16/6/11

Thế Uyên - Những ý nghĩ của bọt biển ( 1 )

Thế Uyên
Những ý nghĩ của bọt biển
(Thái độ II)


Tất cả những đoạn văn sau đây chỉ là những ý nghĩ biểu lộ thái độ của một người trẻ tuổi chấp nhận cuộc chiến tranh hiện tại cùng tất cả những khốn khổ của thân phận làm dân một nước nhược tiểu. Hắn không hề nghĩ rằng những ý nghĩ cùng thái độ của hắn là đúng nhất bởi hắn không phải là một nhà đạo đức hay một quan tòa. Cùng lắm, hắn cho rằng bất quá hắn đã chỉ làm công việc của một chứng nhân – một chứng nhân trong cuộc.
Thế Uyên
Mục lục

Ý nghĩ vẩn vơ
Lời giảng chót gửi học trò cũ
Những bàn tay không
Những người bơ vơ
Trương Vô Kỵ
Mười năm văn hóa kiểm duyệt miền Nam
Văn hóa trong chiến tranh Việt Nam
Quảng Ngãi tháng Mười
Lương đống
Hiện tượng chậm tiến trong bộ máy nhà nước
Trở lại miền Trung
Hai thái độ

Ý nghĩ vẩn vơ

Từ nhiều năm nay, ít khi tôi suy nghĩ tới một điều gì xa quá một năm trong tương lai bởi vì vị trí của một người dân trong xã hội miền Nam đầy biến chuyển bất trắc này không cho phép. Nhưng rồi cũng có một buổi sáng trời không có nắng, không khí hiu hắt làm tâm hồn lắng xuống làm xuất hiện một câu hỏi vẩn vơ nhưng day dứt, một câu hỏi giản dị đến ngây ngô: Thế nào là một người Việt Nam?

Tôi là người Việt Nam – hiển nhiên là vậy. Nhưng có chắc thật thế không? Trước tầm nhìn của tôi là hàng rào kẽm gai, khung cửa sổ, vách tường, bàn ghế. Những vật này không biện minh được gì: kẽm gai từ Tây phương nhập cảng, kiểu cửa sổ, lối xây tường, kiểu bàn ghế, v.v. đều là của Tây phương. Trên mình tôi, kiểu tóc, quần áo, thắt lưng, ví đựng tiền, giầy vớ, v.v. Tôi châm một điếu thuốc hút, thấy điếu thuốc bật lửa cũng là của Tây phương nốt. Tôi ngừng cuộc tìm kiếm qua sự vật và khung cảnh bao quanh vì hiển nhiên chúng không thể chứng minh tôi là người Việt Nam. Căn cứ vào chúng, tôi sẽ có thể là Tàu Chợ Lớn, Tàu Đài Loan, Phi Luật Tân, Mã Lai, v.v. cũng như có thể là Pháp, Ý, v.v. Có lẽ tôi có thể xác định tôi là người Việt Nam căn cứ vào hành động và sinh hoạt chăng? Trước kia tôi làm giáo sư, chương trình giáo dục, lối dậy học trò, lối chấm bài, gần đây nhập ngũ, thể thức động viên, cách tổ chức quân trường, phương thức huấn luyện quân sự, lối chào kính, quân kỷ, v.v. đều là của Tây phương. Nửa giờ nữa, có kẻng hết giờ làm việc ấn định theo thời khắc Tây phương, tôi ra về bằng phương tiện nào cũng vậy, phải là do Tây phương mang tới. Tôi đọc một tờ nhật báo, một tờ tuần báo, tôi đọc sách, tôi đi xem xi-nê, tôi đi phòng trà nghe nhạc, khiêu vũ, khuya về đi ngủ vặn đồng hồ, v.v. Chẳng có một vật gì, điều gì chứng tỏ tôi là người Việt Nam, và đến khi ân ái với đàn bà, phương pháp Ogino-Knaus, phương pháp nhiệt độ, v.v. tôi cũng chỉ làm như một người Pháp, người Mỹ, người Ba Tây cùng thành phần xã hội.

Tôi biết tôi là người Việt Nam, hiển nhiên là vậy. Nhưng cái gì chứng tỏ? Nhiều cụ già khả kính nói đến TRUYỀN THỐNG. Bắt chước một đại tướng đã mở một cuộc “truy tầm hạnh phúc”, tôi mở một cuộc truy tầm truyền thống. Tôi tìm mãi, tìm hoài, mở hết trang sách này đến trang sách khác, cầu cứu tới cả các cụ Nguyễn Gia Tường, Hồ Hữu Tường, v.v. cũng không thấy nó đâu. Mặc áo bà ba hút thuốc lá rê thuốc lào là truyền thống chăng? Tôn trọng tam cương ngũ thường, tam tòng tứ đức, nam nữ thọ thọ bất thân là truyền thống chăng? Ở nhà tranh vách đất, bàn ghế kiểu cổ, nhuộm răng đen đi guốc gỗ là truyền thống chăng? Càng tìm kiếm tôi càng ngỡ ngàng. Thiên hạ không hiểu tại sao ai cũng tìm thấy ngay TRUYỀN THỐNG dân tộc, bốn ngàn năm văn hiến mà tôi thì “truy tầm” nó mãi không ra. Tôi chỉ tìm thấy hệ thống giáo lý Khổng Mạnh của Tàu, đồ đạc cung điện kiểu Tàu, Tàu Tàu và Tàu… chỗ nào cũng thế sau khi gạt hết lớp bụi phủ. Theo các nhà khảo cổ học và nhân chủng học lên tít mù trong bụi thế gian, tôi cũng chỉ thấy cái trống đồng Đông Sơn – mà các vị bác học khả kính lại kết luận là “lai Tàu”. Sau cùng tôi kết luận rằng muốn theo cho thật đúng truyền thống, hợp lý nhất là nhập Hoa tịch cho rồi. Nhưng thế cũng không ổn vì chính thế hệ trẻ Trung Hoa Chợ Lớn và Đài Loan cũng đang đốt đuốc lên coi lại cái truyền thống của họ xem nó ra làm sao.

Cuộc truy tầm ở ngoại giới không đưa đến đâu, tôi quay về tra hỏi bản thân. Hoàn cảnh sinh hoạt, khung cảnh quanh tôi là Tây phương dĩ nhiên rồi. Nhưng tệ hơn nữa là tôi suy nghĩ theo cùng phương pháp với sinh viên Sorbonne, Harvard, Oxford. Tôi thích khiêu vũ, ăn uống, xem chiếu bóng y hệt một anh chàng trí thức cùng tuổi bên Tây bên Mỹ. Như vậy, xét đến ý thích, khuynh hướng cá nhân, tôi cũng không tìm thấy gì chứng tỏ tôi là người Việt Nam.

Vẫn bắt chước vị đại tướng, sau khi “truy tầm” không có kết quả, tôi phải sang một giai đoạn khác là tra hỏi. Tra hỏi không ra thì phải “tra tấn”, tôi tra tấn ý thức, tư tưởng tôi đến cùng thì thấy rằng tôi là người Việt Nam có lẽ chỉ vì khi còn nằm nôi, tôi nghe mẹ ru cho ngủ bằng những câu ca dao cổ kính, khi đã biết đi biết chạy, tôi đi tôi chạy giữa các ruộng lúa nhà tranh ao bèo giếng nước, tôi cưỡi trâu, cưỡi bò, nghe sáo diều kêu văng vẳng trên không gian buổi chiều. Tôi là người Việt Nam chỉ vì tuổi ấu thời yêu nước sông đỏ phù sa, tuổi niên thiếu yêu những người con gái có áo dài lả lướt, yêu Tết Nguyên đán có bánh chưng, trầm hương, hoa và lễ chùa, yêu rằm Trung thu có đèn kéo quân, đèn xếp, đèn ngôi sao làm đen lánh cặp mắt người con gái tôi yêu. Tôi là người Việt Nam, sau cùng có lẽ chỉ vì trong tâm hồn có dấu vết chồng chất của bao nỗi đau buồn vui sướng quá khứ, những đau buồn vui sướng tôi đã cùng trải qua cùng anh em bố mẹ họ hàng, cùng các bạn đồng lứa còn sống, cùng những người già đã chết… Tôi là người Việt Nam vì những điều như thế, bắc có Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nam có Việt Nam Cộng hòa.

Đôi khi tôi còn nghĩ vẩn vơ rằng nước Việt Nam của chúng ta chỉ có thể thống nhất, chỉ có thể hòa bình khi nào từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, từ Chủ tịch, cán bộ, Quốc trưởng đến công dân, ai cũng nhớ rằng mình chính thực ra là người Việt Nam trước khi là bất cứ cái gì khác. Và chúng ta, những người miền Nam, chỉ nên nghĩ đến giải phóng miền Bắc khi nào quan niệm nó như một công trình khôi phục con người Việt Nam.


Lời giảng chót gửi học trò cũ

“Đi lính ba năm, trở về thăm trường cũ, thầy cảm thấy gì?”

Mỗi lần có em hỏi tôi câu trên, tôi không khỏi muốn mỉm cười vì liên tưởng tới những đề luận loại: “Trò vừa được dự một cuộc diễn binh (một buổi lễ chào cờ hay một đám tang), hãy thuật lại và cho biết cảm tưởng”, tôi thường ra cho học sinh nhiều năm về trước. Tuy muốn mỉm cười nhưng tôi vẫn làm một bài luận cho các em với lời giao ước không phải là bài luận mẫu. Đứng trên thềm nhìn sân đất đỏ lầy ướt nước mưa, những cây trứng cá xanh um lá, tôi đã nói với các em những gì, tôi không nhớ rõ. Hình như tôi nói tới một thứ tình cảm vui nhẹ khi được trở về khoảng đồi quen thuộc, niềm thích thú khi biết những học trò cũng đã biến đổi ra sao, em nào đi lính như thầy, em nào ra trường học đâu, em nào đỗ em nào trượt trung học phổ thông, Tú tài, và nhất là những nữ sinh xinh xắn, cô nào đã lấy chồng cô nào còn tuyển phu.

Sau buổi gặp gỡ lần đầu, tôi trở về nhà với một thoải mái dễ chịu. Giả thử công tác phải thi hành hoàn tất một ngày, tôi rời thị trấn cao nguyên có nhà trường mái tôn xanh đỏ này sáng hôm sau, chắc tôi trở về với đời lính, với doanh trại mang theo thoải mái dễ chịu. Nhưng tôi đã phải ở lại thêm một tuần, và vì thế tôi đã hối hận. Hối hận vì đã trở lại thăm trường, đã làm bài luận: Thầy đi lính ba năm, trở về thăm trường cũ, thầy cảm thấy gì? Tôi đã lầm ở một điểm: vấn đề tư cách trở về và thái độ. Khi trở về thăm trường, tôi tới với tư cách người lính nhiều hơn với tư cách ông thầy và các em coi tôi như ông thầy nhiều hơn là người lính. Chính vì thế các em tiếp tục hỏi tôi những vấn đề về học vấn, về đời sống, về tương lai như ngày xưa. Trước những câu hỏi, nếu tôi chỉ là một ông thầy vào loại như các giáo sư mới lớn đang phụ trách dạy các em kia, chắc tôi sẽ giải đáp tất cả những thắc mắc đủ loại với một giọng quả quyết, tin tưởng mình nắm vững chân lý - những lời giải đáp sách giáo khoa in sẵn. Bây giờ, tôi không thể còn thái độ ấy. Nhưng tôi còn giữ quan niệm một ông thầy không thể nói dối học trò, không thể bảo một thứ đen xì ngoài đời là màu đỏ cho những kẻ ngồi trong lớp học. Bởi thế tôi đã ngập ngừng trước các câu hỏi của các em, tôi đã ngập ngừng rất nhiều.

Một em học đệ nhất hỏi tôi: “Có nên tiếp tục học nữa không thầy? Em muốn nhập ngũ cho rồi!” Thoáng trong một giây, do một chút thói quen nghề nghiệp cũ, tôi đã toan thốt ra một tràng ngôn từ cổ điển đại loại: Phải tiếp tục học tới cùng. Học để mở mang trí tuệ, để trở thành một công dân hữu ích cho xã hội mai sau, v.v. Cũng may tôi ngừng kịp, nếu không, chắc sẽ thấy trong đôi mắt thiếu niên mười bảy tuổi trước mặt những ánh mắt chẽ giễu, không tin. Mở mang trí tuệ, trở thành công dân hữu ích cho xã hội, v.v. dĩ nhiên là thành quả của học vấn rồi, nhưng người học trò cũ này đâu có tìm đến tôi để hỏi một ông thầy đã nhập ngũ, không phải chỉ để nghe những lời Công dân Giáo dục “đã được Bộ Quốc gia Giáo dục duyệt y”, có phải đúng như thế không các em?

Tôi đã trả lời em đó một cách thật thực tế: “Em hãy cố gắng thi đỗ Tú tài II, hãy cố gắng học thêm được tới đâu hay tới đó trước khi tới tuổi nhập ngũ. Cuộc chiến tranh này không phải là vĩnh viễn, xã hội này là xã hội của cấp bằng, những bằng cấp em có sẽ giúp ích rất nhiều cho em về sau này… Chưa nói xong, tôi đã cảm thấy rõ rệt đó không phải là của một người chiến binh lớn tuổi. Trả lời như vậy sẽ không làm hài lòng ai hết. Các em đang hoang mang trước chiến tranh, mất tin tưởng ở tương lai, đang mong mỏi được nghe một lời khẳng định về giá trị của học vấn. Tôi đã thoái thác. Nha Chiến tranh Tâm lý Quân lực Việt Nam Cộng hòa cũng không hài lòng, họ chờ đợi ở tôi một câu trả lời đại loại: Hãy tình nguyện nhập ngũ ngay để bảo vệ non sông. Hãy hy sinh xương máu ngoài chiến trường cho tổ quốc! Còn tôi, chính tôi cũng không hài lòng nốt, vì đã ba mươi tuổi, bốn năm dạy học ba năm đi lính, mà không trả lời thẳng và dứt khoát được một câu hỏi giản dị như thế.

Buổi tối, tôi tới dự đêm văn nghệ trường tổ chức. Ngồi nghe các em múa hát, đóng kịch, một phần tâm hồn tôi chìm lắng trong không khí trẻ thơ, ngắm các em gái ba năm về trước còn là những cô bé chuyên ăn vụng mận, me trong giờ học bây giờ trở thành những thiếu nữ tuổi yêu đương, tôi chợt hiểu buổi sáng trả lời như vậy là hơn cả. Thà trả lời với tư cách người lính còn hơn im lặng hay nói dối. Mọi sự sẽ ra sao nếu tôi khuyên: “Hãy tình nguyện nhập ngũ để bảo vệ tổ quốc!” và được nghe các em hỏi thêm: “Có thực thế không thầy?”. Có thực thế không? Có thực là chiến đấu cho tổ quốc không, hay là chiến đấu cho những chính khách phòng trà có hậu cứ an ninh làm chính trị xôi thịt hay là chiến đấu cho các con ông cháu cha xuất ngoại trốn quân dịch, những người công du mang theo từng phần gia sản của dân tộc Việt Nam nghèo khổ… Cuộc chiến này tự nó có một ý nghĩa: chống cộng để cho những người miền Nam sông Bến Hải được tự do sống theo ý mình, được yêu người mình yêu, được lấy người mình yêu. Nhưng mười năm liên tiếp, chính nghĩa đó đã bị lợi dụng, bôi nhọ, trát bùn nhơ nhớp rồi… Chẳng lẽ tôi lại nói điều đó với các em, những kẻ sắp vào đời. Nhưng không nói thì im lặng, câm nín sao? Dù thế nào tôi cũng vẫn là một người trí thức.

Tôi chỉ nói tới trí thức, người lính, không nói tới ông thầy. Không phải vì “chiến tranh đã giết chết ông thầy” như tôi đã nói với một em gái có đôi mắt như hai vì sao cao nguyên, cũng không phải tại vì tôi đã từ bỏ tư cách ông thầy, mà vì tôi đã nhận thấy tôi đã sai lầm.

Tôi, chúng tôi, đã dạy các em những gì nhỉ? Nào chí làm trai nam bắc đông tây, lên đông đông tĩnh lên đoài đoài yên, chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt, làm trai phải chết chốn sa trường da ngựa bọc thây, v.v. Tôi, chúng tôi còn dạy các em những gì nữa? Danh dự, khí tiết, liêm khiết, trinh bạch, bổn phận đối với tổ quốc, đối với xã hội, v.v. Toàn những thứ các em vào đời, đốt đuốc đi tìm bảy ngày bảy đêm liên tiếp cũng không thấy, để rồi sau đó chua chát thất vọng, để rồi sau đó đưa tâm hồn mình vào tình trạng mất hết tin tưởng.

Rời cao nguyên vào buổi tối, khi nhìn đô thị Sài Gòn hiện hình như một cánh đồng cỏ màu sắc và ánh đèn, tôi thấy vấn đề cũng không phải là đến chỗ tuyệt vọng. Tôi còn có những lời giảng, những lời giảng chót, để nói với các em, những học trò đã tản mát khắp nước cũng như còn ở thị trấn buồn muôn thuở. Tôi thấy tôi còn là một ông thầy, vì buổi tối, sau khi suy xét kỹ, tôi thấy còn có thể nói rằng: người thầy ngày trước không lừa dối các em khi nói tới một thế giới đẹp đẽ trong đó mọi cư xử đều y như các ông thầy đã tả trong các giờ học. Chỉ có cần bổ túc là thế giới ấy không phải có sẵn chờ đợi những người vừa rời bỏ ghế nhà trường và tuổi thiếu thời, mà nó nhờ chính những người này, những người mang lý tưởng ôm ấp từ lớp học tới xây dựng, hình thành. Tôi đã có lầm lẫn ngày trước là đã để các em ngộ nhận. Nhưng lầm lẫn này, những ông thầy cũ và tôi đã trả giá thay cho các em bằng cách chịu đựng một nỗi chua chát xao động thường xuyên trong tâm hồn.


Những bàn tay không

Nhiều người thường cho rằng lớp trí thức trẻ hiện nay “nổi loạn”, thích tung phá đạp đổ nên bạ ai cũng chê cũng đả kích. Sự thật không hẳn như vậy. Tự xét bản thân và căn cứ vào tâm trạng bạn bè tôi thấy rằng thế hệ trẻ hiện nay rất bơ vơ – họ muốn tin cậy ở người lớn lắm nhưng không tìm ra ai mà tin. Hệ thống tổ chức xã hội và nền giáo lý cũ không còn thích hợp với nếp sinh hoạt và biến chuyển mới của dân tộc và đất nước: các thanh niên rất cần người hướng dẫn, rất cần người già để kính, để nương tựa về tinh thần. Nhưng vấn đề là ở chỗ, họ, chúng tôi không tìm thấy ai. Thanh niên nào cũng đã hơn một lần muốn bám víu vào một cái gì gương mẫu để giữ vững tinh thần trong dòng hỗn loạn hiện đại, nhưng rồi cũng hơn một lần thất vọng chua chát.

Thanh niên hiện nay gần như chỉ có hai bàn tay không và công việc phải làm nhiều vô hạn – trong khi đó vẫn gánh chịu trực tiếp cuộc chiến tranh tàn khốc không do họ gây ra. Nếu Camus đã nhắc tới một câu nói người xưa mong được sinh vào một thời đại không đáng chú ý, thì nhiều thanh niên Việt Nam cũng đã tiếc rằng đã đầu thai nhầm thế hệ. Nhưng tiếc thì tiếc vậy nhưng họ biết không thể từ chối thân phận mình, họ biết phải làm gì và nhận rằng nếu thế hệ năm mươi tuổi đã từ chối trách nhiệm về một nửa nước Việt thì họ, thế hệ trên dưới ba mươi sẽ chịu trách nhiệm với con cháu sau này, với lịch sử về số phận một nửa phần còn lại.

Khi khóa 14 sĩ quan trừ bị Thủ Đức mãn khóa, ông Diệm không tới, cử ông Trương Công Cừu làm đại diện. Tôi thuộc đại diện khóa sinh đa số là trí thức và vì thân cao thước bảy nên phải đứng hàng đầu hàng quân – sự kiện này có nghĩa là không hy vọng gì cựa quậy cho đỡ mỏi. Mồ hôi đã bắt đầu chảy dọc gáy tôi cũng như người cầm cờ phía trước khi ông Cừu tới duyệt hàng quân. Đúng lúc phái đoàn quan khách đi ngang đại đội, một tiếng nói từ phía sau hàng quân cất lên tuy nhỏ nhưng nghe rõ tới hàng đầu, nhắc lại câu nói của những người giác đấu nói với quan khách trên khán đài trước khi bắt đầu cuộc tử chiến: “Ceux qui vont mourrir te saluent!” [1] … Tuy toàn thân tê cứng trong nỗ lực giữ đúng tư thế chào, tôi cảm thấy như có một chuyển động rì rào phía sau. Có lẽ tôi bị óc tưởng tượng đánh lừa? Có thể là vậy nhưng câu nói cuối cùng của những người giác đấu thời xưa ấy, tôi nghe thật rõ như một tiếng thở dài. Ông Cừu đã lên vị trí chủ tọa buổi lễ trên khán đài cao, dáng điệu ông trịnh trọng và trang nghiêm. Lũ chúng tôi mồ hôi đầy người quỳ xuống trước mặt ông thề trung thành với tổ quốc và nhận cấp bậc nhỏ nhất trong hàng sĩ quan. Vẫn trịnh trọng và trang nghiêm, đại diện cho tổng thống, cho Quốc gia Miền Nam, ông Cừu khuyên chúng tôi nhiều điều… Ceux qui vont mourrir te saluent, tôi không hề được biết anh đồng khóa nào đã thốt ra câu ấy để tìm hiểu xem hiện nay anh đang ở phương nào. Nhưng tôi biết chắc anh hẳn là người buồn nhất buổi sáng ngày hôm ấy khi quỳ xuống trước mặt ông Cừu – nỗi buồn của anh chắc chắn phải bằng hay hơn nỗi buồn của tôi khi viết đến dòng này.


