16/6/11

Thanh Tâm Tuyền -Mù khơi ( 1 )

Thanh Tâm Tuyền
Mù khơi
(Tiểu thuyết)


1.

Người đàn ông ấy đã chết. Tôi lặp lại với mình, lặp lại như thế hồi lâu và nhận ra ngấm ngầm tôi vẫn mong ước cái chết ấy xảy đến. Bây giờ người đàn ông ấy đã chết. Thế là xong. Từ bây giờ (không phải nói từ hơn tuần nay) tôi sẽ không còn bận trí về sự hiện diện của ông ta trên đời này, tôi được giải phóng thoát khỏi lòng thù hận đầu độc tôi trong bao nhiêu năm nay. Nhiều lúc tôi tưởng tôi phải chết. Vậy mà tôi vẫn sống, trong địa ngục, tôi sống nhăn, sống kỳ cục và tôi khinh miệt tôi. Nhưng nay thì chính ông chết, và tôi còn sống. Tôi cho thế mới công bằng, ông ta trả lại tự do cho tôi sau khi đã cướp đoạt mấy mươi năm liền.

Tôi đọc lần nữa dòng tin buồn trên báo. Tờ báo cũ hơn tuần rồi. May mắn sao tình cờ tôi lại lẩn thẩn đọc tờ báo cũ này để gặp những dòng ai tín quan trọng đối với tôi. Nếu không, tôi có thể chẳng hề hay biết và có thể bóng dáng của người đàn ông ấy sẽ mãi ám ảnh tôi. Tôi cười bật một tiếng ngắn.

Tiếng cười dội vào trong tôi. Tôi không cười thành tiếng nữa như chuỗi cười dứt tung âm trong đầu. Tôi cười một mình âm thầm dữ dội như vẫn cười trong cơn ác mộng. Xung quanh tôi lặng lờ không một tiếng động. Niềm hân hoan mọi rợ khiến tôi co rút người, nôn nao như say, bắp thịt trên má, trên ngực giựt động liên hồi. Tôi mệt dốc tưởng xỉu ngay tại chỗ. Những bông hoa đỏ lóe cắm trong cốc đặt trên bàn chập chờn nhảy. Tôi phải nhắm mắt, cố dằn cơn xúc động huyên náo nhấp nhô như sóng. Rồi những giọt nước mắt tự nhiên ứa ra không sao kìm giữ. Tôi khóc đấy sao? Không đời nào, những dòng nước mắt cứ tuôn trào, cùng chuỗi cười vang vọng đâu xa, làm lắng dịu những thôi thúc trong thân tôi. Sau rốt tôi cũng bình tĩnh được.

Nhưng đàn ông ấy đã chết. Người đàn ông ấy. Tôi không biết gọi cách nào khác. Hiểu giản dị, người đàn ông ấy là bố tôi, giản dị thì như thế. Nhưng giữa người đàn ông mà tôi có thể phải gọi bằng bố và tôi, mối quan hệ không bình thường giản dị chút nào. Về mặt pháp lý, chúng tôi không còn chút liên hệ nào với nhau. Ông chết dưới một tên khác, không phải cái tên tôi được biết ngày nhỏ, ông đã thay đổi căn cước cùng với cuộc đời ông. Và chính tôi nữa, trên giấy tờ, tôi cũng không phải là con ông, cái tên một thời ông đã khoác rồi vứt bỏ, tôi cũng vứt bỏ luôn khỏi tờ khai sinh của tôi. Về mặt xã hội, chúng tôi không hề sống chung với nhau dù một ngày dưới một mái nhà. Không một ai hay biết ông là bố tôi hay có một vài người biết thì những người ấy cũng làm lơ như không biết. Chứng tích quan trọng về giây liên hệ giữa hai chúng tôi là người đàn bà sinh ra tôi. Nhưng chứng tích ấy cũng đã biến mất từ lâu. Người đàn bà ấy còn sống, đã có cuộc đời khác, không dòm ngó đến chúng tôi nữa.

Hoá ra chỉ còn hai chúng tôi, hai người đàn ông chẳng liên lạc gì với nhau nhưng lại trót biết rằng mình có liên hệ. Đôi khi tôi tự hỏi không hiểu người đàn bà kia có lầm lộn chăng, hay nham hiểm trước khi thay đổi dứt khoát đã đẩy tôi ra trước mặt người đàn ông ấy như một hành động trả thù tai quái. Dù thế nào rõ ràng là người đàn ông ấy muốn quên là có tôi trên đời này cũng như tôi muốn quên ông ta. Ông chưa một lần gọi tôi bằng con và tôi chưa một lần gọi ông bằng bố. Chúng tôi không bao giờ tìm gặp nhau nhưng chúng tôi vẫn biết quanh đâu đó có đôi mắt lạnh lùng theo dõi mình. Và riêng tôi, tôi thù hận người đàn ông ấy.

Tôi biết, tôi dư sức biết, mối tình cảm của tôi có thể được giải thích bằng cái lý thuyết gọi là Phân tâm của Freud. Ôi, cái mặc cảm gọi là Oedip kia lồ lộ trong cái khuynh hướng sát phụ. Mọi người muốn hiểu thế cũng được. Riêng tôi, tôi không muốn…

Phải, mối tình cảm của tôi đối với người đàn ông ấy không giản dị là của đứa con chống lại với bố nó. Không giản dị thế đâu. Còn cái gì hơn nữa kia, cái gì mạnh mẽ buộc chặt tôi vào người đàn ông ấy khiến tôi nổi điên vùng vẫy. Cái gì buộc chặt tôi? Và bây giờ cái chết cởi thoát cho tôi, với sự tự do vừa tìm thấy, tôi sẽ… phải, tôi sẽ sung sướng hơn.

Trong quán ăn hẻo lánh, tôi đang ngồi, tôi nhớ tôi đang chờ. Không còn ai khác ngoài tôi. Các cửa kính đóng ngăn gió bên ngoài. Tôi nhớ tôi đang ở thật xa Sài Gòn, thật xa cái ngày người đàn ông ấy nằm xuống. Người ta đã chôn cất ông và khi tôi trở về dưới ấy, tôi không còn sợ bất ngờ phải đụng mặt ông nữa. Tôi nhớ lúc này là buổi chiều trên miền cao. Qua cửa sổ trời mây xám ngoét, những mảnh vườn rau xanh tốt và những ngôi nhà lụp xụp dưới thấp đã le lói ánh đèn. Tôi nhớ tôi đang chờ Hằng, tôi đang chờ một cuộc hẹn đã biết trước khi đến là bất hạnh. Nhưng bây giờ tôi tin tôi sẽ biến đổi được cục diện.

Tôi xốn xang nghe như chuông Giáng sinh đổ hồi khua động trong lồng ngực. Bầu không khí rét ngọt, nhưng hai bàn tay tôi vã mồ hôi. Tôi mong Hằng đến, đến thật mau để cho niềm hạnh phúc mới mẻ chất chứa trong tôi bùng nổ, bao phủ lấy nàng. Nàng sẽ thất thần, sẽ lao đao, sẽ khiếp hãi nhưng sung sướng. Chúng tôi sẽ uống rượu, sẽ ăn bữa cơm như ngày nào mới gặp nhau và sau đó chúng tôi sẽ cùng đi với nhau ra ngoài. Tôi sẽ đuổi nàng chạy trên những con dốc, trên những khoảng đồi, gió thổi ào ào khắp các rừng cây. Thành phố như đang bay và tôi cũng bay theo. Hằng, Hằng ơi, chúng ta được tự do và em sẽ sung sướng. Đêm thật khuya, rét mướt khi chúng tôi không chạy nữa, tôi sẽ dìu nàng chầm chậm quanh hồ, chúng tôi có thể lột bỏ quần áo xuống hồ bơi lội. Tại sao không nhỉ? Chúng tôi sẽ là những thỏi băng. Tại sao nước hồ bên dưới không thể ấm áp nhỉ?

Những tiếng động trên sàn gỗ khiến tôi bốc giận. Người nữ tu của một dòng truyền giáo kiểu mới trông nom quán ăn xuất hiện nơi khung cửa.

"Ông vẫn còn phải đợi?”

Tôi cầm tấm bìa thực đơn che mặt.

"Tôi còn đợi, thưa dì phước, tôi không thể không đợi. Dì hiểu chứ?”

Người nữ tu mỉm cười, tiến vào phòng bật điện.

"Ông bật ngọn đèn trên bàn của ông đi. Ông uống thức gì trong khi chờ đợi?”

"Dì cho tôi một cốc nước lạnh. Và dì sửa soạn cho tôi và một cô bạn của tôi sẽ đến ăn.”

Cốc nước lạnh uống một hơi hạ bớt cơn nóng vô lối. Tôi tự nhủ phải thay đổi, bắt đầu từ giờ phút này tôi phải thay đổi. Bắt đầu thay đổi từ sự dịu dàng khi nghĩ về người đàn ông ấy. Lòng thù hận phải tiêu tan đi, tôi phải thoát khỏi căn ngục đen tối chật chội. Ông ta đã chết rồi. Lần cuối cùng tôi gặp ông vào một bữa trưa nắng, trong rạp chiếu bóng ở Sài Gòn. Ông vào đó kiếm chỗ ngủ, ông đi ngang mặt tôi, cúi lom khom, người gầy guộc, chui tuốt vào chiếc ghế trong kẹt góc. Ông đã đánh rớt xấp báo ôm trong tay, lúng túng xin lỗi và mò mẫm trong bóng tối lượm nhặt giấy tờ vương vãi một mình. Ông không hay tôi ngồi đó, tuột hết giầy vớ, gác hai chân lên lưng ghế hàng trước. Trong phòng tối vắng vẻ, tôi nghe rõ từng tiếng động nhỏ, ông ho khan, ông chép miệng tóp tép, hình như ông bóc một bao kẹo hay một gói giấy bóng bọc sái thuốc phiện, ông ngáy khò khè như bị đàm vướng cổ. Những buổi trưa như thế, ông vừa từ một quán cơm bình dân bước ra lủi thủi một mình trong bóng nắng và trốn vào rạp chiếu bóng. Lúc đèn bật sáng tôi thấy ông nằm bật ngửa, đầu nghẹo một bên, thở thoi thóp yếu đuối, mặt mũi bình thản một cách lạ lùng. Đó là một ông già cô đơn đáng thương, nếu không phải là ông. Vẻ bình thản của ông đâm xốc vào mắt tôi, ông không có quyền bình thản như thế. Cái tấm thân xơ xác thảm hại trong bộ quần áo lôi thôi xập xệ giống như một cái xác.

Có lẽ khi ông chết mặt ông cũng vậy. Có lẽ còn điểm thêm nụ cười khinh bạc. Ông thật có cái quyền cười như thế ư? Tôi không thể không giận. Đáng lý tôi phải thương hại ông mới phải. Có phải không? Tôi đã không thể thương hại. Làm sao tôi thương hại được một cái xác. Nhưng lúc này tôi muốn, thương ông, tôi phải tập thương ông mới được. Cái xác ấy đã chôn vùi rồi, chôn đâu tôi không hay biết…

Người nữ tu trở lại. Bầy hai chiếc khăn ăn, dao nĩa trên bàn. Cô dừng tay, ngó chầm chậm:

"Ông đã khoẻ chưa?”

"Ai? Tôi ư? Tôi đau sao, dì?”

Người nữ tu bỏ sang bàn khác, sửa lại mấy cốc hoa. Vẳng lên trong buổi tối tĩnh mịch, tiếng nhạc đĩa kín ẩn, thấp thoáng. Những âm sắc bén đã che dấu đã dồn dập bay lượn, khúc nhạc căng thẳng, sợi dây cung phóng vút những mũi tên nhọn. Ngực tôi phơi trống trải. Tôi muốn la gọi cho im tắt những thanh âm đang xô đuổi nhau ầm ĩ dửng dưng, nhưng rồi tôi kìm được.

Bên ngoài trời đã tối xập. Những hạt mưa thưa quật vào cửa kính. Tôi nghĩ Hằng không đến, nàng cũng sợ cuộc hẹn hôm nay. Càng tốt. Tôi có đủ thì giờ để biến đổi mình, tập dượt làm quen với tình thế mới. Tôi có những ngày vắng lặng, tận hưởng sự tự do và khi tìm gặp nàng tôi đã lột xác. Nàng sẽ ngạc nhiên mừng rỡ đón nhận. Anh không còn quái gở nữa, anh bình thường như mọi người, trước kia anh bị đầy đoạ… anh bị đầy đoạ, anh bất bình thường… Toàn thân tôi phát ớn lạnh, lẩy bẩy. Trên mặt kính cửa sổ, ngọn đèn chụp trên bàn lờ mờ chiếu hình của tôi. Tôi đưa tay phải vuốt tóc, nghe mặt mũi lởm chởm bẩn thỉu mấy ngày không cạo rửa. Mấy ngày? Tôi không nhớ rõ. Tôi đã nằm lỳ trong phòng, đợt Hằng đến như mọi khi, Hằng đến khóc lóc vuốt ve, an ủi tôi sau mỗi lần gây gổ, tôi xua đuổi nàng, tôi lồng lộn, xua đuổi nàng, bằng nàng phải ôm ghì lấy lấy tôi cắn xé, khóc than cho đến lúc tôi không còn hơi sức hành hạ người đàn bà nữa mới thôi, tôi đợi Hằng và Hằng không đến, cuối cùng tôi phải nhắn Hằng hãy gặp nhau lần chót. Hằng hẹn ở đây và cũng sẽ không tới. Nhưng không thể là lần chót được. Tôi không thể mất Hằng… Không thể…

Trên đầu dốc dẫn xuống quán, tiếng xe hơi đậu lại và tắt máy. Những bước chân chạy mau trên lối lổn nhổn sạn đá. Tiếng giầy đàn bà bước nhanh qua sân gạch lên cây cầu gỗ tiến vào phòng.

Tôi biết Hằng đến, tôi muốn đứng lên đón nàng xong vẫn ngồi yên. Hằng đứng lại ngoài hành lang, nàng đang phủi bọt nước bám trên áo, tôi nhắm mắt tưởng tượng. Tiếng người nữ tu chào hỏi, một người khác, có lẽ là người da đen, tôi đã trông bóng thấp thoáng dưới bếp lúc vào. Giọng Hằng thanh tao. Tôi không nghe gì nữa một hồi lâu, ngoài khúc nhạc mới vẳng lên. Một khúc nhạc thật rối, thật đầy.

Tôi mở mắt. Hằng đứng gần bàn đang quan sát tôi, bên cạnh một người đàn ông lạ mặt. Nàng không trang điểm, vẫn khoác chiếc áo dạ tối.

"Mưa quá. Em phải nhờ anh Phong có xe đưa em đến. Đây anh Phong… còn đây anh…"

Hằng cố lấy giọng tự nhiên nhưng tôi nghe rõ sự giả trá. Nàng không muốn gặp tôi một mình, nàng muốn tỏ sự dứt khoát. Có sao đâu? Mặt tôi bừng bừng. Tiếng kêu phát nổ ngay.

"Việc gì em phải làm như thế, trò trẻ con em biết không? Em cứ bảo thẳng là em không thích gặp anh nữa. Đừng bắt anh đóng mấy cái trò khỉ này… anh làm sao chịu nổi… Em… Em xoàng lắm… việc gì… em phải…"

Người nữ tu đứng sau lưng khách sững sờ nghe tôi to tiếng. Hằng nhíu mày nhưng vẫn tự chủ, gượng cười.

"Kỳ quá anh. Anh mời em ngồi xuống đi. Rồi anh muốn nói gì hãy nói. Em nghe mà".

Tôi nắm chặt thành bàn, cố dằn cơn hung bạo thô lỗ. Đầu óc lao đao, lập lờ, cổ họng nghẹt ứ. Tôi ráng như phải dịu dàng.

"Hằng em ngồi xuống đi. Xin lỗi anh. Anh gì nhỉ?"

"Hằng xin lỗi anh Phong. Tính anh ấy vẫn thế. Mời anh".

Người nữ tu đỡ Hằng, một tay nhấc chiếc ghế cho Phong. Hằng ngồi xuống sau, đối diện với tôi, nói vừa đủ tôi nghe:

"Anh gọi món ăn chưa? Em gọi cho anh nhé. Anh nhớ là chính anh muốn mình gặp nhau hôm nay. Tiện có xe của anh ấy em mới đến, nếu không em đã không đến".

Tôi rút thuốc châm hút, mấy ngón tay run như đuôi thằn lằn đứt. Đêm sóng sánh trong trận mưa đáp nặng. Tôi muốn câm như giải đất bên lối dốc ngoài kia, giải đất chen chúc những cỏ thừa thãi xum xuê dưới lớp mưa phủ. Hư hết rồi Hằng… phải… giá em đừng đến… Tôi yếu ớt hết sức, tôi biết tôi khó lòng kháng cự cơn cuồng lốc vồ vập.

"Anh xin lỗi em. Xin lỗi anh Phong. Cám ơn anh đã đưa Hằng đến. Xin lỗi dì… Tôi mất dạy quá phải không dì? Tôi xin lỗi hết thảy. Em gọi dùm anh đi. Dì cho tôi xin một chai rượu chát. Bữa nay mình sẽ khao linh đình".

Người nữ tu đưa mắt hỏi ý Hằng, nàng lặng lẽ gật đầu.

"Một lần nữa, anh xin lỗi em. Em thấy không? Chưa bao giờ anh biết xin lỗi em cả. Hôm nay xin lỗi em, anh xin lỗi hết. Anh sẽ xin lỗi mãi nếu em muốn. Cám ơn em. Em tin đi từ phút này anh sẽ không làm điều gì bậy nữa… Anh biết từ trước đến nay anh đối với em bậy lắm. Anh tệ mạt. Anh không chối nhưng anh tin là anh thay đổi từ hôm nay, từ phút này, anh thay đổi…, anh thay đổi thật… anh tin là em hiểu anh phải không Hằng? Nếu em không hiểu được anh… thì chẳng còn ai hiểu anh nữa… Em đã hiểu anh, em hãy cố hiểu anh thêm… Hằng. Hằng em có nghe anh nói không? Em có muốn nghe anh không?... Em còn có tin dù thế nào có một điều thật nhất, điều em không quên là anh yêu em… Anh quái gở nhưng anh yêu em. Anh yêu em quái gở nhưng yêu em. Bây giờ anh sẽ hết quái gở em biết không. Em hãy nhìn anh thay đổi. Anh thay đổi mà… em hãy nhường anh một lần này nữa… một lần này… nữa thôi. Hằng… Hằng…"

Tôi nói mê man, nói không muốn nghỉ. Tôi không thể rời xuống vực trống, tôi nói như thể khúc nhạc hoà tấu dâng tràn gian phòng, như thể trận mưa ào ạt trong đêm mỗi lúc một đầy. Tôi nói, tôi nói hoài, xoá nhoà quang cảnh quanh tôi, Hằng, Hằng hãy để cho anh nói… cho anh nói hết… Nói hết một lần. Một lần như không bao giờ. Không bao giờ anh có thể nói được nữa. Hãy để cho anh nói, anh có buông tung hết thảy những gì ẩn giấu, ngầm chứa… Có thể được không?


2.

Như mạch đã mở, máu chảy xối cho đến lúc kiệt, không sao cầm. Tôi nhìn Hằng ngồi đó, trước mặt, mím chặt môi, tránh tia nhìn, lúc lắc đầu, thỉnh thoảng lắp bắp muốn ngắt lời. Tôi cao giọng, hối hả tranh chạy trước những ý nghĩ vụt sáng vụt tắt. Tôi không cần biết mình nói những gì. Tôi chỉ biết nếu tôi ngừng lời, tôi sẽ chẳng thể há miệng trở lại, tôi sẽ câm như hến và Hằng sẽ bỏ đi. Dường như trong phòng có thêm một số khách, nhiều tiếng xầm xì khó chịu, tôi bất chấp. Một lúc Hằng nắm giữ bàn tay tôi đặt trên bàn, nàng muốn đánh thức tôi. Tôi mở to mắt, giữ chặt tay nàng và cười hực trong cảm giác tê tái điếng hồn: Anh vẫn còn tỉnh mà, anh tỉnh hơn lúc nào hết, để cho anh nói, anh cần phải nói, anh cần phanh phui một lần nỗi lòng anh rồi em muốn quyết định thế nào anh cũng đành… em phải hiểu anh… em phải hiểu người đàn ông… em phải hiểu đời sống này, đời sống này, đời sống u uẩn, đời sống thực của mỗi người, đời sống không nói được, đời sống mù mịt như con đường hầm, em phải hiểu như thế, có thể anh thay đổi, có thể anh chẳng thay đổi gì… như anh hứa… nhưng anh… trừ phi em không muốn hiểu anh nữa… trừ phi…

Dường như mọi người đều chú mục vào tôi, thây kệ. Tôi biết mình lố bịch, rồ dại nhưng tôi sợ sự nín lặng ngập ngụa sẽ chụp xuống và tôi có thể càn rỡ hơn nữa. Nhưng tôi cũng biết tôi chẳng sao lấp đầy nổi cái miệng vực há ngoác đang đón. Và tôi biết tôi đang nhấp nháp hương vị của sự tuyệt vọng. Tôi không thay đổi được cục diện, trái lại.

Rồi tôi im bặt.

Mặt Hằng nghiêm lặng nhợt nhạt như pho tượng đá, đôi mắt bất động câm tuyệt xúc động, cánh môi trên hằn vết răng cắn. Nàng rút tay lại, tôi không còn sức níu giữ.

"Em hiểu anh, không hiểu anh, em đã cắt đứt liên lạc với anh từ lâu. Không phải đến bây giờ. Nhưng mong anh cũng hiểu cho em. Anh… dù sao anh nhớ em vẫn chỉ là đàn bà. Người đàn bà không bao giờ vượt nổi một số giới hạn… dù ngông cuồng cách mấy. Em hiểu anh nhưng em cũng hiểu em. Em không thể làm gì hơn…"

Giọng Hằng trầm ấm, nhẹ nhàng không một nét hờn giận. Tôi nghe thảnh thơi lắng dịu như đám mưa bay đều ngoài trời. Hằng thật quyết tâm, mắt nàng đỏ hoe, đỏ thật thà khiến tôi muốn khóc. Trong phòng tiếng động rời rã như làm nền cho sự tĩnh lặng rất đầy, sự tĩnh lặng tôi đã sợ, mơn man êm ái. Tôi đứng lên rót hết rượu vào các cốc.

Anh chàng tên Phong suốt từ lúc vào giữ thái độ nhẫn nại tội nghiệp và lúc ấy anh ta trông thẳng vào mắt tôi, muốn cho tôi hiểu tôi chỉ là thứ quái vật anh mới gặp đầu tiên trong đời. Tôi ngồi xuống ghế, nâng ly, tỏ dấu mời hai người lần thứ nhất trong buổi tối. Tôi mỉm cười, mơ hồ chợt nhớ đến vẻ bình thản trên gương mặt người đã chết.

"Anh là người sống với những bóng ma nào đó, những bóng ma nào đó, những bóng ma em không làm sao biết được. Có phải thế không anh? Ngay cả em, em cũng là một cái bóng. Em nghĩ như thế không biết có đúng không. Em nghĩ thật lâu lắm rồi, chín lắm rồi… chúng mình chỉ có thể là bạn. Em cảm ơn anh những gì anh đã dành cho em, em cũng xin lỗi anh về tất cả… Anh luôn bảo với em phải sống thật, sống đến hết, đừng nửa chừng, có phải không anh? Anh hãy để cho em được sống thật. Yêu anh lúc nào em cũng có cảm tưởng em sống ở cõi nào khác, không phải trong cõi này. Em có thể hiểu anh, nhưng hiểu là một chuyện…"

Buổi tối đã tàn lụi thừa thãi. Chẳng còn gì lưu luyến. Thần trí tôi lênh đênh quanh quẩn như hơi gió khuất. LOOKING… AT… THE WINDOW… SMO… KING… MY SAID… CIGARETTE… Giọng hát rạn vỡ đắng chát u sầu như điếu thuốc tôi ngậm trên môi. Tôi cầm chiếc dao ăn, gõ nhẹ vào thành cốc theo nhịp lời. Những âm không trống trải nếm được trên đầu lưỡi. SMO… KING… MY… SAID… CIGARETTE. Hằng vẫn nói đều giọng những lời dỗ dành từ biệt. Nàng trở về với nàng, về với đời sống thực mà không thực, không thực mà thực, đời sống giản dị những chằng chịu được chấp nhận, nàng trở về với người con gái trước khi gặp tôi, nhưng đó là một người con gái đã khiếp hãi mọi mộng tưởng… Phải, cõi tục đó, cõi hoang tịch đó, nàng cũng vẫn chỉ có một mình, nhưng gần tôi nàng nghe như ở trong địa ngục. Những lời của Hằng tôi nghe ra như những tiếng động ru hờ một giấc ngủ sẽ tới, những lời tôi đã nói với nàng cũng thế. Tôi không muốn tưởng tới gì ngoài những vang động trống không bởi vượt khỏi những vang động kia tôi sẽ cười hộc lên. Sặc mùi văn chương màu mè vậy mà cảm động. Cớ sao tôi không thể nói những lời như nàng? Những lời mơn trớn như liều thuốc an thần mọi người đều cần. Tôi còn kịp để giữ Hằng, tôi chỉ việc hoà theo nàng không nhiều, một vài lời đệm hợp với điệu du dương đang bao phủ. Biết thế cớ sao tôi không làm nổi? Nàng sẽ khóc tức tưởi và tôi sẽ cười sặc hoặc sẽ cáu kỉnh thô lỗ.

