17/6/11

Tạ Tỵ - Nguyễn Bính

Tạ Tỵ
Mười khuôn mặt văn nghệ

“Ta đi nhưng biết về đâu chứ
Đã dấy phong yên lộng bốn trời
Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ
Uống say mà gọi thế nhân ơi
Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ
Ta với nhà ngươi cả tiếng cười
Ngươi ơi! Hề! Ngươi ơi
Ngươi sang bên ấy sao mà lạnh
Nhịp trúc ta về lạnh mấy mươi…”
(Trích “Hành phương Nam”)



Nguyễn Bính: Làm thơ, viết văn. Sinh năm 1919 tại làng Thiên Vinh, huyện Vụ Bản, Nam Định. Mất ngày: 20.1.1966 tại Hà Nội.

Tác phẩm: Lỡ bước sang ngang, thơ (Lê Cường xuất bản, 1940), Tâm hồn tôi, thơ (Lê Cường xuất bản, 1940), Hương cố nhân (Á Châu xuất bản, 1941),Bóng giai nhân (Kịch thơ), Mây Tần, thơ (Á Châu xuất bản, 1942), Đêm sao sáng, thơ (Văn học Hà Nội, 1963), Một ngàn cửa sổ (thơ), Tập thơ yêu nước, Sóng biển cỏ (thơ)


Nguyễn Bính
Một thiên tài lỡ dở

Thú thật, trong những năm tháng dài của Hà Nội ngày xưa, trong dòng sông hạn hẹp của văn nghệ tiền chiến, anh em dễ quen, dễ gặp vì chẳng có bao người, thế mà riêng tôi, đối với Nguyễn Bính gần như vẫn còn xa lạ.

Tôi chỉ gặp Bính có hai lần. Lần đầu trên chuyến xe điện từ Hà Đông ra Hà Nội. Một người bạn cùng đi đã chỉ cho tôi chàng thanh niên có nước da ngăm ngăm, có mái tóc rậm bù, mặc bộ quần áo dạ cũ màu xanh sẫm, đang ngồi rúm ró ở cuối ghế: Nguyễn Bính đó. Hồi ấy, tôi đã đọc thơ văn của Bính đăng trong Hà Nội báo với thiên hồi ký than khóc tình yêu có 4 câu thơ được coi như lời dẫn trước cho câu chuyện chứa đựng nỗi ai oán và bi thảm đã vò xé nội tâm Bính:

“Tâm hồn tôi là bình rượu nhỏ
Rót lần lần rót mãi xuống nàng Oanh
Không xua tay, nhưng nàng vẫn vô tình
Hắt ly rượu hồn tôi qua cửa sổ.”

Nàng Oanh, nàng Oanh là một nữ sinh mà Bính say mê đến nỗi đêm đêm dù trời đã trọng đông với mưa phùn gió bấc, với giá lạnh cắt buốt thịt da, Bính vẫn kiên nhẫn đứng bên lề đường, dưới gốc cây hay dưới mái hiên nào đó nhìn lên căn gác đóng kín, chỉ còn những tia đèn mong manh lọt qua khe cửa, để vọng tưởng người yêu. Tôi nhìn Bính như nhìn một tượng hình đau khổ với câu chuyện tình lởn vởn trong trí não. Hồi đó, tôi còn là một thanh niên được gia đình chở che và đùm bọc, tuy làm văn nghệ nhưng có lẽ nhờ cái nghề hội hoạ mà trời thương hay ghét cũng chẳng biết, rất ít người vướng mắc vào hệ luỵ ma tuý, hay bắt gặp những oan trái do tình yêu gửi tặng. Bữa đó, Bính đeo kính đen tuy trời bên ngoài đã cuối thu không có nắng, màu mây quánh đặc sắc bùn. Lần gặp thứ nhất này làm tôi thất vọng, vì lẽ rất dễ hiểu là Bính không giống như người mà tôi đã tưởng tượng: mái tóc bồng bềnh như Xuân Diệu, vóc dáng phong nhã như Hoàng Cầm hay có vẻ đãng tử như Đinh Hùng. Nguyễn Bính đang hiện diện trước mắt tôi kia chỉ là một chàng trai tầm thường, trông lại quê quê không có biểu tượng nào để tôi nhận ra sự phong phú đầy chất lãng mạn trong văn thơ. Rồi hình ảnh đó phai dần. Tôi và Bính vẫn chưa biết nhau tuy bạn của Bính một phần là bạn của tôi.

Cho đến một buổi, tôi nhớ rõ buổi trưa, Quỳnh Dao rủ tôi đi thăm Nguyễn Bính để nói chuyện cho biết. (Quỳnh Dao, thi sĩ miền Trung, có thi phẩm Tơ trăng xuất bản thời tiền chiến, đã bị thủ tiêu vào dịp Cách mạng 45 vì bị nghi là gián điệp cho Nhật. Nhân dịp này với tư cách là người bạn thân của Quỳnh Dao, tôi xác nhận Quỳnh Dao không hề làm chính trị hay có thái độ chính trị, sở sĩ anh phải hợp tác với cơ quan quân sự Nhật là vì miếng cơm manh áo, vì trách nhiệm làm chồng làm cha và để có tiền vui chơi với anh em, thế thôi! Quỳnh Dao biết tiếng Nhật và Anh, đánh máy rất mau, chữ viết rất đẹp.) Chúng tôi từ phố Huế đạp xe điện lên Quan Thánh, rồi đi bộ hết đường Cổ Ngư lên đầu Ô Yên Phụ, trời Hà Nội bữa đó cao và trong. Chúng tôi đi dưới rặng phượng vĩ với tàn lá xanh um trải rộng làm rợp mặt đường. Nước hồ Tây bàng bạc lô xô mấy chiếc thúng câu bập bềnh trong không gian im vắng. Một bên, hồ Trúc Bạch, màu nước ngăn ngắt với lớp váng rêu úa vàng dạt vào thành xi-măng xây quanh mép hồ. Quỳnh Dao bỗng khoát tay chỉ về phía xóm lá, bên kia hồ Trúc Bạch – Bính ở trong xóm ấy, nhưng vào đó không chắc gì gặp, nó thường ở nhà M… trên đê. Nghe Dao nói, tôi chợt nhớ đến mấy câu thơ của Bính gửi chị Trúc:

“Nhà em ở cuối kinh thành
Giữa hồ Trúc Bạch nước xanh màu chàm
Dịp nào chị có qua thăm
Cho em lần nữa chiếc khăn lụa hồng
Cầm cho hai tháng là cùng
Khóc như em, mấy khăn hồng chẳng phai!"

Tâm sự của Bính là tâm sự đầy nước mắt, do đó, lời và hơi thơ của Bính làm người đọc dễ cảm, dễ thuộc.

Tôi đã gặp Bính ở nhà M… thật. Đây là lần thứ hai và cũng là lần chót. Tới nay Bính đã đi sâu vào lòng đất, gia tài để lại cho cuộc đời tuy không vĩ đại nhưng cũng đủ chứng minh giá trị của một thi nhân trong lịch sử Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Vì là buổi gặp mặt lần đầu, hơn nữa, trong căn phòng chật chội còn có nhiều người khác nên tôi và Bính chỉ trao đổi vài câu xã giao thông thường. Cuộc “diện kiến” này chẳng mang lại cho tôi một thích thú gì cả.

Với tôi, Bính vẫn chỉ được coi như biết mà chưa quen. Sau đó ít lâu tôi nghe tin Bính đã bỏ quê hương vào Nam tôi mới hối tại sao không cố gặp nhau để trở nên thân như các bạn khác dù cho sự tìm kiếm góp bạn lúc ấy không phải điều khó.

Ngày đó, tôi đương theo học mỹ thuật, chỉ yêu văn học mà chưa làm văn học. Sự giao du của tôi với anh em làm văn học lúc ấy cũng chỉ do chút cảm tình văn nghệ mà thôi. Nhưng chẳng phải vì không thân mà tôi không thích đọc Bính. Tôi vẫn đọc và nghe rất nhiều chuyện về Bính, từ thuốc phiện, rượu, đến nỗi đau tình ái, do anh em nói lại.

Hôm nay viết về Nguyễn Bính, là viết về một nhà thơ đã vĩnh viễn vắng mặt, một nhà thơ (theo ý riêng tôi) đã gặp nhiều hệ luỵ nhất, đã mang tâm sự bị thương đi lang thang suốt một cuộc đời đầy sóng gió do tình ái và tiền tài gieo hoạ.

Bính làm thơ vì Định Mệnh phán quyết. Thơ Bính đẹp như dòng suối và bi thương như bệnh hoạn. Cá tính trong thơ Bính rất tự nhiên, mộc mạc không gò bó, kiểu cách như các thi nhân cùng thời. Thơ Bính đi gần với ca dao, rất gần với đại đa số quần chúng. Các cô gái đọc rất khẽ trong phòng the để tiếc nuối thương vay một thân phận hay giận hờn vì người Bính khóc trong thơ sao lại không phải mình. Các bà mẹ ru con bằng thơ Bính. Thơ của Bính được phổ biến thật sâu rộng, nó gắn liền với cuộc sống nội tâm ở mỗi con người đa đoan tâm sự. Bài “Lỡ bước sang ngang” vào đời đã đưa Bính lên cao giữa vòm trời thi ca đầy tinh tú sáng chói với Xuân Diệu, Huy Cận, Vũ Hoàng Chương, Trần Huyền Trân, Thâm Tâm, Hoàng Cầm, Tế Hanh, Lưu Trọng Lư, Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên v.v… Nhưng chính thực, bài thơ này không phải là bài thơ hay của Bính. Nó nổi tiếng chỉ vì nội dung bi đát nói lên thân phận người con gái “lỡ bước” rồi “sang ngang” để rồi lại “lỡ bước”. Cái tâm sự ấy, cái cảnh huống ấy nó giản dị quá, nó đi gần với cuộc đời có mặt trong thời gian ấy:

“Chị từ lỡ bước sang ngang
Trời giông bão giữa tràng giang lật thuyền
Xuôi dòng nước chảy liên miên
Đưa thân thể chị tới miền đau thương
Mười năm gối hận bên giường
Mười năm nước mắt bữa thường thay canh
Mười năm đưa đón một mình
Đào sâu chôn chặt mối tình đầu tiên
Mười năm lòng lạnh như tiền
Tim đi hết máu, cái duyên không về!...
...................................
Tuổi son má đỏ môi hồng
Bước chân về đến nhà chồng là thôi
Đêm qua mưa gió đầy trời
Trong hồn chị có một người đi qua…"

("Lỡ bước sang ngang")

Chất thơ của Bính nó hiện diện như thế cách đây 30 năm, khoảng thời gian không xa xôi gì, mà sao nó làm cho người đọc hôm nay cảm thấy đằng đẵng xa vút mù khơi.

Bính là con người làm văn nghệ duy nhất ở thời đó không chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Tây phương cũng như Đông phương. Bính làm thơ một mình và thừa hưởng cái kho tàng văn hóa Dân tộc qua các vần ca dao, qua nếp sống mộc mạc quê mùa. Do đó, thơ Bính mang tính chất hồn nhiên, với một sắc thái cực kỳ lãng mạn trong lãnh vực tình yêu.

Bính sinh ra trong một hoàn cảnh khốn khó, trong một xã hội phân hóa bởi giai cấp thống trị với những ước lệ quá ư bất công. Từng ấy dữ kiện đã bắt buộc Bính phải tự tìm cho mình lối thoát. Bính đi vào tình yêu với mộng ước đắm đuối vô vàn để được trả bằng thất vọng. Nàng Oanh nhắc đến ở đoạn trên chưa chắc đã phải là mối tình đầu của Bính, nhưng ở đây, nàng biết Bính yêu mình và mình không yêu Bính nhưng nàng cứ lạnh lùng theo ngày tháng, chẳng chấp nhận và ác nhất, chẳng khước từ. Nàng vẫn đúng giờ mở hé cửa, thò một bàn tay nõn nà cho thi nhân nhìn lên với mơ ước bàng hoàng, đắm đuối:

“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của Trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng…
...................................
Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai biết, ai người biết cho
Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?”

(“Tương tư”)

Cái vòng tình ái lẩn quẩn mở rồi đóng, đóng rồi mở làm cho Bính bàng hoàng như tỉnh, như mơ. Vốn là nòi tình nên thi nhân đắm mê vào hệ luỵ như con thiêu thân lao mình vào ánh đèn tìm cái chết trong lửa đỏ. Ngọn lửa do tình yêu thắp sáng trên vóc dáng nàng Oanh đã làm cho Bính điên cuồng. Bính rên xiết, ngất ngư đòi được thiêu huỷ đời mình trong đó. Nhưng nàng Oanh không cho Bính đến gần, nàng chỉ cho Bính thấy có ánh sáng mà không mở lối cho Bính tìm về ánh sáng. Có thể nói, nỗi đau tuổi trẻ này Bính mang xuống tuyền đài chưa chắc đã tan. Niềm thương hận đó, Bính đã trải rộng trên những vần thơ và huỷ hoại tuổi trẻ trong các nguồn đam mê hằng ngày, hằng đêm.

Nhưng cứ sau mỗi đam mê, hình ảnh kia vẫn bám riết và đeo đuổi như đeo đuổi một duyên số:

“Nhà ấy hình như có mặt trời
Có rừng, có suối, có hoa tươi
Bao nhiêu chim lạ, bao nhiêu bướm?
- Không có gì đâu! Có một người.

Chân bước khoan khoan, lòng hỏi lòng
- Có nên qua đấy nữa hay không?
Không nên qua đấy, nên qua đấy?
Không, nhớ làm sao? Qua, mất công.

Chàng đau đớn lắm, môi cắn môi
Răng cắn vào răng, lời nghẹn lời
- Hờ hững làm sao, mê mẩn quá
Trời ơi! Cứu vớt lấy hồn tôi…”

(“Hà Nội ba mươi sáu phố phường”)

Bính đau quá, giận quá, nhớ thương quá, si mê quá. Tấm lưới tình yêu cứ xiết dần thân phận Bính với nhức mỏi rã rời, Bính kêu la giẫy giụa:

“Đã quyết không… không được một ngày
Rồi yêu, yêu cả buổi chiều nay
Chiều nay bướm trắng ra nhiều quá
Không biết là mưa hay nắng đây
.................................
Oán đã bao la, hận đã nhiều
Cớ sao tôi vẫn chẳng thôi yêu
Tôi đi mãi mãi con đường ấy
Qua lại hôm nay, sáng lại chiều.”

(“Vẩn vơ”)

Cứ như thế, cứ quẩn quanh với thương nhớ, cứ bịn rịn vì mái tóc, làn môi mà Bính buông trôi ngày tháng.

Nhưng thơ Bính không phải chỉ cò nàng Oanh với “Oán đã bao la, hận đã nhiều”, mà nguồn cảm hứng đó còn toả rộng ở các khía cạnh đặc thù của cuộc sống. Thơ Bính buồn, thật buồn. Mỗi lời như một dòng lệ, ngay cả khi Bính không nói về mình:

“Những cuộc chia lìa khởi tự đây
Cây đàn sum họp đứt từng dây
Những lời bèo bọt thân đơn chiếc
Lần lượt theo nhau suốt tháng ngày
.............................
Những chiếc khăn màu thổn thức bay
Những bàn tay vẫy những bàn tay
Những đôi mắt ướt nhìn đôi mắt
Buồn ở đâu hơn ở chốn này?

Tôi đã từng chờ những chuyến xe
Đã từng đưa đón kẻ đi về
Sao nhà ga ấy, sân ga ấy
Chỉ để cho lòng dấu biệt ly?”

(“Những bóng người trên sân ga”)

Nỗi buồn rất nỗi buồn, chia ly rồi chia ly đều bắt nguồn ở sân ga bé nhỏ. Từ hai cô gái nhỏ áp má vào nhau sùi sụt đến người yêu tiễn người yêu ở một sân ga vắng trong chiều tắt nắng. Có những chàng trai tiễn đưa nhau dùng dằng “ba bốn bận” đến nỗi bóng họ nhòe theo bóng tối. Có người vợ mở khăn trầu tiễn chồng đi biên ải. Có người mẹ già lưng còng đổ bóng tiễn con đi, và có người làm cuộc du hành cô độc để “một mình làm cả cuộc phân ly”. Tất cả những chất liệu đó đã làm Bính rúng động và đâu đây tiếng còi tàu thét vang trong trí não thi nhân để trút xuống mặt giấy từng nỗi nghẹn ngào nhân thế.

Biệt ly, biệt ly nào mà chả làm lòng người se lại. Buổi tiễn đưa giữa hai kẻ sống tuy buồn nhưng còn ít bi đát hơn cảnh người sống tiễn đưa kẻ chết, nhất là kẻ chết lại là người trinh nữ. Cái chết của nàng làm cho Bính tưởng tượng cả “châu thành Hà Nội chít khăn sô” và như có ai mời thi nhân “uống chén biệt ly”:

“Sáng nay vô số lá vàng rơi
Người gái trinh kia đã chết rồi
Có một chiếc xe màu trắng đục
Hai con ngựa trắng bước hàng đôi

Đêm đi một chiếc quan tài trắng
Và những bông hoa trắng lạnh người
Theo bước, những người khăn áo trắng
Khóc hồn trinh trắng mãi không thôi…”

(“Lòng người trinh nữ”)

Người trinh nữ ấy bỏ cuộc đời, bỏ cả chiếc áo màu xanh nàng vừa may vào mùa thu, nhưng nàng đi chẳng phải vì có chiếc áo “đi” theo mà còn để lại tiếc thương trong lòng em thơ, mẹ già và mối tình của chàng trai gửi tặng.

Tình cảm của Bính thật chan chứa. Nó khởi hành từ đam mê của mình, thuộc-riêng-mình rồi nó tự vượt thoát để bấu víu vào cả những thứ không-thuộc-về-mình và coi đó như có thực. Huyền thoại T.T.Kh. với 4 bài thơ nổi tiếng trên thi đàn Việt Nam từ lâu, không ai có quyền phá vỡ. Người duy nhất có thể làm được công việc trên là thi sĩ Thâm Tâm, nhưng Thâm Tâm đã đi vào đất lạnh từ lâu. Bởi vậy, bây giờ và mãi mãi nó vẫn là một nghi hoặc, là dấu hỏi, dấu than, nó vẫn còn nguyên là huyền thoại theo đúng nghĩa chữ.

Câu chuyện tình đẹp do Thanh Châu sáng tác với tựa đề “Hoa Ti-gôn” đăng trong báo Tiểu thuyết thứ bảy đã làm xúc động người đọc và sau đó ít lâu T.T.Kh. ra đời. Thâm Tâm có làm 2 bài gửi T.T.Kh. và Nguyễn Bính cũng làm bài “Dòng dư lệ” tặng T.T.Kh. với những vần thơ đắm đuối:

“Dừng chân trước cửa nhà nàng
Thấy hoa vàng với bướm vàng hôn nhau
Tìm nàng chẳng thấy nàng đâu
Lá rơi lả tả bên lầu như mưa…”

Tìm nàng để làm gì? Để nghe người lão bộc kể lại một thiên tình hận, để bâng khuâng coi đó như chuyện của mình:

“Bao nhiêu oan khổ vì tình
Cớ sao giống hệt chuyện mình ngày xưa?”

Nguyễn Bính sáng tác rất nhiều, mỗi bài thơ như một khúc bi ca, như nỗi đau đứt ruột vì khung trời tình ái mà Thượng Đế dành riêng cho Nguyễn Bính luôn luôn bị che phủ mây mù:

“Lạ quá làm sao tôi cứ buồn
Làm sao tôi cứ khổ luôn luôn
Làm sao tôi cứ tương tư mãi
Người đã cùng tôi nhạt ước nguyền…”

(“Vâng”)

Và,

“Tôi rót hồn tôi xuống mắt nàng
Hồn tôi là cả một lời van
Tôi van nàng đấy, van nàng đấy
Ai có yêu đương chả vội vàng”

(“Người con gái ở lầu hoa”)

Có lẽ chịu không nổi hình phạt của cuộc sống ở cả hai phía, tình yêu và hoàn cảnh, nên Bính dứt áo ra đi về phương Nam có nắng vàng chói lói, có cuộc sống cởi mở, để mong tìm cho mình sự giải thoát nào đó bằng cảm xúc mới, bằng tri giác mới. Hà Nội với đắng cay còn đó, Hà Đông với khuôn mặt nàng Oanh kiêu bạc hờ hững, với kỷ niệm tháng năm buồn đứt ruột, với dăm bảy đứa bạn bè ngơ ngác nhìn nhau nhàm chán. Hà Nội đối với Bính như “một nhỡ nhàng” nên biết quyết dứt tình.

