16/6/11

Aleksander I. Solzhenitsyn -Ngôi nhà của Matriona (2 )

Aleksander I. Solzhenitsyn

Ngôi nhà của Matriona

Nguyễn Văn Son dịch

Matriona đã quen sống với tôi, tôi cũng vậy. Chúng tôi sống trong sự thông cảm hoàn toàn. Bà không bao giờ làm tôi bực mình vì những câu hỏi. Có lẽ vì bà tuyệt nhiên không có cái tánh tò mò của đàn bà, hoặc vì bà quá tế nhị nên chưa có lần nào hỏi tôi đã lập gia đình bao giờ chưa. Tất cả phụ nữ ở Talnovo cứ theo hỏi bà không ngớt để bà cạy răng tôi.

“Muốn biết thì cứ tới mà hỏi ông ấy! Tôi chỉ biết có một điều là ông ấy từ xa đến”.

Và đến khi tôi kể cho bà nghe tôi đã từng ở tù rất lâu, thì bà chỉ gục gật như là đã đoán biết từ lâu.

Tôi cũng vậy, tôi chỉ nhìn thấy Matriona của hiện tại, một bà già khốn khổ đơn độc trên cõi đời, tôi cũng không dám chạm đến vết thương trong quá khứ của bà, hơn nữa tôi không hề nghĩ quá khứ của bà có thể có một điều gì đáng tìm hiểu.

Tôi được biết Matriona lấy chồng hồi trước cuộc Cách mạng, và sau đó đến ở trong căn nhà hiện tại để sống một cuộc đời cơ cực (mẹ chồng đã chết và bà không có chị em chồng còn độc thân, do đó ngay hôm sau ngày cưới, bà đã phải bắt đầu làm tất cả mọi việc trong nhà). Tôi cũng được biết là bà có sáu người con, tất cả đều chết khi còn non dại, thành thử bà không bao giờ có được một lúc hai đứa con. Sau đó, bà có một người con gái nuôi tên Kira. Chồng bà ra trận và không bao giờ trở về. Bà cũng không nhận được giấy thông báo tử trận. Mấy người đàn ông trong làng từng tham dự các trận đánh với chồng bà nói rằng hoặc ông bị bắt làm tù binh, hoặc đã tử trận mà không tìm được xác. Trong suốt tám năm sau chiến tranh, Matriona cũng phải quyết định chồng mình đã chết. Như vậy lại càng hay. Ví như ông ấy còn sống thì chắc cũng đã có vợ khác ở Ba Tây hay Úc Châu rồi. Và làng Talnovo, và cả tiếng Nga nữa cũng sẽ bị xóa mờ trong tâm khảm ổng.

Một hôm đi dạy về, tôi thấy trong nhà có người. Một ông cụ cao lớn tóc nâu sẫm; ông để nón trên đầu gối và ngồi trên chiếc ghế mà Matriona đẩy đến giữa phòng cho ông, cạnh cái lò Hòa Lan. Mái tóc dày màu nâu, lấm tấm bạc, viền cả gương mặt ông: râu, ria tiếp giáp nhau dày đặc và đen ngòm gần như bít hết miệng, hai gò má cũng đầy những râu, chỉ chừa ra một phần tai và nối liền với mấy chùm tóc đen lòng thòng từ trên đỉnh đầu; thêm vào đó là cặp lông mày rậm trông giống như hai cái cầu bắt dính vào nhau. Từ trán lên đỉnh đầu thì nhẵn thín. Tôi thấy dáng dấp của ông như muốn bộc lộ một vẻ quan trọng và trang nghiêm. Ông ngồi rất thẳng, hai tay đặt trên cây gậy chống thẳng xuống sàn nhà, trong một tư thế chờ đợi kiên nhẫn, và hình như ông nói chuyện rất ít với Matriona, đang làm việc đằng sau bếp.

Khi tôi vào, ông ta chậm chạp quay cái đầu oai vệ lại, và gọi tôi bằng một giọng thật bất ngờ:

“Này ông bạn!... Tôi không thấy bạn rõ lắm. Con tôi là học trò của bạn: Grigoriév Anton…”.

Ông khỏi cần nói tiếp… Mặc dù tôi rất muốn giúp ông nhưng tôi biết và không muốn nghe những điều vô ích mà ông sắp nói ra. Grigoriév là một cậu bé học lớp 8D có đôi má phính, có dáng điệu một con mèo ăn quá nhiều bánh “kếp”. Người ta có cảm tưởng nó đến trường chỉ để nghỉ ngơi, nó ngồi trên ghế mà cứ mỉm cười một cách lười biếng. Đương nhiên là nó không bao giờ học bài hay làm bài. Nhưng vì trường chúng tôi lúc nào cũng cố gắng để có một tỉ lệ cao những học sinh được nhận lên lớp trên (đó là một danh dự của các trường trong quận chúng tôi, trong vùng chúng tôi ở, và các vùng lân cận) nên năm nào cũng cho nó lên lớp, và nó đã hiểu rõ là dù thầy giáo có hăm dọa cách mấy, cuối năm nó vẫn được lên lớp mà khỏi cần học hành gì hết. Rõ ràng là nó chế nhạo chúng tôi bất lực. Học đến lớp tám mà nó chưa biết phân số là gì và không phân biệt nổi các loại hình tam giác. Hai tam cá nguyệt đầu, tôi chỉ cho nó có bốn điểm, và chắc chắn trong tam cá nguyệt chót cũng không thể khá hơn.

Nhưng biết nói sao với cụ già sắp mù lòa này bây giờ? Đối với Anton, ông ta phải là ông nội mới thích hợp hơn là cha, và giờ đây ông ta đến gặp, tôi sẽ khẩn khoản nói là từ nhiều năm nay nhà trường đã lừa ông, là tôi không thể tiếp tục lừa ông được nữa, nếu không thì cả lớp học của tôi sẽ hỏng bét, tôi sẽ tự biến tôi thành một người xấu, cũng như phản lại tất cả các công trình tôi đã thực hiện và cả phẩm giá của một nhà giáo nữa.

Và tôi kiên nhẫn giải thích cho ông hiểu là con ông đã buông trôi quá độ, nói dối cả ở nhà lẫn ở trường, ông phải xét phiếu điểm của nó thường xuyên hơn, đồng thời tiếp tay với nhà trường ép nó học.

“Làm sao ép nó hơn được nữa hả ông?” Ông trả lời đầy quả quyết. “Tuần nào tôi cũng đánh đòn nó hết. Và tôi không nhẹ tay đâu”.

Trong câu chuyện tôi nhớ có một lần Matriona chen vô không hiểu tại sao, để bênh vực thằng Anton Grigoriév, nhưng tôi cũng không hỏi bà họ hàng với nó như thế nào, và chỉ đáp lại bằng sự từ chối. Lần này bà ra đứng nơi cửa bếp với vẻ van nài câm lặng. Đến khi Faddéi Mironovitch ra về với quyết định sẽ trả lời gặp tôi xem chuyện sẽ đi đến đâu, tôi mới hỏi:

“Tôi không thể hiểu nổi bà, sự liên lạc giữa thằng Anton và bà như thế nào hả Matriona Vassiliévna?”

“Nó là con của anh chồng tôi”, bà trả lời cộc lốc, rồi đi vắt sữa dê.

Thì ra ông cụ già đen đúa và lì lợm đó là anh ruột của ông chồng mất tích của bà.

Cả buổi tối hôm đó, bà không trở lại câu chuyện ấy nữa. Đến khuya, khi hình ảnh của ông cụ đã ra khỏi đầu óc tôi và tôi đang làm việc trong sự im lặng, chỉ bị quấy rầy bởi tiếng sột soạt của mấy con gián và tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ treo tường, thì bỗng nhiên từ trong góc phòng bà nói vọng ra:

“Ngày xưa tôi suýt lấy ông ấy đó, Ingatitch”.

Tôi đã quên luôn cả sự hiện hữu của Matriona, sự hiện diện của bà, tôi không nghe tiếng bà, nhưng những lời nói đó vọng ra từ bóng tối, chứa đựng nhiều xúc động đến nỗi người ta có cảm tưởng ông cụ già đó vẫn còn đeo đuổi bà ráo riết.

Thấy rõ ràng là suốt buổi tối bà không nghĩ đến chuyện gì khác hơn.

Bà bước xuống khỏi chiếc giường nghèo khổ làm bằng giẻ rách của bà, và chậm chậm tiến về phía tôi như thể bà đi theo lời nói vậy. Tôi ngả người vào lưng ghế, và lần đầu tiên tôi nhìn thấy Matriona khác hẳn mọi khi.

Trong căn phòng ngổn ngang những gỗ sung như một đám rừng, không có đèn trên trần. Vòng ánh sáng tỏa ra từ ngọn đèn trên bàn viết của tôi chỉ soi sáng mấy quyển vở, và khi mắt tôi rời khỏi vùng ánh sáng đó, cả căn phòng chìm đắm bởi sự mờ ảo của cái tranh tối tranh sáng.

“Chính ông ấy là người tán tỉnh tôi trước… trước Efime… Faddéi là anh cả… Tôi vừa tròn mười chín tuổi, còn Faddéi thì đã hai mươi ba… Lúc đó họ sống trong ngôi nhà này. Đây là nhà của họ. Chính ba của họ cất lên”.

Bất giác, tôi nhìn khắp căn phòng. Bỗng nhiên căn nhà cũ kỹ xám xịt, mục nát này, qua lớp xanh mét lót tường, phía dưới đáy đầy chuột chạy, trở thành mới hẳn, với những lóng gỗ bào chưa có thì giờ ngả màu đen và tỏa ra một mùi nhựa thông tươi mát.

“Rồi ông ấy, và bà?... Rồi sao nữa?”

“Mùa hè năm ấy… chúng tôi cùng đi vào rừng, bà thì thào. Rừng hồi đó là chỗ mấy cái chuồng ngựa bây giờ đó, người ta đốn hết rồi. Tôi sắp lấy ông ta. Chiến tranh chống Đức khởi phát. Họ bắt Faddéi ra trận”.

Bà ngừng lại và trước mắt tôi vụt hiện ra tháng Bảy năm 1914 với những màu thiên thanh, trắng, vàng: bầu trời hãy còn êm ả, có mây trắng bềnh bồng, và dân chúng chen chúc nhau trong đám lúa chín. Tôi thấy họ đi cạnh nhau: một gã đàn ông cao lớn với nước da đen sẫm vác lưỡi kiếm trên vai; còn cô gái, mặt đỏ hồng, ôm một bó lúa. Rồi một bài hát, một bài hát dưới vòm trời, mà giờ đây, ở thời đại máy móc này, người ta không còn biết hát nữa.

“Ông ấy ra trận, mất tích… Ba năm trời tôi tự giam mình trong vỏ sò, chờ đợi. Nhưng không một tin tức nào cả, hài cốt cũng không…”.

Quấn trong một cái khăn choàng cũ xưa, khuôn mặt tròn của Matriona trong ánh sáng mờ mờ của ngọn đèn bỗng nhiên mất hết các nếp nhăn, không còn cái vẻ lôi thôi lếch thếch ngày thường, mà giờ đây là khuôn mặt sợ hãi của một thiếu nữ đứng trước một sự lựa chọn ghê gớm.

Vâng… vâng… Tôi hiểu… bao lần lá rụng, bao lần tuyết rơi rồi tan. Rồi lại cày bừa, rồi gieo giống, rồi mùa gặt lại đến. Và lá lại rụng và tuyết lại rơi: rồi một cuộc Cách mạng bùng nổ. Tiếp theo là một cuộc Cách mạng khác. Và cả thế giới đảo lộn.

“Má họ mất và Efime bắt đầu tán tỉnh tôi. Ổng nói như vầy: Em đã từng muốn đến ở nhà chúng tôi, em cứ đến đi. Efime trẻ hơn tôi một tuổi. Ở đây người ta thường bảo: gái ngoan lấy chồng vào ngày lễ Cầu nguyện, gái dại vào ngày lễ Thánh Pierre và Paul. Gia đình ổng thiếu người làm lụng. Thế là tôi nhận lời cầu hôn. Chúng tôi thành hôn nhằm ngày lễ Thánh Pierre và đến ngày lễ Thánh Nicolas mùa đông thì Faddéi trở về… từ các trại giam Hung Gia Lợi”.

Matriona nhắm mắt lại.

Tôi ngồi lặng thinh.

Bà quay sang cánh cửa như thể là nó có sự sống:

“Ông dừng lại nơi cửa. Tôi thét lên một tiếng! Tôi chạy đến phủ phục dưới chân ông!... Bộ không thể… thôi được, ông ta nói, nếu không phải là em tôi thì tôi đã giết hết cả hai rồi!”.

Tôi giật mình. Qua sự phấn khích và kinh hãi của Matriona, tôi hình dung ông ta với tất cả sự sống động, đang đứng ở đó, đen đúa: giữa khung cửa tối om, lưỡi búa lờn vờn trước mặt Matriona.

Nhưng bà đã dịu lại, dựa vào chiếc ghế trước mặt, kế tiếp với giọng nỉ non của bà:

“Ôi chao, tội nghiệp ông ấy quá! Trong làng có thiếu gì con gái, nhưng ông không chịu lấy ai hết. Ông đã bảo: “Tôi sẽ đi tìm tên em, một Matriona khác”. Và cuối cùng ông cũng mang về một Matriona khác, từ Lipovka; họ cất riêng cho họ một ngôi nhà, hiện giờ họ còn sống ở đó, ngày nào ông ấy cũng đi ngang qua đây để đến trường”.

À thì ra thế! Bây giờ tôi hiểu là tôi đã hơn một lần gặp bà Matriona thứ hai rồi. Tôi cũng không thích bà ấy, bà hay đến than phiền với Matriona của tôi là chồng bà đánh đập bà, là ông ta keo kiệt, là ông khảo tiền bà, rồi bà khóc rất lâu và giọng lúc nào cũng như thổn thức.

Nhưng hậu quả là Matriona của tôi không có gì để hối tiếc cả: Faddéi đã đánh đập vợ, cho đến nay vẫn còn tiếp tục hành hạ bà ta, và khắc nghiệt với mọi người khác trong nhà.

“Còn tôi thì “ổng” của tôi chưa bao giờ đánh tôi một lần nào, ý bà muốn nói đến Efime. Ra đường thì ông ấy rượt và thoi đàn ông, nhưng với tôi thì không bao giờ dùng quả đấm. Đúng ra thì có một lần: tôi cãi nhau với chị Matriona, ông đã đánh gãy một cái muỗng bằng gỗ vào trán tôi. Tôi liền phóng ra khỏi bàn: “Cho tụi bây chết luôn, đồ lười!”. Xong tôi bỏ vô rừng. Từ đó ông ấy không bao giờ đụng đến tôi nữa”.

Bề ngoài Faddéi cũng không có gì để hối tiếc. Matriona của ông cũng hạ sanh được sáu người con (trong số đó có Anton, con út và tệ nhất), cả sáu người đều còn sống, trong khi Matriona và Efime thì không giữ được con mình: chúng đều chết trước ba tháng mà không bệnh hoạn gì hết.

“Một trong mấy đứa con gái của tôi, Héléna, vừa lọt lòng, tắm rửa xong nó vẫn còn sống, nhưng rồi cũng lại chết ngay sau đó. Thành thử không cần phải làm phép tắm người chết cho nó… Cũng như ngày cưới của tôi là ngày lễ Thánh Pierre, tôi chôn đứa thứ sáu, thằng Alexandre, vào dịp lễ Thánh Pierre”.

Và cả làng đều quả quyết bà Matriona bị điều gở.

“Tôi bị một ”cục gỗ!” Bây giờ Matriona vẫn còn nói, gục gật đầu ra vẻ tin lắm. Người ta đã dẫn tôi đi chữa ở nhà một cựu nữ tu sĩ. Bà ấy bắt tôi ho, và bảo là cục gỗ sẽ văng ra từ cuống họng của tôi dưới hình thức một con ếch, nhưng tôi không thấy con ếch nào nhảy ra hết…”.

Năm tháng trôi qua, như nước chảy dưới cầu… Năm 1941, người ta không bắt Faddéi ra trận nữa vì mắt ông ấy quá yếu, trái lại người ta bắt Efima. Và giống như ông anh trong cuộc chiến thứ nhất, trong cuộc chiến thứ hai ông em cũng mất tích. Có điều là ông em không bao giờ trở về. Ngôi nhà ồn ào ngày nào, giờ đây mục nát, cằn cỗi dần, và Matriona càng ngày càng già đi trong sự đơn độc.

Rồi bà xin Matriona kia một mảnh thịt của bà (hay đúng hơn là một giọt máu của Faddéi): cô con út Kira.

Bà đã nuôi dưỡng đứa bé ấy tại đây, trong suốt mười năm như con ruột để thay thế những đứa đã mất. Và trước khi tôi đến ít lâu, bà đã gả cô cho một anh tài công ở Tchérousti. Từ đó bà bắt đầu nhận được sự giúp đỡ nhỏ giọt của họ: lúc thì họ cho đường, lúc thì cho mỡ khi nào họ giết heo.

Đau đớn vì bệnh hoạn, nghĩ mình sắp chết, Matriona đã cho biết ước nguyện cuối cùng của mình: cái chái nhà cạnh (căn phòng đẹp) cùng nằm dưới một mái, sẽ thuộc về Kira sau khi bà chết. Bà không nói gì về căn nhà gỗ hết. Còn ba người em gái của bà, họ đang hy vọng thừa hưởng căn nhà gỗ ấy.

Thế là, tối hôm đó, Matriona thổ lộ hết với tôi. Và, như chuyện đời thường thấy, sự liên hệ gia đình và ý nghĩa cuộc sống của bà mà tôi vừa mới khám phá ra đã đến quấy rối bà trong những ngày sau đó. Kira từ Tchérousti về, ông cụ Faddéi lo lắng. Muốn xin và giữ một miếng đất nhỏ ở Tchérousti, hai vợ chồng trẻ ấy phải có tại đó một căn nhà, loại nào cũng được. “Căn phòng” của Matriona thích hợp hoàn toàn. Ngoài ra, không có cách nào khác, vì đào đâu ra gỗ để xây nhà. Vả lại, không phải Kira, hay chồng của cô ta, mà chính lão Faddéi nôn nóng nhất định giành cho được mảnh đất ở Tchérousti, vì lòng tham.

Thế là ông đến chơi nhà chúng tôi thường hơn. Ông đến lần thứ nhất, rồi lần thứ nhì. Bằng giọng kẻ cả, ông đòi bà phải cho ông “căn phòng” ngay khi bà còn sống. Mấy lần sau này, tôi không còn thấy ở ông ta một cụ già khả kính hai tay chống trên gậy, sẵn sàng tan thành tro bụi vì một cơn gió nhẹ hay vì một lời nói lỗ mãng cỏn con. Mặc dù hơi còng lưng vì bị đau thận, nhưng ông vẫn còn giữ được vẻ lanh lẹ gọn gàng, và tuy đã hơn sáu mươi tuổi, tóc ông vẫn đen mướt như lúc còn xuân. Ông ta tấn công rất hăng hái.

Hai đêm liền, Matriona không ngủ được. Khó quyết định quá. Không phải bà tiếc “căn phòng” từ trước tới giờ chưa sử dụng tới, vì có bao giờ bà tiếc gì đâu, ngay cả sự nhọc nhằn hay của cải của bà? Hơn nữa “căn phòng” đó dù sao bà cũng dành cho Kira rồi kia mà. Nhưng điều làm bà lo lắng là phải phá hủy cái mái nhà đã từng che nắng che mưa cho bà suốt bốn mươi năm trường. Ngay cả tôi, chỉ là người ở đậu, tôi cũng đau lòng khi thấy người ta tháo những tấm ván ra, và hạ những cây kèo của căn nhà xuống. Đối với Matriona, thế là hết cả cuộc đời bà.

Nhưng bọn người muốn đòi cho bằng được thì biết là họ có thể phá hủy căn nhà ngay lúc bà còn sinh tiền.

Và một buổi sáng tháng hai, Faddéi kéo đám con trai và rể đến, và cùng một lúc năm lưỡi búa bổ xuống, các tấm ván gào thét, rên rỉ khi bị tháo tung ra. Đôi mắt Faddéi sáng ngời: ông ta thỏa mãn. Mặc dù lưng ông không thể đứng thẳng hoàn toàn, ông cũng thoăn thoắt leo lên tận mấy cái đòn tay trên mái, xuống dưới thì lăng xăng la lối mấy người phụ ông. Căn nhà gỗ này ông đã tự tay xây cất cùng với cha ông khi còn bé; người ta đã gọt đẽo và dựng “căn phòng” cho ông để ông cùng vợ sinh sống. Giờ đây ông hùng hổ tháo gỡ nó ra, từng lóng xương một, để mang đi.

Sau khi họ đánh số các cây kèo và mấy tấm ván của trần nhà, họ bắt đầu tháo “căn phòng” và cái gác xép của nó. Còn ngôi nhà gỗ với những sàn gác đóng đầy bụi đất thì họ ngăn ra bằng một tấm phên mỏng. Họ bỏ mặc mấy cái khe hở trong tường và điều đó chứng tỏ kẻ tàn phá và người xây dựng là hai thái cực, vả lại họ nghĩ là Matriona sẽ không còn sống được bao lâu nữa.