Người nữ tu đến bên bàn, nhấc lấy chai rượu.

"Ông nên dùng gì đi chứ. Ông chưa ăn chút gì cả. Lúc nãy ông nói mê say. Ông làm chúng tôi sợ".

"Xin lỗi dì một lần nữa. Dì cũng hiểu hai kẻ yêu nhau…"

Người nữ tu ra cửa tiễn khách. Phòng ăn giờ chỉ còn bàn chúng tôi. Tôi nghĩ đã đến phút phải chia tay và nhìn sang Hằng. Nàng quay mặt về phía cửa sổ. Ở ngoài mưa đã ngớt hạt. Dưới hũng tối, đèn đóm hiu hắt. Phong ngó quanh các bức tường trong phòng.

Chỗ lò sưởi xây bằng gạch còn giữ cảnh bài trí tích Chúa Giáng sinh. Trong lò sưởi, các gốc củi được xếp chụm như sắp đốt vẫn quấn nguyên những dây giấy màu xanh đỏ. Cảnh vật rút vào trong sự thầm thì thừa mứa những ý nghĩa, ngay cả những cử động, di chuyển của hai người nữ tu đang dọn dẹp bàn ăn cũng là một phần của cảnh.

Tôi tự hỏi: tại sao tôi vẫn còn ngồi nán ở đây? Tôi còn chờ đợi điều gì xảy tới? Hằng sẽ nói tiếp, Hằng sẽ bật khóc, bỏ chạy, Phong theo hộ vệ nàng, còn tôi ngồi trơ trơ như đoạn kết một cuốn phim, khuôn mặt tôi bơ phờ, lạc lõng hiện lên trong một gros plan chụp qua ống kính là đôi mắt của người nữ tu từ phương xa đó. Đôi mắt mà đầu tưởng tượng, tưởng tượng như sản phẩm của tất cả những gì đã thâu nhận, phóng lớn hình ảnh của tôi với những nỗi niềm phơi trải. Nhưng thật sự tôi đang bình yên. Mọi sự đã xong, không xong cũng phải xong.

"Mai em về Sài Gòn. Anh đừng tìm em mất công. Anh sẽ không thể nào gặp em đâu".

"Hằng về Sài Gòn ngày mai đấy à?"

Phong hỏi, ngạc nhiên, đó là câu nói đầu tiên của anh chàng này tôi nghe thấy. Tôi không nói gì cả. Đáng lẽ tôi phải nói một câu gì mới đúng phép nhưng lời lẽ trốn biệt đâu cả. Tôi chỉ đang nghe tiếng gió hú thổi trên đồi cao và sự vắng vẻ thênh thang của mặt đường dốc ngoài kia. Hằng gật đầu, liếc tôi có ý chờ xem phản ứng.

"Vâng, mai Hằng về sớm".

Tôi mường tượng đến bầu trời mù sương đục sáng mai, bóng dáng Hằng đứng ở bến xe buổi sớm, quang cảnh những con đèo xanh ngút mắt, xe lao xuống, con đường cuốn gió bị hút dưới bụng xe những cây cầu ì ầm chấn động lẫn trong tiếng nước chảy ào ạt trên các ghềnh đá, ánh nắng non tươi lấp loáng trên kính xe cùng những con bướm bay đập tơi tả trước mũi xe trong một đoạn đường chen giữa rừng, cái quán nghỉ dọc đường gần những tảng đá chồng, con đường đã xuống thấp phơi trong ánh nắng già có những quãng tối mát của rừng cao su và những thị trấn buồn tẻ những con sống rộng liền… Tôi tưởng tượng đến Sài Gòn ở đó Hằng sẽ mất hút. Nhưng cái dáng mảnh mai của nàng vẫn sẽ lẩn khuất như cái dáng khẳng khiu của người đàn ông đã chết. Phải như thế không?

Bây giờ tôi không còn thể ngồi thêm phút nào nữa. Người nữ tu da đen đã đưa giấy tính tiền với lời xin lỗi lịch sự quán ăn đã đến giờ nghỉ. Chúng tôi phải đứng lên. Phong kéo ghế lấy chỗ rộng cho Hằng rời bàn. Hai người đã ở khoảng trống gần cửa ra. Trong một phút, hai cẳng chân tôi như tê dại không nhấc nổi, tôi cố gắng đứng dậy và tưởng chừng sắp khuỵu. Tôi đã ngồi chôn chặt trên ghế từ lúc trời chưa tối. Hằng đi bên cạnh Phong phía trước, tôi như kẻ đưa tiễn hai người. Gặp người nữ tu lúc sắp bước lên cây cầu gỗ ra sân, tôi đưa tay bắt, ngỏ lời xin lỗi lần cuối.

"Rất hân hạnh lại được tiếp ông lần khác".

"Thật không, thưa dì? Nhưng lần sau dì sẽ thấy tôi đứng đắn, tôi khác".

Trận mưa đã tạnh. Những giọt mưa đọng trên cành lá rớt lộp độp thưa thớt. Leo hết con dốc nhỏ lên đến mặt đường, tôi thấy Hằng còn đứng bên cửa xe. Phong rồ máy bật đèn nhấp nháy, ngó đầu ra ngoài, gọi với một cách thân thiết cố tình: "Anh về đâu, tôi đưa anh về". Tôi cũng bắt chước là: "Cám ơn anh, anh đưa Hằng về dùm tôi". Tiếng la vang đem cho tôi sự thoải mái dễ chịu. Tôi đứng im trên đầu dốc, giơ tay cao chào Hằng và tiếp tục la lớn: "Bonne chance cho tất cả mọi người. Kể cả tôi".

Chiếc xe hơi quay đầu vòng trở lại, đèn pha quét rọi vào chỗ tôi đứng. Ánh đèn chói loà cả mắt, tôi che tay cười rỡn: đâm vào tôi đi coi nào, đâm vào tôi đi… Trên xe không ai nghe tiếng cười đùa vô duyên ấy. Rốt cuộc tôi nghe một mình. Tôi nghe chuỗi cười cố rướn rộ lên giữa quãng đường vắng trong cơn gió nổi rào rào lan xa trên đồi âm u, làm chóng mặt rồi trùng dần đứt quãng và im tắt trong khoảng trời đem như đang đông lạnh.

Giờ tôi mới thật còn một mình. Một mình tôi bước đi…


3.

Không một tiếng gì khác ngoài tiếng gió thổi ù buốt tai. Cây cối rậm rịt trên cao, dưới thấp lay động những hồi dài không ngớt. Thỉnh thoảng tôi nghe vọng tiếng chân tôi bước trên mặt đường, một vài chiếc lá cuốn chạy gần quanh trong đám cỏ tối. Mặt mũi bị ướp giá, căng thẳng. Thật buồn bã, tôi không biết phải làm gì lúc này. Tôi cứ đi theo con đường mở trước mặt, mở vào vùng bóng đen mông lung nhốn nháo.

Người đàn ông ấy đã chết. Và tôi sung sướng được giải thoát, Hằng bỏ đi quyết liệt và đau khổ. Và tôi… dường như cũng sung sướng. Thôi cũng xong… phải không? Cũng xong hết. Giờ mới thật là lúc khởi đầu mọi sự. Khởi đầu mọi sự không chút vướng víu, khởi sự… khởi từ đâu? Từ chỗ nào đây? Từ phút này, chỗ này. Phút này, chỗ này, ta khởi sự… khởi sự bằng cách dừng chân, đốt một điếu thuốc, đứng trong lồng gió nhốt, gió lung lay ngọn lửa trên tay, điếu thuốc trên môi, dán sát chiếc áo choàng vào người và cười. Nụ cười cho mình, cho người đã bỏ đi, cho người đã chết, một nụ cười dịu dàng… phải không? Hết sức dịu dàng như chưa bao giờ dịu dàng đến thế… tôi sung sướng thật chăng? Có thật tôi cũng muốn Hằng bỏ đi cho rồi?... Có thật? Có thật tôi đang vui, đang buồn, đang sướng? Phút này này, phải, cái tôi gọi là phút này. Có phải… tôi sống chậm quá và mau quá, không khi nào ngay lúc… Vì nghĩ tới Hằng bây giờ tôi muốn khóc. Quả tôi có làm khổ nàng vì cái đầu trục trặc khật khùng. Quả tôi có bị ám ảnh bởi những bóng ma như Hằng nói. Tôi đã không yêu nàng như nàng cần và tôi hối hận.

Hằng bỏ tôi là phải, như người đàn ông ấy chết là phải. Tôi có thể khởi sự bằng cách tìm đến nơi nàng trú ngụ, ngay bây giờ, nếu không sẽ chẳng còn bao giờ nữa, gõ cửa gặp mặt nàng. Tôi sẽ nói cho nàng hiểu về những bóng ma nàng đã đoán biết. Tôi sẽ nói về người đàn ông ấy, người đàn ông đã chết cách đây một tuần lễ. Người đàn ông đã biến vào hư vô rồi. Tại sao tôi đã không nói với nàng về người ấy? Tại sao?

Hằng có thể không chịu, nàng không ra mặt hay nàng đóng sập cửa vào giữa mặt tôi. Anh chỉ là một thằng điên làm khổ tôi. Đừng làm khổ tôi nữa. Tôi sẽ đứng ngoài đường ngồi trước thềm nhà suốt đêm và tôi sẽ kể lể ngọn nguồn, kể lể hết về đời tôi… Kể lể hết những điều tôi đã sống, tôi đã tưởng sống. Những điều nào? Những điều vụt đến vụt bay như những tiếng kêu thảng thốt biến hút vào đêm như cánh chim hốt hoảng. Mai sớm chúng ta sẽ trở về miền dưới, anh sẽ cùng trở về với em, rồi anh sẽ sống lại… Sống lại nhưng mọi sự có chắc chắn sẽ không bao giờ tái diễn nữa không? Hay rồi tôi lại làm khổ Hằng.

Tôi lại gặp những phút tràn ứ, những phút này bỗng rạn nứt tan hoang. Người đàn ông ấy đã chết, nhưng dường như ông đã bắt đầu sống một đời khác nơi tôi.

Tôi chợt hình dung rõ rệt dáng người đàn ông cách nay ngoài hai mươi năm. Lần thứ nhất tôi nhìn thấy ông. Mẹ tôi, người đàn bà lúc ấy còn là mẹ tôi, dắt tôi đi lẫn lúc dưới mái hiên hàng phố trong buổi tối mùa đông, gõ cửa một ngôi nhà, len lách giữa những đồ mộc bừa bãi ngang dọc không thành hàng lối (đó là một gian hàng bán đồ gỗ) len lên cây cầu thang dốc ọp ẹp run rẩy chui vào một gian gác hẹp không nhìn rõ mặt người. Mẹ tôi đẩy lưng đứa trẻ tám chín tuổi, chỉ người đàn ông đang đứng nép bên cửa sổ tấm bảng hiệu dựng chắn ngang tầm mắt: "Bố con đấy". Người đàn ông nghe động quay lại hỏi: "Ai thế?"

Người đàn bà đáp: "Em và con đến thăm mình". Tôi nghe người đàn ông gắt: "Ai bảo đến đây, lại con mang con nữa". Rồi người đàn ông quay lưng không thèm nhìn người đàn bà và đứa trẻ. Người đàn bà vẫn thúc vào lưng đứa trẻ nhất định cưỡng lại: "Mình nhìn con một tý, nó hỏi mình luôn, con ngoan lắm, bố con đấy, bố con đi từ ngày con mới hai tuổi…"

Người đàn ông vẫn không ngó lại, ông gắt nữa: "Mình về đi, tôi sắp có khách, hôm nào tôi sẽ về nhà thăm mình, thăm con". Người đàn bà nấc thút thít, nắm tay con dỗ: "Con lại ôm bố, chào bố rồi mình về, nói bố hôm nào về chơi với con". Đứa trẻ lắc đầu, phải, tôi đã đắc đầu, người đàn ông đứng trong gian gác ấy không phải là bố tôi, không bao giờ là bố tôi cả. Người đàn ông ấy là cái bóng đen bất động trên nền cửa sổ mờ nhạt, khi tôi quay nhìn lại, cái dáng xương xẩu lạnh lùng khô héo đứng sững trong tiếng gió bấc rít chạy trên những dây điện giăng ngoài đường, tiếng lá khô lăn trên mái thiếc dưới cửa sổ.

Phút này, cái phút này, không là khởi điểm của gì ráo. Nó quay lộn tới lui và biệt tích như gió bủa vây hoài. Tôi đã dừng chân lưng chừng một đường dốc, bên một ngọn đồi bị chém vạt, người chập choạng lao đao trong khi men rượu đã rã bay theo gió lạnh. Tại sao tôi đứng đây? Tôi ở đây? Tôi trực nhớ, tôi cứ trực nhớ như thế này mãi sao, một tuần lễ đã qua. Hằng lên đây nghỉ, còn tôi đuổi theo Hằng. Tôi tưởng chúng tôi sẽ có những ngày hạnh phúc thần tiên ở một nơi không sợ ai dòm ngó. Vậy mà hư hết, tôi làm hư hết, làm hư luôn cuộc tình của chúng tôi. Phút này, trong đời tôi biết bao nhiêu phút này, tưởng như khởi điểm rốt cuộc nhìn cho kỹ là lỗ trống hoác cố lấp đầy… Hằng bỏ đi là phải, trừ phi chính nàng tự nhiên lại tìm về… Chính nàng, Hằng. Có thể như thế chăng?

Tôi lầm bầm trong miệng: "Xong, xong hết". Tiếng âm lùng bùng lỗ tai. Buồn thật, làm gì bây giờ. Gió thốc mạnh đằng sau lưng như đẩy tôi xuống, con dốc nghiêng hút kéo bước chân mau thêm. Một vài giọt nước lớn bay quất rát má. Trời sắp đổ mưa trở lại. Tôi ngứa mặt hít thở, thấy mình dừng dưới chân dốc, trên vệ đường.

Bên kia bãi đất trống có mấy xác xe cũ. Qua khỏi bãi đất là con đường vòng bọc dưới một chân đồi um tùm rậm rịt. Những ánh điện lượn từng lớp cao mãi, đột ngột xuất hiện chấp chới giữa khoảng tối bưng, mặt sau của những dãy nhà trên lưng đồi phô vẻ huyền hoặc. Phố tuốt trên cao ấy, xa vời, tôi như kiệt lực không thể leo tới.

Lúc ấy mưa rây bụi trắng quanh các bóng đèn vàng lủi thủi bên đường. Tôi không biết làm gì hơn là tiếp tục đi, băng qua cây cầu xi măng trắng bắc ngang một vũng cạn, leo ngược những con đường dốc bọc chân đồi theo dấu tủa ánh sáng và tiếng động, mặt mũi đầu tóc ướt mèm.

Tôi đẩy cánh cửa một phòng khiêu vũ bước vào. Gió khuất tắt sau lưng bầu không khí ấm trong tiếng nhạc phà vào mặt như một hơi thở quen dễ chịu. Đám vũ nữ ngồi gần quầy trông bóng tưởng khách quen, tíu tít kêu gọi. Tôi ngồi vào trong xó khuất núp mình như con mèo ướt, nhắm mắt cho đầu óc yên nghỉ. Nhạc tắt, sự trống trải của bàn ghế trong phòng nổi rõ. Tôi chợt thiếp một lúc không rõ bao lâu. Và choàng thức vì tiếng kèn đồng trỗi ré. Tôi thấy người ngồi trong bàn tôi. Một người đàn bà, hình như một vũ nữ ở đây. Tôi toan nhắm mắt ngủ nữa, tỏ ý không bằng lòng về sự xuất hiện bất ngờ không nhằm chỗ của người vũ nữ. Anh bồi đến, tôi gọi rượu và hỏi:

"Ai đưa cô này đến đây?"

Anh bồi đưa mắt hỏi cô gái. Cô ta không tỏ một dấu hiệu nào, ngồi im đối diện tôi một cách tự nhiên. Anh bồi đành quay lưng, đi ra quầy. Tôi chồm người, nhìn sát tận mặt cô gái một cách sỗ sàng.

"Em nhìn kỹ lại xem, kẻo lầm, anh không quen em đâu".

Cô gái không nhúc nhích, mỉm cười ngoan ngoãn. Tôi không thể nhìn ra mặt mũi cô gái, chỉ ngửi mùi nước hoa thân mật thường dùng của vũ nữ. Tôi dí trán mình đụng trán cô gái, ngó sâu trong mắt nàng, ngó thật sâu để chỉ còn bóng tối đen thấp thoáng chòng chành như trong thần trí nhoài mệt. Tôi buông mình xuống ghế duỗi dài hai cẳng, đầu nghẹo trong hốc ghế da không thiết gì nữa. Anh bồi mang rượu lại bàn.

"Thôi được. Em thích ngồi cứ ngồi. Bảo để cô ấy ngồi đây cũng được".

Tôi bưng cốc rượu uống một hớp, tay vụng về làm đổ ướt một bên ngực áo. Người vũ nữ với qua mặt bàn chìa chiếc khăn tay của nàng cho tôi phủi áo, nhưng vẫn không nói một lời nào. Tôi nắm bàn tay mềm mại của người đàn bà như bốc một nắm đất dẻo nhão. Nàng kêu thảng thốt, tiếng kêu cố kìm giữ vụt bay lẫn trong tiếng trống chiêng hỗn loạn ngoài sàn nhảy. Sàn nhảy trống trơn.

"Tại sao em không sang ngồi bên này?"

Người vũ nữ đứng lên, bóng mảnh mai di động nhẹ nhàng. Tôi bật cười dài một mình.

"Em đẹp như tranh vẽ ấy. Em là con búp bê. Em có câm không?"

Tôi nốc ực mấy hớp rượu liền, rồi cười sặc phun phì phì như con rắn hổ. Cười xong tôi thót trong bụng như vừa bước hụt. Người đàn bà lặng thinh không hưởng ứng một cách đáng giận.

Tôi cố ngồi thẳng người dậy và tôi nghĩ tôi sắp sửa xô hắn té sấp xuống sàng. Đầu óc tôi lập lờ chao động như nước trong bồn thả cá mà mấy con cá bỗng dưng hốt hoảng quẫy lộn.

"Anh Trường. Anh không nhớ em?"

Anh Trường. Tên tôi đó ư? Anh Trường. Anh Trường. Cái âm ấy lặp đi lặp lại mãi trong trí tù mù.

"Anh đang cố nhớ em đây".

Anh Trường. Tôi bỗng như bị một nhát búa đập mạnh trên ngực. Anh Trường. Gần mười năm nay không ai gọi tôi bằng cái tên ấy cả. Tôi chụp vội mặt người đàn bà, bắt ngửa lên soi nhìn.

Đó là gương mặt lạ hoắc chưa hề thấy, trên đó nụ cười hé nở buồn bã như một con bướm đen bay lạc khuấy rối ký ức.

"Cô biết tôi?"

Người vũ nữ gật đầu, gỡ tay tôi, lúc lắc mái tóc cắt ngắn và cười khẽ:

"Thật anh không nhớ em… Anh không nhớ em cũng phải, chỉ em là nhớ anh rõ thôi. Anh còn nhớ anh Hoạt không?

Hoạt… Hoạt… tên nghe quen nhưng không gợi được một hình dung nào. Giữa những lớp sóng chông chênh của men rượu, thần trí dật dờ lặn ngụp không thể níu bắt… Hoạt… âm trỗi lên như một tiếng động vu vơ thu gọn một buổi chiều đã sống, như một ánh đèn hiu hắt của một buổi tối đã đi qua không sao nhớ, như một câu nhạc tách lìa rên rỉ bên tai bị phủ lấp bởi những chuỗi âm kết tiếp dồn dập.

"Hoạt, Hoạt à. Anh đang nhớ…"

"Anh Hoạt, anh Hoạt ngày còn ở Hà Nội ấy. Anh nhớ chưa?"

"Cái áo anh đang mặc đây là từ thời Hà Nội đấy… Hà Nội, Hà Nội là cái quái gì. Anh ghét nhắc đến… Em hãy nói về Hoạt đi… Và cũng khỏi cần… Em nói về em hay hơn".

"Em là Châu, em của anh Hoạt…"

Tôi ngã người tựa vào lưng ghế. Hoạt… Đầu tôi quay như trái cầu ngoài sàn nhảy, tung ra những giọt sáng lấp lánh bay lượn. Tôi nhắm mắt, những giọt sáng lao nhanh hơn trộn một màn đen. Người tôi bồng bềnh. Tôi dò dẫm tìm nắm bàn tay của Châu.

Em gái Hoạt. Người vũ nữ ngồi đây là em gái của một đứa bạn ngày nào, đứa bạn đã chìm mất tích không để lại một dấu vết nhỏ nào trong trí nhớ. Châu, cả cái tên này nữa cũng chỉ là một âm của buổi nay.

"… Ở đây em tên là Xuân Hồng".

"Em cũng có nhiều tên thế kia à… Xuân Hồng. Anh thích gọi em bằng Xuân Hồng. Tên này hay hơn chứ. Em chọn hay ai chọn cho em tên này. Xuân Hồng… Hỡi Xuân Hồng, anh muốn cắn vào em…"

Tôi cười ngả nghiêng hết sức khả ố. Ngụm rượu uống tiếp đã loãng, nhạt thếch. Tôi biết tôi phải uống thêm đến bất tỉnh. Mọi sự phải ngập ngụa, tan biến vào cơn say mèm sắp tới.

"Em muốn anh gọi em bằng cái tên cũ… Em là Châu, với anh em là Châu không phải là Xuân Hồng".

Tôi búng tay chóc chóc gọi bồi: "Rượu, rượu".

"Châu hay Xuân Hồng cũng thế thôi… Em sợ anh cắn em thật hay sao? Đừng sợ. Anh hiền, anh cắn không đau đâu mà sợ… Châu hả, không ăn thua gì cả… Em phải biết như thế chứ. Rốt cuộc không có cái gì là quan trọng đâu em… Em không phải là Châu nữa cũng như anh, đâu còn là Trường nữa. Anh không còn là Trường đến cả mười năm nay rồi. Anh không thích ai gọi anh là Trường… Gọi anh bằng gì hả? Chẳng bằng gì cả… Bằng anh, bằng ông, bằng thằng, bằng nó, bằng mầy… Thích gì gọi nấy… Mà anh ngồi đây này, em nói là em nói với anh chứ với ai mà còn tên với tuổi… Em không khác gì đâu. Tại em muốn khác thì nó khác… Xuân Hồng.

Tại sao anh lại không được gọi em bằng Xuân Hồng? Em không thích… cũng được. Thì anh gọi bằng Châu. Cũng được, có khó gì… Châu thì Châu, nhưng em chớ gọi là Châu mà anh cắn, anh vẫn cắn… Chớ như thế.

Đừng tưởng anh sợ Châu… em dại lắm. Anh không còn là Trường nữa đâu. Em thích anh là Trường thì cứ tưởng. Anh nói thật nhé… anh không nhớ một thứ gì về cái tên Trường cả. Nếu em cứ muốn kiếm tên Trường là em dại vô tả. Nó mất rồi… thật mà… nó mất lâu quá rồi. Anh nói thật anh chẳng nhớ tí gì về Hoạt… Em cũng chẳng kiếm thấy gì ở anh đâu… Ờ, ờ rốt cuộc chỉ trơ có anh với em… và đêm nay thôi… Cả anh với em nữa… ờ… rốt cuộc cũng chẳng là cái gì ráo trọi… thật mà… em tin đi… mình cũng là thứ gì thuộc về cái đêm nay… Mình cũng là thứ đêm mò mẫn thế thôi. Ừ, anh thuộc về cơn say, đúng. Không sao cả. Còn em, thế em biết em thuộc cái gì không nào? Em thuộc về một cái tên Hoạt, một cái tên Trường nào đó… em thấy không?... Thuộc về cái tên Châu… Châu… Châu, Trường là cái quái gì đâu… Em nên quên hết đi, em sẽ sướng… Đừng làm khổ mình, dại… Kinh nghiệm bản thân mà… anh không nói dấu đâu, thật mà… thật mà… Mai, mốt em quên nốt em… thế là xong.