Ở trong Nam, Bính cũng trôi nổi bềnh bồng như cánh bèo đưa đẩy. Nay đây mai đó, Bính từ Sài-gòn xuôi Hậu Giang và gót giang hồ đã dừng lại ít lâu tại cuối trời nước Việt, đó là Hà Tiên quê hương của thi sĩ Đông Hồ và Mộng Tuyết. Trong thời gian lưu trú tại miền Nam, Bính đã sáng tác nhiều với tứ thơ mới pha thêm nỗi đắng cay, tủi hận do cuộc sống thờ ơ và miếng cơm manh áo, mỗi ngày làm cho thi nhân căm phẫn:

“Trọc phú ti toe bàn thế sự
Đĩ già tấp tểnh nói văn chương
Đã coi đồng bạc to hơn núi
Còn học đòi theo thói Mạnh Thường…”

Bính sống giữa thế kỷ XX, thế kỷ của phát minh cơ khí đang muốn đẩy lui những giá trị tinh thần vào bóng tối dĩ vãng, như Bính đâu cần biết, Bính vẫn muốn dùng cái sĩ khí, tiết tháo của nhân vật Đông Chu làm biểu tượng cho mình:

“Rẫy ruồng châu ngọc thù son phấn
Mắt đỏ lên rồi cứ chết ngay
Hỡi ơi! Nhiếp Chính mà băm một
Giữa chợ ai người khóc nhận thây

Kinh Kha giữa chợ sầu nghiêng chén
Ai kẻ dâng vàng, kẻ biếu tay
Mơ gì Ấp Tiết thiếu văn tự
Giày cỏ gươm cùn ta đi đây…”

Nhưng ta đi, ta đi đâu? Bính giận dỗi với cuộc đời vì đi khắp thiên hạ mà chưa tìm thấy tri kỷ, có chăng chỉ là mình với bóng.

"Ta đi nhưng biết về đâu nhỉ
Đã dấy phong yên lộng bốn trời
Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ
Uống say mà gọi thế nhân ơi

Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ
Ta với nhà ngươi cả tiếng cười
Ngươi ơi! Hề, ngươi ơi
Ngươi sang bên ấy sao mà lạnh
Nhịp trúc ta về lạnh mấy mươi…”

(“Hành phương Nam”)

Như thế đó, tiếng thơ Nguyễn Bính dù ở cảnh huống nào vẫn đầy rẫy bi thương, uất nghẹn. Sau từng năm tháng dài ở miền Nam, mỗi độ xuân về, Bính lại tiếc thương mùa Xuân đất Bắc với hoa đào, gió lạnh, với đất trời đượm ngát hương xuân. Sau bao nhiêu lần hẹn mà Bính không về sao về nổi đất cũ, Bính thét lên trong bài thơ gửi chị – “Tết này lại nữa, Tết tha hương” rồi Bính kể cho chị Trúc nghe mùa Xuân miền Nam với:

“Dưa hấu chất cao hơn nóc chợ
Và hoa sen nở đẹp huy hoàng”

Cả hai thứ đó đều có vào mùa Hạ ở ngoài Bắc chứ không ở mùa Xuân…

*

Rồi thời gian qua đi với tuổi đời niên thiếu, tưởng rằng không còn cơ hội nào dành cho Bính một niềm hy vọng.

Đột nhiên cả dân tộc chuyển mình đi vào Cách mạng 1945. Mấy tháng sau, miền Nam anh dũng đã biến thành tiền tuyến trong cuộc chiến đấu chống quân Pháp xâm lăng lần thứ hai. Bính có mặt trong tuyến đầu khói lửa. Rồi ngày 19-12-1946, toàn quốc kháng chiến. Sắt máu đã đẩy lui mọi người ra khỏi từng thành phố. Những năm đầu kháng chiến tôi có nghe tin Bính nhưng chẳng bao giờ có cơ hội vượt Trường Sơn để gặp mặt anh em. Trong thời gian này Bính cũng như mọi người làm văn nghệ khác, đều phục vụ kháng chiến bằng khả năng chuyên biệt. Cuộc sống máu lửa kéo dài cho tới ngày ký Hiệp định Genève chia đôi Nam, Bắc. Bính tập kết ra Hà Nội rồi mất tại đó năm 1966.

Bính là một thiên tài, nhưng là một thiên tài lỡ dở, vì tổng kết từ cuộc sống bản thân tới nghệ thuật, ở bên trong mỗi dữ kiện người ta cảm thấy như Định Mệnh đã an bài cho Bính sự trừng phạt hơn ân thưởng. Sinh ra trong một hoàn cảnh khốn khó không đủ phương tiện ăn học, lớn lên Tình Yêu làm thui chột ước mơ, ở lãnh vực Thi Ca Bính cũng không làm sao thoát ra khỏi khuôn thước tầm thường của nhân thế. Nhưng đó không phải là cái dở mà chính là sự may mắn cuối cùng mà Thượng Đế dành cho Bính, tuy rằng sự may mắn đó Bính phải trả bằng nước mắt với muôn vạn nhục nhằn. Sự lỡ dở do Tình Yêu, do cuộc đời, do bạn hữu, do bản thân tạo nên, tất cả như a vào nhau để làm cho tiếng thơ buồn của Bính vút lên rồi toả ra những làn ánh sáng kỳ diệu giữa trời thơ nước Việt hôm qua, hôm nay và mãi mãi.

Bính đã đi rồi. Tác phẩm Thi Ca của Bính còn lại. Chúng ta hãy cầu nguyện cho Bính với hình ảnh con chim Đường Nga (Le Pélican) của thi sĩ Alfred de Musset (1810-1857) đã moi ruột gan cho lũ con ăn tiệc, để rồi chết lặng lẽ bên mỏm đá vô tình.



Trích thơ Nguyễn Bính
Hành phương Nam

Đôi ta lưu lạc phương nào
Trải mấy mùa qua én, nhạn bay
Xuân đến khắp trời hoa rượu nở
Mà ta với người buồn vậy thay

Lòng đắng xá gì muôn hớp rượu
Mà không uống cạn mà không say
Lời thề buổi ấy cầu Tư Mã
Mà áo khinh cừu không ai may

Ngươi giam chí lớn vòng cơm áo
Ta trói thân vào nợ nước mây
Ai biết thương nhau từ buổi trước
Bây giờ gặp nhau trong phút giây

Nợ tình chưa trả tròn một món
Sòng đời thua đến trắng hai tay
Quê nhà xa lắc xa lơ đó
Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay

Tâm giao mấy kẻ thì phương Bắc
Ly tán vì cơn gió bụi này
Người đi buồn lắm mà không khóc
Mà vẫn cười qua chén rượu đầy

Vẫn dám tiêu hoang cho đến hết
Ngày mai ra sao rồi hãy hay
Ngày mai xán lạn màu non nước
Cốt nhất làm sao tự buổi nay

Rẫy ruồng châu ngọc thù son phấn
Mắt đỏ lên rồi cứ chết ngay
Hỡi ơi Nhiếp Chính mà băm mặt
Giữa chợ ai mà khóc nhận thây

Kinh Kha giữa chợ sầu nghiêng chén
Ai kẻ dâng vàng kẻ biếu tay
Mơ gì Ấp Tiết thiêu văn tự
Giầy cỏ gươm cùn ta đi đây

Ta đi nhưng biết về đâu chứ
Đã dấy phong yên lặng bốn trời
Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ
Uống say mà gọi thế nhân ơi

Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ
Ta với nhà ngươi cả tiếng cười
Ngươi ơi! Hề ngươi ơi
Ngươi sang bên ấy sao mà lạnh
Nhịp trúc ta về lạnh mấy mươi…


Lỡ bước sang ngang

Em ơi, em ở lại nhà
Vườn dâu em hái, mẹ già em thương.
Mẹ già một nắng hai sương,
Chị đi một bước trăm đường xót xa.

Cậy em, em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương.
Hôm nay xác pháo đầy đường
Ngày mai khói pháo còn vương khắp làng.
Chuyến này chị bước sang ngang,
Là tan vỡ giấc mộng vàng từ đây…

I.

Rượu hồng em uống cho say,
Vui cùng chị một vài giây cuối cùng.
Rồi đây sóng gió ngang sông,
Đầy thuyền hận chị lo không tới bờ.
Miếu thiêng vụng kén người thờ,
Nhà hương khói lạnh chị nhờ cậy em.
Đêm qua là trắng ba đêm,
Chị thương chị kiếp con chim lìa đàn.
Một vai gánh vác giang san,
Một vai nữa gánh muôn vàn nhớ thương.

Mắt quầng, tóc rối tơ vương,
Em còn cho chị lược gương làm gì! …
Một lần sẩy bước ra đi,
Là không hẹn lại ngày về nữa đâu.
Cách mấy mươi con sông sâu,
Và trăm ngàn vạn nhịp cầu chênh vênh.
Cũng là thôi, cũng là đành!
Sang ngang lỡ bước riêng mình chị sao?
Tuổi son nhạt thắm, phai đào,
Đầy thuyền hận có biết bao nhiêu người?
Em đừng khóc nữa, em ơi!
Dẫu sao thì sự đã rồi nghe em!
Một đi bảy nổi ba chìm,
Trăm cay nghìn đắng con tim héo dần.
Dẫu em thương chị mười phần
Cũng không ngăn nổi một lần chị đi.
Chị tôi nước mắt đầm đìa,
Chào hai họ để đi về nhà ai.
Mẹ trông theo, mẹ thở dài,
Dây pháo đỏ bỗng vang trời nổ ran,
Tôi ra đứng ở đầu làng,
Ngùi trông theo chị khuất ngàn dâu thưa.

II.

Trời mưa ướt áo làm gì?
Năm mười bảy tuổi, chị đi lấy chồng.
Người ta pháo đỏ rượu hồng,
Mà trong lòng chị một vòng hoa tang.
Lần đầu chị bước sang ngang,
Tuổi son sông nước đò giang chưa từng.
Ở nhà mẹ nhớ em thương,
Ba gian nhà trống mảnh vườn xác xơ.
Mẹ ngồi bên cửa se tơ,
Thời thường nhắc: “Chị mày giờ ra sao?”
Chị bây giờ… nói thế nào…?
Bướm tiên khi đã lạc vào vườn hoang.
Chị từ lỡ bước sang ngang,
Trời giông bão, giữa tràng giang lật thuyền.
Xuôi dòng nước chảy liên miên
Đưa thân thể chị tới miền đau thương.
Mười năm gối hận bên giường,
Mười năm nước mắt bữa thường thay canh.
Mười năm đưa đón một mình,
Đào sâu chôn chặt mối tình đầu tiên.
Mười năm lòng lạnh như tiên,
Tim đi hết máu! cái duyên không về!
Nhưng em ơi! một đêm hè,
Hoa xoan nở, xác con ve hoàn hồn.
Dừng chân trên bến sông buồn,
Nhà nghệ sĩ tưởng đò còn chuyến sang.
Đoái thương thân chị lỡ làng,
Đoái thương duyên chị dở dang tháng ngày.
Rồi… rồi… chị nói sao đây?
Em ơi, nói nhỏ câu này với em:
Thế rồi máu chảy về tim,
Duyên làm lành chị, duyên tìm về môi.
Chị nay lòng lại ấm ròi,
Mối tình chết đã có người hồi sinh.
Chị từ dan díu với tình
Đời tươi như buổi bình minh nạm vàng.
Tim ai khắc một chữ “nàng”?
Mà tim chị một chữ “chàng” khắc theo.
Nhưng yêu chỉ để mà yêu,
Chị còn dám ước một điều gì hơn.
Một lầm hai lỡ keo sơn,
Mong gì gắn lại phím đờn ngang cung.
Rồi đêm kia, lệ ròng ròng,
Tiễn đưa người ấy sang sông chị về.
Tháng ngày qua cửa buồng thế,
Chị ngồi nhặt cánh hoa lê cuối mùa.

III.

Úp mặt vào hai bàn tay,
Chị tôi khóc suốt một ngày một đêm!
Đã đành máu chảy về tim,
Nhưng không ngăn nổi cánh chim giang hồ.
Người đi xây dựng cơ đồ
Chị về trồng cỏ nấm mồ thanh xuân.
Người đi khoác áo phong trần,
Chị về đan áo liệm dần nhớ thương.
Hồn trinh ôm chặt chân giường,
Đã cùng chị khóc đoạn trường thơ ngây.
Năm xưa, đêm ấy, giường này
Nghiến răng… nhắm mắt… cau mày… cực chưa?
Thế là tàn một giấc mơ,
Thế là cả một bài thơ não nùng!
Tuổi son má đỏ, môi hồng,
Bước chân về đến nhà chồng là thôi.
Đêm qua mưa gió đầy trời,
Trong hồn chị có một người đi qua.
Em về thương lấy mẹ già,
Đừng trông ngóng chị nữa mà uổng công.
Chị giờ sống cũng bằng không,
Coi như chị đã sang sông đắm đò.


Những bóng người trên sân ga

Những cuộc chia lìa khởi tự đây,
Cây đàn sum họp đứt từng dây.
Những lời bèo bọt thân đơn chiếc,
Lần lượt theo nhau suốt tháng ngày.

Có lần tôi thấy hai cô bé,
Sát má vào nhau khóc sụt sùi.
Hai bóng chung lưng thành một bóng,
Đường về nhà chị chắc xa xôi.

Có lần tôi thấy một người yêu,
Tiễn một người yêu một buổi chiều,
Ở một ga nào xa vắng lắm,
Họ cầm tay họ, bóng xiêu xiêu.

Hai chàng tôi thấy tiễn đưa nhau,
Kẻ ở sân ga, kẻ cuối tàu.
Họ giục nhau về ba bốn bận,
Bóng nhoà trong bóng tối từ lâu.

Có lần tôi thấy vợ chồng ai,
Thèn thẹn đưa tay bóng chạy dài.
Chị mở khăn trầu, anh thắt lại,
Mình về nuôi lấy mẹ, mình ơi.

Có lần tôi thấy một bà già,
Đưa tiễn con đi tận chốn xa,
Tàu chạy lâu rồi, bà vẫn đứng,
Lưng còng đổ bóng xuống sân ga.

Có lần tôi thấy một người đi,
Chẳng biết về đâu nghĩ ngợi gì.
Chân bước hững hờ theo bóng lẻ,
Một mình làm cả cuộc phân ly,.

Những chiếc khăn màu thổn thức bay,
Những bàn tay vẫy những bàn tay.
Những đôi mắt ướt nhìn đôi mắt,
Buồn ở đâu hơn ở chốn này?

Tôi đã đứng chờ những chuyến xe,
Đã từng đưa đón kẻ đi về,
Sao nhà ga ấy, sân ga ấy,
Chỉ để cho lòng dấu biệt ly.


Lòng người trinh nữ

Chiều về chầm chậm trong hiu quạnh,
Tơ liễu theo nhau chảy xuống hồ,
Tôi thấy quanh tôi và tất cả,
Châu thành Hà Nội chít khăn sô.

Nước mắt chảy quanh, tình thắt lại,
Giờ đây, tôi khóc một người về.
Giờ đây, tôi thấy lòng cay đắng,
Như có ai mời chén biệt ly.

Sáng nay vô số lá vàng rơi,
Người gái trinh kia đã chết rồi.
Có một chiếc xe màu trắng đục,
Hai con ngựa trắng bước hàng đôi.

Đem đi một chiếc quan tài trắng
Và những bông hoa trắng lạnh người.
Theo bước, những người khăn áo trắng,
Khóc hồn trinh trắng mãi không thôi.

Để đưa nàng đến nghĩa trang này,
Nàng đến đây rồi, ở lại đây.
Ờ nhỉ! Hôm nay là mấy nhỉ?
Suốt đời tôi nhớ mãi đêm nay.

Sáng nay sau một cơn mưa lớn,
Hà Nội bừng lên những nắng vàng.
Có những cô nàng trinh trắng lắm,
Buồn rầu theo vết bánh xe tang.

Từ nay xa cách mãi mà thôi,
Tìm thấy làm sao được bóng người.
Vừa mới hôm nào còn thẹn thẹn,
Tay cầm sáp đỏ bỏ lên môi.

Chiếc áo màu xanh tựa nước hồ,
Nàng vừa may áo với mùa thu.
Gió thu còn lại bao nhiêu gió?
Chiếc áo giờ đây ở dưới mồ.

Chắc hẳn những đêm như đêm qua,
Nàng còn say mộng ở chăn hoa,
Chăn hoa ướp một trời xuân sắc,
Đến tận tàn cạnh rộn tiếng gà.

Chắc hẳn những đêm như đêm kia,
Nửa đêm lành lạnh gió thu về,
Nàng còn thao thức ôm cho chặt…
Chiếc gối nhung mềm giữa giấc mê.

Nhưng sáng hôm nay nàng lặng im,
Máu đào ngưng chảy ở nơi tim.
Mẹ già xé vội khăn tang trắng,
Quấn vội lên đầu mấy đứa em.

Người mẹ già kia tuổi đã nhiều,
Đã từng đau khổ biết bao nhiêu.
Mà nay lại khóc thêm lần nữa,
Nước mắt còn đâu buổi xế chiều.

Những đứa em kia chưa khóc ai,
Mà nay đã khóc một người rồi,
Mà nay trên những môi son ấy,
Chẳng được bao giờ gọi: chị ơi!

Nàng đã qua đời để tối nay,
Có chàng đi hứng gió heo may
Bên hồ để mặc mưa rơi ướt,
Đếm mãi bâng quơ những gót giày.

Người ấy hình như có biết nàng,
Có lần toan tính chuyện sanng ngang.
Nhưng hồn nàng tựa con thuyền bé,
Đã đắm ngàn thu ở suối vàng.

Có gì vừa mất ở đâu đây?
Lòng thấy mềm như rượu quá say.
Hốt hoảng chàng tìm trong bóng tối,
Bàn tay lại nắm phải bàn tay.

Chỉ một vài hôm nữa, thế rồi,
(Người ta thương nhớ có ngần thôi!)
Người ta nhắc đến tên nàng để
Kể chuyện nàng như kể chuyện vui.

Tôi với nàng tuy không biết nhau,
Mà tôi thương tiếc bởi vì đâu?
Mỹ nhân tự cổ như danh tướng,
Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu”.


Hôn nhau lần cuối

Cầm tay, anh khẽ nói:
Khóc lóc mà làm chi?
Hôn nhau một lần cuối,
Em về đi, anh đi.

Rồi một, hai, ba năm,
Danh thành anh trở lại.
Với em, anh chăn tằm,
Với em, anh dệt vải.

Ta sẽ là vợ chồng,
Sẽ yêu nhau mãi mãi.
Sẽ se sợi chỉ hồng,
Sẽ hát ca ân ái.

Anh và em sẽ sống
Trong một mái nhà tranh
Lấy trúc thưa làm cổng
Lấy tơ liễu làm mành.

Nghe lời anh, em hỡi!
Khóc lóc mà làm chi?
Hôn nhau một lần cuối,
Em về đi, anh đi…


Vâng

Lạ quá! Lao tôi cứ buồn?
Làm sao tôi cứ khổ luôn luôn?
Làm sao tôi cứ tương tư mãi
Người đã cùng tôi phụ rất tròn?

Thì ra chỉ có thế mà thôi!
Yêu đấy, không yêu đấy, để rồi
Mắc hẳn đường tơ sang cửi khác,
Dệt từng tấm mộng để dâng ai.

Khuyên mãi sơn cho chữ “Ái tình”!
Mộng lòng trang điểm mãi cho xinh.
Có người, đêm ấy, khoe chồng mới:
“Em chửa yêu ai, mới có mình”.

Có người trong gió rét mùa đông,
Chăm chỉ đan cho trọn áo chồng.
Còn bảo: “Đường lên đan vụng quá!
Lần đầu đan áo kiểu đàn ông”.

Vâng, chính là cô chửa yêu ai,
Lần đầu đan áo kiểu con trai.
Tôi về thu cả ba đông lại,
Đốt hết cho cô khỏi thẹn lời!


Một nghìn cửa sổ

Một nghìn cái cửa sổ
Đều khép vào đêm qua,
Một nghìn bàn tay ngà
Đã thò ra cửa sổ.

Một nghìn cái cửa sổ
Đều khép vào đêm nay.
Lại nghìn cái bàn tay
Ấy thò ra cửa sổ.

Hỡi nghìn cái cửa sổ
Rồi khép vào bên trong
Có thấu tình ta không?
Có thấu tình ta khổ.

Đêm qua và đêm nay,
Và nghìn đêm về trước,
Ta đi trên phố này,
Ta đi trên phố khác.