Ý nghĩ người lính trong thành phố - Những người bơ vơ

Một sinh viên bạn tôi trong năm vừa qua, nhờ thế lực chính trị và khả năng tài chính của gia đình, đã được phép xuất ngoại đi Pháp học. Đó là một thanh niên biết suy nghĩ nên việc du học này đã đặt anh trước nhiều vấn đề. Nếu anh xuất ngoại, anh sẽ có thể đỗ tiến sĩ và trở về nước sau này làm giám đốc, tổng trưởng. Nhưng sự xuất ngoại này không do một tuyển chọn công bằng, không do tài năng. Vậy vấn đề đặt ra cho anh là chấp nhận hay không chấp nhận xuất ngoại này. Nếu không đi, ở lại, anh sẽ phải nhập ngũ một thời gian dài ngắn không biết rõ là bao nhiêu. Nhập ngũ là chiến đấu. Anh không sợ khổ cực của đời lính, anh có thể hy sinh mạng sống – nhưng cho ai? Anh ngó quanh, nhìn những người bạn đã nhập ngũ, nhìn chính quyền, nhìn xã hội, anh thấy rằng chưa biết chừng những người bạn ấy đã vô tình chiến đấu để bảo vệ cho những thương gia Ba Tàu, các xí nghiệp ngoại quốc, các tham quan ô lại, các tướng lãnh bê bối, v.v. Vậy anh chọn đường nào, đi hay không đi? Chọn đường nào cũng có lý và chẳng đường nào hợp lý. Anh thấy anh là một con người bơ vơ.

Một giáo sư trẻ bạn tôi ở tỉnh nhỏ được một nữ sinh bày tỏ tình yêu. Anh tự hỏi nên hay không nên nhận tình yêu này. Ông Hiệu trưởng, ông bạn già đồng nghiệp bảo không nên nhận vì như vậy là trái nghĩa sư đệ. Nghĩa sư đệ? Nó là cái gì vậy? Nghe có vẻ Tàu Tàu, anh mở sách cổ ra đọc, tìm xem người xưa nói làm sao về việc thầy trò yêu nhau. Dĩ nhiên anh không tìm thấy vì thời trước không có học trò con gái, lấy đâu ra việc yêu đương. Và nếu tìm thấy, chắc cũng không có được giải pháp nào bởi vì ông thầy đồ có nhiệm vụ thay cha dạy học trò thành người. Nếu thầy trò yêu nhau có lẽ có thể coi như một hành động loạn luân. Nhưng anh bạn tôi là một giáo sư ở hậu bán thế kỷ hai mươi, và nhiệm vụ của anh là truyền bá cho cô gái này các kiến thức về khoa học và văn hóa, chứ đâu phải dạy nàng thành hiền phụ hay gái chính chuyên – mở tất cả các cuốn chương trình kể từ khi người Pháp hủy bỏ nền học cổ truyền thay bằng nền học chánh mới cho tới hiện nay, anh không thấy có điều khoản nào ghi giáo sư phải rèn luyện, đào tạo học trò thành người cả. Anh chỉ biết rằng cho tới giờ, chương trình giáo dục được gọi là nhân bản, khai phóng, v.v. Thế thôi. Ông giáo sư già nhất trong trường nhận xét: “Dù sao chúng ta cũng có dạy nó thành người qua những lời khuyên răn và kỷ luật áp dụng trong những giờ học trò tới trường…”. Anh bạn tôi không đồng ý vì cho rằng một huấn luyện viên quân sự của các khóa đào tạo nữ quân nhân, cũng khuyên răn, cũng áp dụng kỷ luật, cũng truyền bá những kiến thức. Và nếu một trung úy huấn luyện viên và một khóa sinh yêu nhau rồi lấy nhau thì đó lại được coi là một tình duyên thông thường, không ai buồn thắc mắc – trừ những tình địch của hai kẻ này. Vậy tại sao anh và nữ sinh của anh lại không được yêu nhau tự do – như mọi người? Hơn nữa nếu cấm lấy nữ sinh thì các giáo sư biết lấy ai làm vợ. Đa số các cô bây giờ đều được đi học, do đó đều là học trò không của giáo sư này thì của giáo sư khác… Tôi chen vào, góp ý kiến: “Con gái vị thành niên chưa được coi là đủ óc suy xét, ông thầy lại tiếp xúc luôn, có được yêu thì tình yêu đó chưa được coi là chín chắn. Hơn nữa, lôi thôi với gái vị thành niên có hai cái nguy: thứ nhất là Bộ biết, sẽ bị đổi đến những nơi hổ về gậm gãy cột cờ, trăn bò vào nằm trên bục; thứ hai là nếu bố mẹ cô nàng kiện thì đi ở tù!” Nói như thế không giải quyết được gì cho vấn đề, anh bạn nhận xét, vấn đề ở chỗ là tìm xem thầy trò yêu nhau có gì là tội lỗi như mọi người thường quan niệm hay không. Đây là một vấn đề tinh thần, một vấn đề luân lý. Vụ tranh luận đến đây là ngừng, và khi tôi rời trường, anh bạn tôi vẫn chưa biết nên chọn thái độ nào. Anh cũng là một người bơ vơ.

Một anh bạn đồng môn cũ, mới thuyên chuyển đến ngành Cảnh sát Công an, sau ba tuần nhận chức, nói với tôi: “Tao nghĩ hoài không biết có nên tổ chức tảo thanh gái điếm hay không. Tao chưa vợ, vẫn thường đi tìm đĩ để giải quyết sinh lý, thấy làm như vậy là tự nhiên. Đàn bà làm đĩ, tao nhân danh cái gì để cản, để đi bắt? Đối với gái vị thành niên còn có thể bảo là chưa biết suy nghĩ nên bắt trở về đời sống lương thiện hơn, nhưng còn đàn bà trưởng thành tự nguyện chọn làm nghề này?” Dĩ nhiên, về phương diện tinh thần, anh bạn này không biết nhân danh cái gì để kết án gái đĩ. Anh bơ vơ rồi.

Sau 1-11-1963, cả chính phủ lúng túng trong việc tìm một tiêu chuẩn để xác định thế nào là thuần phong mỹ tục, đạo đức xã hội. Các người ham chuộng loại phim thoát y đã thấy rõ sự lúng túng này ở những người tự-cho-có-nhiệm-vụ bảo vệ đạo đức xã hội. Có thời kỳ, các nhà kiểm duyệt cho rằng cởi nịt vú nhưng giữ xi-líp, được kể như không làm thương tổn đến thuần phong mỹ tục của “nước A Nam ta”. Có thời kỳ cho rằng để lộ ngực cũng làm hại đến đạo đức của dân Đại Cồ Việt. Có thời kỳ cho rằng nhảy twist vô hại, có thời kỳ lại cấm vì cho rằng twist sẽ văng mất bốn ngàn năm văn hiến Giao Chỉ ra ngoài. Nói giản dị, các nhà đạo đức trong chính quyền không còn biết vị trí, giới hạn của đạo đức ở-chỗ-nào-nữa. Họ là những người bơ vơ rồi.

Cái gì cũng phải có một kết thúc, kể cả những bơ vơ. Anh bạn sinh viên đã đi Pháp học nhưng viết thư về nói rằng: “Lắm lúc nghĩ, tôi tự hỏi tôi đi thế này hơn hay ở lại đi lính để cùng liên đới chịu đựng cái phận khốn khổ của dân mình…”. Anh bạn giáo sư tỉnh nhỏ viết thư về báo tin: “Tao sẽ phải nhập trường Thủ Đức khóa tới, và con bé học trò ấy vừa đủ 21 tuổi tuần trước. Vấn đề đã được đi đến cùng, nhưng tao vẫn thấy…”. Anh bạn trong ngành kiểm tục tuyên bố: “Tao vẫn thứ bảy đi kiếm poule và khi nào có lệnh thượng cấp, vẫn đi bố ráp gái điếm…”. Còn về công tác bảo vệ thuần phong mỹ tục dân nước Việt Nam Cộng hòa, ông đô trưởng vừa trịnh trọng minh định đại khái như sau: “Mặc nịt vú và xi-líp sẵn sàng bước ra múa là không hại đạo đức, nếu mặc quần áo rồi vừa múa vừa cởi cho đến khi còn nịt vú và xi-líp là một hành động công xúc tu sỉ…”. (Tôi tự hỏi như vậy có phải đạo đức và không đạo đức chỉ khác nhau ở chỗ “có sẵn” và “cởi dần” hay không?).

Tại sao, vì cớ gì, người dân Việt đệ tứ cộng hòa (đệ nhất cộng hòa là của ông Diệm, đệ nhị cộng hòa là của DIDOXI – Đính Đôn Xuân công ty, đệ tam cộng hòa là của Chủ tịch Nguyễn Khánh) lại lâm vào tình trạng bơ vơ như vậy? Và làm thế nào để cho những người hiện tại, nhất là thế hệ mai sau khỏi bơ vơ như thế?

Đó là hai vấn đề căn bản phải giải quyết cho xã hội miền Nam. Tất cả những vấn đề khác về chế độ, về luật pháp, v.v. chỉ là những cái đến sau. Nếu giải quyết được hai vấn đề căn bản này, người sinh viên sẽ biết nên đi Pháp học hay ở lại đi lính với những bạn đồng môn nghèo hèn, người giáo sư sẽ biết nên nhận tình yêu học trò hay từ chối, viên chức kiểm tục biết nên kết án hay dung dưỡng gái điếm, nhà kiểm duyệt biết sử dụng chính xác cái kéo không cần phải coi lại các chỉ thị co giãn tùy thời, người lính nên biết hay không nên hy sinh tính mạng của mình. Có hết bơ vơ, viên chức thanh liêm mới tin rằng thái độ của mình là đúng là đáng khen chứ không phải là “dại” là “ngu”, người thanh niên thiện chí phục vụ xã hội mới tin rằng mình không phải là quân tử Tàu, người biết giữ liêm sỉ mới tin là mình không lỗi thời hay chậm tiến. Không đưa được mọi người ra khỏi tình trạng bơ vơ, mọi sự sẽ tiếp tục như hiện nay – nghĩa là mỗi người đều tiếp tục đóng vai trò riêng trên một sân khấu riêng: Giáo sư đóng kịch trên bục vì dạy học trò “không nên rượu chè, cờ bạc, trai gái, nghiện hút” nhưng vẫn đi chơi gái, đánh bạc và uống rượu, những nhân viên kiểm duyệt sẽ bề ngoài nhăn nhó khi cắt những đoạn phim “đồi phong bại tục” và những câu văn khiêu dâm, tả chân, nhưng rất thích thú khi được coi Sexy show, Sexy girl nguyên bản, khi đọc Mémoire d’une chanteuse allemande…

Một xã hội khi nào chỉ xây dựng trên những con người giả hình như vậy là một xã hội đang đi đến chỗ tan rã chắc chắn.


Ý nghĩ của người lính thành phố - Trương Vô Kỵ

Trong tuổi thiếu thời, về phương diện đọc sách, tôi là một đứa trẻ bình thường, nghĩa là đương nhiên phải mê đọc truyện kiếm hiệp. Mê đến độ những hôm không có tiền đặt cọc, tôi tới thuê sách ngồi đọc ngay tại hiệu. Tôi còn nhớ những phút say mê theo dõi Giang Đông tam hiệp, Long Hình quái khách, lo âu cho những tráng sĩ nghĩa hiệp lao vào những ổ ác tăng cứu nguy cho người đẹp, và ở cái tuổi còn tin rằng em trai ở trong nách mẹ chui ra và đàn ông đàn bà cứ ngủ chung giường là tự động có con, tôi đã hồi hộp và rung động trước những hoàn cảnh hiểm nghèo của những nữ hiệp khi sa vào tay dâm tặc. Lớn hơn, khi bắt đầu thích mối tình Hồn bướm mơ tiên, những nhân vật kiếm hiệp tan biến vào dĩ vãng ấu thời, không còn di tích. Năm ngoái khi Thi với tôi ở một doanh trại miền Trung, nàng nằn nì tôi thuê cho bằng được Cô gái đồ long để nàng đọc trong những lúc vắng tôi. Không những không chịu chiều ý, tôi còn cười chế giễu. Gần đây trong một buổi gặp gỡ thân mật, tôi thấy các nhà văn, có người sắp tới tuổi tứ thập nhi bất hoặc, bàn một cách hăng hái về những Chu Chỉ Nhược, Vô Kỵ, Triệu Minh, Đao Đồ Long, Nhất Dương chỉ, v.v. và những chưởng những ám khí quay lộn, đánh bật tất cả những Sartre, Camus, Hemingway cùng các đề tài văn nghệ thông thường ra bụi mía trong vườn nhà mẹ tôi. Đến đây, dĩ nhiên là tôi chỉ có thể làm một việc: đi tìm kiếm hiệp đọc để xem nó ra làm sao mà đã có thể gây cả một phong trào đọc sôi nổi như vậy.

Để bắt đầu, tôi đọc cuốn kiếm hiệp đã được xếp vào loại “cổ điển” là cuốn Cô gái đồ long. Qua được vài chục trang, tôi đã bị lôi luôn vào vòng chưởng lực của các nhân vật. Và tiếp đó, dĩ nhiên bình thường như bao người, tôi đọc hết cuốn này đến cuốn khác của Kim Dung, và cũng chỉ thích đọc có một tác giả này mà thôi. Bây giờ đã khá quen thuộc với các võ công thượng thừa của các phái Thiếu Lâm, Nga Mi, Võ Đang, v.v. tôi hiểu tại sao mọi người – trong đó có tôi, say mê đọc loại văn này. Lý do quan trọng nhất là kiếm hiệp đã được Kim Dung viết với nhiều nghệ thuật. Các nhân vật linh động, nhiều cá tính, nhiều tâm trạng không như các nhân vật thông thường: loại gian tà và anh hùng hào kiệt. Gian tà bao giờ cũng gian ác và đáng giết, anh hùng bao giờ cũng quang minh chính đại đáng kính. Thiện ác phân minh. Các nhân vật của Kim Dung không như thế. Trừ một số ít, còn chẳng có ai là thiên thần, chẳng có ai là ác quỷ. Tạ Tốn có tàn ác, Chu Chỉ Nhược có giảo quyệt nhẫn tâm, không hẳn là tự thâm tâm họ muốn hành động như vậy nếu không có những nỗi đau đớn, những vò xé bên trong. Họ có vẻ người hơn, do đó gần gũi với chúng ta hơn. Về tả cảnh, những đoạn như Đoàn Dự bị bắt dẫn đi trên thuyền đến nhà Cô Tô Mộ Dung trên hồ, có thể coi là một đoạn văn đẹp. Các võ công được trình bày liên quan chặt chẽ với y lý Đông phương và triết lý Dịch, Đạo cùng giáo lý đạo Phật làm người đọc trưởng thành có được một thứ ảo giác sự thật. Đó là những lý do “nội tại” làm truyện kiếm hiệp Kim Dung trở thành lôi cuốn. Nhưng lý do không phải chỉ có thế. Mọi người ở trong xã hội này, bao nhiêu năm rồi, thấy những kẻ ác bao giờ cũng được hưởng xe hơi nhà lầu, những kẻ thiện cứ úp mặt xuống hít khói và bụi. Nhưng nhu cầu muốn công bằng được thực hiện, ác giả ác báo vẫn tiềm tàng trong tâm hồn nên mọi người vui thú tìm sự thể hiện những ước vọng đó trong kiếm hiệp.

Trong tất cả những nhân vật của Kim Dung, Trương Vô Kỵ được người đọc chú ý hơn cả. Gần đây, trên một tờ báo sinh viên, tôi đã thấy một bài chê trách Vô Kỵ mải ngồi kẻ lông mày cho Triệu Minh quên cả sự hiện diện của quân Mông Cổ trên đất nước. Đã từ lâu, khi còn làm thầy đồ miền núi, tôi hay tự hỏi nền giáo dục hiện đại sẽ đưa thanh niên tới đâu. Mỗi một nền giáo dục đều bao hàm chủ đích đào tạo thanh niên thành người theo một mẫu nào đó – tôi tạm gọi là mẫu người lý tưởng. Trước kia người lý tưởng Việt Nam là kẻ sĩ. Người Pháp, vì nhu cầu thống trị, đã phá hủy giai tầng kẻ sĩ, phá hủy hệ thống giáo dục cũ, thay thế bằng một hệ thống giáo dục nhằm đào tạo những viên chức thừa hành và những trí thức quên gốc. Thu hồi lại độc lập từ 1954, những người cầm quyền miền Nam chưa ai có một ý niệm rõ rệt về một mẫu người lý tưởng mới để cho các nhà giáo dục lấy làm tiêu chuẩn soạn thảo chương trình và dạy dỗ học sinh. Trong khi ấy, cộng sản chĩa mũi dùi tấn công vào những kẻ sĩ biến thể, chê họ là anh hùng cá nhân, là trí thức tiểu tư sản, v.v. Tất cả những sự kiện đó làm tôi chú ý nhiều tới Trương Vô Kỵ, một thứ người hùng đặc biệt, Vô Kỵ võ giỏi nhưng không hiếu sát, không đánh kẻ ngã ngựa, không thù hận và tàn nhẫn quá độ với kẻ thù. Đứng đầu Minh giáo, Vô Kỵ cư xử hết lòng với thầy, tin cậy ở thiện tính của bằng hữu và thuộc hạ, không bao giờ chịu dùng những thủ đoạn xấu dù có lợi cho chính nghĩa và thà để người phụ mình còn hơn mình phụ người. Về tình cảm, Vô Kỵ yêu chân thành không để ý đến chủng tộc, giai cấp, môn phái. Yêu một cách rất tiểu tư sản: khi chưa yêu ai thực sự, muốn lấy cả Tiểu Siêu, Hân Ly, Chu Chỉ Nhược, Triệu Minh làm vợ (độc giả nào đọc Cô gái đồ long mà không ước ao lấy cả bốn cô gái kể trên thì người đó một là liệt dương, hai là đã trên 77 tuổi, ba là cán bộ cấp huyện ủy trở lên). Khi đã yêu thực sự Triệu Minh thì thôi, tất cả vũ trụ trở thành vắng ngắt. Về chính trị, tới thời kỳ sắp thành công, mọi lãnh tụ bắt đầu mở cuộc tranh giành quyền lực. Vô Kỵ từ bỏ tất cả ra đi.

Thái độ sống, quan niệm xuất xử của Vô Kỵ, tôi thấy bắt nguồn từ lâu lắm, từ Phạm Lãi treo ấn từ quan mang Tây Thi đi du ngoạn Ngũ Hồ, Trương Lương nhàn cư dưỡng tính. Tôi thiết tưởng Vô Kỵ không đáng trách khi trao ngôi Minh chủ cho Dương Tiêu, để kệ Chu Nguyên Chương giữ binh quyền thực hiện việc đuổi quân Mông Cổ trong giai đoạn chót. Bổn phận đối với dân tộc đã làm xong, bổn phận đối với đồ đệ, với nghĩa vụ, với thầy, với bằng hữu, đã thi hành trọn vẹn. Bây giờ rũ áo, mang đao Đồ Long ra đi cùng Triệu Minh, Vô Kỵ đã làm một hành động đẹp nhất đời, chàng theo quan điểm của tôi – một người trí thức tiểu tư sản.

Đọc trang cuối Cô gái đồ long, khi thấy Vô Kỵ cầm bút vẽ lông mày cho người yêu, tôi chợt khám phá ra một điều: tôi đã có lý khi chọn thái độ chống Cộng bởi vì các chính ủy ngoài bắc đã đốt hết sách Tự Lực Văn Đoàn để diệt người hùng tiểu tư sản thì tất sẽ đốt hết sách kiếm hiệp của Kim Dung, tôi cũng đã có lý khi chọn thái độ chống Cộng vì tuy lông mày người yêu tôi khá đậm không cần vẽ thêm, nhưng tôi vẫn muốn mãi mãi giữ được quyền tự do điểm nốt ruồi lên má nàng bất cứ lúc nào tôi muốn…



--------------------------------------------------------------------------------
[1]“Những kẻ sẽ chết chào Ngài”: công thức của những tay giác đấu thời La Mã chào hoàng đế trước khi vào đấu trường.

Nguồn: In xong tại nhà in Nam Sơn, 36 Nguyễn An Ninh, Sài Gòn, ngày 10-5-1966. Nam Sơn xuất bản. Giao dịch với nhà xuất bản: Trịnh Viết Đức, 36 Nguyễn An Ninh, Sài Gòn, ĐT: 21-026.

Y Uyên - Có loài chim lạ (3)

Y Uyên
Có loài chim lạ


Phụ lục

Những trang trên đã thu góp tất cả những bài viết của Y Uyên, cho tới nay chưa được in thành sách.