Xong hết… Mình chôn vùi hết em chịu không? Chôn vùi hết mọi bóng ma… Hết, hết không để sót món nào, em chịu không?... Chôn luôn anh, chôn luôn em… chôn tuốt luốt… Mình mà không chôn mình thì mình chẳng chôn ai ráo… Anh đang chôn anh đây, em sợ không? Nếu em sợ em nên tránh… để anh chôn một mình… nói thật đấy em ở gần là em bị chôn luôn… thật mà… chôn luôn. Cái huyệt bên cạnh toà án Hà Nội ấy… Đẩy xuống một lượt… a lê… pằng… pằng… pằng… cho tiện.

Em chịu không nào? Tại sao em tin?... Em ngán rồi hả?... Em rút lui còn kịp… Cũng không chịu rút lui? Vậy thì mình ra nhảy vậy, chịu không Châu?... Em bằng lòng chưa, Châu? Thấy chưa? Thấy chưa, anh gọi Châu. Châu, mình nhảy rồi em đưa anh về… em bằng lòng không? Ừ, anh đưa em về rồi mình tiếp tục bàn chuyện chôn cất hả… Đồng ý? Em đứng lên đi…"


4.

Tôi không nhớ đã uống đến cốc rượu thứ bao nhiêu nữa. Châu bảo tôi uống như hũ chìm, không còn vẻ nghiêm trang đạo mạo ngày xưa. Tôi nói ngày xửa… ngày xưa… là cách bắt đầu của cổ tích, cổ tích để kể cho trẻ con, người lớn không ai nghe nổi cổ tích cả. Tôi đi lại giữa sàn nhảy, loáng thoáng màu ánh sáng đục, và cái hốc tối rộn tiếng thì thào, len lỏi giữa những bàn ghế và lưng người. Tôi ôm trong tay một tấm thân ấm áp, sẵn sàng chiều chuộng. Tôi gục đầu trên tóc trên cổ, trên vai của Châu bỏ mặc nàng điều khiển bước đi lui tới quanh co. Tôi hát nghêu ngao như tên lính Lê Dương nhớ nhà. Chốc chốc Châu bấm vào lưng tôi ra hiệu dừng, tránh xô vào người khác hoặc xô nhẹ giữ một quãng cách khi tôi quá sàm sỡ. Nhưng có lúc Châu ghì chặt lấy tôi đứng im một chỗ, vuốt ve đầu tóc tôi, thân như ngọn lửa đong đưa theo nhịp. Tôi không có gì phải tội nghiệp nhau, chẳng có gì đáng phải tội nghiệp. Phải chăng có gì đến phải tội nghiệp. Em không hiểu tình cảm là thứ triệt huỷ, đó là đầu mối của mọi sự biến dạng kỳ quặc, tình cảm sẽ biến người ta thành quái vật khủng khiếp. Em mà tội nghiệp anh là em biến anh thành quái vật nữa. Thử xem… Tôi ôm hôn Châu ngay giữa sàn nhảy, hôn được một lần tôi làm tới mãi. Có lúc tôi tưởng như Châu tan chảy trong tay và tôi ngấu nghiến muốn nuốt chửng người đàn bà.

Đến một lúc tôi ngã sóng soài xuống sàn, mắt mở trợn trừng nghẹt thở. Tôi nhìn rõ mặt ván trơn, ngọn đèn giấu dưới mặt kính dầy, những ống cẳng, những chân ghế và nghe những tiếng ồn ào xung quanh sau tiếng rơi đổ của ly tách. Nhạc trỗi huyên náo. Khi cử động được, tôi áp má xuống sàn vẫn nằm im. Tôi muốn nghỉ, tôi muốn ngủ, tôi muốn khóc.

Châu cúi xuống vực tôi đứng lên, tôi loạng choạng bước thấp bước cao, xô nàng chạy chúi nhủi nhưng nàng cố gượng và chúng tôi ngã được vào một chiếc ghế. Tôi hỏi: "Ai đánh tôi? Ai đánh tôi đâu?" Châu lắc đầu: "Không có ai cả, anh say quá rồi, thôi mình đi về". Châu đẩy tôi đứng lên, xin lỗi xung quanh, dìu tôi đi. Tôi vẫn lải nhải: "Ai đã đánh tôi, ai đã đánh tôi…"

Qua quầy rượu, Châu bảo tôi đứng tựa đợi, nàng vòng vào trong lấy mấy món đồ. Tôi gục đầu trên mặt quầy, ngực bóp thắt, hai chân mềm nhũn không vững. Tôi tụt dần xuống, hết tự chủ, muốn nằm lăn dưới chân quầy, ngủ một giấc là yên.

"Anh Trường".

Châu vòng tay ôm xốc ngang lưng, chiếc sắc tay của nàng rớt xuống gạch. Tôi cúi xuống định nhặt chiếc sắc, bị Châu giữ chặt không cựa nổi. Một người khác nhặt chiếc sắc trao cho Châu.

"Buông tôi ra. Tôi đi được mà…"

"Anh Trường. Mình về".

Tôi gạt tay chân, cố sức bước một mình, vài bước lại dựa vào tường nghỉ. Châu đi sát bên. Tôi xua tay đuổi Châu ở lại, em ở lại, anh còn đi nữa… em không thể theo anh hết đêm nay. Không thể theo anh suốt đời mà… cứ mặc anh. Châu lẳng lặng, đẩy mở cửa phòng. Gió rét ùa đập vào mặt. Những vết thương trên mặt bấy giờ mới tê rát đau đớn. Tôi sờ mó các vết trầy trụa hai bên má và biết một mắt sưng hít như hết mở nổi.

"Tôi làm sao thế? Anh đánh tôi có phải không?"

Tôi không nhớ tôi đã ngã vì rượu hay đã làm gì càn rỡ bị người ta đánh. Tôi không làm sao nhớ nổi. Châu lắc đầu, nàng đã mặc thêm chiếc áo khoác che kín cổ, đứng sát tôi sẵn sàng đề phòng mọi bất trắc.

Gần đấy một đứa nhỏ co ro trên chiếc ghế đẩu giữ cửa, đội chùm hụp chiếc kết đỏ, ngước mắt tò mò. Tôi nhếch mép, cười giễu mình với thằng bé. Châu mỉm cười theo nhưng thằng bé lại ngoảnh mặt vào trong cửa kính. Có lẽ cái bản mặt của tôi trông không còn ra hồn. Tôi lục túi, móc thuốc châm hút.

"Bây giờ anh về đâu?"

"Chưa biết".

"Anh ở đâu? Anh lên trên này chơi hả?"

"Anh lên trên này hưởng tuần trăng mật… nhưng vợ anh đi mất biệt… Em tin không?"

Đèn hiệu xanh đỏ nhấp nháy trên đầu. Ngọn điện vàng treo trên lối vào chỉ soi sáng mấy bực thềm, bên dưới bóng tối phủ đặc. Ngang tầm mắt con phố cao với cây đèn sừng sững xào xạc. Dưới xa cây cầu trắng xoá và mặt hồ ẩn hiện giữa các thân cây như bốc khói lạnh. Tôi ném điều thuốc dở dang, đóm lửa đỏ bị gió thổi lăn chạy. Tôi đã tỉnh chỉ còn phải mang cái đầu nặng nề chuếch choáng và cái mặt nhức nhối. Trong người chắc cũng bị xây xát, tôi nghe ê ẩm đau xót cùng mình.

"Anh tỉnh rồi hả? Sao anh tỉnh được nhanh thế?"

"Rốt cuộc trước sau cũng phải tỉnh. Anh vẫn thế. Đêm còn nhiều quá, phải tỉnh để còn say nữa chứ".

"Anh khác trước quá đi".

"Em không thích anh khác trước hay sao? Anh thấy cũng thế…"

Tôi bước xuống thềm, chân rời rã mỏi mệt chưa vững hẳn. Tôi chỉ thèm chỗ nghỉ lưng và những cốc nước lạnh. Cổ họng tôi khô cháy, tôi há miệng hớp hớp những ngọn gió đêm lùa và càng nghe miệng giá cứng. Tiếng giầy cao gót gõ nhịp. Châu khoác cánh tay, níu tôi dựa vào người như muốn truyền cho tôi chút hơi ấm.

Xuống hết mấy bực thềm, cơn mệt dội đập thình lình giữa ngực khiến tôi loạng choạng. Châu đẩy tôi đứng dựa gục vào một chiếc cột thấp. Một luồng gió buốt luồn trong thân, tôi run rẩy ớn lạnh, mặt mũi tối sầm không còn hơi sức. Tôi cố níu ôm chiếc cột, nhưng người vẫn rũ đổ xuống như cái cây trốc gốc. Tôi nghe tiếng kêu rú hãi hùng của Châu văng vẳng. Tôi muốn bảo: Đừng sợ, không sao đâu, anh vẫn thường như thế… Qua hết… cái gì rồi cũng qua hết.

Một người nào phụ lực với Châu đẩy tôi vào trong chiếc xe hơi kín gió. Tôi nôn thốc tháo, nôn đến quặn thắt ruột gan, nước mắt nước mũi đầm đìa. Tôi nôn tới độ không còn gì để trút, có lẽ hộc cả mật xanh mật vàng miệng đắng chát. Sau đó tôi mệt lả, nằm ươn như cái xác hấp hối trên nệm xe chạy rầm rì. Gió động ào ào ở ngoài và một lúc hình như trận mưa trở lại đổ rào rạt trên mui xe. Tôi chợp thiếp nhẹ nhõm, bông bềnh tưởng như mình chỉ còn là chút hơi hoi hóp nhất trong lồng kính. Chút hơi đó lúc nào cũng sắp sửa tuột bay mất. Một lúc tôi xoay trở được, nhận ra mình gối đầu trên đùi Châu. Chiếc xe đã ngừng, máy vẫn nổ đều lẫn trong tiếng mưa trút dữ dội vật vã.

"Xe đỗ hả?"

"Về đến nhà rồi".

"Nhà ai?"

"Nhà của em chứ nhà của ai?"

"Sao không vào?"

"Mưa thế này anh định đội mưa vào để chết à? Hay em đưa anh về nhà anh nhé. Chỗ anh ở đâu, xe ghé sát vào được không?"

"Anh chẳng nhớ anh ở đâu nữa".

Lúc này thật tình tôi chẳng muốn nhớ tưởng bất cứ điều gì. Người đàn ông đã chết. Hằng đã bỏ đi cũng như cơn say khốn nạn đã qua rồi. Người tài xế hỏi bây giờ tính cách nào, không lẽ cứ ngồi hoài. Châu bối rối không nghĩ ra cách giải quyết. Tôi chống tay vịn vào lưng ghế trước, nhìn đám mưa trắng xoá bên ngoài.

"Chú cứ cho xe chạy. Chừng nào tạnh mưa chúng tôi xuống".

"Đi đâu? Tôi cũng còn phải về ngủ chứ, ông ơi".

Nhưng rồi người tài xế vẫn cho xe chạy. Chiếc xe bây giờ lăn chậm trên những con đường dốc mù mịt không thể thấy xa. Gió hú thổi lồng lộn, nước đập trên kính, bắn xoá dưới bánh xe lăn. Dưới sàn xe nước đổ nhầy nhợt bốc mùi hôi nồng bay thoát. Châu mở sắc tay, tìm chai dầu Nhị Thiên Đường xoa thêm cho tôi hai bên thái dương, dọc theo cần cổ và trong ngực. Bàn tay người đàn bà mơn man êm ái.

Trong bóng mờ của khoang xe trôi lập lờ, tôi lặng ngắm gương mặt người đàn bà lạnh lùng. Nàng mệt nhọc, ngả đầu trong hốc. Gương mặt buông thả mơ màng. Tôi bắt đầu thấy mình lạc lõng bên cạnh những giấc mộng người đàn bà ủ ấp. Tôi đánh thức nàng: Châu, Châu. Tiếng dạ nhỏ thoáng.

"Bây giờ em nói đi".

"Em nói gì? Anh không thích nói gì?"

Hình như xe đã quay trở lại trung tâm thành phố, đang chạy bên bờ hồ. Mưa đổ chạy lan trên một vùng xa rộng, hoang tịch như trong tâm trí tôi. Những ngọn điện bên đường tù mù nhoà nhạt sau lớp mưa dầy. Tôi cúi xuống hôn Châu, môi nàng lạnh ngắt nhưng hơi thở ấm ngọt.

"Thật sự anh không nhớ em, không nhớ em, không nhớ anh Hoạt tí nào?"

"Thật, quả thật… Anh không thích nói dối".

"Anh không nhớ anh còn nợ em? Nợ tiền hẳn hoi kìa… Em nhớ hôm ấy các anh rủ nhau đi chơi thiếu tiền. Anh Hoạt không dám vay em, đùn anh vào vay. Anh nhớ không? Em đã cho anh mượn hết cả món tiền mừng tuổi em vẫn dấu cất để dành… Toàn tiền mới. Món tiền em đã nhất định không cho ai mượn thế mà em đã đưa cho anh. Em không nhớ cả thảy là bao nhiêu nữa. Nhưng em nhớ rằng đó là món tiền mừng tuổi cuối cùng trong đời em. Em không quên… Có lẽ anh đã quên ngay, nhưng em thì không bao giờ quên được. Ít tháng sau anh biệt luôn không đến chơi. Em có hỏi anh Hoạt anh đi đâu? Anh Hoạt cũng không biết. Mười mấy năm em vẫn còn nhớ mặt anh như in… không nhớ sao được… cái mặt con nợ của mình. Anh không nhớ chủ nợ là phải. Hồi ấy… em là cái con bé Châu còn cúp tóc ngắn nhảy quẫng hai chân mỗi bận chạy mua thuốc lá cho các anh…"

Một cô bé tóc Nhật Bản. Tôi cố mường tượng nhưng chỉ nghe rền một điệu mưa đã dịu nhưng dai dẳng lây nhây như không thể dứt. Cô bé tóc Nhật Bản đã trở thành người đàn bà ngồi bên. Tôi có một nón nợ kỳ cục. Tôi có thể bị nhận lầm chăng? Trường, Trường. Đó là tên tôi, đó đã chắc là tôi ư?"

"Dạo ấy anh bỏ đi đâu?"

Tôi đi đâu? Tôi đã đi những đâu? Dạo ấy… ôi thật là mơ hồ, mơ hồ như chính lúc này vậy. Tôi bỏ đi từ chỗ này đến chỗ khác, từ tỉnh này đến tỉnh khác, từ miền này đến miền khác… Tôi rời chỗ hoài bất cứ lúc nào chợt thấy không thể ngồi yên, tôi bị xô đẩy vào sự xê dịch bởi chỗ nào tôi ngồi cũng không thấy yên. Làm sao tôi nhớ dạo ấy tôi đã đi đâu? Chỗ nào cũng giống chỗ nào. Như bây giờ, tôi có thể mở cửa xe, đi thục vào cơn mưa, mặc Châu ở lại ôm lấy những kỷ niệm riêng mình… Tôi có biết tôi đi đến chỗ nào đâu, tôi cũng không biết Châu sẽ dẫn tôi đến chỗ nào.

Châu với tay âu yếm đặt lên má tôi, móng tay nhọn sắc vô tình đụng đến vết thương. Tôi kêu lên một tiếng đau đớn.

"Em làm đau hả? Anh còn đau nhiều không? Mấy lúc anh ngã, em sợ không thể tưởng được. Anh vẫn ngã như thế đấy à? Thế nào cũng có bữa…"

Châu vẫn ngã đầu, hé mắt nhìn lên, tay duỗi như muốn nắm níu tôi xuống gần. Tôi ngả lưng vào ghế. Giấc ngủ trống đang ùa tới làm rũ liệt dần mặt mũi. Chân tay như mưng lên nhức nhối cùng cơn buồn ngủ. Tiếng mưa đổ xa gần. Người tài xế càu nhàu. Người tôi nghe khô héo với những vết dơ dáy nổi hiện rõ và bốc lên mùi tanh tưởi khắm thối như một tử thi bắt đầu bị trùng đục khoét.

"…Mới lớn, em đã có lúc điên… đi tìm anh đòi nợ… nhắc anh món nợ… biết anh ở đâu… Anh Hoạt không chịu về nữa… chắc cũng chẳng còn nhớ đến anh… Các anh đàn ông vô tình ghê đi… (Anh Hoạt làm sao?)… không ngờ… hôm nay em lại bắt gặp được anh… bắt gặp được anh (bắt được cái xe xình thúi…)… thay đổi hẳn… không thể lầm… Em không còn cắt tóc ngắn… mai, mai… em cắt tóc ngắn… Trường…"

Tiếng mưa bắt cùng tiếng nói. Hơi thở thổi nhột nhạt trong tai. Tôi bật choàng người đụng trán vào thành ghế trước. Mưa tạnh chỉ còn tiếng nước chảy róc rách trong đường mương dốc ẩn dưới cỏ.

"Anh ngủ có lâu không?"

Châu chỉ mỉm cười, không đáp. Nàng đóng chiếc sắc thay, tiếng khoá tách gọn, vuốt những sợi tóc loà xoà trên trán mở lấy cửa xe. Nàng đứng ngoài, khom người, chìa tay vào cho tôi.

"Xuống chứ. Liệu anh đi nổi không?"

Tôi nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn tê cóng, xích người ra gần cửa thò chân đặt xuống đường xong mới đứng. Châu đề phòng ôm giữ hai vai tôi bắt tôi đứng một chỗ. Gió lộng bủa xung quanh giá buốt. Những khoảng đồi trọc hiện mập mờ dưới nền trời nhếch nhác. Dưới các hũng, nhà cửa vườn tược nép im. Châu cúi đầu dòm vào xe cám ơn người tài xế. Xe chạy thẳng lên đầu dốc, ánh đèn đỏ mờ dần.

Tôi nhấc tay Châu ra khỏi vai, hít hà trong miệng lấy hơi sức. Tôi hơi chóng mặt vì gió mạnh.

"Mấy giờ rồi? Anh ngủ một giấc tốt quá".

"Hai giờ".

Tôi bước loạng choạng và Châu kẹp giữ một cánh tay tôi.

"Anh đi đâu đây?"

"Vào nhà".

"Nhà em ở phía đằng này cơ mà".

Châu cười thành tiếng, tiếng cười kề sát bên má tôi. Tóc nàng gió thổi bay phất cả lên mặt tôi. Xoa gợi các vết trầy trợt đã tê rần. Tôi đưa tay rờ mó chỗ sưng trên mắt. Chúng tôi chậm dò từng bước, men theo bờ cỏ tìm lối sáng mương. Đám cỏ ướt sũng.

"Anh cẩn thận, không thì…"

Tôi bước thụt xuống rãnh đầy nước. Tôi giẫm chân, ngửa cổ cười sặc như con đười ươi. Châu hốt hoảng.

"Anh… sao không? Có việc gì không?"

Nàng kéo tôi lên nhưng tự nhiên tôi trì tay khiến nàng nghiêng ngả hụt bước. Cuối cùng tôi lên được bờ, một ống quần ướt sũng, vẫn cười dài.

"Suỵt. Khẽ, khẽ chứ…"

Chúng tôi bước lên bờ thềm xi măng hẹp chạy quanh một ngôi nhà gạch. Tôi dứt cười, miệng khô chát vì hớp vào quá nhiều gió. Châu dựa lưng tường nghỉ thở, một tay đè trên ngực. Tóc nàng xổ tung, bâu quanh mặt. Tôi đến gần, áp người lên nàng và tôi cũng nghỉ.

Xong tôi hôn lên trán nàng như hôn lên đứa em gái. Châu nhắm mắt rúc vào ngực tôi. Tôi ôm lấy nàng, hôn nàng như hôn một người đàn bà. Châu ghì chặt vì tôi hôn nàng say sưa tuyệt vời, chân nàng khuỵu dần như sắp ngã.

"Coi chừng em không được ngã".

Tôi nói thì thào. Và tôi lại hôn nàng như chưa bao giờ được hôn ai trong đời.


Nguồn: Mù khơi, tiểu thuyết của Thanh Tâm Tuyền, Kẻ Sĩ xuất bản lần thứ nhất, giấy phép số 3727/BTT/PHNT, ngày 03-9-70. In tại ấn quán Cẩm Hoa, số 339, đường Bến Phú Lâm, Chợ Lớn. Ngoài những bản thường, có in thêm 50 bản đặc biệt trên giấy trắng dành riêng cho tác giả và nhà xuất bản.

Nhã Ca - Đêm nghe tiếng đại bác ( 3 )

Nhã Ca
Đêm nghe tiếng đại bác



VIII.

Kính coong... kính coong... Tiếng chuông đó nhấc bổng người tôi ra khỏi ghế. Tôi chạy băng ra ngõ. Có thư. Thư của anh Phan, của anh Nghĩa? Tôi cúi người xuống đón hai lá thư của người đưa thư luồn tay vào khe cửa định vất xuống. "Xin lỗi cô, tôi phải đi gấp". "Cám ơn". Tôi nói và nhìn theo người đưa thư dắt xe qua ngõ nhà bên cạnh, tiếng kính coong kính coong lại vang lên. Ra nhận thư đây, thư đây. Người đưa thư còn đưa tay chào tôi và mỉm cười. Tôi cũng mỉm cười lại rồi đi vào nhà, vừa đi vừa đọc trên phong bì. Một lá thư của anh Phan và một lá thư ghi tên Mẫn Hải quân...

Tôi ngồi xuống đi văng và mở lá thư của anh Phan ra trước. Tôi ngạc nhiên vì lá thư của anh Phan không đề ngày tháng và hình như không phải là một lá thư mới. Những nét chữ anh Phan có vẻ nắn nót hơn những lá thư trước:

Quyên,

Anh vừa ở Ban Mê Thuột về Bun Hô. Anh đi một mình nhưng ở Ban Mê Thuột anh lại có rất nhiều bạn bè (ghi chú: 0 có bạn gái). Đáng lẽ anh phải ở Ban Mê Thuột hơn một tuần lễ, nhưng nhờ mồm mép khéo anh lo giấy tờ mau, nên chỉ ba ngày sau là anh xong hết việc. Ở Bun Hô thì rầu, mà bỏ Bun Hô mới có ba ngày đã thấy nhớ, nên anh vội về ngay. Tụi bạn ở Buôn Mê Thuột nói anh điên: mày đúng là Phan điên. Tui nó cười là anh đã không lợi dụng thời gian còn lại "hợp pháp" đó để chuồn về Đà Lạt đi nhót. Mà anh cũng điên thật phải không Quyên nhỉ? Về Đà Lạt biết đâu lại chả bắt được một nhân tình, đời thêm hương vị... tố (ghi chú xin đừng mách với me).

Vậy là anh về Bun Hô rồi. Anh vừa về tới đây buổi sáng và khi anh viết thư nầy cho Quyên là lúc trời chuyển tối đây. Buổi chiều anh vừa đi săn với một người bạn, hai đứa chẳng bắn được gì hết, bực mình anh đã bắn vào một mõm núi. Núi cũng chả biết gì phải không Quyên? Cỏ cây núi rừng đều vô tội, chỉ có con người mới đầy tội lỗi.

Trong một lá thư, thư rất cũ của Quyên, Quyên có viết nhạo anh một đoạn: Quyên cầu cho anh gặp một quả bom ái tình rơi trúng vào đầu, cho ngẩn ngơ, hết trêu chọc. Và bây giờ lời nguyền của Quyên đúng rồi, anh đang ngẩn ngơ đây. Ngẩn ngơ nhưng không phải loại ngẩn ngơ của những thứ thất tình đâu nhé. Anh mà thất tình? Không, không bao giờ anh thất tình vì không có cô nào có thể làm cho anh thất tình được cả. Anh oai vệ vậy đó, mà bây giờ cũng ngẩn ngơ...

Bởi vậy, hôm nay anh mới viết lá thư này gửi riêng cho Quyên, Quyên nhớ là anh chỉ muốn riêng Quyên đọc và Quyên giúp anh một việc. Anh nhờ Quyên giúp anh về một vấn đề tình cảm riêng của anh. Anh chỉ nhờ Quyên, bởi anh biết Quyên khôn khéo, chỉ có sự khôn khéo của Quyên mới giúp được anh thôi. Đáng lẽ ra, từ đầu anh phải nói ngay với Quyên, nhưng anh lại cứ con cà con kê mãi. Bởi chuyện khó quá.