Để mơ những bàn tay
Của những nàng gái đẹp,
Để muốn rằng đêm nay,
Cửa ai buồn chẳng khép.

Chẳng ai buồn, chẳng khép
Cho lòng ta đêm nay
Để lòng ta đêm nay
Mất một người gái đẹp.

Cửa hàng nghìn khép lại
Tất cả một đêm nay
Có lòng ta rồ dại
Mở ra muôn ngàn ngày.


Tỉnh giấc chiêm bao

Chín năm đốt đuốc soi rừng
Về đây ánh điện ngập ngừng bước chân
Cửa xưa mành trúc còn ngăn
Góc tường vẫn đọng trăng xuân thuở nào
Làng xa bản nhỏ đèo cao
Gió bay tà áo chiêm bao nửa chừng
Anh về luyến núi, thương rừng
Nhớ em đêm sáng một vùng thủ đô.
Bồi hồi chuyện cũ năm xưa
Gặp nhau lần cuối… trang thư lệ nhoà
Thư rằng: thôi nhé đôi ta
“Tính sao không phụ mà ra phụ tình
Duyên nhau đã dựng Trường đình
Mẹ em đã xé tan tành gối thêu…”
Trăng khuya sáng núi gương đèo
Anh đi, thư vẫn nằm đeo bên mình
Lửa sàn nét chữ chênh chênh
Nếp thư đến rách chưa lành vết thương
Đằm đằm hoa sữa lên hương
Chân anh đương bước giữa đường cái đây
Nẻo hồ, song cửa, lá bay
Sáng trưng bóng dáng bao ngày yêu xưa
Trăm năm đã lỡ hẹn hò
Cây đa bến cũ con đò còn không?
Tình cờ gặp giữa phố đông
Em đi ríu rít tay chồng tay con
Nét cười âu yếm môi son
Áo bay nhắc buổi trăng tròn sánh vai…
Chín năm bão tối mưa ngày
Nước non để có hôm nay sáng trời
Em đi hạnh phúc hồng tươi
Anh nhìn tận mắt cuộc đời đẹp sao?
Sắc hương muôn nẻo tuôn trào
Tiếc mà chi giấc chiêm bao một mình
Anh về viết lại thơ anh
Để cho bến mát cây xanh đôi bờ
Cho sông cho nước tự giờ
Chẳng còn lỡ chuyện con đò sang ngang
Lứa đôi những bức thư vàng
Chẳng còn chữ chữ hàng hàng lệ rơi
Chim hồng chim nhạn, Em ôi
Trên nền gối cưới đời đời yêu nhau.

8-1956

Nguồn: Tạ Tỵ. Mười khuôn mặt văn nghệ.

Tạ Tỵ - Vũ Hoàng Chương

Tạ Tỵ

Mười khuôn mặt văn nghệ

Vũ Hoàng Chương


Vũ Hoàng Chương: Làm thơ. Sinh ngày: 5-5-1916 tại Nam Định (Bắc Việt, theo giấy khai sinh). Năm sinh đúng: 1915, năm Ất Mão, tháng 4, mồng Một. Chánh quán: Làng Phù Ủng, tỉnh Hưng Yên (Bắc Việt)

Tác phẩm: Thơ say 1940, Vân Muội (kịch thơ) 1942, Mây (thơ) 1943, Vân Muội, Trương Chi, Hồng Điệp (kịch thơ) 1944, Thơ lửa (cùng với Đoàn Văn Cừ - Liên khúc 3),Tâm sự kẻ sang Tần (kịch thơ) 1951, Rừng phong (thơ) 1954, Hoa đăng (thơ) 1959, Tâm tình người đẹp (thơ Nhị thập bát tú) 1961, Trời một phương (thơ), Thi tuyển (Poèmes choisis) tựa của Simone Kuhnen de la Coeuillerie 1963, Lửa từ bi (thơ) 1963, Ánh trăng đạo (thơ) 1966, Bút nở hoa đàm (thơ) 1967, Cành mai trắng mộng (thơ) 1968, Nouveaux Poèmes (Tân Thi) 1970, Ta đợi em từ ba mươi năm (thơ) 1970, Loạn trung bút (tạp văn) 1970




Vũ Hoàng Chương
Tiếng thở dài của phương Đông trầm mặc

“Ôi, Lý Bạch, Trang Chu đường chim nẻo Nguyệt
Đời hoạ còn ta là theo vết người xưa…”
(Vũ Hoàng Chương)

Nói đến Vũ Hoàng Chương là nói đến dòng thời gian xa thẳm trước tầm mắt, là nhắc nhở đến vùng bao la như lớp khí quyển vây quanh trái đất tạo nên ứ đọng với từng ngón hoài nghi, với niềm dằn vặt khôn nguôi giữa sự bứt rời và níu kéo trong một thể xác nửa mệt lả vì yêu thương, nửa giận hờn nỗi thất bại của tâm linh trước sự chia lìa của Thơ với Thực tại.

Sinh ra đời dưới một ngôi sao tốt, từ nhỏ, Vũ được bọc đùm trong nhung lụa, được dạy dỗ ở cả hai phía, Tây học và Hán học. Vũ đã hấp thụ văn học Tây phương đồng thời do sự giáo huấn của bà mẹ, Vũ cũng say mê Đông phương và sớm suy tư triết thuyết Lão, Trang với cổ thư Trung Quốc.

Sự ám ảnh của thời đại hoàng kim chìm khuất với vóc dáng chàng Tư Mã áo xanh trên bờ sông Dương Tử, hay khuôn mặt nàng ca kỹ bén Tầm Dương “tay ôm đàn che nửa mặt hoa”… đã làm phai mờ tất cả kích thước các nhà thơ lớn Tây phương: Hugo, Lamartine, Musset, Baudelaire, Verlaine, Rimbaud đang chiếu sáng trên vòm trời thi ca Việt Nam khoảng 1935-43 với từng người thơ chịu ảnh hưởng sâu đậm kỹ thuật, nhất là tư tưởng vay mượn của nền thi ca miền tóc vàng, tuyết trắng.

Vũ là tượng hình đứng cô liêu trong vòm trời quá khứ. Ánh sáng của ngọn hải đăng le lói giữa đêm khuya mịt mùng sóng vỗ, Vũ lắng nghe hồn mình trải rộng trên mỗi con nước đại dương và thầm ước sẽ tìm được trong sự luân lưu đó, chút hơi thở của người xưa vọng đến. Nhưng ánh sáng của ngọn hải đăng vẫn le lói hằng đêm và đại dương cứ luân lưu theo chu kỳ miên viễn, hơi thở của quá khứ trôi đi biền biệt không để lại vết tích gì trong vũ trụ bao la, có chăng chỉ còn lại niềm tưởng vọng giữa sự-sống-hôm-nay gửi về cõi-chết-hôm-qua bằng môi trường suy cảm. Vũ đã suy cảm và lựa chọn khổ đau, với đam mê huỷ diệt. Vũ khước từ cái công danh phú quý mà đời đã trao tặng sau những năm đèn sách, để tự dấn thân vào thế giới thi ca, tức là mang lấy nghiệp. Sự “đầu thai lầm thế kỷ” mà Vũ đã viết ra, hét to lên trong cơn mê loạn của thể xác, trong nỗi vò xé của tâm linh trước cuộc sống nghẽn lối, trước cơn bi phẫn của con chim bị trúng tên rã cánh, nhìn trời cao mà không vút lên được, nhìn trái ngọt mà không vừa an hưởng, nhìn thân phận trôi đi, trôi đi như ảo ảnh để nuối tiếc giấc mơ thành bướm thuở nào.

Thế đó, dòng sông với ngần ấy tê liệt, ngần ấy giận hờn trong một xã hội đốn mạt, trong một quốc gia nô vong, Vũ cảm thấy mình đã nhiễm độc và để giải độc, Vũ tìm quên trong chiều sâu của ảo giá, của men khói. Ở đó, Vũ đón nhận về phần mình tất cả đau thương, qua từng sợi khói lung linh, qua lời hò hẹn chênh vênh, qua tình yêu gục mặt, qua niềm tin đổ vỡ để thoát vào cảm thông với hơi thở mỏi mòn. Vũ tiếp thu những giá trị bi thương ấy, những nghẹn ngào câm tiếng ấy bằng niềm sảng khoái vỡ bờ. Vũ từ bỏ thực tại như từ bỏ chính bản thân. Vũ lững thững đi vào xứ Mộng. Trong cõi mông lung của tiềm thức, từng hình ảnh xa lìa, khắc khoải bám riết lấy suy tư, xiết chặt thân phận Vũ vào chiếc nôi bằng tơ có móc đầy gai nhọn. Sự lìa bỏ bản thân, lìa bỏ thực tại phải được coi như những chứng tích, mỗi ngày mỗi nối hằn như vết roi định mệnh.

Hành trình vào thế giới thi ca của Vũ, người ta không thể không xuyên qua bản chất thực thể của Vũ với tấm lòng rộng mở, với ý hướng chói loà chiếu rọi vào mỗi dòng, mỗi chữ để cùng đau, niềm đau tâm sự! Vũ, mẫu người thơ đặc biệt, không giống với bất cứ thi nhân nào đã và đang có mặt. Vũ làm thơ để cất lên lời chào, tiếng khóc. Vũ làm thơ để trối trăng ý tình, để tiếp nối hơi thở gửi từ kiếp trước. Cái đau, Vũ khóc ngất trong thơ không phải cái đau của Huy Cận với “Chàng là con một người mẹ hay sầu. Nên trọn kiếp mắt chàng thường đẫm lệ”. Không, không, cái đau của Vũ cao rộng và siêu thoát. Nó có đấy, nhưng nó cũng vô vàn xa vời như chiếc bóng hồ ly, như tiếng nhạc lênh đênh dội từ cung Hằng thăm thẳm. Phong độ trong thơ Vũ là phong độ của cánh chim hồng hộc bay suốt vạn dặm dài, qua bao nhiêu không gian ước định. Thơ Vũ hiện diện như loài hoa quý, ngạo nghễ rung rung từng cánh mỏng cho phấn hương tan vào thinh không gửi đến mọi phương trời, mọi góc cạnh tâm tư đang chới với trong mê muội, trong dục vọng thấp hèn giữa cuộc sống buông trôi.

Hành trình vào thơ Vũ, mỗi con người tự cảm thấy lâng lâng như lạc vào giấc mơ kỳ thú. Thời gian, không gian xáo trộn, quỷ với người là tình nhân, gỗ đá cũng mặc áo linh hồn. Nhưng muốn hiểu thơ Vũ đến cùng, người ta phải tìm hiểu cả cái dòng sống phức tạp xuyên qua từng khía cạnh ngọt ngào và cay đắng, đã làm Vũ chết điếng sầu đau, tê rời cảm xúc.


Tình yêu và đam mê

Đi vào tình yêu là đi vào nguồn vui đau khổ. Từ khung trời hy vọng đổ sang vùng địa ngục tối tăm. Từ ánh mắt sáng ngời do lửa yêu đương thắp sáng đến nấm mộ u uất dựng lên giữa cõi sống như một sỉ nhục. Khuôn mặt người đàn bà mang tên Kiều Thu mà Vũ đã ôm ấp mười năm, mười năm nhen nhúm với ước vọng, với chờ đợi não nề, với dặm dài mệt mỏi. Kiều Thu, Kiều Thu hỡi! Người đàn bà may mắn đã được Vũ khóc trong thơ, đã được Vũ vuốt ve với vần điệu gấm nhung, đã được Vũ tôn lên ngai thờ Nữ Sắc, nàng có biết chăng, dung nhan đó đã trở thành bất tử. Người đàn bà ấy giờ đây đang có mặt ở phương nào, đang ẩn mình trong góc cạnh nào của cuộc sống, sung sướng hay khổ đau, đã già hay còn trẻ, hãy ngẩng mặt lên đón nhận nơi đây lời chúc tụng.

Tình yêu mà Vũ đã gửi tặng lầm nơi không phải thứ tình yêu qua nhanh như gió thổi, như lằn chớp ngang trời. Nó day dứt sượng sùng. Nó tái tê cuồng dại đến nỗi Vũ phải kêu la:

“Yêu sai lỡ để mang sầu trọn kiếp
Tình mười năm còn lại mấy tờ thư!”

Biết rằng thất bại và biết được giá trị khổ đau, Vũ muốn tìm quên bằng cách đắm chìm thân phận vào trời say, nhưng không được:

“Say đã gắng để khuây sầu lẻ gối
Mưa, mưa hoài rượu chẳng ấm lòng đau
Gấm thế nào từ buổi lạnh lùng nhau
Vàng son có thay màu đôi mắt biếc?
Tình đã rời đi riêng mình tưởng tiếc
Thôi rồi đây chiều xuống giấc mơ xưa
Lá, lá rơi nằm bệnh mấy tuần mưa
Say chẳng ngắn những đêm dằng dặc nhớ…”.
(Lá thư ngày trước, Mây)

Như thế đó, tình yêu đối với Vũ là hình phạt nặng nề hơn ân thưởng. Những khuôn mặt đàn bà đi qua đời Vũ, được Vũ nhắc đến trong tác phẩm, đều chập chờn như những bóng ma. Cô gái tóc vàng đến từ miền tuyết trắng hay ả ca kỹ nổi danh phòng Dạ-lạc cũng chỉ là hư ảnh. Vết thương tình ái làm Vũ nhức nhối đến bây giờ, trong buổi xế chiều của cuộc đời, vẫn là Kiều Thu. Nó là ung thư đục khoét ở chiều sâu cơ thể. Nó làm cho con người chết mỏi mòn vì ám ảnh, sầu đau. Vũ mang vết thương đó đi lang thang trên mọi nẻo đường đời như mang một số kiếp phụ thuộc.

“Trăng của nhà ai Trăng một phương
Nơi đây rượu đắng mưa đêm trường
Ở đêm tháng sáu mười hai nhỉ
Tố của Hoàng ơi hỡi nhớ thương…”

Ngày 12 tháng 6 là ngày người yêu sang ngang. Sự dứt bỏ này làm tổn thương đến danh dự người trai ngoài hai mươi tuổi. Nhưng nàng bỏ ta không phải là hết. Ta vẫn mê nàng. Ta là gã si tình ngàn kiếp:

“Tháng sáu mười hai từ đây nhé
Chung đôi từ đấy nhé lìa đôi
Em xa lạ quá đâu còn phải
Tố của Hoàng xưa Tố của tôi…”

Rồi Vũ thét ngất:

“Kiều Thu hề Tố em ơi
Ta đương lửa đốt tơi bời mái Tây
Hàm ca nhịp gõ khói bay
Hò Xừ Xang Xế bàn tay điên cuồng
Kiều Thu hề trọn kiếp thương
Sầu cao ngùn ngụt mấy đường tơ khô
Xừ Xang Xế Xự Xang Hồ
Bàn tay nhịp gõ điên rồ khói lên…”
(Mười hai tháng sáu, Mây)

Niềm bi thảm của tình yêu cứ kéo lê trong tâm linh Vũ như vết hằn khổ nhục. Khuôn mặt và vóc dáng người đàn bà đó đã gây nên ấn tượng khốc liệt làm Vũ choáng váng đến run sợ. Chính vì không đủ can đảm, Vũ chạy trốn thất vọng đi tìm đam mê để giết nỗi buồn dằng dặc. Vũ dìm đời mình vào dòng sông Mê khoái cảm. Vần điệu trong thơ Vũ ngất ngư như ủ say men khói, lãng đãng lạc vào cõi u huyền mộng mị.

Thi phẩm Mây chào đời năm 1943 là thi phẩm sáng chói nhất của Vũ, vì ở giai đoạn này, Vũ đã sống trọn vẹn với hơi thở thi ca, với quê Nâu lửa đóm bằng máu và hồn. Vũ thiêu dần thân xác chẳng những với ngọn dạ đăng chập chờn hoa bấc mà còn đắm say tiếng cầm ca, sênh phách rộn ràng trong từng đêm dài cửa Ô đau khổ. Vũ muốn xé tan thân phận mình và tiêu huỷ cái số kiếp bi đát để tìm về giải thoát, sự giải thoát nào đó có mầu nhiệm hay không, Vũ chẳng cần biết. Vũ nhìn chòng chọc vào cõi Hư Vô mong soi tỏ bản chất mình qua đốm lửa lung linh mờ ảo.

Ngày rồi đêm, khúc vui, cung buồn cứ đuổi theo nhau chạy luồn trong huyết quản Vũ để biến Vũ thành một tù nhân của đam mê vọng tưởng. Niềm thương nhớ chắc chẳng bao giờ nguôi, từng nỗi khắc khoải, phân vân hiện hình trong thơ Vũ như chứng minh sự buông thả lênh đênh của một tâm hồn đã quá no đầy oan nghiệt:

“Phơi phới linh hồn lỏng khóa then
Say nghe giọt nhựa khóc bên đèn
Mê ly cả một trời Đông Á
Sực tỉnh trong lòng nấm mộ đen…”.
(Hơi tàn Đông Á, Mây)


Ảnh hưởng và đối thoại

Tâm hồn Vũ là những sợi dây tơ được căng thẳng trên vòm trời ảo mộng. Một hơi gió, một chớp mắt, một va chạm cỏn con cũng đủ làm cho đường dây rung lên nức nở. Vũ treo cuộc sống của mình trên những sợi dây mong manh đó và để mặc cho âm hưởng reo vang tự đáy lòng cô độc. Vũ không nhìn vào cuộc đời có đây để tìm vị trí thực thể của mình. Vũ xoay mặt đối diện với quá khứ, đối diện với những ước mơ tự ngàn xưa xa vút. Sự đối diện này tạo cho Vũ niềm tin tưởng vì Vũ cho rằng đã tìm thấy ở vóc dáng dĩ vãng, cái-qua-rồi, hình ảnh bản thân hiện rõ trong lăng kính tâm tư. Vũ vẽ lại tiền thân bằng vần điệu. Cả một vòm trời nặng trĩu mây mù, Vũ dùng tâm linh chiếu sáng để nối lại đường dây giao cảm, để khoả lấp sai biệt của khoảng cách vô cùng rộng lớn. Vũ mơ giấc mơ thành bướm của Trang Chu và dõi theo từng bước chân khoảng khoát của Lý Bạch, Đỗ Phủ, Thôi Hiệu, Bạch Cư Dị. Vũ say mê bờ liễu Hàng Châu lả lướt, hoặc sóng nước xanh rờn vỗ bên Tầm Dương, hoặc nét nguy nga, cao trọng của lầu Hoàng Hạc ngàn năm sững bóng. Vũ chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền thi ca Trung Quốc thuở thịnh Đường và mê triết thuyết Vô Vi của Lão Tử. Cái “Có” cái “Không” phải chăng là mầu nhiệm? Đêm đêm Vũ thường đốt đèn lên trang sách hỏi người xưa về Ý Thức Huyền Vi để mong tìm ra lối thoát cho bản ngã, tài năng:

“Phải chăng muôn kiếp nặng nề
Từ Hư Không lại trở về Không Hư
Lẽ nào mộng cả thôi ư?
Người ơi! Giọt bể chứa dư tang điền…”
(Bài ca siêu thoát, Rừng phong)

Không tin vào giá trị của cuộc sống, Vũ nghiêng về hoài cảm. Từ hoài cảm tiến tới hờn giận sự hiện diện của thực tại nhức nhối, nhơ bẩn. Vũ vượt lên, thoát mình vào ảo giác, trộn lẫn cái “Còn”, cái “Mất”, cái “Có”, cái “Không” để đi vào quan niệm bi thương, giận dỗi. Vũ vẫy vùng trong mớ hư ảnh, kêu gọi từng hình thể xa vời trở về đối thoại.

Vũ cho rằng, cuộc đời hiện hữu không phải là chỗ đứng của mình nên thay vì đối thoại với người sống, Vũ trò chuyện với những vóc dáng mơ hồ chạy lởn vởn trong tiềm thức, hay ẩn hiện sau mỗi cơn say dài men khói. Từng chấm sáng lân tinh xoay quanh đốm lửa hắt hiu toả hương mê hoặc. Vũ gọi về tâm sự! Vũ dìu nhẹ thời gian trở ngược vòng vận chuyển. Vũ mơ về thời đại hoàng kim xênh xang nhạc ngựa, gỗ, đá giao duyên. Vũ đối thoại với linh hồn, ma quỷ bằng lời thơ tiếc nuối:

“Khí thiêng chừng sớm lìa nhân thế
Dương thịnh rồi chăng Âm đã suy
Quạnh quẽ thu phân thơ bặt tiếng
Lầu hoang chìm dấu cỏ hồ ly

Còn đâu thuở ấy niềm khăng khít
Quỷ với người chung một mái nhà
Trăng bạn, hoa em trầm mối lái
Đèn khuya dìu dặt bóng yêu ma…”
(Cảm thông, Mây)

Ma quỷ, Hồ ly đối với Vũ như những người bạn chí thiết. Vũ trao đổi tâm sự với chúng như trò chuyện với các danh nhân, cao sĩ. Vũ mặc áo linh hồn cho gỗ, đá, cỏ, cây.