Một mớ di cảo, khi tới tay chúng tôi đã không còn giữ nguyên được tình trạng sơ khởi của một bản thảo, do đó việc giới thiệu trở thành khó khăn, đòi hỏi một sự sắp xếp lại tốn nhiều thời giờ và công khó.

Để kết thúc tác phẩm (được in) sau cùng của Y Uyên, chúng tôi xin lục đăng "Một câu chuyện tình", viết bởi Mang Viên Long, một người bạn thân cũ của người đã khuất. Cái chết của Y Uyên đã kết thúc một chuyện tình, một kiếp người, và đau đớn hơn cả, một sự nghiệp còn dang dở…

Toà soạn Tân Văn



*


Mang Viên Long

Một câu chuyện tình
(Viết theo sự đồng ý của chị Trần Thị Ngọc để nhớ Y Uyên)

Thị thắc mắc nhiều nhưng vẫn cố gắng thử coi sự thờ ơ của Sãi sẽ đến bao giờ mới hết. Thị đã nhiều lần tự xét, tự soi gương ngắm nghía, vẫn có kết luận là mình cũng không đến nỗi nào. Người con gái không đến nỗi xấu tệ, có lắm kẻ khen có duyên thầm thì làm sao không thể gây cho Sãi một sự chú ý, dù nhỏ như một lần đưa mắt nhìn khuôn mặt trang điểm, tà áo dài màu lụa vàng Bangkok. Và Thị vẫn chờ đợi ngày anh chàng này chịu để mắt, mở miệng.

Đã gần một tháng Sãi về đây dạy, Thị chú ý Sãi rất thường nhưng bận nào cũng thấy ghét ghét cay đắng. Sãi dửng dưng lên xe ngồi thu mình bên đường đón xe, không hề quen biết, không muốn bận tâm với sự có mặt của những người ngồi ở đó, trong số này có Thị. Có Thị nao nao chờ gặp mặt Sãi, nao nao tìm từng ánh mắt liếc nhìn nàng. Một tháng rồi, một tháng thất vọng, Thị bực tức nghĩ rủa trong bụng, xì cái anh chàng làm bộ vừa vừa chứ. Thị mỉm cười với ý nghĩ khi mô chịu mở miệng thì sẽ làm cao. Phải bắt anh chàng năn nỉ, hay ít ra cũng nằng nặc đòi theo mới bắt đầu tính chuyện. Nhưng cái ngày đó không đến, lâu quá, sốt ruột vô cùng. Ngày mà Thị hy vọng nhất là lúc Sãi vừa đến, chỉ còn chỗ ngồi cho Sãi bên cạnh Thị. Sãi ngồi vào chỗ dành cho mình không bận tâm. Xe dời bến, Thị nhìn Sãi châm tiếp một điếu thuốc, rồi nhìn Diệu cười ra mặt giận. Giận cái anh chàng làm cao, và thấy ngượng với những lời trêu chọc của bọn Diệu. Hễ vừa ôm cặp vào đến phòng là cả bọn Diệu, Ngọc, Nga, lao xao hỏi ngày hôm nay có tiến bộ gì khả quan không. Và tiếp theo đó là sự im lặng chịu trận của Thị, những lời nói ỡm ờ chọc tức Thị hơn. Khi xe quẹo vào một đường phố để tiến ra quốc lộ, Thị thấy mình có nhiều thì giờ để chờ đợi và có quá nhiều hy vọng để bắt anh chàng để mắt mở miệng. Hơi gió từ phía dưới cánh đồng dọc quốc lộ thổi mạnh dạt dào, con đường rộn ràng xe cộ ra vào thành phố. Thị đoán Sãi đang chú tâm nhìn từng toán người đi ngủ dưới phố đùm bọc về nhà, từng xe ngựa chở đầy khách ở miệt Hoà Trị, núi Sầm với gánh mẹt và hoa quả xuống chợ. Càng đoán ra công việc nghĩ ngợi của Sãi, Thị thấy tức tức sao đó. Lần đầu trong đời nàng, đã chờ đợi quá lâu với một người con trai. Có khối anh chàng rầy rà, có khối anh trồng cây si ở ngõ, ở sân từ lúc còn học Sư phạm ở Quy Nhơn, và ở phòng trọ này của bọn Thị nữa. Như một giống bắt hơi thạo, lúc bọn Thị vừa thuê phòng trọ chưa hết tuần, đã có lũ lượt anh em ngày đêm túc trực dập dìu thực vui. Nhưng với Sãi, anh chàng này làm bộ quá đi. Và Thị không biết sao mình yêu cái anh chàng kỳ cục này cho khổ. Để bọn Diệu có công việc làm lúc rỗi, đỡ buồn.

Xe chạy nối đuôi với đoàn xe GMC Mỹ qua cầu Sông Chùa. Phía sau, những xe chở nhân công đàn bà con gái làm sở Mỹ bên Phú Hiệp, Đông Tác đầy nhóc. Chú Mỹ hung hãn rú ga cho xe trờ tới sát xe Lam của Thị, và Thị cố tình tỏ rõ nỗi sợ. Tỏ rõ nỗi lo với Sãi coi anh chàng này sẽ nói sao, nhưng Sãi chỉ nhìn vội chiếc xe của chú Mỹ như thể coi thử có đụng vào thực hay chưa, rồi lại đâu vào đó cả. Nghĩa là Sãi cứ tỉnh bơ, tỉnh bơ đến phát ghét. Diệu đã nhìn Thị cười cười, con khỉ lúc nào cũng cười cười được.

Mười phút kẹt cầu, chờ tấm đỏ quay đi, Thị nghĩ ra một quyết định, xét ra cũng kỳ kỳ là mình cứ để vạt áo dài bay đậu lên người Sãi lúc xe qua cầu. Chiếc cầu dài hai mươi mốt nhịp sẽ bị cấm hút thuốc, Sãi hết việc làm và nghĩ ngợi viển vông. Lúc đó sẽ nghĩ về tà áo dài mới của mình. Thử coi anh chàng làm gì cho biết. Cầu dài gió mạnh, chắc chắn tà áo sẽ bay cuốn vào người anh chàng. Thị một lần nữa lại mỉm cười với cái ý nghĩ kỳ cục này. Khi yêu, người ta có thể làm một chuyện kỳ cục một chút có sao đâu? Trong khi đó chuyện kỳ cục này lại thành thực và ngây thơ. Thị bỗng như lần đầu trong đời bắt gặp những ý tưởng trong sáng khi nghĩ về một người tình, và bối rối trước tình yêu. Điều này làm nàng thấy vui vui trong thế giới chờ đợi, thấy nao nao trong sự hờn ghét vu vơ, vô cớ. Người lính gác ở bót đầu thổi còi, quay tấm bảng đỏ, thay tấm bảng sơn trắng. Xe vội vã nổ máy, nhưng rồi nép sát bên lề, nhường cho xe Mỹ. Xe Mỹ lúc nào cũng vội vập hung hãn như thể muốn cất cánh bay cao. Có quá nhiều lần Thị đã chứng kiến cái cảnh tai nạn bên đường của những xe Mỹ gần mấy tháng về dạy ở Phước Bình. Xe bắt đầu vào nhịp thứ nhất, gió lộng thổi siết không ngờ. Sãi nhìn bâng quơ ở bãi cát khô nước bày ra một vùng trắng mịn dưới ánh nắng buổi sáng sớm chói lọi. Sãi nhờ những chuyến xe qua cầu đối diện Thị, nhìn qua bờ vai nàng khúc sông bên kia cầu, và làng xóm một màu xanh. Lần này có Thị ngồi bên cạnh, tà áo dài cứ bay phất phới đậu vào mình. Sãi hạ tia nhìn xuống thật lâu trên tà áo dài còn vướng bên chân, để yên. Như vậy ít ra cũng có nhìn vào tà áo dài, Thị liếc Diệu cười. Và nàng cũng để yên. Thải ngồi ở cabine ngoái lại hỏi Sãi có thấy chiếc xe Honda vừa mới trợt cầu không. Sãi trả lời ấm ớ vì Sãi có thấy gì đâu, ngoài tà áo dài Thị. Và rồi Sãi cười với Thải dễ dàng.

Lần này trước giờ ra chơi, Thị vẫn đứng ở cửa lớp chờ Sãi đi ngang lại coi thử anh chàng có mở miệng chi không. Lần nào cũng vậy, Sãi lúi cúi bước qua như lớp học trống, đến nói chuyện với mấy người bạn. Những ông bạn đồng nghiệp già mà Sãi rất quý và thân tình. Từ bên này hiên lớp, Thị giữ gìn cái nhìn của mình cốt không cho Sãi biết nàng để mắt, quan sát Sãi. Cái dáng đứng dựa vào vách co ro, cái dáng hút thuốc chậm rãi, cái dáng bàn chuyện không động tác, cái dáng nào cũng đáng ghét và tức hết thảy. Thị bỏ vào bàn ngồi tìm mảnh giấy viết loằng ngoằng những chữ, không ra chữ nào. Mãi cho đến lúc tờ giấy biểu lộ rõ ràng nỗi tức giận, ghi đậm từng nét chữ quanh co nhì nhằng khó xử, Sãi đi về lớp chờ giờ đánh trống vào lớp, ghé Thị.

Dù hai người gặp nhau chỉ nói về chuyện học trò, học trò quá kém, học năm nào trả cho thầy cô năm đó, học trò khổ cực về nhà mổ bò hái củi, học trò chạy giặc lớp học trống thêm, học trò và học trò. Sau cuộc nói chuyện không tóm tắt được câu nào, chữ nào, nghĩa là nó cũng y như tờ giấy trước mặt nhưng Thị không thấy còn nỗi ẩn ức, khó xử nữa. Như được thoả mãn ước vọng bấy lâu, lúc vào lớp Thị tỏ vui với bọn học trò. Và sai đứa học trò đội trực mang gói thuốc của ông thầy lớp ba bỏ quên đem trả.

Sự thể chỉ có như vậy đến một tuần sau khi Thị đã bắt đầu nghĩ về những dự đoán của mình thì đùng một cái lúc tất cả xuống xe về nhà vội vã vì xe kẹt bên kia cầu quá lâu, Sãi ngỏ ý mời Thị và hết thảy vào quán ăn cho vui. Vị nào có cần gấp việc gia đình có thể thong thả ra về. Thị đòi về, nhưng nghĩ bụng, sao không mời riêng một mình mình? Thị có cơ hội làm cao, phải làm cao mới được. Thị bỏ đi dù Sãi đã tỏ ra mở miệng. Cuối cùng Sãi vào quán nhờ Thải ra nói hộ mình, tất nhiên là Thị nghe lời. Thải vô tình là một nhân vật có mặt trong cuộc tình của hai người. Cả hai đều quý Thải còn ở nhiều chuyện. Thị thì quý vì lòng ngay thẳng chân thật, trong lúc Sãi thường những câu hỏi phân vân. Lúc Thị bước vào quán nàng có ý dò xét những cô bạn đồng nghiệp hơn là để ý đến Sãi. Sãi, vui vẻ doạ, giờ này cô về đến nhà thế nào cũng bị đói, đâu có để dành.

Những buổi sáng sau này ra đón xe với Thị là một điều nóng lòng chờ đợi. Nàng thì nóng lòng còn Sãi thì bước chậm chạp. Từng bước của những suy tưởng mông lung về nàng mà nàng đâu có biết. Không khí xe qua cầu có vẻ vui vui hơn xưa. Sãi đã để mắt nhìn Thị, và để tai nghe những âm thanh rập rình của những thanh gỗ chao đi theo lằn bánh xe. Buổi sáng trong mát hơn lúc xe chạy vào con đường đất giữa những đám ruộng đến trường. Tiếng động vắng, ít xe, Sãi cũng đã để tai nghe những câu chuyện ngộ ngộ của Thị với Diệu, với mình. Riêng Sãi thấy có nhiều an ủi và thư thả trong những ngày chờ vào lính.

Thị viết vào một mảnh giấy nhỏ, đại ý nhờ Sãi kẻ hộ câu khẩu hiệu, rồi sai học trò mang đến. Nhận giấy đọc xong Sãi bỗng cười phấn khởi. Lại bắt đầu một chiến dịch viết thư cho tình duyên thêm phần sôi nổi, Sãi xin học trò mảnh giấy viết hồi âm: Ông thầy lớp ba làm gì kẻ khẩu hiệu được cho bà cô lớp nhất. Nhưng sau cũng phải y lệnh, nhưng là ông thầy Thải phải đem sức lao động ra mà làm thế. Thị hiểu được rằng, Sãi đã yêu mình rồi, không nghi vào chỗ nào được: Anh chàng đã biết nghe lời.

Có thể nói Sãi bước quanh tình yêu thì chậm nhưng đã vào thì có cơ phát triển mạnh. Cái chậm nó làm nền cho những việc sau này, tiến mau, vững chắc. Sãi đã dẫn xác tới nhà trọ của Thị mỗi chiều với gói bánh tai voi. Bọn Diệu, Ngọc, Nga… có dịp cười cười. Thêm cho Thị một ngại ngùng, xa vắng. Thị cũng trở lại nỗi yên ổn sau đó với Sãi, nàng hát bản Chân trời tím, Căn nhà ngoại ô… trong lúc cả hai chưa có thể nói với nhau lời nào đã định trước. Sãi không mấy khi nghe loại nhạc này, nhưng lần này thì Sãi chú ý. Chú ý cái giọng của Thị, Sãi nghĩ, chỉ nghe cái giọng cũng đủ hay chán.

Một buổi sáng Chủ nhựt, trời đã cuối đông nhưng cái lạnh và sương mù vẫn còn vây kín thành phố, Sãi dậy sớm muốn gặp Thị để nói chuyện cho ấm. Lúc đến Ngã Năm, Sãi dừng lại bên chiếc xe bán bánh bao mua bốn cái. Lúc Sãi hỏi bánh bao làm bằng thịt gì thì bà chủ quảng cáo về cái bánh bao hết mấy phút, và đính chính các nguồn tin đồn là bánh bao thịt chuột hết mấy phút nữa. Sãi ghé vào lúc Thị đã thức, ngồi hát Chân trời tím. Sãi ngồi vào ghế nói bây giờ là chân trời mù sương, cô có thấy? Thị cười huề, hỏi lại anh cầm gói gì thế? Sãi chìa gói bánh bao cho Thị, bắt ăn. Ăn cái này khỏi đi ăn sáng, ở nhà nói chuyện. Bọn Diệu cười rúc rích sau tấm màn, Sãi bảo Thị chia bánh, lẽ tất nhiên con gái phải e thẹn, ai mà ăn. Chỉ có Thị và Sãi ngồi ăn với nhau. Sãi ăn uống tự nhiên như Thị là người yêu từ muôn đời nào. Và nghĩ cười cho bọn bạn Thị cũng có mỗi người một người tình sắp đi xa, đang lâng lâng cảm giác. Cuộc tình hai người có vẻ tiến triển khả quan, không ngờ đã đến hồi nhắc lại chuyện cũ. Chuyện những ngày đầu, Thị kêu Sãi làm cao, làm bộ khỏi ai bì. Sãi đằm thắm bảo mình thực tư cách? Anh có tư cách không? Những tiếng cười đem Sãi gần Thị hơn, chẳng hạn như hai tay nắm vào nhau, những nụ hôn trên tóc.

Thị đưa Sãi ra đường trở về, Sãi hẹn buổi tối đi hóng gió mùa đông một chút, để cùng ăn hạt dưa chờ Tết. Thị trả lời nửa vời, nhưng ánh mắt Thị cho Sãi niềm hy vọng. Lúc Sãi vào tới nhà, bà chủ nhà trọ lên tiếng hỏi phải thầy lên nhà bà cô giáo không. Sãi cười. Nói chuyện quên cả ăn uống vậy cà?

Hai người đi dọc theo con đường Phan Đình Phùng ra đoạn đường ít tiếng ồn và ánh sáng. Câu chuyện ban đầu vẫn là phần nhập đề, Thị vui miệng hát bản Chân trời tím. Lúc đến cạnh chùa Bảo Tịnh, Thị chuyển từ nhạc tình cảm người lớn sang nhạc tình cảm con nít. Món sở trường của bà cô lớp nhất, trong lúc Sãi dốt về vấn đề này. Má em hừng đông đi cày bừa, tía em hừng đông đi cày bừa… Má em là một người nông dân, tía em là một người nông dân… Thị ngây thơ níu bờ rào, nhìn qua bên kia nóc giáo đường, cười nao nao. Sãi nhìn Thị xúc động như vừa viết được đoạn văn ưng ý, tìm được cảm giác lạ. Thị thôi hát, kiếm chuyện kể trên con đường số 6 dày bóng dương, riêng biệt và mát mẻ. Nàng nói đến chuyện đêm hôm qua tình cờ thức giấc, nghe Ngọc nằm mơ hát ú ớ A a a ơ kia con ve, suốt mùa hè rè re ré rè re. Sãi để nàng thong thả kể, mình thong thả nghe; nghe xong mới nói:

"Thị tưởng tượng khéo lắm, ham ngủ như em, sức mấy mà nghe người khác nằm mơ?

Thị không thấy giận nhưng cũng làm bộ giận. Dễ thường hễ yêu nhau, càng giận càng thương đó chớ? Thị làm thinh đi từng bước bên Sãi, như tách biệt. Sãi bèn cho uống thuốc an thần:

"Đâu chỉ riêng gì em ham ngủ, cả thành phố này cũng vậy nữa, đại bác trên Tháp chĩa vô tai bắn thâu đêm mà cũng ngáy khò khò đó sao?"

Và Sãi cao hứng đọc bốn câu thơ, không nhớ của ai:


Vỡ đôi trái đất một đêm sầu,
Nửa mảnh văng đi hoá nguyệt cầu.
Trên đó người yêu tôi vẫn ngủ,
Mơ màng có biết chuyện chi đâu!


Em có thấy ngủ nghê như thế là lì nhất thế giới rồi còn gì?

Nghe xong, Thị đã tỏ sớm biết điều là không bắt Sãi năn nỉ, nói cười trở lại, còn Sãi mới nhớ lại gói hạt dưa mua bỏ túi từ chiều. Nhờ Thị cầm gói hạt dưa, Sãi mò tìm điếu thuốc gắn lên môi. Thị lại nhớ tới ý nghĩ chưa nói với Sãi về vài cái tật của chàng. Thị cười cười bảo anh viết sách, anh có nhớ tới con đầm con xì không? Hay là tay viết mà đầu óc cứ nghĩ tới mấy con đó? Sãi mong được nghe những lời đó, ít ra cũng tỏ ra Thị đã nghĩ lo cho mình, và Sãi biết được những ý nghĩ của Thị không có giấu giếm. Sãi hút nhẹ một hơi thuốc, giọng nhỏ hẳn:

"Em có nghĩ là con người phải có một thói quen nào đó để trở thành xấu hay tốt không? Nói rõ hơn, phải có một công việc đeo đuổi để trở thành tốt hay xấu không? Với anh, được coi như đứng về phía những người sa đoạ, hư hỏng, anh muốn sống đủ, để được nói đủ cho thế hệ của anh. Ngoài ra, anh vẫn sống với một cuộc sống có ích, có tư cách và danh dự…"

Thị im lặng như một sự chịu lỗi, nhưng vui với lời giải đáp bấy lâu chưa tìm ra. Sãi nói tiếp, em hãy nói hết những ý nghĩ về anh, để lũ mình gần nhau hơn. Bất cứ những việc gì có liên quan tới hai đứa, tới tình yêu… Thị nhớ lại một chuyện trục trặc trước đây khi Thị cho Sãi một tấm ảnh theo lời đề nghị. Tấm ảnh đó vô tình được mấy ông bạn đồng nghiệp nhặt được trong tấm veste lúc Sãi đánh bài bỏ lại nhà người bạn. Tin tức tuy nói là giữ bí mất, nhưng lại loan đi nhanh hơn bất kỳ tin gì. Bọn bạn Thị nghe được cấp báo cho nàng, nhưng rất may tấm ảnh vẫn còn giữ lại trong tấm áo của Sãi. Sãi đến, Thị giận. Và nghĩ tầm bậy. Nghĩ đủ thứ lý do, nhưng không biết tới cái lý do Sãi đã đánh bài, vì con đầm con già, bỏ quên áo veste. Sãi buồn buồn hỏi:

"Anh có thể nói chuyện với em như trước chứ?"

Thị không giữ được nỗi hờn:

"Ảnh đâu, cho em coi?"

Sãi móc túi sau đưa ngay ra:

"Đây".

Thị lấy cất luôn, Sãi đón được ý, nhưng cũng là ý sai, Sãi bỏ về.

Mấy ngày sau vắng bóng Sãi, Thị hoảng quá, chờ lên trường. Thị tìm cách đến phòng dạy của Sãi, lời nói ướt mềm nũng nịu:

"Anh cho ai xem ảnh em?"

Sãi mới nghĩ tới cái ý mình nghĩ hôm nọ là không đúng, không ngờ cái lý do những người bạn đồng nghiệp xem hình trong áo veste lúc bỏ quên có thể đúng bất ngờ, Sãi nói giọng thực nhỏ:

"Em tưởng anh tầm thường như vậy à?"

Lúc đến gần một cánh đồng trống, Sãi kêu quay lại. Con đường số 6 tràn ngập hơi gió lạnh, cực lạnh, Thị đi nép bên Sãi. Sãi đưa chân đá những chiếc lon nằm dọc đường. Âm thanh nghe vui, và ồn trong cái vắng của những cửa hàng sắp đóng cửa. Sãi chợt nghĩ, có em anh không còn mê con đầm con già nữa.