Đây nầy, Quyên đọc kỹ nhé: Anh có một chuyện muốn nhờ vả Quyên. Nhưng không, không phải một chuyện mà là hai chuyện. Không, cũng không phải nữa, không phải hai chuyện mà là một chuyện. Thật khó nói quá, nhưng anh đã lỡ nói ra với Quyên rồi phải không?

Như thế nầy, chắc Quyên biết chuyện giữa anh và Hoà chứ? Đối với anh thì hoàn toàn chưa có gì, nhưng ba me đã tin cẩn rằng anh sẽ bằng lòng lấy Hoà làm vợ và đã đi dạm hỏi cho anh. Anh thì không chê gì Hoà hết và anh cũng không cãi lời ba me về chuyện đó bao giờ. Anh vẫn thường tự nhủ rằng mình thương quí ba me, phải nghe lời ba me. Và nhất là me, anh càng không muốn làm cho me buồn một chút nào hết. Mẹ của chúng ta là nhất rồi phải không Quyên và đối với me, anh chỉ muốn luôn luôn nhỏ bé để me cưng chiều. Và chắc trong gia đình chúng ta, anh em chúng ta cũng không đứa nào muốn làm phiền lòng me hết. Bởi vậy anh mới đem chuyện nầy nói với Quyên mà không nói với me, chuyện của anh và Hoà đó. Quyên chắc thân với Hoà hơn anh. Quyên với Hoà lại là chị em bạn gái, dễ nói chuyện hơn. Vậy Quyên tìm cách nói cho Hoà hiểu rằng, trong hoàn cảnh bây giờ của anh, anh chưa thể nghĩ tới việc lập gia đình với Hoà được. Anh sợ anh sẽ làm khổ Hoà, bởi hiện tại anh đang lâm vào một hoàn cảnh hết sức khó khăn. Hoàn cảnh đó, anh kể cho riêng Quyên biết đây, nhưng Quyên hứa với anh là Quyên chỉ biết một mình thôi nhé. Và anh kể tới chuyện thứ hai, nhưng cùng liên quan tới phần thứ nhất.

Sự khó khăn mà anh sắp nói ra với Quyên đây chắc phải làm Quyên ngạc nhiên. Vậy thì nghe anh nói đây...

Thư anh Phan viết đến đây thì bỏ cách một quãng. Rồi những dòng sau có vẻ nguệch ngoạc hơn:

Hỏng rồi Quyên ạ, anh vừa có lệnh đi khẩn cấp. Khẩn cấp lắm. Anh phải dừng nơi đây. Stop nhé.

Ghi chú: anh đi hành quân. Sẽ nói chuyện trong lá thư tiếp theo. Chờ thư anh nhé. Phan.

Lá thư chỉ có chừng đó và không đề ngày tháng. Chuyện gì đã xảy ra cho anh Phan? Chuyện gì đã xảy ra giữa Hoà và anh Phan. Lại giận nhau, hờn nhau? Nhưng anh Phan có liên lạc gì với Hoà nhiều đâu? Cái thái độ cũng không niềm nở cũng không lạnh nhạt đối với Hoà của anh Phan làm tôi không thể hiểu nổi tình cảm của anh ấy. Vậy mà bây giờ anh Phan lại nhờ tôi về một chuyện tình cảm? Thế nào thì cô Hoà cũng trở thành chị dâu của mình, anh ấy có rắc rối cũng không dám để me rỏ nước mắt đâu.

Nghĩ thế, tôi yên tâm mở lá thư Mẫn ra đọc.

Quyên,
Nhớ có một lần Quyên xưng chị với tôi giữa những người bạn của tôi và của Quyên: "Hôm nào rỗi, Mẫn tới nhà chị chơi nhé". Em Mẫn đã không tới nhà chị Quyên nữa, và em Mẫn thay thế bằng lá thư nầy cho chị Quyên vậy.

Và ngay bây giờ, em Mẫn xin trả lại chị Quyên tiếng CHỊ, để chỉ có Mẫn, có tôi, gửi cho Quyên lá thư nầy cho dễ nói một câu chuyện.

Chắc Quyên ngạc nhiên và tự hỏi rằng tại sao tôi không tới thăm Quyên mà nói thẳng với Quyên? Tôi cũng nghĩ như thế. Nhưng tôi nghĩ rằng khi tôi gặp Quyên, ngồi trước mặt Quyên, chắc tôi sẽ không nói được gì hết. Và biết đâu trước mặt Quyên tôi lại trở thành một đứa em ngoan ngoãn, để chị Quyên bảo rằng: Mẫn phải thế nầy, Mẫn phải thế nọ. Tôi đã nói thế đó, nhưng tôi cũng đã hận vô cùng lần Quyên xưng chị với tôi ở giữa đám đông và chính nỗi hận đã xui tôi hôm nay viết lá thư nầy tới cho Quyên đó.

Chắc Quyên còn nhớ buổi tối hôm tôi say rượu, được Quyên đưa về nhà, Quyên đã gặp chị Duyên tôi. Nhìn qua dáng dấp của chị Duyên tôi và cách ăn mặc của chị ấy, chắc Quyên cũng đoán được lối sống của chị ấy như thế nào rồi. Tôi chỉ còn lại một mình chị Duyên, tôi yêu quí chị hết lòng, bởi ngoài hai chị em tôi ra, chúng tôi chẳng còn ai để mà thương nữa. Tôi mồ côi từ nhỏ, lớn lên sống vất vơ rất nhiều. Bởi thế nhiều lúc tôi đã rất cô hồn, Quyên có hiểu đầy đủ nghĩa của tiếng cô hồn không! Nghĩa là tôi đã từng rất ma cô, du côn, du đãng, dối trá, ngạo ngược. Tôi lêu lổng theo đám bạn bè. Tôi đã vào ra nhà trừng giới cả chục lần. Tôi đã làm cho chị Duyên tôi đau khổ điêu đứng. Không hiểu sao tôi cô hồn, du đãng, du thực như thế mà lại có một khuôn mặt hiền lành, nhỏ nhít mà Quyên đã thấy. Tôi thường hỏi chị Duyên tôi, tôi giống ai thì chị không trả lời. Tôi nghĩ rằng chị sợ nói ra làm phiền lòng người chết chăng? Nhưng dù khuôn mặt tôi giống ai thì cũng là khuôn mặt của tôi rồi phải không Quyên? Du đãng, cô hồn chán, tới tuổi tôi xin vào Hải Quân và điều ngạc nhiên mà tôi không bao giờ ngờ tới là tôi thay đổi hẳn. Sự thay đổi nầy không do một phép mầu nào hết mà do ở sự tha thứ, bao bọc, che chở và thương yêu của chị Duyên tôi. Tôi hồi sinh lại. Rồi tôi được Thường, người tình của chị tôi giúp đỡ thương mến, y coi tôi như tình ruột thịt. Nhưng dù tôi ăn năn, hối hận, cố giữ mình, thỉnh thoảng cái cô hồn được nuôi dưỡng từ nhỏ trong tôi vẫn trỗi dậy. Tôi cố dằn giữ đôi tay chân bằng cách uống rượu. Nhưng rượu vào, cơn say làm tôi phá phách, cô hồn hơn và một lần tôi đã gặp Quyên.

Khi tỉnh dậy, tôi ngồi nhớ lại những hành động của Quyên, tôi không hiểu một tí nào hết. Tôi lạ lùng hết sức. Thường thường những cô gái khác mới gặp tôi, trông thấy tôi đã lánh xa, tại sao Quyên không sợ? Cái gì đã gây niềm tin cho Quyên khi Quyên giúp đỡ một thằng ma cô như tôi. Quyên đã làm cho tôi suy nghĩ. Chưa ai đối với tôi như Quyên đã đối đãi với tôi hết. Các cô gái khác mỗi lần nghe tôi huýt gió trêu chọc, họ quay lại nhìn tôi bằng đôi mắt nhạo báng hoặc khinh khỉnh bỏ đi, bởi trên ve áo tôi không có cấp bực nào hết. Với lại tôi cũng không thể tin được còn có những người con gái lương thiện trong hoàn cảnh nầy. Tôi đã từng chứng kiến những nữ sinh đi với Mỹ, những cô gái bên ngoài trông thật khả ái, vậy mà bên trong bão táp tơi bời. Tôi mất hết niềm tin từ lâu rồi, và cho rằng trong hoàn cảnh nầy, người ta không còn ai yêu thương ai nữa hết. Vậy mà tôi lại được gặp Quyên, được Quyên coi như bạn, như em. Đáng lẽ tôi phải sung sướng và đón nhận thứ hạnh phúc thần thánh đó, nhưng tôi đã dại dột từ bỏ, để tham lam mơ màng cao xa hơn. Quyên đã biết tôi mơ như thế nào không? Tôi mơ ước được Quyên yêu tôi, Quyên đã nghe rõ chưa. Quyên yêu tôi.

Nhưng Quyên có yêu tôi hay không? Tôi cũng không muốn Quyên trả lời. Bởi mai đây tôi sẽ đi xa và mang theo hình ảnh Quyên, hình ảnh một người tình khả ái. Quyên không nói với tôi và tôi cũng không cần hỏi Quyên có yêu tôi hay không? Có hay không, tôi yêu Quyên và luôn luôn có một khuôn mặt trong đời sống còn lại. Cho nên tôi mong Quyên đừng viết thư, đừng từ chối, đừng nói gì cả bởi tôi có bắt Quyên yêu tôi, nói yêu tôi đâu. Trước mặt Quyên, đối diện Quyên, tôi chỉ là một cậu trai bằng tuổi Quyên thôi, nhưng xa Quyên, tôi nghĩ rằng tôi được yêu Quyên như một người tình nhân hết sức bé bỏng.

Vậy từ bây giờ tôi gửi trả lại chức chị Quyên cho Quyên, tiếng chị đó nếu Quyên muốn giữ thì cứ giữ. Có thể đọc lá thư nầy Quyên cười tôi lắm, hoặc có thể Quyên đưa cho người tình của Quyên và nói: Thằng nhóc nầy, anh xem, cũng bày đặt yêu em. Quyên có quyền nói, có quyền làm đủ mọi thứ khuất mắt tôi. Bởi vậy, để yêu Quyên, để kính trọng chị Duyên, tôi sẽ đi. Vì nếu tôi ở lại, cái cô hồn trong tôi sẽ có lúc nổi dậy hết sức khủng khiếp. Tôi sợ cái lúc cô hồn đó trở lại, tôi giết chết mất người yêu của Quyên, hoặc một người đàn ông nào đó được sung sướng ngồi nhìn Quyên, đi với Quyên, nghe Quyên nói. Hoặc tôi sẽ giết chết tên tình nhân ngoại kiều đêm đêm vẫn bò về với chị Duyên, bởi tôi yêu quá, yêu Quyên, yêu chị Duyên, hơn cả đời sống của tôi nữa.

Vì vậy tôi xin đổi đi xa, đi xa để mang theo ảo giác được Quyên yêu, để được còn chị Duyên, hơn là ở thành phố để có hồn trở lại. Và thỉnh thoảng Quyên cho phép tôi được viết một lá thư tình cho Quyên, mà Quyên không được viết thư cho tôi. Hãy để biển cả đọc những lá thư của Quyên cho tôi nghe, hãy để biển pha màu mắt của Quyên cho tôi nhìn. Và để từ giả Quyên, tôi nhắc lại: Tôi yêu Quyên. Tôi yêu em. Tôi yêu em lắm.

Quyên ơi, Quyên ơi.

Đọc xong lá thư của Mẫn, tôi không có một ý nghĩ nào mà chỉ muốn khóc. Tôi cũng không định tìm gặp Mẫn, biên thư cho Mẫn.

Lá thư của Mẫn được giấu kín trong một hộc tủ. Tôi nghĩ là tôi đã làm vui lòng Mẫn. Còn lá thư của anh Phan? Không, tôi không thể giấu ba mẹ tôi, dù anh Phan bảo giấu. Anh Phan chỉ thích riêng tư, tôi không thích riêng tư mà muốn chia sớt hết mọi chuyện cho người thân, ba mẹ tôi, chị Phượng.

Tôi nghĩ tiếp: Bây giờ thì chắc Mẫn cũng đi xa rồi cũng nên... Và không hiểu sao tôi lại thở dài coi như ảo não lắm.

IX.

Me tôi bày mấy bó rau muống ở trên nền gạch hoa và nói với chị Phượng.

"Con tắt ngọn đèn trong phòng đi, ra đây chẻ rau muống với me".

Tôi cũng đến ngồi bên me tôi: "Me để con giúp với". Me tôi cười bảo: "Ừ tập ăn tập làm đi thì vừa..." Ý me tôi muốn nói tới câu làm dâu làm con người ta, nhưng me tôi đã giữ lại kịp. Me tôi sợ tôi buồn, tôi nói thầm: "Cảm ơn me hết sức, nhưng con không buồn đâu". Ba tôi lôi ra một tờ báo, chị Phượng hỏi ngay: "Tờ Tiền Tuyến phải không ba? Truyện đi đến đâu rồi ba?" Truyện đây là chị muốn nói tới truyện Kiều Phong A Tỷ đăng trên nhật báo nầy. Ba tôi nói là để tao đọc xong rồi kể cho mà nghe. Me tôi kêu trời ơi, rồi kính đeo vào mắt, lúc nào ba con các ông cũng Kiều Phong A Tỷ, Kim đang đứng táy máy bên chiếc ra dô nghe me tôi nói, hắn cười: "Đọc truyện cũng hay nhưng hao nước mắt lắm. Nhớ hồi nhỏ đi xem cải lương với me, tới cảnh thảm me khóc mà em cứ tưởng trời mưa. Khi ra khỏi rạp me sút có tới ba bốn ký lô. Thôi con xin can me". "Quỉ đâu đó". Me tôi trừng mắt doạ thằng Kim. Thằng Kim làm bộ cúi xuống lau ra dô và khúc khích cười. Chị Phượng nói: "Không biết mình chẻ rau trước mai rau có nát đi không?" Me tôi nói: "Bỏ vào tủ lạnh thì hàng hai ba ngày cũng được". Rồi me tôi than chiếc tủ lạnh dạo nầy có vẻ dở chứng quá. Chị Phượng nói để Nghĩa và anh Phan về sửa cho, dạo con làm hư cái bàn ủi điện, Nghĩa và anh Phan tháo tung ra sửa, vậy mà tốt ra phết đó me ạ. Me tôi nói tụi nó về để cho tụi nó đi chơi chứ bắt chúng làm thợ tội nghiệp. Chị Phượng nhúng hai tay vào thau nước, tôi nhìn thấy những sợi gân xanh nổi lên làn da trắng nuột, những ngón tay búp măng của chị đã kém tròn. Tôi nhìn chị, mắt chị Phượng trũng sâu và da mặt hơi xanh, chị gầy đi nhiều. Sự chờ đợi làm mỏi mòn nhiều quá. Tôi nghĩ tới mai đây tôi cũng sẽ rơi vào chờ đợi, lo âu như chị Phượng. Tội nghiệp, vậy mà lúc nào chị cũng cố vui cố cười để tạo cho không khí gia đình đầm ấm. Me tôi nói: "Con Phượng chẻ rau đi chứ, lớn rồi mà ngồi nghịch nước mãi". Chị Phượng lại thoăn thoắt chẻ rau. Hôm nay me tôi vui mừmg ra mặt. Còn chị Phượng nét chờ đợi như đã chín già. Ngày mai, gia đình tôi chắc chắn sẽ hưởng một ngày vui trọn vẹn nhất. Me tôi nói:

"Không biết mai tụi nó về sáng hay chiều".

Chị Phượng nói:

"Mình dọn chiều đi me, các anh ấy có về sáng cũng phải nghỉ ngơi ăn mới ngon. Mà có về chiều cũng không lỡ bữa".

"Nhưng không biết ngày mai trời có mưa không?"

Chúng tôi buồn cười quá mà không dám cười lớn, chỉ nhìn nhau thôi.

Mưa hay nắng thì có can dự gì đến gia đình chúng tôi đâu. Me tôi thật lẩm cẩm. Câu nói của me tôi buồn cười vậy mà không thấy ba tôi nói gì hết.

Ông đang cắm đầu vào tờ báo. Tôi nói coi xong chưa ba, ba tôi nói gần rồi, ly kỳ lắm. Một lát ba tôi la lớn:

"Ly kỳ, ly kỳ, hay tuyệt".

Ba tôi la lớn quá làm me tôi giật mình. Me tôi gắt:

"Trời ơi, tôi tưởng người ta xuống đường chứ, la gì mà la dữ vậy. Tôi suýt bị dao đâm phải tay đây này".

Ba tôi vội giảng hoà:

"Ấy chết, tay bà có sao không? Đứa nào lấy băng, thuốc, băng tay cho me đi. Khổ quá, tại cái miệng này".

Ba tôi đưa tay bịt lấy miệng. Chúng tôi cười, ba tôi cũng cười. Chị Phượng nói: "Tới đâu rồi ba". Ba tôi nói tụi bây đọc tới đâu rồi. Me tôi nhất định không cho ba kể. Me tôi nói: "Không nghe chuyện luyện chưởng đâu. Cái gì mà đẩy một chưởng mà núi bay cây gãy. Nói láo". Rồi me tôi lại nhắc tới Nghĩa và anh Phan. Me tôi hỏi ba tôi xem báo có tin gì lạ không, ba tôi nói không có gì lạ hết. Gia đình tôi vẫn có thói quen hay thức khuya, dạo ở Hà Nội cũng vậy, khi anh Phan và chúng tôi học bài, ba tôi đọc sách. Me tôi cũng không chịu đi ngủ sớm, bà ngồi đan áo hoặc khâu vá. Dạo đó me tôi cũng đã đeo kính nhưng me tôi chưa già và mập như bây giờ. Tôi nhớ me tôi còn chiếc áo màu hoàng yến, cổ thấp, may nút thắt theo kiểu Huế, chiếc áo đó may hồi me tôi vào Huế thăm một ông cậu làm quan ở triều đình và may một chiếc mang về. Chiếc áo đó me tôi đã mặc chật từ lâu, chị Phượng đem cắt may cho tôi một chiếc áo cánh, nhưng tôi không dám mặt đều, sợ nó rách hư mất một kỷ niệm đẹp của me tôi để lại.

Hai bó rau muống đã vơi dần, những cọng rau chẻ, mảnh mai xoắn tít trong thau nước thật xanh mát. Me tôi chẻ rau rất mau, ba tôi thường kể lại là hồi mới lấy nhau, me tôi chỉ có trổ tài chẻ rau muống, bởi thế bữa cơm nào ba tôi cũng là nạn nhân của rau muống chẻ. Nhưng ba tôi lại nói rằng, vắng món đó, ba tôi nhớ lắm và nuốt cơm không vô. Ba tôi nói đúng, chúng tôi đi ăn ở đâu, món rau muống chẻ trộn dầu dấm cũng không thấy ngon bằng dĩa rau muống chẻ trộn của me tôi làm cả. Thằng Kim đã lúi húi bỏ pin vào ra dô xong, nó vặn nghe nhạc. Me tôi nói thứ nhạc gì mà inh cả tai, thằng Phan nó có thích nghe mấy bản quỉ đó như thằng Kim đâu. Me tôi bảo Kim tắt máy và nói với chị Phượng:

"Phượng, thôi con rửa tay rồi vào lấy lá thư của anh Phan mầy vừa gởi cho con Quyên ra đọc lại cho me nghe đi".

Me tôi vẫn bắt chúng tôi đọc thư của anh Phan cho bà nghe hoài, dù lá thư đã được đọc đi đọc lại mấy lần. Nghe chị Phượng đọc lá thư anh Phan viết cho tôi. Thằng Kim phát ngôn trước tiên:

"Chắc anh ấy lăng nhăng với cô nào, rồi anh chị giận nhau. Bây giờ anh ấy mới nhờ chị Quyên giảng hoà đó".

Me tôi gắt lên:

"Bậy mà, còn con Hoà đó nữa chi".

Ba tôi cười:

"Có con Hoà thì con Hoà, biết đâu nó còn lăng nhăng với cô nào khác, con trai mà..."

Me tôi nói lẫy:

"Ông suy bụng ta ra bụng người. Thằng Phan nó có giống ông đâu".

"Vậy nó giống ai vậy bà?"

"Giống ai? Chúng bây xem, ba chúng bây ăn nói thế đó. Nó con ai thì giống người đó chứ. Nó giống tôi chứ giống ai?"

"Không, tôi có nói lẫy bà đâu. Tôi ghen đó. Tại bà bảo nó không giống tôi. Bây giờ, tôi lấy quyền làm chồng để hỏi bà: Nó giống ai?"

Me tôi trả lời không được phải để Kim đỡ lời. Nó chỉ lên cái ảnh hồi ba tôi còn trẻ trên tường:

"Anh Phan con giống cái ông đó kìa, ông đó đâu có xấu xí già cỗi như ba. Phải không me? Bây giờ thử ba theo tán me con xem me con có thèm không?"

Câu nói của Kim làm chúng tôi cười ngất. Thế là huề, chúng tôi lại bàn về lá thư của anh Phan. Ba tôi nói:

"Hay nó và con Hoà giận nhau?"

"Giận nhau? Ông nói còn vô lý nữa. Nó mà biết giận ai, thấy con Hoà sang là đỏ mặt tìm cách lỉnh mất. Biểu nó dẫn con nhỏ đi ciné, nó nói khéo làm sao mà gài con Quyên vào đi chung nữa".

"Tại nó chưa muốn lấy vợ".

"Thì tôi có ép nó đâu. Hôm nói chuyện con Hoà nó nói tuỳ me, con là phận trai me đặt đâu con ngồi đó. Nói chuyện cưới nó bảo để nó giải ngũ đã, tôi nghe nó nói cũng đúng. Vợ chồng trẻ mà sống xa nhau tụi nó buồn lắm".

Kim xen vào:

"Chừng nào anh ấy giải ngũ?"

"Hai năm nữa". Me tôi nói. Kim kêu trời rồi nói tiếp rằng hai năm ai mà chờ đợi nổi, không khéo người ta có con trước ngày cưới mất. Me tôi mắng con nít mà nói nhảm. Ý me tôi nói rằng Kim còn nhỏ quá, chưa nên biết chuyện đó. Kim che miệng cười với tôi. Me tôi lại thắc mắc:

"Lạ thật, không biết chuyện gì mà rắc rối tình cảm, hay nó đổi ý muốn cưới gấp?"

"Không phải đâu me, anh ấy có viết cho con rằng trong hoàn cảnh nầy anh ấy chưa thể cưới vợ được".

"Nó chỉ bày đặt tạo cớ nầy cớ nọ thôi. Me tôi hờn dỗi".

Ba tôi nói:

"Chắc nó muốn nhờ con Quyên làm mai cho nó một đứa bạn nào đó của con Quyên chớ gì? Tôi hiểu lắm mà..."

Ba tôi nói xong cười ra vẻ mình đã đoán được hết mọi chuyện. Nhưng chị Phượng nghiêm trọng nói:

"Không phải vậy đâu. Thường thường anh ấy chỉ thích tự mình giải quyết mọi việc và mọi chuyện đối với anh đều khôi hài được hết. Chắc có gì quan trọng thật đó ba me ạ".

Câu nói của chị Phượng làm tôi giật mình. Có lẽ thế thật. Tính anh Phan tôi vẫn coi thường mọi chuyện, chuyện rắc rối tới đâu anh cũng đùa bỡn được. Chắc có gì anh không giải quyết được rồi nên mới nhờ tôi. Tôi định lên tiếng thì ba tôi nói:

"Thôi chuyện gì cũng gác lại, ngày mai nó về thì biết hết.

Tôi dặn dò:

"Nhưng ngày mai anh ấy về, ba me, chị Phượng và Kim đừng tỏ vẻ gì đã biết lá thư của anh ấy hết nhé".

Kim nói:

"Đã đành. Nhưng lỡ mai anh không về thì sao?"

Me tôi kêu:

"Ơ, cái thằng nói nhảm nhí quá nhỉ? Con cái gì đâu mà mở miệng ra là nói dại rồi".

Kim nhất định không chịu câu nói của me tôi là: mở miệng ra là nói dại. Kim cãi rằng lá thư của anh Phan viết rõ ràng là đi hành quân gấp. Nhưng me tôi cãi lại là lá thư không đề ngày tháng. Vậy lá thư đó viết đã lâu sau đó định viết tiếp nhưng có giấy phép được về nên không viết nữa. Me tôi nói cũng có lý mà Kim nói cũng có lý. Tuy vậy chúng tôi vẫn đinh ninh chắc là anh Phan về. Và buổi chả giò ngày mai vẫn được bàn đi bàn lại mãi.

