25/9/11

Từ bao giờ và bằng cách nào người Nhật thoát ra khỏi quỹ đạo tư tưởng của Trung Quốc?

Từ bao giờ và bằng cách nào
người Nhật thoát ra khỏi
quỹ đạo tư tưởng của Trung Quốc?

Cao Huy Thuần



Nhật Bản đã chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc không thua gì Việt Nam. Cũng như ở ta, Khổng giáo đã từng là khuôn vàng thước ngọc chính thống trong tư tưởng của nước ấy. Nhưng người Nhật đã sớm ra khỏi quỹ đạo tư tưởng của Trung Quốc. Họ bắt đầu giải phóng tư tưởng của họ từ bao giờ? Bằng cách nào? Do trường phái nào? Bằng lý luận gì? Đó là câu hỏi mà tôi mong nhiều bạn sẽ cùng đặt ra với tôi, và bài viết này chỉ là một câu trả lời rất khiêm tốn. Công việc của tôi, thật vậy, rất khiêm tốn: tôi chỉ đọc một quyển sách và trình bày lập luận của tác giả. Quyển sách là một tác phẩm có tiếng và tác giả là một giáo sư đại học lừng danh, ở Nhật cũng như trên quốc tế. Xuất bản lần đầu tại Nhật năm 1952 và gây tranh luận sôi nổi sau đó, quyển sách của Masao Maruyama, rất bác học và khó đọc, được dịch ra tiếng Anh năm 1974, rồi tiếng Pháp năm 1996, khi ông mất, dưới nhan đề: "Essais sur l'histoire de la pensée politique au Japon" ("Luận về lịch sử tư tưởng chính trị tại Nhật"). Giới học thuật Pháp đặc biệt chú ý đến lập luận của Maruyama, một lập luận độc đáo làm họ ngạc nhiên: người Nhật đã thoát ra khỏi sự nô lệ văn hóa đối với Trung Quốc trước khi tiếp xúc với Tây phương. Họ đã giải phóng tư tưởng của họ tự bên trong, chứ không phải dưới áp lực của bên ngoài. Hiện đại hóa trong tư tưởng của người Nhật đã diễn ra trong một quá trình tranh luận giữa các tín đồ Khổng giáo với nhau, chứ không phải giữa họ với "ánh sáng mới" đến từ Tây phương. Nói khác, hiện đại hóa trong tư tưởng của người Nhật đã xảy ra trước khi Minh Trị hiện đại hóa nước Nhật để bắt kịp Tây phương. Giải phóng tư tưởng đi trước giải phóng chính trị.

Đó là điểm đặc biệt mà ít người nói đến, nhất là ở phương Tây. Tây phương ưa làm người ta nghĩ rằng nguồn gốc hiện đại là đến từ họ. Đó cũng là điểm đặc biệt mà chúng ta, người Việt Nam, nên chú ý. Vì hai lẽ. Một là: trong cùng một hệ thống tư tưởng đến từ Trung Quốc, tại sao họ biết đặt lại vấn đề để phủ định, để hiện đại hóa, còn ta thì không? Hai là: tại sao ta vẫn lấy tư tưởng Trung Quốc làm tư tưởng của ta? Nếu ta không thiếu những cái đầu để suy nghĩ thì cái gì đã không cho phép ta làm cái việc mà Nhật đã làm hồi thế kỷ 17-18, tức là phê phán tư tưởng chính thống tự trong lòng tư tưởng ấy, bởi những tín đồ của tư tưởng ấy?

Người Nhật không hơn gì ta đâu về phương diện triết lý: họ cũng không có những lý thuyết gia xuất sắc. Vậy mà họ có được những trường phái, những tranh luận đưa dần đến sự thành hình một tư tưởng chính trị mang sắc thái đặc trưng của Nhật. Quyển sách của Masao Maruyama nghiên cứu sự thành hình đó. Ông đưa ra hai nhân vật tiêu biểu: Ogyù Sorai và Motoori Norinaga. Sorai (1666-1728) là kết tụ của một quá trình đánh giá lại Khổng giáo, hay nói cho chính xác hơn là Tống Nho. Norinaga đi xa hơn, đả kích Tống Nho, xây dựng cả một trường phái đề cao quốc học. Trong phạm vi nhỏ bé của bài này, tôi chỉ có thể giới hạn vào hai tác giả đó mà thôi, nhất là Sorai.

Đối tượng xét lại của Sorai: Tống Nho

Khổng giáo du nhập vào đất Nhật rất sớm, cuối thế kỷ thứ 4 sau Tây lịch, và đặc biệt được tôn quý nhất dưới thời Tokugawa, nghĩa là từ đầu thế kỷ 17 đến khi Minh Trị thiết lập lại uy quyền của Vua năm 1868. Sử Nhật xem khoảng thời gian đó như là thời hoàng kim của Khổng giáo. Cũng lạ, đó là khoảng thời gian mà người Nhật gọi là cận đại (kindai). Họ dịch "modernisation" là cận đại hóa. Thời hoàng kim của Khổng giáo ở Nhật là thời cận đại! Nhưng tại sao lại hoàng kim?

Lý do thứ nhất là cấu trúc xã hội và chính trị ở Nhật dưới chế độ phong kiến Tokugawa có thể so sánh với cấu trúc ở Trung Quốc hồi Khổng giáo bắt đầu phát triển: đất giống nhau, mùa màng tươi tốt như nhau. Nông dân thời Tokugawa không được phép mang kiếm bên mình, chỉ được sống với đất, tách biệt rạch ròi với giai cấp võ sĩ. Giai cấp võ sĩ lại tách biệt rạch ròi với đất đai, từ giã đất, kéo nhau lên đô thị làm gia nhân cho các lãnh chúa. Giữa họ với nhau, võ sĩ lại tách biệt rạch ròi thành đẳng cấp, tôn ty trên dưới phân minh. Cũng sĩ nông công thương như ở ta, nhưng "sĩ" (võ sĩ) tách biệt với ba giai cấp kia và tách biệt giữa nhau, phân chia trên dưới chặt chẽ, dưới phải tuân trên. Từ trên cùng là Đại Tướng Quân (Shogun) với các tướng quân chư hầu chung quanh, cho đến các samourai thấp kém nhất ở dưới, giai cấp võ sĩ thống trị tuyệt đối trên ba giai cấp khác. Tôn ty trật tự ấy tìm được nơi đạo lý Khổng giáo ý thức hệ tuyệt hảo để làm cơ sở lý thuyết. Ý thức hệ ấy thấm nhuần khắp xã hội, vì các giai cấp ở dưới có khuynh hướng bắt chước đạo lý sống của giai cấp trên đầu.

Lý do thứ hai là Khổng giáo khoác bộ áo mới dưới thời Tống nhờ tài ba sáng tác của Chu Hy, và Tống Nho được vị Shogun đầu tiên của thời Tokugawa là Ieyasu (1542-1616) đặc biệt sủng ái. Trước đó, Khổng giáo chỉ được quảng bá ở chốn cung đình, bây giờ Tống Nho được phổ biến rộng rãi trong dân gian qua các thầy đồ mở lớp dạy học trong quần chúng. Chẳng phải ông Đại Tướng Quân này sính gì đạo lý, văn chương. Ông biết ông đã ngồi trên lưng ngựa để được thiên hạ, nhưng ông cũng biết mất thiên hạ như chơi nếu chỉ cai trị với cái lưng ngựa. Tống Nho giúp ông chính đáng hóa quyền hành. Cả một học phái Nhật quảng bá tư tưởng Chu Hy được ông tích cực nâng đỡ.

Nhưng Tống Nho là gì? Trước hết, dưới mắt Sorai, đó là một sự trở về nguồn, lấy gương sáng của năm ông vua truyền thuyết thời thượng cổ (Nghiêu, Thuấn, Thang, Vũ, Chu Công) hợp với Khổng, Mạnh, làm kim chỉ nam, đặt trọng tâm trên Tứ Thư (Đại học, Luận ngữ, Trung dung, Mạnh Tử) thay vì Ngũ Kinh (Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân Thu). Thứ hai, đó là một siêu hình học vừa được sáng chế, kết nối con người với vũ trụ, lấp đi một lỗ trống lớn trong tư tưởng của Khổng giáo, quá thiên về mặt hình nhi hạ. Toàn bộ là một hệ thống triết lý chặt chẽ bao gồm cả đạo đức hằng ngày của con người lẫn quan niệm về bản thể của vũ trụ.

Tôi khỏi phải dông dài về siêu hình học của Chu Hy, về thái cực, âm dương, ngũ hành… Chỉ nói rằng Chu Hy phát triển học thuyết Lí và Khí của hai anh em họ Trình, Trình Hạo và Trình Di, lí là phần siêu hình, khí là phần vật chất, hai phần ấy không tách rời nhau, hễ có khí thì có lí, nhưng lí có trước, khí có sau, lí có trước cả khi có Trời Đất, nghĩa là siêu việt vũ trụ và muôn loài. Mọi vật trong vũ trụ đều được tạo thành do sự hợp nhất của lí và khí; lí là bản chất của mọi vật, khí là hình thể của mỗi vật. Bản chất của mọi vật là giống nhau vì cùng do lí mà ra, nhưng dưới hoạt động của khí, mỗi vật đều dị biệt. Con người khác con vật là vì vậy: bản chất lí giống nhau nhưng nhận khí khác nhau, nên người làm chủ vạn vật. Cũng vậy, giữa người với người cũng khác nhau, vì tuy bình đẳng về bản chất, về lí, người này với người kia khác nhau về khí, về trình độ. Cho nên phàm thánh khác nhau, thánh hiền bẩm thụ khí trong, phàm phu bẩm thụ khí đục. Vũ trụ quan của Chu Hy kéo dài để trở thành lý thuyết về bản chất của con người. Nơi mỗi người vừa có "bản chất nguyên thủy" (lí) vừa có "bản chất riêng"(khí). Nơi thánh hiền, "bản chất riêng" trong suốt, hiển lộ bản chất trong suốt nguyên thủy. Nơi phàm phu, bản chất riêng vẩn đục vì ham muốn che lấp bản chất nguyên thủy. Cho nên "nhân dục" đối lập với "thiên lí". Từ chỗ vẩn đục ấy, tính ác sinh ra.

Thế nhưng… nhân chi sơ tính bản thiện, tánh thiện ẩn sâu trong bản tính của con người hơn tánh ác, vì tánh thiện là do lí mà ra, tánh ác là do khí mà đến. Làm sạch được những yếu tố của bản chất riêng thì phục hồi lại được bản chất nguyên thủy. Vì vậy, vấn đề là làm sao làm tốt hơn lên cái khí riêng của mình: tất cả luân lý của Tống Nho nằm trên đó.

Làm sao? Một là phải giáo dục luân lý. Lí học thánh hóa đạo đức của Khổng học, đưa Khổng học lên thành tôn giáo. Hai là phải dùi mài trí tuệ: cách vật trí tri. Tu thân là bước đầu tiên phải thực hiện trước khi tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.

Tu tề trị bình, ta đã từng học thuộc như cháo. Nhắc lại là cốt để nói: tất cả đều lệ thuộc vào luân lý, từ vũ trụ, thiên nhiên, đến văn hóa, lịch sử. Lịch sử không có gì khác hơn là bài học về luân lý, là tấm gương sáng về luân lý. Vũ trụ không có gì khác hơn là phản ánh bản tính của con người và bản tính đó là thiện vì lí là tuyệt đối chân và thiện. Từ một quan niệm siêu hình lạc quan về bản tính của con người, Tống Nho đi đến một kết luận về luân lý cực kỳ khe khắt, tất cả đều là luân lý, tất cả ước muốn của con người đều bị đặt dưới tòa án của phán quan luân lý. Nếu đây là lĩnh vực của cá nhân thì chẳng sao cả; vấn đề đặt ra là khi Nhà nước phóng tay lãnh đạo luân lý.

Lý thuyết siêu hình lạc quan ấy rất hợp với một xã hội ổn định như xã hội Nhật dưới thời Tokugawa, tức là thời kỳ tiếp theo sau một khoảng thời gian đại loạn kéo dài từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 17. Lý thuyết đó đem lại quân bình trong dân chúng và đồng thuận trong xã hội. Nhưng xã hội đâu có đứng yên mãi một chỗ, ổn định đâu có bất biến, tính lạc quan khởi đầu thời đại Tokugawa đâu có mãi mãi bền vững? Cả một loạt câu hỏi bắt đầu được đặt ra, khởi động phong trào đặt lại vấn đề. Lí có thật là bản tính nguyên thủy của con người? Con người có thể tự mình dẹp bỏ được "nhân dục" hay bắt buộc phải dẹp bỏ? Lí có phải là toàn năng đến mức cai trị tất cả? Tu tề có thật sẽ đưa đến trị bình? Nghi ngờ này tiếp theo nghi ngờ khác, rốt cuộc tất cả hệ thống dần dần tan rã dưới cách đặt lại vấn đề của Sokô (1622-1685), Jinsai (1627-1705), rồi Ekiken (1630-1714) như là những nhà đại Nho tiêu biểu. Họ vẫn ở trong hệ tư tưởng của Tống Nho, nhưng họ nghi ngờ. Một câu nói của đồ đệ Ekiken biểu trưng tình trạng đó: "Thầy tôi càng tin mãnh liệt chừng nào vào tư tưởng của Chu Trình thì càng nghi ngờ mạnh mẽ chừng ấy". Quá trình đặt lại vấn đề kết thúc với Sorai. Sorai là mở đầu của đoạn tuyệt. Thế giới trí thức Nhật bàng hoàng với những lập luận mới của ông, nhưng rất nhanh bị ông thu hút.

Sorai xét lại

Đâu là mới trong lập luận của Sorai? Quan trọng nhất là phương pháp nhìn và phân tích vấn đề của ông. Với phương pháp đó, ông vẫn đứng trong hệ tư tưởng của Tống Nho, nhưng ông đã suy nghĩ với một cái đầu khác. Thú thật, tôi không bị hấp dẫn vì nội dung trong tư tưởng của Sorai bằng phương pháp ông đã dùng trong thời đại của ông. Hai trường hợp cụ thể sau đây cho thấy cái nhìn mới của ông khi ông mới bắt đầu hành trình xét lại.

Trường hợp thứ nhất xảy ra năm 1696 khi Sorai giúp việc cho một quan chức lớn. Một anh nông dân cùng khổ bỏ nhà, bỏ vợ, cạo đầu làm thầy tu dưới tên Dônyû, dẫn mẹ đi lang thang kiếm ăn. Dọc đường, bà mẹ bị đau, anh chàng gửi mẹ tại chỗ, tìm đường lên kinh đô. Mặc dù bà mẹ được cư dân ở đấy chăm nom và gửi trả về nguyên quán, anh chàng vẫn bị bắt với tội phạm "từ bỏ cha mẹ". Ông quan hỏi ý kiến các nhà Nho cố vấn: trị tội với hình phạt gì? Luật nhà Minh không có chỗ nào nói về mục này, luật lệ bản xứ cũng không có, các Nho gia đề nghị xem trường hợp Dônyû như chỉ là trường hợp người đi ăn xin; Đi ăn xin thì đâu có phải từ bỏ cha mẹ? Huống hồ anh chàng đã bỏ vợ trước đó mấy ngày mà vẫn cung dưỡng mẹ già dù phải đi ăn xin - một thái độ đáng khen, nhất là đối với một người cùng khổ. Vợ thì bỏ, mà mẹ thì vẫn cưu mang: vậy thì anh chàng có ý định bỏ mẹ đâu? Đó là lối lý luận hợp với tinh thần Tống Nho, cái gì cũng dựa vào lí, lí đó luôn luôn hiện diện trong đầu con người và hiển lộ qua ý định đưa đến hành động.

Viên quan không bằng lòng với lập luận đó. Dưới mắt ông, bỏ cha mẹ là tội không tha thứ được, dù con đi ăn xin. Ông hỏi ý kiến Sorai. Đây là lần đầu trong đời, ông lập thuyết công khai: "Nếu có một nạn đói xảy ra nơi nào đó, chắc chắn nơi khác cũng có nhiều người đói như vậy. Bỏ cha mẹ là điều không tưởng tượng được. Nếu ta xét hành động của Dônyû là như vậy và phạt tội, ta sẽ tạo ra một tiền lệ mà tòa án các nơi khác sẽ xử theo. Nhưng tôi nghĩ rằng trách nhiệm dồn một người đến cái mức tàn tệ như Dônyû trước hết phải quy cho các quan địa phương từ cấp thấp đến cấp cao rồi lên cao hơn và ngay cả lên cao hơn nữa. Bởi vậy, tội của Dônyû, nếu đem ra so sánh, là không đáng kể".

Thượng cấp của Sorai khen phải. Ông cho phép Dônyû trở về nguyên quán và cấp dưỡng thóc gạo để nuôi mẹ. Lời tự sự sau đây của Sorai đáng ghi lại nguyên văn:

"Từ thuở bé, tôi đã sống ở nông thôn; năm 13 tuổi, tôi dời đến Kazusa và nếm đủ mùi khổ cực, thấy đủ mọi cảnh. Chính tại vì tôi là dân quê mùa cục mịch, vừa chui ra khỏi nông thôn, nên tôi mới dám nói với quan lớn thứ ngôn ngữ mà người thường không dám bắt chước… Ở mãi trong phủ chúa, người ta tất nhiên nhiễm thói quen sống và suy nghĩ để trở thành những kẻ nói sao cũng được và tựu trung chẳng biết gì. Nghĩ cho kỹ, các quan lớn hoặc các quý tộc sống mãi trong đó chẳng biết gì cả và chẳng bao giờ nói được câu gì khác với các ý kiến nghe đến nhàm tai".

Lời tự sự đó hé ra cho thấy ý muốn cải cách chính trị của Sorai. Nhưng quan trọng không kém là cách nhìn vấn đề của ông. Nho gia nhìn mọi việc qua lí, gò bó tư tưởng trên ý định chủ quan đã đưa Dônyû đến hành động để xem hành động đó "đáng khen" hay không. Sorai, đặt vấn đề trên bình diện khách quan, hướng vấn đề qua trách nhiệm chính trị của quyền lực để tha bổng. Đúng hay không, không phải là chuyện để nói ở đây. Chuyện để nói là cái nhìn đã đổi. Phân biệt hai lĩnh vực, khách quan và chủ quan, là một khía cạnh quan trọng trong phương pháp luận của Sorai.