Sãi được lệnh trình diện đi lính khoá 27, ngày cuối từ giã trường Sãi đã bắt đầu thấy cái không khí chộn rộn lo Tết của trường, tiếc không được ở bên Thị trọn vẹn những ngày chộn rộn đó. Nhưng để bù vào, Sãi và Thị đã trốn bạn bè, học trò, ăn Tết trước với hạt dưa, bánh tai heo, mứt hạt sen và bánh bao thịt chuột ở một khoảng vườn gần trường. Tết chỉ riêng của hai người, thực khó kiếm. Trong dịp này, Sãi đã nói với Thị điều đã nghĩ từ lâu: Anh sẽ gắng viết sách in thành tác phẩm để mua hạt dưa, bánh tai heo và bánh bao thịt chuột cho lũ mình đón Tết.

Nói là từ giã trường, nhưng từ giã Thị, Sãi thấy khó quá. Gặp một nỗi giận bất ngờ trước những ngày cuối gần kề (như thể tình yêu là chứa toàn giận hờn tiếp nối), Sãi bỏ vào Nha Trang để có nơi mà đi, để khỏi bận tâm đến Thị, nhưng thấy không thể chạy trốn. Chạy trốn cái gì còn được, khó lòng chạy trốn tình yêu. Từ trước Sãi đã giữ cho mình quân bình về mọi mặt, ngay trong những ván bài, nhưng với hình bóng Thị, những ý nghĩ về nàng khó mà dứt bỏ. Vào Nha Trang không tìm thấy gì ngoài những bứt rứt không nguôi. Tĩnh tâm, Sãi phải cười về sự kỳ cục lẩm cẩm của mình. Một trong những gặp gỡ làm Sãi nhớ là lần ghé đến thăm nhà văn Võ Hồng ở đường Hồng Bàng, cùng đi với một cậu học sinh quen ở Tuy Hoà. Lúc nhận ra nhau, ông bạn văn luống tuổi này đã nói về sự bề bộn của công việc nhà vì con sen mới bỏ đi, chưa thuê được người giúp. Sãi bảo, những kẻ độc thân như Sãi chẳng hạn, lại bê bối về vấn đề nhà cửa gấp bội. Nói chuyện vui vẻ một lúc, lúc ra về Sãi nhớ mãi tiếng cười và sự an lành của gia đình này. Và có dịp hình dung một ngôi nhà của mình, có Thị.

Đi đâu rồi cũng trở về, giận hờn chán rồi cũng thắm thiết hơn xưa. Đó như một định luật. Định luật của những người yêu nhau và ngỡ mối tình của mình là mối tình đầu tiên trên đời. Lại những cái hôn trước ngõ, Sãi đưa Thị đi một vòng phố lúc phố thực vắng. Cũng để làm giàu cho kỷ niệm, và để cho bọn bạn Thị có nơi để nghe những lời từ giã của người tình. Sãi mua bánh bao thịt chuột, và hạt dưa. Hai kẻ yêu nhau lang thang trên đường phố vắng, thấy thực lãng mạn, nhưng có thực. Sãi tìm những cái lon giữa đường đá mạnh cho có tiếng vang. Đi lan man nói cười trong những con đường vắng, nhưng Thị vẫn buồn cho lần ra đi này của Sãi. Sự xa cách dễ làm cho lòng người yếu đuối. Sãi cũng thấy vậy và bồi hồi thương xót Thị. Trong cuộc tình này, Sãi vẫn nghĩ mình là người được nhiều an ủi, và mong muốn Thị được vui trọn vẹn.

"Anh đi sẽ mạnh giỏi nhưng Thị sẽ phải vui nghe không? Cấm không được buồn".

"Làm răng không buồn được?"

Nghe câu nói này với giọng ướt sũng nước mắt, Sãi lại nghĩ chính mình sinh ra để làm khổ kẻ khác. Sãi thực tình không muốn chút nào Thị sẽ phải cùng chịu những khó khổ của đời mình. Sãi không muốn những giọt nước mắt tham dự vào những kỷ niệm của hai đứa, kéo Thị vào quán hỏi mua những cây pháo bông quấn giấy lòe loẹt. Sãi chia cho Thị, bật đèn đốt sáng. Con đường tối, ánh sáng hắt ra từ hai cây pháo bông vàng nghệch như nghệ, trông khuôn mặt hai đứa ngô nghê lắm thì phải. Quả thực Thị ngô nghê và ngây thơ như những đứa học trò. Lúc lên đến sân ga, gió gắt hơn, và trời tối thui, Thị sợ nép sát vào Sãi, tiếc những cây pháo bông vừa đốt nếu để dành được vài cái..

Như vậy là Sãi đã dời ngày đi Sài Gòn đến lần thứ hai. Đêm cuối đến từ giã Thị, Sãi có ý định ngày mai sẽ dời ngày đi lại một lần nữa nhưng thấy không ổn. Rồi cái ý định lên xích lô để được nói những lời từ giã cuối cùng cũng không ổn nốt. Sãi ngồi ở kệ đá ngoài hiên với Thị, dành căn nhà cho bọn bạn Thị nói cười. Tiếng ồn vọng ra với những lời ca trêu ghẹo vu vơ làm Sãi thấy thương Thị quá mức. Thương cái tội nghiệp ngây thơ, và nỗi buồn của nàng. Ngồi với nhau một hồi, ăn hết gói hạt dưa, Sãi căn dặn Thị như thể dặn dò một đứa em gái, còn quá nhỏ. Thị cũng căn dặn Sãi như thể dặn dò một đứa em trai, quá nhỏ. Khi yêu, Sãi nghĩ, người ta có quyền muốn người yêu nghe theo những lời mình, kỹ lưỡng và bắt buộc. Có vậy tình yêu mới ra tình yêu, em có cần nói những gì để nhắn nhủ anh nữa thôi?

Thị vào lấy thêm một tấm hình trông rõ hơn để tặng Sãi trước khi Sãi về. Sãi nói anh sẽ nhờ người bạn hoạ sĩ vẽ cho em một cái khi vào đến Sài Gòn. Cái hôn đầu ngõ dài như không bao giờ dứt. Tấm áo len đỏ êm ái trong hơi thở, và những chiếc vòng bạc nơi tay Thị cũng reo bên tai.



*


Vào đến Sài Gòn trong những ngày chờ vào trại Sãi đã thực sự nhớ lại tỉ mỉ một mớ ngổn ngang những kỷ niệm, nào bánh tai heo, bánh bao thịt chuột, vốc hạt dưa, những chiếc lon thiếc, áo len đỏ vòng bạc, những bản tân nhạc cải lương, và chiếc hôn đêm cuối giã từ quá dài. Từ đó, Sãi nghĩ rằng chỉ có mùa đông này Sãi đã sống thực trọn vẹn và vội vã. Sãi tiếc những tháng ngày gặp Thị quá muộn màng, quá nhanh chóng. Cái nhanh ám ảnh Sãi hoài trong những giấc ngủ trưa từng miếng mộng vá víu với hình dáng Thị ngẩn ngơ, với giọng nói chi mô nghịch ngợm. Và Sãi cũng thực sự quên hẳn những lần Thị chọc tức mình với những câu nói úp mở, những con già con đầm, và một mớ những hình ảnh lộn xộn bông đùa.

Sãi ngồi hẳn dậy nhìn ra khoảng đất trống dày bóng cây bên cạnh nhà thấy nỗi yên tĩnh này dễ gợi cho nhớ Thị. Và lòng bồn chồn thương nhớ. Có thể nói ký ức Sãi lúc này hoạt động mạnh, lòng nghĩ thầm, Sãi phải viết tới ít chục lá thư mới xài hết những kỷ niệm. Sãi thấy hãnh diện. Và tới bàn viết tiếp cho Thị lá thư thứ tư, trong những lá thư chờ ngày vào lính.

Sài Gòn, ngày 10 tháng 1 năm 1969

Thị,

Định hôm nay đi nhưng bạn bè bắt đầu xuất hiện, gặp mặt đành nấn đá ở lại. Đêm qua đi coi một phim đầu tiên từ hôm về Sài Gòn. Phim hiếm và hay. Sáng nay ngủ tới 10 giờ nên hiện giờ hết buồn ngủ trưa, ngồi viết thư số 4 cho Thị (số 4 có nghĩa là thứ tư 13/12, cũng có nhiều nghĩa khác nữa. Cứ chờ mắt lúc thực sáng, nghĩ sẽ thấy rõ tức thì). Nghe nói 22/1 khoá mới khai giảng, vì vậy trong khi chờ đợi, Thị gởi thư theo địa chỉ ngoài bao bì. Mong đến độ nóng ruột. Hãy viết liền cho anh và nếu có thể viết dài như những vòng "luân hồi" hai đứa đi mỗi đêm. Hồi sớm nằm trên giường, nghe một giọng nữ trong máy thâu thanh hát "Tía em, má em…" bỗng nhớ lời Thị hát, cười lúc lũ mình vừa đi đến một ngôi chùa Cát. Tự dưng có một ý nghĩ thực ngông, có một giấc mộng nghe thực ham: Từ giờ tới Tết chắc sẽ gặp Thị ở Sài Gòn. Nhảm quá phải không? Nhưng dù sao cũng có những hình ảnh đó trong đầu: Thị, Thải, bọn Diệu … Như vậy cũng là một đời sống. Đời sống không thực tế nhưng có thực. Gán ý xấu, đó là ảo tưởng. Ghép cho nghĩa tốt, đó là tình yêu, phải vậy không? Nói theo… loại sách "học làm người": Đời, ai không sống bằng tưởng tượng? Nếu không tưởng tượng sao có ngộ nhận, những lầm lẫn về mình, về người khác? Nếu không có tưởng tượng sao có được văn hoá, con người văn minh? Thôi, nói chuyện sách vở miết, lại cười ngất như nói chuyện âm nhạc hôm nào nữa. Những thứ đó bề sâu (chữ của Thị) không bao giờ vượt quá cái bề dày vật chất của nó, nói đến cái lon đá lăn long lóc trên mặt đường nghe còn vang nhiều âm điệu tình cảm hơn.

Chiều nay ngồi viết cho Thị và vài người bạn ở Tuy Hoà, nghe tiếng pháo xung quanh bắt đầu nổ nhiều hơn. Như Tết đã tới. Cái Tết miền Nam khô nóng quá nghĩ thấy nhàm. Cái Tết miền trung lại có vẻ thu hẹp, đơn chiếc quá. Đó là ý nghĩ thực chủ quan của anh lúc này. Dường như chỉ có cái Tết ăn hạt dưa, ăn bánh bao của tụi mình vừa qua mới thực là Tết, thực dân tộc tính (?).

Nhớ viết đều cho anh và gắng nói cho rõ ràng minh bạch, miễn dùng "chi mô đó" để bắt anh tứ thời phải làm bài tập ngữ vựng tìm lời thích hợp mà điền vào các chỗ trống cho hợp nghĩa?

Thương Thị.
Anh

Sãi vừa bước vào ngưỡng cửa chị Tẩu đã hỏi sao cậu tính hôm nào mới chịu vận đồ lính, húi tóc ngắn. Sãi cười nói bạn bè mỗi lúc một xuất hiện, thấy chưa yên tâm để cởi đồ dân sự. Chị Tẩu đã tỏ theo dõi và thường chìu Sãi mọi việc y như Sãi còn bé tí. Từ món ăn Sãi ưa thích, cái mặc Sãi nhờ may, và những mẩu tâm sự khó nói trong lòng cần thố lộ cho nó vơi đi đôi chút. Sãi vẫn thường sống kín đáo, nhưng cái kín đáo đó được thông đồng một cách rất thông cảm của chị. Do đó, chiều qua sau khi viết thư xong cho Thị, Sãi đã ra sân ngồi dưới tàn bóng cây mát nhìn ánh nắng chiều phía ngoài vườn cây, cùng chị Tẩu nói chuyện. Dĩ nhiên là chuyện về Thị, và hai tấm ảnh. Có mối tình nào giữ kín cho riêng hai kẻ yêu nhau đâu? Như khi yêu phải được có người tâm sự để càng thấy yêu thêm và hy vọng. Sãi đã tỏ lắm lời cà kê về thiên tình cảm nồng nàn này của mình. Sãi bắt chị nghe chuyện những chuyến xe qua cầu Đà Rằng, những buổi sáng tới trường, những đêm lang thang đốt pháo bông khắp ngả phố, những lời ca Chân trời tím thiết tha… Nói tóm, Sãi vớ được chị Tẩu để chia sớt nỗi nhớ thương mông lung của mình. Như chị Tẩu phải dành cho Sãi những buổi chiều vắng bạn, ngồi dưới tàn bóng cây, nhìn cây hoa trước ngõ, nhìn ánh nắng sau vườn, mà nghe kể chuyện Thị. Chị Tẩu vẫn thường thích thú trong những lần tham dự những gặp gỡ như thế với Sãi, để mong em vui, và mình vui với em. Cuộc sống vì thế giản dị và mật thiết mà mỗi lúc xa nhà quá lâu, Sãi thấy nhớ, nhớ vô cùng.

Cuộc nói chuyện tình đang ở hồi sôi nổi thì Khuê vào với tiếng nói cười ồn ồn. Có bạn có bè tất có đi rông, dạo phố, Sãi hăm hở sửa soạn đi với Khuê như đã có hẹn mà ngồi chờ. Sãi nghĩ, mình phải đi thêm để có cái viết cho Thị đọc, và cũng để chân cẳng được tự do thoả mãn trước hàng kẽm gai buộc đôi chân từ bỏ những thói quen động đậy lang thang. Những lúc nhớ tới Thị, Sãi thường tìm một công việc làm. Đi lang thang như thể có dịp gặp Thị bất ngờ ở đâu đó, trong làn sóng người chen chúc sắm sửa Tết.

Đi và ngủ lại nhà người bạn đến trưa Sãi mới mò về nhà. Ở nhà, Sãi như con chim quen thói, bay đi xa rồi lại trở về lồng. Chị Tẩu hỏi lại cậu tính bao giờ đi làm quan, Sãi nói đi làm quan bất đắc dĩ nên cứ nấn ná ở nhà viết thư cho cô giáo dốt văn phạm. Nhớ lại kỷ niệm cũng là một cách tỏ yêu thương cao độ đó chứ? Sãi ham viết thư đến nỗi mới giãi áo ra, đã mò cây viết. Chị Tẩu nhìn Sãi cười. Viết xong thư và bì thư Sãi nghĩ đây mới thực là lá thư cuối cùng trong những ngày chờ vào lính. Và ngày mai chuyến thư Sài Gòn sẽ đi Tuy Hoà để Thị đọc từng câu, từng đoạn trước giấc ngủ.

Những ngày vào đến quân trường cái đầu đã húi cao trông kỳ kỳ, bộ đồ rộng dày mang vào mình, Sãi chưa nghĩ là mình thực sự là lính. Và bắt đầu trông thư Thị sau những lần đi tập ở bãi về, chạy ào vào phòng tìm thư. Sãi vốn không ưa thích một nghề gì nên chuyện làm lính không hấp dẫn được Sãi. Do đó, trước ngày nhập ngũ, Sãi đã nói với Thị là rất ít kể chuyện lính. Tuy Sãi bây giờ trông vào là biết lính thực: Quần áo xốc xếch, còn mặt mũi cũng sạm đen.

Lúc Sãi đang tìm giấc ngủ vội vàng trước giờ đi tập thì được người bạn cùng phòng gọi dậy, có thư. Sãi ngồi chồm dậy, tỏ vui xôn xao. Cầm thư mới biết không phải thư Thị, lại buồn. Đọc nốt lá thư, thư của một độc giả gửi tới, lại nằm xuống ngủ. Sãi nghĩ từ lúc gặp Thị, yêu Thị, Sãi có những cái kỳ cục buồn cười hết sức. Như nhỏ lại, và thơ ngây. Giấc ngủ đến thực mau không ngờ.

Nghe tiếng cười nói ồn ào nổi lên trong phòng, ngoài hiên, Sãi thức dậy theo thói quen cho một giấc ngủ trưa ngắn ngủi. Lại nghe người bạn gọi có thư, Sãi ngơ ngác phân vân sao một ngày lại có đến hai chuyến thư. Lần này thì thư Thị. Thư này được người bạn lấy ở tiểu đoàn. Chờ giờ học, Sãi ra sân tìm một bóng mát vắng đọc thư Thị.

KBC 4100 ngày 1.6.1968

Thị,

Trưa nay ngủ dậy thì nghe gọi có thư Thị, anh phải "hối lộ"cho người bạn mới được đọc thư Tuy Hoà. Thị có mường tượng được những lá thư để trên đầu giường đi đâu về bắt gặp bất ngờ, và những lá thư sau một giấc ngủ nặng nhọc buồn phiền không? Lần này mới có thư nặng trọng lượng một tí và là thư kép. Hồi chiều cầm chổi đi làm tạp dịch ở ngoài khu nhà tiếp tân (sửa soạn để mai Chủ nhựt, thân nhân SVSQ tới thăm) quét phòng xong, ra ngồi bãi cỏ đọc thư, lần thứ hai. Và đang ngồi bên mớ súng ống gác đêm ở trong phòng học, đọc thêm lần nữa để thương thêm nỗi nhớ xôn xao sửa soạn ra đi của Thị. Thị đi có một mình và trước khi đi (9 giờ 30 phút sáng) còn gắng viết cho anh. Thương và thương thêm mãi ở chỗ đó. 9 giờ 30 phút sáng ngày anh đi, đâu có phải lủi thủi như Thị, phải không? Anh đã viết một thư về Huế cho Thị, và sau đó, hôm 28.5 có người bạn về Tuy Hoà, dù rất bận, anh đã lợi dụng cơ hội ngàn năm một thuở đó, nhờ Thải mua giúp một cái ví Bangkok để người bạn này mang ra cho em gọi là một chút kỷ niệm những ngày anh ở trong này. Anh nhớ Thị có về Huế cũng vào cỡ đầu tháng (chờ lĩnh lương, chờ máy bay), không ngờ Thị đi sớm thế. Như vậy, chắc người bạn ngoài đó sẽ gởi ra Huế. Mong là Thị sớm có mặt ngoài đó để biết mặt mũi cái ví với màu sắc lòe loẹt (màu sắc của chùa chiền xứ Thái) cổ kính đó ra sao? Có tò mò muốn biết tại sao anh thích chiếc ví Thái Lan? Dễ hiểu, nếu Thị nhớ là những chiếc áo soie Thái Lan đã có hồi anh ưa thích. Trang vừa rồi là anh… kể chuyện - một trang phần anh - trang này là trang anh hỏi han - một trang của phần Thị - Thị có vẻ hơi lúng túng hoặc hơi đắn đo khi nói chuyện về thăm nhà. Và sau đó lại là những hàng chữ dập xoá. Giọng thư này làm anh không kìm được tính xấu như mọi khi, tò mò… đọc cho ra những chữ bị bôi xoá đó. Dường như Thị nói "yếu đuối" sao sao đó (tha lỗi cho anh). Và tự nhiên là anh phải nghĩ ngợi, mơ hồ thấy có lỗi với Thị. Lỗi đã yêu em chẳng hạn. Điều đó anh có thể nói được điều Thị nghĩ mà không sợ anh buồn hoặc em cảm thấy bị xâm phạm. Trước sau anh chắc chắn được điều này: Bao giờ anh cũng yêu, quý Thị. Vì vậy, đừng dồn nén xúc động làm chi cho tội, cứ viết như Thị rung cảm, như Thị cũng có một điều tha thiết để theo đuổi như mọi người. Trong lá thư chẳng cần bắt chân cẳng chạy lung tung từ chuyện nọ tới chuyện kia, như một cô bé vô tư đùa giỡn với nắng, với hoa cỏ, với trời mây. Nói như vậy, anh chỉ có ý nghĩ bảo Thị nếu có vấn đề gì lo nghĩ, cứ viết với anh. Ngoài ra, anh vẫn thương những hình ảnh trèo cây hái quả, ngủ vùi… lộn xộn với nhau trong một thứ quen thuộc nhưng nhiều công đợi chờ. Thị biết thương cái ngơ ngác của con ngựa cô đơn, lẽ nào anh không thực yêu người tình ở lại tìm hoa tìm quả đùa chơi một mình?

Có kịp nhận mấy thư dài dài của anh không? Trong đó anh có nói không bao giờ anh ghen. Anh không ghen với nỗi cô đơn của Thị, thì bây giờ, không lẽ nào Thị ghen với… một đôi già? Anh phì cười và ngạc nhiên không ít khi nghe Thị kiếm đâu được "tài liệu" đắt giá đó. Nói cho anh nghe đỡ tò mò? Bao giờ tiện anh sẽ gởi cho em một cuốn sách có một nhân vật nói câu đó. Như vậy, Thị thêm một lần nữa hiểu anh, đừng có lộn những cái anh viết với những cái anh sống. Hơn nữa, "sợ và thêm vào ít bất mãn" làm chi cho mệt? Anh đâu có sinh ra để đánh bài?

Tới giờ, nghĩa là chỉ còn hai tháng nữa sẽ ra trường, anh cũng chưa biết cái mùi lang thang chiều thứ bảy trừ vài lần phép hồi Sài Gòn còn yên. Vậy Thị cứ yên tâm, sẽ có rất nhiều thì giờ để viết cho Thị. Cái khó là ở chỗ nói sao cho Thị cảm thấy nhớ Thị mà thôi. Thị vẫn im lìm mặc dù hầu như thư nào anh cũng hỏi thăm về các bạn cũ của bọn mình? Nói cho anh theo dõi một chút chớ.