Trong khi đàn ông lo phá nhà thì đàn bà lo cất rượu để uống trong ngày chở gỗ: vì uống Vodka đắt quá. Kira mang về từ vùng Moscou một “pu” đường; ban đêm Matriona Vassiliévna mang đường và chai đến nhà người cất rượu lậu.

Các lóng gỗ của sườn nhà đã được gỡ ra và chất thành đống trước cổng, người con rể tài công đã đi Tchérousti để kiếm máy kéo.

Nhưng hôm đó bão tố bắt đầu nổi dậy, “ngọn gió con con” như Matriona hay nói. Gió như múa may quay cuồng trong suốt bốn mươi tám tiếng đồng hồ và phủ lên mặt đường một lớp tuyết dày đặc. Sau đó, khi người ta vừa mới nện lớp tuyết trên đường, một vài chiếc vận tải chạy thì trời dịu bớt cơn thịnh nộ. Một ngày sau tuyết bắt đầu tan, sương mù ẩm ướt buông xuống, các con suối nhỏ róc rách tìm đường trong băng tuyết và chân người lún sâu gần đến cổ giày ống.

Suốt hai tuần lễ “căn phòng” không chịu cho máy kéo lôi đi! Trong mười lăm ngày đó, Matriona như mất hồn. Điều làm bà hết sức khổ tâm là ba bà em gái đã đến hè nhau mắng nhiếc bà là đồ ngu vì đã cho “căn phòng”, bảo là không muốn thấy mặt bà nữa, xong rồi họ bỏ đi.

Cũng trong những ngày ấy, con mèo cà thọt cũng bỏ nhà đi mất biệt. Bao nhiêu chuyện dồn dập cùng một lúc. Điều đó cũng làm Matriona khổ tâm.

Sau cùng con đường không được sử dụng lại đông thành băng đá. Thế là có được một ngày sáng sủa và lòng người cũng thấy nhẹ bớt phần nào. Sáng hôm đó Matriona mơ một giấc mơ đẹp. Lúc sáng sớm tôi cho bà biết tôi muốn chụp ảnh một người ngồi trước máy dệt (bà có máy dệt đặt tại hai căn nhà gỗ, được dùng để dệt vải làm khăn lau), bà trả lời với một nụ cười thẹn thùng:

“Ông hãy chờ một vài ngày, Ingatitch nhé! Để tôi cho “căn phòng” đi cái đã, tôi sẽ ráp cái máy dệt của tôi, còn tốt lắm, và ông sẽ chụp ảnh tôi. Tôi nói thiệt mà!”.

Rõ ràng là bà đang nghĩ đến thời xuân sắc. Ánh nắng hồng của mùa đông phớt nhẹ trên cửa sổ băng giá của căn phòng tiền đình, giờ đây đã thu ngắn lại, và sưởi ấm khuôn mặt bà. Những người sống trong sự thanh thản của lương tâm bao giờ cũng giữ được một khuôn mặt đẹp.

Buổi chiều khi đi dạy về, tôi thấy có sự nhốn nháo ở cạnh nhà chúng tôi. Những lóng gỗ tròn đã được chất lên một chiếc xe trượt lớn để máy kéo mang đi. Có tất cả chín lóng, nhưng vì không đủ chỗ nên gia đình cụ Faddéi và những người được gọi đến giúp phải chất bớt lên một chiếc xe trượt khác, mà họ vừa chế biến ngay tại đó. Mọi người làm việc như điên, với sự hăng say của những người được hứa một phần thưởng quan trọng hay một bữa tiệc linh đình. Họ la lối, giành giật nhau để làm cho nhanh.

Vấn đề đang bàn cãi là nên kéo hai xe cùng một lúc hay mỗi lần một chiếc. Một trong mấy người con trai của Faddéi, anh chàng đi cà nhắc, và người con rể tài công cho là không thể kéo hai xe cùng một lúc, là máy kéo sẽ không đủ sức. Nhưng anh tài xế máy kéo, một anh chàng khỏe mạnh với bộ mặt thô bỉ, có vẻ tự tin, với giọng khàn, đã la to lên là phải để anh ta quyết định vì anh ta mới là tài xế, và anh đã kéo một lượt cả hai xe. Sự tính toán của anh ta đã rõ ràng: anh đã thỏa thuận với anh tài công về giá tiền chuyên chở, chớ không phải bao nhiêu chuyến đi. Đi hai lần hai mươi lăm cây số cộng thêm một chuyến trở về, anh ta sẽ không thể nào làm kịp trong một đêm. Trong khi anh ta đã lấy lén để kiếm thêm chút tiền sau giờ làm việc.

Cụ Faddéi thì muốn gấp rút đem hết “căn phòng” về trong nội nhật ngày hôm đó nên ra hiệu cho mấy người kia đồng ý. Họ bèn buộc chiếc xe thứ hai, làm theo kiểu “đi nhanh”, kiên cố hơn, vào chiếc thứ nhất. Matriona chạy lăng xăng giữa đám đàn ông, giúp họ lăn các lóng gỗ lên xe. Lúc đó tôi mới để ý thấy bà mặc cái áo choàng của tôi, và đã làm dơ hai tay áo vì lớp bùn ở các lóng gỗ, tôi liền lưu ý bà với giọng bất bình. Chiếc áo này đối với tôi là cả một kỷ niệm, nó đã từng sưởi ấm tôi trong bao nhiêu năm gian khổ. Và đó là lần đầu tiên tôi thấy giận Matriona.

“Chết chưa! Tôi mất hồn rồi!” Bà ngẩn người ra nói, “tại tôi chụp vội trong khi đang chạy nên quên đó là áo của ông. Ingatitch tha lỗi nhé!” Nói xong bà liền cởi ra và đem đi phơi.

Gỗ đã chất hết lên xe và tất cả những ai làm việc ở đó, độ mười người, ồn ào kéo nhau đi qua bàn tôi đang ngồi và chui xuống dưới cái màn dưới bếp. Tôi nghe tiếng chạm ly chát chúa, thỉnh thoảng một tiếng ngân của bình rượu, tiếng họ nói càng lúc càng to lên, họ khoe khoang càng lúc càng lố lăng. Anh chàng tài xế khoe khoang nhiều nhất. Hơi rượu nặc nồng bay lên tận mũi tôi. Nhưng họ không ở lại lâu để uống rượu, màn đêm buông xuống bắt họ phải đi gấp. Họ bắt đầu ra ngoài. Anh tài xế bước ra đầy tự mãn, mặt lầm lì. Người con rể tài công, người con trai cà nhắc và một trong số những đứa cháu của Faddéi sẽ đi theo xe. Mấy người kia về nhà họ. Faddéi quơ gậy và chạy đuổi theo một người nào không rõ: ông ta muốn căn dặn điều gì đó. Người con cà nhắc dừng lại cạnh bàn tôi ngồi để châm một điếu thuốc rồi bỗng nói chuyện với tôi. Anh bảo là thương thím Matriona của anh lắm, là anh vừa mới cưới vợ, và vừa có một đứa con trai. Đúng lúc đó có người gọi anh nên anh đi ra. Tôi nghe tiếng ù ù của máy kéo sau cánh cửa sổ.

Matriona là người cuối cùng bước ra khỏi tấm vách ngăn nhà bếp. Bà đưa mắt nhìn theo những người vừa ra đi, gật gù đầy vẻ lo ngại. Bà choàng vội một chiếc áo ngoài bằng dạ, trùm lên đầu một chiếc khăn. Đến cửa bà quay lại nói với tôi:

“Đáng lẽ họ phải thuê hai máy kéo. Lỡ một máy hư thì máy kia còn kéo được. Chớ như vậy, không biết được chuyện gì sẽ xảy ra!”.

Rồi bà chạy theo họ.

Sau cuộc nhậu nhẹt, những cãi vã và sự lăng xăng nhốn nháo, căn nhà gỗ giờ đây trống trải, thanh vắng; và vì cánh cửa cứ mở ra hoài nên hơi ẩm đã thoát đi. Bên ngoài trời tối đen như mực. Tôi cũng lấy áo ấm mặc vào và ngồi sửa bài. Đằng xa tiếng máy kéo tắt dần.

Một giờ đã trôi qua, rồi một giờ nữa. Thêm một giờ thứ ba. Matriona vẫn chưa về, nhưng tôi không ngạc nhiên lắm: sau khi đi theo xe trượt một khúc, có lẽ bà đến nhà bà bạn Macha.

Lại một giờ trôi qua. Rồi một giờ khác. Không phải chỉ có bóng đêm dày đặc, mà một sự im lặng nặng nề bao trùm lên khắp thôn làng. Tôi không hiểu nổi lý do của sự im lặng đó: sau đó tôi mới biết là, suốt buổi tối, không có một chiếc xe lửa nào chạy qua trên đường sắt cách nhà chúng tôi khoảng nửa cây số. Máy thu thanh tôi đã tắt và tôi để ý thấy bọn chuột chưa bao giờ lại lộng hành như vậy. Chúng chạy càng lúc càng bạo và càng ồn dưới lớp giày. Chúng còn cào sột soạt và kêu chí chóe nữa.

Tôi vẫn còn thức. Đã hơn nửa đêm rồi mà Matriona vẫn chưa về.

Bỗng nhiên tôi nghe nhiều tiếng người nói trong làng. Tuy ở xa nhưng có một cái gì làm tôi nghĩ là họ đang đi về hướng nhà chúng tôi. Đúng vậy, không bao lâu tôi nghe tiếng chạm cửa thật mạnh. Một giọng nói xa lạ, dõng dạc kêu mở cửa. Tôi lấy một cây đèn bấm và bước ra giữa bóng đêm dày đặc. Cả làng đang chìm trong giấc ngủ, không thấy có ánh đèn qua cửa sổ, và lớp tuyết sau một tuần đã bắt đầu tan nên cũng không còn chiếu sáng. Tôi xoay cái chốt ở dưới và mời họ vào. Bốn người đàn ông mặc áo choàng đi vô trong nhà gỗ. Thật cũng không thích thú gì khi thiên hạ đến nhà bạn lúc nửa đêm mà còn ồn ào và mặc đồng phục.

Dưới ánh sáng, tôi nhận thấy, trong số bốn người, có hai người mặc áo choàng của thợ quét lò sưởi. Người trọng tuổi nhất, mập mạp, có bộ mặt giống như anh tài xế máy kéo, hỏi:

“Bà chủ nhà đâu?”

“Tôi không biết”.

“Cái máy kéo và mấy chiếc xe trượt có phải từ ở đây đi không?”

“Phải”.

“Trước khi đi họ có uống rượu phải không?”

Cả bốn người đều nheo mắt nhìn soi mói vào ánh sáng lờ mờ tỏa ra từ ngọn đèn trên bàn viết của tôi.

“Có chuyện gì xảy ra vậy?”

“Lo trả lời những câu hỏi của chúng tôi đi!”

“Nhưng…”

“Khi họ đã say rồi phải không?”

“Họ đã uống rượu tại đây phải không?”

Có ai bị ám sát chăng? Hay là họ cấm chở “căn phòng” đi? Họ có vẻ nhất quyết muốn biết. Một điều chắc chắn là với cái vụ cất rượu, Matriona có thể đi tù như chơi.

Tôi lùi lại phía cánh cửa nhỏ nhà bé và đứng lấp nó lại.

“Thật tình tôi không để ý. Tôi không thấy gì hết” (và quả thật, tôi có thấy gì đâu, tôi chỉ có nghe thôi).

Tôi làm một động tác với bàn tay để tỏ vẻ bất lực và chỉ cho họ thấy tình trạng của căn nhà: một thứ ánh sáng hiền hòa trên bàn viết của tôi tỏa xuống sách và vở; đám gỗ sung như sợ hãi; cái giường thô sơ của kẻ ẩn sĩ. Không có một dấu vết gì gọi là trụy lạc cả.

Họ cũng đã nhận thấy ở đây không có dấu vết gì của rượu chè. Thế nên họ đi ra phía cửa, vừa nói với nhau là không có ai đã uống rượu trong nhà này, nhưng phải chi nhận được có dấu vết nhậu nhẹt thì hay quá. Tôi đưa họ ra và cố tìm kiếm xem chuyện gì đã xảy ra. Chỉ khi ra tới cổng một người trong bọn mới càu nhàu:

“Nó đụng họ nát bét hết tất cả. Không làm sao nhặt được những mảnh thịt vụn!”.

Một người khác thêm vào:

“Như vậy cũng chưa đáng kể: chuyến xe tốc hành số 21 suýt bị trật đường rầy, lúc đó mới ghê nữa”.

Và họ bỏ đi mất.

Tôi trở vào nhà, thảng thốt. Họ là ai? Tất cả là ai với ai? Và Matriona hiện ở đâu?

Tôi vén màn bước sang nhà bếp. Mùi rượu nặc nồng làm tôi lợm giọng. Cả một sự ngổn ngang lạnh lẽo: ghế nhỏ, ghế dài chồng chất, chai không lăn lóc, có một chai còn khá đầy rượu, ly tách, cá mòi, củ hành và mỡ vụng còn dư.

Tất cả đều chết lặng. Chỉ có mấy con gián là bình thản bò trên bãi chiến trường.

Họ có nói đến chuyến xe tốc hành 21. Tại sao họ nói đến chuyến xe đó? Lẽ ra mình nên cho họ thấy tất cả những cái này? Tôi bắt đầu thấy hoang mang. Nhưng sao lại có cái lối kỳ cục là không bao giờ chịu giải thích cho những người không phải của chính quyền hết vậy? Bỗng nhiên cánh cửa rít lên. Tôi chạy vội ra.

“Matriona Vassiliévna, bà đó hả?”.

Cánh cửa mở ra. Bà bạn Macha của Matriona bước vào, loạng choạng, bẻ tay không ngừng.

“Ôi! Matriona… Matriona của chúng ta… Ingatitch ơi…!”.

Tôi dìu bà ngồi xuống, bà kể lại mà nước mắt cứ pha lẫn vào câu chuyện.

Nơi giao điểm của đường lộ và đường sắt có một cái dốc cao. Nơi đó không có cổng xe lửa. Cái máy kéo đã qua được với chiếc xe trượt thứ nhất, nhưng dây cáp bị đứt và chiếc xe trượt thứ nhì, cái được ứng chế, bị kẹt ngay trên đường sắt và sắp đổ ra. Faddéi không có chất gỗ tốt trên chiếc xe thứ hai. Họ đã đẩy chiếc xe thứ nhất ra xa một quãng rồi mới quay lại tìm chiếc xe này. Anh tài xế và đứa con cà nhắc cố tìm cách buộc dây cáp ngay tại chỗ xe kẹt, vậy mà Matriona cũng phải xen vô. Bà giúp ích được gì cho mấy gã đàn ông? Lúc nào bà cũng xen vô chuyện của đàn ông. Cũng như lần bà suýt bị con ngựa quật bà xuống hồ đầy băng tuyết vậy. Tại sao bà lại đến cái nơi giao lộ mắc dịch ấy làm gì? Bà đã cho “căn phòng”, bà đã làm hết bổn phận, bà đã xong nợ rồi… Anh tài công thì cứ nhìn về phía Tchérousti vì sợ có xe lửa từ hướng đó tới, từ đằng xa thế nào cũng thấy đèn của nó. Nhưng từ hướng bên này, phía ga của chúng tôi, có hai cái đầu máy kéo nhau trờ tới, không có đèn và chạy thụt lùi. Không ai biết tại sao chúng không bật đèn, nhưng khi một đầu máy xe lửa chạy thụt lùi, anh tài công bị bụi của toa chở than làm cho không thấy gì hết ở phía sau. Chúng ủi vào và nghiền nát ba người đứng giữa cái máy kéo và chiếc xe trượt. Máy kéo tan tành, xe trượt thành mảnh vụn, đường sắt bật tung lên, và hai đầu máy xe lửa lật qua một bên:

“Nhưng tại sao họ không nghe tiếng máy xe lửa đến?”.

“Tại tiếng máy kéo rền quá”.

“Còn xác của họ?”

“Người ta không cho tới gần, họ cắt người gác xung quanh”.

“Còn chuyện chuyến xe tốc hành mà tôi nghe là thế nào?... Họ bảo là một chuyến tốc hành…”

“Đó là chuyến xe mười giờ. Nó chạy ngang qua ga chúng ta mà không ngừng lại và cũng đến chỗ giao lộ. Khi hai cái đầu máy lật xuống, hai anh tài công thoát ra được, họ nhảy xuống đường sắt và chạy trở lui về phía sau. Họ ngừng lại ở đường sắt và phất tay lia lịa, họ đã chận đứng được chuyến xe tốc hành lại…”.

Đứa cháu trai của Faddéi cũng bị một cây kèo làm bị thương. Hiện giờ nó đang trốn tại nhà Klava để người ta không biết là nó đã có mặt tại nơi xảy ra tai nạn. Nếu không thì họ sẽ bắt nó làm nhân chứng!... Kẻ không biết thì yên thân, “kẻ biết” thì bị đem treo cổ… Còn chồng của Kira thì không bị xây xát chút nào. Anh ta định thắt cổ tự tử, nhưng đến phút chót anh ta được cứu thoát. Chính tại lỗi tôi, anh ta giải thích, mà cô tôi và em vợ tôi chết. Vừa rồi anh ta đã đi nạp mình. Nhưng giờ đây không cần bỏ anh ta vào tù nữa mà bỏ vô nhà thương điên! Khổ quá! Matriona, bạn Matriona yêu dấu của tôi!

Matriona không còn nữa. Một người thân yêu đã ra đi. Thế mà ngày cuối cùng tôi đã trách móc bà ta vì cái áo choàng của tôi.

Người con gái diêm dúa vẽ bằng màu đỏ màu vàng trên tấm bích chương với những cuốn sách vẫn tươi cười.

Macha ngồi khóc thêm một lúc. Khi đứng lên để ra về, bà chợt hỏi:

“Ingatitch! Ông còn nhớ… cái áo gi-lê đan của Matriona… Chị ấy hứa cho con cháu Tania của tôi sau khi chị mất, có phải vậy không?”

Trong ánh sáng lờ mờ, bà nhìn tôi tràn trề hy vọng: Có thể nào tôi quên được sao?

Nhưng tôi vẫn còn nhớ:

“Vâng, đúng bà ấy có hứa”.

“Thế thì, ông nghe này, nếu ông cho phép tôi sẽ đi lấy ngay? Kẻo sáng mai cả họ sẽ đến và như vậy tôi sẽ không lấy được nữa”.

Và bà lại nhìn tôi với vẻ van nài hy vọng. Đấy, người bạn của Matriona trong suốt nửa thế kỷ, người duy nhất thương yêu bà thực tình trong làng…

Có lẽ như vậy vẫn hơn?...

“Vâng, dĩ nhiên … Bà cứ lấy… tôi xác nhận…”

Bà mở một cái rương nhỏ, kéo chiếc gi-lê ra, nhét nó dưới lớp áo của bà rồi đi về…

Bọn chuột như lên cơn điên, chúng chạy tứ tung dọc theo mấy bức tường và lớp giấy lót màu xanh vòng lên như dợn sóng trên lưng chúng.

Buổi sáng tôi còn phải đi dạy. Đã hai giờ hơn rồi. Điều duy nhất cần phải làm là gài cửa và đi ngủ.

Phải gài then cửa vì Matriona sẽ không bao giờ về nữa.

Tôi đi nằm mà không tắt đèn. Bọn chuột cứ kêu chút chít, như rền rĩ, và nhảy nhót không ngừng. Đầu óc mệt mỏi, ý nghĩ rời rạc, tôi không thể nào xua đuổi được sự sợ hãi luôn ám ảnh tôi: tôi có cảm tưởng chính Matriona đang chạy tứ phía để nói lời vĩnh biệt với căn nhà của bà. Rồi bỗng trong góc tối cạnh cửa ra vào, tôi hình dung thấy Faddéi, còn trẻ, đen ngòm, đứng giữa khung cửa tay lăm lăm lưỡi búa:

“Nếu không phải là em tôi thì tôi sẽ giết cả hai”.

Lời hăm dọa ấy, trong suốt bốn mươi năm trời vẫn còn rình rập trong một góc nhà, như một lưỡi gươm cũ kỹ, và cuối cùng, cũng kết liễu đời Matriona.


3.

Sáng sớm mấy chị đàn bà đem về từ chỗ giao lộ tất cả những gì còn lại của Matriona, bọc trong một tấm bố bẩn thỉu, và chở trên một chiếc xe trượt tuyết nhỏ. Người ta vất tấm bố đi để tắm cho bà lần cuối. Những gì còn lại đó là một đống bầy nhầy: mất chân, mất một nửa thân, và cả cánh tay trái. Một người đàn bà trong bọn nói:

“Chúa đã để lại cho bà bàn tay mặt. Bà sẽ có thể cầu nguyện ở trên ấy”.

Và đây, đám gỗ sung mà Matriona đã yêu thương đến độ một đêm, giật mình thức dậy giữa mùi khói sặc sụa, bà không lo chạy đi cứu căn nhà mà chỉ lo ném đám gỗ sung xuống đất (cho chúng khỏi hư trong đám khói), đang được mang ra khỏi căn nhà gỗ. Mặt ván được lau chùi sạch sẽ. Tấm gương mờ của bà được che lại với một cái khăn dệt tay của thời xa xưa. Những tấm bích chương vô ích trên tường được gỡ xuống. Bàn của tôi được đẩy ra sát mấy cái cửa sổ, và dưới các pho tượng Thánh Mẫu, người ta đặt trên mấy cái ghế đỡ cỗ quan tài đóng rất thô sơ.