Chuyện thứ hai lý thú hơn nữa, gợi hứng cho những tranh luận kéo dài đến thế kỷ 19. Sáng ngày rằm tháng chạp năm 1702, dân chúng ở kinh đô hoảng kinh khi nghe kể 46 cựu samourai của lãnh chúa Akô tấn công tư thất của Kira Yoshinaka, cắt đầu ông này để trả thù cho chủ cũ. Dư luận bàn tán xôn xao về thái độ phải đối xử trong sự việc tối quan trọng này vì nó liên quan đến mối quan hệ phong kiến giữa chủ và tớ, nền tảng của chế độ Tướng Quân. Sự việc cũng động đến cơ sở của Khổng giáo trong chừng mực luân lý đức Khổng đặt ngang hàng quan hệ chủ tớ với bốn quan hệ khác, có tính cách tư, cha-con, vợ-chồng, anh-em, bạn bè. Nho gia bối rối. Phần đông đòi tha cho các samourai. Rốt cuộc, phán quan của Tướng Quân xử như sau:

"Nếu ta lý luận theo các lý do đã thúc đẩy các samourai đó hành động, hành động của họ là thích đáng vì họ là những người mà cuộc đời là ngủ trên chiếu, gối trên gươm, báo thù cho chủ, giết kẻ thù của chủ không đội trời chung. Luật sống của samourai buộc họ không được tha thiết với đời sống, cấm họ nuốt nhục. Nếu ta lý luận theo quan điểm của luật pháp, ai làm trái luật đều phải trị tội. Dù các samourai đã hành động theo lời trối trăn của chủ cũ, họ đã vi phạm luật của Nhà nước. Tội đó đáng phải xử trảm để làm gương cho thế hệ bây giờ và mai sau. Hai quan điểm đó [lý do và luật pháp] có vẽ hoàn toàn trái ngược nhau, nhưng vẫn có thể sống chung với nhau mà không phản lại nhau. Chỉ cần, trên thượng đỉnh, có một minh quân cai trị với những cố vấn minh triết, làm sáng tỏ luật pháp và ban bố sắc lệnh, và ở dưới, có những chư hầu trung thành và những samourai đạo hạnh, xả thân theo tình cảm của mình, sống trọn với ham muốn, rồi sau đó quyết định tuân theo luật pháp, chấp hành bản án xét xử".

Một lập luận hàng hai, nhưng cho phép áp dụng cả hai thứ luật: luật của Nhà nước và luật của võ sĩ đạo. Chuyện đáng nói ở đây là sự phân biệt giữa ý định ở bên trong và luật pháp ở bên ngoài báo hiệu sự tan rã của lý thuyết về lí, đặt tất cả trên nền tảng luân lý, xem mọi nguyên tắc của lĩnh vực công đều bắt nguồn ở luân lý cá nhân, tu thân vi bổn, trị nước là hậu quả kéo dài.

Sorai cũng kết án như thế, nhưng với một lập luận khác, chặt chẽ hơn:

"Sự việc 46 samourai trả thù cho chủ chứng tỏ rằng các người này tôn trọng danh dự giống như bất cứ samourai chân chính nào khác. Hành động trung thực như vậy, đã đành họ đi theo con đường mà bổn phận của họ đã vạch ra, nhưng sự lựa chọn đó chỉ liên quan đến họ, và, tựu trung, đó là một vấn đề có bản chất riêng tư. Đối với luật, thái độ đó không chấp nhận được. Nếu, bây giờ, ta tuyên bố rằng 46 người đó có tội mà lại kết án họ mổ bụng theo luật võ sĩ đạo của họ thì các võ sĩ ấy có sợ gì mà không mổ bụng theo bổn phận trung thành của họ? Có thể biện pháp đó thích hợp nhất với ích lợi chung, nhưng nếu ta vi phạm ích lợi chung bằng những lập luận về ích lợi riêng như thế, rốt cuộc sẽ không thể làm luật gì được cho Nhà nước".

Khác nhau chỉ ở câu cuối. Sorai cũng công nhận hành động của các samourai là có cơ sở, nhưng, bằng mọi giá, phải hạn chế sự công nhận đó vào lĩnh vực tư, như là những quan điểm riêng tư, chủ quan, cá nhân, khi các quan điểm ấy trái với ích lợi chung, hoặc khi một luân lý cá nhân tràn vào lĩnh vực công.

Phân biệt hai lĩnh vực công và tư, lãnh địa của luân lý và lãnh địa của luật pháp, lãnh địa của tu thân và lãnh địa của trị quốc, tư tưởng của Sorai nhắm vào một điểm căn bản: chính trị hóa Khổng giáo, đặt ưu tiên trên yếu tố chính trị. Từ điểm căn bản này, Sorai dần dần phá vỡ tất cả kiến trúc của tư tưởng Tống Nho, với một phương pháp luận sắc bén, chặt chẽ.

Điểm khởi hành của phương pháp đó là: "nghiên cứu những từ cổ và những câu cổ". Sorai gây dựng cả một học phái đi chuyên sâu vào nghiên cứu này. Ông nói: không hiểu chữ cho đúng thì không hiểu Đạo được. Tại sao? Tại vì một ngôn ngữ luôn luôn thay đổi theo thời gian. Nếu ta giải thích những tài liệu xưa theo nghĩa của chữ mà ta dùng ngày nay, có khi ta hiểu sai ý của người xưa. Tinh túy của nghiên cứu, ông nói, là khiêm tốn giới hạn vào việc tìm hiểu từ và sự việc. Đừng quan tâm đến những biện luận tinh tế về bản chất của đời sống. Cụ thể, nghĩa là gì? Là nghiên cứu những định chế và sự kiện văn hóa mà Nghiêu Thuấn để lại cho thời hoàng kim của Tam Đế Hạ, Thương, Chu. Thay vì Tứ Thư như Chu Hy xem trọng nhất, Sorai đặt trọng tâm trên Ngũ Kinh, vì theo ông, Ngũ Kinh diễn tả những định chế và những sự kiện lịch sử. Nghiên cứu cặn kẽ từng chữ, từng câu trong Ngũ Kinh để hiểu rõ cụ thể những định chế của thời thượng cổ, xong rồi mới bắt qua Luận Ngữ để hiểu ý nghĩa thực sự những gì Khổng Tử viết, chứ không phải chỉ hiểu Khổng Tử qua giải thích của người đời sau. Nếu Sorai sống vào thế kỷ 19 ở châu Âu hoặc thế kỷ 20 ở nhiều nước khác, chắc ông sẽ nói: hãy hiểu Mác bằng cách đọc thẳng Mác, chứ đừng đọc qua chữ nghĩa của những người nhân danh ông.

Mục đích mà Sorai nhắm đến là gì? Là cắt đứt sự liên tục giữa Thánh nhân và người thường và gạt bỏ dần dần tính chủ quan - mà ông gọi là "minh triết riêng tư" - nhờ chuyển việc nghiên cứu từ lí qua cổ tự, cổ ngữ. Ông lập luận thế nào?

Sorai lập luận

Trước hết, Đạo chỉ bao gồm những nguyên tắc liên quan đến con người, chứ không phải bao gồm cả trật tự tự nhiên, liên quan đến Nhân, chứ không mắc mớ gì đến Thiên với Địa. Khi người ta nói đến "Đạo Trời" là vì liên tưởng đến "đạo của Thánh nhân", thế thôi, chứ chẳng ai biết Trời là gì. Trời là bí mật, không thể biết được. Thánh nhân sợ Trời, kính Trời, nhưng không bao giờ nói rằng mình biết Trời là gì. Trời không phải là đối tượng của hiểu biết, Trời là đối tượng của kính sợ. Các ông đại Nho giải thích "Trời là một thể với Lí" là tán dóc, là "minh triết riêng tư". Đạo, duy nhất là Đạo của Thánh nhân. Đạo của Thánh nhân là gì?

Sorai phân biệt tinh túy với nội dung. Ông nói: Người xây dựng nên Đạo là Nghiêu và Thuấn, mà Nghiêu và Thuấn là vua. Vậy Đạo của Thánh nhân bao gồm duy nhất Đạo của chính quyền, Đạo của Nước. Và bởi vì Nghiêu Thuấn là vua, Đạo của Thánh nhân cũng được gọi là Đạo của các Vua Thời Xưa. Đạo đó có mục đích đem lại thái bình cho Nước. Trong tinh túy, Đạo đó có bản chất chính trị: trị quốc để bình thiên hạ. Chính trị tách rời với luân lý. Chính trị tách rời với tu thân. Dây liên kết tu tề trị bình bị chặt đứt.

Còn nội dung là gì? Là lễ, nhạc, luật và nghệ thuật cai trị, những yếu tố mà các Vua Thời Xưa đã sáng chế; Ngoài ra không có gì khác. Đạo là khách quan và cụ thể. Lễ, nhạc, luật, và nghệ thuật cai trị là những định chế và sự kiện văn hóa của thời thượng cổ, không có liên quan gì đến bản tính con người. Nếu ta ăn mặc như Nghiêu, nói năng như Nghiêu, cư xử như Nghiêu thì ta là Nghiêu, chẳng cần nhờ vả gì đến lý thuyết nhân chi sơ tính bản thiện. Vì Đạo không có liên hệ ràng buộc gì của luân lý, bàn luận về tính thiện, tính ác là tốn nước bọt.

Vậy thì nền tảng của Đạo là sáng chế của các Thánh nhân hoặc của các Vua Xưa. Tuân theo Đạo của các Vua Xưa là thiện, không tuân theo là ác. Đến cái mức này, tôi nghĩ, các Vua Thánh nhân đã được Sorai siêu việt hóa, thần linh hóa, nâng lên ngang Trời, thành đối tượng tôn giáo. Bởi vậy, trái với Chu Hy cho rằng con người có thể tu thân để trở thành thánh nhân, Sorai quả quyết ta có thể học Thánh nhân nhưng ta không bao giờ thành Thánh nhân. Thánh nhân tách biệt với con người, một bên là tối hảo, một bên là đầy nhân dục, không thay đổi được.

Thánh nhân là tối hảo, nên các định chế của họ cũng tối hảo. Nhưng những định chế đó không phải là những nguyên tắc bất biến. Thánh nhân siêu việt, nhưng những nguyên tắc đó không siêu việt mà, trái lại, bị điều kiện hóa theo thời gian và không gian. Hiểu như vậy thì mới hiểu được lịch sử. Lịch sử không phải là một chuỗi dài thưởng phạt, mà là sự kiện. Sự kiện là khách quan, bình chú là chủ quan. Chủ quan thì y theo nguyên tắc. Sự kiện thì thay đổi. Ngôn ngữ cũng vậy. Định chế cũng vậy.

Từ đó, Sorai bắt qua chuyện học. Ông nói: thuở đầu, kiến thức bao gồm việc học Đạo của các Vua Xưa để trị quốc. Đạo của các Vua Xưa là Ngũ Kinh. Bây giờ, học còn là quan sát càng rộng càng tốt các sự kiện, không những lịch sử mà tất cả các lĩnh vực khác, văn chương, luật pháp, quân sự, kể cả âm nhạc, nghĩa là những gì liên quan đến văn hóa. Ông gọi lĩnh vực thứ nhất là công, lĩnh vực thứ hai là tư. Quan niệm của Sorai về công và tư khá độc đáo, cần nói rõ thêm để hiểu ý muốn chính trị hóa Khổng giáo đã nêu lên từ đầu. Câu chuyện sau đây làm sáng thêm vấn đề:

Hai samourai thông đồng với nhau để lật đổ chế độ tướng quân. Việc bại lộ vì anh này đi tố cáo anh kia với nhà chức trách. Thưởng công cho anh đi tố cáo là việc mà dư luận phản đối, vì ai cũng cho anh này là hèn, sao không tự tay chém phứt cái đầu của anh kia mà phải mượn tay Nhà nước. Sorai không nghĩ thế. Ông thấy một duyên cớ khác: nếu anh ta tố cáo vì trung thành với Nhà nước thì sao? Ông nói: trong việc cai trị một nước, nhiều khi những bổn phận riêng tư phải tuân theo những nguyên do hợp lý, nhưng nếu những bổn phận đó trái với trật tự công đến mức vi phạm trật tự công thì không được viện dẫn bổn phận riêng tư.

Trong chuyện vừa kể, cũng như hai chuyện trước, "công" có nghĩa là chính trị, xã hội, cái gì ở bên ngoài; "tư" là cái gì ở bên trong, là cá nhân. Hiểu như vậy là đồng nghĩa với cách hiểu hiện nay, nhưng không dễ gì tư tưởng "tiền hiện đại" đi đến chỗ đó. Trước hiện đại, người ta không thấy gì chống đối, phân biệt, giữa công và tư. Ông quan, đã là phụ mẫu chi dân thì ông làm gì cũng vừa là quan vừa là phụ mẫu. Cả cái nước cũng là của ông. Phân biệt giữa công và tư, và giải phóng cho "tư", là công trình của hiện đại. Trong "tiền hiện đại", không phải người ta hoàn toàn không có khái niệm gì về công và tư, nhưng người ta hiểu một cách khác, dựa trên luân lý. "Công" là tốt, là thiện. "Tư" là xấu, là ác. Trong Tống Nho, "công" là lí, "tư" là nhân dục. Sorai cũng đặt "công" trước "tư". Nhưng ông không bác bỏ "tư". Người cầm quyền cũng có quyền có những quan tâm tư. Nhưng người cầm quyền chính đáng phải đặt quyền lợi công trên quyền lợi tư. Chừng đó, tư tưởng của Sorai đã là cách mạng. Càng cách mạng hơn nữa khi ông bênh vực những cảm thụ tự nhiên của con người, chống lại luân lý gò bó của Khổng giáo.

Từ đó, sự phân biệt công/tư trong Sorai đưa đến sự phân biệt giữa quy tắc và tính tự nhiên (norme/nature). Ông viết: "Các đại Nho hiện tại say sưa với nguyên tắc lí, các ngài mở miệng ra là toàn luân lý, bổn phận, thiên mệnh, nhân dục. Mỗi khi nghe vậy, tôi buồn nôn đến nỗi phải chạy đi nơi khác cầm ống sáo mà thổi". Đừng thay đổi tính tự nhiên của con người, phát triển cá tính của mỗi người, giải phóng cá tính đó ra khỏi luân lý chi hồ dã giả, học phái của Sorai thu hút không biết bao nhiêu là trăm hoa trong hội trường của ông.

Sau lịch sử, sau chính trị, đến lượt văn chương cũng được ông giải phóng ra khỏi luân lý. Kinh Thi, theo ông, không cốt khuyến thiện trừng ác. "Có rất nhiều bài thơ nhá nhem đạo đức trong đó. Những bài thơ ấy, nếu Chu Hy bình chú là đã được sáng tác để trừng ác, thì tôi quả quyết ngược lại rằng đó là những bài thơ sáng tác để đưa vào đường trắc nết hư thân. Tuyệt đối không có gì khác giữa những bài thơ trong Kinh Thi và những tác phẩm về sau. Phải đánh giá những bài thơ trong Kinh Thi như là những bài thơ và chỉ là những bài thơ". Thơ là để diễn tả tình cảm của con người, do đó thuộc về lĩnh vực tư.

Tóm lại, trên tất các vấn đề căn bản, Sorai phá vỡ thành trì Khổng giáo tuy vẫn ở trong Khổng giáo. Một tư tưởng trổi dậy như vậy, được trí thức hưởng ứng, gây nên thanh thế, tất phải có cơ sở xã hội. Cơ sở xã hội này tất không phải nền tảng trên đó triều đại Tokugawa xây dựng quyền hành lúc đầu. Vậy đó là cơ sở xã hôi gì?

Cơ sở xã hội của tư tưởng Sorai

Trong 80 năm đầu củng cố quyền lực, ổn định xã hội, tiếp theo một thời gian cực loạn, triều đại Tướng Quân Tokugawa đã lấy Tống Nho làm hệ ý thức, cắt đứt mọi liên lạc với bên ngoài, biệt lập với thế giới, bế môn tỏa cảng. Xã hội được ổn định thật đấy, nhưng với thời gian xã hội nào mà không biến chuyển?

Trước hết là biến chuyển về văn hóa. Tướng Quân thứ năm, Tsunayoshi, ra sắc lệnh buộc các samourai phải học văn chương chữ nghĩa, ngoài phép tắc lễ nghĩa trên dưới. Ý của Tướng Quân là dựng lên một chính quyền nho sĩ. Khổng Miếu được xây ở Phủ chúa, Edo, giáo dục được mở mang, thơ phú được diễn giảng khắp nơi, chúa tôi hồ hỡi đàm luận chữ nghĩa trong các hội trường, nhà nhà vang dội thánh điển Khổng Mạnh. Được Tướng Quân yêu chuộng, khuyến khích, thơ và nghệ thuật phát triển rất nhanh, trổ ra thành nhiều trường phái độc lập, tranh đua nhau phản ứng lại truyền thống. Bashô xuất hiện trong thơ. hài cú phô sắc. Văn chương bắt đầu có dấu hiệu hiện thực với Saikaku mô tả thế giới ăn chơi ở Edo. Kịch nghệ vụt trưởng thành, mở ra cho giới thị dân có tiền thú tiêu khiển mới. Hội họa khoác áo tươi mát, cởi mở hơn, đáp ứng thị hiếu mới của giới ăn chơi. Tóm lại, trong mọi lĩnh vực của văn hóa, tính sáng tạo nảy nở, đơm bông kết trái.

Những hình thái văn hóa mới đó đem vui đến cho đời sống trở nên thoải mái hơn của dân thị thành, nhưng rốt cuộc lại bị dân thị thành biến đổi, và dân thị thành ở đây, đặc biệt là ở ba thành phố lớn nhất, Edo, Kyôto, Osuka, là giai cấp mới đang lên, nhờ kinh tế mở mang. Có tiền, họ phung phí tiền vào những chuyện ăn chơi quá lố, văn hóa rốt cuộc rồi cũng lố lăng. Phụ nữ diện rất sang, bắt chước các cô gái ở khu ăn chơi, áo quần đắt tiền từ ngoài đến trong, phấn son lược là cực kỳ đỏm đáng, trương của trên khắp thân hình, mệnh phụ phu nhân ngày xưa nằm mơ cũng không dám thế. Giới samourai bắt chước theo. Trước, các vị ấy không có cả chiếu trải nhà. Bây giờ, nhà cao cửa rộng, áo lụa xênh xang, đầu chải dầu, gươm nạm vàng bạc, kẻ dưới ăn diện không thua bậc trên, kể cả các chú võ sĩ trẻ hầu hạ trong các gia trang, xa hoa hỗn tạp.

Dưới đã vậy, trên khỏi nói. Cách ăn, cách ở, cách đầy tớ gia nhân hầu hạ, cung phụng, bái rước mỗi khi ra đường, nghi lễ đám cưới, đám tang hoành tráng không thua gì chốn cung đình, nhất cử nhất động tiền vung như nước.

Các chỗ ăn chơi phồn vinh như trúng số, ban ngày là thiên đường, ban đêm là lạc cung, giới võ sĩ cũng lân la đến nếm mùi, cả trên lẫn dưới. Ăn chơi đã trở thành mục tiêu của đời sống, mọi quan tâm khác, nhất là chính trị, tan biến trong đầu, đầu ai còn tơ tưởng đến đổi mới với cải tổ, tướng quân chỉ cần kín đáo tặng một nhát gươm. Nhất trí, võ sĩ và giai cấp thị dân mới giàu cùng vui chơi, cùng hưởng thụ một thời đại thanh bình, văn hóa phát triển, chính trị ổn định, đỉnh cao nhất của triều đại Tokugawa.