“Ai đó – Phải chăng hồn cỏ cây
Bấc thơm dầu quánh nhựa hây hây
Dầu vơi bấc mỏng manh gây
Bước chân vào bợ ngợ
Hoa đèn lung lay…”
(Nửa truyện Hồ ly, Mây)

Nhưng niềm cảm khái của Vũ không nhất thiết phải đứng nguyên ở vị trí tiếc thương quá khứ với giấc mộng đẹp qua đi không bao giờ trở lại, đôi khi, nó vùng lên hào khí. Sự vùng lên để chứng tỏ một thái độ và cũng để tìm không khí mới cho cuộc đối thoại, vì đối thoại không hẳn là phải chung thuỷ với một lập luận, chính thực để hiểu thêm những điểm khác biệt với chính mình. Từ truyện người tráng sĩ Kinh Kha với đường gươm lỡ dở không thành việc lớn, với tiếng sáo u buồn của Cao Tiệm Ly tiếc thương người bạn đời, đến vị anh hùng ái vải đất Quy Nhơn đã làm đẹp lòng Vũ bằng vần điệu gieo vàng, chuốt ngọc.

“Hãy dừng lại thời gian
Trả lời ta! Có phải,
Dưới vầng nguyệt lạnh lùng quan ải
Dưới vầng dương thiêu đốt quan san
Lớp hưng phế xô nghiêng triều đại…
Mà chí lớn dọc ngang
Mà nghiệp lớn huy hoàng
Vẫn ngàn thu còn mãi
Vẫn ngàn thu người áo vải đất Quy Nhơn…”
(Bài ca Bình Bắc, Hoa Đăng)

Đó, tâm hồn Vũ rung lên từng cung bậc uyển chuyển, nhịp nhàng. Tình yêu, hồi tưởng, đam mê, đau khổ, hờn giận đã bủa vây dòng sông nội tâm Vũ, biến Vũ thành một biểu tượng đặc biệt trong thế giới thi ca hiện đại.


Niềm cô đơn và dung nhan

Mỗi con người là một hoang đảo, nếu không có sự liên hệ do cuộc sống tạo nên để ràng buộc nhau trở thành xã hội, quốc gia hay nhân loại. Từ thuở sơ sinh, thanh âm thứ nhất chào đời là tiếng khóc chứ không phải nụ cười. Cái vòng sinh, lão, bệnh, tử như mỗi dây oan nghiệt thắt chặt mỗi cá nhân vào nghiệp chướng không để ai thoát khỏi. Vũ vào đời với từng bước nhỏ nhẹ, với thân phận tiền oan. Màu áo xanh Tư Mã, Vũ khoác lên vai mỏng manh như một biểu hiệu cố định, đồng thời Vũ cũng mang luôn niềm cô đơn giữa đời sống – một đời sống nô vong – đang đuổi theo sự an hưởng vật chất trước mặt, hay gục đầu trong vũng lầy hoàn cảnh. Vũ ngẩn ngơ giữa cõi đời với túi hành trang chất đầy hoài vọng lẫn bi thương. Vũ hoài vọng đến một khung trời bỏ ngỏ có bướm vàng, lá thắm tình tự suốt bốn mùa giao hưởng, ở đây, con người được tự do trút bỏ mọi câu thúc hình hài, nhởn nhơ giữa muốn tiếng đàn ca, với thiên tiên vui múa Nghê Thường. Vũ có thể tâm sự trực tiếp với “gỗ danh sĩ”, “đá thuyền quyên” như thuở nào trái đất mới hình thành mầm sống. Nhưng Vũ đã sinh ra giữa thời đại cơ khí, giữa hoàn cảnh phức tạp của xã hội Việt Nam nô lệ, nên hoài vọng và niềm bi thương ấy bị dồn nén vào trong để kết tụ thành khối đau buồn dằng dặc. Vũ nhìn lên vòm cao rồi cúi mặt xuống đất. Vũ không tìm thấy lối thoát ngoài thi ca. Vũ cô đơn. Mọi cánh cửa đều khép chặt trước mặt. Ba chiều không gian đã đóng kín, Vũ đành đốt tâm tư để mở một chiều riêng cho mình. Ấy đó, niềm cô đơn mà Vũ đã mang trọn kiếp người bật khóc trong thơ:

“Ai biết gì đâu một cuộc đời
Nhớ thương hờn hận chẳng hề nguôi
Chẳng thương xuân sớm phai màu tóc
Chẳng nhớ mình đang sống kiếp người
Chẳng đắp non cao hờn chót vót
Chẳng thương mà biến hận đầy vơi
Hỏi chi sự nghiệp cùng thân thế
Sông núi – kìa xem – đã lở bồi…”
(Giấc mơ tái tạo, Trời một phương)

Từ hờn, hận Vũ đi vào bi phẫn:

“Ai đó mách giùm ta với
Quần gót thế nhân như đàn quạ kia chăng
Hay như mây cao đơn chiếc cánh chim bằng
Ấp úng cân đai hề trôi giam tài năng
Vỡ mộng buông câu hề kho trời gió trăng…”
(Tuý hậu cuồng ngâm, Mây)

Chính vì cô đơn quá đỗi nên Vũ bi quan, muốn rẫy bỏ nguồn sống đi tìm dung nhan cõi chết. Vũ phác hoạ cõi chết như một đổ vỡ toàn diện. Con người, sự vật mất hẳn. Ý thức về cõi chết là ý thức thực tế: mỗi người đều muốn có được cái chết yên lành cho riêng mình. Vũ không nghĩ thế. Vũ hình dung cõi chết như huỷ diệt, một tai nạn hãi hùng khủng khiếp với phi thuyền gãy lái, với trận lụt Hồng Thuỷ do cơn mưa đổ tự trời cao không bao giờ tạnh, hoặc cái chết do chính tim óc mình đòi ly khai với thể xác. Cõi chết mà Vũ tin rằng không ai được cứu rỗi dù Ma Vương hay Phật Như Lai, dù quỷ Sa-tăng hay Chúa Trời! Các vị thần linh đều bất lực vì cái chết này do chính con người tạo ra, con người phải chấp nhận hậu quả. Nói đến cái chết là nói đến niềm hoài nghi cuộc sống. Vũ nói về nó cũng tha thiết, cũng chìm đắm như nói chuyện yêu thương. Một đôi khi sự giả tưởng đưa suy nghĩ đi quá trớn, phóng đại ý nghĩa thực tế, mặc dầu trong thực tế có đôi lúc ngẫu hợp, nhưng nó không mang giá trị tuyệt đối. Nó cần thời gian và chứng nghiệm.

Vậy cõi chết Vũ hình dung thấy, phác hoạ ra, chỉ là ảo tưởng, nếu vạn nhất có thật, chắc chắn không phải là cõi chết con người thèm khát hay tình nguyện. Có chăng, nó chỉ liên hệ đến một mình Vũ với ưu tư thầm kín:

“Cả trái tim tôi
Cũng đòi biệt thế
Nó quyết đi tìm Thượng Đế
Trên con đường không giới hạn bằng tiếng khóc trong nôi
Và điếu văn trước mồ
Nó hy vọng sẽ đích thân làm nhạc trưởng
Đánh nhịp tưng bừng cho nước lửa hoà âm trắng đen hợp xướng
Cho bản đồng ca ảo tưởng
Hiện hữu vang lừng sân khấu Hư Vô…”
(Thản nhiên, Trời một phương)

Và cơn mưa không bao giờ tạnh:

“Còn mưa rồi sẽ đến vô cùng
Khối nước đè lên bẹp Thuỷ cung
Ngũ đại dương thành tên gọi hão
Năm châu vùi xuống đáy mồ chung”.
(Kiềm toả, Trời một phương)


Sự bừng tỉnh và ý thức khổ đau

Sau mấy chục năm đằng đẵng, Vũ ngụp lặn trong hoài vọng và ước mơ thảng thốt mong tìm siêu thoát. Hình ảnh quá khứ trôi lều bều với dư âm buồn thương lãng đãng ở cuối trời mộng tưởng. Vũ khóc đã khô cong nguồn lệ. Vũ ôm bên lòng một mối hận cùng tháng năm cách trở. Màu áo xanh năm trước đã tàn phai ý mùa Tư Mã. Bến Tầm Dương nào đó, lênh đênh dăm bảy con thuyền nát, vài nàng ca kỹ già của Bồ Tùng Linh thôi về dưới mái Liêu-Trai. Cảm thông ngàn xưa vướng mắc, Vũ bừng tỉnh và nhận thức cuộc sống với giá trị thực thể của nó đi theo nhịp tiến hóa. Vũ không phải sống, phải ăn, phải thở, phải chịu nhiều phiền muộn về vật chất như mọi người. Vũ đau đớn tháo gỡ từng mảnh xiêm tàn vấn vương tâm tưởng. Vũ nhìn thẳng vào cuộc sống ở mỗi góc cạnh suy tư. Vũ chấp nhận thực tại tức là Vũ đã nhìn rõ vị trí kiếp người. Do đấy, lời và ý trong thơ Vũ đã chuyển hướng. Nó trình bày những hình ảnh mới với thể thơ Nhị thập bát tú.

“Cánh tay đô thị vươn dài
Báo hoa cọp gấm tàn phai mộng rừng
Một thời hương sắc trên lưng
Đổ theo dòng suối rưng rưng bóng tà”
(Rừng hết mùa thiêng, Nhị thập bát tú, Tập 2)

Hoặc:

“Dấu mũ trên chữ A
Là chim bay lộn ngược
Trên nền giấy trắng bao la
Trùng dương dịu dàng in lấy bóng
Chim bay dìu mây bay…
....................
Hoả sơn cười sặc sụa
Rung chuyển vòng đai biển Thái Bình
Một lần nữa uốn cong lưỡi lửa
Ngùn ngụt thi nhau tập đánh vần
Một phụ âm và hai nguyên âm…”
(Khai sinh, Trời một phương)

Vần và ý thơ rất mới chẳng những đối với Vũ mà còn làm bỡ ngỡ người quen đọc Vũ với hàng thơ đẹp, reo vang như tiếng vó ngựa đập lưng đèo. Nhưng không phải cứ đổi mới, cứ thoát xác là xong nhiệm vụ, là tước bỏ được mặc cảm. Vũ càng đi sâu vào cái mới bao nhiêu thì niềm khổ đau lại dâng lên bấy nhiêu. Ý thức khổ đau không buông tha con người đã quá chiều ước vọng. Trong cõi mông lung của Vô Cùng, Vũ lại mập mờ nhìn thấy hình ảnh mình thất thểu trên tấm màn vân cẩu. Thời gian cứ trôi bình thản theo nhịp chuyển dịch của Vũ Trụ. Con người cứ mòn mỏi theo tháng năm vô nghĩa. Sự góp mặt tạm bợ này Vũ đã biết, đã suy luận về nó rất nhiều. Bởi vậy, Vũ vẫn coi nguồn khổ não như ân sủng thiêng liêng và giá trị cõi sống không sao thoát được vùng kiềm tở của bẩy dây tình oan nghiệt. Vũ đối diện với lửa bấc hằng đêm để soi tỏ bản thân trước số phận con người lê thê bào ảnh. Vũ uống từng giọt mật đắng chảy qua tâm trí, ngấm vào huyết quản làm khô dần ý sống. Vũ giận dỗi, vùng lên nắm chặt lấy khổ đau mà nguyền rủa. Nhưng tiếng thơ oán hờn vẫn vang lên nhịp điệu thê thiết ngàn kiếp không phai:

“Đo màu mây sớm nét mưa chiều
Đo cả hơi đàn cả tiếng tiêu
Con số ra tay đè nén mãi
Con người phận mỏng đến bao nhiêu”.
(Phương trình số phận, Nhị thập bát tú, Tập 2)

Con người phận mỏng lắm nếu đem so với phương trình vũ trụ. Con người chỉ là “hạt cát bên sông Hằng”, cái chớp mắt, cái vi-ti-sinh-vật đối với thế giới bên ngoài. Khoa học đã chứng nghiệm sự thực bằng phát minh, bằng con số bắt mọi người chấp nhận. Vũ tức giận sự lũng đoạn của khoa học trong địa hạt tâm linh, chính vì vậy, Vũ phải mang ý thức khổ đau, có lẽ, tới khi vắng mặt!


Tiếng thở dài và ý niệm giải thoát

“Từ khi trái đất ra đi
Lệ chia phôi đã xanh rì trùng dương…”

Thơ Vũ là tiếng thở dài của phương Đông trầm mặc. Tiếng thở dài đó cất lên giữa vòm trời rất đỗi buồn thương, ray rứt trong mỗi vần điệu. Sau những cố gắng đi tìm cho chính mình luồng sinh khí mới, nếp suy cảm mới, rốt cuộc, tiếng nói của Vũ vẫn nguyên vẹn là niềm u uất, mệt mỏi, chán chường! Vũ muốn dìm chết dĩ vãng trong Trời-Quên-Lửa-Khói, nhưng sau mỗi cơn say tự dưới đáy vực, Vũ cảm thấy tâm hồn mình càng lún sâu xuống Địa-Ngục-Quá-Khứ. Nó quật ngã Vũ lúc nào nó muốn. Nó là định mệnh. Nó bám riết lấy Vũ với dằn vặt trường miên, với hờn thương vô độ. Nó nhập vào thơ Vũ. Nó chứng minh sự phai tàn của một thế hệ. Nó ghi dấu thời gian như vết xe lướt qua mặt đường lầy lội. Thật vô ích và xiết bao đau đớn, đêm đêm nhìn nhớ thương toả dài theo lửa khói ròi chìm lắng vào Hư-Vô câm tiếng.

Thơ Vũ là cơn đau đứt nối với số phận riêng lẻ. Thơ Vũ không chuyên chở những món hàng hợp thời trang cùng chân dung thê thảm của chiến tranh có đây, hoặc tỏ bày thái độ trước cuộc đời hôm nay. Thơ Vũ đơn côi giữa nguồn sống đang dâng trùng trùng lớp lớp. Chính vì thế thơ Vũ tồn tại.

Niềm chia ly cách trở do núi sông, nhân thế cộng với tháng năm tủi nhục, Vũ đi tìm vùng an nghỉ cho tâm linh. Vũ muốn được giải thoát bằng ý niệm siêu hình, bằng cách phóng hồn vào hư-không-tuyệt-đối. Vũ đi tìm Đạo. Vũ muốn dứt bở cái xác phàm hệ luỵ bởi cơm áo, yêu thương, hờn giận này đi. Cõi sống làm Vũ chán ngán. Vũ đã uống nó đau khổ, hút say phiền muộn! Cuộc đời nào đó có gì cho ta mong đợi?

“Bụi đỏ phai màu nhân sự
Trang đạo lý thơm tho từng nét chữ
Mười ngón tay dan díu cõi Vô hình
Xác tục lâng lâng chờ cơn gió hiển linh
Ai xưa quên ngày tháng hát vong tình
Kìa phương Nam, hoa nở ngát lời kinh
Dằng dặc trầm luân mấy độ
Thuyền ta trôi hề ý ta bay
Sương in bóng nguyệt không mà có
Hay có mà không nhỉ gã say?”…
(Bài ca siêu thoát, Rừng phong)

Ngọn lửa Từ Bi cháy ngùn ngụt giữa đường nhân thế làm sáng ngời cửa Phật, soi đường cho Vũ tìm thấy chân lý cuộc đời. Vũ dâng hiến linh hồn mình cho đấng Thích Ca, cho cõi Vô-Cùng-Siêu-Thoát. Từ lâu, Vũ nghe được tiếng cá thở than, hôm nay, Vũ đã sõi tiếng rừng cây, Vũ chỉ chờ ngày hiểu được bề sâu của lòng đất là thoả nguyện ước mơ cuối đường.

“Nghe được từ lâu cá thở than
Hôm nay mới sõi tiếng cây ngàn
Bao giờ tôi hiểu sâu lòng đất
Là thấy đường lên cõi Niết Bàn”.
(Nhị thập bát tú, Tập 2)

Là đây, niềm hoài vọng của con người Thơ qua bao nhiêu hệ luỵ giờ đây còn lại người gì? Cuộc đời có, không, không, có, nào ai biết được, hay cũng chỉ như:

“Ca trùng lửa đóm
Cũng hoàn phản hư không dù lăng ngà cỏ khâu…”
(Tụng kinh kha)

*

Cách đây 27 năm, vào buổi tối đầu thu, thành phố Hà Nội vừa lên đèn. Gió từ bờ Hồng Hà thổi nghe thấm lạnh. Những chiếc lá đầu mùa đã thả xuống lề đường làm duyên cho thành phố. Nguyễn Đức Nùng, người bạn cùng trường đưa tôi đến gặp Vũ Hoàng Chương tại một căn nhà cổ, sau đến Bà Kiệu. Đến nơi tôi gặp thêm Đinh Hùng, Lê Trọng Quỹ cùng vài ba bạn khác. Căn nhà thấp, rất thấp, tối om om. Đó đây từng ngọn dạ đăng cháy lập lờ không soi tỏ mỗi khuôn mặt. Tôi được giới thiệu với Vũ và các bạn. Hình ảnh đầu tiên ghi nhận ở Vũ, đến hôm nay còn in rõ trong tôi như vết tích không phai với thời gian, đó là một thanh niên mảnh mai chìm khuất dưới bộ bà ba trắng đã ngả màu, nằm nghiêng bên ngọn dạ đăng ma quái. Vũ đưa mắt nhìn tôi mà tôi tưởng như Vũ nhìn vào khoảng trống. Đôi mắt ấy toát ra ánh sáng kỳ lạ. Nó lóe lên giống tia chớp rồi vụt tắt giữa màu mây nặng trĩu hơi mưa. Vũ nằm bất động như thiếp vào cơn mơ bỏ dở. Hương nha phiến chập chờn quyến rũ. Lát sau nghe chừng đã hả cơn say, Vũ mời tôi vào thăm quê Nâu. Tôi từ chối. Vũ nhếch môi cười – “Toa” không chịu vui với anh em thì đến đây làm gì? Tôi định trả lời, tôi đến vì mê thơ chứ không vì mê khói. Nhưng Nùng đã vội nói – “Moa” biết, nó chỉ thích thể thao và con gái thôi. Mặc nó! Tôi bẽn lẽn ngồi như cậu bé bị kể tội. Lê Trọng Quỹ nằm gần đây, cất tiếng ngâm thơ. Giọng ngâm của Quỹ sang sảng, ấm lạ thường. Tiếng thơ dìu theo khói thuốc gây cho tôi ấn tượng là lạ vì chưa một lần được biết. Quỹ ngâm bài “Mười hai tháng sáu” trong tập Mây của Vũ, do nhà Đời Nay vừa xuất bản. Chính thi phẩm này đã đưa Vũ lên tột đỉnh của trời Thơ thuở ấy. Vũ gõ que sắt vào thành chén giữ nhịp, đôi mắt nhắm lại như không muốn thấy sự vật xung quanh. Tôi biết Vũ đang trở vào giấc ngủ mười năm lỡ dở. Tiếng ngâm của Quỹ vút lên nhưng bị ngăn trở bởi kích thước không gian nhỏ hẹp nơi đây nó dội lại, trở thành chua chát, não nề. Tôi choáng váng rồi thoát mình nhập vào không khí cuồng say lúc nào chẳng biết.

Từ buổi ấy, chúng tôi là bạn. Chúng tôi thường gặp nhau, nhưng không một lần, Vũ mời tôi chung say nữa. Tôi mê thơ Vũ đến nỗi thuộc hết tập Mây lúc nào không hay. Tôi còn thích Vũ ở lối ăn mặc đặc biệt. Vũ thường mặc áo gấm màu lam, đi giày ta, mang khăn xếp, tay cầm quạt và luôn luôn có đem theo cuốn Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh bằng chữ Hán. Vũ đi thất thểu, chậm rãi với phong độ nho gia. Sau đó ít lâu Vũ về quê nhà ở Nam Định.