Ra Quy Nhơn nhớ chụp hình và gởi vào cho anh. Lần nữa anh lặp lại: Chúng mình nghĩ về nhau như một điều tự nhiên thì những lo lắng cho nhau cũng là tự nhiên. Đừng chờ có thư anh rồi mới viết, đừng chờ có hình anh rồi mới chụp gởi vào. Có chuyện gì vui vui lạ lạ kể anh nghe. Ồn quá, anh ngừng. Thương buổi sáng sửa soạn và những dòng viết hối hả cho anh trước khi ra Quy Nhơn.

Hôn em.
Anh.

Những ngày gần cuối khoá Sãi được phép về Sài Gòn đều và những cái phép đặc biệt để lo báo. Đi phép như là một ước muốn thói quen, nhiều lúc được ra giữa đường, không biết là mình sẽ làm gì cho hết thì giờ. Vậy mà cũng vẫn đi phép. Sãi nghĩ giá có Thị ở đâu đây thì những lần dời quân trường sẽ có mùi vị. Nhiều bận xuống đến Sài Gòn, đi lơ ngơ, gặp toàn những bè bạn mặc ka-ki, rủ vào quán, rủ chui vào xi-nê, rủ đi lông bông. Sãi cũng thường tìm về nhà dưới Gò Vấp vào những lúc mỏi chân cẳng, và muốn được nằm hưởng cái không khí gia đình cho đỡ nhớ. Về nhà, sờ tới những bộ đồ lúc còn đi dạy, Sãi thấy chúng lạ lạ sao đó, như một loại hàng mới nhập cảng. Phần trang điểm dân sự đặc biệt ở khoá này, coi như khó có. Và Sãi thấy chịu lời người bạn: Mình không mặc được loại áo quần nào mà trông đẹp trai như bộ ka-ki. Sãi nghĩ thêm, lười biếng như mình, mặc thứ này cũng tiện. Đi, đứng, nằm, lết… đều được cả. Trái với những lần đi phép trước, lần này, lần cuối, Sãi trở về với những nỗi lo bồn chồn, không rõ nét. Từ trước, Sãi vẫn mong có một cuộc sống nhiều nhiều thay đổi một chút, để có thêm cái lạ để viết, nên thấy không nên bị lôi cuốn bởi nỗi lo lắng của bạn bè về vấn đề đi đâu, ngành gì. Nhưng dù sao nỗi chờ đợi quá quắt đó cũng làm Sãi ít thấy yên. Điều quyết định làm Sãi vui là sẽ trở về với Thị ở Tuy Hoà trong vài ngày trước khi đến đơn vị. Và Sãi chờ đợi ngày ra đi với những dự tưởng phong phú trong đầu: Áo len đỏ, vòng bạc, bánh bao thịt chuột, Chân trời tím, nụ hôn đêm từ biệt.



*


Chị Tẩu chuẩn bị cho lần ra đi này của Sãi với nỗi hoang mang ngùi ngùi. Sãi được về Phan Thiết, lính con rùa. May xong bốn chiếc quần cộc, hai chiếc đỏ hai chiếc rằn, chị Tẩu nhắc lại, màu đỏ là màu máu, cậu có nghe anh Thung nói không? Sãi cười cười, tôi ưa màu đỏ áo len. Chị Tẩu chỉ biết chìu Sãi, nhưng chị vẫn không ngớt hoang mang sao đó về chuyến ra đi của em. Khác với những lần trở về, ra đi trước lúc còn dạy học ở Tuy Hoà, chuyến ra đi với cuộc sống nhiều đổi thay bất ổn dành sẵn cho Sãi ở một miền núi rừng nào đó ám ảnh chị, rồi chị không vui mấy. Sãi bảo nhỏ với chị, tôi đi sống đời lính thú cho biết rồi chắc cũng được trở về với con nít, với cô giáo áo đỏ, vòng bạc, chị đừng có lo.

Con chim bắt đầu dời khỏi lồng, Sãi đi Nha Trang với một người bạn trước khi đến Tuy Hoà. Vừa bị xúc động bởi quá nhiều chuyến ra đi, ở lại của bạn bè, Sãi thấy mình cũng yếu đuối, cần có Thị bên cạnh để được trở lại cái mức độ bình thường. Vô số hình ảnh lộn xộn trong đầu, âm thanh của tiếng reo vòng bạc bên tai đêm từ biệt, tiếng hát tân nhạc cải lương Căn nhà ngoại ô cũng lao xao trong trí nhớ. Dường như, từ ngày vào lính Sãi cũng chỉ sống nhiều cho ký ức thôi. Sãi cố tình để cho sự tưởng tượng hoạt động nhanh. Nào Thị áo đỏ nơi phòng trọ cũ, buổi chiều ở con đường số 6, đêm đêm lang thang ở các ngõ vắng… Tưởng tượng làm Sãi vui và nghĩ, lần này chắc sẽ có nhiều chuyện kỳ kỳ hơn.

Thị từ Huế vào Tuy Hoà một tuần trước ngày khai giảng, Sãi đến Tuy Hoà trong lúc Thị còn hưởng một tuần còn sót cho mùa hạ. Như vậy sẽ tha hồ mà nói chuyện cho bù lại những ngày mỗi đứa bị đày mỗi ngả. Sãi hăm hở, hấp tấp tìm tới Thị trước buổi chiều xuống thấp. Thị gặp Sãi kêu:

"Anh Sãi, anh Sãi mới về?"

Thị cười tíu mắt, nghịch ngợm một chút trong vẻ ngây thơ dành cho một người lính đi xa về:

"Răng anh ốm rứa? Anh viết thư nói với em mập lắm mà?"

Sãi muốn nói bằng một cái hôn, cái hôn nói được tất. Và Sãi tưởng tượng ra cái hôn chắc phải dài hơn đêm hôm ra đi, nhưng cười nói:

"Anh đã nói cái mập đời lính sớm nở tối tàn, bây giờ anh đang ở vào cái lúc tàn. Mập một hồi, rồi đâu cũng vào đó cả".

Sãi nhìn kỹ gương mặt như có lần tẩn mẩn ngồi lục tấm ảnh ra xem, Sãi giọng buồn:

"Sao em có vẻ hao gầy nhiều thế?"

"Có răng không?"

"Anh lại thương hơn cái vẻ hao gầy đó của Thị…"

Vẫn mớ tóc biếng chải một chút, gương mặt ngây ngô có chút hốt hoảng chưa tỉnh, dáng điệu hao gầy ngờ nghệch, Sãi thương quá cái xót xa của Thị trong những ngày đợi chờ. Sãi kêu Thị đã không nghe lời dặn hãy ăn ngủ cho thật nhiều vào.

"Thị…"

Sãi nôn nao được sống trở lại cái không khí cũ, cùng Thị ra đường, cùng Thị đi lan man như những ngày mùa đông năm ngoái. Thành phố gió cát nên đã vắng thêm nỗi xác xơ thật đáng thương. Những con đường đêm tối cùng đi, cùng ăn hạt dưa, bánh bao thịt chuột còn đó với sự mong chờ kiên nhẫn như Thị. Sãi bảo, anh chỉ có hai hôm để cùng em sống lại cho những kỷ niệm và dự định.

Buổi tối trở về thân mật trong con ngõ vắng sực nức hoa sầu đông. Sãi đưa Thị ghé thăm nhà trọ cũ, Sãi giới thiệu Thị với bà chủ nhà:

"Má, cô giáo của con đây này…"

Thị cười thẹn bên Sãi, chiu chắt. Thị ngồi cạnh Sãi trước hiên nhà, quá vắng. Căn nhà trước đây là nơi ồn ào của bọn Sãi với những hôm tụ nhau lại đánh bài, nói dóc và bàn chuyện chống Ty. Sãi thấy có chút ngậm ngùi cho sự có mặt, trở lại của mình, trong lúc Điều, Khuê, Ẩn… đã làm lính đi xa. Đã một đời xuôi ngược.

Tự dưng Sãi ngồi cười cười một mình, Sãi cười cười cái vồ vập ít tìm ra nơi mình xưa nay. Sãi nghĩ, lúc này người có nghị lực mấy cũng ít giữ được cái bình tĩnh trước cuộc sống. Không sống vội không xong. Cuộc sống chỉ có hai ngày. Hai ngày là hai đêm. Lúc nghe tiếng còi thúc giục ngoài phố, Sãi đưa Thị về, giới nghiêm. Những tham lam mong đợi làm gì có thể yên với những người yêu nhau, như Sãi, như Thị trong một buổi chiều buổi tối. Sãi vẫn thấy là mình chưa nói được một phần những gì mình nghĩ, cho Thị. Cho người yêu nuôi dưỡng bấy lâu trong những giấc mơ. Con ngõ tối mù, Sãi hẹn sáng sớm mai lên đón, Thị gật đầu cười.

Ròng rã hai ngày Sãi và Thị ngồi giữ góc bàn ở nhà trọ cũ nói chuyện đến nỗi quên cả cơm nước. Ngồi bên người yêu, không ăn cũng no, Sãi thấy quả có đúng phần nào. Những bữa ăn không giờ giấc qua loa chuẩn bị cho một cuộc tiếp tục nói chuyện dài hơn, giúp Sãi tìm thấy nỗi an ủi cho ngày ra đi. Những ly nước cam Sãi tự tay ra quán mua về, để đó đến lạt rồi đổ. Kỷ niệm ghi thêm cái góc phòng, những ly nước cam, gói mứt hạt sen… Thành phố này quá quen với Sãi, với Thị. Sãi muốn có một sự im vắng của cái góc phòng để sống với Thị cho thực nhiều "năm phút đứng đắn" trong một ngày.

"Thị, bây giờ lũ mình không phải chỉ sống với những kỷ niệm rực rỡ, mà cả với những thực tế của anh, của em…"

Tình yêu mà có vài lần xa cách sẽ làm đậm nét tình yêu hơn, đó là một cách nói mà Sãi nhắn nhủ Thị. Sãi đã dành cả buổi sáng ở công viên chờ giờ xe chạy, để nói với Thị những câu dặn dò hơn yêu thương. Chứng tỏ đã có nhiều nỗi lo trong lòng cả hai. Và cũng bắt đầu cho những chua xót phải có trong những cuộc tình. Sãi thấy lòng mình lại nao nao như lần trở về, như vừa gặp Thị. Sãi nhìn vu vơ lên đầu đường Trần Hưng Đạo từng cơn gió cát bốc mù. Gió khô và gay gắt nóng. Lúc xe trờ tới trình giấy tờ xong, Sãi mới chịu dời Thị, nhảy lên.

"Anh đi sẽ mạnh giỏi nhưng em phải đừng buồn…"

Có cuộc tiễn đưa nào mà không buồn đâu, có chuyến ra đi nào mà không xuôi cho lòng yếu đuối trong cuộc sống vây phủ yêu thương? Thị khóc, Sãi bùi ngùi. Thương và lo cho nỗi xốc xếch lôi thôi hao gầy của Thị với dáng dấp bé bỏng của cô em gái nhiều tình nghĩa phải sống với những ngày kế tiếp cô đơn.

Sãi đến trình diện trễ trong lúc nhiều người đã được đưa đi các đại đội thực tập nên sáng chiều hai buổi phải có mặt vài phút rồi trở về qua sông ngồi uống café. Con sông chia đôi thành phố, làm thành phố có vẻ tách biệt dễ thương. Chiều hôm mới tới Phan Thiết, nhìn thành phố rộng rãi, và có vẻ ngơ ngác của một tỉnh lẻ, Sãi thấy mến thành phố này. Rồi lại đi coi máy bay thả bom ngoài tỉnh, Sãi nhận ra tình hình ở đây chắc không được yên lắm. Thành phố khép nép, sợ sệt, cửa đóng như một buổi chiều nhàn hạ cuối năm. Sãi không thấy buồn gì về những nguy hiểm đang chờ đợi, có nghĩ chỉ thêm mệt xác. Và thoáng có ý ngông ngông là mong có súng để được đi đánh nhau cho biết. Trở về, qua sông mua tờ báo đọc Tiếu ngạo giang hồ, và nghĩ tiếp đến Thị, cười cười một mình.

Ở bên này và bên kia sông, Sãi đều có nơi để ghé lại, vui vẻ và thân tình. Nhà bà bác rất thương Sãi, và nhà người bạn có khi yên ổn của cuộc sống công chức. Và hai cô gái để bàn chuyện lúc buồn. Sãi nghĩ, với cái đà bắt bạn nhanh này Sãi sẽ thấy đỡ cô quạnh, tìm lại cái không khí rộn rã tiếng cười lúc ở nhà. Sãi thấy lo cho Thị với những ý nghĩ ra đi biền biệt về mình của nàng, nhưng rồi yên tâm trở lại khi tính biết lá thư nặng trọng lượng 15 trang vừa gởi, chắc đã tới Thị vào chiều nay.

Sãi nhận được lệnh đến đóng tại đồn Nora, cách Phan Thiết chừng 30km, sát quốc lộ 1 về phía bắc. Đồn ở trên một ngọn đồi gồm nhiều căn "nhà" bằng bao cát, rộng và chắc. Sãi hôm mới đến đã thấy thích cái đồn này khi từ trên đồn nhìn xuống quan sát xóm nhà nằm kề quốc lộ. Chung quanh có đồi thấp, rừng thưa. Một người lính nhìn Sãi cười, chuẩn uý lên đây tha hồ bắn chim, ăn thịt chim, và đọc chưởng…

Sau một ngày hành quân vượt qua nhiều đồi, suối và làng xóm, Sãi và đại đội mò xuống quốc lộ, ngồi chờ xe tới chở về phố. Sãi mới nhớ, ngày mai là ngày Chủ nhật. Thêm một ngày nghỉ cuối tuần, một nỗi vui trở về sau một cuộc hành quân không sứt mẻ. Sãi được gợi lên nhiều ý nghĩ chia xa nhiều nhất. Và ngay cái thành phố Sãi và bạn bè vừa từ giã lúc sáng, có ai tin chắc được là họ sẽ trở về vào buổi chiều với bữa cơm chờ sẵn? Với tách café, và tờ báo khi qua bên kia sông? Do đó, Sãi mong được sống yên bên những giãi bày yêu thương với Thị, và dự định trở về bên nàng nếu cuộc chiến chỉ dợt mình như trò chơi, rồi trả Sãi về với dự ước riêng. Sãi nao nao khi hình dung đến một cuốn truyện mình định viết, tha thiết từng ngày như tình yêu Thị. Ngay cả lúc dừng quân, nằm lơ vơ trên một ngọn đồi lạ, úp nón sắt lên mặt. Sãi thèm quá hơi gió mát trên đồi, sắc nước trong dưới suối, và những cánh đồng hoang nhiều cỏ may. Sãi định bụng sẽ viết cho Thị những ý tưởng đó, và chỉ có bấy nhiêu thôi.

Xe dừng lại đổ lính xuống, Sãi đi tìm ngay một ly café, cho buổi chiều, không nghĩ tới buổi cơm. Bữa ăn lúc trưa với thịt con chim so đũa, với lít rượu đế, vẫn còn nồng đầy trong bụng. Tự dưng Sãi lại cười, khi ăn hết con chim so đũa và uống hết nửa chai rượu, ông Trung uý đại đội trưởng mới nhớ là mình phải ăn chay, kiêng rượu và thịt.

Trở về nhà người bạn với Sãi để được hưởng lại cái không khí đầm ấm, với bà già vui chuyện, người bạn nhiều tâm sự, hai cô gái có người tình vừa đi xa, và những lá thư của Thị, của bạn bè nằm chờ sẵn. Trong những ngày ở đó, Thị đã là đề tài nhiều hấp dẫn cho Sãi nói đến, nghĩ ngợi và vui vui với những tưởng tượng quay quần trong đầu. Sãi dần dần nhớ lại hết thảy, nhất là hình dáng hao gầy, lôi thôi của Thị trong hai ngày về thăm lại. Cuộc sống một tháng đôi lần được trở về phố yên lành, giúp Sãi tin hơn ở những dự tính đã nghĩ, đã bàn với Thị.

Nora, ngày 1.2.1968

Thị,

Tháng này coi như em không có thư cho anh. Nhiều buổi chiều có người từ Phan Thiết mang sách báo và thư lên, không thấy có tuồng chữ em, buồn. Hồi hôm, trăng sáng đến độ không ngủ được, hết ngồi trên xe GMC coi đánh bài (chớ không đánh bài) lại trèo lên "lốc" nằm, bốn giờ sáng mơ thấy em với nhiều chuyện lộn xộn không mạch lạc, tỉnh dậy nhớ quá, uống trà rồi viết được ít hàng lại xé bỏ. Anh chợt thấy một "câu hỏi" có thể giải thích tại sao em không viết cho anh: Có phải vì anh quá thành thực (nói đủ mọi chuyện) nên anh bị nghi ngờ và làm em nản? Nếu đúng vậy, cũng chẳng có gì đáng trách về phần em. Còn phần anh có lẽ cũng… không đáng trách nốt. Cái tính vốn dễ gây xa cách vì ngộ nhận, quen thói rồi, thây kệ. Còn nhớ số 13/12 anh bảo em ghi sau tấm hình đầu tiên đưa anh? Khi nhận thư này, biết đâu cũng là ngày tháng đó. Khác chăng, mùa lạnh năm nay mỗi đứa một nơi. Riêng anh, thì núi đồi này, chim chóc và rừng cây khô lá này làm anh viển vông thêm và không ngớt mơ mộng. Trong nỗi mơ mộng dông dài đó, chuyện tình chúng mình vẫn là thứ dễ hồi tưởng và có rất nhiều ngậm ngùi (như thể tình yêu là những tội nghiệp và dễ thương) tuy cũng rất nhiều dịu dàng xao xuyến: Mấy hôm rồi, đầu tuần trăng, anh xuống xóm uống tới tối mới lên, tới giữa dốc anh nằm dài và muốn nằm dài thế mãi. Những lời muốn đi xa, muốn quên hết của em, những cách xa giữa anh và những thân tình ở chỗ này, chốn nọ, đã tạo cho anh những đêm như vậy. Nằm dài trên dốc bất kể bạn bè và lính chờ, anh vui thích nghĩ là đang sống những phút quên thôi, cho anh, cho em. Những gì em ao ước nhưng không thể thực hiện thì anh đang sống thế cho em, đừng có ham và cũng đừng có đòi nữa.

Nói như vậy cũng chưa hết cái lạ trong mùa này đâu (lạ ở đây có nghĩa: Những gì anh sống khác hồi này năm ngoái). Những buổi ngồi trên cái xe xọc xạch chạy về Phan Thiết, ào vào nhà quen tìm lại chút thân thuộc gia đình rồi lại dời thành phố cùng những mớ hàng hoá vợ lính cười giỡn ồn ào, anh cho đó là những buổi chiều tự thấy mình xa xôi, biền biệt nhất. Bình thường thì sau những lúc đó phải viết cho em. Nhưng hồi này, dường như em cứ bướng bỉnh cố tự tạo một không khí riêng mà buồn, anh "bất khả" can thiệp, khiến anh đã nghĩ em hết còn muốn anh phiền hà để riêng em, em sống? Nếu đúng vậy, em không nói ra, em dở hết cỡ. Mình vốn "tôn trọng luật pháp công minh, 2 + 2 = 4" mà. Còn nhớ câu danh ngôn: "Sự học như con thuyền trên dòng nước ngược, không tiến thì lùi"? Tình yêu là một sự học không? Trả lời thử coi, đừng làm biếng. Không đâu. Những cái học được trong tình yêu đắt giá quá, học chi cho mệt. Nhưng nó giống sự học ở chỗ không tiến thì lùi phải không?

Anh vừa viết xong khúc đầu một cuốn sách. Em được mô tả một cách hết sức kỳ cục. Chừng nào có báo Xuân anh gửi cho coi sẽ rõ. Giờ thì anh viết một cuốn khác. Còn cuốn kia, định chừng nào về gặp lại em, hỏi ý em rồi viết tiếp. Em có muốn cái nhân vật giống em đó có… một đứa con để dẫn đi phố cho vui vào cuối cuốn sách?

Em vẫn còn ở chỗ cũ? Nói rõ em sống lúc này ra sao? Bạn bè đi lính vừa rồi có ghé về Tuy Hoà? Chắc bây giờ họ chịu đời lính hơn đời dạy học. Tâm trạng chung mà. Sống thì sống đời lính mới là tuổi trẻ và bay bướm. Trừ anh, anh chỉ cần một chỗ ngồi tán dóc với bè bạn, một xó xỉnh để ngồi một mình mà viết, nên rất mong về dạy lại. Mỗi ngày một buổi qua cầu, về làng dạy học, còn lại là của mình. Em chịu đựng được lối sống đó?

Bắt đầu nói chuyện về quê ăn Tết và… lấy chồng chưa? Tết năm nay chắc không phải chạy mỏi chân và sợ máy bay như Tết năm rồi đâu. Sống ở Tuy Hoà thì dường như chẳng có gì, nhưng đi xa mới thấy có nhiều thứ lẩm cẩm đáng nhớ. Sao Tết này chính phủ không phát động một chiến dịch các cô giáo đi thăm các tiền đồn để chúng mình gặp nhau trong hoàn cảnh lắt léo, ly kỳ?