Nhưng đó là bộ mặt phồn vinh ở bên ngoài. Ở bên trong, biến đổi cứ âm thầm tiến tới, bước từng bước chậm nhưng chắc nịch, phá hủy dần dần quyền lực của chế độ phong kiến Tokugawa dựa trên sự phân chia giữa giai cấp võ sĩ với ba giai cấp kia. Bắt đầu là biện pháp thả lỏng việc phong đất cho chư hầu và tình trạng các võ sĩ tập trung về thành phố. Đặc điểm của chế độ phong kiến là kết hợp quyền lực và sở hữu đất đai. Bây giờ, tách rời quyền lực ra khỏi việc quản trị trực tiếp đất đai tức là đào mồ cho cả chế độ. Anh chư hầu được phong đất còn có chút liên hệ với đất thông qua đất được phong và phẩm vật phải cống cho thượng cấp, nhưng bây giờ, đối với phần đông giới võ sĩ, toàn là võ sĩ cấp dưới cả, chút liên hệ với đất đai đó chỉ còn tính cách rất tượng trưng qua việc hưởng lương trên thóc của nông dân nộp. Chưa hết, Nhà nước đã bắt đầu đúc tiền, kinh tế bắt đầu đi vào kinh tế tiền tệ, mà tiền thì càng ngày càng phải đúc thêm để trả lương cho các samourai càng ngày càng tập trung về kinh đô và thành phố. Đời sống của các samourai lúc trước dựa trên lợi tức của đất, vững chắc, bây giờ dựa trên tiền càng ngày càng mất giá. Đến nhà thổ, đâu có vác thóc đi theo để trả cho các em? Tiền đâu để xài sang?

Tướng Quân Tsunayoshi hào phóng hậu đãi chư hầu và võ sĩ được một thời phồn vinh, nhưng sau ông, khó khăn về kinh tế và tiền tệ trở thành bất trị, ngân sách Nhà nước cứ chi bội thu. Các Tướng Quân không có biện pháp gì khác ngoài việc cứ đúc thêm tiền, cả tiền vàng tiền bạc. Càng đúc, giá càng lên, samourai càng cạn túi, tiền càng đổ xô chui vào hầu bao của giới thương nhân. Võ sĩ đem thóc ra đổi tiền, ban đầu đổi ra tiền vàng, sau tiền vàng mất giá, đổi ra tiền đồng để tiêu hàng ngày. Gạo cơm mắm muối ngày nào cũng chừng ấy, không giảm, mà tiền đồng thì khan, có nghĩa là tiền đồng lên giá, võ sĩ càng túng. Các Tướng Quân giải quyết bằng cách đúc tiền "nặng", giá gấp mười lần đồng tiền cũ. Nhưng dân không ưa tiền ấy, không chịu dùng, chính quyền ép mấy cũng không được, dọa nạt cũng bằng thừa. Đến một lúc thì chuyện lạ ắt phải xảy ra: dân không nghe nữa. Tướng Quân chết giữa cơn hỗn loạn tiền tệ, nào vàng, nào bạc, nào đồng mà tỷ hối cứ thay đổi bất thường, chưa kể vàng bạc cũng biết tìm đường vượt biên ra khỏi nước, định cư nơi nào đắt giá hơn.

Tình trạng bất lực kéo dài cho đến Tướng Quân thứ 8, Yoshimune (1684-1751). Ông này áp dụng một chính sách khắt khổ, giảm chi, giảm tiêu, từ Tướng Phủ đến dân chúng. Nhưng tình trạng vẫn không khá, Nhà nước phá sản, không đủ tiền để trả lương cho chư hầu. Rốt cuộc, để cứu nguy, ông phải nuốt nhục dùng đến một biện pháp cùng đường: buộc các chư hầu (daimyô) có một lợi tức bằng hoặc cao hơn 10 000 koku phải biếu ông một "tặng phẩm bằng thóc" tương ứng với 1% của lợi tức. Ngược lại, ông miễn cho họ một nửa nghĩa vụ phải ở kinh đô. Chế độ phong kiến ở Nhật buộc chư hầu phải thay đổi chỗ ở, một nửa thời gian ở địa phương, một nửa thời gian ở kinh đô. Bây giờ cột trụ phong kiến ấy sụp đổ (từ 1722 đến 1730) chỉ vì khó khăn ngân sách.

Họa vô đơn chí, khổ vì chuyện tiền, võ sĩ còn khổ vì chuyện thóc. Giá thóc cứ tụt, rồi đến năm 1728 thì rơi tõm vì… quá được mùa. Nhưng giá gạo cơm mắm muối thì không tụt mà cứ thăng thiên. Tiền thì túi rỗng mà ăn chơi xả láng thì quen thói, võ sĩ không trở về lại được nữa với thời yên ngựa thanh gươm, dần dần lệ thuộc vào giới ngân hàng, giới cho vay, phất lên giàu sụ nhờ khai thác tỷ hối lên xuống giữa vàng và bạc, nhờ giá hàng của vật phẩm tiêu dùng lên vọt như pháo bông. Đồng thời, chính sách xây nhà, nhất là sau những thiên tai, tạo ra bổng lộc béo bở cho các nhà thầu, cho các tay buôn gỗ.

Chưa bao giờ giới thương gia thượng phong đến thế! Trật tự trên dưới giữa hai giai cấp, võ sĩ và phú thương, đảo ngược, trời nằm dưới, đất ở trên. Chư hầu cao cũng như chư hầu thấp cúi rạp đầu trước phú thương để xin ân huệ, xin tha những lỗi đã phạm, xin khất nợ, xin vay thêm tiền để tiếp tục xa hoa. Trước, võ sĩ xưng hô trịch thượng với thị dân; bây giờ, gặp phú thương đều phải gọi "ngài" như nhau, ngài này với ngài kia, bình đẳng. Trước mắt phú thương, khách hàng là khách hàng, ai cũng như ai, gươm đeo bên hông hay không cũng vậy. Họ nói: võ sĩ có gươm, ta đây có gái geisha, ai làm ai lác mắt? Họ lại nói: gươm chém đầu được, nhưng chém tiền thử coi! Tiền vào là gươm tè ra nước!

Tuy nhiên… tuy nhiên cũng phải nói điều này: tất cả giới phú dân vừa phất lên ấy đều ăn bám vào quyền lực phong kiến, tất cả đều là "tư bản thương gia" chẳng có khả năng gì sáng tạo ra những phương thức sản xuất mới, phần đông làm giàu chỉ nhờ cho vay nặng lãi một cách hợp pháp. Nương vào quyền lực phong kiến mà phất, phất lên nhờ hút máu từ thuế của nông dân nộp cho lãnh chúa, kiếp giàu của họ rất mong manh. Họ ý thức chứ: Tướng Quân nổi giận là họ đi đời. Cho nên, ăn chơi cho hả là triết lý sống, vất tiền vào thanh lâu như vất rác, yến tiệc hơn cung đình, xe ngựa lầu son tang bồng phỉ chí. Tất cả giới phú thương đó không tạo ra nổi cái bóng mờ của "giai cấp trung lưu", "bourgeois", đầu óc chẳng có chút lý tưởng gì tương tự giới doanh nhân đồng thời lúc ấy ở bên kia trời Âu như Weber mô tả.

Sĩ nông công thương… vị thế tương quan giữa sĩ và thương là như vậy. Còn cột trụ thứ hai của chế độ phong kiến - nông dân - thì sao? Thì âm thầm chịu đựng, như chịu đựng từ bao thế kỷ.

Từ đầu, các Tướng Quân Tokugawa đã nghĩ ra mọi biện pháp để thu thuế, thuế là cơ sở kinh tế của quyền lực họ nắm. Mọi biện pháp đều tốt dù xâm phạm vào đời sống riêng tư, ăn uống mặc ngủ… Nông dân phải ăn thế nào? Ăn ngũ cốc hạng bét, ít gạo. Uống làm sao? Cấm uông sakê, cấm uống trà. Một trà một rượu, hai thứ ấy cấm. Mặc sao đây? Cho phép mặc áo bông, nhưng cấm đụng đến vải sang, dù để làm cổ áo hoặc thắt lưng cho đẹp. Trồng trọt thế nào? Để dành đất mà trồng ngũ cốc, không được trồng thuốc lá. Còn vợ con phu thê, cái thứ ba lăng nhăng ấy, tha hồ chứ? Luật dạy: được rẫy vợ khi vợ không săn sóc chồng đàng hoàng, khi vợ có thói uống trà nhiều quá, thích vui chân dạo chơi nơi này nơi nọ. Ngược lại, dù vợ xấu như ma lem mà sửa túi nâng khăn tươm tất thì phải thương yêu hết mực.

Tất cả những cấm kỵ răn bảo đó đều được luật quy định. Và luật phê: như thế thì nông dân sẽ có một đời sống yên lành, vô tư, sau khi đã làm xong nghĩa vụ nộp thuế. Giả dụ như có anh nông dân nào chịu cường hào ác bá không nổi, muốn bỏ làng mà đi, qua sống làng khác, được chăng? Được chứ! Thoải mái, sau khi đã nộp thuế không thiếu một hạt thóc.

Ấy, nông dần âm thầm… Nhưng có cái gì mà không biến đổi, kể cả cái âm thầm chịu đựng của anh nông dân? Kinh tế thương mại, kinh tế tiền tệ phát triển vào tận nông thôn, ảnh hưởng lên đời sống của nông dân. Việc thu thuế càng ngày càng khe khắt vì giới võ sĩ càng ngày càng nghèo túng. Kinh tế đổi chác, đổi thóc lấy hiện vật nhường chỗ cho tiền, khí cụ trao đổi. Nhưng ảnh hưởng kinh tế, dù lớn, cũng không lý thú bằng ảnh hưởng văn hóa, cái thứ văn hóa ăn chơi xa xỉ của phú dân thành thị. Bị siết chặt đủ thứ trong đời sống riêng tư, anh nông dân rướn cổ tìm chút không khí tươi mát bằng cách bắt chước ăn chơi ở thị thành, mặc cho Tướng Quân ban thêm sắc lệnh nhắc nhở bổn phận ăn mặc ngủ nghỉ. Nông dân gánh trên vai hai thúc bách mâu thuẫn: vai này nhắc thuế nặng hơn, vai kia xúi dại ăn chơi chút đỉnh. Hậu quả tất nhiên là thế: giữa nông dân và lãnh chúa "địa chủ", hận thù chồng chất.

Đã thế, thâm nhập của tư bản thương mại vào nông thôn tất phải đưa đến việc thu hút đất đai vào quy trình tiền tệ. Trên nguyên tắc, đất đai trồng trọt cấm không được mua bán; nhưng luật đó bị cả trăm biện pháp vô hiệu hóa. Rốt cuộc, một mặt, trên nguyên tắc, đất bị tập trung; một mặt, trên thực tế, đất bị phân tán. Nông dân, cùng đường, chỉ còn có cách duy nhất thôi, quá quen thuộc trong lịch sử, là nổi loạn. Từ 1704 đến 1735, đếm sơ sơ 40 vụ nổi loạn, gấp đôi so với trước. Đến 1750 thì tình trạng nông dân bi đát đến mức đe dọa cả chế độ phong kiến.

Bức tranh xã hội kể trên đưa đến nhận định gì? Đàng sau lớp son tráng lệ của văn hóa thời Tsunayoshi (thường gọi là văn hóa Gensoku) dâng lên, ở thành phố cũng như nông thôn, một thái độ chống đối, nơi này tiêu cực, nơi kia tích cực, tất cả hợp lại thành nước thủy triều làm nứt đê, đẩy chế độ phong kiến đến chỗ phải xét lại. Nhưng chống đối, tiêu cực hoặc tích cực, đều không đủ mạnh để đập vỡ chế độ. Dù lung lay, phong kiến Tokygawa vẫn tồn tại. Nói cách khác, đây đúng là tình trạng chuyển tiếp, giao thời. Đúng là bối cảnh xã hội để Sorai "chính trị hóa" Khổng giáo.

Thật vậy, nếu xã hội vững chắc, ổn định, một tư tưởng xét lại sẽ không có chỗ đứng, tâm lý con người lúc đó ai cũng thấy lạc quan. Chỉ khi nào xã hội biến đổi, giai cấp thống trị cảm thấy bị đe dọa, khi đó một vài đầu óc nhạy bén mới cảm thấy có khủng hoảng, mới đặt vấn đề tư tưởng chính trị lên hàng đầu. Nhưng, mặt khác, nếu xã hội tham nhũng, nhầy nhụa, xáo trộn đến mức vô phương cứu chữa thì hoạt động trí thức cũng bầy nhầy, nhem nhuốc, lấp liếm rỗng tuếch trong phê phán bằng tiếu lâm với ngụ ngôn. Chính ở giữa hai tình trạng đó, hai giới hạn đó, một tư tưởng chính trị có tính chiến đấu, có khả năng đốp chác với thực tại, mới có thể trổi dậy. Sorai đúc kết được tư tưởng của ông, chối từ lạc quan của Tống Nho, "chính trị hoá" Khổng giáo", chính là nhờ ông đã sống ở giữa hai giới hạn ấy. Sorai là "nhà tư tưởng về khủng hoảng" lớn đầu tiên mà xã hội Tokugawa đã sản xuất. Bênh vực ông hay chống lại ông, trí thức sau ông đều là con đẻ của ông, bởi vì đều chịu ảnh hưởng vô cùng lớn của ông, nhất là trên mặt phương pháp.

Sau Sorai: Norinaga

Sau Sorai, một học phái khác xuất hiện, chế ngự thế giới trí thức của Nhật: học phái "nghiên cứu quốc học" mà chủ xướng là Motoori Norinaga (1730-1801). Hai ông khác nhau như hai thái cực, nhưng ông này có thể được xem như sợi dây nối dài của ông kia trên mặt lập thuyết. Học phái "nghiên cứu quốc học" đả kích Khổng giáo tận cội rễ, thay thế bằng việc đề cao lịch sử và văn học của Nhật. Họ nói: Thánh nhân hoặc Vua Xưa của Tàu là Vua và Thánh nhân của Tàu, bởi vậy giáo huấn của họ chẳng thích hợp gì để hiểu đặc điểm riêng của lịch sử Nhật. Thay vì Thánh ấy và Vua ấy, Norinaga đề cao các vị thần đã tạo ra nước Nhật. Thay vì thánh điển của Tàu, ông đưa ra thi và thư, đầy diễm lệ, đã kể chuyện nguồn gốc, đã sinh thành ra văn hóa của nước ông. Ta có thể đoán trước: học phái "nghiên cứu quốc học" góp phần tạo ra cơ sở ý thức hệ cho phong trào phục hưng lại quyền của Vua đã bị Tướng Quân tước đoạt, và, sau đó, của chủ nghĩa dân tộc đã đưa nước Nhật đến chiến tranh. Chuyện đó không nói ở đây. Ở đây chuyện để nói là: qua tư tưởng của Sorai và Norinaga, chính trị, lịch sử và văn chương, trước đây bị Khổng giáo buộc chặt thành hệ thống, bây giờ bị tách biệt ra với nhau. Từ sự tách biệt đó, ý thức về hiện đại manh nha. Tuy vậy, lịch sử vẫn luôn luôn đòi hỏi phải cắt nghĩa. Phải giải thích cho bằng được ý nghĩa ẩn nấp sau các sự kiện. Không còn là tấm gương luân lý nữa thì nó là cái gì? Cái gì còn giữ mãi hoài niệm về một quá khứ hài hòa đã mất? Ước muốn tìm lại sự thống nhất nguyên thủy giữa quyền lực và lễ nghi, sự gần gũi giữa người và thần, sẽ đưa đến việc thành lập chính quyền Minh Trị, đặt cơ sở trên cá nhân của Thiên Hoàng, người nắm mọi uy quyền, người có nguồn gốc thần linh, như thuở trước.

Nhưng trước khi đi đến kết luận đó, hãy trở về với mối liên hệ giữa Sorai và Norinaga. Có thể nói là có liên hệ không, khi Norinaga chỉ trích học thuyết của Sorai là vẫn còn nô lệ tư tưởng của Tàu? Có thể. Đó là liên hệ vừa đối nghịch vừa tiếp nối.

Trước hết là về vấn đề thần đạo ở Nhật. Sorai không nói gì về thần đạo. Và đúng là ông đã nâng các Thánh nhân và các Vua Xưa của Trung Quốc lên hàng thần thánh, đối tượng của tín ngưỡng. Học phái của Norinaga nói: hạ bệ Lí, nhưng sùng bái Thánh nhân của Tàu, như vậy là Sorai mới đi được nửa đường. Huống hồ, cái nhìn của Sorai về Vua Xưa tựu trung vẫn là cái nhìn chính trị: một uy quyền chính trị đâu có ví được với uy quyền của thần linh? Uy quyền chính trị bị hạn chế trong thời gian và không gian, thời gian đó là thượng cổ, không gian đó là nước Trung Hoa. Cực kỳ nghiêm khắc, họ viết: "Người ta gọi Đạo là những gì do Thánh nhân lập ra. Như vậy, cái mà ta gọi là Đạo của người Trung Hoa, trong ý định sâu thẳm nhất, giới hạn vào hai việc: một là đi xâm chiếm lân bang, hai là không để cho lân bang xâm chiếm". Chính trị chẳng phải là như vậy sao? Lý luận của Sorai bị lật ngược. Sorai nói: Đạo là tuyệt đối vì đó là sáng tạo của Thánh nhân. Phái Norinaga nói: chính vì đó là sáng tạo của Thánh nhân nên nó chỉ có giá trị với người Trung Quốc.

Về Thần đạo, hồi đầu thời Tokugawa, Khổng giáo được nâng lên bậc nhất, các vị Nho gia đòi triệt hạ Phật giáo, và cách triệt hạ tinh tế nhất là giải phóng Thần đạo ra khỏi ảnh hưởng Phật giáo và ghép tín ngưỡng này vào Khổng giáo. Điển hình là giải thích sau đây của một Nho gia đầu đàn (Nobuyoshi): "Thần đạo của Nhật cũng sửa tâm con người, cũng có ý định tối hậu là trải lòng thương xót ra đến mọi người, cũng thực hiện lòng nhân. Đạo của Nghiêu Thuấn cũng đáp ứng ý định đó. Điều đó, ở Trung Hoa thì gọi là Đạo Khổng, ở Nhật Bản thì gọi là Thần đạo: tên gọi khác nhau, ý định chỉ một".

Sorai không chấp nhận sự cưỡng hôn đó. Đạo của Thánh nhân là Đạo của Thánh nhân; Thần đạo không việc gì mà xía vào. Người Nhật thờ phụng thần linh của nước mình là phải, Thánh nhân cũng muốn thế. Và ông đóng cửa, không cho Thần đạo len vào hội trường của ông.

Ở hai thái độ đối nghịch, Norinaga tiếp nối Sorai: một bên không muốn Khổng giáo của Trung Hoa làm bẩn Thần đạo của Nhật; một bên không muốn Thần đạo xen vào Khổng giáo. Đi xa hơn nữa, Norinaga phục hưng lại cái mà ông gọi là "Thần đạo nguyên thủy", giải phóng Thần đạo ra khỏi triết lý Khổng giáo: "Thần linh, trong cái nước kia - nghĩa là Trung Hoa - chỉ là một nguyên tắc trống rỗng, chẳng có chút bản chất gì; thần linh trong nước ta là tổ tiên của Thiên Hoàng, của chúng ta, chẳng liên hệ gì đến cái nguyên tắc trống rỗng ấy cả".

Mối liên hệ nối dài thứ hai giữa Sorai và Norinaga liên quan đến cái nhìn về lịch sử. Sorai, như đã nói, bác bỏ lối đọc lịch sử qua lăng kính đạo đức. Norinaga, đi xa hơn, bác bỏ luôn cách đọc lịch sử như tuân theo những nguyên tắc siêu nhân loại, kiểu thiên mệnh, ý muốn của Trời, Đạo, thần linh… Ông trích ra nhiều ví dụ cho thấy kẻ ngay bị diệt, kẻ gian được tôn. Bởi vì thiện ác, ông nói, không có ăn nhậu gì với tư cách thần linh. Trong Thần đạo, có thần ác (Magatsubi no kami) chuyên môn mang tai họa và bệnh tật, và ngay đến cả thần thiện cũng không phải chỉ làm toàn chuyện tốt. "Các ông Khổng Nho nói cái gì cũng phải hợp lý, cho nên các ông không để cho các thần thiện dính một chút bụi dơ. Còn ta, ta phải biết rằng thần linh chỉ là những người cao hơn người thường mà thôi".