Trong hòm có Matriona. Thân thể không toàn vẹn của bà được phủ một tấm khăn trải giường sạch và đầu bà được quấn một chiếc khăn quàng trắng; gương mặt bà vẫn nguyên vẹn, bình thản, có vẻ còn sống hơn là đã chết.

Dân làng đến nhìn bà một lúc rồi đi. Đàn bà thì mang luôn cả con cái đến cho chúng nhìn thấy người chết. Mỗi khi có ai bắt đầu khóc thì tất cả mấy bà, luôn cả những bà chỉ đến vì tò mò, đều thi nhau sướt mướt từ cửa ra vào cho đến dọc theo bốn vách tường như để phụ họa. Đàn ông thì đứng thẳng, im lặng và đầu trần.

Các bà họ hàng mới là những người hát giọng chánh. Trong tiếng khóc than đó, tôi ghi nhận có một trật tự đã được nghiền ngẫm một cách lạnh lùng và đặt để ra từ muôn thuở. Những bà có họ xa thì chỉ đến đứng một chốc cạnh quan tài và kể lể nho nhỏ. Mỗi bà sáng tác một âm điệu riêng biệt, trong đó họ diễn tả tất cả ý nghĩ và tình cảm của mình. Những bà nào tự cho mình có họ hàng gần hơn thì bắt đầu khóc ngay từ ngưỡng cửa, và đến gần quan tài thì họ cúi xuống để cho tiếng khóc than chạm tận mặt kẻ quá cố.

Có dịp này tôi mới biết được là sự than khóc của người chết không phải là những khóc lóc tầm thường, mà là một đường lối chính trị. Ba bà em của Matriona đến với vẻ hấp tấp, vội vã, họ chiếm ngôi nhà gỗ, con dê và cái lò, khóa cái rương bằng một ổ khóa, mở lớp vải lót của cái áo choàng ra để lấy số tiền hai trăm rúp làm đám táng, giải thích với mọi người họ là những người bà con gần duy nhất của Matriona. Và họ cũng khóc trên quan tài của bà.

“Ối, chị ơi là chị ơi! Trời ơi! Người mẹ nhỏ bé của tôi! Tụi em chỉ có mình chị thôi! Chị có thể sống yên thân mà! Và tụi em lúc nào cũng cưng chiều chị mà! Cái “căn phòng” của chị nó giết chị, chị ơi! “Căn phòng” yêu quỷ đó nó kết liễu đời chị rồi! Tại sao chị lại đi tháo nó ra làm gì? Ôi! Tại sao chị không nghe chúng em?”.

Như vậy rõ ràng những lời than khóc của mấy bà em là một lời buộc tội gia đình bên chồng bà: đáng lẽ không nên bắt Matriona phá “căn phòng” (và như vậy có nghĩa là mấy người có thể có “căn phòng”, nhưng ngôi nhà này thì đừng hòng).

Gia đình bên chồng: chị em dâu của Matriona, chị và em gái của Efime và Faddéi, rồi thêm đủ loại cháu chít đều đến khóc lóc:

“Trời ơi! Cô ơi là cô ơi! Sao cô không giữ lấy thân? Rồi bây giờ thế nào họ cũng oán trách chúng cháu cho mà xem! Ối trời ơi! Dì yêu dấu ơi! Hu hu! Tại dì mà! Chớ “căn phòng” nó có làm gì đâu! Tại sao dì lại đi tới nơi thần chết đang rình rập dì làm chi? Có ai bắt dì đi đâu! Dì xem dì chết như thế nào nè! Tại sao dì không chịu suy nghĩ? Tại sao dì không nghe chúng cháu chớ?”.

(Trong những lời than khóc đó ta thấy có câu trả lời: Chúng tôi không can dự gì trong cái chết của bà ấy cả; còn vụ ngôi nhà gỗ sẽ tính sau!).

Nhưng bà Matriona thứ nhì, với gương mặt to lớn méo mó kỳ cục, một Matriona thay thế mà trước kia Faddéi đã lấy chỉ vì cái tên của bà ta, không theo nổi cái chính trị đó, bà thét to lên, một cách rất mộc mạc, tiếng nấc nghẹn ngào trên hòm gỗ:

“Nhưng mà em là em gái của chị mà! Không lẽ em lại giận chị sao? Ôi chao ôi! Ôi chao ôi! Mình nói chuyện với nhau không biết bao nhiêu lần rồi! Em tha lỗi cho chị nhé. Chị khổ lắm! Ôi chao ôi! Em về với mẹ em rồi, chắc thế nào em cũng về tìm chị mà! Ôi chao ôi! Ôi chao ô… ôi!”

Trong cái “ôi chao ô… ôi” đó, bà có vẻ như để vào hơi thở cuối cùng của bà ta vậy; rồi bà đập ngực vào quan tài liên hồi. Đến khi sự khóc lóc của bà đã vượt quá mức nghi thức thì tất cả mấy bà kia đều đồng thanh, như muốn nhìn nhận là như vậy đủ thành công lắm rồi:

“Thôi! Thôi!”.

Matriona bỏ đi, nhưng sau đó trở lại khóc lóc dữ dội hơn nữa. Thế rồi một bà lão lụm cụm từ một góc phòng bước tới, đặt tay lên vai Matriona và nói với giọng gay gắt:

“Trên đời có hai điều bí mật: Ta sanh ra thế nào, không nhớ, ta sẽ chết thế nào, chưa biết được”.

Matriona liền nín ngay, và tất cả đều nín, và im lặng hoàn toàn.

Nhưng rồi chính bà lão lụm khụm đó, già hơn những bà già hiện có mặt tại đây rất nhiều, và hình như không có họ hàng gì với Matriona, một lúc sau lại òa lên khóc:

“Ôi, đau khổ quá Matriona ơi! Ôi! Vassiliévna của tôi ơi! Tôi chán phải đưa xác mọi người như vầy lắm rồi!”.

Rồi đến lượt người con nuôi Kira rấm rứt khóc, lần này không nghi thức mấy, vì những tiếng nức nở của chị ta giản dị hơn, như thường thấy ở thời đại chúng ta. Chính vì chị mà người ta đã tháo “căn phòng” ra và chở đi. Những lọn tóc quăn của chị rối bời thảm não. Mắt của chị đỏ hoe như rướm máu. Chị không buồn để ý đến cái khăn quàng của chị đã tuột ra và rơi xuống đất lạnh. Chị mặc áo choàng mà cũng chưa xỏ tay. Chị ngơ ngác chạy từ nhà này đến nhà nọ, từ chiếc quan tài của bà mẹ nuôi đến chiếc quan tài của người anh, và mọi người đều lo cho tinh thần thần kinh của chị vì chồng chị sắp phải ra tòa.

Với những sự việc đã xảy ra, anh ta sẽ bị buộc tới hai tội: thứ nhất là anh chở “căn phòng” đi, thứ nhì anh là tài công xe lửa, đáng lẽ anh phải biết rõ luật lệ khi băng qua giao lộ không có người gác, và phải chạy đến ga trước để báo cho người ta biết là có cái máy kéo sắp băng qua. Trong đêm ấy, trong chuyến xe tốc hành chạy đường Oural, hàng ngàn sinh mạng đang yên giấc trên những giường nhỏ tầng trên và tầng dưới, trong ánh mắt lung linh của ngọn đèn chong, hàng ngàn sinh mạng có thể đã ra đi vĩnh viễn. Vì lòng tham của một nhóm người muốn chiếm một mảnh đất nhỏ nhoi, hay vì không chịu để cho chiếc máy kéo đi thêm một cuốc thứ hai.

Vì “căn phòng” trở thành xui xẻo từ lúc Faddéi đang tâm xuống tay phá hủy.

Còn đối với người sống sót, thì anh tài xế đã thoát khỏi pháp luật loài người. Về phần Nha Hỏa xa thì họ phải chịu một phần trách nhiệm, lý do là nơi giao lộ có xe cộ qua lại thường xuyên như vậy mà lại không có người gác, và hai cái đầu máy lôi nhau chạy thụt lùi mà không đèn đóm gì hết. Chính vì vậy mà thoạt tiên người ta đã cố đổ lỗi cho sự say rượu và giờ đây thì tìm cách dìm câu chuyện cho êm.

Con đường sắt bị hư hai nặng đến nỗi trong suốt ba ngày liền, trong khi các cỗ quan tài được trưng bày trong nhà, xe lửa không di chuyển qua đó được mà phải dùng một con đường rẽ. Trong suốt những ngày thứ Sáu, thứ Bảy và Chủ nhật, từ lúc cuộc điều tra bắt đầu cho đến khi chôn cất, người ta ngày đêm sửa chữa con đường sắt nơi xảy ra tai nạn. Bọn thợ bị lạnh cóng, và để sưởi ấm và soi sáng ban đêm, họ đốt những đống lửa lớn với ván và gỗ lóng cho không của chiếc xe trượt thứ nhì còn vung vãi nơi giao lộ.

Còn chiếc xe trượt thứ nhất, vẫn chở đầy gỗ, nguyên vẹn, thì nằm cách đó không xa, phía bên kia con đường sắt.

Và chính những điều ấy, một chiếc thì như trêu ghẹo, chờ đợi với sợi dây cáp sẵn sàng để kéo đi, và chiếc kia còn có thể cứu khỏi ngọn lửa của bọn thợ sửa đường, đã làm cho lão râu đen Faddéi ray rứt cả ngày thứ Sáu và thứ Bảy. Con gái lão đã bị điên, con rể lão đang bị tòa án hăm dọa, trong nhà lão còn nằm trơ trơ xác đứa con trai đã do lỗi của lão mà chết, cũng cùng ở con đường đó còn xác một người lão đã từng yêu và lão đã giết. Faddéi chỉ đứng bên cạnh mấy cái quan tài trong chốc lát, tay vuốt hàm râu. Vầng trán cao của lão sa sầm với những ý nghĩ khổ sở, nhưng điều lão đang nghĩ tới là làm cách nào lôi những lóng gỗ của “căn phòng” ra khỏi ngọn lửa và khỏi những âm mưu của mấy người em gái của Matriona.

Khi kiểm điểm lại những người dân sống ở Talnovo, tôi nhận thấy Faddéi không phải là kẻ duy nhất thuộc hạng ông ta trong làng.

Và ngôn ngữ của họ có cách diễn tả lạ lùng khi gọi của cải của người khác là của chính mình. Và để mất nó đi là một điều nhục nhã và ngu si đối với mọi người.

Faddéi chạy từ tỉnh đến ga, từ cơ quan này đến cơ quan nọ, không một chút thì giờ để ngồi nghỉ, và với cái lưng không đứng thẳng nổi của lão, lúc nào lão cũng phải tựa vào cây gậy, để van xin mọi người thương hại tuổi tác của lão mà cho phép lão mang “căn phòng” về.

Rồi cũng có người cho lão đặc ân đó. Thế là lão huy động con trai, con rể và cháu của lão còn sống sót, và đi tìm ngựa ở công xã để chở về nhà lão tất cả những gì còn lại của “căn phòng” bằng cách đi một vòng qua ba làng để sang phía bên kia con đường sắt bị hư hại. Lão đã hoàn tất công việc đó trong đêm thứ Bảy rạng ngày Chủ nhật.

Ngày Chủ nhật là ngày đưa đám. Hai cỗ quan tài được đưa đến gặp nhau ở giữa làng. Họ hàng bàn tính xem phải để cái nào đi trước. Cuối cùng người ta đặt hai dì cháu nằm song song trên một chiếc xe trượt, và trên lớp băng của tháng Hai ẩm ướt dưới bầu trời u ám, người ta đưa hai kẻ xấu số đến nghĩa trang nhà thờ cách đó hai làng. Trời nhiều gió, mây đen vần vũ, vị linh mục cùng người hộ tế chờ sẵn ở nhà thờ chớ không chịu đi Talnovo.

Ra đến cổng làng, người đưa đi chậm lại và cùng hát những bản thánh ca. Sau đó họ để cho xe quan tài đi cách xa dần.

Trước hôm Chủ nhật, mấy người đàn bà còn chộn rộn trong căn nhà gỗ của chúng tôi: bà cụ già nhất lâm nhâm hát những bản thánh ca bên cạnh quan tài, mấy bà em của Matriona bận rộn bên cái lò tỏa ra một hơi nóng kinh khủng vì chứa đầy than hồng, bao than mà Matriona đã mang về từ một cái ao xa xôi. Họ làm những chiếc bánh pa-tê không thể nuốt nổi với một thứ bột hạng bét.

Chiều Chủ nhật, khi đã hạ huyệt xong, mọi người về tụ họp để ăn lễ tống táng. Bàn được kê thành một hàng dài nằm chật hết chỗ đặt quan tài lúc sáng. Thoạt tiên mọi người đều đứng chung quanh chiếc bàn tập thể và một ông cụ, chồng của người chị dâu, đọc kinh “Lạy Cha”. Sau đó mỗi người được phát một lớp mỏng nước mật vừa đủ lót đáy tô. Chúng tôi dùng muỗng ăn mật không, để cầu cho linh hồn Matriona được an nghỉ. Sau đó chúng tôi ăn và uống rượu Vodka, câu chuyện bắt đầu nổ như bắp rang. Trước khi dùng đến mứt trái nạc, mọi người đều đứng dậy và hát bài “Kỷ niệm muôn đời” (người ta giải thích cho tôi là trước khi ăn mứt phải hát như vậy). Rồi mọi người lại tiếp tục uống rượu. Họ nói chuyện mỗi lúc một ồn ào, nhưng không còn ai nhắc đến Matriona. Ông chồng bà chị dâu bắt đầu khoác lác:

“Quý vị là Chánh giáo, quý vị có để ý là ngày nay mình hát thánh lễ hơi chậm hay không? Chính Cha Mikhail đã lưu ý tôi đó. Ông ấy biết là tôi thuộc lễ chế mà. Nếu không thì chỉ một kinh “Lạy Cha” rồi một kinh “Kính mừng”, vừa đủ tiền thưởng, là xong”.

Cuối cùng tiệc cũng tàn. Mọi người lại đồng loạt đứng lên hát bài “Bà thật xứng đáng”, sau đó lặp lại ba lần “Kỷ niệm muôn đời”, “Kỷ niệm muôn đời”, “Kỷ niệm muôn đời”! Nhưng giọng nói của ai cũng đã khàn khàn, không nhịp điệu, mặt nào mặt nấy đều có vẻ say, và không ai còn cảm thấy một chút hứng thú nào trong cái kỷ niệm muôn đời đó nữa cả.

Sau đó đa số khách khứa đều ra về, chỉ còn lại những người bà con gần nhất, họ móc thuốc lá ra và bắt đầu hút, một vài câu chuyện pha trò được kể lại và tiếp theo là những tiếng cười vang. Câu chuyện bỗng được lái sang sự mất tích của ông chồng Matriona ngoài trận địa, và ông cụ chồng bà chị dâu cũng tay đấm vào ngực mình để chứng minh với tôi cùng lão thợ giày, chồng của một trong mấy bà em của Matriona:

“Thằng Efime nó chết rồi! Nếu không tại sao nó không về? Tôi ấy à? Dù tôi biết về tới quê người ta sẽ treo cổ tôi, tôi vẫn cứ về!”.

Lão thợ giày gật gù ra vẻ đồng tình. Lão ta là một đào binh; còn quê hương của lão, chưa bao giờ lão rời một bước. Trong suốt cuộc chiến lão vẫn luôn luôn trốn trong hầm rượu của mẹ lão.

Ngồi trên mặt lò là một bà cụ với vẻ mặt nghiêm khắc và lầm lì, bà ta già hơn cả những bà già nhất và vì vậy mà người ta muốn để bà đi nằm trước. Bà im lặng nhìn xuống với vẻ khinh khỉnh đám người trẻ của tuổi năm mươi, sáu mươi đó đang chộn rộn một cách khó thương.

Chỉ có người con nuôi đau khổ đã từng được dưỡng dục giữa bốn bức tường này là lẻn ra phía sau tấm vách để ngồi khóc.

Faddéi không đến dự tiệc ma chay của Matriona: phải chăng vì lão còn phải bận lo cho đám tiệc ma chay của con trai lão? Nhưng những ngày sau đó, lão đã đến hai lần, dáng vẻ đầy thù nghịch, để thương lượng với mấy bà em của Matriona và lão thợ giày đào binh.

Sự tranh chấp liên hệ đến căn nhà gỗ: ai sẽ được thừa hưởng, em gái hay người con nuôi? Thoạt tiên họ đã đưa ra giải pháp nhờ tòa án can thiệp, nhưng sau đó họ lại tìm cách hòa giải, vì sau khi suy nghĩ kỹ, mọi người đều nhìn nhận là tòa án sẽ không cho ai thừa hưởng cả mà sẽ sung vào tài sản của Hội đồng nông thôn Xô Viết. Cuộc thương lượng đã đi đến một thỏa thuận. Một trong mấy bà em sẽ bắt con dê, căn nhà gỗ sẽ về tay lão thợ giày và vợ lão; về phần Faddéi, xét vì “lão đã từng tự tay đẽo gọt từng mảnh ván”, lão sẽ làm chủ “căn phòng” mà lão đã chở về nhà, ngoài ra người ta cũng nhường luôn cho lão cái nhà để xe, nơi Matriona nuôi con dê cái, và cả dãy hàng rào ngăn cái sân với khu vườn.

Và một lần nữa, cố nén những tật xấu và sự đau đớn của mình, lão già tham lam lại tỏ ra phấn khởi và trẻ lại. Lão lại huy động đám con cháu còn sống sót để phá hủy căn nhà để xe và cái hàng rào, rồi lão đích thân mang gỗ ra chất lên xe trượt, và chỉ đến lúc gần xong, lão mới gọi thằng Anton của lớp 8D đến phụ một tay; lần này thì thằng bé không có gì là lười biếng cả.

Người ta cấm cửa ngôi nhà của Matriona cho đến mùa xuân, và tôi phải đến ngụ gần đó tại nhà một bà chị dâu của Matriona. Sau đó bà chị dâu này mới kể lại trong những dịp khác nhau nhiều sự kiện liên hệ đến Matriona làm cho tôi thấy một khía cạnh khác của người quá cố.

“Efime đâu có thương nó. Thằng ấy hay nói: “Tôi thích ăn mặc theo người văn minh, còn bà ấy thì lôi thôi, sao cũng được, giống như ở nhà quê vậy. Thế là, trong khi nó không cần gì hết, nó là vậy đó mà, chồng nó đem tiền dư đi uống rượu. Rồi một hôm vợ chồng nó lên tỉnh kiếm tiền, thằng chồng nó mới gặp được một cô bạn gái dễ thương và không muốn về với nó nữa”.

Tất cả những gì bà ta kể đều có ý chê bai: nó ăn mặc bê bối, không thèm chăm sóc nhà cửa, không biết tiết kiệm, thậm chí đến heo mà cũng không biết nuôi, không ai hiểu nổi tại sao nó không thích nuôi heo, và cái con khùng ấy chỉ lo đi giúp không cho người khác. (Bà ta nhắc đến Matriona đúng vào dịp tìm không ra người để nhờ kéo cày xới đất trong khu vườn).

Ngay cả lòng tốt và tính bình dị của Matriona, bà ta cũng gợi lại, dù bà ta nhìn nhận những tính ấy, một cách đầy thương hại pha lẫn khinh khi.

Cho tới giờ phút này – trước những lời chê trách của bà chị dâu – tôi mới thấy hiện lên trước mắt hình ảnh một Matriona mà trước kia tôi không thể hiểu được, dù sống bên cạnh bà.

Quả thật trong làng, nhà ai cũng có nuôi một con heo hết! Nhưng bà ta thì không. Còn gì giản dị hơn là nuôi một con heo con tham ăn, suốt ngày chỉ biết có ăn! Trộn đồ ăn cho nó mỗi ngày ba bận, sống vì nó, rồi sau đó giết nó đi để lấy mỡ?

Nhưng bà đã không làm như vậy …

Bà xem thường việc dọn dẹp nhà cửa… Bà không hơi sức đâu đi sắm sửa quần áo để phải gìn giữ và coi chúng quý giá hơn chính cuộc đời của bà.

Bà không chạy theo đồ trang sức. Quần áo chỉ để làm đẹp những kẻ xấu xa và ác đức.
Không được ai hiểu, bị chồng ruồng bỏ, đã phải đem chôn sáu người con, nhưng bà vẫn giữ được tính hợp quần, xa lạ đối với các em gái và chị em dâu, lố bịch, làm việc không công cho người khác một cách ngu muội. Bà không để dành được gì cho ngày mình nằm xuống. Một con dê cái dơ dáy, một con mèo què quặt, một vài món đồ đạc bằng gỗ sung…

Và tất cả chúng tôi là những kẻ sống bên cạnh bà đã không hiểu được rằng bà là kẻ giàu lòng nhân ái mà cách ngôn thường nhắc đến, và nếu không có những người như vậy thì không có làng mạc nào, thành phố nào, hay cả thế gian này nữa có thể tồn tại được.

Nguồn: Alexandre Soljénitsyne, Ngôi nhà của Matriona, nguyên tác La Maison de Matriona, bản dịch Nguyễn Văn Son .. Ngày phát hành: 8.6.1974.