Nhớ là phải viết ngay cho anh sau khi nhận được thư này. Em bắt đầu phải mặc áo ấm mùa lạnh năm ngoái chưa?

Anh. [1]



*


Chiều ngày thứ bảy 10 tháng 1 năm 1969, Thị rủ Nga cùng xuống phố để nhận thư và sắm ít đồ trước ngày về nghỉ Tết, Mai đưa cho Thị tấm điện tín: Sãi tử trận tại Phan Thiết, ngày 8 tháng 1 năm 1969. Nguyễn Hiếu Học. Thị bàng hoàng, se sắt. Hình dáng Sãi lúi hủi bước tới, giọng nói trầm ấm bông đùa, trở lại như vừa mới gặp Sãi lúc sáng ở trường. Thị phân vân, nghĩ bụng, có lẽ lại là một sự thử thách?

Đúng như Thị đã nghĩ, quả đó là một thử thách nhưng lớn lao hơn cho nàng vì Sãi đã chết thực. Chúng ta không ngờ đoạn kết của câu chuyện tình giữa Sãi và Thị như thế. Sãi đến với Thị và ra đi mãi mãi đúng một năm "một năm tròn cho một mối tình giữa thời ly loạn, phải chăng đã là quá dài? Tình yêu, tuổi trẻ…, trong ngọn lửa hung tàn, phi nhân, dễ bén cháy và tàn mục còn hơn những xác lá vật vờ cuốn theo chiều gió.

Sãi đã ra đi, có thể về miền cao nhất. Còn lại Thị, Thị và những kỷ niệm lây lất buồn rầu, trên cõi trần gian đầy hệ luỵ – chỗ dung thân thấp nhất của kiếp người cô đơn, bé bỏng…

Tuy Hoà, ngày 10.3. 1969
Mang Viên Long



--------------------------------------------------------------------------------
[1]Ba bức thư trích dẫn trong bài là do chính Y Uyên viết.

Nguồn: Có loài chim lạ, truyện Y Uyên, mẫu bìa của Duy Thanh, chân dung Y Uyên được vẽ bởi Duy Thanh. In tại nhà in riêng của Cơ sở Văn, xong ngày 10-12-1971. Nguyệt san Tân Văn số 44, tháng 12 năm 1971. Ấn hành lần thứ nhất.

Y Uyên - Có loài chim lạ (2)

Y Uyên
Có loài chim lạ


Khói trên mặt nước

Về sáng, lúc đàn ngỗng kêu dáo dác, Dần thấy mẹ và em gái đã dậy sửa soạn thùng để hứng nước mưa. Giấc ngủ trong gian buồng bừa bộn đồ dùng con nít của Tấm, yên ổn không mộng mị. Trời đổ mưa. Dần ra ngoài giúp con Tấm đổ nước vào phuy. Một vài trái sáng cuối đêm nom rõ dù trong cột khói, rải rác, tản mát. Bóng tối đầy lại thực mau với cơn lạnh nhiều hơi nước trở vào, Dần hình dung căn nhà về sáng có Thục ướt át chuyển những thùng nước giúp mẹ. Chuông nhà thờ phía sông đổ hồi gọi con chiên buổi sớm. Dần hỏi mẹ:

"Anh ấy đã có vợ con gì chưa?"

Mẹ Dần bật cười:

"Hỏi ngớ ngẩn như Mán xuống núi. Vợ nó là con Cả Sán chứ ai".

Dần đột ngột thấy trí nhớ rung động trong sự tìm quen mờ mịt. Những cái tên riêng như lời hướng dẫn nửa chừng. Anh Tốt. Chỉ còn một cái tên đó soi rõ. Con Tấm ngồi thủ bọc trên giường bảo:

"Có những cái chum của bà ngoại ở đây thì thích quá.

Mẹ Dần hỏi như không định:

"Bà ngoại có hỏi gì về tin tức dì Phong?"

Dần lắc đầu:

"Không thấy bà nhắc tới. Trừ lúc bà bảo "Mày giống dì Phong mày". Con cũng giấu chuyện mẹ gặp dì ấy".

"Già rồi bà bắt đầu lẫn… Nói nói bữa nay về ăn giỗ Dần-anh mà không biết có thực không?"

Mẹ Dần cười không rõ rệt. Con Tấm vặn máy thu thanh nho nhỏ nghe buổi đọc truyện về sáng. Truyện Chung Vô Diệm với tiếng kèn hát bội réo rắt bít kín thông cảm. Truyện đọc thực hay. Trong cảnh nửa tối nửa sáng, mẹ Dần có vẻ dạn dĩ trong ham thích nói về họ ngoại. Dần lười biếng để lòng mang về những đời sống không có ở đây. Giấc ngủ chưa dứt hẳn. Những điều nhớ về anh Tốt, những lời nghe mẹ nói mơ mơ như thoảng qua. Mẹ Dần tỏ ra ít khe khắt nghe bà ngoại nói Dần giống dì Phong. Trước giờ bà vẫn giận những ví von kiểu đó. Thực tình, bà không muốn con cái giống mẹ. Những người đã khuất bên họ ngoại còn được nhớ tới bây giờ thường có cái chết xanh xao của ý tưởng. Chén độc dược và bài thơ tự thuật trên mặt thành của một sĩ phu thủ tiết. Phát súng kê vào màng tang của một người Cần Vương với đám tàn quân không tìm được hướng để vọng bái anh quân trước khi tự kết liễu. Những bài vè ngạo cợt của một người áo dài khăn đóng dán lén ở cổng đình, cột chợ và vuông vải trắng trên cành cây vào mùa xuân đám trai gái đánh đu chạy ùa ra đầu làng đón quan công sứ. Người cậu ồn ào đòi hỏi và kết tội bừa bãi với cặp mắt mệt mỏi chậm rãi khép lại vĩnh viễn như một nhận thức về liên hệ xã hội vào phút chót. Giờ thì dì Phong bỏ đi như người cuối cùng của dòng lãng mạn. Những người đó đã sống và chết theo từng luồng tư tưởng mỗi thời. Họ không ăn nhằm gì vào buổi sớm nay. Như Chung Vô Diệm với tiếng kèn hát bội réo rắt. Buổi sáng nay không có chi đặc biệt. Ngoài tiếng ngỗng dáo dác, tiếng mưa và dự tính sẽ gặp anh Tốt coi xem mặt mũi anh có khác trước chút nào.

Cơn mưa tạnh dần, trời hửng sáng. Mẹ và hai đứa nhỏ đi khỏi. Đàn ngỗng ra khỏi chuồng dẫn nhau về sân trước coi nhà. Dần thay quần áo đi về mạn bờ sông. Bên kia sông là khu chợ và vài con phố mới lập. Bà con Dần thực nhiều bên đó. Một cây cầu gẫy sập ở kế khúc quanh. Mặt trời mới, như nỗi náo nức quanh quẩn. Luồng nước sáng dần chảy chậm qua những vòm sắt cong queo. Dần nhớ những buổi sáng mấy anh em đi với mẹ ra đầu cầu sông Cái chờ cha. Một con đò sang ngang chở những người vận áo vải mới và mấy vòng hoa cho một đám ma bên nhà thờ. Dần nghĩ giá có Thục cùng đi. Thục vẫn che giấu bớt vẻ một mình lủi thủi của Dần. Những chiếc thuyền đang dời chỗ đậu mang theo những luồng khói trôi nổi trên mặt nước. Dần chào mấy người quen vội vã qua sông để vào thành phố làm thêm ngày Chủ nhật. Chủ nhật. Ngày mai sẽ gặp lại Thục dưới chân pho tượng đồng.

Qua sông và một cánh đồng hẹp, tới khu phố chợ. Những dãy nhà tôn, nhà lá lẫn lộn. Những con đường ổ gà có bóng mát của hàng cây mới trồng, trên mười năm. Đám bà con không có gì đổi khác. Vẫn những ồn ào nằm gọn trong lòng cánh đồng phẳng lặng lại gần mới biết. Cuộc sống lao động không có nổi những nhát cuốc bổ trên mặt đất tự đánh dấu. Anh Tốt. Tiếng vang không gợi được hình sắt hiện sinh. Anh như một cái bóng trong truyện, đã lùi thực xa. Mồ côi từ nhỏ, khi hai tay ôm nổi cái chổi lá cau anh đã sống trên mảnh sân Bát Tràng nhà Dần. Vào những ngày loạn đến gần, anh bắt đầu vỡ tiếng và khoẻ như cái cối đá. Cha Dần mang mấy người con lớn đi những chuyến đò dọc lên Thái Nguyên. Còn lại mẹ Dần mang thai con Hài, anh Tốt và Dần ở nhà. Những buổi chiều rủ Dần ra đóng cổng, anh vỗ bụng tự xưng là cái hột mít. Tháng tám mưa trên nền nhà trồng rau cải. Ao hồ nước lên cao, bèo non nở kín dầy mặt nước. Đi trên đường làng đầy những hàng rào chướng ngại, anh Tốt tít mắt thấy Dần đồng lõa cho uống trộm một ngụm rượu mua về cho mẹ chữa bệnh. Anh làm bộ ngất ngưởng đá vung những đám lá dừa làm giật mình những con ếch chồm hỗm trên những cụm bèo dưới ao. Giọng vỡ tiếng nghe lạ như của một người say thực. Anh hát: "Giờ đây con với u đi tìm thầy, tìm thầy mấy tháng nay mà không thấy…". Mẹ Dần bảo gở, cấm hát, nhưng anh không chừa. Anh kiếm đâu được chữ bí mật đem ra doạ Dần: "Tao còn biết nhiều bài bí mật nữa, khi nào thích mới hát. Nhiều đêm anh xin phép mẹ Dần cho đi công tác. Mờ sáng anh mò về thì thầm với Dần tối qua anh đi với thực nhiều người, đi thực xa. Dần thì cho là anh bắt đầu mê gái. Vào một buổi chiều Dần đang ngồi câu cá ở bờ ao, anh Tốt từ đâu về hớt hải nói giặc tới. Mẹ Dần sắp tới ngày sinh, tính với anh Tốt tìm nơi an toàn để ở yên một chỗ. Không có nơi nào ngoài quê ngoại của mẹ Dần ở trong vùng địch. Ba người sửa soạn thực mau. Ra tới đầu ngõ hai mẹ con Dần phải đứng chờ một hồi lâu anh Tốt mới đóng xong cổng, kiếm được một lối bí mật để ra ngoài. Buổi chiều mưa. Những đoàn người bỗng tụ bỗng tản mát trên những cánh đồng, những khu xóm lạ. Những chuyến đò qua hồ, qua mương với những người đàn ông cởi truồng, những đàn bà váy phùng mặt nước bơi theo. Nơi nào cũng như có súng giặc nổ chặn đường. Gần tối, đám người chạy những đoạn đường gần đã khuất vào các thôn xóm. Còn lại ba người. Hai đứa nhỏ rét lạnh và người đàn bà trên bờ đê đứt khúc bỡ ngỡ định hướng tìm quê ngoại. Khi tới nơi, mẹ con Dần được đón tiếp thực niềm nở. Anh Tốt và Dần ôm nhau ngủ trong căn buồng chứa khoai chứa củ. Một ngày trên đất lạ, Dần và anh Tốt làm mẹ Dần cũng nhớ nhà lây. Quê cũ của bà ngoại không làm mẹ Dần yên lòng. Dần nghe anh Tốt kể chuyện vào buổi sáng hai người rủ nhau ra vườn lánh những mặt lạ. Đứng rũ dưới cây khế ngọt, những lúc ngơ ngẩn, trí nhớ loãng, không bắt được một mẩu chuyện để an ủi Dần, anh hát "Giờ đây con với u đi tìm thầy…". Ba người lại trở về vào buổi chiều. Nhá nhem tối chưa đi được nửa quãng đường tuy lần này không phải chạy xa tiếng súng. Những cây cầu cheo leo ngang sông, những vũng nước ngập đầu giữa đường và những xóm nhà xa không ánh đèn. Anh Tốt trỏ một ngôi chùa bị phá dở dang, nói đã có đêm cùng đoàn người xuống tận đây dỡ ngói. Anh tả suốt đêm phải khom lưng trên mái chùa muốn gẫy lưng. Dần chắc anh bịa nhưng thích nghe. Cuộc phiêu lưu của anh đầy những thế bò và mang mọi người lại gần, làm quen với những cảnh hoang sơ xa lạ. Về tới khu chợ, trời đã khuya. Những cây đa, cây đề um tùm bóng tối, những gian quán lợp ngói bỏ không, khúc rẽ của ma lợn, ngôi miễu ma trơi, chiếc võng trong rặng tre của một bà già mù xõa tóc kẽo kẹt trong đêm. Anh Tốt cắm đầu bước. Im bặt lời bịa đặt phiêu lưu. Nhà bà ngoại ở ngay đầu làng, mẹ Dần định sẽ vào ở đó chờ sáng sớm về. Tới cổng làng mới nghe tiếng anh Tốt. Đột ngột tiếng đứa trẻ đập tay vào cánh gỗ lim cùng tiếng gọi thảng thốt của một giọng khàn khàn vịt đực. Dần nghĩ ngày mai đón Thục dưới chân pho tượng đồng sẽ có thêm chuyện nói. Vào tới con đường đất đỏ chạy giữa hai dãy nhà, Dần gặp chị Lý.

"Về hồi nào đó cậu?"

"Được vài hôm".

Chị Lý đang ngồi chơi với đứa con trai dưới giàn hoa giấy. Hai mẹ con bỏ dở cuộc nô giỡn. Dần cầm bàn tay còn hai ngón của thằng bé dắt vào nhà. Chị Lý theo sau rối rít hỏi chuyện. Dần hỏi:

"Chủ nhật ăn lương gấp rưỡi sao không đi làm?"

"Làm mãi, chết xác để lấy tiền nuôi béo nó à?"

Dần nhìn khắp nhà chắc chồng chị đi vắng. Dần cười với thằng bé trố mắt ngồi trên đùi. Nghe Dần nói sang gặp anh Tốt, chị bảo anh chắc quanh quẩn ở một bàn bạc nào đó. Từ bữa ở chi Chiêu Hồi được về, anh ở mỗi nhà mấy bữa, ăn no lại nằm. Chỉ có nhà chị là tệ, chị đi làm, chồng chị đi hút cho béo, anh Tốt ghé chơi có lệ. Dần hỏi:

"Hai vợ chồng chắc đã lộn xộn?"

Chị Lý kêu lớn nguyền rủa. Chị bảo thằng nghiện đó vẫn không ngớt nhắc tới quả pháo tống hồi tết. Tối qua, thằng chết đâm lại cuốn tóc chị đánh như đánh kẻ thù. Chị thấp giọng:

"Nó vẫn còn tiếc những lóng ngón tay của thằng bé gói trong giấy bông đỏ vứt ngoài sông".

Dần hút một điếu Salem trong gói thuốc chị Lý. Căn phòng đầy những đồ Mỹ. Chị Lý khoe mới lên lương. "Phải giấu, không cho thằng chết đâm biết". Răng chị nom lạ mắt. Lặp lại chuyện tối qua, chị vẫn muốn la hét với cái mồm mới cạo răng trắng.

"Bao giờ cô Thục cho chị ăn cỗ?"

Chị hỏi lúc Dần đứng dậy. Dần bảo:

"Tối nay giỗ trăm ngày Dần-anh, hai mẹ con sang chơi".

Ngoài đường mưa rơi nhỏ. Dần đi thẳng tới nhà anh rể. Dưới mái tôn trước nhà, xe gắn máy để thành hàng. Chắc của đám đánh bạc. Ngày nghỉ không phải trực trong đồn, anh Kính vẫn mời mấy người làm sở Mỹ tới ăn uống, đánh bài để lấy xâu. Dần vào nhà, vợ chồng anh Kính có vẻ mừng. Dần chào mấy người ở bàn tổ tôm, có ý kiếm anh Tốt.

"Nó vừa đi mua phở cho anh Thắng".

Anh Kính nói. Thắng ngồi ở bàn tổ tôm cười bảo Dần:

"Bây giờ nom đồng chí già gấp hai tuổi cậu".

Dần hỏi Thắng:

"Nghe anh sắp nạp đơn vào Quốc hội?"

"Thì cũng mới định vậy. Anh em họ giục dữ quá".

Anh Kính hiền lành nhìn Thắng nói và cười phụ. Dần bảo anh:

"Vợ con binh sĩ, công chức mỗi người được thêm hai trăm tiền gạo, cũng đỡ?"

Anh Kính cười rộng thêm:

"Thì cũng biết mừng vậy".

Cánh cửa đẩy hé cho một người bước vào. Dần gọi:

"Anh Tốt".

Người đàn ông tay xách cái gà mèn bỏ nón, ngạc nhiên nhìn Dần.

"Anh già quá, anh Tốt".

Anh Kính đón cái gà mèn chuyển vào bàn tổ tôm. Tốt cười:

"Anh nom cũng lớn".

Dần bảo lại bàn uống nước nói chuyện, Tốt lấy trong túi áo bà ba một xấp giấy vuông nom như giấy lau đũa bát ở một tiệm ăn, nhón một tờ lau bộ mặt lởm chởm râu ướt nước. Anh Kính vứt cho hai người một gói thuốc thơm. Tốt kéo vài điếu nhô ra, mời Dần:

"Vào tới đây cái gì cũng thấy lạ".

Bộ mặt Tốt vẫn tròn, mắt vẫn híp nhưng hai vai thực gầy. Dần hỏi:

"Ở ngoài ấy có mấy con rồi?"

Tốt cười híp mắt. Tiếng trả lời không rõ. Trong buồng, chị Kính ru con: "Làng Phù Đổng có một người. Sinh ra chẳng nói chẳng cười trơ trơ. Những ngờ oan trái bao giờ. Nào hay thần tướng đợi giờ ra quân…".

Dần nhìn ra ngoài trời, bảo Tốt ra kiếm la-de uống chơi. Hai người ra một cái quán gần cánh đồng. Tốt bắt đầu bỡ ngỡ. Anh cười nói dóc rằng, người đàn bà mặc váy cầm cái vồ đứng bên cái chuông bằng vỏ bom báo chí trong này đăng hình chính là vợ anh. Vẻ lù dù của mái tóc rậm và đôi vai so giảm bớt ở cái cười tinh quái thoáng có. Dần hỏi anh có dự định gì không. Anh bảo chắc Thắng sẽ giúp việc làm. Giờ tới ngày bầu cử, anh sẽ đi vận động cho Thắng.

"Anh ấy bảo có muốn lấy vợ anh ấy giúp".

Tốt nói. Dần bật cười không tin:

"Hắn lấy vợ cho hắn còn chưa xong, giúp được ai. Ở khu chợ này đám con gái già không đứa nào không chửi hắn. Hắn ứng cử vì hỏi vợ mãi không ai ưng".

Tốt hỏi:

"Anh không ưa anh ấy?"

"Dần-anh còn sống mấy lần suýt đập lộn với hắn. Dần-anh ghét hàng ria mép của Thắng".

Dần cười dài nắn nắn cánh tay xâm chằng chịt của Tốt, thấy hai người nói những chuyện trẻ con lúc nào không hay. Trỏ chữ tím thẫm trên da, Dần hỏi:

"Xâm hồi nào đó?"

Tốt tít mắt:

"Làm ở chi Chiêu Hồi. Họ bảo đó là chữ Sát Cộng. Cái đầu rồng làm thêm ở ngực mới đẹp".

Dần đùa:

"Nếu còn chỗ nên xâm thêm cái hình vợ anh đánh chuông".

Lúc trở về, mưa tạnh, nắng sáng trong, Dần gặp người chú tuyệt ngôn đội mũ nịt, để râu ba chòm, vận quần áo sồi mới rảo tới nhà anh Kính chầu rìa tổ tôm. Dần bảo Tốt:

"Ghé nhà ông Cổn một chút".

Hai người rẽ vào một khu vườn nhỏ có mấy dãy nhà nuôi gà. Ông Cổn đang đứng bên cái máy ấp trứng. Thấy Dần, ông vỗ cái máy:

"Mười ngàn đó. Cũ nhưng còn tốt".

Ông Cổn không mấy khi tỏ cảm tình lúc đột nhiên có một đứa con, đứa cháu trở về. Ông bảo tụi nó có mặt hay vắng mặt cũng thế thôi. Nhưng sau khi thằng con thứ tư - thằng Ơn - đi nốt, ông kêu khu phố chợ này đã hết con trai.

"Tối nay chú sang ăn giỗ".

Dần nói. Ông Cổn nhìn Dần, nghiêm trang nghe ngóng. Ông gật:

"À, một trăm ngày thằng Dần-anh".

Ông lại bàn uống nước. Dần hỏi:

"Thím đâu chú?"

"À, bà ấy vẫn quanh quẩn đâu đó".

Dáng to béo nặng nề của ông xoay trở trên ghế. Ông rót nước vào mấy cái tách, giọng lửng lơ:

"Đã có đàn gà nuôi đôi vợ chồng già này".