Me tôi dặn chị Phượng ngày mai đi chợ nhớ nhắc me tôi mua món nầy, món nọ. Me tôi để hết tâm trí vào buổi chả giò ngày mai làm chúng tôi vừa cảm động vừa bực mình. Đã chả giò lại còn phụ thêm các món ăn anh Phan tôi vẫn thích. Thật me tôi cưng con quá rồi quên là anh Phan cũng chỉ có một cái bao tử nhỏ xíu như chúng tôi thôi. Ba tôi thấy me tôi lăng xăng, ông không nói gì hết, chỉ im lặng mỉm cười. Đôi mắt ba tôi nhìn me tôi vẫn như độ nào, không thay đổi. Đôi mắt trầm ấm, thương yêu quen thuộc, và hình như càng ngày càng gần lại. Tôi chỉ muốn ôm hết ba me tôi, chị Phượng, anh Phan và Kim trong cánh tay. Nhưng cánh tay tôi nhỏ bé quá không ôm đồm hết nổi.

Rau muống đã chẻ xong nhưng cả gia đình chúng tôi vẫn còn ngồi ở phòng khách, không nói chuyện thì nhìn nhau, không nhìn nhau thì nói chuyện. Riêng chị Phượng khi thật vui, khi thật buồn. Tôi cũng sắp như chị. Tôi nghĩ đến bữa ăn ngày mai và một ít ngày vui sau đó nữa. Rồi anh Phan sẽ đi, anh Nghĩa sẽ đi và Hoàng nữa, Hoàng cũng xa tôi nữa. Tôi nhìn ba me tôi, chị em tôi, không, tôi không có quyền buồn khổ, chán nản. Tôi ph?i chia s?t m?i n?i vui bu?n v?i gia dình, m?i ngu?i trong gia dình cung ph?i chia s? chung v?i tôi...

Đi ngủ đi con. Đi ngủ đi ba. Đi ngủ đi me, ngủ đi em, ngủ đi chị. Ngọn đèn giữa phòng khách đã tắt.

Khi lên tới gác, chị Phượng hỏi tôi là có bảo Hoà ngày mai tới ăn cơm không. Tôi chợt quên là lâu lắm tôi không gặp Hoà và cũng không bảo Hoà tới. Chắc anh Phan cũng không tin ngày về cho Hoà biết đâu. Vài ba kỳ nghỉ phép anh mới thăm gia đình Hoà một lần, hoặc đi với ba tôi, với me tôi hoặc cả mấy anh em chúng tôi. Dù me tôi vẫn khen tính Hoà hiền, chăm chỉ, tôi cũng không thân với Hoà được. Tôi vẫn nghĩ Hoà không thân với tôi như bạn, nhưng làm chị dâu tôi thì rất tốt. Bởi Hoà vẫn hay yên lặng, hay mỉm cười mà không góp ý kiến. Hoà hiền, khó hiểu nhưng tôi cũng không bao giờ tìm hiểu làm gì. Tôi không thân với Hoà mà lại quý Hoà. Me tôi đã quý, đã chọn, chúng tôi không phải thắc mắc nữa. Tôi nói với chị Phượng là tôi không nói, quên nói. Như thế tiện hơn. Chị Phượng tiếp: "Chắc có chuyện gì quan trọng lắm. Ngày mai anh ấy chưa gặp Hoà càng tiện cho anh ấy". Tôi không hiểu chị Phượng muốn ám chỉ gì, nhưng tôi cũng không hỏi.

"Quyên không cầm tờ báo lên đọc Kim Dung?"

"Thôi ngủ đi chị. Ngày mai mới có sức mà mừng chứ".

"Quyên có tin ngày mai các anh ấy về không?"

Dù hơi ngần ngại, tôi cũng trả lời:

"Tin chứ, chắc chắn các anh ấy về mà".

Chị Phượng lặng im. Tôi kéo chị bảo đi ngủ thôi. Hai chị em tắt đèn.

Trong bóng tối, tôi bỗng nhiên muốn nhìn rõ khuôn mặt chị Phượng, hình ảnh chị Phượng trong đêm tối lặng lẽ lạ lùng. Tôi muốn hỏi có phải chị khóc không mà không mở miệng được. Tôi lăn sát vào người chị, vòng một tay qua bụng chị. Chị Phượng nằm nghiêng, quay mặt vào phía tường. Chị cầm bàn tay tôi lắc lắc và cũng không hỏi tôi có ngủ được không, rồi chị nói đêm nay sao nghe tiếng súng như gần hơn. Tôi chú ý nghe và cũng thấy tiếng súng gần thật. Tôi rủ chị.

"Mình ra balcon coi đi chị".

"Đi".

Chị Phượng đứng dậy. Tôi theo chị ra phía ngoài balcon. Đêm tối vẫn mênh mông. Khu vực nhà tôi vừa bị cúp điện, đèn đường tối om. Chúng tôi nhìn phía xa, nơi tiếng máy bay rì rầm, những trái hoả châu sáng chói một vùng, từ trên cao là xuống rồi tắt, những trái khác lại sáng. Cứ như thế, những trái hoả châu tắt đỏ, những tiếng máy bay ì ầm, những đốm đèn xanh như mắt ma và đỏ như máu bầm. Nơi đó, tiếng súng, tiếng đại bác liên tiếp, dữ dội.

"Đánh đâu gần quá chị ạ".

"Ừ".

"Không biết ngày mai các anh ấy có về được không?"

"Không biết".

"Nầy chị..."

"Cái gì hở Quyên?"

"Không, mà nầy, chị có thấy gì không?"

"Không, chị cũng không biết nữa..."

Không biết nữa. Tôi cũng vậy, cũng không biết nữa, không biết có những gì trong tôi mà ruột gan tôi cứ cồn cào, héo hắt.

"Làm sao ấy em ạ".

"Chắc tiếng súng làm chị khó chịu chứ gì?"

"Không phải, nhưng chị thấy như mình buồn nôn. Không, không phải buồn nôn mà là buồn, người nó cứ nhói nhói cùng khắp. Ừ, sao chị..."

Tôi bỗng hốt hoảng lên một giây. Tự nhiên chỉ một giây thôi. Tôi nghe ba tôi ho dưới nhà, ba tôi cũng chưa ngủ. Tôi cầm tay chị Phượng thật chặt và cười thành tiếng:

"Nhảm quá, đêm nay không riêng gì chị mà cả nhà không ai ngủ được đâu. Nhất là me, giờ chắc đang vừa cười vừa khóc ở dưới nhà ấy. Em nghĩ tới mai gặp anh Phan... Ừ, em nhớ anh Phan quá chị ơi... Nhưng ngày mai chị mới là người mừng nhất, sung sướng nhất.

"Còn em. Quyên nầy, mấy bữa nữa..."

"Không, chị đừng an ủi gì em hết. Gia đình mình không ai được quyền vui buồn một mình hết".

Nói xong câu đó tôi muốn lăn vào lòng chị Phượng mà khóc.

"Thôi mình đi ngủ, ngày mai đi chợ với me sớm chứ chị".

Hai chị em vào nằm và cũng không có ai hỏi nhau đã ngủ chưa nữa.

Tiếng đại bác như mỗi lúc một gần, mỗi lúc mỗi dội lớn trong tai tôi, trong đầu tôi. Nơi đâu có tiếng đại bác là nơi đó có anh Phan của tôi. Nơi đâu có hoả châu là khuôn mặt anh Phan tôi ngời sáng ở đó. Lạy Trời, Phật, gia đình con, gia đình tôi đừng bao giờ, đừng bao giờ... Tôi run sợ đến lịm người. Tiếng đại bác vẫn không tha. Tiếng đại bác vẫn nổ. Vẫn đi. Vẫn kêu réo. Ba tôi vẫn nói:

"Đừng sợ hãi một điều gì. Hãy sống cho hết mình và thương yêu cho hết mình. Thưa ba, con thương yêu hết mình, con đang yêu thương hết mình, yêu ba me, yêu anh chị em, yêu gia đình ta, tổ quốc ta, yêu tất cả mọi người, yêu cả tiếng đại bác kêu réo nầy nữa. Tôi chảy nước mắt và cầu nguyện mãi. Trong giấc ngủ mơ màng với đại bác, với hoả châu, tôi mơ thấy tuổi nhỏ của tôi, của anh em chúng tôi. Đó là một cánh đồng, những thảm cỏ xanh, và mùi thơm của phân bò, phân trâu ngây ngất, thân ái.

X.

"Mấy giờ rồi con?"

"Dạ, năm giờ me".

"Chúng nó đã tới đông đủ chưa".

"Có ai đâu mà đông, me".

"Sao thằng Kim bảo là nó sẽ đưa mấy thằng bạn của nó về nhà. Còn Hoà nữa, bộ chưa đứa nào báo tin cho nó sao?"

"Bọn con chả thấy thằng Kim nói gì cả. Chắc nó quên luôn rồi. Còn Hoà thì mấy hôm trước con có ghé nhưng không gặp. Con định chiều qua sẽ trở lại. Nhưng thôi. Có lẽ để chờ anh Phan về xem ý anh ra sao đã. Me ạ".

"Cái thằng thật lắm chuyện. Mà sao giờ nầy chưa thấy tăm hơi bọn chúng đâu cả. Mẹ sốt ruột quá".

"Chắc tại tàu bay trễ đó me. Dạo nầy con nghe xin máy bay quân sự khó lắm. Đôi khi phải chờ đôi ba ngày cũng nên".

"Ai thì phải chờ chứ anh Phan thì khỏi đi. Anh ấy mồm mép lắm. Chắc thế nào cũng xoay ra máy bay để về kịp trong ngày. Me yên tâm đi".

Tuy nói me tôi yên tâm. Nhưng tôi biết cả nhà tôi lúc nầy không ai yên tâm nổi đâu, nhất là me tôi.

Từ buổi trưa đến giờ, bà luôn luôn hỏi mấy giờ và chốc lại kêu sốt ruột quá.

Chị Phượng nói:

"Chắc tại me nôn quá, rồi suốt đêm qua không chợp mắt được nên bây giờ sốt ruột chớ gì".

Chị Phượng nói vậy nhưng chính chị cũng đứng ngồi không yên. Dạo nầy sau mỗi bữa cơm, giờ tụ tập trong phòng khách của gia đình tôi thường kéo dài lâu hơn. Cả nhà thường nói nhiều về những trận đánh, những tin tức chiến sự. Buổi tối, ba tôi thường ngồi lâu hơn trước máy thâu thanh, sau bản tin chiến sự hồi 9 giờ của đài Sài Gòn. Me tôi cũng không còn lòng dạ nào để thích nghe chèo cổ nữa. Nhất là chị Phượng. Cầm báo, mục chị coi trước nhất không còn là truyện Kiều Phong A Tỷ nữa mà là tin chiến sự. Chị thuộc lòng từng tên làng, tên địa điểm, tên các loại súng, tên những trận đụng độ. Và khi giở vào trang trong các nhật báo, chị đã bắt đầu chê trách mấy nhà văn mà trước đó chị vẫn theo dõi, rằng họ vô trách nhiệm, chả biết viết gì về cuộc chiến nầy cả. Chị Phượng thế đó, còn tôi, trái ngược với chị, tôi không biết gì hết, không nhớ gì hết, không hiểu gì hết, mà chỉ thấy chiến tranh, bom đạn, chết chóc đủ thứ vo tròn lại một cuộc nhào lộn trong đầu.

"Mấy giờ rồi nhỉ?"

"Thôi con Quyên để đó mẹ với chị Phượng làm cho, lên trên lo dọn rượu với thằng Hoàng đi".

"Vội gì me. Hãy còn sớm mà. Hoàng đang nói chuyện với ba con ngoài hiên ấy. Để con làm xong món nước mắm nầy đã".

"Quyên coi giùm bếp lửa cho chị một tí. Không chả giò thành than cả bây giờ".

Tôi gắp bớt vài cục than ra khỏi bếp lửa cho chị Phượng, rồi tiếp tục cầm mấy trái chanh gọt vỏ, tế múi. Mùi chanh chua khé cổ làm cổ họng tôi đắng chát những nước bọt. Không hiểu Hoàng đang nói cùng ba tôi những chuyện gì trên nhà. Chắc lại không ngoài chuyện chiến tranh chính trị. Chị Phượng đang lấy rau muống chẻ trong tủ lạnh ra sắp lên đĩa. Những sợi rau xanh mát, quấn quít lấy nhau trông thật ngon mắt. Biết đến bao giờ đời sống lại tươi mát như thế. Chị Phượng thấy tôi nhìn đĩa rau thì bảo:

"Thôi cô, có cho cái món nước mắm của cô xong mau lên không. Chắc các ông ấy về đến nơi giờ đó".

"Đôi khi lúc nầy bọn nó đã tới phi trường rồi cũng nên há".

Sáu giờ chiều, bữa chả giò được dọn đầy đủ lên bàn ăn".

Mùi chả, mùi nước mắm, thơm phức. Nhưng vẫn chưa thấy tăm hơi gì của anh Phan, anh Nghĩa. Để đỡ nóng ruột, cả nhà tôi và Hoàng ngồi quây trong phòng khách vừa uống nước, vừa đọc mấy tờ báo mới. Nhưng đến khoảng hơn bảy giờ thì me tôi không còn đủ sức chịu đựng thêm nữa. Đang ngồi nghe đọc một cái phóng sự chiến trường, mẹ tôi đột nhiên đứng bật dậy:

"Hay là đứa nào lấy xe ra phi trường xem sao đi. Me sốt ruột quá".

Me tôi nói xong, bà vẫn đứng nguyên giữa phòng khách, nhìn từng đứa một trong chúng tôi như để cầu cứu. Hoàng buông tờ báo xuống, hướng về ba tôi:

"Hay ba me để con với Kim chở nhau ra phi trường hỏi coi chiều nay có chuyến bay nào không".

Câu nói của Hoàng làm tôi thấy nô nức. Ừ nhỉ, tại sao chúng tôi không cùng kéo nhau vào phi trường hỏi coi. Chị Phượng cũng nô nức như tôi, và có lẽ cũng muốn tranh phần Kim để đi cùng Hoàng vào phi trường như tôi. Nhưng ba tôi đã đặt mạnh ly rượu chát của ông xuống bàn, nói với Hoàng:

"Con cứ ở nhà đi, không có đi đâu hết. Bộ me chúng nó quẩn đấy. Bảy giờ hai mươi rồi. Giờ nầy, ai cho người ngoài vào phi trường".

Rồi ngừng lại một giây, ba tôi lại tiếp:

"Mà dù có cho vào nữa cũng không việc gì phải đi. Bà tưởng chúng nó không biết đường về nhà mình nữa sao. Cứ đứa nầy đi kiếm đứa nọ rồi đuổi nhau đến bao giờ cho gặp".

Và ông kết luận bằng cách bảo Hoàng:

"Thôi, con đọc tiếp cái phóng sự cho me con nghe đi. Mình chờ chúng nó thêm 40 phút nữa".

Đoạn phóng sự trong tờ báo Hoàng đọc tiếp đang tả một trận đánh ngoài Ba Lồng, Quảng Trị. Ba tên Việt Cộng lọt được vào đồn bằng ngõ Tây Nam. Một trái lựu đạn tung vào vị trí súng cối. Ba xạ thủ của đồn bị thương. Nhưng một chiến sĩ của ta đã nhận ra bọn đột nhập. Anh rút kíp lựu đạn, chờ cho ba tên nầy vừa nhô khỏi chỗ núp là ném. Trái lựu đạn nổ tung. Nổ tung... Nổ tung... Nổ tung. Hoàng vẫn đọc tiếp. Nhưng tôi chỉ nghe đến đấy. Rồi mấy câu nổ tung, nổ tung, cứ vang lên mãi trong đầu tôi, như tiếng nói trong một khúc đĩa hát cũ bị mũi kim giắt lại. Tiếng Hoàng đọc vang trong căn phòng càng ngày càng có vẻ như được khuếch đại thêm bởi hình như cũng chả còn ai nghe. Hoàng đọc hết cái phóng sự chiến trường, đọc thêm sang một lô tin tức, bài vở khác ở mấy tờ báo, mà vẫn không làm ngắn được phút chờ đợi. Thỉnh thoảng, Kim pha trò một câu, hay bật lên cười hô hố. Nhưng sự huyên náo của nó chỉ làm lặng lẽ trống trải thêm những phút sau đó.

Trời tối dần bên ngoài. Rồi Kim bật tách một cái. Đèn sáng. Rồi chiếc đồng hồ quả lắc phía trên tủ trà đổ chuông. Vẫn không thấy gì. Đến tiếng chuông đồng hồ thứ ba, thứ bốn gì đó thì ba tôi nhỏm dậy, tuyên bố:

"Thôi, ngồi vào bàn ăn đi. Vậy là chúng nó không về rồi".

Hoàng ái ngại nhìn me tôi:

"Hay là để chờ thêm nửa tiếng nữa. Biết đâu các anh ấy..."

Ba tôi cương quyết đứng dậy kéo ghế:

"Thôi, ngồi vào bàn đi. Không thể chờ chúng nó được nữa" - và ông gắng pha trò - "kiến bò bụng lắm rồi. Ba chịu không nổi. Thôi me nó, con Phượng, con Quyên, Hoàng, Kim ngồi vào đi..."

Cả nhà theo chân ba tôi, lần lượt ngồi quanh bàn ăn. Nhưng vừa cầm đũa lên là me tôi khóc ngay:

"Thôi, thế là chúng nó không về thật rồi. Thằng Phan không về thì thằng Nghĩa cũng không về được đâu".

Ba tôi gắt:

"Ơ hay, cái bà nầy ăn nói hay nhỉ. Sao bà bảo chúng nó không về. Chưa bữa nay thì bữa mai chứ sao".

Thằng Kim phụ hoạ với ba tôi:

"Thì con chả bảo với me trước sao. Cuối lá thư, anh Nghĩa đã viết là các anh ấy bận đi hành quân gấp đó thôi".

Hoàng nói:

"Có thể các anh ấy về muộn. Đôi khi tới bữa ăn, các anh ấy kéo nhau về lại còn vui hơn nữa".

Bình thường, ba tôi nói gì ít khi me tôi chịu thua, nhưng không hiểu sao, sau câu gắt của ba tôi vừa rồi, bà có vẻ sợ:

"Thằng Phan nó thích chả giò lắm. Mà phải chả giò tôi làm nó mới thích".

Ba tôi cười:

"Thì ngày mai ngày mốt chúng nó về, lại làm một bữa nữa. Bộ bà tưởng không có cái vé số trúng 500 của bà, nhà nầy không làm nổi một bữa chả giò hay sao?"

Me tôi nửa khóc nửa cười:

"Thôi, con Phượng lấy cho me cái đĩa ra đây, me để phần chả của chúng nó lại. Để lát nữa chúng về cho có ăn. Còn Hoàng, thôi ăn đi con".

"Cầm đũa đi. Cầm đũa đi".

Kim sốt ruột thúc giục. Còn ba tôi thì nhìn tôi rồi nâng ly với Hoàng:

"Cụng ly với ba đi, Hoàng. Đây đúng là tiệc mừng người thi trượt đây, phải không. Kìa coi mấy cái mặt. Coi chừng làm hỏng bữa chả giò của me chúng bay đấy. Nước mắm nầy đứa nào pha đây?"

"Tác phẩm của chị Quyên đó ba. Coi nầy, chị Quyên chia nước mắm cho anh ấy đi chứ".

Hoàng vừa sớt một muỗng nước mắm vào chén, vừa cười:

"Đây là tiệc ba me cho con để lên đường đây. Mấy tháng nữa, xong ở Thủ Đức ra con sẽ xin xoay về chung một tiểu đoàn với anh Phan, anh Nghĩa".

Kim vừa nhồm nhoàm vừa ráng gân cổ la:

"Me, chị Phượng, chị Quyên, nâng chén mừng anh Hoàng đi nào".

Nhờ ba tôi, không khí quanh bàn ăn trở thành vui vẻ lại dần. Chị Phượng và me tôi để phần chả giò cho anh Phan, anh Nghĩa xong, cũng bắt đầu góp chuyện về chuyện Hoàng sắp đi Thủ Đức. Hoàng trở thành nhân vật chính của bữa ăn, và tôi, thật tôi biết ơn ba me tôi, biết ơn gia đình tôi quá sức.

Nhưng chúng tôi ăn chưa đầy nửa bữa thì có tiếng chuông reo ngoài cửa, chị Phượng đang cầm ly nước trên tay, giơ luôn cả ly nước ra ngoài:

"Kìa, me coi".

Me tôi kêu lên:

"Phan hở. Kìa chúng bay, ra mở cửa mau lên. Me tôi nói quên cả nuốt. Nói chưa dứt câu bà đã đứng dậy. Nhưng không ai cười me tôi cả, bởi tất cả đều mải nhìn ra ngoài. Sau cánh cửa, tôi thấy bóng một bộ tay-di thấp thoáng. Chị Phượng ngồi xa cửa hơn tôi. Nhưng tôi chưa kịp đứng dậy thì chị đã ra đến gần cửa. Cả bàn ăn đứng lên. Chị Phượng đã ra đến nơi. Hai cánh cửa mở tung ra một lần. Nhưng tôi chưa kịp nhìn rõ gì thì đã nghe thấy tiếng me tôi rơi phịch xuống ghế và kêu lên:

"Ồ. Không phải rồi".

Bấy giờ khoảng sân phía ngoài đã sáng rõ hơn. Một người lính cao lêu nghêu, vai mang ba lô đã bước vào sân. Người lính cao hơn chị Phượng hẳn một cái đầu, bóng anh ta in dài trên bức tường cạnh đó. Hình như người lính nói gì với chị Phượng, tôi không nghe rõ, nhưng tôi trông thấy chị gật gật. Lát sau, chị ra dấu mời người lính vào và tôi nghe chị nói: "Mời trung sĩ vào. Có ba me tôi trong nầy".

Người lính đã vào đến giữa nhà. Anh ta đứng trước bộ xa lông, hướng về phía ba me tôi chào nghiêm theo kiểu nhà binh. Tôi nhận ra người lính còn cao hơn tôi tưởng và chiếc ba lô anh ta mang trên lưng có vẻ nặng.

"Thưa cụ, chúng tôi là trung sĩ Đảo, trung đội phó trung đội của anh Phan".

Chị Phượng nói thêm:

"Thưa ba me, trung sĩ đây ở cùng đơn vị với anh Phan và anh Nghĩa.Trung sĩ mang tin hai anh về nhà".

Hoàng đứng dậy lại bên người lính:

"Mời anh ngồi, chắc anh vừa về tới thành phố. Xin anh hãy để ba lô xuống đã".

Còn ba tôi thì đon đả:

"Chúng tôi đang mong các con tôi về. Cháu ngồi đi đã. Cứ gọi tôi là bác. Người nhà cả mà. Con Quyên rót thêm bia đi con. Cháu dùng một chút bia đã nhé".

Mặc dù nghe rõ ba tôi sai rót bia nhưng không hiểu sao tôi vẫn không nhúc nhích gì được. Tôi nhìn khuôn mặt người lính: anh chừng độ 26, 27. Đen và rắn. Vừa rồi, khi anh chào nghiêm theo lối nhà binh, tôi thấy dáng dấp anh có vẻ mạnh mẽ. Nhưng lúc nầy đây, sau khi anh xưng danh và gỡ mũ ra cầm tay, tôi bỗng thấy anh hiện rõ vẻ lúng túng. Hoàng đưa tay đỡ chiếc ba lô trên lưng anh xuống nhưng anh lính quýnh tránh sang một bên, gần như không muốn cho Hoàng đụng đến nó. Chị Phượng nói:

"Chúng tôi có nghe anh Phan nhắc đến trung sĩ. Chắc trung sĩ với anh tôi thân lắm".

"Dạ".

Người lính ấp úng nói. Nhưng anh vẫn chưa chịu ngồi xuống. Rồi trong phút chốc, tôi vẫn thấy anh đưa mắt nhìn quanh nhà. Nhìn ba tôi. Nhìn tôi. Nhìn Kim. Nhìn bàn chả giò. Nhìn bức tường. Nhìn chiếc bàn, chiếc ghế như muốn tìm kiếm một dấu hiệu nào đó trên những thứ ấy. Tôi nghe thấy tiếng me tôi gấp rút:

"Thằng Phan nhà tôi có nhắn gì với trung sĩ không?"

Ba tôi cũng đã đến bên người lính, nói:

"Thì bà để cháu nó ngồi nghỉ một tí đã nào. Ngồi xuống đi cháu.

