôi!"

"Thế toa ấy không đóng cửa hay sao?"

"Không, không đóng cửa! Các chăn ấy nguyên cột lại mỗi gói năm hay mười cái, nhưng lúc tôi vào thì nhiều gói lung tung cả rồi, vì thế người ta có thể dùng các chăn ấy mà đắp được lắm. Trong toa tôi thấy có nhiều người đang ngủ!"

"Ông cũng im lặng luôn!"

"Thế là tôi chui vào ba bốn cái chăn một lúc, tôi ngủ được một giấc vừa dài, vừa ngon vừa ấm quá chừng suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ liền. Tôi không biết chuyến tầu ấy có ngừng lại đâu không nhất là từ hai ngày trước đấy tôi không được lĩnh khẩu phần của mình rồi. Tôi cứ ngủ li bì, ngủ liên miên, ngủ quên cả chiến tranh đang diễn ra, quên cả mình đang ở đâu và chung quanh mình ra sao… Tôi nằm mơ về gia đình tôi..."

Khuôn mặt râu ria lởm chởm, da nhăn của ông ta rạng rỡ hơi ấm.

Bỗng nhiên Zotov chợt nhớ ra điều gì chàng bật đứng dậy:

"Khoan khoan! Như vậy là ông tới bằng chuyến tầu ấy… Ông đến vào lúc nào nhỉ?"

"Tôi không biết, khoảng hai mươi phút gì đấy thôi… Tới nơi là tôi tới ông ngay mà…"

Zotov rảo bước đến cửa, chàng xô mạnh cánh cửa:

"Valia, Valia, chuyến tầu đi Balasho số bao nhiêu. Một không không cái gì, mấy?"

"Một không không hai".

"Chuyến tàu còn đây không?"

"Đi rồi".

"Cô có chắc không?"

"Có, em quả quyết mà".

Zotov hai tay vò đầu, chàng than thở:

"Hừ, thật khốn khổ. Bọn ta ngồi chết ở đây y như những đứa bị tội phải cầm bút mà biên chép, biên chép đủ thứ, thế mà có một việc thì lại chả thấy – thậm chí cũng không tìm ra được cơm mà ăn nữa! Gọi dây nói đi Michurinsk-Uralsky cho tôi ngay nhá".

Rồi chàng quay lại phòng riêng hỏi Iveritinov.

"Ông có cách gì cố nhớ cho được số toa tầu ấy không?"

Iveritinov mỉm cười đáp:

"Không ạ".

"Toa ấy có hai trục hay bốn trục".

"Lúc ấy tôi sợ tôi không biết gì về các thứ ấy cả".

"Vậy thì ông biết cái gì? Toa ấy rộng hay hẹp? Liệu vào loại toa chở bao nhiêu tấn?"



Nguồn: Aleksandr I. Solzhenitsyn, Bất ngờ tại nhà ga Krechetovka, nguyên bản Nga ngữ, bản Việt ngữ của Lê Vũ dịch theo bản Anh ngữ The Incident at the Krechetovka Station của Andrew Mc Andrew, bìa Hồ Thành Đức trình bày, Hành Trình xuất bản, giấy phép xuất bản số 1953/PTUDV/KBCNT/KSALP ngày 07-6-1973.
In 2000 cuốn tại nhà in Tiến Hoá, số 164 Võ Tánh, Sài Gòn, phát hành ngày 05-8-1973.