Dần hỏi chuyện chăn nuôi để khỏi nghe những chuyện khác. Ông Cổn ồn ào kể và cười lớn. Trại gà, cái máy ấp trứng không để ông có chỗ sàm sỡ, thân mật một cách giả dối. Vẻ cười cười nói nói của ông vẫn bao ngoài nỗi xa cách với gia đình Dần. Những người ở đây cũng không khác. Từ hồi cha Dần mất, mối liên hệ hàng ngày chỉ còn với vài ba người quên được mẹ Dần là con quan. "Cái dòng họ dâm loạn vì giàu sang, chết cuồng vì chữ nghĩa", có lần người ở đây đã chuyền nhau câu nói đó của ông Cổn. Giờ thì chỉ chị Kính và Dần-anh thực sự được họ hàng nhìn nhận. Chị Kính vì biết sống cho chồng con. Dần-anh thì không có cái chết giống mấy người bên họ ngoại. Hắn không kịp quay lại phát súng nổ phía sau.

Ở nhà ông Cổn trở ra, Tốt bảo Dần ghé chơi chỗ ở của anh. Dần bảo trước giờ chưa vào nhà Thắng, để khi khác. Dần hẹn tối Tốt sang rồi trở về. Qua sông, nắng loáng trên mặt nước rộng. Dần nhìn bờ cỏ cao chạy trước mặt thấy như vừa chợt có nỗi cảm tình phí phạm, tào lao. Thục vẫn như ước muốn được tìm đến, gặp mặt kèm nỗi bâng khuâng hình dung được nơi chốn và nhan sắc.



*


Ông Cổn nói cười nhiều nhất. Ông nói chuyện đám con ông và mỉa mai Thắng. Thanh niên khu phố chợ đã đi hết. Thắng mà trúng cử chắc không còn nhận ra họ hàng. Thắng mà được một đứa gái già bỏ phiếu thì chắc hết loạn. Giờ hắn không cưỡi vespa, rà rà đi tán gái nữa. Mỗi buổi chiều, đám con gái thường thấy hắn mượn xe của viên Ty trưởng già, tập lái trong khu phố. Hắn để đầu mượt và ngậm Hav-A-Tampa. Đã có mấy con chó bị cán chết. Ông Cổn kết luận:

"Cũng may, thanh niên đi hết, đường phố vắng vẻ xe cộ".

Trời tối mau. Không thấy dì Phong về. Ông Cổn và mấy người nữa sợ mưa, ăn trước rồi về. Đám trẻ nhỏ được chị Kính nom cho ăn uống ở đi-văng cười la ồn ồn. Tốt và anh Kính từ ngoài giàn mướp trước nhà đi vào. Cả hai áo đều bỏ trong quần nom tươm tất. Anh Kính nói vào Địa phương quân, ở gần nhà cũng đỡ, chỉ kẹt không biết bao giờ giải ngũ. Tốt nói nếu sang năm phải đi quân dịch, chắc phải nhờ Thắng xin cho vào Nghĩa quân. Chị Lý đang bày bàn ăn đùa anh Kính:

"Đầu óc mấy người giờ chỉ có một thứ phải gió đó".

Anh Kính đùa lại:

"Còn chị thì hết chết đâm đến phải gió. Hết phải gió đến chết đâm. Tôi mà là anh ấy, tôi cũng biết khện".

Người chú tuyệt ngôn ngồi trước mấy đĩa ăn chay, theo dõi hai người đối đáp và cười. Mẹ Dần mệt đã vào nhà trong nằm, anh Kính trở nên vui chuyện. Anh bảo chị Lý:

"Lâu lắm mới được ngồi ăn với bà chị. Có dám say một bữa không?"

Chị Lý cười lớn:

"Bữa tiễn thằng Ke Nơn về nước, mấy thằng phải gió lén đổ huýt-ky vào la-de, người ta vẫn cười nói như thường. Chưa biết rồi đứa nào say, đừng có thách".

Mọi người quây quanh bàn ăn. Người chú tuyệt ngôn ngồi riêng một góc. Dần rót cho ông một ly la-de:

"Bữa nay chú uống nhiều một chút cho vui".

Chị Lý so đũa cho ông:

"Chú cứ uống cho say. Nếu say quá, cháu trở về gọi thím thuê ghe sang chở chú về".

Trời bắt đầu mưa. Con Tấm đi lùa ngỗng về vào nhà gọi Hài mang đèn ra cổng lượm một mớ truyền đơn đả đảo bầu cử mang xuống bếp đốt. Anh Kính, chị Lý không ngớt thách đố nhau. Tốt, Dần, người chú tuyệt ngôn bị nài, uống theo cũng nhiều. Hai gò má cao từ hồi người chồng nghiện bắt đầu đỏ óng. Chị Lý cười, nói lớn như đã thực sự quên có hồi chị thực đẹp. Anh Kính đã dám quát lúc mấy đứa con bu quanh "Mẹ bảo bố đừng say", "Mẹ bảo bố đừng say". Tốt thầm thì bên tai Dần: "Không phải người đàn bà nào cũng cầm vồ nện vào vỏ bom báo động". Giọng Tốt nhỏ, còn tỉnh, như rời xa bộ mặt nạ, gồ ghề và yên tĩnh. Anh ta lấy ra xấp giấy lau bát đũa ở tiệm ăn đưa mỗi người vài tờ lau miệng, rồi bảo Dần:

"Cứ mưa này, la-de này mãi, bụt cũng phải nhớ vợ nhớ con".

Tốt không say. Những ly la-de chỉ tạo một hứng khởi nửa chừng, chưa đủ làm Tốt thành ồn ào. Người chú tuyệt ngôn thiêm thiếp giữa những khua động ly chén, bát đũa và tiếng cười không mỏi. Ngoài Tốt, không ai quen được chất rượu. Những chai la-de mẹ Dần khuyên uống từ trước tới giờ vẫn như một liều thuốc có chút ít chếnh choáng. Dần ngả đầu, bỏ tay đũa, ngậm một điếu thuốc dường như đã tắt, không còn muốn cựa quậy. Dì Phong không về. Mẹ Dần từ nhà trong ra như vừa qua một lúc chợp mắt. Bà có vẻ lạ, thấy vẫn còn người ăn và tiếng ồn ào dưới ngọn đèn thu nhỏ ánh sáng ngôi nhà. Bà không lại gần nhưng có ý kiếm Dần xem có còn ngồi đó? Bà lại phía bàn thờ thổi tắt nốt mẩu nến đã ngả bấc. Bức hình Dần-anh ngồi vắt chân ngửa cổ hút thuốc trong lòng chiếc ghế sa-lông nhà một người bạn nào đó bớt vẻ ngỗ nghịch. Bà thắp thêm vài nén nhang. Dần chợt nhớ buổi chiều tắm bãi Trời Trồng với đám học trò và đêm gió to mang người đàn bà có đôi tay đen đủi về giấu trong nhà bà ngoại. Thấy khó chịu, Dần ngồi thẳng dậy châm điếu thuốc đã tắt. Chiếc mũ bịt đầu, mấy chòm râu, tấm áo sồi tươi màu của người chú tuyệt ngôn khiến Dần chợt bỡ ngỡ như vừa mới chợp mắt. Dần bỏ vào nhà trong nằm. Trong lúc chập chờn, Dần nghe như mọi người ra về giữa lúc còn mưa lớn. Dần mơ nằm chung với Thục. Thục cười bảo anh gối đầu ê cả cánh tay em. Em vừa mơ thấy hai đứa qua sông. Vì anh cấm thoa phấn nên lúc đó mặt em thực tái. Vì anh gối đầu lên cánh tay nên lúc đó em chỉ thấy còn mỗi một cánh tay. Dần tỉnh dậy mưa đã im. Dì Phong không về thực. Dần ra ngoài kiếm nước uống. Một ngọn đèn bóng sơn đỏ thắp ở bàn thờ Dần-anh. Mẹ Dần đã buông mùng đi nằm. Con Tấm kể lại lúc về Tốt phải cõng người chú tuyệt ngôn. Hai chị em nó chưa ngủ. Hai đứa nói còn sớm, trời mưa nên tưởng đã khuya. Chúng đang ngồi trên ghế áp mặt lên bàn vặn ra-dô nho nhỏ nghe với nhau chương trình "Gia đình". Có tiếng một đám trẻ nhỏ nô giỡn reo cười ở đâu đó như từ trong bầu trời mông lung những làn sóng điện.



*



Có heo may Hà Nội

Tôi chạy đến thì anh tôi đã bỏ đi. Một đám đông bu trước tiệm nước. Chiếc khăn bàn anh tôi ngồi rũ xuống một góc được giữ lại bằng một lưỡi dao ngập trên bàn. Người đàn bà chủ tiệm mặt tái xám, đứng chôn chân trước quầy hàng, tay nắm chặt mấy tờ giấy trăm thật mới. Mấy người nữ chiêu đãi đang cúi xuống chân bàn lượm các mảnh vỡ, hót đống bún bò lẫn mùi la-de, lựa những chiếc nem nhớp nháp như bị mửa lên. Tôi quay trở ra, không có ý đi tìm gặp anh tôi, nhưng tôi cũng không về nhà. Thầy mẹ tôi chắc sốt ruột lắm. Tôi ghé lại nhà cô Út tôi. Cô hỏi:

"Anh cháu về chưa?"

Tôi đáp:

"Anh ấy đang ở trên đường về nhà".

Cô tôi lạ lùng:

"Cháu nói gì kỳ thôi, cô không hiểu".

Tôi lại bên chiếc đôn sứ góc nhà vặn nhạc.

"Thấy thầy mẹ cháu, các cô chờ anh ấy hoài, có vẻ quan trọng, cháu cũng nói vậy cho có vẻ quan trọng".

Cô tôi bật cười bổ cho tôi một trái táo. Chú tôi chưa về. Nhà đã bật điện. Một đứa tớ gái lên hỏi:

"Mợ dùng cơm bây giờ hay chờ cậu cháu?"

Tôi bảo cô tôi:

"Cô cho cháu ăn cơm tối nay".

"Cháu không gấp chứ?"

"Không".

Cô tôi bảo đứa tớ gái:

"Thôi, chờ cậu mày về cùng ăn".

Hai cô cháu tôi ngồi đối diện nhau. Tôi nói:

"Cho phép cháu doãi chân cho đỡ mỏi".

Tôi dựa lưng vào băng ghế, hai chân doãi dài trên mặt đất. Cô tôi ngồi lọt trong ghế, nom cô mập và lòng ghế hẹp hẳn đi.

"Đám giỗ hoãn lại một ngày là phải. Anh cháu về kịp".

Cô tôi nói như thầy mẹ tôi. Nhưng tôi không dám cãi. Tôi bảo mẹ tôi anh tôi sẽ không vui khi biết đám giỗ hoãn lại chờ anh. Mẹ tôi giận: "Anh con nếu có lởn vởn trong đầu một đám giỗ, là đám giỗ anh ấy".

Cô tôi đoán được tâm trạng tôi, phân giải:

"Anh cháu về đúng ngày giỗ đủ mặt họ hàng, tết đến nếu làm biếng, không đi thăm bà con cũng được".

"Cô nói có lý".

Tôi nói nhưng thấy cô tôi không đúng. Anh tôi đâu có sợ làm phiền họ hàng bao giờ. Nguyên đời sống của anh khiến anh ít liên lạc với bà con, huống hồ anh lại tự biệt lập với tất cả. Một lần đã lâu anh bảo tôi: "Thà vơ vất trong thực tại này còn hơn dựa vào những ung thối đã qua mà sống với một tình yêu giả tạo". Tôi không ưa những bất mãn, nổi nóng nhằm làm nổi mình hơn nhằm một biểu lộ cần thiết, nên tôi rất chịu anh tôi. Nghe anh nói, tôi giữ sự lễ phép của người em thụ huấn huynh trưởng.

Tối, chú tôi về. Hai chú cháu vừa ăn vừa nói chuyện – đúng hơn, tôi nghe – Tự tình khúc của Cao Bá Nhạ, mặc cảm dốt của một ông tướng đã thất thế, và Cô gái Đồ Long. Chú tôi Kim Dung là một thiên tài. Tôi thêm: "Một thiên tài viết kiếm hiệp". Chú tôi nhỏ hơn, thấp hơn cô tôi. Có lẽ vì vậy chú hay tỏ ra uy quyền với vợ và bọn học trò mà chú tự hào sống gần được tâm trạng chúng.

"Bọn chúng sinh nhằm cái xã hội này như những con ngựa bứt cương. Phải có đời sống bứt cương mới trị được".

Thì ra chú tôi là người "bứt cương". Nói chuyện với chú tôi vẫn có ngạc nhiên những đột ngột vì biết thêm một sự lạ ở chú như thế. Có lần chú nói đến những kẻ xoay như con thò lò sáu mặt, tôi hết hiểu nổi chú.

"Cháu có thấy bây giờ người ta đọc nhiều kiếm hiệp là để quên đi những cái đùi giò bò…"

Tôi đáp: "Người ta đọc kiếm hiệp còn nói viết và suy nghĩ về kiếm hiệp".

Tôi cười: "Vừa rồi, chú có viết một bài về Trương Vô Kỵ? Những anh hùng dự tưởng hay nỗi khát vọng trăng sao?".

Chú tôi lắc đầu. Lắc đầu vì tôi cười, không vì từ chối.

"Bây giờ không ai có quyền sống xa đời sống đông đảo quanh mình".

Tôi xin cô một ly nước lọc uống rồi chào cô chú tôi về. Cô tôi đưa tôi ra cửa, bảo tôi:

"Sáng sớm mai cô sẽ lên. Tết nhất đến nơi, nghỉ buổi nào thiệt buổi đó nhưng ngày giỗ ông cha ai mà dám quên, không tư tưởng tới?"

Tôi kêu xe xuống Phú Lâm. Người bạn tôi – tên Thưởng – đang ngồi đờn ở vườn hoa sau nhà. Tôi bước dọc theo hiên sau xuống con đường nhỏ đá sỏi. Mùi dạ lý hương sực nức. Thưởng ngồi trong tấm ghế nhựa đặt vào một lối rẽ nhỏ. Thưởng nắm tay tôi:

"Lâu lắm mới thấy bồ".

"Lâu lắm mới gặp lại anh".

Tôi đỡ cây guitare hawaiienne cho Thưởng vào nhà lấy thêm ghế. Mặt trăng còn một vành nhọn nhưng đủ sáng những nõn mây trôi ngang trên vườn. Hàng dừa cuối vườn loà xoà, lấp lánh ánh sáng tinh tú. Thưởng trở ra đặt hai chiếc ghế sát nhau:

"Cùng nhìn vành trăng muộn chịu chứ?"

"Chịu".

Thưởng đưa cho tôi một gói thuốc Mỹ:

"Hút thuốc xem?"

Tôi từ chối:

"Hút thuốc tôi ít hút từng điếu. Mà hút liền một lúc bao thuốc của anh, đêm ngủ nhức đầu, mơ gớm lắm".

Thưởng cười:

"Mơ gớm cũng bừng mắt dậy một cái là hết. Sự thực còn nhiều cái gớm hơn nhiều. Nếu không hút thuốc, hết còn gặp những cái gớm ghiếc, cả Việt Nam sẽ từ thuốc hết. Kể cả những đứa nhỏ đi đêm, đốm than đầu thuốc là là trên mặt đất".

Chúng tôi ngồi hút thuốc. Con đường nhỏ lộ hẳn giữa những thân cây thấp. Tôi bảo Thưởng cho nghe bản "Đêm tàn bến Ngự". Thưởng vuốt trên phím đàn, hai gò vai rung và nhấp nhỏm. Tôi nhìn bầu trời cuối năm, thấy bầu trời cao nhưng vẫn quen thuộc. Trước kia tôi vẫn nghĩ hết tuổi lãng mạn, hết còn ưa trông trời. Nhưng tôi chỉ có cảm tưởng mình không yên tâm mơ mộng, còn bầu trời mây và trăng sao tôi vẫn ham. Có lẽ nào tôi như chú tôi, không còn biết nói về điều gì gần gũi để đến độ phải lục chồng kiếm hiệp của con cái truy nguyên ra ông Kim Dung thiên tài: "Bây giờ không ai có quyền sống xa đời sống đông đảo quanh mình". Chú tôi đã quá khôn khéo và thích ứng tự nhiên như thuyết của Darwin. Thực ra chú tôi không hề "bứt cương". Tôi nghĩ. Chú tôi vẫn là người tha thiết và nhiệt thành. Ở Hà Nội, tránh đám người làng quấy quả vì chuyện tị nạn, chú lên làng Bưởi mắc võng đọc Marx, vào Sài Gòn chú tin ông Diệm như người tạo cơ hội cho những nhân tài tham gia việc nước, những thí dụ trong khi giảng bài, một nửa số thí dụ về đời ông Ngô. Từ ngày ông Ngô đổ, chú sinh ra nghi ngờ tất cả chuyện xưa lẫn chuyện nay. Chú bảo chú đã bị anh em nhà Ngô lường gạt. Chú thôi không tham gia mấy đoàn thể của Bộ Giáo dục. Chú viết báo văn hoá trình bày nỗi nghi ngờ của mọi tầng lớp, viết về Trương Vô Kỵ với những danh từ triết học lẫn chịu chơi. Chú vẫn nhiệt thành và vẫn đơn giản dù có muôn ngàn rắc rối do mình tạo ra. Dù mọi nghi ngờ phong phú, mọi thắc mắc về nhân sinh của chú đã làm cho một học sinh muốn xin làm một tên đầy tớ để tỏ cái ân đã có người hiểu được lớp trẻ mình, chú vẫn bị cô tôi nhìn như một người dễ nổi nóng vì một đôi đũa lau không sạch.

Gió càng về đêm càng mạnh. Trăng đã bị mây che kín. Bầu trời còn sao và hoả châu. Chúng tôi im lặng trong ánh sáng chao chát hồng rực trên các cành cây trong vườn. Thưởng đờn lại bản "Đàn chim Việt". Tôi đứng dậy vươn vai, hít mạnh mùi dạ lý hương. Thấy nhức đầu ngây ngất, tôi bảo Thưởng:

"Mình đi ngủ là vừa".

Thưởng chiều ý tôi mắc màn ra hiên ngủ. Tôi thiếp đi tai vẫn mơ màng tiếng Thưởng. Lúc tôi tỉnh dậy, đầu tôi vẫn nặng, Thưởng đã ngáy đều. Tôi lại ngửi hương thơm dạ lý. Chắc anh tôi đã về nhà. Ngày mai có thể lại lắm chuyện lộn xộn. Tôi hình dung đến bữa cỗ như hình dung đến một thế giới đàn bà. Thế giới ở bên tôi từ bao giờ. Tôi đã sống, đã vui và cũng đã có lần buồn vì một người đàn bà trong thế giới đó. Nếu gạt bỏ được ý nghĩ nhớ đến Hà Nội là một trạng thái tinh thần suy nhược trước hiện tại khô cằn, tôi có thể nói tôi nhớ đến thím Hương như một người đàn bà đưa tôi ra khỏi thành phố của thời thơ ấu.

Dạo đó Điện Biên Phủ đã tới hồi ngã ngũ. Thầy tôi lúc đầu còn tin năm cửa ô Hà Nội vững hơn những dãy núi quanh lòng chảo Điện Biên, vẫn còn nuôi ý định mở lại, với bác sĩ Hoàng Cơ Bình. Về sau, lúc đã nao núng, thầy tôi thấy Hà Nội quá xa cửa biển quá xa những con tàu vào Nam, gia đình tôi lật đật xuống Hải Phòng. Đúng ra, gia đình tôi lúc đó đã chia hai. Chuyện di cư chưa nghe ai nói tới. Ông Ngô có được gia đình tôi nói tới cũng chỉ vì mấy câu khẩu hiệu viết ở Nhà Thuỷ tạ hồ Hoàn Kiếm: "Cụ Ngô thống nhất sơn hà. Già Hồ chia sẻ nước nhà làm đôi". Thầy tôi là tộc trưởng, gia đình tôi lại không được khá như mấy bà cô tôi, nên chuyện chia hai gia đình lúc đó có vẻ hợp lý. Tôi, đứa em trai út và thầy tôi là những người sẽ vào Nam. Anh tôi với mấy đứa em gái và mẹ tôi sẽ ở lại về làng phụng dưỡng bà nội tôi. Ba cha con tôi xuống Hải Phòng vào những ngày Hải Phòng nắng gay gắt nhất. Chúng tôi ở nhờ nhà một bà cô họ chờ nghe ngóng tình hình rồi mới đi. Suốt ngày thầy tôi đi gặp mấy người bạn nhờ họ giúp ý kiến. Tôi và đứa em hết ra tiệm sách kế bên rạp Kim Chung mướn truyện về đọc, lại ra sau bếp nhìn qua hàng kẽm gai đếm những con tàu vào ga. Người cô họ tôi tuy chiều chúng tôi, ít muốn chúng tôi ở bên mỗi khi cô mở đài Thái Nguyên nằm trên giường nệm nghe: Chồng cô kháng chiến, cô chờ đón người trong Nam gửi ra cho cô một giỏ trái cây, cô bổ cho anh em tôi ăn rồi bảo:

"Tao vẫn mong chúng mày về để ăn măng cụt. Nhưng chú mày mà về tới đây, Nam Bắc thành xa lạ rồi còn gì. Chúng mày vào trong đó mặc sức mà ăn".

"Thầy cháu định vào Nha Trang gặp mấy người bạn rồi mới thuê xe ngựa qua sa mạc vào Nam.

Tôi nói, cô tôi nghe, có vẻ buồn. Cô hỏi:

"Anh em mày có nhớ mẹ mày không?"

Thằng em tôi khóc. Tôi nói:

"Không nhớ".

"Mày lớn rồi có khác. Ở làng, mày lấy vợ được rồi đó cháu ạ".