Noranaga cũng từ khước đọc lịch sử theo lối hoài cổ, lý tưởng nằm ở sau lưng, xa tít tận thời Nghiêu Thuấn, lịch sử càng đi càng tiến đến chỗ xấu hơn. Cái lối ngoái cổ lại đàng sau để nhìn, ông nói, và nhìn theo một nguyên tắc chỉ đạo đã vạch sẵn, là lối suy nghĩ của Tàu. Chả nhẽ ở thời Nghiêu Thuấn cái gì cũng tốt cả? Sao lại bảo rằng sau thời Tam Hoàng thì con người bị dơ bẩn vì ham muốn? Chả nhẽ con người dưới thời Nghiêu Thuấn chẳng ai ham muốn cả sao?

Từ đó, mối liên hệ nối dài thứ ba liên quan đến việc giải phóng tính tự nhiên của con người bị Tống Nho cho mang gông dưới khái niệm "nhân dục". Sorai đã mở đầu bằng cách chặt đứt tu thân với trị quốc, tu thân là tư, trị quốc là công. Norinaga đi xa hơn: không những ông chấp nhận tính tự nhiên mà còn chính đáng hóa nó. Đạo không phải do học mà biết; nó nằm trong tim chân thật của con người ngay từ khi sinh, trái tim chân thật là trái tim có khi sinh ra, dù tốt hay xấu. Tuy vậy, ông nói tiếp: "Con người ở những thời đại về sau, vì cứ mãi mê hướng theo tư tưởng của Tàu, và do đó mất đi trái tim chân thật, cho nên không còn biết Đạo là gì nữa nếu không học". Vậy thì Đạo là tính tự nhiên của "ham muốn trong con người". Một trong những tác giả sáng chói đầu thời Minh Trị (Tsuda Manichi) tiếp nối ý tưởng của Norinaga theo một quan điểm tiến bộ hơn: "Tại sao chối bỏ, không nhận ham muốn của con người cũng là thành phần của Lí? Hoài bảo thấu hiểu bản chất của sự vật, ý muốn tìm tòi cái gì mới, hưởng thụ tự do, khao khát hạnh phúc: tất cả những đam mê đó, tiêu biểu cho những ý muốn cao đẹp nhất của con người, chẳng phải là cần thiết cho bản tính của con người hay sao?Tất cả chẳng hợp lại để bảo đảm cho tiến bộ hay sao?"

Không ở đâu sự giải phóng đó hiển lộ rõ bằng trong quan niệm về văn chương. Sorai giải phóng thơ ra khỏi luân lý và chính trị. Kinh Thi cũng giống như thơ Nhật, chẳng có chỗ nào liên quan đến tốt xấu, cũng chỉ là thở than và reo vui. Có điều là hiểu thơ tinh tế thì có lợi cho ai ngồi trên chóp bu thiên hạ. Norinaga cũng nói vậy: "Mục đích của thơ chẳng phải là để tu thân trị quốc gì cả, chỉ là để diễn tả tình cảm của trái tim… Ba trăm bài thơ trong Kinh Thi yểu điệu thật, cũng chỉ diễn tả tình cảm thôi, cho nên, giống như lời nói thốt ra từ miệng các cô thiếu nữ, thơ ấy cũng vẩn vơ, chẳng có gì sâu sắc".

So sánh thơ Nhật với thơ Tàu, ông cho thơ Nhật không thua. Đi xa hơn, ông trân trọng đặt thơ vào vị trí trung tâm của Thần đạo, cho rằng hồn của thơ (mono no aware) cũng là hồn của chính Thần đạo. Đạo của các thần, ông viết, chẳng những không vướng chút vết tích nào của lối biện luận tăn măn tỷ mỷ trong Khổng giáo, mà còn tràn đầy phong phú, diễm lệ. Cái duyên dáng ấy tạo ra hồn thơ vô cùng thích hợp với Đạo ấy. Trường phái của Norinaga xem hồn thơ đó trong thơ của Nhật có thể mang đến bình yên và hài hòa cho con người và cho xã hội. Quan niệm đó đưa đến bao nhiêu tranh cãi: vậy thơ cũng có chức năng xã hội và chính trị hay sao? Vậy thơ là thuộc lĩnh vực công hay tư?

Vấn đề này lớn quá, không bàn ở đây. Chỉ trích thêm một câu của Norinaga để chấm dứt: "Lửa tự nó nóng, nước tự nó lạnh. Không thể hiểu được vì nguyên tắc gì mà chúng nóng lạnh như thế. Để làm cho thiên hạ tưởng rằng ta có thể biết nguyên nhân, người ta bày đặt ra âm dương, thái cực, rồi đưa thái cực lên hàng thánh của tất cả các thánh, hoặc thiêng liêng hóa những đối cực, lí là lửa, phương đông, mùa xuân, khôn là nước, phương tây, mùa thu, khiến cho ai muốn nói cái gì cũng được, tả cũng được, hữu cũng xong. Tát cả những chuyện đó chỉ là đầu óc vặn vẹo do tưởng tượng của các ông thánh Trung Hoa mà ra".

♦ ♦ ♦



Tôi có hai điều muốn nói trước khi kết thúc:

Trước hết, mục đích của tôi không phải là để tán dương hai nhà học giả Nhật. Không phải cái gì các ông ấy nói tôi đều tán thành, kể cả về mặt cấu trúc tư tưởng. Tư tưởng của Sorai rất vững chắc trên lý tính, rất hợp với lý tính, rất rationnel. Mà ai cũng biết, rationalisme là một đặc tính thiết yếu của hiện đại. Thế nhưng, từ tính hợp lý trong phương pháp, lập luận của ông đi đến tính bất hợp lý, irrationnel, trong kết luận, khi ông đặt lòng tin tuyệt đối vào các Thánh nhân. Người đọc bỡ ngỡ tự hỏi: thay Trời Phật bằng Thánh nhân, tư tưởng triết lý có cao hơn lên hay thấp xuống bớt? Norinaga lại càng đi xa hơn trong tính bất hợp lý: phục hưng lại Thần đạo, thần quyền của Thiên Hoàng, tin tưởng tuyệt đối vào các thần trong đạo ấy, thế chẳng phải là thay thế một tín ngưỡng bằng một tín ngưỡng khác chẳng phổ quát gì hơn? Cả hai ông nhiều khi nhuộm tư tưởng của mình với màu sắc thần bí (mystique) đến độ làm phương hại cho phương pháp thực nghiệm (positiviste) rất hiện đại của mình.

Tuy vậy, đó chưa phải là quan tâm của người viết. Câu hỏi chính là: tại sao người Nhật biết xét lại vấn đề từ hồi thế kỷ 17-18 còn ta thì không? Còn ta thì phải đợi đến Phan Khôi của những năm 1930 khi Khổng học đã chiều tà xế bóng? Đọc Sorai, người đọc thấy ông sùng bái văn hóa Trung Hoa không thua gì các nhà nho của ta, vậy mà ông vẫn đặt lại vấn đề. Đặt lại vấn đề, như vậy, đâu có bị phong kiến đương thời coi là chống đối? Là phản loạn? Hóa ra phong kiến cũng nhận biết rằng đặt lại vấn đề là chuyện bình thường của cái đầu. Cái gì đã khiến ta không làm thế? Cái gì đã khiến ta khác Nhật? Đầu óc nô lệ chăng? Hay là xã hội ta ở thời đại đó bị chiến tranh liên miên, nào Lê, nào Trịnh, nào Mạc, nào Tây Sơn, nào Nguyễn, chỉ mỗi vấn đề chính thống đã làm kiệt quệ hết tư tưởng?

Thứ hai, xã hội Nhật thời Tokugawa là một xã hội đóng, cô lập với thế giới, cả Sorai lẫn Norinaga đều không biết mô hình nào khác mô hình phong kiến, cả hai đều không có ý đả phá chế độ phong kiến, cả hai đều phò tá các tướng quân. Vậy mà, trong xã hội đóng ấy, tư tưởng vẫn có thể mở, hai trường phái chính mà hai ông là thủ lãnh vẫn thu hút đông đảo trí thức Chính nhờ tư tưởng đã đi trước thời đại như vậy tự bên trong, không cần có bên ngoài tác động, mà vua Minh Trị mới dám quả quyết khi mở nước Nhật ra cho thế giới bên ngoài: duy tân là giữ hồn Nhật, chỉ mượn phương Tây về kỹ thuật mà thôi. Họ biết đâu là hồn của họ khi mở cửa. Xã hội ta ngày nay, ngược lại, là một xã hội mở, mở loạn xà ngầu, thế mà tư tưởng thì đóng, sinh hoạt trí thức rách rưới, bần hàn. Ai có chút suy nghĩ đều không thể tự đặt câu hỏi: tình trạng ấy có bình thường không?



Chú thích

Quyển sách của Maruyama, xuất bản lần đầu tại Nhật năm 1952, tập hợp những nghiên cứu ông viết trong khoảng thời gian 1940-1944 Chi tiết này rất quan trọng để hiểu tư tưởng của tác giả và những tranh luận sau đó. Đó là khoảng thời gian mà nước Nhật phát xít lao vào đại chiến thứ hai. Trí thức tiến bộ, Maruyama không vui vẻ gì với chế độ quân phiệt.

Về điểm này, cũng như về tư tưởng của Maruyama, một trong những trí thức đầu đàn thời hậu chiến, có thể xem:

- Mary L. Hanneman: The Old Generation (Mid) Showa Japan: Hasegawa Nyosekan, Maruyama Masao, and Post-War Thought, Historian, Vol. 69, N° 3, Fall 2007.

- Andrew E. Barshay: Imagining Democracy in Post-War Japan: Reflections on Maruyama Masao and Modernism, Journal of Japanese Studies, Vol. 18, N° 2, Summer 1992.- -…

- Laura Hein, điểm sách, Tadashi Karube: Maruyama Masao and the Fate of Liberalism in Twentieth Century, American Historican Review, Vol. 114, N° 1, Feb. 2009.







Source : Thời Đại Mới

( Vol 19/2010 )

Nguyễn Trung - “Tô-tem sói” ngày nay là con sói ngày càng hung dữ

“Tô-tem sói” ngày nay là con sói ngày càng hung dữ

Nguyễn Trung
Hà Nội



1. Kịch bản leo thang mới

Trước hết, tôi xin mượn văn học để bàn chuyện chính trị, rất cảm tính, song đó lại là cảm nhận thật của tôi về Trung Quốc hiện đại.

Đã nhiều năm trôi qua, khi tôi gấp quyển tiểu thuyết “Tô-tem sói” lại, mà hôm nay cảm giác ghê sợ đến buốt lạnh về khát vọng sói mà Khương Nhung để lại trong đầu tôi vẫn còn rõ lắm. Ngay trong cuộc họp của Trung tâm Văn hóa Đông-Tây năm ấy ở Hà Nội giới thiệu cuốn tiểu thuyết này, tôi đã nói rõ cảm nghĩ của mình: Vượt lên trên tất cả những gì Khương Nhung gửi gắm vào các con chữ mình viết ra, dù vô tình hay hữu ý, gần như là một bản năng trong tiềm thức, Khương Nhung đã tự hé lộ ra cho người đọc một bản năng sói - như một văn hóa, một lẽ sống, một đặc tính rất Hán của quốc gia Trung Quốc… Và hình như cái tự bộc lộ ra từ bản năng, từ tiềm thức như thế bao giờ cũng là thật nhất, đúng với bản chất nhất! Sự hưởng thụ trong tôi những cái hay mà một quyển tiểu thuyết có thể đem lại không đọng lại được bao nhiêu, nhường chỗ cho câu hỏi: Đứng cạnh một Trung Hoa đang lên như vậy, nước ta xử sự thế nào?

Thú thật, cảm nghĩ và câu hỏi của tôi đặt ra như vậy trước hết cũng là một bản năng, cảm nhận của lý trí đến sau, nhưng nó chỉ làm cho câu chuyện nghiêm trọng hơn. Song làm sao có thể cảm nhận khác, nghĩ khác được, trong tình hình hàng ngày tôi phải đối mặt với tất cả những gì đã và đang diễn ra trong quan hệ Việt-Trung, ít nhất là từ 1972 đến nay.

Sự việc 3 tàu hải giám của Trung Quốc ngày 26-05-2011 vào sâu trong lãnh hải Việt Nam, uy hiếp tàu Bình Minh 02, gây những hành động phá hoại, và cắt cáp thăm dò địa chấn của ta là những hành động khiêu khích trắng trợn. Trung Quốc liên tiếp tái diễn những hành động này tại những điểm khác nhau trên vùng biển của Việt Nam trong những ngày tiếp theo cho đến hết thượng tuần tháng 06-2011 - khi tôi ngồi viết bài này. Đồng thời Bộ Ngoại giao Trung Quốc qua người phát ngôn của mình khẳng định yêu sách ngang ngược về cái gọi là “chủ quyền không thể chối cãi” của Trung Quốc ở Biển Đông, với những lời lẽ uy hiếp nước ta. Rõ ràng đây là một chiến dịch mới, tiếp theo vô số những chuỗi chiến dịch của cả quá trình cái “tô-tem sói” ngày nay hiện nguyên hình thành sói với tất cả các đặc tính của nó: Một bá quyền Trung Quốc đang lên đang tìm cách xác định lãnh địa và không gian sinh tồn của nó trên thế giới ngày nay – với tất cả đặc tính sói, được trang bị dưới cái lốt “trỗi dậy hòa bình kiểu Trung Quốc”.

Đối với nước ta, sự kiện tàu Bình Minh 02 và các hành động trong những ngày tiếp theo do Trung Quốc gây ra có ý nghĩa nghiêm trọng không kém những hành động của Trung Quốc đánh chiếm toàn bộ vùng đảo Hòang Sa của ta năm 1974 và đánh chiếm thêm 7 đảo và bãi đá Trường Sa năm 1988. Bởi vì tất cả những sự kiện này – dù quy mô và tính ác liệt có thể khác nhau, song đều có chung một bản chất là hành động xâm lược.

Những bài báo và phát biểu rất hiếu chiến ngày càng nhiều trên các phương tiện truyền thông – bao gồm cả trên TV của Trung Quốc, những hành động vũ lực ngang ngược cấm đánh bắt cá ngày càng gia tăng, những hoạt động của tàu thuyền quân sự và dân sự Trung Quốc gây sức ép với các tàu nước ngoài hợp tác với Việt Nam ở Biển Đông trên lĩnh vực dầu khí ngày càng trắng trợn, dàn khoan dầu “khủng” giá 1 tỷ USD đang xây dựng dự kiến sẽ được đưa tới Biển Đông, thông báo 19 lô khai thác dầu khí Trung Quốc sẽ tiến hành khai thác trên Biển Đông vô luận thuộc lãnh hải quốc gia nào.., tất cả những sự việc này cho thấy sự kiện Bình Minh 02 sẽ chỉ là vụ việc đầu tiên của một kịch bản leo thang mới, trong cái tổng chiến dịch “đường lưỡi bò 9 vạch”. Kịch bản leo thang mới này được xúc tiến trong những nỗ lực ráo riết xây dựng “hải quân nước xanh” để Trung Quốc tạo ra cho mình thế áp đảo trên Biển Đông.

Nội dung chủ yếu của kịch bản leo thang mới này là Trung Quốc tìm mọi cách gây ra những tranh chấp, từng bước cố định hóa những điểm tranh chấp ấy theo kiểu “việc đã rồi” (fait accompli) để chiếm lấy, đồng thời gây mọi sức ép – bao gồm cả hậu thuẫn của sức ép quân sự - để hoàn tất việc lấn chiếm. Thực chất đấy là thủ đoạn gây “tranh chấp” để lấn chiếm từng bước trên biển Đông dưới sự hậu thuẫn trực tiếp của sức mạnh quân sự, đồng thời trong khi vẫn để ngỏ và tranh thủ mọi cơ hội cho xâm lăng trực tiếp bằng quân sự khi cần.

Thủ đoạn thâm độc mới này một mặt nhằm đánh lừa dư luận thế giới “không có chuyện Trung Quốc xâm lược, mà chỉ có chuyện tranh chấp vì cách hiểu khác nhau về chủ quyền”, mặt khác giúp Trung Quốc trong khi liên tục đẩy tới việc lấn chiếm của mình trên Biển Đông mà vẫn có thể đồng thời tranh thủ thời gian chuẩn bị tốt hơn nữa cho những hoạt động xâm lăng vũ trang trực tiếp sau này khi cần. Cũng phải nêu lên rằng tự Trung Quốc cũng thấy còn phải tính toán rất nhiều và chuẩn bị thêm rất nhiều về mọi mặt cho xâm lăng vũ trang trực tiếp trên Biển Đông. Vì một cuộc xâm lược vũ trang trực tiếp nhằm mục đích lấn chiếm mới những vùng biển và đảo trên Biển Đông như thế dứt khoát sẽ không thể đơn thuần chỉ là vấn đề giữa Trung Quốc và các quốc gia bị xâm lược trong Biển Đông được nữa, nó sẽ là vấn đề của thế giới!

Nét nổi bật của kịch bản leo thang mới này là linh hoạt vận dụng tổng hợp mọi biện pháp quân sự - chính trị - kinh tế, tranh thủ mọi thời cơ để giành từng lợi thế tại chỗ, tiếp tục lấn tới từng bước. Kịch bản leo thang mới này vừa nhằm mục tiêu lấn chiếm trước mắt, vừa nhằm mục tiêu lâu dài là đẩy tới và từng bước hiện thực hóa yêu sách “đường lưỡi bò 9 vạch”.

Như vậy, Trung Quốc không chỉ nói như trên các bài báo đầy khẩu khí bành trướng xâm lược của họ, mà là đang làm một cách nhất quán, từng bước, liên tục, rất cân nhắc và có bài bản, trong tổng thể vận dụng mọi sức mạnh cứng và mềm, kết hợp ở phạm vi toàn cầu cũng như trong từng khu vực, cho việc xúc tiến mục tiêu thực hiện đường lưỡi bò 9 vạch.

Nhìn vào định hướng chiến lược và những nỗ lực tập trung của Trung Quốc, càng thấy rõ: Đường lưỡi bò 9 vạch là bước khởi đầu mở đường vươn ra các đại dương, là ưu tiên hàng đầu trong tổng thể chiến lược toàn cầu của Trung Quốc trên con đường ngoi lên thành siêu cường.

Nhìn vào những gì đã và đang xảy ra trong quan hệ Việt – Trung trên Biển Đông, có thể khẳng định: Đằng sau bất kể lờì nói hoa mỹ nào, dù là 16 chữ, là 4 tốt… về hữu nghị, hòa bình, hợp tác của lãnh đạo Trung Quốc, sự theo đuổi mục tiêu đường lưỡi bò 9 vạch của Trung Quốc là kiên định, quán triệt, ngày càng gia tăng mức độ nghiêm trọng.