Aleksander I. Solzhenitsyn -Ngôi nhà của Matriona (1)

Aleksander I. Solzhenitsyn

Ngôi nhà của Matriona
Nguyễn Văn Son dịch


Mục lục

Lời người dịch
Vài hàng về Solzhenitsyn
Ngôi nhà của Matriona
Vì đại cuộc

Lời người dịch

Không cần phải đợi đến một trăm năm sau mới có thể khám phá được những phép lạ của thiên tài. Với một tác phẩm của Solzhenitsyn như “Ngôi nhà của Matriona” hay “Vì đại cuộc”, ta phải gật đầu nhìn nhận là ông rất xứng đáng với ngôi vị mà người ta đã dành cho ông trên diễn đàn quốc tế, mà cụ thể là Giải Nobel văn chương năm 1970.

Solzhenitsyn là một nhân chứng đã kể lại một cách trung thực những gì ông đã thấy, nghe, sống trong môi trường của một xã hội được mệnh danh là thiên đường cộng sản.

Ông không chỉ trích, phê bình, nhưng khi đọc truyện của ông, ta sẽ phát giác ra là những lời lẽ đượm vẻ khách quan của ông còn bén nhọn, hùng hồn gấp mười, gấp trăm lần những lời phê bình, chỉ trích trực tiếp.

Solzhenitsyn không đưa ta đến những thế giới xa lạ, Solzhenitsyn đem ta trở về với đời sống thường ngày, trong đó bao nhiêu vấn đề tế nhị luôn luôn âm ỉ, gây ra xung đột giữa nhiều ý thức hệ mâu thuẫn. Phải chăng chỉ ở làng Talnovo mới có một Matriona, một Faddéi? Hay chỉ ở một thành phố nào đó của nước Nga mới có một Lydia Guéorguievna hay một Fédor Mikhéévitch?

Qua hai câu chuyện này, người dịch chỉ mong sao có thể mang lại cho độc giả một cơ hội để nghiền ngẫm, để thấm thía cái số phận làm người mà chỉ trong sự thống khổ, trên bước gian nan mới có thể bật lên được thành tiếng thổn thức gây niềm thông cảm.

Khi đặt bút xuống để làm công việc này, người dịch đã có cảm tưởng là mình đang dấn thân vào một cuộc mạo hiểm, mà hậu quả tệ hại nhất là có thể mình sẽ phản bội một tác giả mà mình yêu thích cho đến độ muốn cho mọi người cũng yêu thích như mình.

Tuy nhiên, chính trong tinh thần của Solzhenitsyn mà người dịch đã mạnh dạn cầm bút, tương tự như đám học trò của Fédor Mikhéévitch đã hăng hái bưng từng viên đá để xây ngôi trường của họ trong “Vì đại cuộc”.

Một nhà văn trẻ lỗi lạc Nga đã có lần tâm sự với dịch giả Léon Robel như sau: “Sau Solzhenitsyn, ta sẽ không còn có thể viết như ta đã từng viết trước đây”. Người dịch xin nhường cho độc giả quyền thẩm định câu nói đó.

Sài Gòn, ngày 24 tháng 5 năm 1974
Nguyễn Văn Son


Vài hàng về Solzhenitsyn

Chiều ngày 13 tháng 12 năm 1974, một chiếc Aero’lot TU 154 của hàng không dân sự Nga đã hạ cánh xuống phi trường Rhein-Main của thành phố Frankfurt, Tây Đức, và đậu ở cuối bãi. Từ nơi cửa ra hạng nhất, một người đàn ông năm mươi lăm tuổi với hàm râu quai nón đã bệ vệ bước ra.

Đó là Alexander Solzhenitsyn, vừa bị chính quyền Xô Viết tuyên án lưu đày biệt xứ và đem vất ở Tây Đức vì “đã có những hành động không thích hợp với một công dân Cộng hòa Xô Viết”.

Hai mươi bốn giờ trước đó, bảy nhân viên cảnh sát mặc thường phục đã bắt ông tại nhà để đưa ông đến Biện lý của thành phố Mạc Tư Khoa. Họ đã xô đẩy ông vì ông muốn mang theo một chiếc áo choàng thật dày để mặc cho ấm. “Để làm gì? Anh sẽ được thả ngay!”. Nhưng họ đã đưa ông đến khám đường Lefortovo, ở đó người ta đã lột hết quần áo của ông và bắt ông mặc một bộ đồng phục tù nhân.

Bị khép vào tội đại nghịch, Solzhenitsyn đã từ chối không trả lời một câu hỏi nào. Ngày hôm sau, ông Phó Tổng biện lý Mikhail Malgerov đã ký một trát đặc biệt của Hội đồng Tối cao Xô Viết tước hết quyền công dân của ông và tuyên án lưu đày biệt xứ ông. Sau đó, sáu nhân viên cảnh sát mặc thường phục đã đưa ông ra phi trường Mạc Tư Khoa, mà không cho ông biết là sẽ đưa ông đi về đâu. Chỉ khi nhìn qua cửa kính phi cơ thấy tấm bảng của phi trường “Frankfurt am Main”, Solzhenitsyn mới biết là mình đang ở trên đất Tây Đức.

Nguyên nhân của bản án lưu đày này là sự phát hành tại hải ngoại những tác phẩm của Solzhenitsyn, trong khi tại Nga, chính quyền từ chối không cho ông xuất bản.

Với bản án lưu đày đó, sự nghiệp của đại văn hào Xô Viết Solzhenitsyn đã đạt được tuyệt đỉnh danh vọng. Sự nghiệp của ông đã khởi đầu với tác phẩm nói về trại tập trung mang tựa đề: Một ngày trong đời của Ivan Denissovitch, một công trình mà chính nhật báo Pravda đã liệt vào hàng đại siêu phẩm. Nikita Kruschev đã từng là người đỡ đầu của ông, và sự phát hành tác phẩm Một ngày… là một phần ý muốn truất phế Staline của ông. Nhưng đến khi Kruschev bị hạ bệ, Solzhenitsyn đã phải trải qua trong mười năm ròng rã những sự va chạm đau thương càng ngày càng trầm trọng với chính quyền Xô Viết. Những tác phẩm kế tiếp của ông bị cấm xuất bản và ông thường xuyên bị báo chí Xô Viết chỉ trích quá đáng cốt để giảm uy tín ông.

Tuy nhiên, sách của ông vẫn được phổ biến rộng rãi nhờ phương pháp Samizdat (tự phát hành lấy), và trở nên những cuốn tiểu thuyết thuộc loại bán chạy nhất ở Tây phương. Cũng trong thời gian đó, ông trở thành nhà lãnh đạo tinh thần của “phong trào dân chủ” đối lập. Giải thưởng Nobel văn chương năm 1970 được trao cho Solzhenitsyn và đã làm cho chính quyền Xô Viết càng phẫn nộ, vì phần thưởng đó đã biến Solzhenitsyn thành một đại văn hào quốc tế mà họ không thể bịt miệng được nữa. Sự thách đố cuối cùng và không thể tha thứ được của Solzhenitsyn được ghi nhận từ lúc ông cho phép xuất bản tại Ba-lê tác phẩm Quần đảo Goulag. Trong quyển này, ông kể lại, với đầy đủ tài liệu, sự thống trị bằng phương pháp khủng bố của Lenin và Stalin. Tác phẩm này được coi như là nhân chứng của một xã hội Xô Viết trong đó “tự do” là một danh từ xa lạ.

Sanh năm 1918 tại Kirlovodsk (Nga), Alexander Isaievitch Solzhenitsyn lớn lên ở Rostov-sur-le Don, miền Nam nước Nga. Vừa học xong (Toán học và Vật lý học tại Đại học Mạc Tư Khoa, ngoài ra còn học hàm thụ Sử, Triết và Văn chương), thì Đệ nhị Thế chiến bùng nổ: binh sĩ trong quân chủng Kỵ binh, sau đó sĩ quan Pháo binh, vinh thăng đại úy và nhiều lần được ban thưởng huy chương. Tháng Giêng năm 1945, ông bị bắt vì đã viết trong một bức thơ những nghi ngờ về khả năng quân sự của Staline. Bị kết án (mà không được xử) tám năm lưu đày trong một trại tập trung, ông trở thành thợ hồ (giống như nhân vật chính trong Một ngày trong đời của Ivan Denissovitch). Năm 1953, ông được thuyên chuyển đến một làng ở Kazakhstan trong ba năm, ông tự khám phá bị một chứng bệnh ung thư nhưng sau đó, chứng bệnh tự nhiên biến mất. Được trả tự do năm 1957, ông trở thành giáo sư vật lý ở Riazan. Tháng Mười năm 1971, người ta thấy xuất hiện ở Ba-lê quyển tiểu thuyết cuối cùng của ông viết bằng Nga ngữ: Tháng Tám năm 1914.

Sau Một ngày trong đời của Ivan Denissovitch, nhiều đề tài khác cũng được đăng trong Novi Mir, trong số đó có Ngôi nhà của Matriona xuất hiện tại Pháp năm 1963, và nhiều bài khác xuất bản năm 1971, với tựa đề Zacharie I’Escarcelle. Hai quyển tiểu thuyết, một viết năm 1959, Tầng đầu địa ngục, một được hoàn tất khoảng năm 1967, Trại ung thư, bị cấm ở Nga và xuất hiện cùng lúc ở Pháp, là nơi chúng nhận được “giải thưởng của tác phẩm ngoại quốc hay nhất” năm 1968, giải thưởng này chỉ dành đặc biệt cho hai tác phẩm vừa kể.


Ngôi nhà của Matriona

Tại cây số 184, hơn một năm rưỡi sau, các xe lửa đều chạy chậm lại, tiến từ từ như mò mẫm. Hành khách đều dán mũi vào cửa kính, và dồn ra phía chỗ trống đầu toa. Có chuyện gì vậy? Sửa đường à? Có xe nào chạy không đúng thời biểu chăng?

Nhưng không. Qua khỏi đoạn đường đó, xe dần dần chạy nhanh trở lại, hành khách đều trở về chỗ cũ.

Duy chỉ có các tài công là biết và nhớ lý do của tất cả những gì đã xảy ra.

Và tôi nữa.


1.

Mùa hè 53, từ một miền sa mạc nóng bỏng và bụi bặm, tôi trở về đất Nga, vô chủ đích. Không có một xó nào có người chờ đợi hay kêu gọi cả. Tôi đã mất hàng chục năm trời rồi còn gì, do đó… điều tôi muốn chỉ còn là miền Trung nước Nga, không nắng ấm nhưng lá cây xào xạc trong rừng. Tôi muốn được chìm sâu và mất dạng ngay trong lòng đất Nga… Nếu có!

Ở phía bên này của dãy Oural, một năm trước đây, tôi chỉ có thể được thuê làm phu vác giỏ là cùng. Người ta sẽ không bao giờ thuê tôi làm việc ở một công trường thích hợp, dù chỉ là với tư cách một thợ điện. Trong khi đó tôi chỉ hướng về nghề dạy học. Có người hiểu chuyện bảo tôi không nên phí tiền, vì cuộc du hành sẽ không đem lại một lợi ích nào cả.

Nhưng mọi việc đang bắt đầu chuyển mình. Khi tôi bước lên thang lầu học viện X và hỏi thăm chỗ đặt văn phòng sở nhân viên, tôi rất kinh ngạc khi nhận thấy các cán bộ ở đây không còn ngồi trong những căn phòng có cửa lợp da đóng kín mà lại ngồi phía sau những tấm vách bằng kiếng, y hệt như ở tiệm thuốc tây vậy. Tôi bẽn lẽn tiến đến ghi-sê, nghiêng người xuống hỏi:

“Xin lỗi, ông có cần giáo sư toán để dạy ở một miền nào xa đường xe lửa không? Tôi muốn định cư vĩnh viễn ở đó”.

Người ta dò từng chữ một trên thẻ căn cước của tôi, kế đến họ thi nhau chạy tới chạy lui hết phòng này sang phòng khác, rồi những cú điện thoại liên tiếp. Dù sao, đây cũng là một trường hợp hơi lạ vì thường thì ai cũng xin việc ở thành thị, và nếu có thể, ở thành phố càng lớn càng tốt. Cuối cùng người ta cũng cho tôi một việc làm ở một nơi hẻo lánh mà chỉ cái tên không “Đồng Nội Cao Nguyên” cũng đủ tạo niềm vui trong lòng tôi.

Thật xứng đáng với tên của nó. Trên một mô đất cao giữa những thung lũng nhỏ cùng nhiều ngọn đồi con khác, xung quanh có rừng cây xanh vây kín, Đồng Nội Cao Nguyên với chiếc hồ con và cái đầm của nó là nơi mà người ta cảm thấy sự sống và cái chết không có gì đáng phiền trách cả. Tôi ngồi đây rất lâu, trên một gốc cây trong cánh rừng thưa, và thầm ước phải chi mình có thể không cần đến những bữa cơm, miễn sao được ngồi đây mà nghe tiếng lá xào xạc trên mái trong đêm thanh vắng, không bao giờ có tiếng máy thu thanh đến quấy rầy, và tất cả mọi thứ trên cõi trần là sự im lặng.

Tiếc thay, đây không phải là đất sống. Không thấy ai bán món gì có thể ăn được trên vùng đất này. Cả làng phải đi chở những bữa cơm nghèo trong những cái bao nhỏ mãi tận ở tỉnh lỵ về.

Tôi lại phải trở về với các anh cán bộ và xin xỏ trước ghi-sê. Thoạt tiên người ta không muốn nghe tôi nói. Nhưng rốt cuộc, những cuộc chạy tới chạy lui từ phòng này sang phòng khác, những cú điện thoại, tiếng bút sột soạt trên giấy lại diễn ra, và cuối cùng người ta cũng đánh máy trên nghị định bổ nhiệm của tôi: “Torfprodoukt”.

Torfprodoukt? Lạ quá! Chính Tourgueniev cũng không bao giờ ngờ là người ta có thể phịa những tên như vậy trong tiếng Nga.

Đến ga Torfprodoukt, một dãy nhà bằng ván tạm bợ và xiêu vẹo màu xám, ở đó có người dán lên một bố cáo nghiêm khắc sau đây: “Chỉ lên tàu phía bên sân ga!” rồi ai đó thêm vào mấy chữ kẻ bằng đầu đinh nhọn “Và không cần vé!”. Và người ta thấy bên cạnh chỗ thu tiền cũng câu đó, nhưng lại kẻ bằng dao với đầy vẻ quả quyết và cũng chứa đựng một ý nghĩa pha trò buồn bã: “Không có vé’. Sau này tôi mới thấm thía ý nghĩa của những chữ viết thêm đó. Đến Torfprodoukt thì dễ nhưng đi thì rất khó.

Ở đây cũng có rừng sâu rậm rạp mà cách mạng không tàn phá nổi. Nhưng rồi gỗ cũng được phu mỏ than và nông dân các hợp tác xã kế cận đốn đi. Chủ tịch công xã nhân dân [1] , tên Chachkov, đã đốn sạch mấy mẫu liền để bán với giá rất cao ở vùng Odessa.

Thành phố được dựng lên với tất cả sức lực của nó giữa những hầm mỏ: những trại bằng gỗ hệt như vào các năm 30, và những nhà nhỏ có hiên bộc gỗ khắc hình theo kiểu những năm 50. Nhưng ở bên trong thì không có vách ngăn cao đến trần nhà, và chính vì vậy mà tôi không thể thuê được một căn phòng với bốn bức tường thực sự.

Một ống khói nhà máy tỏa nghi ngút bao phủ lên khắp thành phố. Một con đường rất hẹp như nối liền hai đầu của thành phố ấy và thỉnh thoảng rẽ chỗ này chỗ nọ, với mấy cái đầu tàu con con, cũng phun ra một thứ khói dày đặc, và với những tiếng hú đinh tai, kẽo kịt lôi ra các toa hàng chở đầy than bùn nâu sẫm, từng bảng to hay từng viên nhỏ như viên gạch. Tôi có thể đoán mà không sợ lắm là buổi chiều một chiếc máy phóng thanh sẽ gào thét trước câu lạc bộ, rồi những bợm nhậu sẽ lang thang khắp đường phố để rồi cuối cùng những nhát dao sẽ kết liễu cuộc vui.

Đó là kết quả của sự mơ mộng đến một vùng nhỏ bé và yên tĩnh trên đất Nga. Giờ đây tôi mới thấy nơi mà tôi rời bỏ vẫn thơ mộng hơn, vì ít ra tôi cũng còn có một cái nhà bằng đất nhìn ra sa mạc, đêm đêm gió mát, và bầu trời trong vắt chỉ thấy có trăng sao.

Nằm trên chiếc ghế dài ở sân ga, tôi không tài nào dỗ được giấc ngủ, và đến tờ mờ sáng tôi lại đi lang thang trong thành phố. Bấy giờ tôi mới khám phá ra là có một cái chợ tí hon, chỉ có một người đàn bà duy nhất vào giờ này đang đứng bán sữa. Tôi mua một chai và uống ngay lúc đó.

Giọng nói của chị ta làm tôi ngạc nhiên hết sức. Chị không nói, chị hát nho nhỏ mà khi nghe ta có cảm tưởng như lòng mình hoàn toàn rung động, và những lời nói của chị phát ra chính là những lời đã kéo tôi ra khỏi mảnh đất Á Đông này.

“Uống đi nếu bạn thấy thích. Chắc chắn bạn không phải là người địa phương này?”.

“Còn chị, chị từ đâu đến?”. Tôi vui vẻ hỏi lại.

Tôi cũng được biết là xung quanh đây không phải chỉ có các mỏ than, mà khi vượt qua khỏi đường xe lửa, ta sẽ đến một ngọn đồi, rồi sau đó là một cái làng tên là Talnovo. Theo người ta kể lại thì làng này đã có từ lâu, ngay từ thời “tsgiane”, khi còn một cánh rừng già bao phủ khắp vùng. Rồi xa hơn nữa là cả một vùng đất có nhiều làng mạc: Tchaslitsy, Ovintsy, Spoudni, Chevertni, Chestimirovo, tất cả đều heo hút cách xa con đường sắt và nằm cạnh những bờ hồ.

Những tên đó đối với tôi như một luồng gió yên lành hứa hẹn một nước Nga thăm thẳm.

Tôi liền đề nghị với người bạn mới đưa giúp tôi đến Talnovo sau khi chợ tan, và tìm giúp tôi một căn nhà để tôi ở trọ.

Tôi được coi như một khách trọ có nhiều quyền lợi: nhà trường sẽ cung cấp thêm một số tiền thuê một xe chở than cho tôi dùng trong mùa đông. Sự lo lắng hiện trên nét mặt của chị ta không còn là sự dịu dàng của tâm hồn nữa. Nhà chị không có dư chỗ trống (chị có chồng và phải “nuôi dưỡng” mẹ già), thế nên chị dẫn tôi đến nhà mấy người bà con của chị, hết nhà này đến nhà nọ. Nhưng không đâu có phòng riêng cả. Đã không có chỗ mà lại còn ồn ào nữa.

Cứ như thế mà chúng tôi đến một nơi có con sông gần như khô cạn cùng một cái đập và một chiếc cầu nhỏ. Chưa có chỗ nào trong làng mà tôi thấy xinh đẹp như ở đây: vài ba cây liễu, một căn nhà gỗ xiêu vẹo, một đàn vịt đang lội dưới ao cùng mấy con ngỗng vừa rẩy lông ướt vừa leo lên bờ.

“Thôi, bây giờ chỉ còn cách là đến nhà Matriona, người hướng dẫn của tôi nói, chị ta có vẻ chán rồi. Có điều là nhà không được sạch sẽ lắm, bà ấy hơi bê bối một chút và hơi yếu đuối nữa”.

Căn nhà của Matriona cũng ở trong một xóm gần đó: bốn khung cửa sổ nhỏ nằm ngay hàng bên phần râm mát ở phía sau, mái nhà lợp bằng dăm bào với một khung cửa nhỏ của cái vựa sát nóc làm theo kiểu Térème.

Nhưng dăm bào đã mục, các thanh gỗ của căn nhà và cổng, xưa kia chắc phải oai vệ lắm, nay đã ngả màu xám xì vì quá cũ, ngay cả lớp hồ bên ngoài cũng đã loang lổ rất nhiều.

Cánh cổng đã cài then, nhưng chị hướng dẫn viên của tôi, thay vì gõ cửa, đã lòn tay xuống phía dưới và kéo then cửa qua một bên, đó chỉ là biện pháp thô sơ để ngăn ngừa gia súc khỏi xổ chuồng. Sân không có mái che nhưng có một dãy nhà phụ dính liền với căn nhà trên. Qua khỏi cổng là một cầu thang bên trong đưa đến nhiều sân gác rộng thênh thang cách mái nhà rất xa. Bên trái là một cầu thang khác đưa đến “căn phòng đẹp”, một căn phòng không lò sưởi, biệt lập; vài bậc thang khác lại đưa đến một cái gác xép dùng để chứa đồ. Phía bên phải là cái nhà gỗ thật sự với đầy đủ vựa và hầm.

Nhà này được cất lên lâu lắm rồi, và rất chắc chắn, cho một gia đình đông người, nhưng giờ đây người duy nhất ngụ ở đó là một bà cụ tuổi đã lục tuần.