Bẵng đi một dạo, cho tới năm kháng chiến thứ ba, tôi mới gặp Vũ tại Đống Năm thuộc tỉnh Thái Bình, nhân buổi họp mặt Văn Nghệ. Vũ vẫn thế, chiến tranh không làm Vũ đổi thay từ bản thân tới suy nghĩ. Chiếc áo gấm năm xưa đã phai màu gió bụi trường chinh, nhưng phong cách Vũ vẫn y nguyên. Trong thời gian ấy, Vũ làm thơ một phần để tỏ bày thái độ, một phần để nguôi ngoai tâm sự.

“Mới hôm nào gác Dì Năm
Lời thơ ai đẹp tiếng cầm ai say
Tang thương một cuộc ai bày
Giấc Thiên Thai để trắng tay Lưu Thần
Xa Cố đô vắng cố nhân
Trái tim mềm trĩu hai lần nhớ thương…”

Lần này chính Vũ ngâm cho tôi nghe trong một quán nước bên bờ đê. Giọng ngâm của Vũ ấm đục, thê thiết như vướng nghẹn bởi sương khói quê Nâu. Vũ ngâm thơ như khóc, như hờn tủi, như cơn đau xé ruột.

Qua những giờ giao cảm ngắn ngủi đó, chúng tôi lại chia tay với bùi ngùi cách trở, kháng chiến vẫn kéo dài bước chân tuổi trẻ.

Đến năm 1951, chúng tôi lại thấy nhau ở Hà Nội. Vũ cho biết đang viết vở kịch thơ Tâm sự kẻ sang Tần. Trong vở kịch thơ này Vũ đã gửi gấm tâm sự mình không ít xuyên qua nhân vật Cao Tiệm Ly. Vũ đã viết 6 vở kịch thơ, mới in 4 và 14 thi tập. Trong số có tập Cảm thông do Nguyễn Khang dịch sang Anh ngữ và Nhị thập bát tú được Simone Kuhnen de la Coeuillerie dịch sang Pháp ngữ với lời tựa của thi hào Ý Lionello Fiumi, cùng một tuyển tập cũng do S.K. de la Coeuillerie dịch với minh hoạ của Suzanne Bomhals và phụ bản của Ysabel Beas. Cuốn Tuyển tập được giáo sư André Guimbretière đề tựa. Thơ Vũ đã vượt biên giới để hoà mình với thi ca thế giới.

Nhưng viết về Vũ mà bỏ quên hình ảnh người đàn bà mang tên Oanh – người bạn đời của Vũ – kể như thiếu sót. Người đàn bà ấy nổi danh tài sắc một thời – đã cùng lênh đênh, chìm nổi theo số phận Vũ. Người đàn bà ấy có tình thương yêu vô lượng, có sức chịu đựng phi thường. Sự nghiệp của Vũ hôm nay được thành quả, một phần cũng bởi lòng hy sinh cao cả và ý chí sắt son của tâm hồn khả kính ấy. Trong suốt mười mấy năm thi phẩm, Vũ chỉ nhắc đến tên Oanh có một lần, trong tập Hoa đăng. Nhưng thật ra, bóng dáng ấy phảng phất có mặt trên mọi trang thơ vì nó đã dính liền vào thịt da, vào huyết mạch Vũ từ lâu rồi. Vũ rất nhạy cảm nên dễ giận hờn. Thực phẩm trần gian quá đắng cay, Vũ phải ẩn nấp vào trời Mây để tìm hương vị ngọt ngào cho cuộc sống riêng tư.

Việc nhận diện Vũ Hoàng Chương không mấy khó. Cái khó là viết về người bạn thân. Tôi băn khoăn, phân vân trước khi viết vì tự nghĩ mình không đủ sáng suốt để tìm hiểu Vũ với cái nhìn vô tư chăng?

Nhưng đến lúc này, tôi cảm thấy vơi nhẹ đôi vai.



Trích thơ Vũ Hoàng Chương
Nửa truyện hồ ly

Giàn dưa mưa lất phất
Mênh mông sầu xứ đêm dài
Hư vô động tiếng giày ai
Mình ta buồn dặc dặc
Say giữa hai tờ Liêu Trai
Rún rẩy hoa đèn rung ngọn bấc
Không gian đàn mãi tiếng giày ai
Dầu cạn lưng chừng phao
Sợi nhỏ thon mềm dáng liễu
Hài son phơi phới lửa đào
Khói biếc màu xiêm yểu điệu
Ai đó – phải chăng hồn cỏ cây
Bấc thơm dầu quánh nhựa hây hây
Dầu vơi bấc mỏng manh gầy
Bước chân nào bợ ngợ
Hoa đèn lung lay
Ai đó – phải chăng hồn cỏ cây
Mộ vắng lầu hoang ngơ ngác sợ
Cùng đêm nương về đây
Nửa truyện Hồ Ly trang sách giở
Lung linh tiếng giày.


Dâng tình

Bốn trời sương lạnh
Đường xanh bóng trăng
Lửa đào lung lay phất phới
Thi nhân ôi xin dừng bước lại
Đây Hàng Châu thường mơ ước đêm Hoa Đăng
Đêm Hoa Đăng đường xanh bóng trăng
Đêm Hoa Đăng đèn quanh lối xóm
Đây cầm ca người mộng gái xưa Kim Lăng
Hãy dừng đây Chàng Say
Mà điên cuồng lơi lả
Đón muôn đời thanh sắc ngã trong vòng tay
Nhịp trúc buông khoan
Sóng tơ dồn chậm
Môi nồng tươi da mịn ấm
Liễu xinh xinh thoa dáng liễu cong đôi nét mày
Lũ chúng em chờ Chàng qua chín kiếp
Tình giang hồ phong nhuỵ vẫn nguyên hương
Rượu dâng nồng đây son phấn mười phương
Khói lên biếc và đây hồn tứ xứ
Trên cánh Nhạc đê mê Chàng hãy ngự
Đàn tơ mây theo phách gỗ trầm hương
Nhịp lời ca lơi lả bóng nghê thường
Âm điệu sẽ ru Chàng say đến cuối
Lũ chúng em ca nhi
Đón dâng Chàng một buổi
Nỗi yêu mê cuồng dại nén từ lâu
Rồi mai đây Chàng rong ruổi
Thuyền buộc sông mưa
Ngựa dừng trăng khuyết
Tình nhân thế chua cay người lịch duyệt
Niềm giang hồ tan tác lệ Giang Châu
Xin bẻ thuyền quay hướng
Xin giục ngựa quay đầu
Về cùng chúng em
Buồng xuân chờ cửa ngỏ
Khóm trúc đợi xanh màu
Họp cùng chúng em
Có nàng tiên má hồng nâu
Giúp đôi cánh biếc dâng sầu lên khơi
Hãy dừng đây Chàng Say ơi
Cùng lận đận bên trời một lứa
Đêm Hoa Đăng vắng chàng thoi thóp lửa
Tiếng đàn xênh rời rạc khúc Thiên Thai
Hãy dừng đây sương gió lạnh bên ngoài.


Một phút ngừng say

Bấc trĩu hoa đèn nhựa úa nâu
Phai say nằm khóc mộng ban đầu
Bước chân song sóng vòng tay mở
Dạo ấy người xưa xa lắm đâu
Chớm nụ tiếc cho tình quá ngát
Mà thương trời bể quá cao sâu
Tiếc thương lẻn khói vào tâm trí
Mưa gió tàn đêm lộng quán sầu.


Lá thư ngày trước

Yêu một khắc đế mang sầu trọn kiếp
Tình mười năm còn lại mấy tờ thư
Mộng bâng quơ hò hẹn cũng là hư
Niềm son sắt ngậm ngùi duyên mỏng mảnh
Rượu chẳng ấm mưa hoài chăn chiếu lạnh
Chút hơi tàn lay lắt ngọn đèn khuya
Giấc cô miên rùng rợn nẻo hôn mê
Gió âm tưởng bay về quanh nệm gối
Trong mạch máu chút gì nghe vướng rối
Như tơ tình thắc mắc buổi chia xa
Ngón tay run ghì nét chữ phai nhoà
Hỡi năm tháng hãy đưa đường giấc điệp
Yêu mê thế để mang sầu trọn kiếp
Tình mười năm còn lại chút này đây
Lá thư tình xưa nhớ lúc trao tay
Còn e ấp thuở duyên vừa mới bén
Ai dám viết yêu đương và hứa hẹn
Lần đầu tiên ai dám ký “Em Anh”
Nét thon mềm run rẩy gắng đưa nhanh
Lòng tự thú giữa khi tìm trốn nấp
Mươi hàng chữ đơn sơ ô ngượng ngập
E dè sao mươi hàng chữ đơn sơ
Màu mực xanh tươi ngát ý mong chờ
Tình hé nụ bừng thơm trong nếp giấy
Ôi thân mến nhắc làm chi thuở ấy
Đêm nay đây hồn xế nẻo thu tàn
Khóc chia lìa ai níu gọi than van
Ta chỉ biết nằm nghe tình hấp hối
Say đã gắng để khuây sầu lẻ gối
Mưa mưa hoài rượu chẳng ấm lòng đau
Gấm the nào từ buổi lạnh lùng nhau
Vàng son có thay màu đôi mắt biếc
Tình đã rời đi riêng mình tưởng tiếc
Thôi rồi đây chiều xuống giấc mơ xưa
Lá lá rơi nằm bệnh mấy tuần mưa
Say chẳng ngắn những đêm dằng dặc nhớ
Trăng nào ngọt với duyên nào thắm nở
Áo xiêm nào rực rỡ ngựa xe ai
Đây mưa bay mờ chậm bước đêm dài
Đêm bất tận đêm liền đêm kế tiếp
Yêu sai lỡ để mang sầu trọn kiếp
Tình mười năm còn lại chút này thôi
Lá thư xưa màu mực úa phai rồi
Duyên hẳn thắm ở phương trời đâu đó.


Mười hai tháng sáu

Trăng cửa nhà ai trăng một phương
Nơi đây rượu đắng mưa đêm trường
Ờ đêm tháng sáu mười hai nhỉ
Tố của Hoàng ơi hỡi nhớ thương

Là thế là thôi là thế đó
Mười năm thôi thế mộng tan tành
Mười năm trăng cũ ai nguyện ước
Tố của Hoàng ơi Tố của Anh

Tháng sáu mười hai từ đấy nhé
Chung đôi, từ đấy nhé lìa đôi
Em xa lạ quá đâu còn phải
Tố của Hoàng xưa Tố của tôi

Men khói đêm nay sầu dựng mộ
Bia đề tháng sáu ghi mười hai
Tình ta ta tiếc cuồng ta khóc
Tố của Hoàng nay Tố của Ai

Tay gõ vào bia mười ngón rập
Mười năm theo máu hận trào rơi
Học làm Trang Tử thiêu cơ nghiệp
Khúc Cổ Bồn Ca gõ hát chơi

Kiều Thu hề Tố em ơi
Ta đang lửa đốt tơi bời Mái Tây
Hàm Ca nhịp gõ khói bay
Hồ Xừ Xang Xế bàn tay điên cuồng

Kiều Thu hề trọn kiếp thương
Sầu cao ngùn ngụt mấy đường tơ khô
Xừ Xang Xế Xự Xang Hồ
Bàn tay nhịp gõ điên rồ khói lên

Kiều Thu hề Tố hỡi em
Nghiêng chân rốn bể mà xem lửa bùng
Xề Hồ Xang khói mờ rung
Nhịp vươn sầu toả năm cung ngút ngàn.


Tuý hậu cuồng ngâm

Ôi lòng ta sao buồn không nguôi
Niềm u uất dâng cao hề tháng ngày trôi xuôi
Há vì cơm áo chẳng no lành
Há vì đời không mắt ai xanh
Nhớ thuở không có ta hề đường đi thênh thênh
Kịp khi có ta hề chông gai mông mênh
Cuồng vọng cả mà thôi bốn phương hề vướng mắc
Ba mươi năm trên vai hề trống không bình sinh
Lều nát hề trơ trơ ngõ mưa lầm lội
Trăng lạnh đèn mờ hồn đơn hề le lói
Đọc truyện cố nhân hề lòng ta quặn đau
Gió bụi xôn xao hề thương vay người sau
Càng xót thân mình vô dụng
Thiên hạ chê bai hề lạc nẻo sang giàu
Ta chỉ tiếc cho thân hề vô duyên bấy lâu
Bá Nhạc đời không ai hề ngẩn ngơ vó câu
Gươm sắc uống cho gươm hề Phong Hồ có đâu
Ai đó mách giùm ta với
Quần gót thế nhân hề như đàn quạ kia chăng
Hay như mây cao đơn chiếc hề cánh chim bằng
Ấp úng cân đai hề trói giam tài năng
Võ ruộng buông câu hề kho trời gió trăng
Ôi đường gai góc là bao hề sóng cồn mặt bể
Thương cho tay lái non hề con thuyền lao đao
Tiếc cho cơ hội muộn hề chặt gai được sao
Lá úa cành khô thu đông hề nối gót
Chuếnh choáng giang san hề còn say hát ngao
Mây hồng tím phương tây hề tà huy thoi thóp
Đời sắp tàn chăng hề bấc lu dầu hao
Ngõ hẹp giường tre giấc mơ hề chới với
Thôi hết mùa tươi
Hết thôi chờ đợi
Rượu hề rượu hề giùm quên nhé ngươi

Sao lòng ta đêm nay buồn không thể nguôi
Niềm u uất dâng cao hề tháng ngày trôi xuôi.


Nguồn: Tạ Tỵ. Mười khuôn mặt văn nghệ. Nam Chi xuất bản lần thứ nhất, tác giả trình bày hoạt hoạ. Ngoài những bản thường có thêm 5 bản đặc biệt trên giấy Ngân Nhũ mang chữ T.T., L.N.. – P.T.Đ., C.T., và V.T.H., 100 bản trên giấy Bạch Ngọc mang số từ T.T. 001 tới T.T. 100, dành cho bạn hữu. In xong tại Kim Lai ấn quán ngày 1 tháng 8 năm 1970. Giấy phép sở P.H.N.T. số 621 BTT/PHNT ngày 19 tháng 2 năm 1970.

Tạ Ký - Sầu ở lại ( 2 )

Tạ Ký


Sầu ở lại


Mưa đầu thu

Hoa cúc bao giờ mới nở đây?
Trời run nhè nhẹ dáng thu gầy,
Tương tư bờ cúc vàng lưng giậu,
Sông rộng thêu hình đôi bóng mây.

Cầu vắng bâng khuâng bước học trò,
Dăm tà áo trắng dệt thêm mơ.
Chiều nay nắng chở buồn không hết,
Thu chớm thu rồi, thơ chớm thơ.

Duyên ngập ngừng duyên buổi hẹn đầu,
Không cần lành lạnh mới thương nhau.
Cớ sao sương khói đìu hiu quá,
Thu đến ai người khóc chuyện Ngâu?

Chim nhỏ không buồn nhảy giậu thưa,
Thời gian chừng chuyển điệu sang mùa:
Mây chao, nước lạnh, thuyền im bến,
Rời rạc đầu thu đôi giọt mưa.

Lệ ở trên trời, mưa thế gian,
Tình xưa còn lại nửa cung đàn.
Mái tranh thánh thót niềm tương biệt,
Thư viết chưa hề gửi cố nhân.


Câu chuyện mười năm

Mười năm qua tỉnh giấc mộng sông hồ,
Nghiêng mái tóc soi trên dòng mắt nhỏ,
Kẻ thư sinh gối đầu trang sử cũ,
Tính đốt tay lòng lạnh chuyện keo sơn,
Thời loạn ly chợp mắt đã cô đơn!
Những bước chân qua nghìn trùng sông núi,
Cuốn dây thép gai, mơ về Hà Nội,
Đồn, đêm đông, phừng phực lỗ châu mai!
Ôi chàng trai từ mười mấy năm xưa,
Máu, liếm thử, mặn như là nước mắt!

Ai khóc đâu nào? Cái gì đã mất?
Tháng ngày trôi chậm chạp gót đưa ma.
Cô em xưa trong trắng tuổi mười ba,
Mười sáu tuổi cười trong cơn thác loạn,
Hai mươi tuổi… cánh dơi nào quái đản
Trùm thời gian, nhốt úp cả không gian,
Nhấn phím chưa xong đứt phựt dây đàn!
Trang loạn sử chép thêm nhiều chuyện lạ,
Chắp đôi tay gầy nguyện cầu Cao Cả,
Dòng Tin Yêu cạn rốc tự bao giờ!

Chập choạng bóng hình qua những vần thơ,
Khép mi lại, màu xanh vừa thoáng hiện
Màu mắt người yêu hay màu nước biển?

(Tặng Xuân Ái)


Rưng rưng

Đôi nàng hoa nhớ bướm
Rưng rưng giọt sương mai
Gió tình đem ý ướm
Lảo đảo lệ tuôn dài.

Bát trời bao la lắm
Sao ngọc lạnh rưng rưng
Mây thưa che chẳng ấm
Đôi giọt rớt lưng chừng.

Sáo ai run nức nở
Mi tiên hồng tương tư
Bàn tay ngà bỡ ngỡ
Lật từng trang tình thư.

Mắt huyền rưng rưng lệ
Nàng úp mặt xuống bàn,
Thơ tình gieo lạc điệu
Rưng rưng lòng thi nhân.


Đếm sao

Ngày suối biếc cười rằng nai ngớ ngẩn,
Ngày hoa rừng nở lấp ánh sao đêm,
Ngày chim hót, cỏ cây buồn vớ vẩn,
Đó là ngày vừa mới được quen em.

Hội thảo đã đủ đầy chim với suối,
Cây nhìn trời, sao cúi xuống lưng nai,
Nước trong vắt coi chừng đau sỏi cuội,
Em của anh chừ, ai của ngày mai?

Trong tiếng gió, nghe chừng hoa trách móc:
"Hương dù bay, lòng gió vẫn vương hương".
Trong tiếng suối, nghe chừng hoa muốn khóc:
"Suối dù tuôn, hoa vẫn đẹp như thường!"

Ngày mái tóc không còn xanh được nữa,
Ngày đôi tay thôi dệt mộng phù hoa,
Thì em sẽ vì anh mà mở cửa
Trông lên trời, đếm những điểm sao xa.

(Tặng Cam Duy Lễ)


Bài thơ dễ hiểu

Tôi viết cho anh
Bài thơ dễ hiểu,
Đây không mắt xanh,
Tóc không là tơ liễu,
Không cầm ca não nuột bến Tầm Dương,
Không mộng xa vời những chuyện mười phương,
Không bóng dáng hồ ly, không má thắm,
Không cuộc tình duyên nửa chừng thông cảm.

Bài thơ tôi
Nói chuyện yêu đời,
Vì bài thơ đẹp, anh ơi!
Chỉ là nói được những lời của anh.
Anh yêu đất hiền lành,
Yêu con trâu, cái cuốc,
Yêu đàn con lem luốc,
Yêu đồng lúa xanh xanh…,
Lời thơ đẹp tựa tâm tình:
"Hôm qua tát nước đầu đình,
Bỏ quên cái áo với cành hoa sen".
Dạo nào gió lên,
Đời anh chuyển hướng,
Bờ tre tan tành,
Máu loang bờ ruộng,
Nhà thân yêu lửa đốt ra tro.
Còn anh bữa đói, bữa no,
Vợ anh sớm bến, chiều đò gian nan.
Anh thề chịu cực làm dân,
Còn hơn sung sướng làm quân quên thù!

Thơ tôi không chép,
Những vần âm u,
Tay anh rắn chắc
Xây đời tự do.
Mồ hôi hòa với vần thơ đẹp:
Mong được ngày mai sống ấm no.
Bài thơ dễ hiểu
Viết đầu mùa thu,
Gieo không lạc điệu,
Lòng không rã rời.

Những vần thơ loạn, anh ơi!
Làm sao ăn nhịp với lời thơ anh.
Nhạc điệu kinh thành
Điên cuồng, ủy mị,
Áo tôi đứt chỉ
Vải nhạt màu xanh,
Một bài thơ rất hiền lành,
Đọc lên giữa lúc tan tành núi sông!
Ngày mai trời lại ửng hồng,
Đất, Thơ thành vợ, thành chồng với nhau.