Cô tôi tủm tỉm cười. Tôi ngượng đỏ mặt. Những lúc có cô ở nhà, chúng tôi có những phút khuây khoả như vậy. Cô tôi đi khỏi, cửa nhà ngoài đóng im ỉm, hai anh em tôi vừa lạc lõng vừa sợ hãi. Những lúc đó nếu ra sau nhà, nhìn những con tàu thì nhớ nhà thêm, nếu ngồi trong phòng thì bị con ở của cô tôi doạ nạt. Nó thường trợn mắt hỏi tôi:

"Sao bố con mày dại thế? Hoà bình đến nơi còn kéo đi, Việt gian hả?"

Tôi chửi nó, nó túm lấy gáy tôi tát như trời giáng. Thằng em tôi vừa khóc, vừa cào cấu nó trợ lực với tôi. Nó đá thằng bé sưng đùi, trầy ngực. Sau mỗi trận đánh, nó doạ:

"Chúng mày mà mách bố cô chúng mày, tao nhổ đờm vào thức ăn cho chúng mày ăn".

Lời đe doạ của nó làm chúng tôi sợ, tìm cách nói dối cô tôi, thầy tôi về những vết tích do con ở gây ra. Một hôm thầy tôi về báo tin sẽ trở về Hà Nội rồi cả gia đình sẽ có máy bay vào Nam. Tôi chạy xuống bếp bảo con ở:

"Tao lại về Hà Nội đây. Mày có già đời cũng không bước chân được lên cầu sông Cái".

Con bé hùng hổ toan túm lấy tôi, tôi chạy lùi vào nhà, trỏ mặt nó:

"Hai năm nữa thống nhất, mày chết với tao".

Chúng tôi đi một chiếc Traction về Hà Nội. Qua cây cầu treo, tôi ngoái đầu lại thấy thù Hải Phòng. Dãy Đông triều trùng điệp xa lạ và thần tiên. Qua Hải Dương, những làng hai bên đường phất phới những lá cờ đỏ sao vàng. Lúc đó tôi mừng vì được trở lại nhưng bắt đầu thấy mình đang quay về thành phố buồn, thiệt buồn. Tôi thoáng nghĩ đến chuyến xe ngựa cha con tôi định thuê băng qua sa mạc. Lúc đi, tôi không kịp thấy mình xa Hà Nội, lúc về, tôi thấy mình đang mỗi lúc một gần tháp nước khổng lồ nhiều bóng tối ở đầu Hàng Đậu, đang gần những gầm cầu, những vườn bông và ga Hàng Cỏ. Xe qua cầu. Tôi nghĩ giá được xuống xe chạy trên đường dốc dẫn xuống chỗ máy nghiền đá, chắc tôi sẽ có lại cảm tưởng khi về làng bước vào khu sân gạch Bát Tràng đen như da trâu.

Về Hà Nội, thầy tôi nghĩ ngay đến chuyện nhắn người về làng mang bà tôi ra. Làng tôi đã bị chiếm. Có vài người trốn ra chờ di cư. Sau một đêm bàn tính với mẹ và anh tôi, mọi người chọn thím Hương là người sẽ đưa bà tôi ra. Bà tôi vốn thương thím sẽ khó mà từ chối khi thím ngỏ ý mời bà đi Hà Nội. Thím lại có mấy người anh bộ đội, chắc chuyện ra khỏi làng cũng đỡ gặp khó khăn. Nhắn người về rồi, cả gia đình tôi chờ đợi. Riêng tôi, tôi thấy mong gặp lại thím Hương một lần cuối trước khi vào Nam.

Thím Hương có nước da thật trắng, thông minh và viết được đơn thuốc bằng chữ Hán cho chồng giắt vào túi dết khi chú tôi hết phép về cưới vợ. Tôi còn nhớ ngày cưới, chú nhất định mặc đồ quân đội đi rước dâu. Bà tôi đã giận dữ mắng chú: "Bao giờ hết đánh nhau, vợ chồng mày sống khuất mắt tao, muốn làm gì thì làm. Bây giờ mày làm thế, người ta chửi vào mặt tao. Người ta lại bảo thời thế đảo điên, luân thường lộn ngược vì bọn lính tráng chúng bay". Chú Hương vốn thương bà tôi, thấy mẹ vừa giận vừa chực khóc, đành ậm ừ gượng gạo xỏ hai ống tay áo màu phân ngựa vào tấm áo the cũn cỡn không che nổi hai ống quần ka-ki chật ống. Buổi chiều chú Hương đi, thím Hương không đưa tiễn, cặm cụi cầm cái chổi mo quét từng góc sân gạch. Tôi chưa ra Hà Nội, móc túi lấy từng cục pháo xiếc tung lên cao cho rớt xuống sân nổ lép bép. Thím Hương chốc chốc lại ngửng nhìn tôi cười gượng. Thím kêu điếc tai, kêu Hà Nội vui, kêu lá cây bưởi với cây táo ở ngoài bờ ao bay vào quét mỏi tay vẫn không sạch. Tôi bảo thím: "Tết này thể nào chú cháu cũng về". Thím lại cười. Nụ cười thím tĩnh như bóng thím lẩn khuất bên trăng tường hoa trước cổng, bên những trụ gạch gắn những hình rồng phượng bằng những mảnh bát vỡ. Tôi ra dưới gốc táo, cầm dao khua lắc cắc lên các cành cây, lấy ít quả đưa cho thím. Thím chùi từng trái táo vào ống tay áo, bảo tôi: "Lớn lên chắc cháu đỡ khổ hơn chú cháu".

Tôi về Hà Nội ít lâu, thím Hương mang mo và lá dong ra cho gia đình tôi và mấy người cô gói giò gói bánh. Buổi chiều, thím dẫn tôi đi mua một tấm foulard, một cuốn truyện Kỳ Phát rồi dẫn tôi vào rạp Bắc Đô coi phim "Về miền Tây" có Roy Roger … Lúc về, qua gầm cầu hàng Giấy, thím mua mấy khoanh bánh chưng rán về cho mấy đứa em tôi. Sáng hôm sau thím về từ lúc ngoài phố vẫn còn chập chờn ánh đèn của người đổ thùng. Tôi chít khăn foulard đạp xe ra đầu phố kêu xích lô rồi tiễn thím ra bến Nứa.

Hồi chú tôi chết mất xác ở Điện Biên Phủ, đường từ chỗ xe hàng đậu dưới cây gạo chân đê về làng tôi lúc nào cũng có một bọn com-măng-đô họp với phòng nhì đón người lột tiền, hãm hiếp, nên chỉ có thầy mẹ tôi và các cô tôi nhờ một người vợ lính đưa về. Tôi nhớ mẹ tôi đã thuật lại bà tôi chửi chú tôi bất hiếu đến hết cả nước mắt. Cũng từ đó, làng tôi thành xa xôi. Bà tôi và thím Hương thỉnh thoảng được một người buôn bán xuôi ngược, gặp thầy mẹ tôi nhắc tới.

Thím Hương mang bà tôi ra vào buổi sáng chủ nhật. Căn nhà gia đình tôi ở tạm lộn xộn những đồ đạc. Bà tôi bảo thầy tôi nhiều bận:

"Chúng mày cứ an tâm mà đi. Tao ở lại với con Hương. Mẹ con tao ra thăm chúng mày một lần cuối rồi chiều nay về làng".

Thầy tôi gắt:

"Bà muốn nó sống tới già với bà sao?"

Bà tôi cương quyết:

"Nó như con gái tao. Rồi ra tao gả chồng cho nó".

Khi các cô tôi tới khuyên dỗ, bà tôi xoay chiều:

"Tao vào Nam, con Hương cũng đi với tao".

Thầy tôi giận mặc quần áo bỏ đi. Cô Út tôi nhỏ nhẹ:

"Kể ra mẹ mang chị ấy đi cũng chẳng sao. Nhưng còn thầy mẹ, anh em chị ấy ở lại, mình cố tình mang chị ấy đi, chị ấy cũng khổ, họ hàng chị ấy cũng buồn mà mình lúc nào cũng phải nghĩ ngợi".

Các cô tôi mỗi người một điều, bà tôi nghe họ, khóc ròng. Tôi bảo thím Hương:

"Thím ra hồ Ha Le với cháu một lát, xem mẹ cháu có bán được nhiều chưa".

Thím ngần ngại nhìn tôi:

"Cháu không biết bao giờ mới gặp lại thím, thím cho đi chơi với thím chiều nay".

Thím lấy nón, lại bảo bà tôi:

"Con ra hồ xem chị Cả bán bàn ghế một lát".

Tôi và thím đi về phía hồ. Bờ hồ ngổn ngang những bàn ghế, giường tủ… Người bán nhiều hơn người mua, nom vội vã, nhăn nhó. Người ta câu bừa cá ở hồ lên, mặc mấy người cởi trần từ trong nhà thuỷ tạ đi thuyền ra quát mắng. Đám người coi câu cá la ó trả lại đến lúc chiếc thuyền quay vào mới thôi. Họ dửng dưng nhìn những người đứng bán đồ đạc, bàn tán với nhau về cái chết của Đỗ Đình Đạo, về mấy chiếc G.M.C thi nhau đâm vào khu Khâm Thiên.

Mẹ tôi đã bán gần hết các thứ mang ra, đang ngồi ngơ ngẩn trên mép cái bàn còn lại. Thím Hương nói với mẹ tôi ít câu rồi giục tôi về.

"Về nhà bây giờ buồn chết, thím cho cháu đi coi chớp bóng một lần cuối".

Thím Hương thở dài. Những con đường từ phía Hàng Cỏ ra bờ Hồ thật vắng. Những ngôi nhà tây cổng đóng im ỉm. Nom vào sân nhà Đấu Xảo thấy rộng mênh mông. Bờ hồ, rạp Moderne vắng người. Thím tôi mua vé, tôi ngắm hình Victor Mature mù hai chân bị xiềng đẩy cái cối xay.

Lúc về, hai thím cháu tôi lên Khâm Thiên, dặn xe hàng sớm mai ghé qua nhà đón. Thím Hương bảo tôi:

"Lớn lên chắc cháu đỡ khổ hơn chú cháu".



*


Anh tôi đã về nhà. Lúc tôi trở về, mấy người cô tôi đã tới đông đủ. Bàn thờ đầy hoa quả, bánh trái. Mẹ tôi đang tẩy mực, thấy tôi, mẹ tôi ngửng lên rồi lại cúi xuống. Tôi bỏ vào nhà, nghe có tiếng mẹ tôi vọng theo:

"Con với cái, hư đốn hết cả".

Tôi lên lầu. Anh tôi đang ngồi đánh bài với mấy đứa nhỏ.

"Anh về hồi nào? Tôi hỏi và thay quần áo".

"12 giờ đêm qua".

Anh tôi ngồi chình ình giữa giường nệm, át hẳn mấy đứa nhỏ. Mắt anh mờ hơn trước, râu anh lởm chởm khắp má. Tôi rất khó hình dung lại hồi anh còn cắp nách những cuốn triết hoặc cần cù tô từng nét chữ Hán cho đậm nét.

"Hôm qua chú đến tiệm nước kiếm ta?"

"Không".

Anh tôi đứng dậy, vươn vai, người anh nhún nhảy trên nệm.

"Ta chờ chú về đi ăn sáng".

Bọn trẻ reo lớn:

"Phở Tàu Bay nghe anh?"

Anh tôi quờ chân vào gầm giường kiếm đôi giày:

"Ờ, ờ, phờ Tàu Bay".

"Đi tắc xi cho lẹ nghe anh?"

"Ờ thì đi tắc xi".

Tôi hơi ngượng vì tiếng đáp của mình. Tôi bảo anh:

"Phở Tàu Bay đông lắm, làm sao len nổi".

"Đông thì gắng chờ chớ sao".

Bọn trẻ lại reo. Chúng đun đẩy nhau theo sau anh tôi bước xuống cầu thang. Rửa mặt xong, anh bảo mẹ tôi:

"Trưa nay con mắc kẹt xuống Thủ Đức thăm một người bạn. Mẹ nhớ để phần xôi chè cho con".

Mấy người cô tôi cười ồn ào. Cô Út tôi nói:

"Lính gì mà như con nít. Nếu sợ mất phần xôi chè, đi chơi làm gì nữa. Ngồi canh bên bàn thờ, chắc ăn".

Mẹ tôi như biết chúng tôi ưa sinh chuyện, cãi lý, bao giờ cũng thong thả trả lời. Vẻ thong thả của bà vừa bắt chúng tôi phải kìm lại nỗi hối hả hoặc nóng nảy vừa khiến những lời bà nói thành rõ ràng bên tai chúng tôi. Bà cũng muốn tỏ ra không quá chú trọng đến những quyết định của con cái tuy lúc nào bà cũng ngầm đặt trong đầu chúng tôi bà là người có những quyết định sau cùng. Những phỏng đoán này không cần thiết cho tôi. Những việc làm theo ý bà hoặc trái lại, tôi đều làm trong im lặng, thản nhiên. Tôi vốn sợ những ồn ào co rút lại thành những tiếng động rời rạc thêm vào đời sống eo xèo của mình. Nhưng anh tôi thì không. Anh ưa gây gổ với bà như thể đó là một hình thức để biểu lộ mình còn có gia đình, còn sống giây phút với gia đình. Anh cãi cọ với bà cả những lúc anh muốn trêu chọc bà. Mẹ tôi, cả những lúc đó cũng dễ giận con. Bà khó lòng bỏ được ý nghĩ mọi người trong gia đình này đã sinh nhằm vào những ngày giờ xung khắc. Trước kia tính nghiêm khắc của bà nhằm bao bọc hạnh phúc cho con cái nên ở những roi đòn của bà chúng tôi cũng nhìn thấy con mắt dịu dàng. Bây giờ, hạnh phúc đó không thuộc về bà nữa. Cũng không thuộc về chúng tôi như một độc lập được giành giựt. Tính nghiêm khắc của bà trở thành một cái vỏ ốc rỗng ruột. Chúng tôi nhìn cái vỏ ốc đó, mường tượng có hồi mình được sung sướng.

"Không đi đâu cả. Mày về ăn giỗ hay mày về để đi thăm bạn?"

Mẹ tôi nói. Anh tôi cười lớn:

"Mấy thứ vặt đó đâu có đáng công xin phép nghỉ".

"Mày kiêu bạc vừa vừa chứ. Con trai mà cãi lại mẹ, mày chưa thành nhân đâu con ạ".

Anh tôi có vẻ ngượng nhưng vẫn cười:

"Giỗ chạp là phần của mấy bà, ăn nhằm gì tới tụi con trai".

Dứt lời anh tôi quay trở vào. Cơn giận của mẹ tôi tới lúc hết kìm nổi, bà vứt mấy con mực xuống chậu nước bắn tung tóe, đứng dậy:

"Mày định xấc với cả mẹ mày nữa đấy hả? Mày không sợ người ta chửi vào mặt mẹ mày sao?"

Anh tôi yên lặng vào nhà châm thuốc hút, chờ mấy đứa nhỏ thay quần áo.

Chúng tôi đi ăn phở rồi sang cà phê Nhân uống. Anh tôi nói:

"Tao chán cái cảnh này lắm rối. Bao nhiêu năm nay vẫn những bộ mặt ấy, vẫn những câu chuyện ấy quanh đám giỗ ấy. Tao không muốn về nhà cũng vì vậy".

"Đằng nào mọi việc cũng coi như đã xong. Anh nói, mẹ buồn".

Tôi nói gắng gượng. Tôi vốn ít muốn thuyết phục người khác, và không ưa nghe người khác thuyết phục mình.

"Không ai giận gì mấy người đàn bà…"

Anh tôi lắc đầu với một thằng bé đánh giày. Tôi cười nhớ lại câu chuyện nói với chú tôi tối qua.

"Nhưng đời sống của những người ghép vào với họ, thật hỏng".

Tôi nóng mặt:

"Anh nói ôm đồm quá".

Anh tôi nhíu mắt. Mắt anh nhìn sấp nhưng tôi vẫn bắt kịp cái quắc sáng của anh chạm mạnh vào mắt tôi.

"Tao không nói tuyệt đối. Tuyệt đối chỉ có ở giảng đường, ở những thằng cố chấp, không có trong sinh hoạt. Có lẽ nào chú lại không hiểu tao nói gì, nói đến những ai".

Anh tôi nói như một người bị ám ảnh, không cần biết câu nói của tôi có ăn nhằm gì với nỗi thôi thúc ồn ào trong người anh.

"Tao không chịu được những bộ mặt trí thức thất bại lộ ra cả trong việc theo vợ đi ăn giỗ, nói chuyện thời thế và Hà Nội. Họ khôn khéo ăn nói những thứ mọi người đang thích ăn thích nói để che lấp nỗi nhớ tiếc vốn là mầm sống của họ. Họ không nhớ một mình Hà Nội, cũng không nhớ Hà Nội như tình của của một chiến bại, hoặc cao hơn, một nỗi nhớ cần nhiều cố gắng thực tại để bù đắp sự thất bại còn dây dưa chưa biết đến bao giờ. Họ còn thương nhớ cả những nếp suy nghĩ của mình nữa. Trước tình thế này, họ nên khuất mắt, đừng luẩn quẩn bên chân những người vừa mới lớn lên đã phải nhào vào chống đỡ những sụp đổ do họ gây ra".

Tôi yên lặng nghe anh tôi nói. Những lời anh nghe thật quen thuộc. Chỉ còn vẻ nóng nảy dồn dập vẫn là của anh. Không bắt được khối nóng đó, không nhìn anh, tôi chẳng còn gì để phân biệt mình đang nghe anh hoặc một người bạn nào đó. Những lúc xa anh, nghĩ đến anh chốc lát, khối nóng đó cũng hiện ra kèm theo. Lúc thoạt bắt gặp, khói nóng nồng nàn lôi kéo cả những khó chịu đã qua của tôi. Nhưng trong một lát, khối nóng chỉ còn trong ý niệm, thoát hẳn những mường tượng của cảm giác, anh tôi cũng tan biến theo. Khối nóng, dù tôi có nghe ngóng, chờ đón cũng vẫn loãng đi, mặt mũi, hình dạng anh tôi, dù tôi cố tìm một điểm đặc biệt như cái nốt ruồi ở xế bên mũi, con mắt kéo dài, gãy góc ở gần đuôi để suy ra toàn thân anh, cũng không hề hiện rõ. Nhưng anh tôi lại là người luôn luôn muốn xây đắp cá tính. Anh biết chọn chi tiết để tự mô tả. Lưỡi dao ngập trên mặt bàn, "Mười hai giờ đêm qua"…

"Nếu gạt bỏ phương tiện ưu thế, lúc này không ai có quyền buộc tội ai. Ai cũng muốn giành giựt tuổi trẻ cho mình, dù tuổi trẻ đó quá bận rộn về nhan sắc mình chăng nữa".

Tôi nói. Anh tôi nhìn tôi chờ tôi tiếp hay đo lường nhiệt tình của tôi lộ trên mặt tôi.

"Không phải vì vậy mà thái độ nghi ngờ có chỗ đứng tốt. Nên thành thực để thấy nhau dễ thương hơn trước phút có người gục ngã".

Anh tôi uống, nhăn mặt. Tôi đẩy cho anh dĩa đường. Anh trút hết vào ly, khuấy mạnh. Anh uống một hơi, trả tiền rồi kéo chúng tôi ra khỏi tiệm. Trời gay gắt, không một dấu hiệu tết sắp tới.

"Chú đưa tụi nó về".

Anh tôi nói và ngoắc một chiếc tắc xi.

"Anh không về?"

"Chiều tao về. Tao không muốn nhìn những bộ đồ lớn ngồi chật nhà nói chuyện bằng cấp và Hà Nội".

Tôi bực mình:

"Anh cố chấp quá. Nói đến Hà Nội không là một cái tội".

"Hà Nội có làm thầy mẹ quên được tao đi lính không?"

Mấy đứa em tôi đã mở cửa, lên xe. Tôi bảo anh tôi:

"Hà Nội có đấy rồi. Nhiều đêm thầy mẹ nhớ anh, nghe súng không ngủ được. Thầy mẹ dậy nói chuyện Hà Nội".

Một quân nhân cưỡi chiếc Vespa chạy bên kia đường, thấy anh tôi chạy chậm lại.

"Thằng hôm qua gây lộn với tao đó".

Anh tôi nói, giơ tay vẫy, chạy xuống đường. Tôi bước lên xe, thấy anh tôi ngồi đằng sau người nọ chạy về phía Sài Gòn.Tôi nghĩ tối nay sẽ rủ anh tôi xuống ăn mì Chợ Lớn. Tôi nhớ tới thím Hương. Nỗi nhớ của tôi không vì một chiều mùa đông mua bánh chưng rán ở gầm cầu Hàng Giấy, không vì tháp nước sừng sững đầu Hàng đậu, không vì những chiếc lá táo, lá bưởi rơi đầy sân, rơi suốt buổi chiều chú Hương ra đi. Tôi nhớ tới thím vì không hiểu có lần nào thím nói với anh tôi: "Lớn lên chắc cháu đỡ khổ hơn chú cháu"? Những ảo tưởng về tương lai chua xót, nhưng bao giờ cũng đáng phấn khởi hơn những ảo tưởng về những chuyện đã qua, dù đẹp nhưng tĩnh và chết như bóng thím Hương trên bức tường hoa, bên những trụ gạch dát hình rồng phượng bằng các mảnh sành mảnh sứ.