Khi tôi bước vô thì thấy bà đang nằm ngay trên cái lò sưởi kiểu Nga, cạnh cửa vào, trên người đắp những mảnh vải rách rưới màu sậm khó đoán được là loại gì, nhưng chắc chắn trong cuộc sống của dân lao động không có một giá trị nào.

Căn nhà gỗ rộng lớn, đặc biệt là phía bên còn khá nhất, chứa ngổn ngang chai lọ và thùng nhỏ làm bằng gỗ sung dùng để đựng nước đặt trên mấy cái ghế đẩu. Những đồ vật đó mặc dù im lặng nhưng sống động đã lấp đi phần nào sự cô độc của bà chủ nhà. Chúng nằm la liệt một cách tự nhiên, và hứng tất cả các tia nắng nghèo nàn lọt vào từ phía Bắc. Và trong cái ánh nắng chiếu sắp tắt đó, gương mặt tròn trĩnh của bà chủ nhà khuất sau cái lò sưởi càng tăng thêm vẻ vàng vọt và bệnh hoạn. Đôi mắt lờ đờ của bà cho thấy sự đau ốm đã hành hạ bà rất dữ dội.

Trong khi nói chuyện với tôi, bà vẫn nằm bẹp trên cái lò, đầu không có gối, quay về hướng cánh cửa nơi tôi đang đứng. Bà không tỏ ra sung sướng chút nào khi biết mình vừa bắt được một khách trọ, trái lại chỉ than thở vì căn bệnh độc hại mà cơn đau vừa mới hành hạ bà xong: không phải tháng nào cơn cũng trở lại, nhưng cứ mỗi lần nó đến thì:

“… Nó hành hạ tôi hai ba ngày liên tiếp, như vậy tôi không biết làm sao có thể đi đứng và dọn ăn cho ông. Không phải vấn đề cái nhà, tôi không thấy có gì khó chịu vì có ông ở đây cả”.

Thế rồi bà kể cho tôi một lô những căn nhà khác có thể cho tôi nhiều tiện nghi và yên tĩnh hơn, bà muốn tôi đi qua một vòng xem sao. Nhưng tôi đã hiểu là số phận đã bắt tôi phải trọ tại căn nhà gỗ khá tối tăm này, với cái gương soi mặt đã mờ không còn phản chiếu được gì nữa cả, với hai tấm bích chương giá một rúp màu sắc lòe loẹt nói về sự bán sách và mùa gặt, mà bà dán lên tường cho đẹp.

Và mặc dù Matriona Vassiliévna buộc tôi phải đi khắp làng, nhưng đến khi tôi trở lại lần thứ nhì bà vẫn còn ngoan cố từ chối:

“Nhưng lỡ một ngày nào đó tôi không nấu cơm được thì ông sẽ làm sao?”.

Tuy nhiên bà cũng đứng dậy để tiếp tôi, và phải công nhận lần này thấy tôi trở lại trong đôi mắt bà thoáng hiện một cái gì như là sự vừa ý vậy.

Chúng tôi thỏa thuận về giá cả và số than do nhà trường cung cấp.

Sau này tôi mới biết là trong nhiều năm qua Matriona Vassiliévna không có lãnh được một cắc nào vì bà không được cấp hưu bổng. Bà con không ai giúp đỡ bà cả. Còn ở công xã nhân dân thì bà làm việc không lương mà chỉ lãnh những cây gậy nhỏ, thể hiện cho những ngày làm việc, và được ghi vào một cuốn sổ bẩn thỉu.

Thế là tôi trọ tại nhà Matriona. Chúng tôi không ngăn căn phòng ra làm đôi. Giường của bà kê trong một góc sát cánh cửa ra vào cạnh lò; tôi kê giường tôi cạnh một cửa sổ, và để có thêm ánh sáng tôi dời mấy cái thùng bằng gỗ sung ra xa một chút, để đặt một cái bàn cạnh một cửa sổ khác. Trong làng có điện: người ta đã câu điện vào Chatoury ngay từ những năm 20. Vào thời đó, báo chí thường nói đến “cái đèn của Ilitch”, và các bác nhà quê trợn to mắt mà gọi: “Đó là Nữ hoàng ánh sáng!”.

Có thể những người khá giả nhất trong làng sẽ cho là căn nhà của Matriona không phải là nơi sinh sống lý tưởng, nhưng đối với chúng tôi, trong mùa thu và mùa đông năm ấy, thì lại là một căn nhà rất tốt: các trận mưa chưa làm đổ mái nhà và những cơn gió lạnh chưa quét hẳn sự ấm áp tỏa ra từ cái lò, trừ lúc gần sáng, nhất là khi gió thổi vào từ phía đổ nát.

Ngoài Matriona và tôi ra, trong nhà còn có một con mèo, rất nhiều chuột và gián.

Con mèo cũng không còn trẻ lắm, nhưng đáng chú ý nhất là nó què một cẳng. Matriona đã nuôi nó vì lòng nhân đạo và từ đó nó trở thành một thành phần trong gia đình bà. Mặc dù bốn cẳng nó vẫn còn đi được nhưng nó cà nhắc rất nhiều. Như vậy cái chân què của nó mới đỡ đau. Mỗi lần nó phóng từ trên lò xuống đất, tiếng động do nó gây ra khi chạm mặt đất không mềm mại như ta thường thấy ở loài mèo, mà lại mạnh cho đến độ lúc đầu tôi phải giật mình. Lý do là nó đặt ba cẳng xuống cùng một lúc để che chở cho cẳng thứ tư.

Tuy nhiên nếu trong nhà có nhiều chuột, đó không phải vì chú mèo què quặt không diệt chúng nổi: chú ta phóng nhanh như chớp vào một góc nhà để chụp chúng và ngoạm giữa hai hàm răng. Nếu bọn chuột thoát được khỏi móng vuốt của mèo là vì trước kia, vào thời kỳ sự sinh sống còn khá dễ dàng, ai đó đã làm đẹp vách tường bằng cách dán lên một loại giấy màu xanh lục có dợn sóng, và không phải chỉ có một lớp mà đến năm lớp. Những lớp giấy dính sát vào nhau, nhưng có nhiều chỗ lại bị tróc khỏi vách và tạo ra một lớp da thứ hai của căn nhà. Giữa lớp da giấy màu và các lóng gỗ tròn của bức tường, bọn chuột đã làm những lối đi và di chuyển ở trong đó, gây ra những tiếng sột soạt đầy ngạo mạn, và chúng còn chạy lên đến tận trần nhà nữa. Chú mèo cứ đưa mắt theo dõi tiếng sột soạt mà muốn điên tiết lên vì chúng ở quá xa.

Đôi khi nó cũng ăn gián, nhưng ăn rồi lại bị bệnh. Nơi duy nhất mà bọn gián tôn trọng là lằn mức của bức vách nhỏ ngăn cách cái miệng lò và nhà bếp với căn phòng trong. Chúng không bao giờ xâm nhập vào trong phòng cả. Trái lại ở nhà bếp thì đầy lúc nhúc. Ban đêm có khi tôi xuống uống nước, vừa bật đèn lên thì thấy gần như khắp sàn nhà, cái ghế dài và ngay cả bức tường trở thành một màu nâu sẫm, nhúc nhích không ngừng. Tôi có mang chất hàn the của phòng thí nghiệm ở trường về, rồi chúng tôi trộn với bột dẻo hy vọng đầu độc được chúng. Bọn gián bắt đầu thưa thớt, nhưng Matriona lại sợ con mèo ăn phải chất độc ấy. Thế là chúng tôi ngưng chiến dịch diệt trừ gián và chúng lại sanh sôi nảy nở đông đảo như trước. Ban đêm khi Matriona đã ngủ và tôi ngồi làm việc nơi bàn, tiếng chuột chạy rúc rích thật nhanh sau lớp giấy màu bị che lấp bởi tiếng ồn ào của bọn gián phía sau bức vách lẫn lộn với nhau, không lúc nào ngớt; và tạo ra một âm thanh tương tự tiếng sóng rì rầm nơi xa xa. Nhưng rồi tôi cũng quen đi, vì trong tiếng động đó thật ra không có gì xấu cả, cũng không có một sự lừa dối nào hết. Tiếng xào xạc đó chỉ nói lên sự sống của chúng tôi mà thôi.

Tôi cũng quen dần với cô gái vẽ bằng màu sắc rực rỡ trong tấm bích chương, lúc nào cũng giơ ra cho tôi những tác phẩm của Bélinski, Panférov và còn một chồng sách khác không biết thuộc loại gì, nhưng được có cái là cô ta không nói gì cả. Tóm lại, tôi quen đi với tất cả mọi thứ trong căn nhà của Matriona.

Matriona thức dậy lúc bốn, năm giờ sáng. Cái đồng hồ treo tường, bà đã mua cách đây hai mươi bảy năm trong một cửa tiệm nông thôn, luôn luôn đi sớm, nhưng điều đó không làm bà lo ngại: miễn sao nó đừng đi muộn và đừng làm bà chậm trễ buổi sáng là được rồi. Bà bật đèn sau bếp lên và lặng lẽ, khéo léo, cố gây ít tiếng động chừng nào tốt chừng nấy, bà đốt lửa trong lò, ra vắt sữa dê (về súc vật thì bà chỉ có bao nhiêu đó thôi: một con dê cái với cặp sừng cong queo), bà đi lấy nước nấu đồ ăn trong ba cái nồi: một cho tôi, một cho bà và một cho con dê. Cho con dê thì bà lấy ở gác xép ra một củ khoai nhỏ nhất, cho bà thì bà dành củ vừa vừa, còn tôi thì bà cho một củ lớn bằng quả trứng gà. Nói về củ lớn mới nghĩ đến cái vườn phủ đầy cát của bà, từ trước Thế chiến chưa khi nào được bón phân và lại được trồng khoai, nhưng chưa bao giờ đào được một củ nào cả.

Buổi sáng tôi hầu như không nghe bà làm việc. Tôi ngủ lâu lắm, tôi thức dậy cùng lúc với mặt trời mọc trễ trong những ngày đông giá, và vươn vai thò đầu ra khỏi chăn và chiếc áo ngủ rộng thùng thình. Thêm một cái áo vải loại molleton, dùng để đi trại, đắp trên chân, phía dưới lót một bao nhét đầy rơm, chúng giữ được hơi ấm cho tôi ngay cả trong những đêm mà sự giá lạnh từ miền Bắc lùa xuống các cánh cửa sổ lung lay của chúng tôi. Mỗi khi nghe tiếng động khe khẽ kín đáo của bà từ phía sau vách, tôi nói vọng sang bằng một giọng chậm rãi và rõ ràng:

“Chào bà Matriona Vassiliévna!”.

Và để trả lời tôi, lúc nào cũng là những lời nói ân cần vang lên từ phía sau vách. Bắt đầu là một loạt tiếng ro ro trầm trầm và êm ái như trong chuyện đời xưa của các cụ già kể lại:

“Mr… mr … mmr… chào ông!”.

Rồi ngừng một lúc:

“Bữa điểm tâm của ông còn nóng hổi đây!”.

Bữa điểm tâm, dù bà không nói ra, rất dễ đoán: khoai luộc để vỏ, hay canh khoai, hay cháo nấu bằng lúa mạch (ngoài ra không thể tìm được thứ gì khác ở Torfprodoukt, ngay cả lúa mạch cũng phải giành giựt lắm mới mua được: vì là thứ đồ ăn rẻ nhất nên người ta dùng để nuôi heo và mua từng bao). Không bao giờ bà nêm muối được vừa miệng cả, thường hay bị khét, do đó lúc ăn thế nào cũng bị dính một lớp vỏ trên hàm ếch của miệng, hay ở lợi răng, và làm cho dạ dày đau.

Nhưng đó không phải lỗi của Matriona: ở Torfprodoukt bơ cũng không có, người ta giành nhau margarine (bơ thực vật - Chú thích của talawas) và thứ có thể mua tha hồ là mỡ của thú vật. Ngoài ra, theo như tôi đã nhận xét, cái lò Nga không tiện lợi cho việc nấu ăn lắm: bà bếp không trông thấy những gì đã chín, nhiệt độ phân phối không đều trên mặt lò. Nhưng lý do mà ông cha chúng tôi chịu thừa hưởng nó từ thời đại thạch khí là khi ta đốt lò từ sáng sớm, nó sẽ hâm nóng suốt ngày thức ăn thức uống của cả người lẫn vật, và người ta có thể ngủ yên trong cái hơi ấm mà nó tỏa ra.

Tôi ngoan ngoãn ăn bất cứ những gì bà dọn cho tôi, và mỗi khi cắn phải một vật lạ: sợi tóc, mảnh than vụn, chân gián, tôi chỉ bỏ ra mà không tỏ vẻ gì sốt ruột cả. Tôi không có lòng dạ nào phiền trách Matriona. Dù sao bà cũng đã báo trước: “Lỡ lúc nào đó chưa biết, tôi không nấu nướng gì được thì ông sẽ làm sao?”.

“Cám ơn bà”, tôi nói một cách thật tình.

“Cám ơn cái gì hả ông? Cám ơn vì ông được cái mà ông có quyền hưởng à?”. Bà bèn trả lời với một nụ cười rất tươi.

Rồi bà nhìn với một tâm hồn mộc mạc thể hiện qua đôi mắt xanh nhạt, và hỏi:

“Chiều nay ông muốn ăn gì?”

Chiều nay có nghĩa là bữa ăn tối của tôi đấy. Một ngày tôi chỉ ăn có hai bữa như khi ở ngoài mặt trận vậy. Xin bà ấy cho mình ăn cái gì chiều nay bây giờ? Lúc nào cũng chỉ có món khoai luộc hay canh khoai.

Tôi thích nghi được, vì đời đã dạy tôi phải nhìn cái ý nghĩa của cuộc sống hằng ngày qua một cái gì khác hơn là cái ăn. Đối với tôi nụ cười trên khuôn mặt tròn trĩnh của bà còn có ý nghĩa hơn. Và đến khi tôi kiếm đủ tiền để mua một chiếc máy ảnh, tôi cứ cố chụp cho được nụ cười đó nhưng chưa bao giờ tôi toại nguyện. Cứ mỗi lần bà thấy con mắt lạnh lùng của ống kính chĩa về phía bà là bà lấy một vẻ mặt cau có hay nghiêm khắc và kiêu hãnh.

Tôi chỉ thành công có mỗi một lần duy nhất, đó là lúc bà mỉm cười vì những ý nghĩ riêng khi nhìn xuống đường qua khung cửa sổ.

Mùa thu năm ấy, Matriona có nhiều lo lắng. Mấy bà hàng xóm đã thuyết phục bà phải đòi cho được hưu bổng. Tứ cố vô thân, nhất là từ khi sức khỏe của bà bắt đầu suy yếu trông thấy, bà mất việc làm ở nông trường. Đó là cả một chuỗi bất công cho bà: bà bị đau nhưng không được coi là bị phế tật; bà đã phục vụ cho công xã trong suốt một phần tư thế kỷ, nhưng vì không phải như làm việc ở công xưởng, bà không có quyền xin hưu bổng cho chính bà, và chỉ có thể xin được cho chồng bà mà thôi, nghĩa là hưu bổng vì mất sự trợ cấp gia đình. Nhưng mà bà đã mất chồng từ mười hai năm nay, ngay lúc chiến tranh mới bắt đầu, và bây giờ không dễ dàng gì mà xin được tất cả những chứng chỉ của tất cả những nơi ông đã từng làm việc, với thời gian phục vụ và tổng số lương bổng. Xin cho được hết mấy cái chứng chỉ đó là cả một vấn đề; và còn phải xin người ta ghi vào số lương của ông, dù chỉ là 300 rúp mỗi tháng, rồi phải chứng thực một chứng chỉ xác nhận bà sống một mình và không được ai giúp đỡ; và một chứng chỉ khác chứng thực ngày sanh tháng đẻ của bà; rồi mang tất cả đến cơ quan bảo trợ xã hội; rồi mang về sau khi đã sửa những điểm bất hợp lệ; rồi lại mang đến một lần nữa. Sau đó lại phải đi hỏi thăm xem người ta có chịu cấp hưu bổng cho bà không…

Các thủ tục đó phải gặp nhiều phiền phức hơn nữa. Lý do là văn phòng của cơ quan bảo trợ xã hội đặt cách xa Talnovo đến hàng hai mươi cây số ở phía Đông, văn phòng Xô Viết nông thôn cách mười cây số về phía Tây, và văn phòng Xô Viết địa phương cách khoảng nửa giờ đi bộ về phía Bắc. Người ta đã bắt bà chạy hết phòng này sang phòng khác, trong suốt hai tháng trường, chỉ để sửa một dấu chấm hay một dấu phết. Mỗi lần đi và về phải mất cả ngày trời. Khi bà đến văn phòng Xô Viết nông trường thì nhằm bữa ông thư ký vắng mặt, ông ta không có mặt, thế thôi, đó là chuyện rất thường ở thôn quê. Thế là hôm sau bà phải trở lại. Lần này thì có mặt ông thư ký, nhưng ông ta không có con dấu thích hợp. Lại phải trở lại lần thứ ba. Rồi lần thứ tư, vì mắt ông kém nên ông ký trên những tờ giấy không cần ký, còn giấy cần ký thì ông lại không ký, lý do một phần là vì giấy tờ Matriona mang đến nhiều quá, ghim thành một tập dày cộm.

“Họ hành hạ tôi, Ingatitch à”, bà than với tôi sau những trận đi đi về về vô ích đó. “Tôi lo quá!”.

Nhưng vầng trán của bà không sa sầm lâu. Tôi để ý bà có một phương pháp rất hữu hiệu để lấy lại sự vui tươi, đó là làm việc. Ngay sau đó, bà đi lấy cuốc để đào khoai hoặc xách giỏ đi kiếm than, hoặc bưng thúng vô rừng hái trái nạc. Thay vì đi luồn cúi ở những cơ sở hành chánh, bà đi tìm cái ăn trong rừng. Thế rồi, gò lưng dưới gánh nặng, Matriona trở về nhà với sự hớn hở, bằng lòng vì mọi chuyện, và đã tìm lại được nụ cười tươi tắn.

“Giờ này mà tôi lấy được đó, Ingatitch, tôi biết chỗ rồi”, ý bà nói đến đống than. “Chỗ tốt quá, thật là may hết sức!”.

“Nhưng mà tại sao, Matriona, bộ than của tôi không đủ sao? Cả một xe cam nhông mà!”

“Ối! Than của ông! Một lần như vậy, và một lần như vậy nữa thì may ra mới đủ. Ở đây mùa đông mà đến và gió bấc thổi mạnh qua cửa sổ thì mình có đốt lò nóng cách mấy cũng bay đi hết. Hồi trước chúng tôi đi nhặt được nhiều lắm! Cỡ vào tháng này ít nhất cũng được ba xe rồi. Nhưng mà người ta lại bắt mình. Có một người đàn bà trong xóm bị lôi ra tòa rồi đó”.

Quả đúng như lời bà nói. Ngọn gió đông đã bắt đầu nổi dậy. Xung quanh làng có rừng bao phủ nhưng không biết kiếm củi ở đâu để đốt lò sưởi cả. Đâu đâu cũng nghe rền rĩ tiếng máy khoan trong hầm mỏ, nhưng họ không bán than cho dân chúng mà chỉ cung cấp cho chính quyền và những kẻ có chút ít liên hệ, ngoài ra là mấy ông giáo, mấy ông thầy thuốc và thợ ở xưởng. Dân ở Talnovo không có quyền mua than, và không có vấn đề xin xỏ. Ông chủ tịch công xã đi lùng khắp trong làng, nhìn chòng chọc vào mắt thiên hạ với sự nghiêm khắc hay dễ dãi, và nói với họ về đủ thứ chuyện, trừ chuyện nhiên liệu. Lý do là riêng ông ta, ông không bao giờ thiếu than, do đó không phải lo mùa đông sắp đến.

Đại khái, ngày xưa, người ta trộm củi của vua, và ngày nay ăn cắp than của nhà máy. Mấy chị đàn bà tụ tập từng nhóm năm người để có thêm can đảm đi kiếm than giữa ban ngày. Vào mùa hè họ đi đục than ở mọi nơi và chất thành từng đống dài để phơi khô. Có cái hay là than vừa được đục ra không thể mang đi ngay được. Phải phơi ở đó cho đến mùa thu, hoặc đôi khi đến những trận mưa tuyết đầu mùa nếu đường chưa đi được. Và trong thời gian đó, họ đi nhặt dần về dùng. Họ bỏ vô túi xách mang về mỗi lần năm, sáu miếng nếu còn ướt, và khoảng một chục nếu đã khô. Mỗi một bao như vậy, có khi phải đi xa đến ba cây số mới lấy được, chỉ đủ chụm lò sưởi một lần thôi. Trong khi đó thì mùa đông kéo dài tới hai trăm ngày. Và buổi sáng phải đốt lò Nga, chiều lò Hòa Lan bằng sành.

“Nói mà không đi tới đâu hết thì nói làm gì cho mệt?” Matriona nói như giận dỗi một kẻ vô hình. “Từ khi mình không còn ngựa để chở đồ thì ráng chịu chớ biết làm sao. Lưng tôi lúc nào cũng có việc để làm cả. Mùa đông kéo xe trượt tuyết, mùa hạ vác củi. Thật tình mà!”.