Thực tiễn đã và đang diễn ra như nêu trên, cùng với tất cả những lý do địa kinh tế và địa chính trị khác, chứng tỏ trong quá trình theo đuổi mục tiêu đường lưỡi bò 9 vạch, Trung Quốc coi Việt Nam là chướng ngại vật, là đối tượng số 1 cần khuất phục. Kịch bản leo thang mới mở đầu qua sự kiện Bình Minh 02 tiếp tục khẳng định điều này.

Trong lịch sử hàng ngàn năm quan hệ Việt-Trung, nước ta chưa bao giờ được Trung Quốc ban cho thứ “quan hệ hữu nghị” nào, mà chỉ giành được quan hệ láng giềng tốt sau khi ta đã làm thất bại mọi nỗ lực thôn tính và xâm lược của họ. Thời kỳ vàng son của quan hệ Việt – Trung trong giai đoạn hai quốc gia cùng đứng trên chiến tuyến đấu tranh bảo vệ độc lập quốc gia và chống chủ nghĩa đế quốc cũng là do cả hai nước đều cần đến nhau. Hơn thế nữa, cuộc kháng chiến chống chủ nghĩa đế quốc của nước ta hồi ấy khách quan mang lại thuận lợi vô giá trong việc giữ chân từ xa các thế lực chống Trung Quốc, để Trung Quốc rảnh tay xây dựng đất nước của mình và giành lấy vị trí quốc tế mới của họ. Nhắc lại lịch sử để dứt khoát khẳng định không thể nào có thứ “quan hệ hữu nghị ăn xin” từ phía Trung Quốc dành cho nước ta, phẩm cách một quốc gia cũng không thể tự cho phép ta ngửa tay chờ mong một sự ban phát như thế. Tình hình ngày nay lại càng như thế trên chặng đường Trung Quốc đang ngoi lên thành siêu cường.

Hơn lúc nào hết, nhiệm vụ bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, gìn giữ biển, đảo, vùng trời vùng biển của đất nước, gìn giữ hòa bình và an ninh cho đất nước, đòi hỏi chúng ta phải tỉnh táo nhận thức Trung Quốc đặt nước ta vào vị trí là đối tượng số 1 cần khuất phục trong quá trình mở đường thực hiện chiến lược toàn cầu ngoi lên siêu cường. Điều này nói lên tính quyết liệt trong chính sách của Trung Quốc đối với nước ta. Muốn gìn giữ, xây dựng được quan hệ hữu nghị và hợp tác với Trung Quốc mà nhân dân ta đời đời hằng mong muốn, Việt Nam ta lại càng không một phút được phép mơ hồ về người láng giềng của mình, cần phải xuất phát từ nhận thức tỉnh táo này trong khuôn khổ bàn cờ thế giới ngày nay mà xác định chiến lược và hành động của mình. Nhất thiết phải xây dựng bằng được mối quan hệ hữu nghị láng giềng tốt với Trung Quốc, song điều này chỉ có thế phấn đấu gian khổ để giành lấy, chứ không thể có được từ ban phát.

II. Sự trỗi dậy hòa bình kiểu Trung Quốc

Gần như là một quy luật, cho đến nay lịch sử thế giới chưa hề được chứng kiến một sự xuất hiện hòa bình của một siêu cường nào. Sự ra đời của các đế quốc đã nói lên điều này. Sự xuất hiện và diệt vong nhanh chóng của nước Đức và Nhật với tham vọng bá chủ thế giới trong lịch sự cận đại cũng xác nhận như vậy.

Tuy nhiên từ nửa sau thế kỷ 20 đến nay, mặc dù những mâu thuẫn quyền lực muôn thuở giữa các cường quốc trên thế giới không mất đi hoặc thậm chí có những nét mới – (xin nhấn mạnh điều này), nhưng vì đòi hỏi tồn tại của chính mình, ngày nay tất cả các cường quốc trên thế giới – kể cả siêu cường Mỹ - và cùng với họ là hầu hết những quốc gia phát triển và nhiều nước đang phát triển khác, phải cùng nhau chia sẻ - với mức độ rất khác nhau tùy quốc gia – những giá trị chung là hòa bình, dân chủ, nhân quyền, bảo vệ môi trường, cùng phát triển.

Sự chia sẻ ngày càng sâu rộng những giá trị chung nêu trên trở thành nền tảng ngày càng vững chắc cho trật tự quốc tế ngày nay, đang chi phối ngày càng sâu sắc hơn mọi quan hệ giữa các quốc gia trên hành tinh này. Trên trường quốc tế ngày nay, vai trò và ảnh hưởng của mỗi quốc gia, dù lớn dù nhỏ khác nhau thế nào, trước hết phụ thuộc rất nhiều vào việc quốc gia ấy đứng ở đâu trong hành trình chung của nhân loại vì hòa bình, dân chủ, nhân quyền, bảo vệ môi trường và cùng phát triển.

Như vậy, Trung Quốc trên đường ngoi lên thành siêu cường không phải là sự tự trình diễn một mình trên cung trăng hoặc trong một thế giới hoang dã, mà là trong một thế giới đã thiết lập được cho mình một trật tự quốc tế của văn minh nhân loại ngày nay. Mâu thuẫn giữa một bên là sự phát triển “không thể không ồn ào” của một nước 1,3 tỷ dân trên đường trở thành siêu cường và một bên là trật tự quốc tế đã định hình của thế giới văn minh ngày nay là một thực tế khách quan. Tạo hóa đặt nước ta vào vị trí nước láng giềng nằm án ngữ con đường gần như độc đạo của Trung Quốc đi lên siêu cường qua Biển Đông, nước ta có nhiều vấn đề phải giải quyết trong quan hệ với siêu cường sinh sau đẻ muộn này, chính vì thế nước ta càng phải hiểu rõ không chút mơ hồ thực tế khách quan vừa trình bầy.

Với sự xuất hiện của một Trung Hoa trên đường trở thành siêu cường, thế giới ngày nay đang đứng trước những vấn đề nan giải mới, ở khu vực Đông Nam Á lại càng như thế - bất chấp một trật tự quốc tế đã định hình vững chắc, bất chấp sự cam kết được nhắc đi nhắc lại của Trung Quốc về “trỗi dậy hòa bình”.

Trong bài viết “Biển Đông – cái biển hay cái ao” tháng 10-2010, tôi đã nêu lên nhận xét khái quát: Kể từ khi tiến hành cải cách năm 1976, trong vòng gần 5 thập kỷ Trung Quốc đã đi được chặng đường mà về nhiều mặt các nước tư bản trước kia phải đi mất khoảng 2 thế kỷ. Sự kiện một nền kinh tế lớn mạnh rất khác thường như đang diễn ra ở Trung Quốc cho thấy rõ nét nhất: (a) Toàn cầu hóa và (b) tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ ngày nay có thể tạo ra sự thay đổi nhanh chóng và sâu rộng như thế nào trong tổng thể nền kinh tế thế giới và tác động sâu sắc vào các mối quan hệ giữa các quốc gia trong cộng đồng quốc tế ngày nay. Có thể nói Trung Quốc – với lợi thế rất lớn về quy mô kinh tế của mình, là nước thành công bậc nhất trong việc nắm bắt đặc điểm nêu trên của xu thế phát triển kinh tế của thế giới, đã tiến hành những biện pháp quyết liệt, nhiều khi rất tàn bạo đối với trong nước và thực dụng một cách triệt để đối với thế giới bên ngoài, tất cả để giành lợi thế cho Trung Quốc, tất cả đã làm cho Trung Quốc trở thành “công xưởng của thế giới” - gần như với bất kỳ giá nào, với nhiều tác động đối với toàn thế giới. Đấy chính là những thành quả không ít máu và nước mắt của chủ nghĩa tư bản nhà nước toàn trị trong thể chế chính trị một đảng có tên gọi là chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc. Những sự kiện ở Thiên An Môn, Tân Cương, Tây Tạng... là những cột mốc trên hành trình đi đến những thành quả này.

Ngày nay Trung quốc là cường quốc kinh tế đứng thứ hai thế giới và đồng thời là một cường quốc quân sự có khả năng uy hiếp nhiều nước, nhất là các nước trong khu vực Đông Nam Á. Với tính cách là “công xưởng của thế giới” và đồng thời là chủ nợ lớn nhất thế giới, Trung Quốc đang ra sức phát huy quyền lực mọi mặt, bao gồm cả quyền lực mềm, đồng thời ra sức khoét sâu những chỗ yếu của các đối thủ, đặc biệt là của đối thủ lớn nhất là Mỹ. Nhìn lại, phải thừa nhận trên thực tế Trung Quốc đã tạo ra được sự thay đổi đáng kể cán cân quyền lực trên thế giới nói chung và nhất là ở khu vực Đông Nam Á nói riêng.

Sự thay đổi cán cân quyền lực nêu trên có thể nhận biết được qua sự giảm sút vai trò và ảnh hưởng của Mỹ ở châu Á, qua sự sa lầy của Mỹ với nhiều hệ quả nghiêm trọng và lâu dài vào những vấn đề như Iraq, Afghanistan, Taliban, Trung Đông...và qua hàng loạt những vấn đề phi truyền thống khác – đặc biệt là nạn khủng bố và những vấn đề mới đặt ra cho Mỹ trong thế giới đạo Hồi. Cuộc khủng hoảng kinh tế rất sâu sắc nước Mỹ đang trải qua hiện nay có những nguyên nhân tự bản thân cấu trúc nền kinh tế Mỹ và những yêu cầu phát triển mới, những nguyên nhân của những tác động do quá trình toàn cầu hóa gây ra – nhất là những hệ quả tiêu cực không tránh khỏi trong quá trình “outsourcing” (thi công ra ngoài)và trong quan hệ kinh tế song phương với Trung Quốc. Song cũng phải nhấn mạnh sự thay đổi như thế của cán cân quyền lực thế giới còn có những nguyên nhân do sự sa lầy nói trên của Mỹ gây ra. Nhìn tổng thể, sự thay đổi như vậy trong cán cân quyền lực toàn cầu gay gắt đến mức Mỹ hiện nay đang phải chấp nhận một sự thay đổi quyết liệt.

Sự thay đổi cán cân quyền lực toàn cầu còn thể hiện qua sự suy thoái chung của toàn bộ các nền kinh tế phương Tây, rõ nét nhất là của EU và Nhật, ngoài những nguyên nhân chung của thế giới phương Tây, còn phải kể đến những tác động không nhỏ của “cái công xưởng thế giới” và sự chi phối của chủ nợ lớn nhất thế giới. Không phải ngẫu nhiên tiếng nói của EU về nhiều vấn đề có liên quan đến Trung Quốc phải mềm đi rất nhiều.

Sự thay đổi cán cân quyền lực toàn cầu còn thể hiện ở chỗ sự phát triển năng động đến mức nóng hay rất nóng của kinh tế Trung Quốc còn được coi là cứu cánh của việc duy trì tốc độ phát triển của châu Á nói riêng và thế giới nói chung với những động cơ rất thực dụng. Muốn hay không, đấy cũng là một sự lệ thuộc đang được Trung Quốc ra sức khai thác – để khẳng định vị thế quốc tế của mình, nhất là trong khuôn khổ G2, và để đẩy mạnh việc nâng cao vai trò của đồng Nhân dân tệ ở phạm vi thị trường thế giới.

Quyền lực mềm của Trung Quốc đang lên thành siêu cường không cần tuân thủ những giá trị cơ bản là các thành tố của trật tự quốc tế hiện hành. Do đó Trung Quốc đã mua được rất nhiều thứ và hầu như ở khắp mọi nơi, dù đó là mặt hàng chính trị, nguyên nhiên liệu, các vùng đất đai, các khu địa ốc, các Chinatowns mới tại các khắp nơi, các khu mỏ, các mối quan hệ phức tạp với mọi đối tác phức tạp, bí mật công nghệ.., đồng thời cũng bán được rất nhiều thứ, bao gồm cả hàng rẻ - hữu hình hoặc vô hình, không hiếm hàng độc hại với cả nghĩa đen và nghĩa bóng, trong đó có sản phẩm mang tên là “diễn biến hòa bình”…

Quyền lực mềm Trung Quốc không quan tâm đối tác của nó là ai, miễn là đạt mục tiêu – dù đối tác đó là các chế độ diệt chủng ở Sudan, Rwanda, Mozambique.., các chế độ chính trị độc tài hoặc cánh “tả” theo kiểu dân túy ở Mỹ La-tinh và nhiều nơi khác, dùng tham nhũng tha hóa các đối tác – mức thấp là các quan chức, mức cao là các chính khách - và đã có một vài chính khách ở các châu lục khác nhau mất chức... vân vân…

Quyền lực mềm Trung Quốc dưới dạng tiền còn có thể buộc tập đoàn xuyên quốc gia có tên tuổi bẻ lệch quyết định kinh doanh của mình, hoặc thậm chí phải hủy bỏ quyết định - như đã xảy ra với BP và Exxon trong hợp tác dầu khí với Việt Nam năm nào… Nếu hiểu rằng tại các nước phát triển, chính sách của quốc gia và chính sách của các tập đoàn kinh tế là hai chuyện hoàn toàn khác nhau, thậm chí không ít trường hợp chính sách của tập đoàn kinh tế chi phối hay ảnh hưởng đến chính sách của quốc gia, sẽ thấy tầm vóc nguy hiểm của quyền lực mềm Trung Quốc dưới dạng tiền tác động vào các nước. Vân vân…

Người Trung Quốc có câu “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”, nếu dịch câu này theo nội dung “bạn nói với tôi, bạn đi với ai, tôi sẽ nói bạn là ai!” ta có thể hiểu rõ bản chất quyền lực mềm Trung Quốc, được phát huy cao độ với quan điểm mục tiêu biện minh cho biện pháp theo kiểu “mèo trắng, mèo đen, miễn là…” Quyền lực mềm này khuyến khích sự hình thành những liên minh mềm có thể là nhất thời, có thể là không hình dạng, một liên minh hay đồng minh ít nhiều có hơi hướng thần thánh, đầy cám dỗ ma quỷ nhân danh chống đế quốc, chống bóc lột, chống lại hoặc hoàn toàn không thân thiện với cái trật tự quốc tế của hòa bình, dân chủ, nhân quyền, bảo vệ môi trường và cùng phát triển đang hiện hành trên thế giới. Quyền lực mềm này còn thể hiện rõ qua thái độ nước đôi với một số vấn đề nhậy cảm trên thế giới như vấn đề năng lượng hạt nhân, nạn diệt chủng ở một số nơi, phân hóa các đối tượng, đối tác – kể cả trong ASEAN, vân vân… Quyền lực mềm còn được triển khai dưới dạng xuất khẩu lao động ồ ạt, gần như đồng nghĩa với nạn xâm thực ở châu Phi. Mỹ La-tinh, miền giáp ranh nước Nga, nhiều nơi khác nữa…

Nói khái quát, đấy là sự vận động của quyền lực mềm Trung Quốc, theo nguyên lý cái gì tiền không làm được thì nhiều tiền hơn nữa sẽ làm được; cái gì một năm chưa làm được thì hai năm, ba năm, một thập kỷ, vài thập kỷ sẽ làm được…Cái nguyên lý này có xuất sứ từ một nước giầu những lý thuyết Tôn Tẫn theo phương châm không đánh mà thắng, giầu truyền thống vận dụng mâu thuẫn luận theo kiểu tọa sơn quan hổ đấu mà lịch sử Xuân Thu Chiến Quốc để lại một kho tàng kinh nghiệm phong phú. Chưa bao giờ các học giả và các viện nghiên cứu trên thế giới lại có nhiều bài viết và sách báo như trong 10 năm qua về hiện tượng đang lên “ồn ào” của siêu cường tương lai Trung Quốc, cho rằng Trung Quốc “thành công” vượt xa chủ nghĩa thực dân mới thời nào và đang đặt ra cho thế giới nhiều vấn đề mới…

Lấy sự kiện 11-09-2001 làm mốc thời gian tính toán để nhìn nhận thời cuộc theo kiểu đánh cờ thế, giữa một bên là Mỹ dẫn đầu của trật tự quốc tế hiện hành, và một bên là Trung Quốc dẫn đầu một liên minh thần thánh, thật khó nói khác: Trên bàn cờ thế giới 10 năm qua – cán cân quyền lực đang tạm thời chuyển động nghiêng nghiêng[1] về phía Trung Quốc trên một số phương diện.

Tuy đến giờ phút này chưa có một siêu cường Trung Quốc vượt Mỹ, nhưng phải chăng vào thời điểm hiện tại một siêu cường Trung Quốc đang xuất đầu lộ diện đang thách thức Mỹ ngày càng quyết liệt? Nếu đúng, điều này cũng chẳng có gì là sai quy luật, bởi vì trong những trường hợp nhất định của quá trình phát triển, không hiếm trường hợp cái cái lạc hậu nhất thời thắng cái hiện đại.., nói lên tính khắc nghiệt của một quá trình phát triển.

Cái “nghiêng nghiêng” có lợi cho Trung Quốc và không lợi cho Mỹ này phản ánh những hạn chế mới về tầm với và hiện tượng “tụt dốc” lúc này của Mỹ, với hệ quả Mỹ phải có những điều chỉnh trong chính sách đối ngoại cho phù hợp hơn với thực lực (ví dụ mới nhất là châu Âu bây giờ phải tự cáng đáng những vấn đề ở Bắc Phi, trong đó có vấn đề Lybia nóng bỏng).

Cái “nghiêng nghiêng” này có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan về phía mỹ. Phải chăng, trong các nguyên nhân chủ quan của Mỹ, đáng lưu ý là: Mỹ đã có nhiều tham vọng quá lớn – rõ nét nhất là trong vấn đề Irak và trong một số vấn đề khác, đồng thời đã đánh giá thấp mối nguy Trung Quốc trên nhiều phương diện kinh tế, chính trị, đối ngoại trong phạm vi quan hệ song phương cũng như trong các mối liên quan toàn cầu. Hệ quả là Mỹ đi đến những quyết sách khiến cho nước Mỹ sa đà vào nhiều vấn đề nghiêm trọng chưa có lối ra, tạo ra tình thế lực bất tòng tâm, nhờ đó Trung Quốc rảnh tay giành lấy lợi thế mới, với kết cục cuối cùng là cái “nghiêng nghiêng” hôm nay.

Không ít ý kiến cho rằng cái bá quyền đại Hán thực ra chỉ là cái linh hồn, cái mầu sắc của sự phát triển ồn ào này mà thôi, cái nguyên nhân cốt lõi của sự phát triển ồn ào này là cái đói thường xuyên không thể thỏa mãn được của tăng trưởng và phát triển của đất nước trên 1,3 tỷ dân đứng trước nguy cơ phân rã thường trực và có nhiều mâu thuẫn nội bộ ngày càng gay gắt – nhất là sự phân hóa giầu nghèo, sự phân hóa phát triển vùng và vấn đề ô nhiễm môi trường... Cái nguyên nhân cốt lõi này và sự phát triển ồn ào nó tạo ra luôn luôn đòi hỏi cách giải quyết hướng ngoại dưới mọi dạng – từ vơ vét tài nguyên khắp các châu lục để duy trì tăng trưởng và phát triển, đến mở rộng không gian sinh tồn, bành trướng quyền lực mềm.., đến việc dựng lên các kẻ thù bên ngoài để hấp thụ những tác nhân gây bùng nổ trong lòng đất nước Trung Quốc, v.v.