Có lẽ nào không viết khúc thơ vui

Có lẽ nào không viết khúc thơ vui?
Hoài hoa xưa ngày tuổi chớm ba mươi,
Một cánh bướm đâu dám theo người trước,
Nửa mảnh trăng suông chìm sâu đáy nước,
Nghìn thu sau còn lại chuyện nghìn thu.
Có kẻ rong chơi sông nước Ngũ Hồ,
Có kẻ sang sông đi vào Đất Chết,
Khúc phượng-cầu-hoàng cuốn theo mắt biếc,
Còn Mái Tây khắc khoải khói hương sầu,
Sóng tóc Ngu Cơ gờn gợn vó câu…

Thuyền vẫn chở những tài hoa bạc mệnh!
Ai bói cỏ thi tìm cơ hưng thịnh?
Có lẽ nào không viết khúc thơ vui?
Ơi ai ơi, một giáp đã qua rồi,
Từ khói lửa… chuyện lại xưa em nhỉ?
Trơ trẽn phường gian, dạn dày gái đĩ,
Núi vàng cây, sông cạn nước, đau lòng!
Những đào hoa không đợi tiếu đông phong,
Buồn thay nhỉ, chi nghênh nam bắc điểu!
Một dải giang sơn nhịp cầu vẫn thiếu,
Nhớ nhung rồi năm dáng cửa ô xưa,
Những chiều qua Hà Nội tím mong chờ!
Gươm báu, rùa thiêng, nỡ nào quá khứ,
Lừa lọc, đảo điên, một bầy thú dữ
Xua nhau về sống lại thuở nguyên khôi
Nên Thiên Đường đổ vỡ khắp muôn nơi!
Ôi những cô em vừa trăng mười sáu,
Ô nhục xác hồn, thù mờ tinh đẩu,
Những chàng trai giẫy giụa giữa hai mươi,
Dòng biên giang sằng sặc giọng ai cười!

Có lẽ nào không viết khúc thơ vui?
Những bàn tay của lứa tuổi đang tươi
Xin góp nến để đêm dày được thắp,
Hoài vọng mười phương tuy rằng cao thấp
Mà cùng yêu tha thiết mảnh trời xanh,
Mà cùng say gõ nhịp khúc đăng trình.
Đi dựng đời tươi cho em mười sáu
Cho môi thắm son, cúc vàng lưng giậu,
Cho tài hoa khỏi lụy nợ đa cùng,
Cho đào hoa y cựu tiếu đông phong,

Mắt biếc bồ câu không là suối lệ,
Người anh phong trần cùng cô em bé
Dắt tay nhau về lại mái nhà xưa,
Có dòng sông và có tiếng ai cười.

(cho Thạch Thái)


Hẹn một ngày mai

Chuyện đời nhạt mộng, phai thơ,
Tương tư ngàn kiếp thương vờ, khóc lây.
Ai buồn vì chiếc lá bay,
Ai vui chi cảnh đọa đày ai ơi!
Ai nâng tiếng sáo tuyệt vời,
Ai say tiếng súng cho đời khổ đau?
Ngàn năm trước, vạn năm sau
Nghĩa gì nếu chẳng thương nhau hỡi người!
Máu xương là chuyện để cười,
Thì đâu máu chảy, xương rơi mấy mùa.

Bảo rằng được với rằng thua,
Con sông chia cách chưa vừa đấy ư?
Bên kia có một mùa thu,
Bên này ta cũng có dư lá vàng.
Bên kia tan nát xóm làng,
Bên này phấn mốc, hương tàn khác chi!
Ngồi buồn tính chuyện ra đi,
Núi ngăn, sông đón, ngại khi trở về.
Nhớ xưa có kẻ đã thề,
Mà nay đôi lứa đôi quê cực lòng.

Dài dằng dặc những đêm đông,
Trôi qua vùn vụt những dòng xuân tươi,
Héo hắt lắm những môi người,
Và vô duyên quá nụ cười cố nhân
Vu vơ nhớ chuyện xa gần,
Giật mình: đời đã mấy lần sang ngang.
Mẹ già côi cút dưới làng,
Em yêu trên phố, hai đàng tâm tư.
Bao giờ hoà dịu tiếng thu,
Cho hoa kết trái, cho mù hoá mưa.

Có chợ sớm, có đò trưa,
Có cô em bé tiễn đưa lên đường,
Có buồm căng gió mười phương,
Có mắt phố phường, có má thôn quê,
Có đi mà cũng có về,
Có vạn lời thề sẽ giữ sắt son.
Bờ tre xanh mát tâm hồn,
Khuất nẻo đường mòn có mái nhà tranh.
Có người ta gọi "em anh"
Có giấc mộng lành mới dệt đêm qua.

Có muôn bướm, có ngàn hoa,
Đời không gian khổ như là hôm nay.
Không buồn vì chiếc lá bay,
Mà vui xây dựng cho ngày tương lai,
Cho êm ấm lẫn trong ngoài,
Cho hoa thêm đẹp, cho người thêm tươi.
Ai nâng tiếng sáo tuyệt vời,
Ta cầm bút chép những lời thơ xanh:
"Ngày mai, em hẹn với anh,
Ngày mai trọn khúc ân tình, ngày mai…"

(Tặng Phổ Đức)


Đêm Giáng thế

Hỡi Thượng Đế, suốt đời con đơn chiếc,
Đi vu vơ như lạc nẻo Thiên Đường,
Thân cát bụi chẳng còn chi hối tiếc,
Nhưng lòng riêng khao khát chút Tình Thương.
Con ngẩng mặt: đêm nay trời nạm ngọc,
Quê Cha đâu? Đường lối hẹp kinh kỳ.
Thuyền vật chất trôi xuôi về địa ngục,
Trong hồn con còn dội bước con đi.

Nợ với Đất ngày mai con trả Đất,
Đời vui chi, cười khóc vẫn xô bồ!
Tiếng chuông Chúa những chiều sầu sắp tắt
Gọi đêm về vây phủ kín thành đô.

Đêm Giáng thế, chiên lành quỳ lạy Chúa
Thương đàn chiên nằm dưới gót sài lang,
Chúng con sống đau buồn trong khói lửa,
Thây chồng thây, ngăn mất lối Thiên Đường.

Đấng Cứu Thế tình yêu trùm vũ trụ
Vâng Ngôi Cha làm một kẻ chăn cừu,
Xin vớt lấy những linh hồn đen tối,
Đang điên rồ cười khóc suốt đêm thâu.

(Tặng Nguyễn Ngọc Đính)


Dâng

Đêm lạnh bốn bề gió rú,
Trần gian mênh mông hoàng hôn,
Thời gian trở về bến cũ,
Thịt xương xua đuổi linh hồn.

Cầu nguyện hai vì sao lệ,
Rưng rưng mắt đẹp hiền hòa.
Tay ngọc tròn tin Đức Mẹ,
Đêm huyền ngào ngạt Ngôi Cha.

Có thuở chiên lành mến Chúa,
Nơi nơi cỏ mướt, đồng xanh,
Có thuở đời là nhung lụa,
Danh từ chỉ có Em, Anh.

Lạy Chúa, mùa xưa đã hết,
Không còn nhung lụa, anh em.
Nhân loại đi về cõi Chết,
Giẫm tan từng giọt sương đêm.

Ai đọc dòng kinh huyết lệ?
Ai rung chuông đọng luân hồi?
Hẹn gặp nhau ngày tận thế,
Không Ta mà cũng không Tôi.

Chúng con quỳ dâng ngưỡng mộ,
Lòng Tin sấm sét không dời.
Vũ trụ rồi đây sụp đổ,
Điềm xui từ cánh sao rơi.

Chúng con thương nhau trọn kiếp
Như lời Chúa dạy từ lâu,
Chắc chẳng còn gì cao đẹp
Cho bằng nhân loại thương nhau.

(Tặng Cao Thế Dung)


Thư gửi mẹ

Hôm nay tiếng súng không còn nữa,
Sông núi ngùi thương chuyện núi sông,
Con biết quê nhà sau khói lửa
Mẹ già tựa cửa đứng chờ mong.

Lụa có vàng như thuở thái bình?
Vườn ta còn mấy ngọn cau xanh?
Đất khô tay có đau không mẹ?
Cha vẫn ngâm nga khúc viễn hành?

Chị Hai chắc hẳn vui gia thế?
Em Ngọc năm nay sắp lấy chồng?
Từ thuở con đi rồi chẳng biết
Cô hàng xóm ấy có sang không?

Và mẹ bao đêm thương nhớ con?
Tuổi già trái chín chắc chi còn?
Sông sâu, núi thẳm, đôi đường cách,
Ngày một ngày thêm chuyện héo hon.

Kinh thành mẹ hắn không ưng đến,
Lặn lội chi cho cực tuổi già.
Nghĩ lại đời con thêm hổ thẹn,
Khác nào như thuở bước chân ra.

Thuở ấy cầm tay mẹ dặn dò:
"Phố phường không phải dễ chi mô!"
Và đôi mắt mẹ rưng rưng lệ,
Đôi mắt bây giờ chắc héo khô!

Thân nghèo nhiều lúc không vui lắm,
Nhưng chẳng bao giờ còn ước mong
Một cuộc đời như thiên hạ ước,
Bởi vì còn chuyện đục hay trong.

Nói mãi rồi ra cũng thế thôi,
Núi sông cách trở mấy năm rồi,
Con mong nếu bắt thư này được
Thì mẹ cho con biết ít lời.

(Tặng Tạ Hồng Nguyện)


Bức thư đầu xuân

Tết đến hai ngày rồi mẹ nhỉ?
Đầu xuân con biết mẹ đang buồn.
Ai vui chi được đời tang tóc,
Sông chứa sầu đau, núi dựng hờn.

Ra đi từ dạo mùa cam chín,
Đã mấy mùa cam con chửa về.
Tóc mẹ hoa râm, nay bạc trắng,
Vô tình trước ngõ trắng hoa lê.

Có những đêm buồn con phát khóc,
Nhớ xưa Tết đến dậy mai vàng.
Tha hương thân bé còn lăn lóc,
Mỗi độ xuân về mỗi dở dang.

Quê nhà hoang vắng ra sao mẹ?
Đây phấn son bay ngập phố phường!
Con vẫn trông chờ sâu cả mắt
Ngày nào thiên hạ biết yêu thương.

Con viết bức thư này giữa lúc
Súng xa vang động cánh mai vàng,
Nhà trọ cô đơn nghe gió giục,
Bồ câu giỡn nắng mới bay ngang.

Ít bữa mai tàn rơi trước ngõ,
Nhặt giùm dăm cánh ép cho con.
Mẹ ơi! Đợi lúc trời thôi gió,
Con sẽ quay về để mẹ hôn.


Trung Phước ơi!

Trung Phước ơi, sông sâu dài uốn khúc,
Tình cheo leo cao vút một con đèo,
Núi Chèo Bẻo vươn mình trong khói đục,
Hòn Cà Tang thương nhớ vọng tình theo.

Đây đồng Chợ không còn vang nhịp bước,
Và đồng Quan, đồng Vú chắc tiêu điều!
Lúa vàng ơi, lúa vàng bao năm trước,
Rộc cây Bòng bờ trổ mạch cô liêu.

Cau xanh lắm, cau với người thân thiết,
Bắp non non, người đợi bắp vàng bao,
Lụa óng ánh tay ngà thoăn thoắt dệt…
Đời không dài hơn một giấc chiêm bao!

Làng chết lặng, lều xác xơ dăm túp,
Người tha hương còn mất chẳng tin về,
Con lạc mẹ, bao đêm chồng khóc vợ,
Măng bẻ rồi, tre không kín niềm quê!

Chín năm chẵn máu chưa hề ngớt chảy,
Chim không ca, bắp cũng chẳng vàng bao,
Khung cửi lạnh, tay ngà đang ấp mộ,
Hẹn tương phùng trong một giấc chiêm bao.

Mùa hy vọng thắp đôi hàng nến đỏ,
Chép bài thơ thương nhớ giữa kinh thành.
Ôi yếu đuối một linh hồn nho nhỏ,
Chỉ mong ngày nắng ấm ngọn cau xanh.

(Tặng bà con)


Xuân về thương nhớ với ai đây

Tết đến rồi đây, xuân đến đây,
Xuân xuân, tết tết được bao ngày?
Cười nghiêng núi thẳm, xuân gian khổ,
Khóc đứng quê xa tết dạn dày.
Có những con người không biết tết
Cầm bằng năm tháng một cơn say
Có những con người không biết chết
Hẹn cùng trời đất một ngày mai,
Có những con người không nói hết
Căm căm thế sự nhíu đôi mày!

Tết đến, xuân về băm mấy bận,
Giang hồ ta vẫn trắng đôi tay.
Lòng riêng nào biết xuân hay tết,
Tóc đã pha sương kể những ngày
Câu chuyện tâm tình không tỏ được,
Hoa đào hàng xóm lả lơi bay…
Xót thương thân thế toàn dang dở,
Khói thuốc làm cay đôi mắt cay!
Chợt thấy bên hiên hoa lại nở,
Và xuân lại đến ở đâu đây.

Nhưng hoa đã tỏ đường ong bướm,
Xuân vẫn còn xuân với đọa đày.
Xuân vẫn còn xuân trong máu lửa,
Còn xuân nên vẫn trắng đôi tay!
Nhấm mứt gừng suông ba bữa tết,
Giở chồng thư cũ mấy năm nay…
Đâu đây nhạc rót mừng xuân mới,
Không hiểu thương ai nước mắt đầy!
Nhà trống tha hồ mơ mộng đến,
Tiền đâu mua lấy nửa cơn say?

Thơ chẳng ai yêu, rồi cũng vẫn
Đêm đêm nằm tính chuyện tương lai.
Cố tri dăm đứa nghèo xơ xác,
Ăn chực nằm chờ khắp đó đây.
Tán gẫu, cười suông, ngâm lạc giọng:
"Sòng đời thua nhẵn cả thơ ngây"
Thuốc chưa hết điếu mà cay mắt,
Tình chủng muôn đời vẫn đắng cay!
Xuân bỗng tưng bừng trên má thắm,
Xuân về thương nhớ với ai đây?

(Tặng Trương Đình Ngữ)


Em chỉ trả lời

Có rượu nhiều không mà say đêm nay?
Có tiếng giai nhân cười vang đường dài?
Cô đơn từng bước lê trong tối,
Có hoa nào không mà anh đưa tay?

Ngày xưa dặm liễu xanh còn xanh,
Ngày xưa trang thư thêm trang tình.
Ngày nay một chút vô tư mất,
Ngày nay một phút buồn mông mênh.

Có rượu nhiều không mà say trọn đêm?
Có người ngày xưa ta gọi là em?
Còn đâu mộng thẳm mơ xanh nữa,
Tuổi nhỏ qua rồi, hoa rơi bên thềm!

Ngày xưa rằng vui, hay không vui?
Có ai cầm tay, ai hôn môi?
Nghẹn ngào khẽ gọi tên em gái,
Tên em theo gió bay đi rồi!

Có rượu nhiều không mà ta mời nhau?
Có buồn vu vơ như thuở ban đầu?
Gọi em suốt nửa đời em nhỉ?
Em chỉ trả lời trong giấc chiêm bao!

(Tặng Tôn Thất Trung Nghĩa)


Bài thơ cuối mùa

Không vui từ dạo mới quen nhau,
Bờ cách xa bờ, ai biết đâu,
Em vẫn bình minh đôi mắt ngọc,
Còn ta đêm tối phủ từ lâu!

Những buổi xa vời ta đợi thư,
Nửa khuya sực tỉnh, khóc bao giờ?
Có chăng em nhỉ, hay là mộng?
Xin được cười yêu trong giấc mơ.

Em đắp thành cao ngăn cách ta,
Ta ngồi trông mãi giọt mưa sa.
Không em, mai mốt còn chi nữa?
Ngày tháng buồn tênh vẫn lướt qua.

Mùa cuối, năm tàn, yêu nữa thôi?
Kìa em, vừa thoáng ánh sao rơi,
Đợi khi lòng đất đưa tay đón,
Ta sẽ dần quên chuyện đổi dời.

(Tặng Huy Trâm)


Dòng thơ hôm nay

Nghe như mình đã ngủ
Từ mười mấy năm qua,
Quờ tay trong bóng tối
Ngắt vội một cành hoa.

Tuổi em mười sáu nhé,
Hay đã ba mươi rồi?
Cành hoa đêm đã héo,
Hay vài cánh còn tươi?

Ly cà-phê sánh đặc,
Dạ hội tan từ lâu.
Còn gì mà thắc mắc,
Đời không là của nhau.

Đi giữa lòng thành phố,
Cúi mặt trông bóng mình,
Đôi bàn chân xương xẩu,
Con đường rộng thênh thênh.

Sẽ có người nhăn mặt
Đọc dòng thơ hôm nay,
Chút buồn vương khoé mắt:
"Sao chừ còn đắng cay?"

"Thưa rằng từ lâu lắm
Chẳng bao giờ quên em".
Tóc xanh chừng lốm đốm,
Suốt đời tôi đi tìm.


Cúi đầu

Tôi sẽ không còn ngơ ngác bên em,
Hành tinh đang buồn ai say ban đêm?
Tóc tơ thề thốt, mà nay xa vắng,
Mà nay tơ tóc buộc gì cánh chim!

Mệt lắm rồi, không theo em nữa đâu,
Mệt lắm rồi, tôi buồn thiu cúi đầu,
Con chó không về, ổ rơm lành lạnh,
Con chó không về, ai biết đêm sâu?

Tôi biết nói gì khi ta quên nhau?
Tôi biết muốn gì, trời còn mưa mau.
Em vẫn là em, xưa kia tuy khác,
Tôi hết là tôi, chừ đây cúi đầu.

Tôi lại say rồi, ngả nghiêng, ngả nghiêng,
Nhạc cuồng gào lên, nhạc cuồng không tên.
Ai vừa khóc đấy, tôi không biết nữa,
Nghe xoáy trong hồn: làm sao em quên?

(Tặng Nguyễn Thạch)


Bài thơ viết trước khi về

Khi em đến chắc tôi về xa lắm,
Mưa buổi chiều ray rứt quá em ơi!
Tôi nhìn mưa đôi mắt đóng khung trời,
Lòng nhân thế mưa nhiều hơn nắng đó.
Từ thuở thương nhau mộng mình nho nhỏ:
Có vườn hoa hồng bạch dưới trăng thu,
Vuốt tóc người yêu, khe khẽ ngâm thơ,
Đốt trầm để ấm lòng đêm gió rét,
Mùa xuân đến nghe chim vườn ríu rít,
Rồi mười năm nhớ khúc ân tình xưa.

Ta nghiêng đầu bên cửa sổ trông mưa.
Nhưng chiều nay mưa buồn trên phố vắng,
Tuổi quá ba mươi đời chưa hé nắng,
Có bao giờ vui trọn giấc đâu em!
Đoá mộng vàng son rã cánh bên thềm,
Tôi cô độc bước chân về nghĩa địa.
Không nỡ trao em mối buồn thấm thía,
Vì đời em là một buổi mai xuân.
Em ngây thơ cho đời đẹp tuyệt trần,
Tưởng vĩnh viễn những phút giây ngắn ngủi,
Còn tôi sống với tháng hờn, năm tủi!
Lỡ nhau rồi, tôi khóc hết đêm nay,
Mai tôi về, em sẽ vắng bàn tay
Ai vuốt tóc em chiều mưa rả rích?
Ai hoạn nạn mắt em vợi niềm cô tịch?
Ai ngâm thơ cho em ngủ trong tay?
Ai dìu em đi trọn quãng đời này?
Khi em đến chắc tôi về xa lắm,
Trăng vỡ tan tành, thuyền mơ đã đắm;
Tôi sẽ về là tôi chết em ơi!
Mưa chiều nay che khuất một khung trời.


Dáng xưa

Để em theo dõi bụi ngàn,
Dáng xưa còn đọng thời gian mắt sầu.
Buồn lên từ thuở bạc đầu,
Đôi tay vô vọng nguyện cầu dáng xưa.


Thúy Vân

"Còn em chén cúc tàng tàng,
Cuộc vui nói tiếng đoạn tràng ấy chi?"
Thưa rằng: "Cũng chẳng làm gì,
Ai mê dáng chị mà vì duyên em?"

(Tặng Bùi Giáng)


Từ Hải

Nghe rằng dậy đao binh,
Đoạn trường ngay thuở thân nghênh cửa ngoài.
Mặt trăng lơ lửng non đoài,
Mà hồn lơ lửng với loài thảo hoa.


Tôn Thất Trung Nghĩa

Từng đêm chợ Đũi đẫm sầu,
Ly la-ve đổ gội đầu tóc xanh.
Người sơn dã lạc kinh thành,
Ngả nghiêng đáy cốc độc hành trong đêm.


Nhập vô cùng

Ôi ngày mai khi gió chẳng còn xem
Vũ trụ là sân banh thao dượt,
Tôi làm gì?
"Chắc gục đầu sướt mướt,
Mà lệ rơi lụt cả dấu chân em!"
Qua muôn trùng sông núi chẳng hề quen,
Nghe tiếng máy đập tan niềm cảm hứng.
Trời xanh lướt một vì sao đang rụng,
Hai vì sao, không, nhiều lắm em ơi!
Trong đêm sâu nghe vỡ giọng ai cười.