Mấy chị đàn bà mỗi ngày phải đi hơn một lần. Gặp ngày trời tốt Matriona mang về đến những sáu bao. Than của tôi thì bà chất thành đống lớn cho mọi người thấy, còn của bà thì bà giấu ở dưới mấy cái gác trên trần, và mỗi buổi tối bà bít lối ra vào lại bằng một tấm ván.

“Trừ phi quân giặc đó đoán được”, bà vừa cười vừa nói, tay gạt mồ hôi trán, “chớ còn lâu tụi nó mới tìm thấy”.

Trong trường hợp bị mất mát đó, mấy mỏ than sẽ làm gì? Họ không có đủ nhân viên để canh gác trong tất cả đầm lầy. Chỉ còn cách là ghi số than khổng lồ đã đào được vào sổ thống kê, rồi trừ đi số thất thoát: vì mưa và mảnh vụn. Đôi khi người ta cũng tập họp vài toán lính canh và chận bắt mấy chị đàn bà đi lấy than về ngay tại những ngõ vào làng. Mấy bà nông dân vội ném bừa mấy bao than xuống và chạy thoát thân ra khắp tứ phía. Đôi khi, do đơn tố cáo, họ xét nhà, lập biên bản chứa than lậu và hăm dọa sẽ đưa ra tòa. Thế là mấy bà nghỉ đi lấy than một thời gian; nhưng rồi khi mùa đông đã quá gần kề thì họ lại đổ xô đi lấy than bằng xe trượt tuyết, và chỉ đi ban đêm thôi.

Nói chung chung thì, nếu quan sát kỹ Matriona, tôi nhận thấy ngoài việc bếp núc và nhà cửa, mỗi ngày bà đều có một việc quan trọng khác để làm, trong đầu bà luôn luôn có một thứ tự hợp lý của những công việc đó, và buổi sáng khi thức dậy, bà luôn luôn biết sẽ làm gì trong ngày. Ngoài than ra, ngoài việc đi lượm lặt các gốc cây mục do máy kéo để lại trong đầm, ngoài những cây nham lê mà bà ngâm muối trong những cái chậu lớn (“Nếm thử một miếng cho ê răng chơi đi Ingatitch” bà nói như vậy mỗi lần mời tôi), ngoài việc đào khoai và những sự đi đi về về để xin hưu bổng, bà còn phải đi kiếm rơm cho con dê cái trắng dơ dáy duy nhất của bà nữa.

“Mà tại sao bà không nuôi bò, Matriona Vassiliévna?”.

“Thực ra thì, ông Ingatitch biết tại sao không?” Matriona giải thích, bà đứng giữa khung cửa nhà bếp, người mặc một chiếc yếm nấu ăn dơ dáy, mặt quay về phía bàn tôi ngồi. “Con dê của tôi cho tôi khá đủ sữa. Nếu như tôi nuôi một con bò, nó sẽ ăn hết đồ đạc và luôn cả hai chân tôi nữa; không thể cắt cỏ dọc theo đường sắt, có mấy thằng cha kiểm soát, trong rừng cũng vậy, không có chỗ nào cắt được, vì có tụi kiểm lâm, còn ở công xã thì họ cũng cấm không cho tôi cắt cỏ nữa, tôi đâu còn là dân của công xã, họ nói vậy đó. Ông nên nhớ, ngay cả mấy bà dân của công xã, họ chỉ được cắt cho công xã và cho đến tận gốc, còn cho chính họ, thì chỉ có quyền cắt phần ở dưới lớp tuyết thôi! Mà như vậy thì được bao nhiêu? Hồi trước, tụi này thường cắt cỏ ở giữa hai mùa, tức là từ khoảng giữa lễ Thánh Pierre đến lễ Thánh Elie. Người ta thường bảo là trong thời gian đó cỏ ngon nhất…”.

Vì thế nên, chỉ có vỏn vẹn một con dê già mà Matriona cũng phải cực khổ lắm mới gom góp đủ cỏ nuôi nó. Từ sáng sớm, bà xách một cái giỏ và một lưỡi hái đi đến những nơi mà bà nhớ có cỏ mọc trên đường mòn, bên vệ đường hay trên những hòn đảo nhỏ giữa ao. Sau khi nhét cỏ tươi nặng trĩu đầy giỏ, bà khệ nệ vác về và trải ra trên sân nhỏ. Một giỏ cỏ tươi khi phơi khô chỉ còn lại đủ để xúc một chĩa ba là hết.

Ông tân chủ tịch vừa từ tỉnh đến, và việc đầu tiên ông làm là xén tất cả vườn của dân tàn phế. Ông chỉ chừa lại cho Matriona một trăm năm mươi thước đất đầy cát, còn lại một trăm thước phía bên kia bỏ hoang. Ngoài ra, cứ mỗi lần thiếu người, vì mấy bà nhà quê nhất định không chịu đi làm, là vợ ông Chủ tịch đến tìm Matriona. Bà ta cũng là dân ở tỉnh đến, cương quyết, dáng điệu như nhà binh trong cái áo bành tô ngắn bằng vải và cái nhìn hách dịch của bà.

Bà ta bước vô nhà, rồi không thèm chào hỏi gì ai cả, đứng nhìn Matriona một cách nghiêm khắc. Matriona tỏ ra lúng túng rõ ràng.

“Này”, vợ ông chủ tịch gằn từng tiếng, “đồng chí Grigoriévna! Đồng chí phải ra giúp công xã! Ngày mai phải ra rải phân đấy!”.

“Thật tôi bệnh mà, bà nói giọng lè nhè. Hơn nữa tôi đâu còn làm việc cho bà nữa”. Nhưng rồi bà lại vội vàng đổi giọng:

“Mấy giờ mai phải có mặt?”
Gương mặt bà hằn lên một nụ cười bao dung như thể bà thấy ngượng giùm cho vợ ông chủ tịch vì bà ta không thể trả lương cho bà.

“Nhớ mang theo cái chĩa ba nhé!”

Bà chủ tịch còn căn dặn trước khi ngoe nguẩy cái váy cứng bước ra.

“Phải rồi”, Matriona buột miệng nói với vẻ trách móc khi bà khách đã khuất dạng, “Nhớ mang chĩa ba theo nhé! Ở công xã không có chĩa ba, không có cuốc xẻng gì cả. Nhà tôi không có đàn ông, lấy ai mà lắp đây?...”.

Thế là bà tư lự suốt cả buổi tối:

“Có nên nói gì không hả ông Ingatitch, không có phân thì họ lấy gì để gặt? Có điều là làm việc ở đó cũng không thêm được mắm muối gì cho ai cả. Mấy mụ đàn bà chỉ đến đứng chống xẻng đợi còi báo hiệu mười hai giờ để đi về. Tệ hơn nữa là họ ra đó chỉ để chọc tức nhau rồi cãi vã: bà này tới, bà kia không tới. Theo tôi thì khi làm việc không nên nghe một tiếng ồn ào nào cả mà chỉ được nói: Ô kìa, đã trưa rồi, hay là: Ô kìa, chiều tới nơi rồi! Thế thôi!”.

Sáng hôm sau bà ra đi với cái chĩa ba.

Nhưng không phải chỉ có công xã không đâu. Bất cứ bà con người nào dù xa, dù gần, hay chỉ hàng xóm thôi, hôm trước đến tìm bà và nói:

“Mai đến giúp tôi Matriona nhé! Đã đến lúc đào khoai rồi!”.

Thế là bà không biết cách gì để từ chối. Bà bèn gác công việc đang làm nửa chừng lại để qua giúp bà láng giềng, và khi về bà nói với giọng không mảy may thèm thuồng:

“Này, ông Ingatitch biết không, khoai của bà ấy lớn lắm! Tôi đào mà thấy sướng cả tay, quên cả về, thiệt đó!”.

Cho đến nỗi người ta kết luận rằng không có một mảnh vườn nào mà không có bàn tay của Matriona nhúng vào. Mấy bà dân quê ở Talnovo quan niệm một cách chắc chắn rằng thay vì dùng cuốc, họ hợp tác với nhau bằng cách sáu người cùng kéo một cái cày để xới đất của sáu khu vườn, cách này ít mệt hơn và chính vì vậy mà Matriona luôn luôn được mời đến giúp đỡ.

“Thế nhưng bà ấy có được trả công không?” Có lần tôi không chịu được phải buột miệng hỏi.

“Bà ấy không chịu lấy tiền. Bắt buộc chúng tôi phải thu xếp”.

Sự bận rộn còn dữ dội hơn nữa mỗi khi đến lượt Matriona phải lo ăn lo uống cho mấy người chăn trừu: một anh thì to lớn, câm và điếc, còn anh kia thì chỉ là một cậu bé lúc nào cũng lòng thòng một điếu thuốc ướt mẹp trên môi. Cứ sáu tuần là đến lượt bà, tuy nhiên đó cũng là một sự tốn kém lớn lao cho Matriona. Bà ra phố mua nào cá hộp, nào đường, nào bơ mà chính bà chưa bao giờ dám ăn. Tôi hiểu ra là mấy bà chủ nhà tranh nhau tỏ ra hào hiệp và cố gắng hết sức phục dịch mấy ông chăn dê.

“Phải sợ mấy ông thợ may và anh mục tử”, bà cắt nghĩa, “nếu chẳng may họ không được vừa ý một điều gì thì họ sẽ làm cho cả làng chê bai mình”.

Thế nhưng trong cuộc sống đầy lo âu đó, đôi khi bệnh hoạn lại kéo đến và mỗi lần như vậy là Matriona nằm liệt giường suốt hai ngày liền. Bà không than van, không rên rỉ, và gần như không cựa quậy. Trong thời gian đó thì Mach, bạn thân của bà từ nhỏ, đến lo cho con dê và đốt lửa trong lò. Matriona thì không ăn uống gì và cũng không đòi hỏi gì hết. Còn đi gọi bà bác sĩ của bệnh xá địa phương về nhà là cả một điều táo bạo, vì như vậy không thích hợp với mấy bà láng giềng; họ sẽ nói: Cứ làm như bà hoàng ấy! Có lần bà cũng đã gọi bác sĩ, bà ta cũng đến nhưng chỉ để tỏ sự giận dữ và nói với Matriona khi nào đi được thì đến bệnh xá gặp bà. Matriona phải ráng lết đến; người ta cũng lấy máu của bà gởi lên tỉnh lỵ phân tích, nhưng rồi không nghe tin tức gì cả. Cũng lại do lỗi của Matriona.

Công việc của bà kêu gọi bà về với cuộc sống. Không lâu sau đó bà phải đứng dậy, lúc đầu thì còn đi đứng chậm chạp, nhưng sau đó thì lại nhanh nhẹn trở lại như thường.

“Tại ông không thấy tôi hồi xưa, bà nói với tôi như để phân trần. Hồi đó tôi vác đủ mọi thứ, năm “pu” [2] đối với tôi không phải là một gánh nặng. Anh chồng tôi cứ la tôi: “Matriona! Coi chừng gãy xương đấy nhé!”. Nhưng anh ta cũng không đến đỡ tôi khiêng bỏ lên xe trượt tuyết. Lúc đó chúng tôi có một con ngựa nhà binh tên Voltchok, nó khỏe thật…”

“Tại sao lại nhà binh?”

“Họ đã bắt con ngựa của chúng tôi ra trận và đem con ngựa đó thế vào. Con sau này là một loại ngựa chứng. Có lần vì sợ hãi, nó đã kéo cả chiếc xe trượt tuyết về phía hồ, mấy người đàn ông đều nhảy xuống thoát hết, tôi phải một mình kềm cương và bắt nó ngừng lại được. Thật đấy! Đó là một con ngựa ăn thóc. Ở nhà quê người ta thích nuôi ngựa lắm. Mà ngựa nuôi bằng thóc thì không sợ chở nặng”.

Tuy nhiên, Matriona không gan dạ chút nào. Bà sợ hỏa hoạn, sợ sấm sét, và nhất là xe lửa. Tôi cũng không hiểu tại sao.

“Lúc tôi phải đi Tchérousti, tôi thấy chiếc xe lù lù hiện ra từ phía Netchaévka với cặp mắt sáng ngời, và nghe tiếng vang rền của đường sắt, người tôi cứ nóng ran lên, hai đầu gối run cầm cập. Thật đấy!”. Bà nói với vẻ ngạc nhiên và nhún vai.

“Có lẽ tại người ta không bán vé phải không Matriona Vassiliévna?”

“Ở ghi-sê ấy à? Họ chỉ bán toàn vé hạng nhất. Và con tàu lúc nào cũng “khởi hành”! Thiên hạ cứ chạy qua chạy lại: lúc đó mình phải sáng suốt và lanh trí để biết mình phải làm gì. Đàn ông thì họ leo lên mui bằng một cái thang nhỏ, còn đàn bà chúng tôi thấy một cái cửa nhỏ không có khóa là ùa lên đại chớ không có mua vé gì cả: và chỉ có toàn toa hạng nhì thôi! Người ta còn có thể nằm dài trên ghế nữa! Tại sao bọn ăn bám vô nhân đạo đó không bán vé, không ai hiểu nổi”.

Dù sao thì, đầu mùa đông năm đó, cuộc sống của Matriona cũng dễ thở hơn bao giờ hết. Cuối cùng người ta cũng cho bà một khoản hưu bổng lối tám chục rúp. Ngoài ra bà còn được thêm một trăm đồng của tôi và nhà trường.

“Này! Bây giờ thì Matriona không nên chết nữa rồi!” Một vài bà láng giềng bắt đầu ghen tị và xiên xỏ. “Cái mụ già ấy không biết để tiền ở đâu cho hết bây giờ!...”

Bà đặt mua một đôi giày ống bằng dạ và một cái áo gi-lê mới. Bà đi đặt may một chiếc áo choàng để mặc với cái áo tơi cũ của thợ quét lò sưởi, mà anh thợ máy chồng của đứa con nuôi tên Kira cho bà. Bác thợ may gù lưng trong làng lót thêm một lớp vải nhung, và bà đã có một cái áo choàng tuyệt đẹp mà suốt sáu mươi năm trời nay bà chưa từng được mặc.

Rồi vào giữa đông, bà khâu giữa hai lớp vải của cái áo choàng một số tiền là hai trăm rúp để sau này “chôn cất” bà. Bà sung sướng với ý nghĩ đó.

“Ingatitch à, tôi cũng thấy yên tâm một chút rồi”.

Tháng Chạp qua rồi tháng Giêng đến, hai tháng liền cơn bệnh không tái phát. Matriona bắt đầu đến nhà Macha thường xuyên hơn, ngồi cả buổi tối cắn hạt hướng nhật quỳ.

Buổi tối bà không bao giờ mời ai về nhà vì tôn trọng sự làm việc của tôi. Duy có hôm lễ các Quân vương là, khi đi dạy về, tôi thấy ở trong nhà có nhiều người đang khiêu vũ. Bà giới thiệu với tôi ba người em gái của bà, họ gọi bà là “nu nu” vì bà là chị cả. Cho tới hôm đó, tôi chưa bao giờ nghe nói đến em gái của bà hết: phải chăng vì họ sợ bà nhờ vả?

Chỉ có một biến cố nhỏ, hay một điềm xấu làm ngày sẽ mất vui: trước đó, bà đến nhà thờ ở xa hơn năm cây số để xin ban phép lành cho nước uống, bà đặt bình nước của bà cạnh bình của những người khác, nhưng khi lễ ban phép lành chấm dứt, mấy chị đàn bà chen nhau để lấy bình, bà vì chậm chân nên khi ra đến nơi không thấy bình nước của mình đâu nữa, và cũng không còn một bình nào khác. Bình nước của bà đã biến mất như là có Ác Quỷ đem giấu đi vậy.

“Mấy bà ơi!” Matriona vừa nói vừa chen vô đám đàn bà đang cầu nguyện, “có ai lấy lộn nước Thánh của tôi không? Nước đựng trong một cái bình đó!”.

Không ai lên tiếng hết. Có lẽ bọn trẻ con đã nghịch ngợm rồi, vì lúc đó cũng có một số trẻ con hiện diện trong đám đông nữa. Bà ra về buồn bã.

Cũng không thể nói là lòng tin của Matriona rất thành tâm. Bà là người ngoại đạo là đàng khác, nhưng lại tin dị đoan: lễ Thánh Jean không nên vào vườn, nếu không năm sau sẽ mất mùa; nếu bão tuyết nổi dậy có nghĩa là có người thắt cổ; nếu đi vấp chân lên cửa là sẽ có khách. Trong suốt thời gian ở trọ nhà bà, tôi không bao giờ thấy bà đọc kinh, thậm chí đến dấu thánh giá bà cũng không làm. Nhưng mỗi lần làm việc gì bà cũng bắt đầu bằng câu: “Xin Chúa phù hộ cho!” và mỗi khi tôi đi dạy, bà cũng cố nói cho được câu: “Xin Chúa phù hộ ông!”. Có thể bà cũng có cầu nguyện, nhưng không với tính cách trình diễn vì mắc cỡ trước mặt tôi, hoặc sợ làm tôi khó chịu. Trên tường có mấy bức tượng Thánh Mẫu. Ngày thường bà vẫn để chúng trong bóng tối, đến những ngày có thánh lễ lớn, có kinh Vãn khóa, và từ sáng sớm những ngày lễ, bà mới thắp đèn cho sáng.

Nhưng bà còn ít tội lỗi hơn còn mèo què của bà, vì nó giết chuột.

Khi rảnh rỗi, bà cũng chăm chú nghe máy thu thanh của tôi nữa (tôi cũng không quên bắt thêm một cái loa phóng thanh mà bà gọi là “máy nói hay”).

Nghe đài phát thanh thông báo người ta vừa phát minh được vài loại máy mới, bà lẩm bẩm trong bếp:

“Mới, mới hoài! Đồ cũ họ không thèm xài, đem bỏ đâu cho hết bây giờ?”.

Người ta cũng cho biết là có thể dùng máy bay để đánh tan mây, bà vừa làm bếp vừa lắc đầu nói:

“Ối chà, tụi nó sắp thay đổi một cái gì đây rồi: mùa đông hay mùa hè gì đó!”.

Ca sĩ Chaliapin đang diễn tả những bản dân ca Nga. Matriona đứng nghe một lúc, rồi với giọng cương quyết:

“Hát cái gì mà kỳ cục! Không giống ở quê mình chút nào hết!”.

“Sao bà nói vậy? Matriona Vassiliévna hãy nghe kỹ lại xem!”.

Bà nghe tiếp, rồi bậm môi:

“Không, không giống, không phải điệu hát của chúng tôi. Còn uốn éo giọng để đùa nữa chớ!”.

Tuy nhiên, một hôm bà đã làm tôi mát ruột. Bữa đó, người ta cho phát thanh những bản tình ca của Glinka. Bỗng nhiên sau khi nghe liên tiếp năm bản nhạc loại thính phòng, bà chùi tay vào yếm, từ dưới bếp bước lên, mi còn ngấn lệ:

“Đó, vậy mới giống ở quê mình…” bà lẩm bẩm.



--------------------------------------------------------------------------------
[1]Nguyên văn bản dịch: Hợp tác xã nhân dân: Kolkhoze (Chú thích của talawas)
[2]“Pu": Poud: một đơn vị đo trọng lượng.

Nguồn: Alexander Solzhenitsyn, Ngôi nhà của Matriona, nguyên tác La Maison de Matriona, bản dịch Nguyễn Văn Son, bìa Nguyễn Đồng. Ấn phẩm thứ 36 của Nhà xuất bản Trẻ, ấn hành lần thứ nhất 1.000 bản tại nhà in Ngọc Thảo của nhà xuất bản, không có bản đặc biệt. Ngày phát hành: 8.6.1974. Giấy phép số 2572/74/BDVCH/KSALP/TP ngày 25.5.1974.

Nguyễn Đức Sơn -Xóm chuồng ngựa ( 2 )

Nguyễn Đức Sơn
Xóm chuồng ngựa
(tập truyện ngắn)


Đêm tiệc trần gian

Nằm suốt cả buổi xế trên võng ngủ rồi thức dậy ngâm cổ thi, lão Phụng thấy hơi chán. Nhưng lão cũng sung sướng có được một ngày nghỉ hoàn toàn mà đáng lẽ ra nghề nghiệp và công việc của lão không cho phép như đối với phần đông những người khác, những kẻ cơ hàn khốn khổ nhất trong xã hội cùng làm một nghề với lão. Lão đưa mắt nhìn về phía chiếc mùng lớn của lũ con mụ Đại. Lão bực mình thấy chiếc mùng vẫn còn bỏ rũ xuống mặc dù lũ con chưa lên ngủ. Nhưng mắt lão đã mờ cho nên lão lầm. Khi lão mới vừa bỏ chiếc võng, mở một chiếc nem và bẻ một miếng bánh mì đi về phía cửa sổ đằng sau gác, lão giật mình thấy thằng Hùng, thằng Bình, con Liên, thằng Lộc chui ra khỏi mùng mắt hướng về phía lão, im lặng, uể oải. Thằng Hùng – đứa con trai lớn của ông chủ nhà – thình lình bật lên khóc.

"Cái gì?" Lão Phụng bực trí gắt lên.

"Dạ tụi con đói quá.“ Thằng Hùng trả lời, lễ phép.

"Lúc trưa không ăn cơm sao?"

"Dạ mẹ con chưa về.”