Sự phát triển ồn ào với nội dung như thế chính là bản chất sự phát triển của Trung Quốc trong thế giới đương đại, khiến cho siêu cường Trung Quốc đang lên không phải chỉ là vấn đề đối với các nước láng giềng, mà còn là đối với cả thế giới[2]. Cũng có thể diễn dịch: Nếu Trung Quốc bá chủ được Biển Đông, khả năng Trung Quốc giành tiếp nhiều cái “bá chủ” khác rất lớn. Sự phát triển với bản chất như vậy không có khả năng tự phục thiện, mà chỉ có thể được kiểm soát thông qua củng cố trật tự quốc tế hiện hành.

III. Yếu kém của ta trong đối mặt với dã tâm Trung Quốc độc chiếm Biển Đông

Khỏi phải nói về dư luận chân chính tại nhiều nước trên thế giới bác bỏ yêu sách phi lý và trái với luật pháp quốc tế của Trung Quốc về đường lưỡi bò 9 vạch, để bàn thẳng vào những vấn đề đang đặt ra cho nước ta trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền, sự toàn vẹn thiêng liêng biển, đảo, và vùng trời vùng biển của đất nước.

Nếu liệt kê các sự việc đã xảy ra để đánh giá một cách có hệ thống, có thể đi tới nhận xét chung đầu tiên cần được quan tâm, đó là: Từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ cách đây hai thập kỷ[3], Việt Nam ở trong tình thế càng ra sức bầy tỏ thiện chí, càng nhân nhượng để tìm cách giải quyết hòa bình những tranh chấp và xung đột với Trung Quốc trên Biển Đông, Trung Quốc càng lấn tới.

Đặt cách hành xử của Trung Quốc sang một bên, không thể không tìm hiểu xem về phía ta có những yếu kém gì mà để cho phía Trung Quốc có thể khai thác, gây ra cục diện ngày càng lấn tới như vậy.

Phải chăng những yếu kém chủ yếu về phía lãnh đạo của ta là:

(a) không hiểu rõ và sợ sức mạnh Trung Quốc,

(b) bị Trung Quốc thao túng,

(c) mối lo về khủng hoảng ý thức hệ - sợ rằng cuộc đấu tranh chống các âm mưu bành trướng bá quyền Trung Quốc ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ chính trị nước ta và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã vạch ra,

(d) để cho sự bất cập và tha hóa của bộ máy điều hành đất nước ngày càng gia tăng.

Bốn yếu kém nêu trên gây ra cho nước ta không ít khó khăn, giảm sức đề kháng của đất nước, phía Trung Quốc đã ra sức khai thác.

Về kinh tế, nước ta đứng trước tình hình toàn bộ xuất siêu của ta tại tất cả các thị trường nước ngoài khác hầu như chỉ đủ hay gần đủ bù cho nhập siêu của ta từ Trung Quốc, 60 – 70% nguyên liệu cho hàng gia công hàng xuất khẩu của ta phải nhập từ Trung Quốc, liên tiếp trong nhiều năm gần đây 80 – 90% các công trình công nghiệp mới, trước hết là các nhà máy nhiệt điện, đều rơi vào tay các nhà thầu Trung Quốc với nhiều vấn đề về chất lượng, giá cả… Ngoài ra còn có vấn đề bô-xít, vấn đề titan, việc Trung Quốc mua vơ vét các khoáng sản khác, thuê đất thuê rừng.., và biết bao nhiêu vấn đề trong biên mậu giữa hai nước: hàng nhập lậu vào nước ta không sao kiểm soát nổi, các thủ đoạn lũng đoạn việc xuất khẩu các sản phẩm của ta, vân vân…Tất cả tạo ra cho nước ta một tình trạng lệ thuộc rất nguy hiểm về kinh tế. Mấy ngày gần đây từ Hongkong đã phát đi tín hiệu Trung Quốc sẽ trả đũa Việt Nam bằng kinh tế liên quan đến Biển Đông… Chưa nói đến đòi hỏi bức thiết: Đứng sát nách Trung Quốc, đất nước ta sẽ lựa chọn một chiến lược phát triển như thế nào, để sớm ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay, đổi mới cơ cấu kinh tế để chuyển sang phát triển bền vững, nhất là để không bị “cái công xưởng của thế giới” đè bẹp?

Về chính trị, do phía ta kỳ vọng nhiều vào quan hệ giữa hai đảng và vào giải quyết thông qua hội đàm trao đổi giữa lãnh đạo hai nước, nên không kiên quyết chống lại những sai trái của phía Trung Quốc, không công khai hóa trước dư luận trong nước cũng như trước dư luận thế giới việc ta chống lại những hành động sai trái này. Không hiếm trường hợp báo chí của ta được chỉ đạo phải làm nhẹ hay làm ngơ sự việc xảy ra, bưng bít thông tin. Chính vì nặng về hòa hiếu, thiếu sự kiên quyết và thiếu sự công khai minh bạch như vậy trong đấu tranh chống các sai trái của Trung Quốc, nên phía Trung Quốc càng được thể lấn tới. Cách làm này khiến cho nhiều bộ phận nhân dân trong nước không nắm rõ được thực trạng nguy hiểm hiện nay trong quan hệ hai nước– nhất là các bước đi quyết liệt của Trung Quốc trên Biển Đông, không khí “hiếu chiến bành trướng” thù địch với Việt Nam rầm rộ trên báo chí Trung Quốc, sự lũng đoạn của Trung Quốc gây ra trong nội bộ kinh tế, chính trị, xã hội nước ta… Có nhiều sự việc nghiêm trọng xảy ra mà nhân dân không được thông tin đầy đủ và kịp thời… Cách làm như vậy khiến cho nhân dân lo lắng, nghi ngờ hoặc thậm chí mất lòng tin vào lãnh đạo, hệ quả là không huy động được sự hậu thuẫn nhất thiết phải có của toàn dân trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia, làm thất bại các hành động lấn tới của Trung Quốc. Lịch sử quan hệ Việt – Trung cho đến nay chưa có một tranh chấp nào có thể giải quyết thành công và bảo vệ được chủ quyền và lợi ích quốc gia thông qua ngoại giao đi đêm theo cái kiểu đánh tam cúc, cho đến hôm nay rút cuộc vẫn là cục diện ta càng nhân nhượng, Trung Quốc càng lấn tới. Cách làm này khiến cho dư luận thế giới khó hiểu – báo chí nước ngoài có lúc phải bình luận: Việt Nam bị mất cắp mà không dám la làng thì ai dám cứu!?

Về đối ngoại, vì nặng về hòa hiếu, và nhất là vì không hiểu rõ và sợ Trung Quốc (điểm “a”), vì những mối lo dính dáng đến ý thức hệ như đã nêu trên (điểm “c”) và vì nhiều yếu kém khác, tự ta cũng gây ra cho mình nhiều bất lợi lớn, không tận dụng được vị thế của đối ngoại đất nước cho sự nghiệp bảo vệ lợi ích quốc gia liên quan đến những hoạt động đối ngoại của ta bảo vệ chủ quyền quốc gia và chống lại những hành động xâm chiếm và ngày càng lấn tới của Trung Quốc trên Biển Đông.

Điểm cần lưu ý thế mạnh trong cuộc đấu tranh chính nghĩa này của ta là có cơ sở pháp lý quốc tế vững chắc, có chính nghĩa; nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia, giữ gìn hòa bình ổn định và mở rộng hợp tác trong khu vực hoàn toàn phù hợp với lợi ích của cộng đồng các quốc gia trong khu vực, phù hợp với trào lưu hòa bình, hữu nghị, hợp tác và cùng phát triển trên toàn thế giới. Thế mạnh của ta là cộng đồng thế giới dứt khoát không thể chấp nhận yêu sách của Trung Quốc về đường lưỡi bò 9 vạch và mưu đồ độc chiếm Biển Đông; vì để chuyện này xẩy ra, trật tự quốc tế hiện nay sẽ bị phá vỡ. Tuy nhiên phải thừa nhận rằng trong hai thập kỷ qua kể từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ sau cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc trên biên giới phía Bắc nước ta tháng 2-1979, thế mạnh này của ta không được phát huy, cuộc chiến tranh xâm lược này hầu như bị lãng quên, thậm chí bị xóa đi, không phải với nghĩa khép lại quá khứ. Trong khi đó ta càng chú trọng “hòa hiếu giữ gìn đại cục quan hệ hai nước”, Trung Quốc càng lấn tới với kết cục như hôm nay.

Thế mạnh của ta là hầu hết các quốc gia trong cộng đồng quốc tế - ngoại trừ Trung Quốc – đều mong muốn có một Việt Nam cường thịnh và phồn vinh, từ đó có khả năng đóng góp tích cực vào hòa bình, ổn định và an ninh trong khu vực cũng như trong phạm vi thế giới. Thế mạnh của ta là nhiều nước – nhất là các cường quốc – mong ta trở thành đối tác chiến lược vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và cùng phát triển; cục diện thế giới ngày nay cũng vô cùng thuận lợi cho nước ta thực hiện mục tiêu vô cùng quan trọng này. Song cơ hội ngàn năm có một này đang có nguy cơ vuột mất, nguyên nhân chính là do ta nói được nhưng không làm được bao nhiêu trong thực tế. Nhiều nước thỏa thuận nâng quan hệ với ta lên tầm đối tác chiến lược, nhưng do ta nặng về hòa hiếu gìn giữ đại cục quan hệ Việt – Trung, nặng về “chống diễn biến hòa bình”, do nhiều bất cập khác của ta trên mọi mặt nội trị, kinh tế, ngoại giao.., nên kết cục sự hợp tác của ta đạt được với các đối tác chiến lược này đạt kết quả thấp xa so với mong đợi, vị trí đối ngoại của nước ta trong chiến lược đối ngoại của các đối tác chiến lược này cũng thấp so với đòi hỏi và khả năng ta có thể thiết lập được. Một mặt trận đối ngoại như ta đang tiến hành như thế làm sao có thể trong nước thì thu phục nhân tâm về một mối, trên thế giới thì tạo ra được sự hậu thuẫn vững chắc cho sự nghiệp bảo vệ chủ quyền quốc gia và môi trường khu vực và quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp phát triển của đất nước? Cạnh siêu cường Trung Quốc đang lên và đói tất cả mọi thứ, câu hỏi này càng vô cùng nóng bỏng với nước ta.

Chỉ có thể rút ra kết luận: Để bảo vệ được chủ quyền, sự toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, và vùng trời vùng biển của quốc gia, chống lại việc Trung Quốc ngày càng lấn tới trên con đường thực hiện cái lưỡi bò 9 vạch, trước hết và nhất thiết cần ra sức khắc phục những yếu kém của chính nước ta.

Đời đời sống cạnh Trung Quốc, xin đừng giây phút nào quên sức mạnh của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trên hết và trước hết là chính dân tộc Việt Nam ta đã được thử thách, tôi luyện trong lịch sử; và ngày nay dân tộc ta đang cần một thể chế dân chủ có khả năng phát huy sức sống mãnh liệt và nghị lực sáng tạo của dân tộc mình, vì một Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất dân chủ và giàu mạnh đang rất thuận lòng với trào lưu của nhân loại tiến bộ thời đại ngày nay. Muốn hòa hiếu gìn giữ đại cục quan hệ Việt – Trung, càng nhất thiết phải xây dựng nên một Việt Nam như thế.

VI. Thay lời kết: Suy nghĩ về cuộc đấu tranh sắp tới

Tiếp tục cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập chủ quyền đất nước, ngăn chặn dã tâm của Trung Quốc về đường lưỡi bò 9 vạch, trước hết và trên hết phải xuất phát từ ý chí dựa hẳn vào dân tộc và dứt khoát không sợ bạo lực nham hiểm của quyền lực Trung Quốc. Chừng nào giữa nhân dân và chế độ chính trị của đất nước là một, chừng nào chế độ chính trị của đất nước gần như đồng nghĩa với Tổ quốc, đất nước Việt Nam ta là bất khả chiến bại. Chiến thắng của dân tộc ta đánh bại tất cả các cuộc xâm lăng đã xảy ra trong lịch nước ta cho đến hôm nay khẳng định chân lý này. Lịch sử như thế đã chứng minh không thể phản bác được sức mạnh bất khả kháng của nước ta chính là sức mạnh của dân tộc và dân chủ.

Mặt trận trên Biển Đông là mặt trận rất nóng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta, Trung Quốc đang dồn sức tiếp tục giành thế lấn tới. Song mặt trận số một Trung Quốc đang dồn hết khả năng và thủ đoạn để giành thắng lợi là khoét sâu các yếu kém trong nội bộ phía ta (4 yếu kém a, b, c, d), để tạo ra một Việt Nam èo uột. Đây là âm mưu thâm độc của quyền lực Trung Quốc, muốn tạo ra một nước Việt Nam chư hầu kiểu mới, để dễ sai khiến và để tạo thanh thế uy hiếp trong khu vực. Thực tế Trung Quốc ngày càng lấn tới, đang thao túng đất nước ta trên một số phương diện, chứng tỏ quyền lực Trung Quốc đã đi được những bước nhất định trong kịch bản tạo ra một Việt Nam èo uột.

Trung Quốc toan tính giành được thắng lợi trên mặt trận số một tạo ra một Việt Nam èo uột này, Trung Quốc sẽ giành được toàn thắng trên mặt trận Biển Đông. Kịch bản một Việt Nam èo uột là ưu tiên số 1 của Trung Quốc trong chiến lược đối ngoại đối với Việt Nam[4]. Về phía ta, ta cũng cần nhận định dứt khoát: Làm Trung Quốc thất bại trên mặt trận số một này, làm thất bại âm mưu tạo ra một Việt Nam èo uột, Việt Nam sẽ có tiền đề vững chắc bảo vệ bất khả xâm phạm chủ quyền quốc gia, biển, đảo, vùng trời vùng biển của mình trên Biển Đông, đồng thời có khả năng, có tư thế, có tư cách gìn giữ đại cục quan hệ láng giềng tốt với Trung Quốc.

Đặt vấn đề với cách nhìn nhận như vừa trình bầy trên, sẽ có được chủ trương, các bước đi đúng đắn, phát huy được sức mạnh của đất nước cũng như giành được sự hậu thuẫn cần thiết của cộng đồng quốc tế, sẽ cho phép đẩy lùi sự lấn tới của Trung Quốc, gìn giữ được hòa bình ổn định trong khu vực. Muốn ngăn chặn nguy cơ Trung Quốc leo thang quân sự và sử dụng vũ lực trên Biển Đông, muốn ngăn chặn khả năng Trung Quốc khiêu khích gây ra xung đột vũ trang.., lại càng phải làm như vậy.

Tình hình đã chín muồi cần có một hình thức, một tinh thần Diên Hồng của đất nước cho những vấn đề sống còn hôm nay, về kinh tế cũng như chính trị, về đối nội cũng như đối ngoại. Lãnh đạo đất nước vào thời điểm lịch sử này chính là tạo ra cho đất nước một tinh thần Diên Hồng, một Diên Hồng như thế! Cần có lòng tin vào tinh thần yêu nước của nhân dân, lòng tin vào trí tuệ và ý thức chính trị sắc bén của nhân dân để thực hiện một tinh thần Diên Hồng hay một Diên Hồng rất đáng phải có vào lúc này. Cần phải gạt bỏ những suy nghĩ sai trái coi nhân dân là ấu trĩ, coi nhân dân là dễ bị kích động, dễ manh động, dễ bị lợi dụng… Cần phải loại bỏ những việc làm cản trở lòng yêu nước của nhân dân, loại bỏ sự dè dặt không dám bàn bạc với nhân dân để định liệu những vấn đề sinh tử của đất nước, thoái chí không dám tạo ra một tinh thần Diên Hồng hay tiến hành một Diên Hồng như thế!

Không làm, hay không làm được một Diên Hồng như vậy lúc này là không làm tròn nhiệm vụ lãnh đạo và đi ngược lại lợi ích của đất nước. Đơn giản vì đương đầu với dã tâm của quyền lực Trung Quốc lúc này, nhất thiết phải phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc. Nhìn xa hơn thế nữa, quá trình xuất hiện siêu cường Trung Quốc tự nó đặt ra cho nước ta một vấn đề mang tính định mệnh hoàn toàn chưa có tiền lệ:

- Việt Nam, với tư cách là nước láng giềng nằm án ngữ trên con đường đi lên của siêu cường này, phải lựa chọn cho mình một chiến lược thích nghi và phát triển như thế nào để có thể tồn tại với tính cách là một quốc gia độc lập có chủ quyền và là một đối tác được tôn trọng?

- Hiển nhiên, chỉ có trí tuệ, tinh thần dân tộc và dân chủ được phát huy theo truyền thống Diên Hồng mới có khả năng tìm ra câu trả lời xác đáng.

Xin nói thêm: Để tránh bị các thế lực thù địch với một Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giầu mạnh có thể lợi dụng, khiêu khích, kích động nhân dân ta, để nước ta có thể tiến hành một cuộc đấu tranh kiên quyết, thông minh, có tầm nhìn trí tuệ, có lý có tình, một cuộc đấu tranh được cả lòng dân và lòng thiên hạ, để nước ta có thể tránh được tình trạng đục nước béo cò cho bất kỳ loại cò nào trong bất kỳ tình huống nào, để chủ động ngăn chặn bất kỳ cái bẫy nào giăng ra chống lại nước ta bằng bất kỳ thủ đoạn nào bạo lực hay không bạo lực, để loại bỏ bất kỳ sự mua bán lợi ích nào trên đầu nước ta giữa các nước bên thứ ba, để có thực lực kiên định tìm kiếm được giải pháp hòa bình cho những vấn đề đặt ra trên Biển Đông, để giữa nhân dân và lãnh đạo là sự thống nhất không gì phá vỡ được, nhất thiết phải có một tinh thần Diên Hồng, một Diên Hồng như thế.

Quyền lực Trung Quốc đang lấn tới, nên đã đến lúc phải gạt bỏ mọi trói buộc ý thức hệ, phải đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, phải dứt khoát khép lại quá khứ và phải trên nền tảng của dân chủ tạo ra đoàn kết hòa hợp dân tộc, để bảo vệ và xây dựng đất nước thành công. Điều này cũng có nghĩa là đã đến lúc phải có một Diên Hồng như thế!

Chẳng lẽ vận mệnh lúc này của đất nước không đáng có một tinh thần Diên Hồng hay một Diên Hổng như thế? Song vận mệnh đất nước lúc này cũng vô cùng nghiêm khắc, đặt ra cho mỗi người Việt Nam dù là ai sự lựa chọn duy nhất: Có sống vì đất nước hay không? – với tất cả tinh thần và ý nghĩa “tồn tại hay không tồn tại” (to be or not to be!).