Nức nở dây tơ khúc đàn bạc mệnh,
Tôi yêu em không thuê nhà ở cạnh,
Chẳng hề mong bắt được chiếc kim thoa.
Tuổi trăng tròn em đã quá nhiều chưa?
Hoa hạnh nở bên tường rồi chứ nhỉ?
Có sao đâu, được biết nhau là quý,
Mười lăm năm còn lại chuyện châu Thai,
Ba trăm năm còn lại tiếng than dài!
Đóa hoa bé nghiêng đầu bên cửa sổ,
Nhìn trời xanh lòng hoa thêm bỡ ngỡ,
Nên nhiều khi đầu cúi dáng bâng khuâng,
Hồn thảo hoa rồi cũng nhập Vô Cùng.


Nguồn: Tạ Ký. Sầu ở lại. Quế Sơn - Võ Tánh xuất bản lần thứ hai vào cuối xuân Tân Hợi (1971)

Tạ Ký - Sầu ở lại (1)

Tạ Ký

Sầu ở lại
1 2



"Tạ Ký có riêng một hướng đi đặc biệt với một bản sắc đặc biệt Tạ Ký nên thơ Tạ Ký sung mãn và tiêu biểu rõ rệt cho tâm trạng thanh niên thời 1953 – thế hệ lớn lên từ 1945. Tạ Ký hiện diện như một nhà thơ của đau xót, trữ tình. Thơ Tạ Ký là thơ của tâm hồn phương Đông, của khắc khoải êm đềm mang theo phong vị của dân ca cùng với cơn say đau thương của khách phong lưu…"

(Cao Thế Dung – “Văn học hiện đại”)


"Tình đi mau, sầu ở lại lâu dài"
Huy Cận



Đoạn trường gợi lại

Bước chân nào nặng phù du,
Ngón tay nào thắt sầu tư trói hồn.
Cô đơn rồi vẫn cô đơn,
Bốn mươi thu đó đòi cơn đoạn trường.

Sông xa bãi cát vàng hanh,
Đìu hiu bến vắng, mong manh sương chiều.
Mười lăm năm giấc mộng vèo,
Bốn dây nhỏ máu xuôi theo Tiền Đường.

Từ em lần lữa lầu xanh,
Cuộc say đầy tháng, tàn canh, vẫn thừa.
Chừ đây bên cạnh người xưa,
Nửa đêm tái ngộ nghe mưa cuối trời.

Mà thôi, đàn kiếm giang hồ,
Trở về cát bụi, cơ đồ ngả nghiêng.
Say đến khóc, cười như điên,
Ngàn xưa đọng lại một thiên não người!


Buồn như

Buồn như ly rượu cạn,
Không còn rượu cho say.
Buồn như ly rượu đầy,
Không còn một người bạn.

Buồn như đêm khuya vắng,
Qua cửa sổ trông trăng.
Buồn như em nói rằng:
Nhớ anh từng đêm trắng.

Buồn như yêu không được
Dù người yêu có thừa.
Buồn như mối tình xưa
Chỉ còn dòng lưu bút.

Buồn như buồn như thế,
Buồn như một kiếp người.
Đây cõi lòng quạnh quẽ
Buồn như đóa hoa rơi!

(Tặng Tôn Thất Trung Nghĩa)


Thế hệ bốn lăm

Chúng tôi:
Những kẻ sinh ra chưa biết nụ cười,
Đã thầm khóc trong bao năm khói lửa.
Mười tám tuổi, vải thô thay nhung lụa,
Giày vỏ xe hơi mòn gót liên khu,
Một dải miền Trung rừng rậm, sương mờ,
Vui kháng chiến, tình non sông muối mặn.
Chúng tôi lớn trong tiếng rền lựu đạn,
Ba-lô da nặng trĩu cả vai gầy.
Những bà mẹ già run rẩy đôi tay,
Rót từng bát nước chè trưa nắng gắt:
"Lũ chúng nó mới công đồn giết giặc".
Chúng tôi:
Thế hệ bốn lăm
Vui chưa bao nhiêu nhiều lúc khóc thầm
Một phần tư thế kỷ,
Lừa lọc, gian ngoa, một bầy ác quỷ,
Tuổi thanh xuân tàn như một giấc mơ!
Hoảng hốt, điên cuồng, nhẫn nhục, bơ vơ,
Nắm tay nhỏ đưa lên trời phản đối,
Và tự hỏi mình: mình làm gì nên tội?
Bốn lăm! Bốn lăm!
Tiếng vọng xa xưa, nắng cháy, mưa dầm,
Lòng Đất Mẹ lại một phen chua xót!
Chúng tôi yêu núi Ba Vì chót vót,
Sông Cửu Long cuồn cuộn chảy ra khơi,
"Quê hương mình nghèo lắm ai ơi!
Mùa đông thiếu áo, hè thời thiếu ăn".
Thời gian qua đã ba chục mùa xuân,
Trai mười tám tóc ngả màu sương gió,
Những đêm đô thành men cay mắt đỏ,
Nhìn trong ly bỗng thấy bóng mình xưa.
Gác trọ buồn thiu nằm khểnh nghe mưa,
Xót thân thế, nhớ từng thằng bạn học.
Ngâm thơ người xưa đau mình cô độc,
Rồi áo cơm thay thế chuyện giang hồ,
Đôi lúc buồn tình làm một bài thơ!
Bốn lăm! Bốn lăm!
Những kẻ ra đi, những kẻ đang nằm,
Những kẻ chết, những kẻ còn vất vưởng
Chúng ta làm gì?
Thuyền con trong cơn gió chướng!

(Tặng Nguyễn Liệu)


Điệu buồn xứ núi

Cao nguyên buồn rũ sương chiều,
Gió e ấp gió, cây đìu hiu cây.
Người lên đày xứ xa này,
Ngoảnh đi đô thị còn say dặm về.
Càng lên càng lạnh bốn bề,
Nào đâu luân vũ đêm hè năm xưa?

Giữa trưa sao nắng chẳng về,
Càng say khói thuốc, càng tê môi sầu.
Ga bên vắng tiếng còi tàu,
Phải đây sa mạc pha màu thiên thanh?
Không ai tiễn buổi lâm hành,
Ba mươi mấy tuổi trơ vành mắt sâu!

(Tặng Thanh Trúc)


Sơ nguyện

Hay là tôi đến thăm em?
Chiều không mưa, trăng chưa ngả bên thềm,
Đường nhân thế lối đi về Vĩnh Viễn.
Tôi chín chắn như thủy thủ già vượt biển
Đọc mây sao tìm hướng của phong ba.
Mùa lỡ xuân mà ngày cũng sắp tà,
Nên do dự khi mang buồn đến biếu.
Người con gái thường vô tình chẳng hiểu
Kẻ thương mình thức trọn giấc chiêm bao.
Ba mươi tuổi rồi biết nói làm sao,
Lòng luyến mộ lẫn ít nhiều chua chát.
Trời hôm nay vài gợn mây tím nhạt.
Hay là tôi đến thăm em?
Thương là thương, dù đêm trắng cả đêm
Vẫn thức chép những vần thơ gửi tặng.
Lòng chúng ta hẳn nhiều phen cay đắng,
Đường em đi hoa đẹp nở bao lần?
(Những đoá hoa tình của một thời xuân)
Cũng buồn thật nếu nhìn nhau đắm đuối,
Cũng chán thật nếu lòng kia tiếp nối,
Và yêu đương thành những chiếc hôn nồng,
Giấc chiêm bao gờn gợn những đường cong.
Hay là tôi đến…?
Dòng mắt em xanh,
Mong manh mong manh,
Nửa chiều sơ nguyện.

(cho Tuyết Hồng)


Anh cho em mùa xuân

Mỗi đêm một gói thuốc,
Hút nhiều nứt cả môi,
Nỗi buồn không nói được,
Nỗi buồn ăn vào tôi.

Trời mùa đông rừng núi,
Đời mùa đông vô cùng!
Bánh xe nào tung bụi,
Nhịp chim nào đã ngưng

"Anh cho em mùa xuân"
Giọng ca buồn quá sức!
Cô gái đầu cúi gục:
"Anh cho em mùa xuân".

Mớ tóc xanh đã bạc,
Mớ môi hồng đã phai,
Anh cho em gió lạc,
Anh cho em mưa dài!

Trời mùa đông rừng núi,
Đời mùa đông vô cùng!
Hút thuốc trong bóng tối,
Khói có bay lên không?

(Tặng Phạm Công Thiện)


Xin

Chỉ xin một nửa miệng cười,
Chỉ xin một phút bên người yêu thương,
Chỉ xin một chút dư hương,
Gọi làm duyên suốt nẻo đường viễn du.
Cố nhân, thôi đã tạ từ,
Dăm năm đấy nhỉ, thực hư thế nào?
Má còn làm thẹn hoa đào?
Mắt còn làm nhạt ngàn sao trên trời?
Tóc còn xanh thuở đôi mươi?
Lòng còn vui thuở hoa cười ước mơ?

Riêng đây từ lạc thế cờ,
Đắng cay cười cợt, ngẩn ngơ khóc thầm!
Trang tình sử, chuyện tri âm,
Khổ đau ai thấu được tâm sự này!
Phong yên từ độ những ngày…
Hậu đình hoa chẳng chau mày thế nhân.
Đỉnh đồng chưa vững ba chân,
Hai bờ cùng nổi phong trần cả hai!
Mắt sâu trắng những đêm dài,
Xin cho chút mộng để cài lên mi.
Ngày mai, thôi tính làm chi!

(Tặng N.T. Lê Tấn Lộc)


Chuyện buồn

Rồi những chuyện thần tiên bên xó bếp
Chẳng làm mê lứa tuổi đã ba mươi
Thầm ước ao thay đổi một chân trời,
Không thắp nến để tưởng rằng ánh sáng.
Quỳ mỏi gối nguyện cầu về Dĩ vãng,
Thuở xa nào em gái nụ mười lăm,
Giấc tiền thân sánh phượng một đêm rằm,
Xếp tình sử, gấp tay ngà làm gối.
Tuy thân thiết mà không hề tội lỗi,
Yêu say mê chẳng tính chuyện vuông tròn,
Bởi vì yêu là trốn bớt cô đơn,
Mà trói buộc làm phiền nhau biết mấy!
Chàng trai trẻ mơ phượng hoàng sẽ gáy,
Thời hoàng kim cửa mở suốt năm canh,
Có vị vua từ trong đám dân lành
Trốn không được đành lên ngôi cửu ngũ,
Luật pháp bỏ, dẹp luôn oai cuồng vũ,
Giếng đào đi, ruộng cày lấy mà ăn.
Nhưng buồn thay là những việc trên trần,
Thế Chiến quốc sao bày ra lắm thế?

Có kẻ yêu nhau vội vàng quá nhẽ,
Trao tờ thư, để ngỏ cửa khuê phòng,
Mà ái tình bốn vó ngựa truy phong!
Lứa tuổi ba mươi đời chưa vui mấy,
Buồn thương dạt dào cười mà lệ chảy:
Chuyện tài hoa người lớn chẳng thèm nghe,
Chuyện thần tiên con trẻ chẳng say mê,
Nên chuyện buồn nước mắt ngập tràn mi.


Thêm buồn

Tôi sẽ chết dễ dàng hơn đã sống,
Mắt không buồn vì nhắm đến muôn thu.
Con chim nào xanh, giấc mộng nào hư,
Lời bay bướm lặng dần vào dĩ vãng,
Ba mươi đến khỏi lo tiền cơm tháng!
Cô mỉm cười, cô có biết gì đâu!
Tôi từng nghe chó sủa suốt đêm thâu,
Và chim hót suốt mùa đông lạnh lẽo,
Ôi con chim hồng từng bay lạc nẻo
Đường trái tim hun hút thời gian.

Thuở xưa kia người ấy đẹp tuyệt trần,
Cao nguyên ngực, Thái Bình Dương mắt biếc,
Anh đào môi, tóc trường giang quấn riết
Tháp da ngà chưa một bóng du lang.
Tôi tới bên ai lời nói ngập ngừng…
Ốc đảo chập chờn giữa trưa sa mạc,
Gót ngọc quay đi, một người chết khát!
Thuở xưa kia thời mười tám, hai mươi,
Có chàng trai cười vẫn nở trên môi,
Tin tưởng lắm chuyện trên trời dưới đất,
Nhân Ái, Công Bình, Yêu Đương, Bất Khuất
Viết chữ hoa trong óc trẻ mười lăm!
Khi ba mươi biết được chuyện xưa lầm
Thì đau khổ đã hằn trên trán nhỏ,
Thì uất hận vạch trời nhưng chẳng tỏ,
Rồi cô đơn như một kẻ chăn cừu
Trên đồi cao nhìn tinh tú luân lưu.
Tôi hốt hoảng như một người phạm tội,
Tôi muốn chạy nhưng mà đường nghẽn lối,
Chúa thì xa, Phật cao vút từng không,
Phật tại tâm nhưng tâm đã bềnh bồng,
Tiếng chuông Chúa không ru hồn kẻ khổ
(Một chiếc linh hồn mang mang thiên cổ)
Tôi tới bên em quỳ xuống nguyện cầu,
Em đẹp vô vàn như hạt trân châu,
Ai yêu mến mà không hề nói quá!
Nhưng than ôi em không là tượng đá
Đội thời gian nhìn kẻ thế nhân qua,
Tôi làm thơ để mang tiếng tài hoa,
Mà vần điệu chỉ là châu ngọc hão!

Thương vớ vẩn tự mình gây gió bão,
Trách vu vơ mà chẳng trách mình ngu,
Thời loạn ly khởi sự tự bao giờ!
Tôi sẽ chết vô duyên như đã sống,
Đất nghĩa trang có chắc chi còn rộng,
Không biết nằm đầu sẽ hướng phương nào?
Nghĩ thêm buồn cho câu chuyện mai sau.

(Tặng Lê Khắc Lý)


Hoài

Viết một bài thơ buồn nữa đây,
Đêm đêm nằm đếm đóm sao gầy,
Chao ôi ba chục năm trời nhỉ,
Mà vẫn còn mơ nguyệt mái Tây!
Từ thuở hai mươi lòng cứ tưởng
Ngàn năm tay đẹp vẫn trong tay.
Gió đâu bỗng đổi chiều xoay hướng,
Tình ở đầu môi, ở cuối mày!
Một giấc hoàng hoa chưa chắc tỉnh,
Nửa ly hoan ngộ lấy gì say,
Từng phen đất lạ thương thân thế,
Những trận cười như thoảng gió bay.
Khúc Phượng còn vang thề ước đó,
Lời hoa đành bặt ái ân này,
Hoa tàn, ước hão, thề suông vậy.
Bóng dáng thuyền quyên vẫn nước mây.
Tuổi trẻ đã đành khờ khạo quá,
Ái tình đâu đến kẻ thơ ngây!
Thời hai mươi ấy xa lăng lắc,
Khói lửa còn cay đôi mắt cay.

Chạnh chút niềm riêng ai oán tí,
Thương mà không nắm trọn bàn tay.
Tóc ai xanh phủ cù lao gối,
Phấn bướm bay đầy giấc bướm bay.
Còn hỏi: "Quên em rồi chứ nhỉ?"
"Quên rồi qua chén rượu không say,
Quên rồi qua lớp vàng son ấy,
Mi mắt thời gian khép lại ngay".
Tay ngọc nâng niu lầu ảo mộng,
Bao nhiêu người ngọc đã chuyên tay!

Dòng thơ lưu niệm dăm năm trước,
Tình cũ còn thơm hương Liễu trai.
Từ dạo tay không mơ nghiệp lớn,
Sử kinh qua một tiếng than dài!
Trường thành vạn dặm rêu xanh đá,
Thắng những ai mà bại những ai?
Đình trưởng một phen trời ngó lại,
Múa gươm trên mộ kẻ anh tài!
Hỡi ơi những chuyện ngàn xưa ấy
Chép miệng mà nghe thấm đắng cay!

"Kỷ độ long tuyền…" ngâm lạc giọng,
Mà non sông vẫn khói mù bay.
Ai mài kiếm rỉ, ai nâng chén?
Cửa sổ chiều chiều mây trắng bay.


Một mình

Nằm suông nghe gió lay rèm cửa,
Ba chục năm tròn, hai cánh tay
Buông xuống từ khi cười gượng gạo,
Má sầu lất phất hạt mưa bay.

Trang sách, trang tình: mới nửa trang,
Cớ sao lụt cả một trời trăng?
Bể Nam chim chẳng theo chiều gió,
Nhịp sóng trùng dương vẫn thở than.

Ôi hoa hàm tiếu, nụ sơ khai,
Một trận cuồng phong hoa tả tơi!
Những nụ môi hồng chưa kịp hé,
Vài giây hạnh ngộ đã qua rồi!

Bất tri tam bách… ngàn năm nữa
Tiếng thở than còn nguyên thở than!
Một bước chân người qua trước cửa,
Rồi xa, xa mãi chẳng dư vang.

(Tặng Lê Vinh Thiều)


Lại một bài thơ tâm tình

Lại một bài thơ tâm tình
Của người ba mươi tuổi chẵn,
Ai lại than dài, thở vắn,
Đau thì ngậm miệng làm thinh!

Từ khi sông núi ôm sầu,
Dân lành đành thân trâu ngựa!
Từ khi sông núi binh lửa,
Mấy người đục nước buông câu?

Ở đâu cỏ không dám mọc,
Nghênh ngang một lũ gian tà?
Ở đâu dân không dám khóc,
Tuy rằng đau thấu thịt da!

Mười năm mắt chưa ráo lệ,
Đầu tang nghiêng cạnh đầu tang,
Mười năm đàn con lạc mẹ,
Lòng nào mơ chuyện cao sang.

Ở đây ngàn hoa cứ nở,
Ngàn môi nhắp rượu ân tình,
Bên kia ngàn môi nức nở,
Ngàn hoa nhạt hết hương trinh.

Thế hệ những người đã khóc
Đứng lên góp một nụ cười,
Góp một cánh tay gân guốc,
Cho đời chỉ chớm đôi mươi.

Lại một bài thơ tâm tình
Của người ba mươi tuổi chẵn,
Ai lại than dài, thở vắn,
Dù trăm, dù vạn bất bình…

(Tặng Lê Sử)


Viết trang tình sử

Ai về xứ mộng, xứ mơ,
Cho tôi gởi ít vần thơ tặng nàng:
Sông Hương lắm chuyến đò ngang,
Chờ anh em nhé, đừng sang một mình.
Chờ anh kể chuyện tâm tình:
Từ anh theo đuổi những hình phù vân…
Thôi em, đã lỡ một lần,
Mấy năm đau khổ đã dần vơi vơi,
Nghĩ thương kẻ ấy sai lời,
Nghĩ thương em những mong đời anh nên.

Xa xôi nhiều lúc anh quên
Rằng em gái vẫn chong đèn đọc thơ,
Vẫn cầm duyên để đợi chờ,
Vẫn trông phượng đỏ hai bờ Hương Giang.
Chiều lên huyền hoặc bướm vàng,
Em như công chúa mơ chàng Thám hoa.
Không, em tôi còn mẹ già,
Còn đàn em dại, cửa nhà cậy trông.
Có ai nhắc chuyện lấy chồng,
Thì em đôi má ửng hồng thêm duyên.

Giận mình chưa đạt lời nguyền,
Anh không mong được chung thuyền ấy đâu.
Khi mô người bỏ cau trầu,
Cho anh biết để ủ sầu lên men,
Để anh vặn nhỏ ngọn đèn,
Viết trang tình sử cùng tên một người.

(Tặng Thế Viên)


Thì trang tình sử…

Có người thường hỏi thăm tôi
Viết trang tình sử tới hồi chót chưa?
Có trăng vàng ngập phên thưa?
Có đêm chăn gối nghe mưa ngoài trời?
Thưa rằng: Không viết nữa rồi,
Một trăm câu chuyện trên đời giống nhau!
Ai làm cho tóc bạc đầu?
Cho câu kỳ ngộ thành câu giã từ?
Đã đành là việc riêng tư,
Đã đành là để tờ thư võ vàng,
Đã đành lắm chuyến đò ngang,
Sông sâu khá dễ… nên sang một mình.
Làm trai mơ khúc Hậu đình,
Trách chi thương nữ mang tình bán rao!
Đời đếm vàng đọ yêu đào,
Cho nên son phấn dự vào gió sương.
Góp tài hoa dựng đoạn trường,
Ba trăm năm nữa ai thương chúng mình?
Nói chi chuyện nhục cùng vinh,
Giai nhân thất thểu, thư sinh thẫn thờ.