Ba tôi nắm tay người lính, kéo anh ngồi xuống ghế. Nhưng trông những ngón tay ba tôi đang bấu vào tay áo người lính, tôi thấy nổi rõ trên nền xanh một vẻ vì khác lạ, tôi bắt đầu run. Me tôi cũng có vẻ ấy. Bà không chờ đợi nổi nữa, mà bật lên hỏi:

"Mấy đứa nó có sao không cậu?"

Người lính đã ngồi xuống salon. Chị Phượng đã thay tôi mang ra một ly bia. Chiếc ba lô đã được Hoàng đỡ xuống cạnh, và bây giờ hai bàn tay người lính đang bóp chặt lấy ly nước như muốn bóp nó bể. Rồi anh cúi xuống, nói nhỏ với ba tôi:

"Thưa, thế hai bác chưa nhận được tin gì của anh Phan, anh Nghĩa cả ạ?"

Thôi rồi. Trước mắt tôi tối sầm. Tiếng người lính vang tiếp:

"Cháu vừa từ Pleiku về đây chiều nay. Cháu tưởng hậu cứ ở đây đã báo tin anh Phan, anh Nghĩa rồi, nên mới xin về chia buồn cùng hai bác".

Người lính rời ly nước, cúi xuống nhấc nhấc chiếc ba lô lên:

"Nhân thể, cháu đem về hai bác những di vật của anh Phan, anh Nghĩa".

Sau mấy tiếng của người lính, có đến hơn một phút căn phòng khách nhà tôi lặng đi, không một tiếng thở nhỏ. Rồi đột nhiên tôi nghe xoảng một tiếng như có tiếng gì rơi vỡ đâu đó. Rồi một tiếng kêu, không, không phải tiếng kêu, mà là một tiếng rú, của me tôi tru lên, cùng với tiếng bà vật mình xuống nền đá. Phút chốc, cả phòng khách hỗn loạn và tôi ngã vào tay Hoàng lúc nào tôi cũng không biết nữa.

"Vực me chúng mầy lên đi văng đi. Con Phượng, con Quyên, lấy chai dầu ra đây. Ơ hay, chúng mầy làm cái gì cả vậy. Thằng Kim, thôi thằng Kim vào tìm chai dầu cho me mầy. Đi. Mau lên. Chúng mầy đâu rồi. Chúng tôi không đi đâu hết. Chúng tôi vẫn ở đó. Ở trong phòng khách. Chị Phượng vẫn ngồi trên ghế, mắt mở lớn bất động. Ba tôi, Hoàng, và cả người lính đang vực me tôi lên đi văng, xúm xít quanh me tôi. Còn tôi, tôi đã rời tay Hoàng và dựa người vào tường, nhìn trân trân xuống cái ba lô mà người lính vừa thả bên ghế. Cái gì vậy. Di vật của anh Phan, anh Nghĩa đó sao. Anh Phan đó sao? Anh Nghĩa đó sao? Không, không. Tôi không tin. Tôi không tin đâu. Ai mà tin được.

Có tiếng rên, tiếng khóc từ phía trong đi văng. Me tôi đang tỉnh dần, rồi đột nhiên bà vùng dậy kêu lớn:

"Phan ơi là Phan. Con ơi là con. Sao con không về. Bao giờ con về".

Cả ba tôi và Hoàng phải cùng nhau giữ me tôi lại, không cho bà vùng vẫy. Me tôi vừa dẫy dụa vừa kêu tên anh Phan. Một lát, bà lả dần xuống, rồi lảm nhảm luôn miệng:

"Nó không về. Không bao giờ nó về nữa đâu. Con ơi".

Người lính đứng tần ngần phía trong một lát, rồi anh chầm chậm đi lại phía tôi:

"Tôi thật bậy. Tôi không ngờ chính tôi lại mang tin buồn nầy lại. Tôi ân hận hết sức".

Tôi nhìn người lính xa lạ mà thấy anh bỗng như thân thuộc gắn bó với gia đình tôi từ lâu. Tôi hỏi anh:

"Thưa anh, anh Phan tôi gửi được về cho chúng tôi những gì?"

Người lính lấy trong túi ra một cái lắc bạc nhỏ đưa cho tôi:

"Đây là tấm lắc ghi số quân và số máu của anh Phan".

SQ. 264279. LM O. Tấm lắc trong tay tôi lạnh buốt. Đúng rồi. Anh Phan. Anh đeo cái gì lủng lẳng ở cổ vậy? Sinh mạng của anh đấy. Cái gì mà sinh mạng, mà lại có đến hai ba tấm lận. Quyên biết tại sao hai tấm không. Trước khi tử thương, anh sẽ gỡ tấm nhỏ nầy gửi về cho me. Còn cái lớn nầy sẽ giữ lại ở cổ. Để làm gì à. Để cho người ta biết số quân, số máu của mình mà cứu. Thấy chưa. Lính là thế. Cái gì cũng số. Mỗi người trở thành một con số. Anh Phan đã nói thế và cười với tôi. Mới đó. Và đó, những con số của anh ở trong tay tôi. Hình như bắt đầu méo đi, nên giọng người lính trước mặt tôi cũng đượm vẻ dỗ dành hơn. Anh hỏi tôi:

"Xin lỗi! Cô có phải là Quyên không?"

Tôi gật đầu nhưng vẫn nhìn sững tấm lắc sinh mạng anh Phan trong tay tôi. Người lính lại tiếp:

"Anh Phan vẫn thường nói với chúng tôi chuyện nhà. Về Quyên và Phượng. Tôi có giữ một khăn tay của Quyên. Anh Phan mất hôm kia, trong một cuộc chạm súng ở gần Bu Hon. Anh mất vào lúc 5 giờ chiều. Chắc chỉ nay mai nhà sẽ được tin báo. Quyên ngồi xuống đi".

Tôi ngoan ngoãn ngồi xuống, theo lời người lính. Tôi hỏi anh:

"Thế còn anh Nghĩa tôi. Xin anh..."

"Cho đến nay chúng tôi chưa được tin tức chính xác của anh Nghĩa. Chỉ có tin báo là anh ấy mất tích. Lúc anh Phan mất, anh Nghĩa có ở bên tôi. Anh lồng lên xách súng lao đi rồi thôi. Có thể anh Nghĩa bị bọn chúng bắt mất. Trận nầy chúng có đến hơn hai tiểu đoàn".

Tiếng khóc của me tôi ray rứt ở ngay bên tai tôi. Cả ba me tôi, Hoàng, chị Phượng và Kim đều đã quây quanh người lính từ bao giờ. Ba tôi hỏi:

"Nó có kịp nhắn gì không cháu?"

"Dạ có. Anh ấy có nhờ cháu ghé lại nhà ở đường Yên Đổ thăm chị ấy. Thật khổ. Chị Hạnh cũng đang có mang. Vừa rồi, nghe tin, chị ấy cũng đã ngất đi ngay giữa nhà. Anh Phan có bảo cháu nói chị ấy xuống săn sóc bác gái".

Tiếng khóc me tôi vẫn không ngớt. Hình như me tôi không nghe thấy gì nữa. Chị Phượng nhìn tôi, rồi nhìn ba tôi. Chúng tôi không hiểu người lính nói gì. Nhưng cũng không ai đủ sức hỏi lại.

"Tao bị rồi. Anh ấy la lớn vậy. Rồi anh ấy vùng lên, không trú không núp gì hết, cứ thế nã cạc bin vào mấy gốc cây phía trước. Tôi với anh Nghĩa chạy đến. Nhưng không kịp nữa. Anh ấy bị đến 7 phát. Vào ngực. Vào đầu. Vào cổ. Vào bụng. Vào..."

Thôi! Tôi muốn la lên như vậy, nhưng tiếng không bật khỏi cuống họng. Một tiếng của mẹ tôi bật lớn lên, át hẳn tiếng nói người lính, làm anh phải ngừng nói nhìn tôi, hai mắt lúng túng như người vừa làm một tội ác. Ngồi lại một lát, rồi có lẽ thấy không nên kể thêm gì với gia đình tôi trong lúc nầy nữa, anh đứng dậy xin phép ra về, ba tôi hỏi thăm về việc lĩnh xác anh Phan. Người lính nói với ba tôi:

"Thưa bác, ngày mai, trình diện và liên lạc với hậu cứ xong, con sẽ xin trở lại hầu bác để lo cho anh Phan".

Ba tôi hỏi anh ở đâu và ngỏ ý mời anh lại ở với gia đình tôi trong những ngày nghỉ phép nhưng người lính từ chối. Khi cùng Hoàng và chị Phượng đưa anh ra cổng, tôi nghĩ đến hai tút thuốc Lucky và xấp khăn tay tôi vừa cất cho anh Phan, anh Nghĩa. Tôi nói với anh:

"Xin anh thế nào cũng trở lại với chúng tôi sớm. Bây giờ anh là anh Phan, anh Nghĩa của gia đình chúng tôi".

Người lính cảm động lắm. Anh không dám nhìn tôi nhưng anh nói:

"Quyên và Phượng yên tâm. Thế nào tôi cũng phải trở lại".

Người lính đi rồi, quang cảnh bữa chả giò dang dở trong gia đình tôi càng thê thảm thêm. Me tôi vẫn chưa tỉnh. Bà ôm chặt lấy Hoàng luôn miệng kêu: "Phan, Phan. Con của me". Rồi kéo Hoàng đến bàn ăn, bày phần chả giò bà để phần anh Phan, anh Nghĩa nhất định bắt Hoàng phải ăn, trong khi chúng tôi nhìn nhau không cười được mà cũng không còn khóc được nữa.

Một lát, Hoàng dìu mẹ tôi vào phòng trong. Ba tôi kêu chị người làm lên dọn bàn ăn, rồi trong khi ông ngồi lặng trên ghế thì tôi nhìn cái ba lô của anh Phan do người lính để lại. Tôi muốn giở cái ba lô ấy ra, muốn trông thấy đồ đạc của anh Phan, nhưng tôi không dám sợ làm me tôi điên thêm. Có lẽ biết ý tôi, chị Phượng bảo tôi: Quyên để đấy chị. Rồi chị xách ba lô lên gác. Chiếc ba lô nặng lắm, tôi biết, nhưng chị mang như không. Tôi không tưởng tượng nổi có lúc chị có thể mạnh đến như thế. Một lát, lẫn trong tiếng lảm nhảm của me tôi, có tiếng khóc của chị Phượng trên gác vọng xuống. Đã đến lúc chị không nín nổi nữa. Có lẽ chị đang gục đầu vào những đồ đạc do anh Phan tôi để lại. Ba tôi ngồi cứng như một bức tượng trong ghế bành. Mắt ông trừng trừng nhìn thẳng nhưng tôi biết ông không trông thấy gì. Tôi, tôi cũng không còn sức để nín hơn được nữa. Tôi muốn nổ tung. Muốn lăn vào lòng ba tôi. Muốn lay gọi ông. Nhưng tôi chưa kịp làm gì thì phía ngoài bỗng có tiếng đập cửa. Tiếng đập cửa liên hồi. Hối hả. Cấp bách. Me tôi đầu tóc rũ rượi từ phòng trong chạy ra, vừa chạy vừa la: Thằng Phan về. Thằng Phan về. Để tôi mở cho nó. Để tôi mở cho nó. Chúng tôi vừa kịp đứng lên thì cửa đã mở tung. Me tôi ôm chầm lấy cái bóng vừa từ ngoài bóng tối ngã vào. Bà vừa ôm, vừa kêu: Trời ơi. Con của me. Tóc gáy tôi dựng ngược. Cái bóng vừa ngã trong tay me tôi trắng toát. Anh Phan đó sao. Anh Phan về thật sao.

Nhưng không. Không phải anh Phan. Cái bóng đó là một cô gái, một người đàn bà, một người đàn bà trắng toát, mềm nhũn. Một người chưa bao giờ chúng tôi trông thấy. Hình như cô ta cũng còn đang xỉu trong tay me tôi. Tiếng ồn ào dưới nầy đã làm cho chị Phượng cùng chị người làm chạy ra. Dìu được cô gái vào giữa nhà rồi, me tôi vẫn còn ôm chặt lấy chị, nhìn chị trân trân. Rồi mặt me tôi thay đổi dần. Hình như cô gái trong tay đã làm me tôi ra khỏi cơn mê sảng. Bà nhìn chúng tôi, nhìn ba tôi, nhìn mọi người. Ngơ ngác, cô gái trong tay me tôi kêu những tiếng nho nhỏ, đứt quãng:

"Anh Phan. Anh Phan. Anh..."

Sau khi khóc được ít phút trên gác, chị Phượng đã có vẻ tỉnh táo. Chị nhìn cô gái, rồi nói với ba tôi:

"Thưa ba. Đây là chị Hạnh ở đường Yên Đổ mà vừa rồi anh Đảo nói. Chị ấy là người yêu anh Phan. Chị ấy đang có mang. Trong ba lô anh Phan có một lá thư viết tiếp cho con Quyên, nói về việc chị ấy".

Câu chuyện có vẻ khó hiểu, nhưng chúng tôi hiểu ngay. Phải rồi. Lá thư của anh Phan, lá thư dang dở. Chị Phượng, me tôi đỡ Hạnh lên đi văng. Me tôi gạt vạt áo dài của chị sang một bên, đặt tay lên bụng chị. Bụng Hạnh đã nhô lên chút ít. Me tôi gục đầu vào bụng chị vừa kêu vừa khóc: "Phan ơi là Phan. Con ơi là con. Trời ơi là trời". "Hoàng". Tôi kêu và bấu chặt lấy tay Hoàng. Tôi bấu chặt lắm. Ba tôi thở dài:

"Nó sắp tỉnh rồi đấy. Me mầy phải để cho nó nghỉ với chứ".

Rồi ông quay mặt đi. Trên khuôn mặt ba tôi, đang quay ra bóng tối ngoài cửa sổ, tôi thấy lấp lánh trên sống mũi ông hai giọt nước mắt đang lăn xuống chậm chạp.

*

Tiếng đại bác. Tiếng đại bác. Tôi đang nghe. Tôi đang nghe đây. Gửi gì không. Có. Tôi có gửi. Hãy gọi anh Phan về đêm nay cho me tôi thấy. Hãy mang anh Nghĩa về đêm nay cho chị Phượng tôi thấy. Hãy mang tất cả về đêm nay cho tôi thấy. Cho ba tôi thấy. Cho em Kim tôi thấy. Cho chị Hạnh thấy. Tiếng đại bác. Tiếng đại bác. Gửi gì không. Có. Tôi có gửi. Cho tôi gửi ra những bông hồng. Những khăn tay, những bữa ăn, những gói thuốc lá. Hãy nhắn với họ. Với Đông, với Hoàng, với Mẫn, với Nghĩa, với tất cả. Tôi gửi lời thăm. Thăm tất cả. Tiếng đại bác. Tiếng đại bác. Còn gửi gì nữa không. Còn. Tôi còn gửi. Ngủ đi Ba. Ngủ đi me. Ngủ đi chị. Ngủ đi em. Ngủ đi tiếng đại bác. Đại bác. Ngủ đi. Ngủ đi. Tôi còn gửi. Để cho tôi gửi. Gửi cả tương lai tổ quốc ta theo đó.

Nguồn: Sách xuất bản lần đầu tại Sài Gòn năm 1966, Sống Mới tái bản tại Hoa Kỳ.

Nhã Ca - Đêm nghe tiếng đại bác ( 2 )

Nhã Ca
Đêm nghe tiếng đại bác

IV.

Tan buổi chiếu bóng, ra tới cửa tôi cằn nhằn với Xuyến:

“Mải coi trời tối thế nầy, về nhà ông bô bố chết”.

Xuyến cười:

“Tao có xin phép kỹ rồi mà, phim nầy dài gần ba tiếng đồng hồ. Thôi mình chia tay đi”.

Xuyến vẫy một chiếc xích lô đạp leo lên. Tôi cũng định đón xe. Lúc nầy tôi mới chợt nhớ ra Hoàng nhờ mua mấy cuốn sách và me tôi dặn mua băng vệ sinh. Tôi đi bộ lững thững dọc theo đường Lê Lợi, vào hiệu thuốc mua băng cho mẹ tôi và ghé tiệm sách mua cho Hoàng cuốn sách chàng dặn. Trời tối xuống rất mau, đèn đường bật đỏ. Tôi đứng ở góc đường đợi xe. Vừa lúc đó tôi nghe tiếng ồn ào trong một tiệm nước rồi tiếng xô đẩy. Tôi quay người nhìn vào. Bên trong một bọn thanh niên ùa nhau chạy ra, và nơi một bàn cạnh góc tối một thanh niên gục xuống bàn.

“Đánh nhau, tụi nó chạy hết rồi”.

“Tụi nó giật tiền của ông lính kia kìa, ông ta say”.

Tôi nghĩ tới Đông, nhưng người thanh niên đang gục xuống bàn kia trông dáng nhỏ hơn. Một người khác nói:

“Lính thuỷ đó. Trời, lính thuỷ mà đi một mình tụi du đãng ưa ăn hiếp lắm”.

Tôi giật mình, trông gã thanh niên có vẻ giống thằng Đại, con chị Tham tôi quá. Tôi tò mò đi vào trong và cúi xuống nhìn. Thình lình người thanh niên ngẩng dậy. Tôi lùi lại hai bước và đứng sững. Mặt người lính đỏ nhừ, hẳn đã say lắm rồi. Đã lỡ tôi không thể tháo lui mà chạy, vả lại, người trong quán sẽ nghĩ sao về tôi. Tôi đang phân vân thì giọng hắn lè nhè:

“Chị Duyên, chị trả tiền rồi đem em về đi, tụi nó giựt hết tiền của em rồi”.

Tôi bỗng thoáng có một ý nghĩ. Tôi sẽ đóng vai chị Duyên để đưa người lính về. Tôi cố mỉm cười, nhưng người lính đã không còn nhận ra gì nữa. Hắn gục gặc đầu, nói lảm nhảm: Chị Duyên, thằng Thường nó chết rồi đó. Bị đạn lủng ngực mà nó cười. Nó cười bên em đấy. Tụi bắn lén. Thường, tao đi báo thù cho mầy nghe, tao đi báo thù cho mầy đây. Hắn hét to lật đổ chiếc bàn, lảo đảo, rồi lại ngã xuống. Tôi tính tiền cho nhà hàng rồi nhờ người ta phụ lực đem hắn ra xe. Tôi nói với mọi người tôi là chị họ hắn. Nhờ cơn say, hắn xưng tên là Mẫn. Tôi để Mẫn ngồi lên xe tắc xi. Lúc nầy tôi mới thấy mình dại dột hết sức, dám nhận một người đàn ông không quen biết, một người say để đưa về nhà. Nhưng về nhà Mẫn ở đâu bây giờ. Tôi móc túi áo của Mẫn, thấy cái thẻ và biết được hắn ở trại ngay bờ sông Bạch Đằng, nơi đồn trú của Hải Quân. Tôi định đưa hắn ra đó và nhờ người ta giao hộ. Nhìn khuôn mặt còn trẻ của Mẫn đỏ ké vì rượu. Tôi bỗng thấy thương hại Mẫn lạ lùng. Nếu ba mẹ tôi và Hoàng biết được việc làm liều lĩnh của tôi, chắc cũng không trách mắng tôi được. Tôi bảo ông tài cho xe chạy ra phía bờ sông. Gió mát thổi vào mặt tôi ran rát. Mẫn hồi nãy đã nôn mấy lần trong quán, nay lại được tôi đắp cho cái áo len của tôi, hắn có vẻ tỉnh hơn. Tôi hỏi dò:

“Nhà Mẫn ở đâu?”

“Ở Trương Minh Giảng”.

“Mẫn thích về nhà hay tới trại?”

Tuy trong cơn say, nhưng Mẫn cũng nhận kịp ra câu nói của tôi, hắn đưa tay:

“Khoan, đưa tôi về nhà, tới trại là bị giam à. Kỷ luật nghiêm lắm. Chị Duyên, chị đi đâu đó?”

Hắn mở lớn mắt nhìn tôi, và hình như chợt nhận ra không phải là chị Duyên của hắn. Nhưng lỡ trớn, hắn im lặng ngoẻo đầu ra nệm xe nằm im luôn. Thấy dáng điệu của Mẫn hiền lành, tôi yên tâm hơn. Lỡ Mẫn say rồi phá phách, chắc tôi cũng mệt lắm. Tôi thở phào như trút hết gánh nặng và bảo tài xế lái xe về phía Trương Minh Giảng. Tôi hỏi địa chỉ, hắn nói thật nhỏ, nhưng tôi cũng đủ nghe. Khi đưa Mẫn về tới nhà thì chị Duyên của Mẫn đã chạy ra đỡ Mẫn vào nhà và cám ơn tôi rối rít. Mẫn chỉ có hai chị em, mồ côi từ nhỏ. Chị Duyên đặt Mẫn lên giường, tháo giầy và giã nước than với chanh cho Mẫn uống. Tôi định từ chối thì chị Duyên giữ lại:

“Cô ngồi chơi đã, nó tỉnh bây giờ đó”.

Đúng như lời chị Duyên nói, một lát sau Mẫn tỉnh dần và nhận ra chị Duyên và tôi, nhưng vẫn còn lờ mờ. Mẫn gào thét tên Thường và đòi vác súng đi bắn đứa bắn lén. Rồi Mẫn khóc mùi mẫn, khóc và gọi bạn, và đòi giết người. Tôi đoán Mẫn đang có chuyện khổ tâm. Đứng nhìn cái chết của một người bạn thân mà không làm gì được. Anh Phan thường nói: Ra trận thấy bạn mình ngã, mình uất lắm. Tâm trạng của Mẫn chắc cũng thế, Mẫn khóc và đòi tôi cùng chị Duyên ngồi xuống giường cho Mẫn kể về cái chết của Thường. Thường gọi: Mẫn ơi, nó bắn lén tao rồi. Mẫn cầm súng chạy tới. Thường nằm vật xuống. Tôi lia một tràng đạn vào bụi rậm, vẫn yên tịnh như không. Chị Duyên ôm mặt nấc lên. Thường là người tình của chị. Còn Mẫn thì ngạc nhiên hỏi: Có phải cô đưa tôi về nhà không. Tôi gật đầu. Mẫn nằm yên, mấy giọt nước mắt lăn dài trên má, chảy dài xuống gối. Chị Duyên hỏi địa chỉ, tôi nói và chị ghi. Để Mẫn nó tới cảm ơn cô. Nó thật bậy.

Tôi về nhà đã hơn chín giờ. Ba me tôi đang hốt hoảng, còn Hoàng thì đứng tuốt đầu ngõ.

“Em đi đâu mà cả nhà lo quá vậy?”

Hoàng choàng tay qua vai tôi. Tôi đi vào nhà và kể chuyện lại cuộc gặp gỡ hết sức ly kỳ. Ba tôi thở ra nhẹ nhõm:

“Thật là liều lĩnh, con không sợ nguy hiểm sao?”

“Con cũng không biết nữa”.

Hoàng yên tâm ra về. Ba tôi nói có thư của anh Phan gửi về. Tôi đọc và thất vọng vì lá thư đó gửi đã lâu bị kẹt ở quân bưu vì đường sá gián đoạn. Trong thư anh Phan nhắc tới anh Nghĩa một đoạn ngắn. Chị Phượng giữ lấy lá thư và đọc hoài. Còn ba me tôi, thì cứ than thở và lo sợ cho sự liều lĩnh của tôi. Nhưng ba tôi cũng rất hài lòng về tâm tính của tôi nữa.

Khi lên gác, chị Phượng kể chuyện cho tôi hay Đông có lại chơi. Ngày mai Đông trở lại đơn vị. Tôi hỏi Đông có quen anh Nghĩa không thì chị trả lời không. Tôi hỏi:

“Chị gặp anh Đông có gì lạ?”

Chị Phượng nói:

“Hắn rất dễ thương và rất lính”.

Tôi nói:

“Rồi ai cũng sẽ lính hết”.

Tôi nghĩ tới Hoàng, tới Mẫn, tới Đông, tới Thường. Thường là tình nhân của chị Duyên. Tôi cũng có chị Phượng, tôi cầm chặt tay chị rồi không biết nói gì. Chị Phượng gọi:

“Quyên!”

“Gì vậy, chị”.

Tôi với tay tắt điện, chị Phượng lăn sát vào người tôi thì thầm:

“Em có nghe tiếng gì không?”

“Tiếng đại bác”.

“Không chị nghe như có tiếng gì lạ lắm, cả tiếng kêu, tiếng gió, tiếng chân chạy nữa”.

“Chị tưởng tượng ra đấy thôi. Em chỉ nghe thấy tiếng đại bác”.

“Hồi chiều em gặp người lính lạ lùng quá. Đâu phải hắn chỉ có người bạn tên Thường chết mà hắn khóc”.

“Thường là người tình của chị Duyên, chị của Mẫn”.