"Biết rồi, mẹ tụi bây đi ở cữ, nhưng còn mụ Thận đâu? Sao không thổi cơm cho tụi bây ăn?"

"Dạ bà Thận đi đâu từ hôm qua chưa về.”

"Vậy từ hôm qua tụi bây ăn cơm ở đâu?"

"Dạ ở bên nhà bác Lâm.”

Lão Phụng không biết hỏi gì thêm. Cùng lúc đó cả bốn đứa con ông Đại đều òa lên khóc như bị ai thình lình đánh. Tiếng con Liên cao ré lên. Tiếng thằng Bình trầm xuống. Tiếng thằng Lộc bãi nhãi, dây dưa. Tiếng thằng con lớn chừng mười tuổi – thằng Hùng – thì nặng nề, ngột ngạt, ấm ức, tức tưởi như có ai chận ở cổ. Bây giờ thì lão Phụng không phân biệt được nữa. Tất cả những tiếng khóc kia đều hòa chung thành một âm thanh hỗn loạn khó tả. Nó giống như tiếng kêu của một vài thứ cá khá lớn ở trong cùng một mẻ lưới khi người ta mới vừa kéo lên ghe ở ngoài khơi. Hồi ở biển còn là một ngư phủ, lão Phụng phân biệt được tiếng kêu của nhiều loại cá khác nhau. Thế nhưng khi cùng nằm trong khoang thuyền hay ở trong đáy rọ lưới, chúng chỉ phát ra một âm thanh hỗn độn, ột ột, oạt oạt, lào xào khiến không ai dù nhiều kinh nghiệm đến đâu có thể phân biệt được chắn chắn những loại cá nào nếu không được dòm đến. Tiếng khóc của lũ trẻ con tự nhiên làm lão nhớ đến biển, đến một vùng biển đặc biệt ở một hòn đảo ngoài khơi Thái Bình Dương, nơi lão sinh ra đời. Lão còn nhớ rõ ngày lão phiêu bạt vào đất Sài Gòn, khoảng 1945, hồi Pháp và Nhật đánh nhau những năm đầu lão gần như ngạt thở vì lão không chịu được cuộc sống tù đày, ngột ngạt trên đất liền. Lão thèm khát vùng biển mặn bao la, càng thèm khát khi cuộc sống cơ hàn đẩy lão vào những ngõ hẻm tối tăm của thành phố và xã hội. Niềm tin tưởng và hy vọng độc nhất của lão Phụng: kiếm được một số tiền khá, giữ bí mật đừng cho ai biết để một ngày kia – ôi, cái ngày hạnh phúc – có phương tiện đóng được một chiếc thuyền gỗ nhỏ nhưng vững, chắc, có thể dùng được khoảng trên dưới hai mươi năm (lão hy vọng và tin tưởng có thể sống đến khoảng tám chín mươi năm) cho đến hết đời. Với chiếc thuyền đó lão sẽ tự túc sống một mình, cô đơn ở ngoài xã hội.

Lão Phụng mở chiếc nem thứ hai và nốc hết ly rượu thứ ba thì trời cũng đã chiều sẫm. Khoảng thời gian này ngày và đêm tối thường gần như không có biên giới. Màu đen của đêm sẽ từ từ chiếm đoạt lấy hết cả ánh sáng hay ánh sáng tự rút lui cũng thế. Lão Phụng bước đến cửa sổ đằng sau, tỳ một tay lên thành cửa, nhìn xuống cái vịnh phía dưới cùng với những nhà sàn, nhà gác, thấp, hẹp, tối tăm, nghèo cực, khốn đốn. Lão chờ đợi với lo âu từ mấy hôm nay một thứ mùi hôi sẽ xuất phát từ nơi đó. Nhưng tại sao chưa nghe? hay không bao giờ nghe thấy nữa? Lão mừng thầm. Lão nhìn lại phía mùng, nói với thằng Hùng:

"Hùng, tao bảo dẫn lũ em mày đi qua nhà bà Lâm, bà liên gia trưởng đó ăn cơm đi. Xong về ngủ im tất cả. Động đậy là ăn đòn. Nghe chưa?"

"Dạ.”

Thằng Hùng thưa xong, dẫn cả lũ em đi xuống thang gác. Đứa con trai mười tuổi dẫn mấy đứa em lóc nhóc leo nheo gần như vô tri vô giác. Có điều những sinh vật gần như vô tri vô giác đó cũng biết phản ứng, những phản ứng vô tri vô giác giống những xung động. Lão Phụng buồn cười thấy thằng Hùng và lũ em nó nghe lời ông phăng phắc, không dám cãi lại như khi còn cha mẹ nó ở nhà. Nhất là thằng Hùng, đứa con nít mười tuổi đó cũng biết đóng kịch nữa dù quá lộ liễu. Nó giả cái bộ mặt tuân phục, ít nói, lễ phép, hiền lành trái hẳn với lúc thường bởi nó biết chắc chắn rằng hiện giờ nó không có ai bênh vực che chở hết. Những đứa con nít trong những gia đình cơ hàn, cùng khổ hay nhưng gia đình khá giả nhưng cha mẹ thất học hoặc có đỗ đạt cao nhưng quá quê mùa, hạ trí thường thường được bẩm sinh một bản tính khôn ranh vặt vãnh đó, và được thụ hưởng rất sớm có khi mới chừng bốn, năm tuổi.

Khi đưa mấy đứa em xuống dưới thang gác, thằng Hùng lại òa lên khóc. Tiếng khóc tức tưởi, ấm ức nhưng gần như vô giác.

"Lại khóc. Có im đi không." Lão Phụng gắt.

"Mẹ lâu về quá." Thằng Hùng nói.

"Cũng gần về rồi! Mày có biết nhà hộ sinh bên Đa Kao chưa? Mụ Thận không dẫn tụi bây đi thăm em sao?"

Nghe tiếng em, đứa con mới đẻ, thằng Hùng thình lình ngưng khóc. Một nguồn vui vô tri tràn chiếm lấy tâm hồn trẻ thơ của nó. Nó nói chuyện một cách bình tĩnh, đôi mắt sáng lên. Mấy đứa em của nó cũng lây cái nguồn hạnh phúc vô tri kia quên hẳn cơn đói, nhịn lão Phụng, mắt sáng ngời như anh nó.

"Thưa ông, bao giờ em về?"

"Tao làm sao biết được. Nhưng gần rồi."

Nói đến đó. Lão giật mình vì biết ngày trở về của bà Đại đã gần kề. Ngày mai, ngày mốt... Lão tính nhẩm biết bà Đại đã đi ở cữ cách đây một tuần. Và cách đây mấy hôm, khi lão đi mua ve chai về, lão Phụng làm nghề mua bán ve chai, lão đã nghe biết được ngày về đích xác của mụ Đại. Đó là chiều thứ Bảy. Ông Đại ở quân trường Thủ Đức sẽ đến ngay nhà hộ sinh, đưa vợ về nhà luôn. Những người vợ trong những gia đình nghèo khổ lam lũ thường nằm đẻ rất mau. Tội nghiệp. Kế cận giờ sinh họ mới được đưa đến nhà hộ sinh và khi sinh xong, khỏi có việc nghỉ dưỡng sức, họ chạy về nhà ngay. Mà nghỉ dưỡng sức thế nào ở những cái nhà hộ sinh nghèo nàn, hôi hám, u ám, tối tăm với tiền viện phí rẻ mạt! Sở dĩ mụ Đại nằm đến hơn một tuần là vì ông Đại vắng nhà, bất tiện, thế thôi.

Nghĩ một chốc, lão Phụng nói với thằng Hùng:

"Ngày mốt, thứ Bảy, mẹ mày sẽ về, cùng với cha mày ở Thủ Đức và mấy người bạn của cha mày ở trong trường sỹ quan, ôi khối vui con ạ!"

"Mốt là còn hai ngày nữa phải không?"

"Ừ, hai ngày nữa thôi! Thôi, đi ăn đi, xong về ngủ im tất cả nghe không? Bà Lâm đang ăn cơm đó, đi ngay cho kịp!"

Đêm khuya. Cái xóm Cỏ nghèo nàn ở vùng Thị Nghè nầy gần như biệt lập với xung quanh. Người ta chỉ nghe thấy những tiếng người nói xôn xao lúc chiều. Bây giờ thì gần như yên lặng hoàn toàn. Người ta tiết kiệm dầu nên khắp nơi đều tối om.

Lão Phụng vẫn tỳ tay nơi cửa sổ. Lão đoán chắc lũ trẻ đã ngủ luôn ở nhà bà liên gia trưởng Lâm. Nhà bà Lâm rộng rãi nhất xóm và có một bề ngoài khá đặc biệt. Khi vào xóm nhìn thấy nhà bà, người ta biết ngay đó phải là nhà của một người có có cái chức sắc gì đó trong tổ chức làng xã ở thôn xóm. Trong xóm, bà Lâm là chỗ thân tình nhất của gia đình ông Đại. Mà thật ra trong xóm này chỉ có hai cái gia đình đó là có thể thân mật với nhau. Lý do: cả hai bên đều mặc nhận có một địa vị đáng kể nào đó trong xóm, bà Lâm tạm gọi là khá giả; ông Đại đỗ bậy bạ đâu được cái tú tài toàn phần và làm thư ký một tư sở khi chưa vào trường sỹ quan trừ bị Thủ Đức và chưa thất nghiệp. Phải kể thêm một yếu tố danh dự về phía bà Lâm. Bà, tuy góa chồng, sống hạnh phúc với hai đứa con gái và một đứa con trai. Một trong hai đứa con gái cũng đỗ được cái tú tài nhưng rủi thay vì tình duyên oan trái gì đó đã tự ý từ giã cõi đời. Đứa con trai thì không muốn thế chút nào nhưng đã mắc bệnh ban cua chết cách đây mới chừng hơn một tháng. Đứa con gái còn lại, rủi thay, là đứa con tệ nhất trong nhà. Bản tính nó im lặng, ủ rũ. Im lặng, ủ rũ đến độ làm cho bà Lâm phát sợ. Nhất là ban đêm, nó lại mê sảng nói những lời lẽ kỳ cục, quái dị. Bà Lâm muốn phát điên vì nguồn hy vọng cuối cùng của bà cũng đang bị hăm dọa. "Nó bị ma ám, hồn quỷ đã nhập vào nó!" Mọi người đều nói với bà như vậy. Bà tin lắm, càng ngày càng tin nhưng bà chưa tìm ra lý do thôi. Bà hứa với bất cứ thầy lang nào nếu cứu khỏi sẽ cúng cho một số tiền rất hậu. Nhưng chưa có ai...

Lão Phụng nhìn xuống vịnh nước dưới cửa. Đêm nay nước ở sông Thị Nghè lên khá lớn nên vịnh này cũng chịu ảnh hưởng. Đó là một cái vịnh nhỏ, bị tắt cụt ở phía trong, ăn thông với một nhánh sông nhỏ của sông Thị Nghè. Như tất cả cái vịnh con của những con sông nhỏ ở đây, nó dơ nhớp chưa từng thấy. Xung quanh vịnh chỉ có một loài thảo mộc độc nhất: loài cây mái chèo lá to bản. Cây mái chèo mọc quanh vịnh hay lác đác đó đây dưới chân những cột nhà nhớp nhúa. Lão nhìn bên phía nhà bà Lâm. Chỉ còn một ngọn đèn dầu leo lét đến cái độ gần muốn tắt. "Hay mụ Lâm đang rình ta, dò xét ta?" lão Phụng tự nghĩ, "mà dò xét cái cóc khô gì... hôm nay là ngày thứ Tư, không thấy cái mùi hôi , tức là, tức là..." lão nhớ lại mấy hôm nay nước sông thường lên lớn và nửa đêm nước rút hết ra sông. Chỉ có những xác súc vật chết thối nhiều ngày trôi vào đây thì mới bị kẹt lại còn tất cả mọi thứ đều theo con nước trôi luôn ra sông lớn. Lão bóc một cái nem khác. Mùi nem thịt phảng phất một chút mùi hôi lão đang tưởng tượng với sự lo lắng. Lúc đó một đôi chuột cống to tướng lăn từ mái lá xuống làm lão đánh thót trong ngực. Một con nhanh chân bắt nhanh qua mái tôn thấp vụt chạy về phía nhà bà Lâm. Con kia rủi ro đánh lọt xuống nước một cái bõm nhưng thừa sức lội lướt trên nước qua bên kia bờ, chui vào một ống cống xi măng bỏ hoang gần mấy đám cây mái chèo. Chuột cống là sinh vật độc nhất có một sinh hoạt náo động nhất của cái vịnh này. Chúng làm việc ban đêm, cả ban ngày ở dưới chân cừ những nhà sàn. Chúng lở lói trông không quen sẽ ói ngay. Chúng gần nước, sinh trưởng ở đó nên chúng gần như biến tích. Chúng lợi dụng mặt nước làm môi trường sinh hoạt, làm đất sống của chúng. Không những chỉ lội qua mặt nước trong những trường hợp bất đắc dĩ, chúng còn ăn, giỡn trên mặt nước. Một buổi trưa, khi mới đến xóm này, đang ngồi sắp xếp mấy cái chai, tỉn mới thu được, lão bắt gặp một con vật to bằng con chồn mướp ở trong đống củi bị động lội thẳng một hơi qua bên kia bờ. Lúc đầu lão tưởng đó là con rái cá. Bởi ở đây thỉnh thoảng cũng có loại động vật này ở sông lớn lên chơi. Nhưng sau lão không thể nào bị lầm nữa. Đó chính là loại chuột cống, loại sinh vật ươn hèn, dơ nhớp, hạ trí nhất mặc dù sự tinh khôn vặt vãnh của chúng. Chính vì chúng mà cả xóm nghèo này trở nên điêu đứng một phần nào. Chúng gây ra không biết bao nhiêu thứ bệnh, nhất là bệnh dịch. Mấy con heo của ông Đại tháng trước đua nhau đi chầu trời cũng tại chúng. Thế nhưng vợ chồng ông Đại chưa muốn tin theo lời một số người trong xóm đổ thừa tại con chó Ki Ki, con chó già khốn đốn hay tru lên trong những đêm khuya khoắt. Thật ra con Ki Ki có cắn lộn với con heo nái bà Đại một lần. Lần đó, khi bà Đại đi chợ, đói từ mấy hôm, con Ki Ki không ngại tấn công con vật già ngu xuẩn đần độn là con heo nái để tranh lấy phần cháo heo mới nấu khi sáng. Rủi thay lúc đó bà Đại bỏ quên cái gì lại trở về nhà. Bà im lặng, rình, lấy củi thước phang ngay đầu con Ki Ki nhưng may mắn gậy chỉ đập trúng vào bả vai nó. Đau điếng người, con vật khốn đốn tung chuồng lội thẳng qua vịnh nước đi mất. Lão Phụng thừa biết con vật già phải lấy hết sức bình sinh mới lội qua khỏi vịnh được. Thế nhưng hai ngày sau, không kiếm đâu được miếng ăn, nó quay đầu trở về. "Sao hèn thế hở con, sao không đi luôn đi! Cái thứ già mày là thứ bỏ đi tìm đâu ra được miếng cơm mà không trở về!" Lần đó vào buổi trưa có mặt lão Phụng ở nhà nên lão nghe rõ mồn một lời mụ Đại nói với con vật như thể nói với người vậy. Mụ còn nhiếc con chó: "Cứ giỏi tối nay tru lên nữa đi coi... hay là hồn quỷ nhập vào mày... coi chừng tao trụng nước sôi đó.“ Mấy ngày sau đó, con Liên - đứa con gái năm tuổi của mụ - té sông. Nó suýt chết. Rồi tiếp theo đó một cái nhà lá của một tên đàn ông Bắc di cư ở phía đầu xóm phát cháy do sự bất cẩn của hắn trong mùa nắng gắt. Thế mà người ta cũng đỗ thừa tại tiếng tru của con Ki Ki. Lúc này ông Đại, bà vợ và bà Lâm cũng chống trả vơi dư luận khá kịch liệt. Nhưng sau khi đứa con gái rồi đứa con trai mụ Lâm chết, sau tai nạn của con Liên và những chuyện phiền bực khác trong gia đình ông Đại, hai gia đình này cũng đâm ra thù ghét con Ki Ki và có khuynh hướng đồng ý với dư luận. "Phải giết nó đi, nếu không nó sẽ mang tai họa đến cho cả xóm.” Tên đàn ông thuộc giống người Bắc di cư chủ gia đình ở đầu xóm suýt gây hỏa hoạn cho cả xóm đến thẳng nhà ông Đại nói như vậy. Rồi sợ ông Đại không tin lắm, tên đàn ông đó tiếp: "Bác Đại à, bác là người có học hơn tất cả chúng tôi trong xóm nhỏ này, bác có đọc nhiều sách vở nhưng có những chuyện huyền vi của tạo hóa bác không làm sao hiểu nổi... Này, bác nên giết quách nó đi... Thứ chó tru đêm đó là hiện hình của quỷ sứ đó bác ạ. Bác có trông thấy đôi mắt đỏ ngầu của nó không? Nó sắp điên đến nơi nữa rồi đó... Rồi lại cắn phải người khác... Rồi bác phải tốn tiền đưa họ đến viện Pasteur Saigon. Rồi cảnh sát đến bắt... ối là khối phiền phức... đó là chưa kể đến những tai họa ác hiểm hơn..." Tên đàn ông thuộc giống người vốn ghiền "nai đồng quê" đó còn nói quyết liệt hơn. Lão Phụng nghe hết và lão chỉ biết cười. Bởi con Ki Ki không phải là con chó dại, có triệu chứng điên. Nó chỉ có một cái bệnh độc nhất: đói, cũng như hầu hết con cái của mấy gia đình tạo thành cái xóm Cỏ biệt lập này. Đói đã làm cho nó còm cõi. Đói đã làm cho nó hung dữ. Thế thôi. Và có lẽ nó tru cũng tại bởi đói; cái bệnh đói biến chứng, bởi lẽ người ta chỉ thường gặp những con chó ghẻ khốn đốn còm cõi ở những gia đình khốn khổ phần nhiều ở nhà quê và các miền giặc giã mới biết tru. Những con chó sống đầy đủ gần như không bao giờ biết đến nhu cầu đó. Và đôi mắt của con Ki Ki đâu có đỏ ngầu như người ta nói. Trái lại nó vẫn đen, Lão Phụng tin chắc rằng nếu con Ki Ki được nuôi trong một gia đình nào khác, đặt cho nó một cái tên hay hơn, cho ăn đầy đủ hơn, con Ki Ki bây giờ ắt hẳn phải thuộc vào loại khá hơn nhiều lắm. Phần lớn súc vật và người ta hơn thua nhau chỉ tại hoàn cảnh thôi. Nhưng trường hợp bà Lâm thì không phải. Bà thường khoe với mọi người trong xóm nhỏ này là trước kia, hồi chưa di cư, bà đích thực là người ở tỉnh không phải là dân ruộng. Bà rất giàu và có không biết bao nhiêu mẫu lúa ở ngoài Bắc. Nhưng cứ vào nhà bà, liếc một cái từ nhà bếp vào phòng khách, người ta quả quyết không sai là bà Lâm phải thuộc vào hạng quê mùa thô kệch dù trước kia thực sự bà giàu có. Những người thuộc gia đình đích thực khá giả, có học, có giáo dục, trong bất cứ hoàn cảnh nào họ cũng còn giữ được những nét đặc biệt. Những nét đặc biệt đó hiện hình trong những cử chỉ, hành động, dù là cử chỉ, hành động du côn, ác hiểm, tàn bạo. Đến một ngày kia, tên Hai Độn - thợ quét vôi - ở cuối xóm bị ngã hộc máu khi đang xây cất một ngôi nhà ở Chợ Lớn, nằm bệnh trở về cũng đổ thừa tai nạn của mình cho tiếng tru con Ki Ki. Nhưng cứ nhìn cái cử chỉ loay hoay thường nhật của hắn ai cũng tin chắc thế nào hắn cũng bị té ngã và những tai nạn hiểm nghèo như vậy vốn vẫn là cái nghiệp thân yêu luôn luôn chờ đợi hắn.

Vậy mà hắn cứ đổ thừa cho con vật khốn đốn kia.

Con vật khốn đốn chỉ có một người bạn độc nhất là lão Phụng. Không phải lão chỉ có cảm tình đặc biệt đối với con Ki Ki. Lão còn có cảm tình đặc biệt với bất cứ con Ki Ki nào khác. Ngay khi đến đây, biết được hoàn cảnh khốn đốn của con chó già, lão có ý định giết nó. Lão thuộc loại người hết sức nhân đạo nên có thể bị ngộ nhận là dị thường. Và tình cảm nhân đạo của lão rất mạnh. Nhiều buổi trưa đi trên con đường vắng thấy một con chó già nằm thoi thóp thở, lão thấy xây xẩm cả mặt mày. Phải ở trong hoàn cảnh khốn đốn nghèo cực như lão mới biết cái tình cảm kia mạnh biết chừng nào. Và mỗi lần như thế, thế nào lão cũng bỏ tiền ra mua ít đồng bạc thịt kèm vào bánh mì hẳn hoi, nhưng trời ạ! trong đó còn có cả thuốc độc nữa, đem đến cho con chó ăn. Và buổi chiều ngày đó nếu ai để ý thế nào cũng gặp lão Phụng đi ngang qua đó, im lặng một phút rồi cúi đầu đi luôn. Nếu tính ra thì trong đời lão đã giết ít nhất là một ngàn con trong trường hợp đó rồi! Con số có thể nói là kinh khủng cho người nghe phải tin. Và mỗi lần giết được một con lão có thói quen về ghi một nét trong sổ con có đề ngày hẳn hoi.