Chẳng thà liều một thế cờ,
Đem thân trai đổi những giờ thịnh suy,
Chẳng thà liều một chuyến đi,
Để đôi người bạn chờ khi trở về.
Còn hơn nhìn mãi vết xe,
Còn hơn nhớ mãi trăng thề năm nao?
Còn hơn cháo múc tiền trao,
Tóc xanh bạc tóc, môi đào héo môi.
Chong đèn khuya viết chuyện đời,
Tình xưa sử nến hỡi ơi còn gì!

Mười lăm năm: một Kiều nhi,
Ba mươi năm hỏi làm chi bây giờ?
Tâm tình: lỗi một đường tơ,
Thế tình: loạn giữa hai bờ lợi danh,
Nhân tình: khi rách, khi lành,
Thì trang tình sử lại đành dở dang.


Tình xưa sử nến

Hoang sơ tím áo nữ kiều,
Ngọt môi mùa loạn ngàn xiêu gió thành.
Mộng vừa rụng ngọc Oanh Oanh,
Nửa đêm cùng nửa tuổi xanh dâng chàng.
Tình xưa sử nến dăm hàng,
Gối hai thứ tóc, tay choàng tâm tư.
Sơ giao, tiết tấu, tờ thư:
Chữ Chân cùng với chữ Hư hẹn hò:
Rằng em người xứ Long Hồ,
Rằng nhà em ở bên bờ Tiền Giang…

Bỗng dưng không tiếng oanh vàng,
Mà sao giấc mộng yêu nàng bỗng dưng…
Thương thương huyền hoặc, nửa chừng,
Bóng gầy chiếm hết một vùng không gian.


Niềm bể dâu này

Ta viết bài thơ thương nhớ đây,
Run run tay ấy nắm tay này,
Bao lâu em lạc hồn ta nhỉ?
Đô thị cười nghiêng mí mắt gầy.

Ta vẫn chờ em héo cả thơ,
Đèn khuya đêm trắng nẻo tương tư.
Tóc tơ có kẻ ngàn năm hẹn,
Ai hẹn ngàn năm chuyện tóc tơ?

Từ thuở quen nhau, rồi cách biệt,
Lòng nghe còn nặng chuyện tang thương,
Mà dâu bể dậy từ chinh chiến,
Từ thuở trên đầu tóc điểm sương.

Mê lối vàng son, lạc những đâu?
Em ơi! Má thắm có nguyên màu?
Bên hiên Lãm Thúy câu tình tự,
Niềm bể dâu này tiếp nối nhau.

(Tặng Vũ Thược)


Xin thật im

Thật im, thật im, nghe kìa em đêm cạn,
Trắng dờn sương mà lạnh thấu tâm can.
Miệng cười ư? Sao lệ vẫn đôi hàng?
Hứa hẹn hão! Không buộc lời gió lại.
Tay đã giao tình, việc đời oan trái,
Hay là ngu, là dại, là rất điên!
Em dẫn tôi qua nhiều xứ ưu phiền,
Chim gãy cánh, sao rơi, hoa héo rụng!
Và mắt tôi khi không còn mơ mộng,
Và hồn tôi không hát thơ yêu,
Vốn tài hoa nên tình cũng rất kiêu,
Chọn lựa quá nên tôi nhầm đến chết!
Đời gian ngoa mà mình không quỷ quyệt
Nên đành thua cho đến trắng hai tay!
Trách gì ai đường nghĩa địa buồn thay!
Xe dẫn xác lắc lư từng vó ngựa…
Xin thật im, thật im, im thêm chút nữa.
Ồ vô duyên đừng vờ thế em ơi!
Kìa xem trăng ngã ngửa đã lâu rồi,
Chim vỡ cổ vì cất cao giọng quá!

Bởi tin lắm nên không ngờ dối trá,
Bởi miệng hoa còn biết gửi hôn yêu,
Ai dựng bình minh bằng ánh nắng chiều,
Và sao rụng chứ không phải là hoa nở,
Cửa lòng đóng, cửa mồ kia sắp mở,
Xin im giùm, thật im nữa, em ơi!
Đừng có thời gian em đã chẳng xa tôi.


Thu

Bỗng dưng không hẹn mà thu tới,
Sông: một dòng thu chảy lặng lờ,
Lá úa: chút lòng ai khắc khoải,
Tòng ai chẳng rụng với mưa thu!

Cặp mắt thu kia còn lạnh lạnh,
Môi thu nhà ấy nhạt màu son,
Hồn thu vương vấn theo đôi cánh
Áo trắng mùa thu nắng héo hon.

Trên lớp thành xưa rêu phủ đá,
Nhạc buồn còn đọng giọt mưa thu.
Phòng khuê phấn nhạt, hoa tàn tạ.
Mà bóng tình quân vẫn mịt mù.

Người đẹp thu về tan ước mơ,
Thiên thu còn lại những vần thơ:
"Hàn y xứ xứ thôi đao xích…"
Riêng một lòng đây chịu hững hờ.

Nguồn: Tạ Ký. Sầu ở lại. Quế Sơn - Võ Tánh xuất bản lần thứ hai vào cuối xuân Tân Hợi (1971) ba ngàn bản in trên giấy Bạch Tuyết, năm mươi bản in trên giấy Thanh Thảo. Giấy phép số 1316 BTT/PNHT ngày 2-4-1971

Nghiêng tai kỳ diệu

Nghiêng tai kỳ diệu

Đặng Đình Túy

Cụm từ lý thú trên đây không do tôi sáng tác ra mà là của nhà thơ Thế Lữ khi viết lời giới thiệu Xuân Diệu. Ca tụng đôi tai Xuân Diệu biết lắng nghe, thật ra Thế Lữ muốn tổng thể hóa mọi giác quan bén nhạy (là nghe, là thấy, là nghích nghích mũi, là sờ, là mó tùm lum tà la) của nhà thơ chứ không đề cập riêng chi thính giác. Thật vậy, chúng ta đọc lại thơ Xuân Diệu, sau bao nhiêu là nước chảy qua cầu mà đồng vọng vẫn còn nguyên vẹn không hao hụt chút nào. Giác quan của ông tưởng như có muôn nghìn sợi ăng-ten li ti chỉ cần chạm nhẹ là chúng ngân nga; hay thử phác họa một hình ảnh khác: tựa những chiếc cốc thủy tinh mỏng manh, trong veo chỉ một hơi gió đủ làm nên vi vút. Nói vậy để đi đến một khẳng quyết: ta cảm nhận sự việc bằng cả năm giác quan cùng lúc chứ không thể nào tách chúng riêng ra, trừ khi bị hoàn cảnh nội tại hay ngoại lai ngăn chận. Hoàn cảnh nội tại: ta rủi ro bị mất đi một giác quan (ông cựu trung tá mù Frank Slate trong phim Mùi đàn bà, Scent of a woman do Al Pacino đóng); hoàn cảnh ngoại lai: tôi không nghe lời rên rỉ của người bạn bị thương giữa tiếng súng chiến trận. Có lần nhân đọc bài viết rất hay của ông giáo sư Cao Huy Thuần (có thể tìm thấy trong cuốn Thế giới quanh ta của tác giả) viết về Trịnh Công Sơn, Đóa hoa vô thường, tôi hứng chí tìm thu bản nhạc này, do Mỹ Tâm hát. Đó là bản trường ca duy nhất mà TCS đả sáng tác. Trường ca trong âm nhạc như cuốn truyện, có nhập đề, có thân bài, có kết luận, có kể lể, có khóc than, có vui sướng, có phẫn hận, nghĩa là có đầu và có đuôi, thí dụ Trường ca Sông Lô của Văn Cao chẳng hạn: “Sông Lô, sông ngàn Việt Bắc bãi dài ngô lau núi rừng âm u. Ai qua…” Nhập đề như vậy, Văn Cao giới thiệu con sông Lô hiền hòa, sinh hoạt êm đềm hai bên bờ của dân chúng, rồi một ngày giặc đến cướp phá, rồi bộ đội ta phá giặc… Từ điệu nhạc êm đềm mọi nhạc khí bỗng cùng một lúc rống lên theo bàn tay dập dồn của ông nhạc trưởng và thính giả biết rằng sắp có chuyện dữ dội chứ không phải chơi đâu. Mà quả như vậy thật! Sau đó thì súng nổ cờ bay và đoàn quân trở về ca khúc khải hoàn: “Trên dòng sông trở về đoàn người, reo mừng vui trên sóng nước biếc. Trôi đầy sông bao đám xác thù” . Hùng ca, phấn khởi ca xong xuôi đâu đấy rồi thì thanh bình ca, nhạc trưởng đưa cánh tay còn lại ra dấu ngừng, những nhạc công tuy mắt chăm chú vào bản nhạc nhưng cũng kịp liếc thấy bàn tay ngăn chận; họ dừng một chút và bàn tay nhạc trưởng trở nên ve vẫy dịu dàng, họ cũng đâm ra dịu dàng theo. Réo rắt réo rắt. Hy vọng reo vui; đời sống thanh bình tái lập: “Mùa xuân tới nước băng qua ngàn nước in ven bờ xanh ươm bóng tre” và “dòng sông Lô trôi, dòng sông Lô trôi”… như kết luận cho cuốn truyện kể sự tình con sông lịch sử. Văn Cao của thuở đầu kháng chiến sáng tác như vậy. Trịnh Công Sơn thì khác. Ông không kể chuyện đánh giặc, ông kể chuyện tình. Chỉ là những trạng thái của tâm hồn nhưng cũng có đầu có đuôi. Cũng rất mệt cho những nhạc trưởng khi chạy đuổi theo tâm tình họ Trịnh. Đóa hoa vô thường bắt đầu bằng cuộc đi tìm được kể bằng giọng “tâm tình” và “nhịp thong dong” (những chữ in nghiêng trong đoạn này là của TCS): “Tìm em tôi tìm mình hạc xương mai. Tìm trên non ngàn một cành hoa khôi. Nụ cười mong manh, một hồn yếu đuối, một bờ môi thơm, một hồn giấy mới” … Nhạc sĩ đặt quá nhiều điều kiện chắc khó tìm, nhất là tìm một hồn giấy mới. Nhưng dù khó như vậy mà nhạc sĩ cũng tìm ra được dễ ợt, nhờ ông“bỗng (tìm) thấy em dưới chân cội nguồn”. Bây giờ thì tất nhiên chúng ta phải “hớn hở đưa tình về” (vẫn là chú thích của TCS). Ở chỗ này nhạc sĩ chú thích trong ngoặc đơn (Bốn mùa yêu nhau trong lẽ vô thường của trời đất). Nên để ý đến từ vô thường của trời đất. Cái tính vô thường ấy nguy hại lắm cho nên chúng ta đâm lo cũng phải. Những người con gái của trần gian này không thể là “của” TCS được vì mới đó mà “gót hồng (em đã) muốn quay về” vì chính ông viết “con sóng biển dâu đã mang tình về chốn cũ” (chốn cũ là chốn nào ?). Ngôn ngữ TCS chúng có mặt chìm, có mặt nổi; mặt nổi thì thấy đó nhưng mặt chìm thì phải chịu khó ngụp lặn mới thấy được. Để diễn tả tâm trạng này, TCS viết một đoạn nhạc không lời với “nhịp dồn dập vừa” rồi sau đó “mênh mông”, để hòa hợp với chút lâng lâng rằng “Ôi áo xưa em là một chút mây phù du đã thoáng qua đời ta”. Lại đặt trong ngoặc đơn lần nữa: (Tình do tâm mà sinh, có khi tình mất mà tâm còn đồng vọng. Đến lúc tâm bình an thì tình kia cũng đoạn nỗi) lần này “nhạc mạnh” và “liền nhau” (tôi chưa ý thức được tại sao lại phải mạnh và liền nhau như thế vì xét kỹ, tâm tình người viết đã bớt xao động, chứng cớ là người đã nhận ra “chút mây phù du đã thoáng qua đời ta”, ngay trước khi viết phần không lời kia mà? Còn nếu bảo rằng tâm tình đã dứt khoát được thì lòng ta sẽ bình thản hơn, việc chi phải nhảy vọt như vậy? Hơn nữa những lời tiếp sau vẫn được duy trì qua những ý tưởng nối dài tương tự, rất thiền và rất tự tại ?) và cuối cùng mới êm dịu lại để: “Từ đó ta nằm đau ôi núi cũng như đèo một chút vô thường theo”… Bên Tây phương, người ta rất tôn trọng sự sáng tạo do đó hiếm khi một bản nhạc được nhiều kẻ trình diễn. Chỉ tác giả mới có quyền trình bày tác phẩm mình mà nếu tác giả không tự trình bày thì tác giả sẽ giao cho ai đó nhưng cũng chỉ là một người duy nhất thực hiện. Cẩn thận hơn, bản nhạc sẽ không được trình bày mà thiếu phần hòa âm và phối khí. Lại nhiêu khê lần nữa: kẻ soạn hòa âm một khi đã có công hoàn thành thì dù do ban nhạc nào trình tấu vẫn tôn trọng cách hòa âm phối khí đó. Còn có một từ rất đẹp nhưng nghiêm khắc, nghiêm khắc ở chỗ nó đòi hói người trình bày một nỗ lực sáng tạo. Ca sĩ không chỉ là người có giọng ca tốt, cũng không chỉ là người hát hay, mà là người biết diễn tả tâm tình của tác phẩm, do đó người ta không nói rằng tác phẩm được hát bởi ai đó (chanté par…) mà là diễn đạt bởi ai đó (interprété par…). Ca sĩ không phải là ca sĩ mà là thông ngôn, làm cho thính giả hiểu, thông cảm nội dung, tinh thần của tác phẩm. (TCS có lần đã bất bình về lối hát như trả bài của ca sĩ nọ.) Có những ca nhân thuộc hàng quốc tế, những giọng ca được tôn là giọng ca vàng, những người được gọi là crooner, họ hát hay thật nhưng nếu ta nghe liên tiếp vài chục bản của họ ta sẽ ngấy lên tận cổ. Trong ngành cải lương tôi thường nghe người ta kháo nhau: “đào X mà đóng vai bi thì hết sẩy; kép Y đóng hề thì mình cười đến bể bụng”… ít ra kẻ sành điệu đã nhận ra rằng một người không thể sắm nhiều vai. Nghề xướng ca cũng vậy. Xin kể một chuyện riêng, lẽ ra không nên nói vì nói ra là bày tỏ sự thiên vị ngu si hẹp hòi của mình, nhưng không hiểu tại sao …vẫn nói. Là về bản Giọt nắng bên thềm của Thanh Tùng. Nghe được bản nhạc ý vị, tôi mày mò tìm thu. Tìm được khá nhiều ca sĩ hát bài này, nhưng cuối cùng phân vân giữa hai chọn lựa: một gào xé kiểu Thanh Lam và một giọng kể nhiều hơn hát của Nguyễn Hưng; cuối cùng tôi chọn Nguyễn Hưng. Tại sao ? –Vì giọng Nguyễn Hưng hơi sống (đối nghịch với chín chứ không đối nghịch với chết) nên gai góc, cay đắng rất thích hợp với tâm sự nhân vật trong nội dung bài hát. Vả, Hưng là đàn ông, tâm sự trong bài là tâm sự đàn ông (không phải cứ thay lời bài hát từ anh ra em là đủ !) vì vậy mà tôi chọn Hưng. Viết những điều này, tôi chợt nghĩ đến Juliette Greco, một tài tử Pháp. Sản phẩm của hậu chiến, J. Greco ảnh hưởng không khí Saint Germain des Prés và chủ nghĩa hiện sinh. Bà nổi tiếng nhờ trình bày những bài hát của Boris Vian (vừa là văn nhân lại vừa là nhạc sĩ), thơ Jacques Prévert (bà cũng đọc thơ nữa) nhưng người ta biết bà nhiều nhất qua cách trình bày bài Déshabillez-moi do Gaby Verlor soạn nhạc và Robert Nyel viết lời, trong đó chất giọng khàn khàn, sống sượng nhưng gợi tình của bà khiến người đàn ông nào khi nghe lần đầu đều cảm thấy nhột nhạt tưởng như bà đang giục mình làm theo lời mời gọi. Gréco có ý thức đặc biệt về vai trò kẻ trình diễn, bà giải thích: “Chúng tôi, kẻ trình diễn, khám phá ra những điều mà bản thân họ (tức là chính tác giả) đã không nhận ra được” (Nous, interprètes, nous trouvons des choses qu’ils n’ont pas entendues, eux-mêmes). Nắm được tinh thần tác phẩm đã là điều đáng kể mà khám phá thêm những cái mà chính tác giả không nhìn ra thì quả là tuyệt vời ! Tôi xin kể tiếp chuyện thu bản trường ca Đóa hoa vô thường: tất nhiên là trên đĩa nhạc người ta không cần nêu tên kẻ đã soạn hòa âm mà tên ca sĩ mới quan trọng(!): Mỹ Tâm. Nhưng xét ra cũng không cần lắm vì tôi tin rằng ông nhạc sĩ soạn hòa âm đã theo đúng y chang lời ghi chú trên bản nhạc của TCS mà không biết uyển chuyển nếu xét đến toàn bộ tinh thần nhạc Trịnh. Đành rằng có một đoạn TCS ghi là nhạc mạnh và liền nhau nhưng tôi không tin là phải mạnh đến độ đó, mạnh như bài hùng ca tiến về Sài gòn đánh đuổi Mỹ Ngụy! Người xưa, khi đọc sách đã đốt trầm hương trong thư phòng. Mục đích là sửa soạn một không khí cho tâm hồn để chào đón tư tưởng tiền nhân; (Xin ghi thêm một ý kiến song song: người Tây phương thường ăn mặc rất chỉnh tề trong hai trường hợp, khi đi ăn và khi đi nghe nhạc. Hãy đặt câu hỏi tại sao) chắc lúc nghe nhạc cũng vậy. Rằng nghe nức tiếng cầm đài/ Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ… Không đạt đến trình độ Chung Tử Kỳ nhưng lẽ ra chúng ta phải ráng chuẩn bị đón nhận những trao gửi của kẻ sáng tạo được chút nào hay chút nấy. Kim Trọng trước khi gạ người đẹp đàn cho nghe chắc cũng sửa soạn trà nước hương trầm. Không khí như vậy ắt tiếng đàn sẽ réo rắt nỉ non thêm. Mọi thái độ ngược lại sẽ chẳng giúp gì cho lỗ tai trâu của chúng ta. Những nhà tâm lý học đã thực hiện một thử nghiệm đáng cho chúng ta suy nghĩ. Họ đưa một tay danh cầm ra trình diễn ở trạm métro vào giờ mọi người đến sở. Đã gọi là danh cầm thì ai cũng biết mặt biết tên. Lại tấu những bản nhạc bất hủ thì ai mà chẳng thích. Thế nhưng việc đó chẳng gặt hái được kết quả nào tốt đẹp. Mọi kẻ ngang qua đều có ném một cái nhìn về phía nhạc sĩ, rồi đi. Có kẻ hơi ngập ngừng dùng dằng nửa ở nửa về nhưng cuối cùng cái viễn ảnh của ông xếp sở hăm dọa đuổi việc vẫn là hình ảnh có sức thuyết phục mạnh hơn. Chỉ còn lại dăm ba kẻ vô công rồi nghề, những anh già hưu trí ngày thừa tháng rỗng hiếu kỳ bu quanh. Mà chưa chắc những lỗ tai đeo máy trợ thính ấy đủ khả năng thưởng thức. Thế có bẽ bàng cho đệ nhất danh cầm không! Ngày nay chúng ta không sống cuộc sống mà chạy đuổi theo nó. Mệt đứt hơi và sau đó, khi xuôi tay -nếu trời đất chúa phật còn chừa cho vài giây phút để ngẫm nghĩ- mới biết rằng mình sống chẳng ra sống (còn chết thì rất là ra chết). Chúng ta không biết hưởng thụ, vì lấy cái phụ làm cái chính, lầm lẫn hết trọi! Lấy thí dụ chuyện sắm dàn máy để nghe nhạc. Làm ra đồng tiền thì mua cái mình thích, nhất là cái mình cho là quan trọng thì cũng tốt thôi. Hình như bây giờ ai cũng cho âm nhạc là quan trọng và ai cũng o bế dàn máy nhạc, nhưng để làm gì? Có mấy kẻ thực sư nghe hay chỉ dùng âm nhạc để làm ồn?