Tôi thấy chị Phượng nhích người ra một chút và yên lặng. Tôi nghĩ là chị đang nằm yên hoặc đang khóc.

Hôm nay là thứ Sáu, còn hai ngày nữa Chủ nhật. Không có bữa ăn mà chúng tôi không nói tới buổi chả giò sắp tới. Linh tính ai cũng hy vọng anh Phan và anh Nghĩa về. Ba tôi nhắc tôi mời Hoàng nữa. Me tôi nói: “Hai ông rể. Còn con dâu của tôi? Bộ không đứa nào đi bảo con Hoà hả”. Tôi nghĩ lúc nầy ba me tôi cũng còn nghe tiếng đại bác. Thằng Kim thì chắc chắn đã ngủ từ khuya rồi. Tôi nhớ lại nụ hôn của Hoàng khi tôi đưa chàng ra ngõ: “Bé hư lắm toàn làm chuyện dại dột”. Tôi thì tôi thấy mình lớn hẳn rồi, lớn thật nhanh, lớn không kịp nhận ra nữa.

“Súng về phía nầy... Chị Phượng cầm tay tôi chỉ ra phía cửa sổ, rồi lại nói: Phía nầy, phía nầy… Không, hình như…”

Tôi nói:

“Thôi đi ngủ chị”.

Đêm rộng mênh mông, đêm mang tiếng súng từ xa vọng về. Tiếng đại bác ban đầu thật mơ hồ, rồi dần dần vọng lại. Đó, nó tới gần, tới thật gần, ì ầm, ì ầm, vừa êm tai, vừa nhẹ nhàng như điệu ru đều đặn. Đó, nó tới thật gần rồi nó lại đi. Nó ở phương Bắc? Không, ở phương Nam, phương Đông? Phương Tây? Nó rít lên rồi đi êm còn nhanh hơn sấm, nhạy hơn sét. Nó mất vào đêm tối. Từng tiếng, từng tiếng. Tôi mơ hồ thuộc lòng từng tiếng, đoán đúng mỗi tiếng nổ, tiếng rơi. Và nó lại gần mãi, gần mãi…


V.

Trong phòng khách lúc nầy chỉ có tôi và Mẫn, chị Phượng đi chợ từ sớm. Thằng Kim thì vác vélo đi dự một cuộc hội thảo của sinh viên. Chỉ còn mình tôi ở nhà. Mẫn đến lúc tôi đang thêu một cái áo gối cho anh Phan. Bây giờ Mẫn ngồi đối diện với tôi. Chị vú vừa đem lên hai ly nước quít vắt. Thứ quít đỏ, bóng vàng, lấp lánh quanh mấy cục nước đá, trông thật ngon lành. Mẫn ngồi, đặt tay lên đùi, mắt ngây thơ đến độ tôi không ngờ đó là một người lính, một người lính đã cầm súng, đã căm thù, phẫn uất. Mẫn vẫn mặt một bộ đồ hải quân trắng, chạy ở cổ những viền xanh. Dáng điệu Mẫn hết sức ngượng ngùng. Hình ảnh một anh lính thuỷ say rượu, khóc lóc đêm nào thật xa lạ với Mẫn. Mẫn nhìn tôi, thỉnh thoảng lại nhoẻn miệng cười. Chúng tôi hỏi thăm nhau vớ vẩn, tôi cố tránh nhắc lại chuyện gặp Mẫn say rượu. Nhưng trong câu chuyện Mẫn vẫn nhắc, rồi ngượng ngập, Mẫn nói:

“Chắc chị cười tôi lắm”.

Tôi hỏi:

“Trông Mẫn chắc không lớn hơn tôi đâu phải không?”

“Tôi mười chín, còn chị?”

“Tôi cũng vậy”.

Mẫn lại cười, hàm răng trắng bóng:

“Con trai mà bằng tuổi con gái tức là thua rồi đó”.

Tôi cũng đùa:

“Như vậy, Mẫn là em tôi nghe”.

“Thì tôi vẫn gọi chị là chị từ nãy giờ mà”.

Qua câu chuyện, tôi biết Mẫn mồ côi cha mẹ từ nhỏ, sống với chị. Chị Duyên làm ở một sở tư. Chưa có chồng, người tình là Thường. Mẫn vào hải quân năm 18. Mẫn nói: Em là lính tình nguyện mà. Tôi hỏi lý do nào khiến Mẫn vào lính, thì Mẫn nói vì buồn, nhưng sau nầy mới thấy việc đi lính của mình là cần thiết. Mẫn tâm sự với tôi Mẫn chưa có người yêu. Dạo trước có một cô hàng xóm thì cô ta chê Mẫn còn trẻ quá. Mẫn đi lính tưởng khi về cô ta sẽ thấy mình lớn, nhưng khi học xong, về nhà thì cô hàng xóm đã lấy chồng. Mẫn cũng đau khổ một thời gian, làm thơ đăng báo một dạo, nhưng tuổi trẻ dễ quên, bây giờ Mẫn chỉ mê có biển. Mẫn ngỏ ý muốn được mời tôi đi uống nước và tạ ơn bằng một chầu ciné. Tôi từ chối thì Mẫn nói: Chắc chị sợ anh ấy trông thấy hiểu lầm phải không? Để tôi giới thiệu chị với tụi bạn của tôi, lâu lâu chị cho chúng tôi tới thăm chị nghe. Tôi gật đầu. Mẫn bưng ly nước quýt vắt uống cạn. Ly tôi còn nguyên, tôi xẻ bớt cho Mẫn và nhìn Mẫn trìu mến. Thật vậy, Mẫn rất thành thật và hiểu biết. Tôi hỏi về trại lính của Mẫn. Mẫn kể lại những đêm theo bạn bè đi uống nước say về ôm nhau khóc, khi nghe một người bạn mất đi buồn lắm. Tôi hỏi Mẫn có hay đi đánh trận không. Mẫn nói có đi thường. Mẫn theo đạo Thiên Chúa, rất tin ở Đức Mẹ. Lúc nào Mẫn cũng đeo một sợi dây chuyền mang Thánh giá nhỏ. Mẫn nói của bà mẹ để lại. Trước khi bà chết, dặn chị Duyên đeo luôn vào cổ cho Mẫn lúc ấy Mẫn có 4 tuổi. Mẫn hỏi tôi theo đạo gì. Tôi nói đạo Phật. Mẫn nói: Hôm nào tôi theo chị đi chùa, rồi chị đi nhà thờ với tôi nghe. Tôi nói tôi không biết đọc kinh. Mẫn nói Mẫn cũng không biết lạy. Nói chuyện với Mẫn thật tức cười. Mẫn nói nhiều chuyện lắm, toàn là chuyện lính. Tôi nghĩ có me tôi ở nhà chắc bà sẽ ngồi nghe thích thú lắm. Me tôi cứ nghe ai kể chuyện lính tráng, me tôi lại hình dung ra cuộc sống của anh Phan và tưởng tượng rồi nhớ. Nhiều người bạn của ba tôi tới nói chuyện, kể về con họ thời kỳ tập dượt: Me tôi ngẩn ngơ. Ừ, thằng Phan con tôi cũng thế. Thỉnh thoảng me tôi lại nói về anh Phan với chúng tôi và hỏi những câu mà chị em tôi không biết trả lời sao. Chẳng hạn như: Hôm nay mưa, chẳng hiểu thằng Phan có mang áo mưa đi không? Hoặc: Không biết nó có đem theo kim chỉ để kết khuy nút? Hay: anh Phan chúng mầy có mập bằng cậu Lương con ông Hải không? Anh Phan mầy ăn ít nhất cũng tới bốn bát cơm, tập dượt mệt lắm. Thư nào của anh Phan về, me tôi cũng hỏi: Nó hỏi thăm mẹ bao nhiêu dòng? Nó có hỏi me gầy béo không? Vì thư tới là chúng tôi tranh nhau đọc trước để mặc me tôi đứng lóng ngóng mà sốt ruột. Tôi nói với Mẫn: Hôm nào Mẫn tới nói chuyện cho me tôi nghe, me tôi thích nghe chuyện lính lắm. Tôi cũng có người anh sĩ quan. Mẫn e ngại: Bà gặp tôi chắc không ưa đâu. “Không, me tôi dễ tính lắm. Bây giờ me tôi gặp ai mang quân phục cũng nhìn ra anh Phan tôi hết. Mẫn nghe tôi nói câu đó có vẻ buồn, chắc Mẫn đang nghĩ tới cảnh mồ côi của mình. Tôi nói lơ chuyện khác. Mẫn nói chuyện không dứt, hơn một tiếng đồng hồ sau mới về.

Mẫn đi rồi, tôi trở lên gác ngồi viết thư cho anh Phan. Tôi nói cả nhà mong anh lắm, nhất là me, me hoảng quá rồi. Tôi viết ngắn, bởi ngoài sự nhớ mong và tin tức gia đình ra, tôi chẳng còn gì để nói với anh nữa. Tôi dán phong bì xong thì me tôi và chị Phượng về. Thấy hai cái ly còn bầy trên bàn me tôi hỏi:

“Hoàng tới hả?”

Tôi trả lời:

“Không, người lính hải quân mà con kể với me đó”.

Me tôi à một tiếng rồi nhắc:

“Con gặp Hoàng nhớ nhắc lại ăn cơm nghe, buổi chiều đó”.

Tôi mới sực nhớ ra mấy hôm nay vì nhiều chuyện quá, tôi cũng quên không báo tin bữa chả giò của me tôi đãi cho anh Hoàng biết. Tôi xin phép đi ngay bây giờ, tôi nói đi rồi còn bỏ thư cho anh Phan. Me tôi nói: “Không biết ngày mai nó có về không”. Bà nói xong mắt đỏ hoe. Chị Phượng nói: “Me thật là kỳ có vậy cũng khóc”. Me tôi đưa tay quệt ngang. Chị Phượng cúi xuống giỏ đồ lấy một bọc nhỏ để lên bàn, tôi hỏi cái gì, chị đáp: “Mua cho anh Phan, hai túi thuốc lá Lucky”. Nhân tiện, tôi đem cất vào tủ và lấy xe vélo ra cổng. Me tôi còn dặn với: “Nhớ nói với nó, mai tới ăn nghe”.

Tôi ghé qua Xuyến nói chuyện một lát trước khi tới Hoàng. Xuyến sụt sùi kể cho tôi nghe về việc bặt tin người yêu. Anh ấy đóng ở Pleiku. Và Xuyến hỏi thăm về Hoàng. Mầy sướng quá. Hoàng của mầy chưa phải đi. Tôi nói cũng sắp. Xuyến hỏi: Mầy không buồn à? Tôi cười. Buồn hay không cũng vậy. Xuyến hỏi tôi đã ôn hết bài cho năm học tới chưa. Tôi trả lời ầm ừ, thật ra mấy hôm nay tôi đã chểnh mảng quá. Hoàng ngạc nhiên và trách tôi hoài: Em đã bớt ham học rồi đó. Gắng cho đậu năm nay, để còn tính chuyện chúng mình nữa chứ. Tôi nép vào vai Hoàng, cầm chặt tay Hoàng mà không trả lời được. Xuyến hỏi tôi đã coi hết tập Thiên long bát bộ 4 chưa, cho Xuyến mượn. Tôi bảo chưa. Mấy hôm nay tôi chưa cầm lại nó. Xuyến rót nước mời tôi, kéo tôi lên phòng chỉ cho tôi coi món quà của người yêu gửi về tháng trước. Một cây thánh giá đan bằng tre thật nhỏ. Xuyến phàn nàn đáng lẽ anh ấy phải giữ cái nầy để cầu may, anh ấy là người Công giáo.

Tôi kể chuyện Mẫn cho Xuyến nghe. Xuyến ngạc nhiên và chịu quá: Mầy thật liều, đôi lúc như điên. Tôi nghĩ tôi không điên một chút nào hết và tôi cũng không thể điên lúc nầy. Tôi mỉm cười với Xuyến: Nhảm quá, thôi tao đi. Tôi lên xe, tới nhà Hoàng. Hoàng đi vắng, me Hoàng nói: Nó đi hỏi vụ đi Thủ Đức. Nó hỏng rồi con ạ. Người ta vừa đọc tên nó trên đài phát thanh. Tôi lặng người đi một lát. Mẹ Hoàng nói: Con vào trong nầy với bác một tí. Tôi đi theo bà vào trong phòng khách, vào phòng ngủ, bà đưa cho tôi xem một tấm ảnh đã chụp với hai đứa con trai, anh Nguyên và Hoàng. Anh Nguyên bây giờ đang ở Bắc, cũng có thể đã vào Nam. Bà nghẹn ngào: Bác không tin dị đoan, nhưng chụp ảnh chung ba người xấu lắm. Tôi biết mẹ Hoàng đang nghĩ gì và nước mắt cũng muốn chảy. Tôi vội vàng nói:

“Thôi xin pháp bác cháu về. Nhờ bác nhắn hộ anh Hoàng ngày mai, buổi chiều sang con ăn cơm. Ba me con dặn con sang mời anh ấy”.

Chiếc xe bỗng như nặng nề hơn, máy nó nổ hết sức uể oải. Chụp ảnh ba người xui lắm, tôi, chị Phượng và anh Phan cũng có chụp chung một tấm. Đừng nghĩ tầm bậy. Quyên. Anh Phan sẽ về. Và Hoàng nữa, chàng đang nghĩ gì, đang vui buồn những gì. Tôi mong gặp Hoàng, để tôi nhìn chàng và tôi sẽ hiểu, chắc chắn vậy.

Một hồi còi bỗng vang lên đâu đó. Tôi lính quýnh phanh xe cho sát vào lề đường, hai thanh sắt chặn một khúc đường rầy đã buông xuống. Mãi nghĩ vơ vẩn suýt nữa tôi đâm sầm vào. Tiếng còi xe lửa tới thật mau rồi một con tàu ầm ầm chạy qua. Tôi nhìn lên những toa tàu chật những người lính trẻ. “Chà cô nhỏ xinh quá. Lên đây đi với anh em. Tuýt với anh em ơi”. Rồi Hoàng cũng như họ, cũng như thế đó. Tôi nhìn theo mãi những khuôn mặt đó và nước mắt bỗng chảy ra giàn giụa...

Khi tôi trở về, thì ba tôi đà ngồi ở sa lông và cắm cúi đọc báo. Tôi định lên gác thì ba tôi gọi lại:

“Quyên, con đi đâu về đó?”

“Dạ con tới nhà anh Hoàng mời anh ấy mai sang ăn cơm”.

Chỉ nói được tới đó, tôi lại nghẹn ngào. Ba tôi hỏi:

“Quyên, có chuyện gì vậy?”

Tôi cố thu hết can đảm để không khóc:

“Đài phát thanh họ đã kêu anh ấy nhập ngũ”.

Ba tôi cười, nhưng tôi thấy nụ cười đầy nhẫn nhịn:

“À vậy hả? Thì có gì đâu mà buồn nào”.

Tôi nghĩ tới anh Phan, tới anh Nghĩa, tới Mẫn, tới những người lính đã ngồi trên một toa tàu, và hổ thẹn. Tôi thật ích kỷ. Anh Hoàng, Quyên ích kỷ quá. Tôi nhìn ba tôi và thấy vẫn nghèn nghẹn ở trong cổ họng. Me tôi đi tới đứng đằng sau ba tôi:

“Liệu ngày mai Chúa nhật thằng Phan có về?”

Ba tôi nhìn me tôi, ánh mắt chia sẻ thương mến.

Ông nói, giọng cố hết sức vui vẻ:

“Cái bữa tiệc chả giò của bà phải không? Bà cứ làm ngon đi, cha con tôi sẽ “hâm mộ” hết”.

Me tôi xuống bếp, tôi bỏ lên gác. Còn lại ba tôi ngồi một mình, tôi có cảm tưởng ba tôi đang cúi xuống trang báo mà không đọc một dòng nào hết. Thằng Kim đã chực sẵn trên gác, thấy tôi nó cười hì hì:

“Chị đây rồi. Cho em tiền, chiều đi xem đá banh đi”.

Giọng nói nó đã vỡ hẳn và đang lớn dần đây. Tôi nghĩ nó sẽ kế tiếp Hoàng lên đường, và sau đó... Tôi mở cái ví lấy ra tờ hai chục. Kim chê ít quá nhưng cũng cầm. Để chốc nữa em xin chị Phượng, chị hết tiền rồi phải không. Các chị đừng mách mẹ em bị mắng nghe. Tôi nhớ tới khuôn mặt Mẫn, không lớn hơn thằng Kim bao nhiêu mà đã biết cầm súng. Quyên tuổi trẻ. Tuổi trẻ của máu me. Tuổi trẻ của bom đạn. Tuổi trẻ của tan nát.

Ô hay. Tôi có đáng lãng mạn quá không nhỉ.


VI.

Kim xin phép đi từ bữa trưa và dặn không ăn cơm tối.

Nhưng bữa cơm tối đã xong, tới hơn chín giờ vẫn chưa thấy Kim về nhà. Me tôi là người xướng lên đầu tiên về sự về trễ của Kim, bà lo lắng ra mặt:

“Hừ, thằng Kim đi biệt chưa về, dạo nầy giới nghiêm sớm đó. Đứa nào đi kiếm nó đi”.

Ba tôi nhìn đồng hồ nói:

“Chắc nó bận việc họp hành gì ở trên công tác hè đó mà, dạo nầy nó không ham chơi đâu”.

Me tôi gắt:

“Nhưng đi đêm hoài tôi lo lắm, nhỡ ra…”

Ba tôi cười:

“Nhỡ ra có cô gái nào bắt cóc mất thì phiền”.

“Hứ, ông tưởng nó giống tính ông chắc, con trai tôi, nó giống tôi. Phượng và Quyên đèo nhau lên trụ sở tìm nó xem”.

Tôi bàn:

“Con ngại quá, con gái mà đi đêm hôm, tụi cao bồi nó ưa doạ lắm”.

Me tôi nói lẫy:

“Thế các cô xin đi ciné thì tối mấy cũng không sợ, đi tìm em một chút cũng lười. Thôi để tôi đi”.

Chị Phượng nãy giờ ngồi im nghe cuộc bàn cãi, lúc nầy mới lên tiếng:

“Mười hai giờ mới giới nghiêm mà me. Bây giờ mới có gần mười giờ”.

Chị Phượng vừa nói tới đó thì đã có tiếng xe gắn máy của Kim nổ ngoài ngõ. Me tôi chạy ra mở cửa, một lát cả tiếng Kim và me tôi nói với nhau. Ba tôi thấy mặt Kim đã nói lớn:

“Kim, còn đi đâu mà để me con lo mất ăn mất ngủ vậy”.

Kim đưa tay vuốt mồ hôi trán, cười:

“Do mấy hôm nay ở chương trình con bận quá, có lẽ tuần tới chúng con phải đi về miền Trung”.

Me tôi kéo tuột Kim vào phòng trong:

“Thôi đi ông tướng, mời ông đi rửa mặt, thay quần áo. Me có để cho con ly chè đậu to tướng trong tủ lạnh kìa”.

Ba tôi nhìn theo me tôi và Kim, ánh mắt đầy hả hê. Tôi bỗng thấy cảm động hết sức, tôi muốn khóc ngay lúc đó, và khuôn mặt ba tôi từ bao nhiêu năm nay vẫn không hề thay đổi, nhưng vầng trán như nhiều nếp nhăn hơn, bàn tay nhiều gân xanh hơn. Tôi rạo rực muốn ôm lấy bàn tay của ba tôi mà hôn, hay ôm lấy ba tôi mà khóc. Từ khi lớn, tôi bỗng nhiên mất mọi sự trìu mến bộc lộ của ba tôi, ông không còn ôm tôi vào lòng nữa. Ngày trước, hồi tôi lên mười một, mười hai tuổi, mỗi buổi chiều ba tôi còn tắm gội cho tôi, và những đêm trời hạ, ba tôi vẫn quạt cho tôi ngủ. Khi lớn lên, tôi ngủ chung với chị Phượng, và cũng nhận đủ sự trìu mến của chị. Nhưng tôi vẫn nhớ tiếc những ngày tháng cũ, tiếc mà không thể ao ước trở lại…

Kim đã tắm xong, đã ăn hết tô chè, và cùng me tôi trở lại phòng khách. Câu chuyện gia đình mỗi tối lại được khơi hàn, và trong câu chuyện, anh Nghĩa, anh Phan lại được nhắc đến. Lúc nầy thằng Kim mới kêu lên:

“Ấy chút xíu em quên, buổi sáng em nhận được thư anh Nghĩa, em bỏ vào hộc bàn rồi quên mất”.

Chị Phượng vội vàng:

“Trời ơi. Cái thằng nầy. Vậy mà bây giờ mới nói. Đâu rồi. Thư gửi cho ai vậy?”

“Không biết, em chỉ thấy thoáng chữ anh Nghĩa, rồi em vất vào hộc bàn”.

Me tôi giục:

“Vậy vào lấy đem ra ngay đây, thằng nhỏ nầy thật giống ai mà như ốc mượn hồn. Cái gì cũng quên được”.

Cả nhà đều hy vọng được đọc một lá thư dài và chắc chắn có cả thư Phan ở trong nữa. Nhưng khi Kim cầm lá thư ra, bóc bì và cầm đọc, cả nhà bu lại thì mới hay thư của Nghĩa gửi cho Kim. Me tôi là người trước tiên trườn tới chụp bức thư. Ba tôi nói để chị Phượng đọc là hợp lý nhất, nhưng Kim không chịu, nó giằng bức thư chạy núp vào sau tấm màn:

“Thư nầy anh Nghĩa gởi cho con, chỉ có con có quyền đọc thôi”.

Tôi không nín được cười. Kim vậy đó. Thư anh Nghĩa gởi cho nó, đề tên nó, mà cũng không thèm nhìn xem trước khi cất đi. Mười bảy tuổi đối với tụi em bạn tôi đã biết nịnh đàn bà, biết dẫn đào đi rước đèn. Trái lại, Kim chỉ mê có hai thứ là đá banh và hoạt động xã hội. Mấy cô choai choai hàng xóm có tới làm quen mượn sách thì Kim trợn mắt: “Uý, tui ghét tiểu thuyết lăng nhăng lắm, có mượn thì vào hỏi chị Phượng tui kia kìa.” Nói chưa dứt câu nó đã tìm cách chuồn mất.

Bây giờ Kim đứng trước mặt cả nhà, đưa lá thư ngang mắt và bắt đầu đọc.

Kim.
Anh cũng nhận được thư cả nhà, lá thư cũng dài, cũng hay, chỉ có lá thư của Kim, ngắn và nhanh như một đường banh lọt lưới. Bởi vậy anh phân vân mãi sau cùng nhất định phải viết thư cho Kim trước, bởi anh cũng hồi hộp chờ đợi cái chương trình công tác mà Kim hứa sẽ kể rất hấp dẫn ở thư sau.

Có thể trong tuần tới anh sẽ về phép, mà đã về thì phải có ngày Chủ nhật. Lần nầy anh sẽ dẫn Kim đi mua một bộ đồ sì po thật luých và mọi chuyện sẽ gác lại hết để dành cho hai anh em mình, kể cả chị Phượng…

Kim đang đọc, bỗng nhảy dựng lên rồi cầm lá thư chạy khắp phòng:

“Hay quá, lần nầy gác cả chị Phượng lại đấy nhé. Ha ha có người đêm nay ức quá nằm khóc”.

Chị Phượng đuổi theo Kim, sốt ruột:

“Thằng quỷ, có đưa thư cho người ta đọc tiếp không? Làm gì kỳ vậy”.

“Có, có đoạn nầy gửi cho chị Phượng.

Chị Phượng giằng lá thư trên tay Kim. Nhưng sau đó chị đặt xuống bàn. Tôi lượm lên xem. Chỉ có một dòng ngắn ngủi sau đoạn Kim đọc: Anh phải đi hành quân gấp, hen. Ba tôi nhìn qua lá thư nói:

“Thằng Nghĩa đi hành quân, vậy thằng Phan cũng cùng đi rồi”.

Giọng me tôi trầm ngâm:

“Chắc Chủ nhật tụi nó cùng về chung”.

“Dĩ nhiên”.

Riêng chị Phượng càu nhàu:

“Vậy là anh ấy không biên thư kịp cho con rồi”.

Nhìn khuôn mặt tiu nghỉu của chị Phượng, tôi đâm ra thương hại chị. Me tôi lại đề nghị, me tôi luôn luôn có đề nghị, luôn luôn có sáng kiến:

“Phải dời bữa chả giò lại một tuần nữa”.

Kim phản đối:

“Trời ơi, buổi chả giò ly kỳ nhất thế giới. Ăn rồi không ăn, đợi mãi mỏi cổ quá”.