Cần nhìn thẳng vào những cái yếu không thể khắc phục được của Trung Quốc, đó là tính phi nghĩa và phi pháp trong các yêu sách và hành động của họ trên Biển Đông, là bạo lực nham hiểm của quyền lực Trung Quốc đi ngược với trào lưu phát triển của trật tự thế giới đang diễn ra, nên cả thế giới lo ngại và không thể khoanh tay đứng nhìn, là những yếu kém ngay trong nội tình đất nước Trung Quốc khiến cho Trung Quốc luôn luôn phải tìm cách hướng các yếu tố gây bùng nổ trong nước ra bên ngoài, là sự phát triển ồn ào đối nội cũng như đối ngoại của chủ nghĩa tư bản nhà nước toàn trị có tên gọi là chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, là các nguy cơ phân rã và đổ vỡ trong nước – trước hết do tình trạng mất dân chủ, sự phân hóa xã hội nghiêm trong, sự tàn phá môi trường, là các thủ đoạn che đậy, rất sợ công khai minh bạch nên thường phải nói một đằng làm một nẻo… Các yếu kém của Trung Quốc ngày nay còn lộ rõ ở chỗ ngày càng nhiều nơi có bàn chân quyền lực Trung Quốc đặt tới – dù là ở Mỹ Latinh, châu Phi, châu Úc, châu Á, đã bắt đầu nảy sinh những mâu thuẫn tại chỗ với Trung Quốc… Thế giới đang sợ nhiều hơn là chào đón một Trung Quốc đang ngoi lên như vậy thành siêu cường.

Cái yếu cơ bản nhất của Trung Quốc trong đối ngoại có lẽ là ở chỗ sự phát triển của Trung Quốc mâu thuẫn với xu thế phát triển của trật tự thế giới trong thời đại ngày nay là hòa bình, dân chủ, nhân quyền, thân thiện với môi trường và cùng phát triển, là ở chỗ giữa văn minh nhân loại ngày nay với văn hóa Trung Quốc có khoảng cách phát triển rất lớn. Cho nên một ngày nào đó, dù có thể sẽ là nền kinh tế lớn nhất thế giới, song Trung Quốc có thể sẽ gây thêm nhiều vấn đề cho thế giới, chứ không thể lãnh đạo thế giới, vân vân…Muốn không đánh giá thấp và cũng không sợ Trung Quốc, cần tìm hiểu rõ những điểm yếu này.

Dựa vững chắc vào nhân dân, nắm vững chắc chính nghĩa và tính pháp lý quốc tế, tranh thủ sự hẫu thuẫn của cộng đồng quốc tế và cùng đi với trào lưu tiến bộ của cả thế giới[5], đặt lợi ích quốc gia lên trên hết với tất cả sự kiên định và đấu tranh công khai minh bạch, đấy là tiền đề cho mọi bước đi và các chủ trương chính sách của nước ta về Biển Đông thành công trong việc gìn giữ được hòa bình ổn định trong khu vực, bảo vệ chủ quyền, biển, đảo vùng trời vùng trời vùng biển của nước ta trên Biển Đông.



Hà Nội, đầu tháng 6, 2011



Tài liệu tham khảo

1. Nguyễn Trung, “Việt Nam Trong thế giới của thập kỷ thứ hai thế kỷ 21”, Hà Nội, 08.01.2010, http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai18/201018_NguyenTrung.htm

2. Nguyễn Trung, “Trách nhiệm lịch sử” – Hà Nội 12-2009. http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai19/201019_NguyenTrung.htm

3. Nguyễn Trung, “Biển Đông - cái biển hay cái ao?” Hà Nội, 10&11- 2010 http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai20/201020_NguyenTrung.htm

4. Peter W. Navarro và Gregory W. Autry, 2011, Death by China: Confronting the Dragon - A Global Call to Action, New York: Pearson Prentice Hall.

5. Blumenthal, Dan, 2009, "The Erosion of U.S. Power in Asia", Far Eastern Economic Review, tháng 5.



6. Cao Huy Thuần, “An ninh”, Thời Đại Mới 17, tháng 11-2009.



7. Clinton, Hillary, 2009, Remarks at the ASEAN Regional Forum, 23 tháng 7.



8. Dillon, Dana, và John J. Tkacik Jr (2005-2006), China’s Quest for Asia, Policy Review.

9. Feigenbaum, Evan A., 2004,"China's Military Posture and the New Economic Geopolitics", Rice University.

10. Ferguson, Niall, 2009, “The decade the world tilted east”, Financial Times, 27 tháng 12.



11. Goldman, Merle, 2009, "China’s Beleaguered Intellectuals", Current History, tháng 9.



12. Hynes, Major H.A., 1998, China: the Emerging Superpower, Department of Defence (Canada)



13. Lam, Willy, 2009, "Beijing Learns to be a Superpower", Far Eastern Economic Review, 1 tháng 5 – 2010.



14. Lam, Willy, 2009b, China's Quasi-Superpower Diplomacy: Prospects and Pitfalls, Washington D.C.: Jamestown Foundation.



15. Luce, Edward, 2009, “Obama urged to fix trade policy vacuum”, Financial Times, 9 tháng 11.



16. Obama, Barack, 2009, Remarks by the President at the U.S./China Strategic and Economic Dialogue, White House, 27 tháng 7.



17. Marciel, Scot, 2009, Maritime Issues and Sovereignty Disputes in East Asia, Thượng viện Mỹ, ngày 15 tháng 7



18. McCain, John, 2009 Bài nói chuyện của Thượng Nghị sỹ John McCain tại Học viện Ngoại giao Việt Nam, 7 tháng 4.

19. Một số sách báo và các bài viết khác trong nước và nước ngoài 2011.



Chú thích

[1] Tham khảo: Nguyễn Trung, “Biển Đông – cái biển hay cái ao”, 26-10-2010, www.tapchithoidai.org/.../201020_NguyenTrung.htm -

[2] Tìm xem các bài viết và các sách về Trung Quốc đã được nêu trong danh mục các sách và tài liệu đã được tham khảo của 3 bài viết của Nguyễn Trung: (a) “Việt Nam trong thế giới thập k ỷ thứ hai thế kỷ 21” - mùa đông 2009) (b) “Trách nhiệm lịch sử” - 12-2009; và (c) , “Biển Đông – cái biển hay cái ao”, 26-10-2010, www.tapchithoidai.org/.../201020_NguyenTrung.htm -

[3] Lấy mốc là Hội nghị Thành Đô 1990.

[4] Tìm xem: Nguyễn Trung, “Biển Đông cái biển hay cái ao?”

[5] Tham khảo thêm vấn đề “xây dựng nền ngoại giao dấn thân” nêu trong bài viết “Biển Đông – cái biển hay cái ao?”



© Thời Đại Mới

Lữ Phương - Vài ghi nhận nhân đọc Hồi ký Trần Văn Giàu

Vài ghi nhận nhân đọc Hồi ký Trần Văn Giàu



Lữ Phương





Khi mất vào năm 100 tuổi (1911-2010), ông Trần Văn Giàu nổi danh như một nhà giáo dạy lịch sử. Nhưng với bản thân lịch sử thì ông cũng đã nổi tiếng từ lâu như một người đã tổ chức thành công cuộc khởi nghĩa tháng 8-1945 ở Nam bộ, và cũng trong quá trình lãnh đạo cuộc khởi nghĩa này ông cũng nổi tiếng cả với những đồn đãi rất xấu cho uy tín chính trị của ông. Mục đích hồi ký[1] của ông là nhằm xoá đi cái màn sương mờ đục phủ lên đoạn đời ngắn ngủi nhưng đầy ý nghĩa phức tạp đó – 1940 -1945 –, kể lại một cách chi tiết toàn bộ quá trình ông lãnh đạo cuộc khởi nghĩa tháng 8 nói trên ở Nam kỳ, góp tài liệu làm sáng tỏ một vấn đề lịch sử hiện đại của Việt Nam, nhưng đồng thời cũng nhằm mục đích phơi bày sự thật về những kẻ mà ông cho rằng đã dùng những thủ đoạn tồi tệ để bôi nhọ ông, làm ông khổ sở, cho mãi đến cuối đời.

***

Chúng ta đều biết Trần Văn Giàu là một người cộng sản thuộc thế hệ 30 của thế kỷ trước. Một trong những nhà mácxit đầu tiên của Việt Nam thời bị thực dân đô hộ. Dự tính sang Pháp du học để trở thành một trí thức khoa bảng, ông lại bỏ ngang, gia nhập Đảng cộng sản Pháp và được Đảng này giới thiệu qua học trường Stalin ở Nga (cũng gọi là Đại học Phương Đông, từ tháng 5-1931 đến tháng 8-1932). Chủ nghĩa Marx mà ông tiếp thu vào thời kỳ này là hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa đặc trưng Liên xô gọi là học thuyết “Mác-Lênin”, có nguồn từ Lenin nhưng dần dà suy thoái qua những luận giải của Stalin: hạ triết học Marx xuống thành một thứ cẩm nang thực dụng, một công cụ phục vụ chế độ toàn trị, coi Liên xô là trung tâm cách mạng vô sản toàn cầu, Đệ tam Quốc tế do Liên xô lãnh đạo là chỗ dựa vững chắc nhất của phong trào giải phóng dân tộc... Do nguồn gốc đào tạo này, lại hoạt động ở miền Nam, không giao lưu trực tiếp với Trung quốc, nên tư duy cách mạng vô sản của ông mang đậm sắc thái bôn-sê-vích kiểu Nga, không giống các đồng chí của ông ở miền Bắc, bị tác động khá mạnh lý luận cách mạng Trung quốc của Mao Trạch Đông. Một cách tự nhiên, theo phong trào cộng sản thế giới lúc bấy giờ ông tin tưởng vô điều kiện rằng Liên xô là một mô hình mácxit đích thực duy nhất, hiển nhiên vì thế mà xem Đệ Nhị Quốc tế là bọn phản bội xấu xa còn bọn Đệ tứ là kẻ thù nội tại nguy hiểm không kém gì đế quốc tư bản.

Chính ông đã nhận rằng quan điểm cách mạng của ông bấy giờ có phần nghiêng về tả khuynh, ảnh hưởng mạnh mẽ từ Đại hội 6 Quốc tế Cộng sản. Ông cũng nhận thêm rằng chính vì vậy mà suốt một thời gian dài ông không quan tâm đến Nguyễn Ái Quốc[2] – người mà chúng ta biết tư duy cách mạng đã bắt nguồn từ Đại hội 5 QTCS (1924) và Đại hội 7 QTCS (1935), không tham dự Đại hội 6 QTCS (1928)[3]– và thái độ đó của ông chỉ thay đổi khi ông gặp Nguyễn Ái Quốc khi đã về nước lãnh đạo và mang tên Hồ Chí Minh. Điều này không được ông Giàu trình bày trong hồi ký nhưng được phân giải khá thành thật ở một nơi khác.[4]

Môi trường hoạt động của Trần Văn Giàu khá đặc biệt. Hồi ký cho biết cuộc đời “cách mạng chuyên môn” của ông bắt đầu khi tốt nghiệp Đại học Stalin về nước (vào năm 1933): do xứ ủy cũ vừa bị thực dân phá tan, ông đã phải lo xây dựng ngay xứ ủy mới trong một hoàn cảnh mà ông diễn tả là “Trung ương không có” nên “phải vạch lấy con đường mà đi”. Công việc ấy chưa đến đâu thì ông bị bắt. Lần thứ nhất 1933, một năm thì được tha, nhưng lần thứ hai vào 1935 trầm trọng hơn. Bị kết án 5 năm (và 10 năm quản chế), ông không thể tham gia cuộc đấu tranh trên mặt trận báo chí và nghị trường diễn ra công khai ở các đô thị thời Mặt trận Bình dân từ 1936 dến 1939, nếu có hưởng được dư vang gì của phong trào này chỉ là sống được dễ dãi hơn khi ở tù. Đúng hạn 5 năm, về sum họp gia đình chưa đến chục ngày, khi Chiến tranh Thế giới II nổ ra, tất cả mọi hình thức hoạt động yêu nước không-cộng sản hoặc cộng sản (dù Đệ tam hay Đệ tứ) đều bị thực dân coi là bất hợp pháp, nên ông đã bị gom ngay vào “căng” Tà Lài (nơi giam giữ những phần tử bị nghi ngờ). Nhưng cũng từ khu rừng miền Đông Nam bộ này cuối năm 1941, ông đã tổ chức vượt ngục thành công để trở lại hoạt động. Và lần này, trong điều kiện khó khăn hơn trước gấp bội: cuộc khởi nghĩa Nam kỳ vào cuối năm 1940 do Trung ương lãnh đạo vừa thất bại tan tác.

Qua những tài liệu liên quan, chúng ta biết rằng do đánh giá tình hình không chính xác, kế hoạch bị lộ do có nội gián, đặc biệt là sự liên lạc giữa trung ương và địa phương khó khăn, lệnh đình chỉ cuộc khởi nghĩa đến không kịp, sự thất bại đó đã dẫn đến những hậu quả thảm hại chưa từng có cho Đảng cộng sản. Cuộc nổi dậy bị dìm trong bể máu của hàng nghìn người, những ai sống sót đều thu mình lại trong hoài nghi, bi quan, bất động; trong khi đó hầu hết các cán bộ lãnh đạo kỳ cựu quan trọng của Đảng đều bị bắt và bị giết (như Tạ Uyên, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai…), hoặc bị đi tù (Lê Hồng Phong [chết ở Côn Đảo năm 1942], Lê Duẩn, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tạo…). Ông Giàu đã vượt “căng” Tà Lài trong tình thế đó và đã phải bắt đầu mọi việc như hồi 1933: làm lại cuộc cách mạng không có sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Đảng. Do bị tách rời khỏi mọi hoạt động bên ngoài khá lâu, lại thừa kế một khoảng không về tổ chức, ông không có cách gì để biết được xứ ủy Nam kỳ cũ còn tồn tại hay không, cũng như không thể biết Trung ương có còn tồn tại hay không, do đó cũng không hề biết được ngay vào năm ông tổ chức vượt ngục, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã từ Trung quốc về nước tham dự hội nghị Trung ương lần thứ 8 ở Cao Bằng (tháng 5-1941) để thành lập Mặt trận Việt Minh – điều mà trong hồi ký của mình, ông Giàu cho biết đến mãi sau ngày 2 tháng 9 năm 1945, khi cách mạng tháng 8 thành công rồi ông mới có được thông tin cùng một lượt với việc nối lại quan hệ với Trung ương.

Tự mình đảm nhận vai trò lãnh đạo trong hoàn cảnh đó, những gì ông đem ra vận dụng đều dựa vào những điều đã học được tại trường Stalin khoá 1931-1932. Lòng tin vào cách mạng của ông đã đi theo bước chân của Hồng quân Liên xô chống phát xít Đức trong Chiến tranh Thế giới lần thứ hai. Sách gối đầu giường của ông về hoạt động là những gì Lenin viết về cuộc khởi nghĩa Petrograd 1917, có lẽ vì vậy mà ông tỏ ra không mấy quan tâm đến những thứ lý luận đặc trưng Trung quốc do Mao Trạch Đông xướng xuất, như lấy nông thôn bao vây thành thị, chiến thuật biển người, chiến tranh du kích, văn nghệ công nông binh kiểu Diên an, rồi sau này là cải cách ruộng đất, chỉnh phong, chỉnh huấn v.v… Ông Giàu cho rằng phương pháp giành quyền lực cho Đảng cộng sản chỉ có thể thực hiện được bằng cách chuẩn bị thật đầy đủ những chỉ dẫn của Lenin, diễn ra dưới hình thức vũ trang của đông đảo quần chúng tại chỗ được chỉ đạo đồng loạt tiến lên chiếm lĩnh các cơ quan đầu não của nhà nước thống trị, chứ chủ yếu không phải từ ngoài đánh vào, từ xa vận động tới. Ông cho rằng chính đây là định hướng cốt tử để tập trung kế hoạch xây dựng lực lượng thật vững mạnh ngay tại những xí nghiệp, những công sở, những cơ quan yết hầu chiến lược của các thành phố, thị xã… và trong khi nắm vững trọng tâm hoạt động, nếu có quan hệ gì đến nông thôn thì chỉ nên khai thác các vùng phụ cận thành thị để yểm trợ, phối hợp như cất giấu, chế tạo vũ khí, huấn luyện, hội họp, dự trữ, tiếp tế… và cuối cùng trong cao trào nổi dậy sẽ kéo lực lượng ven đô về cùng tác chiến chung với các trung tâm.

Ông Giàu cho biết, trong các văn bản của Đảng Việt Nam, ông chỉ dựa vào Nghị quyết lần thứ 6 của Trung ương họp tại Bà Điểm cuối năm 1939, do tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì. Nhưng hoàn cảnh tiếp cận văn bản đó thật li kỳ: hồi còn ở Tà Lài ông chỉ nghe qua do các bạn tù phổ biến, nay muốn nghiên cứu lại thì sau khi hỏi han không gặp được ai nhớ lại cho đầy đủ, cuối cùng mới may mắn tìm được một số đoạn chép tay rời rạc giấu trên mái lá của chuồng trâu trong nhà một đồng chí quen biết! Cố gắng tiếp thu cái thần của nó rồi đem so sánh với những điều mà ông biết trước đó, ông nhận thấy đã có sự di chuyển quan trọng về chỉ đạo chiến lược: trong hai nhiệm vụ phản đế và cải cách điền địa của cách mạng tư sản dân quyền do giai cấp vô sản lãnh đạo, thay vì nghiêng về hướng cải cách điền địa như nhiều năm trước đây, Nghị quyết 1939 đã đưa vấn đề chống đế quốc lên hàng đầu, coi đó như nhiệm vụ “chính cốt”. Điều này phù hợp hoàn toàn với tình thế bấy giờ ở Việt Nam, khi chiến tranh nổ ra đẩy các thế lực đế quốc vào chỗ suy yếu tạo điều kiện cho các thuộc địa vùng lên giành độc lập và gác lại các vấn đề khác của cách mạng vô sản. Nhận định này của Trần Văn Giàu, tuy không được chỉ đạo của Trung ương nhưng cũng phù hợp với Nghị quyết của Trung ương tháng 5-1941, coi thời cơ giành độc lập đã đến, chủ yếu khai thác triệt để sự xâu xé lẫn nhau giữa Pháp và Nhật, biểu hiện rất rõ qua chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và đã lãnh đạo thành công khởi nghĩa ở Bắc và Trung.

Xứ uỷ Nam kỳ – do ông vận động thành lập vào tháng 10 năm 1943 và được bầu làm bí thư –, vì cách bức về liên lạc, không nhận được bất cứ chỉ thị nào của Trung ương, nhưng cũng đã nhìn thấy cơ hội đó, để có những hành động thích hợp và đã thành công. Điều đó đã biểu hiện rõ ràng qua nhận thức của ông Giàu trong việc xác định “đối tượng trực tiếp” mà khởi nghĩa cách mạng cần đánh đổ ở Nam kỳ: đó sẽ không phải là thực dân Pháp (vì đã bị Nhật tước khí giới) cũng không phải là phát xít Nhật (vì Nhật đã đầu hàng) mà là “chính quyền bù nhìn” do Nhật dựng nên, mà chính quyền này lại “đang rệu rã và không có ý chí đề kháng đáng kể”, cho nên nếu trung lập hóa được quân Nhật thì việc đánh đổ chính quyền ấy “sẽ thành công nhanh chóng và không gặp khó khăn gì lắm”. Phân tích ấy của ông Giàu xác nhận rằng tương quan lực lượng đã thay đổi hoàn toàn có lợi cho cách mạng. Và điều đó hàm nghĩa rằng các đảng phái, tôn giáo phi cộng sản, dù có quần chúng và vũ khí, xưa nay thường dựa vào phát xít và thực dân để hoạt động nay hoàn toàn thất thế. Vấn đề chỉ còn là thời cơ và thời cơ cũng đã đến như một món quà giúp những chuyên viên nổi dậy mở màn và chấm dứt cuộc giành chính quyền nhanh chóng và không mấy khó khăn: nghìn năm có một, một khoảng trống về quyền lực nhà nước đã xuất hiện, khi cuộc đảo chính ngày 9-3-1945 của Nhật đối với Pháp diễn ra rồi sau đó không lâu Nhật phải đầu hàng vô điều kiện (14-8-1945) vì hai trái bom nguyên tử của Mỹ.