Từ ngày lão Phụng đến thuê căn gác, con Ki Ki cứ xoắn xuýt bên lão. Phải nói thêm là lão Phụng ở chung một nửa căn gác thấp và hẹp của ông Đại với giá 150 đồng một tháng. Nửa căn gác ở phía trước là giang sơn ông Phụng, lão bán ve chai giang hồ, gồm có những đồ đạc độc nhất sau đây: một cái võng thượng hạng giăng vừa đủ chiều ngang căn gác, một cái rương cũ đựng một ít áo quần và một vò rượu. Ban đầu lão sống cùng cực với cái nghề này. Sau nhờ quen mối và kinh nghiệm lão sống đã khá. Mỗi tháng sau khi đi giao chai, tỉn cho tên chủ người Trung Hoa ở Chợ Lớn, lão nghỉ hẳn được một ngày, uống rượu ngâm thơ, sống phong nhã hơn hẳn những người khác cũng làm nghề này. Mỗi buổi chiều về lão Phụng có thói quen mua cho con Ki Ki một đồng huyết heo lão dấu kỹ trong gánh. Lão thường chỉ trở về buổi chiều, để tránh nghe những tiếng động, tiếng chửi bới ồn ào. Lão sợ nhất là cái âm thanh hỗn độn dị loại tạo thành bởi tiếng bầy heo đói kêu lên cùng với tiếng của lũ trẻ, tiếng quát tháo của bà Đại. Bà Đại nhiều lúc bận rộn cho heo ăn, quên cả đàn con. Ở trong cái xóm Cỏ nghèo khổ gồm mấy cái nhà, nhà nào bà Đại cũng đặt một cái hũ nước cơm đễ lấy đồ ăn thừa thãi về nuôi đàn heo. Nhưng gần cả xóm đều quá nghèo nên ít khi họ có đồ thừa thãi. Nhiều khi đến bốn năm ngày bà Đại mới đi thu một lần năm sáu cái hũ nhưng dồn chung lại thì chỉ được hơn nửa hũ cơm rau thừa, còn chỉ là nước lõng bõng sình thúi chắc chắn không thể có một thực dưỡng nào trong đó, nếu không muốn nói chỉ gồm toàn thuốc độc. Thế nên có ngày, dù khôn khéo tài ba đến đâu, mụ Đại cũng phải phát khóc lên. Bà phải lo một lúc hai bầy động vật có xương sống. Bầy thứ nhất là đàn con bà đẻ ra. Bầy thứ nhì là đàn heo con, dĩ nhiên do con heo nái đẻ ra chứ không phải bà. Thế nhưng con heo nái thì không phải nuôi con, đều này phải nói dù kể ra nó cũng kỳ cục thực. Bà Đại phải chạy ăn cho cả hai bầy. Bầy thứ nhất thì quan trọng hơn, nhưng cũng tùy thuộc vào bầy thứ nhì. Nếu một con trong bầy thứ nhất bị bệnh bà Đại có khóc được thì đối với một con trong bầy thứ hai – nói rõ ra là một con heo con – khi lâm bệnh bà Đại cũng ăn ngủ không yên và buồn bực đến khóc được. Có những buổi trưa nóng nực, lão Phụng đi xuống thang gác trông thấy cảnh con heo nái nằm nghiêng một bên, vú thừ ra bị một đàn heo con tranh nhau bú và khi lão quảy gánh ra đi, lúc qua phòng bà Đại, lão cũng trông thấy cảnh tượng tương tự: người đàn bà đó đang nằm thiu ngủ, hai vú xề ra, một vú đang được thằng con nhỏ sau cùng – thằng bé Lộc – ngậm kín và vú kia cũng đang được con Liên – em bé lên bốn – ngậm kín luôn. Con Liên không biết vì quá đói ăn hay vì một chứng tật tâm sinh lý nào mà đến bốn tuổi hãy còn nương vú mẹ. Đó là chưa kể một đứa con còn nằm trong bụng nữa. Những lúc đó, lão Phụng đưa mắt nhìn thật lâu. Đôi mắt cứ đăm đăm về phía bụng và vú mụ Đại. Nếu có ai bắt gặp, thế nào người ta cũng nghi ngờ lão Phụng có ý tà dâm. Thật ra, dù đã hơn sáu mươi tuổi, lão Phụng vẫn còn thoáng thấy một tình cảm ước ao dục vọng. Những tình cảm này chỉ đến sau, hoàn toàn đến sau. Lúc nhìn bà Đại, lão đã bị thúc đẩy hay thu hút bởi một tình cảm khác, hoàn toàn khác dù không ai tin. Lão chú ý từng vệt mồ hôi nhễ nhại chảy từ tóc tai, từ thân, từ cổ xuống ướt sũng cả áo và ván gỗ chiếc đi-văng. Lão sống trong một tình cảm vừa thương hại đau khổ vừa giận dữ uất nghẹn vô biên. Hai thứ tình cảm dị loại này nhiều lúc chỉ là một. Nó có hai mặt đó thôi. Cho nên, dù Nietzsche có nguyền rủa đạo Phật, Nietzsche cũng đã là một vị Phật hay ít ra cũng đã là một vị Bồ tát đúng nghĩa. Và phải tin dù Phật có sống thời Karl Marx và nguyền rủa Marx, Phật cũng phải hành động tương tự như Marx thì mới sáng danh đấng Chí Tôn đó thôi. Nhìn mãi, lão thấy gớm tởm và đến một lúc nào đó, tự nhiên lão thấy tức chết được nếu còn trông thấy cảnh tượng đó. Chỉ có những lúc lão mới nhận thấy sự hy sinh cao cả cùng sự tối tăm, ngu đần của một người mẹ, một cái máy đẻ có tình cảm. Khổ sở như vậy sao lại còn nuôi thêm con Ki Ki cho nó mệt? Lúc đầu lão Phụng tưởng ông Đại nuôi con Ki Ki cũng như một số người thấy cần thiết phải nuôi một con vật để vỗ về lúc buồn vui. Còn gì thú cho bằng lúc thảnh thơi được vuốt ve một con chó, con thỏ hay con gà con. Và lúc đó chắc chắn người ta không liên nghĩ gì thịt chó thịt thỏ hay thịt gà. Vậy, ban đầu lão Phụng cứ tưởng ông Đại nuôi con Ki Ki cũng vì lý do vô tư lợi kia (nhưng khi ngay cả ông nuôi con Ki Ki vì lý do để vỗ về thân mến ông cũng không thể được gọi là vô tư lợi được. Có cái quái gì ở trần gian này mà không bị thúc đẩy bởi một thứ tư lợi! Có cái quái gì vô tư ở trần gian này!) Sau lão Phụng mới biết rõ vợ chồng ông Đại nuôi con Ki Ki - và nuôi đã gần mười năm nay - chỉ vì lý do chính yếu: canh gác chuồng heo nái và bầy heo con ban đêm và ban ngày. Bây giờ nó bệnh tật, già yếu, giết là phải, nhất là khi nó tru lên từng cơn dài quái gở lúc canh khuya.

Lão Phụng nhớ mãi, mấy lúc gần đây, khuya nào nó cũng tru, đầu ngẩng lên một cõi nào vô danh xa vắng. Một tối thứ Bảy cách đây được hai tuần, khi bà Đại chưa đi ở cữ, thì ông Đại ở Thủ Đức về cùng mấy người bạn đồng khóa. Ông Đại – người đàn ông trạc chừng ba mươi nhưng tâm hồn đã héo úa bên đàn con nheo nhóc – bây giờ thấy vui hơn. Có lẽ đời sống quân trường đã gây cho ông một thứ trách nhiệm đầy ảo giác với kẻ đồng đội, với người xung quanh và ông thấy tầm vóc cuộc đời rộng lớn hơn nhiều. Ông lại còn sung sướng mỗi tháng tiết kiệm được khoảng tám trăm bạc về giao hết cho gia đình. Tám trăm bạc với gia đình ông Đại, cũng nghĩa lý lắm. Gì chứ cũng hơn lúc thất nghiệp ở Sai Gòn, chạy ăn từng bữa. Đêm đó cả gia đình ông Đại, bà Lâm, tên Hai Độn và tất cả mấy người đàn ông trong xóm đều tụ tập lại nhà ông Đại để mừng ông và cũng để nghe ông kể chuyện. Ông Đại kể thao thao bất tuyệt. Và khi ông mệt thì một trong những người bạn đồng khóa lại tiếp lời. Mọi người đều ngồi ở ngoài sân giữa trăng trong và gió mát. Bà Đại là người sung sướng nhất bởi có người chồng có chức vị như vậy. Thế rồi, lúc về khuya – lúc đó khoảng 1 giờ sáng – khi cuộc nói chuyện gần tàn, mọi người tan cuộc vui sắp sửa chia tay thì con Ki Ki lại bình tĩnh tru lên thấu trời xanh. Tất cả mọi con mắt đều đổ dồn đến con vật khốn khổ đó. Nó ngồi một mình, bình tĩnh, hai chân trước dựng xuống đàng hoàng, mõm chỏng lên trời mà tru. Mọi người bắt đầu nói sang chuyện con chó. Lão Phụng nằm trên gác lắng nghe hết. Mọi người đều đồng ý giết con chó sau khi có lời đề nghị của bà Lâm và nhất là tên Hai Độn và tên đàn ông người Bắc di cư suýt làm cháy cả xóm. Bây giờ mọi người mới đua nhau kể lại những cảnh khốn đón, những tai họa mà họ phải chịu trong khoảng một năm nay từ khi con Ki Ki bắt đầu tru, mà tai họa mở màn là cái chết của cô con gái mụ Lâm (dù cô ta đã tự tử vì tình duyên ở dưới trần này bị tan vỡ, một chuyện không ăn nhập gì với con chó cả). "Phải giết quách nó, lấy mật và tim đốt đi chôn kỹ hai năm sẽ hết tai họa", tiếng một người đàn ông khàn khàn vọng lên một mình và trịnh trọng. Bây giờ mọi người chú ý đến ông Lịch, một ông lang hạng nhỏ kiêm thầy rùa ma giáo có một cái quán bán thuốc Nam ở giữa xóm. Chính ông Lịch đã ãn tiền mụ Lâm rất nhiều nhưng không tài nào chứa nỗi đứa con gái ủ rũ sầu bi như bị ma ám. Người ta không hiểu nổi cái phương sách đuổi tà và trị bệnh của ông lang Lịch. Hình như mỗi ông thầy thuốc ta thường có một bài thuốc riêng, thường thường bí truyền và mờ ám đến nỗi những người cùng nghề khó lòng biết được. Đôi khi nó cũng được liên kết với tà thuật đầy ám muội như trường hợp lão lang Lịch. (Và chính vì vậy mà phương pháp trị liệu rực rỡ này của dân tộc đã từng bị ngộ nhận và chôn vùi). Sau khi đồng ý chắc chắn phải thịt con Ki Ki, người ta chia nhau công việc.

"Tôi thân hành nấu nước sôi!" Tên đàn ông Bắc kỳ di cư suýt làm cháy cả xóm nói trước hết.

"Tôi sẽ phụ với bà Lâm.” Mụ Thận – mụ ở cho ông Đại – cũng xen vào làm như thể ngang hàng với mấy người kia, nghĩa là những người không phải dù sao sống lệ thuộc như mụ. Bây giờ tên Hai Độn mới có ý kiến:

"Tôi sẽ ra công dọn dẹp bàn ghế đâu ra đó.”

"Đồng ý! Đồng ý!"

"Đồng ý.”

"Tôi sẽ chịu tất cả tiền la de!"

"Hoan hô! Hoan hô!"

"Đồng ý!"

"Hoan hô!..."

Người ta không còn phân biệt được tiếng ai nói nữa. Nhưng người ta cũng không rõ ông Đại hay một trong những người bạn đồng khóa nào đã hảo hớn chịu chơi bao khoản tiền la de cho cả xóm. Chỉ biết mọi người đều hân hoan sung sướng. Những người tham dự cuộc nói chuyện ở nhà ông Đại có thể chia làm ba loại. Loại thứ nhất gồm vợ chồng ông Đại và có lẽ những người bạn đồng khóa của ông Đại, là những người không thích thịt chó lắm nhưng phần nhiều ham vui và bị thúc đẩy bởi mê tín dị đoan (ông Đại dù sao cũng là người có học, ông không tin dị đoan nhưng thật ra ông cũng ngán đến một quyền lực siêu linh nào lắm!) Loại thứ nhì: loại đói khổ và rất thích thịt chó. Có thể kể vào loại này những tên như mụ Thận, Hai Độn, và nhất là tên đàn ông Bắc di cư suýt làm cháy nhà cả xóm, (những người này thật ra có tin dị đoan hay không chúng ta không cần biết đến). Loại thứ ba là những người không thích thịt chó, có lẽ chưa bao giờ ăn thử cũng nên nhưng rất dị đoan, khoái cúng tế ma chay vớ vẩn: Những người đàn bà trong xóm mà đại diện tiêu biểu là bà Lâm, người góa phụ hiện làm liên gia trưởng. Còn phải kể đến một loại... dị loại là lão lang Lịch ma giáo này quyết không thuộc vào hạng nào trong ba hạng vừa kể. Người tinh mắt một chút sẽ nhận thấy ngay ông bị thúc đẩy bởi một thứ bản năng bảo vệ một thứ quyền lợi và danh dự đê hạ (vâng, có một thứ danh dự đê hạ lan tràn trên thế gian hình sắc này): ông đã có kế hoãn binh cho cái bất tài của ông khi trị bệnh cho đứa con gái như bị ma ám của bà Lâm. Và nếu có một tòa án tối cao phân minh ở một thế giới nào khác kết tội những người có liên quan dính líu đến việc hành quyết con chó Ki Ki trong những ngày sắp đến thì tên lang Lịch phải chịu một hình phạt nặng nhất. Lão Phụng ở trên gác nghe thấy hết. Đêm đó lão uống rất nhiều rượu say túy tóa. Lão như người ở trên cao nhìn thấy tất cả những lớp mặt thật sau cái mặt nạ đeo ở ngoài của tuồng đời. Lão trông thấy tất cả múa may, hát xiệc, làm trò trống và lão cười một mình. Lão không biết lão đã nói gì trong lúc say khuya đó. Hình như lão có nói: "Ki Ki tao sẽ giết mày. Nhưng tao sẽ giết một cách êm thấm, không kéo dài đau đớn gì lâu con ạ! Rồi con sẽ về cái cõi hằng đêm con vọng ngưỡng nếu cõi đó có. Còn không con cũng sẽ yên thân. Rồi xác con sẽ trôi ra sông, ra sông lớn rồi ra biển. Ta cầu mong lắm. Ta đã từng ở biển. Ta đã gặp nhiều que xương trắng xóa của đồng đội con bị nước mặn ăn sạch, nhiều khi còn nguyên cả bộ nằm phơi trên bờ đảo... khi ta còn... ở tận nơi xa kia... nơi trở về của tất cả. Ta sẽ giúp con..." Sáng ra lão Phụng kiểm soát lại trí nhớ mới biết rằng mình đã có nói những lời tương tự như vậy, nhưng biết mình có nói to đủ cho những người ở dưới đang bàn tính bữa nhậu giả cầy nghe được hay không. Nhớ lại đêm đó, lão cười sặc sụa. Nhất là lời mụ Lâm nói với bà Đại khi chỉ cái thai:

"Mau đi nhé! Bà xổ bầu rồi mọi người mới định rõ được ngày! Tất cả đều tùy thuộc ở bà đó. »

Tất cả cười. Bà Đại cũng cười, không một chút thắc mắc đau đớn gì, nhất là khi mụ đàn bà nghĩ về số phận con vật khốn đốn, con vật đã sống với mình khoảng mười năm trời rồi. Có một số người đông đảo hình như không có một chút tình cảm nhân đạo. Họ dửng dưng. Không phải cái dửng dưng của một triết gia đầu bạc hay cái dửng dưng của một thằng khùng. Cái dửng dưng của họ là cái dửng dưng hạ trí, hay do cái hạ trí sinh ra. Bà Đại thuộc loại đó. Và lão Phụng không hiểu vì sao mụ có thể khóc được trong những trường hợp này hay trong những trường hợp khác.

Lão Phụng vẫn tỳ tay ở thành cửa sổ, thỉnh thoảng lão lại bóc thêm một chiếc nem. Lão dòm xuống vùng vịnh nước tối om. Lão nghi ngờ bà Lâm đang rình lão. "Nhưng làm được gì ta, ta sẽ đòi bằng chứng nếu họ quyết tâm..." Lão Phụng nghĩ một mình. Còn hai ngày nữa ông Đại ở Thủ Đức sẽ về, cùng với mấy người bạn. "Không hiểu bà Lâm đã biết số phận con chó chưa?" Lão Phụng vẫn còn nghi ngờ. Có điều lão khoái chí khi chiều hôm qua và mới sáng nay thôi mụ có qua tìm con Ki Ki vì ngày hành quyết đã đến gần. Tìm mãi không thấy, mụ hỏi lão Phụng khi gặp lão đang rửa mặt. "Ông có thấy con Ki Ki đâu không?" "Mới thấy đâu đó", lão Phụng nói gạt. Thế mà mụ Lâm yên trí là con vật vẫn còn lẩn quẩn đâu đó thật. Rồi mới hồi trưa, tên đàn ông Bắc di cư suýt làm cháy nhà – người sẽ ra tay dìm con chó xuống nước trong bao bố hay đập đầu nó và trụng nước sôi – và tên thợ quét nước vôi mang tục danh Hai Độn có qua tìm con chó. Cùng lúc đó mụ Lâm cũng qua theo mang đến một thùng chai la de lớn và mấy chai rượu đế. "Còn nữa", mụ ta nói "một người bạn ông Đại đã gởi tiền về nhờ tôi lo trước mọi việc!" Tên Hai Độn đắc chí. Đến khi tìm con chó không thấy, họ lại mới hỏi lão Phụng. Lão vẫn điềm tĩnh: "Mới đó, nó mới về đó mà, nó đói nên lẩn quẩn đâu đó!" Tất cả đều cả tin và trở về nhà. Vậy mà bây giờ lão Phụng vẫn còn nghi ngờ...

Vừa lúc thằng Hùng lại trở về leo lên thang gác, lão Phụng hỏi:

"Sao về trễ vậy? Mấy em đâu?"

"Dạ ngủ ở nhà bà Lâm!"

"Sao mày không ngủ bên đó luôn.”

"Dạ, bà Lâm bảo về coi nhà.”

"Được, lên ngủ đi, ngày mốt mẹ mày về!"

"Dạ bà Lâm có nói như ông.”

"Bà còn nói gì nữa không?"

"Dạ coi chừng con Ki Ki.”

"Sao nữa?"

"Dạ, bà nói hễ thấy nó về là đóng cửa nhà trên nhà dưới lại, bà sẽ đem cơm qua cho nó ăn.”

"Nó mới về đó.”

Thật ra mấy đêm nay người ta không nghe thấy tiếng tru của nó ở trong xóm này. Mà nó cũng sẽ không còn tru ở đâu trên mặt đất này nữa. Lão Phụng trở về võng. Lão nghĩ thầm: "Mấy đêm nay nước lớn chắc hẳn xác con vật đã trôi ra sông lớn rồi trôi luôn ra biển. Mát thân rồi phải không con? Tự nhiên đêm nay ta nhớ tiếng tru của con và nhớ vô cùng", lão nói thầm một mình như vậy. Lão sung sướng đã đánh lừa được cả bọn người trong xóm, những người tự nhận là khôn ngoan hơn lão và không bao giờ thèm chào hỏi lão dù lão lớn tuổi nhất trong xóm và với phép lịch sự tối thiểu cần có, lão đáng ra phải được cái hân hạnh đó. Lão sung sướng nghĩ đến cái đêm tiệc trần gian kia không bao giờ có nữa. Nhưng lão vẫn thắc mắc lo âu. Niềm khắc khoải này đã thức dậy trong suốt đời lão. Lão lấy sổ ra đếm số những con vật đã bị lão giết bằng cách đầu độc hay vừa đầu độc vừa dìm xuống nước như trường hợp con Ki Ki. "Một nghìn lẻ ba con... cộng thêm với con Ki Ki mới đây là một nghìn lẻ bốn con... Ta có nên tiếp tục? Và nếu cộng lại tiền phí tổn mua bánh mì thịt cho hơn một ngàn con kia chắc hẳn bây giờ ta đã thừa tiền đóng một chiếc thuyền con lênh đênh trên hải đảo... Ta đã ý thức việc này khi bắt đầu con thứ nhất... khi ta hãy còn trẻ... Ta có nên tiếp tục?" Lão thầm nghĩ trong trí và trong một phút suy tưởng sâu xa, lão bỗng thấy một hình ảnh kỳ dị hiện ra trong trí: Một đàn chó ghẻ lở lói già nua kéo nhau chạy dài đến vô định trong số có cả con Ki Ki lủi thủi theo sau. Tự nhiên lão thấy bất lực và muốn chết.