Tôi nghĩ tới Hoàng:

“Con đã mời Hoàng ngày mai tới rồi mà me”.

Me tôi ngẫm nghĩ:

“Ừ nhỉ. Thôi cũng được, mai cứ bảo Hoàng tới, mình ăn cơm thường vậy”.

Kim xịu mặt:

“Lại mất ăn chả giò nữa rồi. Từ nay con không thèm mong nữa”.

Me tôi cười:

“Không chả giò thì ăn món khác, mai me nấu giả cầy, Kim thích nhé”.

“Cũng tàm tạm”.

Mặc dù cả tôi, cả ba tôi và Kim phản đối, me tôi đã nói ra một điều là một điều. Ba tôi, lúc nào cũng vậy, ban đầu thì hăng hái theo phe chúng tôi, để rồi sau đó kết luận: “Ờ, me chúng mầy nói cũng có lý”. Me tôi bao giờ cũng có lý đối với ba tôi hết, chả thế mà gặp một người đàn bà nào, dù đẹp đến đâu, ba tôi cũng chặc lưỡi: “Tiếc quá, cô ấy (hay bà ấy) không được mập mạp”. Và chắc là đối với ba tôi người đàn bà đẹp phải là mẫu người như me tôi thôi. Tôi nghĩ khác, ba tôi nói thế để nịnh me tôi. Tất cả đàn ông ai cũng thích nịnh vợ một tí để yên cửa yên nhà, Hoàng cũng vậy, khi cãi với tôi xong lại cười: “Em có lý”. Hoàng nói thế để cho yên cửa yên nhà đó mà.

Chị Phượng thì không một tiếng phản đối nào hết. Chắc chị cũng đang nghĩ tới lá thư anh Nghĩa gởi cho Kim. Tôi nhìn chị hóm hỉnh cười, chị lờ đi không biết. Chị Phượng giữ lá thư đó. Kim lười biếng nói với chị: Chị trả lời hộ em đi nhé. Hay là cho em viết ké vài dòng. Ba tôi mắng Kim lười thì Kim cười: “Con bận lắm ba ạ”. “Mầy bận đi xem đá banh phỏng?” Kim trả lời: “Không phải, tuần nầy con đi trại nhiều”. Me tôi gắt: “Không công tác công tiếc gì hết. Đi suốt ngày đêm rồi người cứ gầy nhom, sao con không lo học hành, ăn ngủ gì hết”.

Ba tôi đỡ cho Kim:

“Nó cũng lớn rồi, để nó tự lo. Con trai phải hoạt động chứ?”

“Hoạt động? Tôi mong nó học hành thôi, học và ở nhà để tôi lo cho nó”.

Ba tôi cười, Kim cũng cười: “Ôi, con hết bú lâu rồi mà me”. Me tôi cũng cười theo. Kim pha trò ngay bằng cách kể tường thuật lại một buổi đá banh. Ba tôi gật gù thích thú lắm, còn chị Phượng thì gắt: “Gớm, cả ngày Rổn với Rảng”. Kim cười khà khà theo lối kiếm hiệp rồi đưa chân đá một đường banh tưởng tượng. Me tôi nhăn mặt: “Có ngày gẫy chân con ạ”. Tức thì Kim ngã ngồi bệt xuống nền nhà, ôm chân la bai bải. Cả nhà cười ầm, còn me tôi xanh cả mặt. Chị Phượng xách cổ Kim dậy: “Giả bộ hoài, lên nhà học bài không cho cái bạt tai bây giờ”. Thằng Kim chạy vù lên gác.

Ba tôi lật chồng báo đọc vài tin chiến sự. Me tôi nói: Khủng khiếp quá. Còn chị Phượng thì nhìn ra ngoài cửa sổ đầy bóng tối. Không khí bỗng buồn tẻ hẳn và trong lòng tôi xốn xang một điều buồn tủi. Giọng ba tôi đều đều:

“Mình ở đô thành không biết đó, chứ mỗi ngày biết bao tấn bom nổ có hàng trăm hàng ngàn người chết, mất tích”. Me tôi hầm hầm: “Cộng sản, trời ơi mình để nhà để cửa, ruộng nương lại cho họ hết. Đi đến đây mà còn không yên nữa”. “Me mầy lại tiếc mấy gốc trầu không ngoài Hà nội rồi”. Ba tôi cố nói cho vui mà không ai thấy vui hết.

Trời bỗng chuyển giông ì ầm rồi tiếp đến những tiếng sấm chớp. Một tiếng sét nổ lớn dữ dội, chúng tôi giật mình. Tôi nghĩ tới những tiếng đạn réo ngoài mặt trận chắc còn dữ dội hơn thế. Và anh Phan, và anh Nghĩa, đang đi trên những bước may rủi của vận mệnh. Nhưng thật có sự may rủi không? Có số mệnh không? Số mệnh nào trùng hợp nhau cho cả nghìn người như thế? Hay là tất cả chịu chung một số mệnh?

Tôi nghĩ rất miên man cho tới lúc cơn mưa trút xuống ào ào. Tiếng mưa thật săn hạt, dội bần bật trên mái tôn, trên đất rồi thưa dần. Ba me tôi uể oải đứng lên đi vào phòng. Chị Phượng kéo tôi lên gác, chúng tôi đóng hết các cửa sổ, nhưng tiếng mưa vẫn lọt vào, rì rầm thủ thỉ. Chị Phượng hỏi tôi tới thăm Hoà chưa? Tôi sực nhớ là tôi chưa tới thăm Hoà.

Đêm mưa làm tôi nhớ lại những kỷ niệm nôn nao, kỷ niệm của tôi và Hoàng, của tôi và gia đình, học đường. Dạo còn ở Hà Nội, tôi còn bé tí xíu, gầy lóc chóc. Anh Phan thường cõng tôi lên vai, trùm kín mít hai anh em bằng chiếc áo dạ của ông nội tôi, chạy băng trong mưa tìm mua những gói lạc rang. Kỷ niệm thuở nhỏ trong gia đình tôi đầm ấm, nhưng anh Phan đã đi xa và không có kẻ nào thay thế nổi. Còn Hoàng, Hoàng thân thiết với tôi từ thuở nhỏ, dạo còn ở Bắc, cho tới khi di cư vào Nam, chúng tôi lớn lên và như bây giờ. Kỷ niệm như khơi dậy bởi những giọt mưa nỉ non, mang qua thật nhanh từng khuôn mặt. Khuôn mặt của bà ngoại tôi bị dội bom chết sau vườn cau. Dạo đó tôi chưa được sinh ra, nhưng qua lời kể lại của những người thân, tôi có thể tưởng tượng ra được. Khuôn mặt của chị họ tôi bị Tây đen hiếp. Chị đẻ ra một đứa tây đen con, tuổi hắn cũng hơn tôi, và bây giờ không biết làm gì ngoài Bắc. Khuôn mặt của chú bác tôi, họ hàng trong gia phả theo lời của ba tôi kể lại, kẻ đã đi theo kháng chiến chết, người sang Tây sang Tàu biệt dạng, và nhiều khuôn mặt của bà con tôi ở Hà Nội nữa. Có những đứa em con các chú tôi, bây giờ chúng như thế nào, tôi cũng có thể tưởng tượng rất phong phú. Tôi nói với Phượng. Chị có biết mặt chị Vạn không? Có phải chị Vạn đẻ ra thằng Đen? Tôi nói phải. Chị nói có gặp một hai lần thằng Đen rặt dòng giống Tây đen. Và chị còn kể thêm nhiều giai thoại về thằng Đen và chị Vạn. Chị Vạn đẻ xong, hổ thẹn bỏ đi tu. Sau nầy, chính thằng Đen cầm đầu bọn tới phá chùa. Chị ra khóc lóc, hắn chỉ nhe răng cười. Tôi hỏi sao chị ấy không đi di cư. Chị Phượng trả lời chị ấy ở lại để đi tìm thằng Đen. Tôi bực tức: Tìm, đồ bất hiếu vậy mà còn tìm làm gì. Chị Phượng đặt tay lên vai tôi: Tụi mình đã làm me đâu mà biết được, phải không. Nhưng tôi cứ tức giận và cố không nghĩ tới chị Vạn nữa. Tôi lại nghĩ tới Đông, tới Mẫn, tới chuyến tàu đi qua buổi trưa với đoàn lính. Những khuôn mặt trên dưới hai mươi đó cũng ra khỏi nhà trường. Vậy mà bây giờ họ đã tới một trận tuyến nào đó. Tôi lười biếng nhặt tờ báo của chị Phượng vừa ném xuống để đọc những dòng tin từ thành tới tỉnh. Tin một vụ bắt cóc trẻ em, chọc thủng mắt bắt đi ăn xin, mụ đàn bà đã bị tóm cổ. Tin trộm cướp, tin chiến sự.

Tôi bực tức tới tưởng phát điên. Chị Phượng cầm tay tôi nhỏ nhẹ: “Quyên, Quyên thật trẻ con”. Tôi vùng vằng nôn nao. Anh Hoàng rồi anh cũng phải đi, nhất định đi chứ?

“Khóc đó hả Quyên?”

Tôi đưa tay lên để lau một giọt lệ chực rơi. Tôi nói với chị Phượng:

“Em sợ quá”.

Chị Phượng ôm lấy tôi, cả hai chị em ngã xuống giường. Tôi vùi mặt trong tóc chị Phượng.

Có tiếng ba tôi ho ở phòng dưới. Ba tôi chưa ngủ. Tôi đoán chừng ba tôi đang đứng ở mái hiên, nhìn mưa rơi. Tiếng đại bác càng về khuya càng giòn giã. Một cuộc vui nào trong đêm? Một đám cưới? Không, tiếng đại bác. Tiếng đại bác. Tiếng đại bác vẫn đều, thân ái, nghẹn ngào. Bây giờ anh Phan tôi đang làm gì? Anh Nghĩa đang làm gì? Hoàng có nghe thấy không? Ba me có nghe thấy không? Tiếng đại bác. Tiếng đại bác. Hãy nói cho tôi nghe đi mưa ơi, tiếng đại bác từ phương nào? Nó đang nói gì? Đang nghĩ gì? Và đang đi tới nơi nào vậy?


VII.

Ngày Chủ nhật, Hoàng đến với gia đình tôi để ăn một buổi cơm thường, có món giả cầy me tôi nấu. Ba tôi ăn rất nhiều và nói rằng thức ăn me tôi làm càng ngày càng ngon. Hoàng nói: “Con tưởng hôm nay sẽ được ăn món chả giò”. Me tôi nói: “Món đó me chờ Phan và Nghĩa về mới nấu”. Me đã nói để dành là để dành. Me tôi xưng me với Hoàng làm tôi muốn khóc. Lúc đó Hoàng nhìn tôi, tôi cúi mặt xuống. Tôi cũng thoáng thấy mặt Hoàng âm u hẳn lại.

Hoàng đã nhận lệnh gọi đi Thủ Đức. Và thời gian còn lại là thời gian riêng của chúng tôi. Ngoài thời gian Hoàng đi lo giấy tờ, ăn ngủ, chúng tôi không rời nhau nửa bước. Một đôi khi Kim bắt Hoàng chở nó đi một vài nơi, rủ Hoàng dự một cuộc hội thảo sinh viên, Hoàng cũng đưa tôi theo. Kim cho thế là không được. Nó nói ra thế nhưng chúng tôi không giận. Đến hồi Kim biết yêu, nó sẽ nhớ lại và buồn cười nó. Ba me tôi và ba me Hoàng lại gặp nhau thường hơn. Chắc về cuộc hôn nhân của tôi và Hoàng. Các cụ muốn trước khi đi Thủ Đức, chúng tôi làm đám cưới. Nhưng chúng tôi, cả tôi cả Hoàng đều không muốn, chưa muốn thế? Kéo dài tình nhân hoài cũng không được. Nhưng lấy nhau giữa lúc nầy chả hơn gì? Ba me tôi và ba me Hoàng cũng tuỳ ở chúng tôi. Trong lúc nầy, trong hoàn cảnh nầy, không ai nỡ nói với chúng tôi một câu nào ép buộc. Tôi mua cho Hoàng một bộ kiếm hiệp. Hoàng hỏi tôi rằng tặng chàng thứ đó với ý nghĩ gì? Tôi nói với Hoàng để anh giết những thời giờ phiền nhất. Hoàng nói thì giờ buồn phiền nhất là của tôi, tôi cần phải giết hết thì giờ phiền muộn. Tôi hứa với Hoàng là tôi sẽ bỏ hết thì giờ vào việc học hành. Tôi nói thế nhưng không mấy tin tưởng ở lời hứa của mình.

Tôi rủ Hoàng đến thăm bà mẹ già và cô em gái của Phụng, người bạn của anh Nghĩa. Đúng như tôi đoán mẹ của Phụng rất già, tuổi trên năm mươi nhưng khắc khổ và đầy phiền muộn. Sự xuất hiện của chúng tôi ban đầu đã làm cho bà cụ và Thu ngạc nhiên, nhưng sau đó khi hiểu ra, chính bà cụ lại vui mừng rơi lệ: “Thằng Phụng”, bà cụ nói, “nó đi biền biệt ít khi về lắm. Mỗi kỳ lương nó đều gửi về để nuôi tôi và em nó. Mẹ con tôi sống thui thủi buồn lắm cô cậu ạ”. Bà kể một hồi về đứa con trai rồi lại nói về quê hương: “Tôi muốn chết mà chưa chết được. Tôi đợi thằng Phụng đưa tôi về Bắc cái đã. Hoà bình đã sắp tới chưa cô cậu”. Hoàng và tôi không biết trả lời sao, bà cụ lại thở than rằng đánh nhau hăng để kết thúc đó. “Tôi tưởng vào đây mẹ con sống yên, ai ngờ nó phải đi lính đánh giặc. Rồi họ vào đây mình biết chạy đâu”. Lý luận của cụ già khiến tôi vừa xót xa vừa tức cười. Hoàng nói chuyện với bà cụ, còn tôi lân la trò chuyện với Thu. Thu năm nay mười sáu tuổi, dáng gầy, buồn bã. Nhưng Thu có đôi mắt thật long lanh, tôi đoán Thu thông minh lắm. Nói chuyện với Thu, tôi hiểu tâm trạng Thu và thương Thu như chính em gái mình.

Ngày Chủ nhật rồi cũng qua, rồi ngày thứ Hai cũng qua nốt. Nhưng ngày tháng còn lại nhắc nhở luôn luôn sự xa cách. Sáng thứ Ba, Hoàng phải đi lo giấy tờ một mình. Tôi ngồi ở nhà với chị Phượng. Hai chị em đọc lại một bài một bài thuộc lòng cũ từ thời lớp tư, tả cảnh chiều quê thanh bình. Trong bài có nói tới mái tranh, khói chiều, con đường làng với những trẻ chăn trâu. Cảnh đó làm gì còn trên quê hương chúng tôi lúc nầy nữa... Chị Phượng đem rổ may ra. Tôi thấy chị ấy ngồi thêu những chiếc khăn tay. Tôi nghĩ tới công việc đó do tôi làm. Ừ, sao tôi không ngồi thêu cho Hoàng những chiếc khăn tay như chị Phượng thêu cho anh Nghĩa. Nhưng tôi buồn nản và lười biếng lắm. Chị Phượng thấy tôi nhìn thì chị cười nói là chị định thêu cho Hoàng đó, có hơn hai tá khăn thêu cho anh Phan và anh Nghĩa vẫn còn nguyên chưa gửi ra mặt trận được. Tôi cảm động nhìn chị ngồi thêu, dáng cắm cúi chịu đựng. Tôi thắc mắc hoài không hiểu hai chị em tôi có điểm nào hợp nhau không? Nhưng dù có không giống nhau về tâm tính, tôi vẫn thương mến chị Phượng mãi mãi. Tôi nghĩ là sau nầy tôi có chồng có con, tôi vẫn thương chị Phượng như thế. Chị Phượng thật chu đáo, còn tôi, tôi không nghĩ mua gì cho Hoàng sao? Chắc tôi thua chị Phượng về công việc làm vợ hiền mất rồi. Ý nghĩ đó làm tôi muốn ra phố chọn quà cho Hoàng, tôi thật vô vị, chỉ biết mua thôi. Tôi nói với chị Phượng rồi thay áo đi lên phố. Khi đi qua dãy hàng Tax, tôi mới phân vân không biết nên mua cho Hoàng thứ gì? Một chiếc cà vạt? Một bộ khuy áo? Một áo mưa? Đúng rồi, áo mưa của Hoàng đã bỏ quên trong một hiệu kem chiều hôm trước. Tôi quyết định đi chọn cho Hoàng một cái áo mưa. Và trong khi đi quanh các gian hàng, tôi đã gặp Đông đang đi ngược chiều trở lại. Đông trông thấy tôi thì tươi cười, rồi chào tôi theo kiểu nhà binh:

“Xin trình diện Quyên”.

Tôi đứng dừng lại nói: “Chào anh Đông”. Đông hỏi sao tôi lại đi có một mình. Ý Đông muốn hỏi Hoàng. Tôi trả lời Hoàng bận đi lo giấy tờ. Đông nói: “Giấy tờ để vào Thủ Đức phải không”. Tôi đáp phải và nói thêm gia đình tôi, kể cả con và rể đều đi lính hết. Đông nói:

“Phải để cho hắn đi chứ. Trai thời loạn mà. Đi lính mới lớn ra được”.

Tôi cười:

“Bộ anh bảo không đi lính là trẻ con à?”

“Chứ sao, Quyên coi tôi nè. Trước đây tôi có lớn như giờ đâu?”

“Anh phải đệm đế giầy cho cao hơn tí nữa kia”.

Đông cười, xoay xoay cái mũ trên tay rồi hỏi tôi đi đâu. Tôi nói đi mua áo mưa cho Hoàng. Đông nói thật là người đẹp ngây ngô, mua áo mưa để vào quân trường là một chuyện khôi hài không tưởng được. Đông cho tôi biết vào đó người ta phát đủ hết, từ giầy mũ, quần áo. Tôi hỏi Đông nên mua gì cho Hoàng. Đông bày tôi mua một hộp kim chỉ, dao cạo râu, khăn tay chẳng hạn. Những thứ Đông kể tôi không bao giờ nghĩ tới. Nhưng Đông nói đàn ông, nhất là đàn ông chưa vợ, cần những thứ đó lắm.

Câu chuyện vui dần. Đông đi với tôi qua các cửa hàng. Và khi tôi cùng Đông từ trong một cửa tiệm tạp hoá bước ra tôi gặp Mẫn. Mẫn nhìn tôi rồi Đông ngơ ngác. Tôi vui vẻ giới thiệu Đông với Mẫn. Tôi mời Đông với Mẫn đi uống nước nhưng Mẫn từ chối: “Chị cho khi khác, tôi còn hẹn với mấy người bạn đứng kia”. Tôi nhìn theo tay Mẫn, một nhóm ba bốn thanh niên trạc tuổi Mẫn, đang đứng nhìn về phía chúng tôi. Tôi nói lớn: “Hôm nào Mẫn dẫn các bạn đến nhà chị chơi nhé”. Không hiểu sao tôi bỗng nhiên xưng chị với Mẫn và nói xong tiếng đó tôi ngượng chín người. Còn Mẫn hình như không nghe thấy tiếng tôi nói với. Đông hỏi tôi quen với Mẫn như thế nào. Tôi kể trường hợp gặp Mẫn cho Đông nghe. Đông chịu tôi là gan cùng mình. Tôi nói lúc đó tôi không kịp suy nghĩ, nhưng nếu có suy nghĩ tôi cũng làm thế. Đông đùa: “Mấy chàng Hải quân lãng mạn lắm nghe, hiền cũng như biển mà dữ dội cũng như biển”. Tôi nói: “Còn Đông thì sao?” Đông bảo chứng cớ Đông sợ đàn bà, sợ đến nỗi chừng ấy tuổi chưa dám lấy vợ. Giọng Đông hết sức đùa cợt: “Nhiều lúc tôi cũng muốn được một cô để yêu thành thật, nhưng con gái bây giờ ghét lính lắm”. Tôi nói nghĩ như vậy là sai, bởi anh Phan tôi cũng lính, anh Nghĩa của chị Phượng cũng lính và Hoàng cũng sắp làm lính nữa. Tôi nói không suy nghĩ: “Ai rồi cũng lính hết. Tôi yêu lính lắm”. Đông nói: “Hoàng hắn không ghen sao?” Tôi trả lời hết sức nghiêm trang: “Không bao giờ anh ấy ghen như thế. Anh ấy cũng yêu lính như tôi”. Câu chuyện lại vòng quanh. Đông nói về chiến tranh, về những người vợ trẻ, những đứa con mồ côi. Đông nói nhiều lắm và tôi nghe như chưa bao giờ nghe. Nhưng những điều nầy anh Phan, anh Nghĩa và Hoàng cũng đã nói nhiều lần. Cả Kim nó cũng biết và nhắc tới. Tôi nghĩ tới Kim, tuổi nó mà phải biết nhiều quá, tôi thương nó tới bàng hoàng. Đông vẫn nói bên tai:

“Cái chết đối với chúng tôi thường quá, như ăn, như ngủ. Đôi lúc tôi nhìn thằng bạn chết nằm bên cạnh. Tôi cầm tay hắn thấy lạnh ngắt và ngạc nhiên. Tôi ngạc nhiên thấy mình chưa chết hay chưa chịu chết”.

Câu nói của Đông làm tôi nhớ tới lời nói của Xuyến:

“Anh ấy dạo nầy hết nói tới chuyện tình yêu. Thư anh ấy chỉ tả chuyện đánh nhau, chuyện bạn bè. Chắc khi anh ấy viết thư, một tay vẫn còn cầm súng”.

Mọi chuyện đã tới lúc buồn bã, tôi cắn môi mà không còn cảm giác nào hết. Hoàng rồi cũng sẽ viết cho tôi như thế? Sẽ mở đầu bằng: Em yêu, ở đây là mặt trận, ở đây là rừng lá và đồng sình… anh bắn hết sáu băng đạn. Hoặc: Em yêu, một viên đạn ghim vào cánh tay của anh… vào đầu anh… vào tim anh…

“Quyên, Quyên nghĩ gì mà hoảng hốt vậy?”

Tôi giật mình, chắc dáng điệu tôi lúc đó đang buồn cười lắm:

“Không, tôi đang…”

“Chắc tại tôi nói chuyện ghê quá làm Quyên sợ phải không?”

“Không phải vậy đâu”.

Đông cười:

“Ă, thì ra Quyên nhớ Hoàng. Thật ai được Quyên yêu người đó hạnh phúc nhất đời”.

Tôi chua chát nghĩ thầm là tôi đâu có thể đem lại hạnh phúc cho Hoàng. Chính chúng tôi dù muốn đem lại hạnh phúc cho nhau cũng không được nữa. Hoàng sẽ phải đi. Đêm còn nghe tiếng đại bác, ngày còn chém giết, còn dội bom. Không, tôi dù cố gắng cũng chỉ đến thế, và biết tới phiên ai mới là kẻ hy sinh cuối cùng? Anh Phan, anh Nghĩa, Hoàng hay con cái tôi, cháu chắt tôi?

Tôi nhìn đồng hồ, đã mười một giờ. Tôi mời Đông về nhà gặp ba me tôi. Nhưng Đông nói: “Thôi xin Quyên”.

Đông bỏ lửng câu nói. Thấy tôi băn khoăn, Đông đưa ngón tay làm bộ lảy cò, cười:

“Tôi bây giờ chỉ có lảy cò súng làm vui. Vắng nghe tiếng súng thấy nhớ hơn nhớ người yêu. Thôi Quyên về nhé. Thỉnh thoảng tôi sẽ biên thư thăm hai người”.

Đông gọi xe cho tôi, khi đóng cửa xe Đông nói:

“Sáng mai tôi về đơn vị sớm, chắc không gặp Hoàng được. Nói với Hoàng sẽ gặp nhau ngoài mặt trận”.

Xe chạy rồi, Đông còn nhìn theo, vẫy vẫy cười. Nụ cười Đông thật dễ dàng và khi cười hai mắt Đông tít lại, đôi mắt lá răm của Đông làm tôi nghĩ tới khuôn mặt của một người đàn bà như chị Vạn chẳng hạn có khuôn mặt bầu bĩnh, đôi mắt cười tít và đôi môi ăn trầu cắn chỉ. Chắc đó là hình ảnh thân yêu nhất của Đông, và người ta nói rằng người đàn bà có mắt lá răm lao đao về chuyện tình lắm. Về tới nhà, tôi thấy chị Phượng vẫn còn lúi cúi ngồi bên rổ may.