***

Ông Giàu cho rằng những cố gắng của ông dù sao cũng chỉ là những mò mẫm “bất đắc dĩ”, không tránh khỏi sai biệt và cả sai lầm khi so với đường lối của Trung ương. Đọc hồi ký ông viết, không thấy ông nói đến những sai lầm, cũng không thấy nhắc đến những điều ông bị Trung ương phê phán một cách chính thức, nhưng chỉ thấy ông nói đến những sai biệt và cho rằng những sai biệt ấy là sự vận dụng những nguyên lý vào những điều kiện khác nhau, vấn đề là xét xem sự vận dụng ấy có mang đến thành công hay không. Biện luận này của ông đã được thực tế xác nhận qua những chuẩn bị chu đáo của xứ uỷ Nam kỳ về mặt chủ quan để đón nhận những thuận lợi do thời cơ mang đến.

Tuy vậy, khi đem đường lối mà ông Giàu áp dụng ở miền Nam, so với đường lối Trung ương để xét vấn đề một cách tổng thể, chúng ta thấy nhiều so le quan trọng, quan trọng nhất là thiếu một nội dung cụ thể để hình thành mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc trong tình hình đặc biệt của Việt Nam vào lúc bấy giờ. Mọi người đều biết, trong khi Trung ương, chủ trương cố ý che giấu bớt nguồn gốc cộng sản của chính quyền mới thành lập (sau đó không lâu đã phải công khai tuyên bố giải tán Đảng để đưa vào bí mật) thì trong cuộc diễu hành 2 tháng 9 ở Sài gòn, như ông Giàu đã mô tả trong hồi ký, cờ búa liềm lại quá nặng vì quá lớn khi được dương lên! Mọi người cũng đều biết, trong tình thế bị cách biệt hoàn toàn với với “phe dân chủ ” (cách mạng Trung quốc chưa thắng lợi), lại bị đủ loại thế lực chống cộng sản (trong và ngoài) bao vây tứ phía và thực dân Pháp thì chuẩn bị trở lại phục hồi sự thống trị bằng vũ lực, Trung ương đã chủ trương hoà hoãn, thương lượng bằng nhiều cách để chuẩn bị đối phó thì trong Nam ông Giàu, mặc dầu hiểu rõ sự cần thiết của Mặt trận, nhưng vẫn cứ bám chặt vào những chuẩn mục cách mạng vô sản mà Lenin đã áp dụng ở Petrograd, qua đó phân tuyến ta địch để xử lý các vấn đề nẩy sinh, nhất là trong nội bộ dân tộc.

Trước những khác biệt về chủ trương chiến lược đó, thái độ của ông Giàu với một số cán bộ lãnh đạo Trung ương, đặc biệt với Hoàng Quốc Việt là người đại diện của Trung ương được cử vào Nam sau ngày 2-9-1945, có nhiều điều phức tạp hơn những gì ông đã viết. Không phải ông không đúng khi cùng với Phạm Ngọc Thạch phản đối lệnh của Hoàng Quốc Việt giải tán Thanh niên Tiền phong vì tổ chức này thực chất do xứ uỷ lập ra nhờ khôn khéo tranh thủ được sự đồng ý của Nhật, dùng làm bình phong tập hợp một cách rộng rãi công khai và các tầng lớp quần chúng chuẩn bị cho khởi nghĩa và thực tế đã đóng vai trò cực kỳ lợi hại trong khởi nghĩa. Sự phẫn nộ của ông Giàu cũng chính đáng khi thấy Hoàng Quốc Việt đứng ra xin tha cho Trần Văn Vi vì ông này trong khi được xem là nhân vật số 1 của xứ uỷ Giải phóng lại chính là người, theo sự trình bày của ông Giàu, “đã dẫn đầu mấy ngàn tín đồ Hoà Hảo có vũ trang kéo vào Cần Thơ, tháng 9 năm 1945, đòi nắm chính quyền trên 7 tỉnh miền Tây Nam Bộ”. Chúng ta không có điều kiện để biết lý do hành động thật sự của Hoàng Quốc Việt, nhưng giả định sự trình bày của ông Giàu là đúng trong những trường hợp nói trên, thì một cách khách quan cũng không vì thế mà có thể cho rằng trong rất nhiều trường hợp thái độ của ông Giàu là đúng hoàn toàn.

Hãy thử so sánh chủ trương của xứ uỷ Nam kỳ qua ứng xử của Trần Văn Giàu với ứng xử của Trung ương qua hành động của Hồ Chí Minh – thí dụ đối với vua Bảo Đại, với phe Tàu Tưởng (có cả những lực lượng bản xứ tùng theo để chia quyền với cộng sản) sang Việt Nam giải giới quân Nhật, với việc thương lượng với thực dân Pháp để có thời gian chuẩn bị cho cuộc tranh đấu mới … – thì không thể cho rằng ý kiến của Hoàng Quốc Việt, với tư cách đại diện của Trung ương, là sai lầm trong mọi trường hợp. Nhất là những ứng xử liên hệ đến sách lược liên minh hành động với những thế lực bản địa (như với phe Hoà Hảo và Đệ Tứ…) hoặc các quyết định có ảnh hưởng tới cuộc chiến đấu toàn cục (như phát lệnh kháng chiến toàn quốc). Nhìn chung, ta có thể cho rằng nếu đường lối của xứ uỷ Nam kỳ do ông Giàu lãnh đạo đã sáng tạo ra những hình thức táo bạo, linh hoạt, tạo được sức mạnh vượt qua các phe phái (thân Nhật, phi cộng hoặc chống cộng) để tiến lên giành quyền lực cho cách mạng thì xét trên tổng thể và lâu dài lại không hoàn toàn thích đáng.

Ý nghĩa của đường lối ấy chỉ tỏ ra có hiệu lực tích cực vào một thời cơ đặc biệt thuận lợi nào đó về mặt chiến thuật, ở đó cuộc khởi nghĩa có điều kiện phát triển tốt nhất và kết thúc nhanh chóng nhất ngay tại các trung tâm đầu não của địch theo mô hình Petrograd – nói cụ thể là vào khoảng từ 9-3-1945 (ngày Nhật đảo chánh Pháp) đến 14-8-1945 (ngày Nhật đầu hàng đồng minh), chứ không thể vượt khỏi thời điểm ấy để trở thành định hướng cho cả giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ chống đế quốc mà nội dung của nó đã được khẳng định từ lâu về mặt lý luận là cuộc cách mạng tư sản dân quyền trong đó mặt trận dân tộc thống nhất là công cụ quyết định để Đảng cộng sản tập hợp lực lượng thực hiện các chương trình tối thiểu của mình.

***

Khi nhìn lại mọi việc, chắc hẳn ông Giàu biết rõ điều đó và cũng chỉ muốn Trung ương Đảng thông cảm với tinh thần trách nhiệm cách mạng cao nhất của ông trong những giới hạn của hoàn cảnh mà ông không thể vượt qua, quan trọng nhất là không thể liên lạc được với Trung ương trong suốt quãng thời gian nói trên. Tuy vậy khi đọc hồi ký của ông chúng ta lại thấy ông tỏ ra khá bực bội với “mấy ông lớn trong Trung ương”, trong đó có Trường Chinh và Hoàng Quốc Việt, nguyên nhân như ông trình bày là do ông nghĩ rằng mấy “ông lớn” đó, đặc biệt Hoàng Quốc Việt, đã đứng hẳn về phía những kẻ đã đặt điều vu cáo cho ông nhiều tội lỗi tầy đình nên luôn luôn tỏ ra thành kiến và đánh giá ông một cách không công bằng, ngay trong những ngày diễn ra cách mạng tháng 8 và cả về sau này nữa.

Hồi ký của ông đã để ra nhiều đoạn nói đi nói lại nhận định này mà theo sự trình bày của ông là hoàn toàn bất công và sai sự thật, bao gồm mấy việc quan trọng như sau: 1935, bị bắt ông đã đầu hàng và khai báo một đảng viên cộng sản Pháp có nhiệm vụ liên lạc với Đông Dương; 1941 ông được Pháp tổ chức cho vượt “căng” Tà Lài để ra ngoài giả bộ hoạt động cách mạng nhưng thật sự là “phá cộng sản”; 1944 không hiểu sao người ta lại cho rằng ông đã chỉ điểm một đồng chí ở Trung ương được cử vào Nam để điều tra “vụ Trần Văn Giàu”; 1945 theo Nhật lập ra Thanh niên Tiền phong và lấy “cờ vàng sao đỏ” làm biểu tượng cho tổ chức này để đối lại với “cờ đỏ sao vàng” của Việt Minh. Còn nhiều chuyện khác nữa nhưng kết lại mọi việc đều quy về một tội khủng khiếp đối với một người Việt Nam và hơn nữa một người Việt Nam theo nghề “cách mạng chuyên môn”: đó là tội thoả hiệp có hệ thống với các loại kẻ thù của dân tộc, từ Tây đến Nhật, để bán đứng đồng chí và phá hoại cách mạng. Một cái tội như vậy thật đáng chết, như phe xứ uỷ Giải phóng đã từng tuyên án đối với ông, thực chất chỉ là hoàn toàn vu cáo, vậy mà sau này khi ra công tác ở chiến khu Việt Bắc 1951, ông đã bị Hoàng Quốc Việt dựa vào đó để hỏi cung suốt một buổi tối chỉnh huấn, có một anh cố vấn Tàu “trẻ bân” ngồi nghe bên cạnh một tay phiên dịch!

Đối với một người cộng sản kỳ cựu như ông, những cung cách ứng xử miệt thị và nghi ngờ ấy là cực kỳ đau đớn, nhục nhã cho nên sau nhiều lần muốn chết đi cho xong, ông đã gượng dậy, quyết chí bỏ công đi tìm nhân chứng, hồ sơ, lật lại các sự việc để minh oan cho mình, kết quả là trong rất nhiều trang hồi ký từng việc một đã được xới lại và xuất hiện trở lại với những chi tiết thực sự của chúng. Tất cả đều chứng minh là ông vô tội. Tất cả đều được ông kết luận là do sự vu cáo của hai nhân vật trong xứ uỷ Giải Phóng tên là Trần Văn Vi và Bùi Văn Dự mà ra. Chính những kẻ xấu này đã tìm cách vu cáo ông tạo nên nghi kị của Trung ương với ông.

Vấn đề “hai xứ uỷ”[5] trong thời kỳ Cách mạng tháng Tám ở Nam bộ chủ yếu với hai nhân vật Trần Văn Vi và Bùi Văn Dự nói trên (ông Giàu không kéo vào đây một số nhân vật khác) vì vậy đã trở thành đầu mối gây nên oan khuất cho ông. Theo sự trình bày của ông thì cái gọi là xứ uỷ Giải phóng này chỉ bao gồm một số phần tử rất ít của xứ uỷ cũ còn sót lại sau cuộc khởi nghĩa thất bại năm 1940, không hoạt động gì cả mà chỉ nằm im chờ thời. Sau khi ông Giàu lập ra xứ uỷ mới (tháng 10-1943) và hoạt động một thời gian, đến tháng 4-1945 (sau Nhật đảo chánh) thì từ “căng” Bà Rá trở về, Trần Văn Vi mới cho khôi phục lại xứ uỷ cũ ở Mỹ Tho, có Bùi Văn Dự làm phó ( và vì có cơ quan tuyên truyền mang tên Giải phóng, nên gọi là “xứ uỷ Giải phóng” để phân biệt với xứ uỷ do ông Giàu lập ra mang tên “xứ uỷ Tiền phong” vì có tờ báo mang tên Tiền phong). Nghe biết việc này ông Giàu đã tìm cách gặp họ để đặt vấn đề thống nhất nhưng không có kết quả sau nhiều lần thương lượng; và lý do họ nêu ra để không thể hợp tác được với Trần Văn Giàu là vì Trần văn Giàu là một Việt gian phản cách mạng với nhưng tội lỗi đã kể trên, đính chính thế nào họ cũng không nghe. Trong hồi ký, sau khi ngẫm nghĩ cả một đời, ông Giàu vẫn viện ra ác ý, lòng đố kị tầm thường của con người để giải thích sự vu cáo đó. Ông nói rằng nếu như mình là một anh bí thư của một chi bộ xã ở một xó Đồng Tháp Mười nào đó thì chẳng sao, nhưng đằng này ông lại là bí thư xứ uỷ lừng lẫy tên tuổi và tài năng nên mới bị ganh ghét, như ý nghĩa một câu Kiều: chữ tài liền với chữ tai một vần! Có chỗ ông nại thêm lý do: trong khi ông tìm mọi cách mà không gặp được Trung ương để giải thích thì do họ liên lạc được nên họ mới có cơ hội để gièm pha làm cho Trung ương hiểu sai về ông.

Giả sử như tin vào những gì ông Giàu trình bày chúng ta không thể không nêu ra câu hỏi sau đây: tại sao với một sự vu cáo tầy trời như vậy mà nhiều lần cho điều tra, Trung ương vẫn cứ tin vào lời lẽ vô lý, thiếu bằng cớ của những kẻ cố ý hại người đó? Nhất là dễ tin đến mức suốt trong một thời gian dài, trong khi vẫn tiếp xúc với phe Giải phóng để nghe họ thì Trung ương lại cố tình né tránh không liên lạc trực tiếp với ông để làm cho ra lẽ? Ông cũng cho biết từng đưa nhiều người ra Bắc liên hệ để tường trình mọi việc nhưng kết quả lại tồi tệ hơn: cuối cùng Hoàng Quốc Việt đại diện Trung ương vào Nam không phải để giải oan hoặc xử lý ngay cho ông mà phải sau một thời gian xảy ra bất đồng rồi mới kết luận rằng Trần Văn Giàu “vô kỷ luật, vô chính phủ” phải được (cùng với Phạm Ngọc Thạch) đưa ra Bắc!

***

Chúng ta cảm động khi đọc những lời thống thiết của một người viết hồi ký mà mục đích không có gì hơn là muốn đòi lại sự thật cho mình để được thanh thản ra đi vĩnh viễn, nhưng rất ngần ngại khi xem những lý giải của ông về những oan khuất mà ông phải chịu đựng là hoàn toàn thoả đáng. Ông đã nhập hai vấn đề làm một: một bên là những lời vu cáo giả định đến từ những kẻ ganh ghét ông và một bên là những sai biệt, có thể nói cả những bất đồng, của ông với Trung ương và bị Trung ương phê phán. Thực sự đó là hai vấn đề mà cái logic toát ra từ những gì ông viết trong hồi ký đã cho chúng ta thấy như vậy: hai vấn đề dó khác nhau, mỗi vấn đề có những tính chất riêng, có quan hệ với nhau nhưng không đồng nhất. Vấn đề khác biệt về đường lối giữa xứ uỷ Nam kỳ với Trung ương đã được nói ở trên: nó bộc lộ thật rõ trong quan điểm lý luận về cách mạng dân tộc dân chủ giữa hai bên và cả trong việc ông Giàu bày tỏ quyết liệt sự bất đồng của mình với Hoàng Quôc Việt sau ngày 2 tháng 9 ở Sài gòn trong một số chủ trương cụ thể. Những sai biệt và bất đồng này là có thật, phần lớn do hoàn cảnh khách quan quy định, không thể dựa hoàn toàn vào những tị hiềm cá nhân để giải thích.

Còn về những ân oán giữa ông và mấy nhân vật của xứ uỷ Giải phóng có thể cũng không hoàn toàn đơn giản như ông diễn giải. Những điều mà họ vu cáo cho ông cực kỳ trầm trọng, trong thực tế chỉ là những tin đồn. Có thể do ganh ghét cá nhân mà bịa ra nhưng vẫn chỉ là tin đồn, không thể bỗng dưng dựng nên những chuyện động trời như vậy mà có thể làm hại ngay được người ta, bằng cớ là uy tín của ông – trừ việc bị phe chống đối bên ngoài bôi nhọ (cho đến nay vẫn bị những chuyên viên chống cộng tiếp tục khai thác) –, lại không hề sứt mẻ đối với quần chúng, với các đồng chí của ông trong xứ uỷ do ông lãnh đạo, với cả những người từ chối “khử” ông khi được phe Giải phóng xúi giục, do đó việc chuẩn bị cuộc khởi nghĩa cho đến ngày thành công đã không bị ảnh hưởng. Phân tích theo một hướng khác, cũng có thể xem những tin đồn ấy đã bắt nguồn từ những sự kiện đáng nghi ngờ mà vì một lý do nào đó, chưa thể xác minh hoặc xử lý nên có thể kéo dài trong dư luận, khiến những mơ hồ ban đầu trầm trọng thêm vì những đồn đãi mới, những yếu tố mới nẩy sinh trong đó không thể không nói đến những bất đồng về quan điểm giữa các nhóm khác nhau trong bản thân hàng ngũ cách mạng trước tình hình mới ở Nam bộ, nhất là trong điều kiện thiếu vắng sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương.[6]

Dù sao thì tạm gác lại những khía cạnh phức tạp khác của vấn đề chưa có điều kiện để làm rõ ở đây (nhất là quan điểm đầy đủ và khách quan của nhóm “Giải phóng”) mà chỉ xét chuyện họ quy tội ông Giàu, chúng ta thấy trong tất cả các thứ mà họ nêu ra đều liên hệ đến chuyện “làm tay sai cho địch”, thật ghê gớm đối với nội bộ những người cộng sản, nhưng nhìn sâu vào hiện tượng thì trong đó lại có những chuyện ai cũng có thể nhận ra sự phi lý của chúng và có thể phủ nhận hết sức dễ dàng – như ông Giàu đã làm – vì có rất nhiều người hợp tác với ông, biết rõ sự việc vẫn còn sống và đang giữ những chức vụ quan trọng có thể viện ra làm nhân chứng (như trong chuyện vượt “căng Tà Lài”, chuyện “cờ vàng sao đỏ” của Thanh niên Tiền phong…). Tuy vậy trong những tố cáo lại có một chuyện khởi đầu hơi mập mờ đó là việc năm 1935 một đảng viên cộng sản Pháp làm nhiệm vụ liên lạc với Đông Dương tên là Deschamps bị bắt sau khi ông Giàu đi tù không lâu, từ đó sinh ra nghi vấn đây đó về việc người đảng viên liên lạc bị bắt là do ông Giàu khai báo. Ông cho đó là không đúng nên sau này đã tìm ra mọi bằng cớ chứng minh được rằng kẻ khai báo Deschamps là một nhân vật khác, không dính dáng gì đến ông. Nhưng vào lúc bấy giờ, phần ông thì tiếp tục ở tù (5 năm), phần “đoàn thể” của ông thì vì hoạt động trong bí mật, cách bức, chưa có cơ hội để thẩm tra, cho nên mọi việc đã trở thành tiếng đồn treo lở lửng trên số phận chính trị của ông, rất dễ để những người ganh ghét hoặc bất đồng với ông khai thác. Tiếng đồn đó là có cơ sở trong thực tế chứ không phải vu vơ. Nếu Trung ương có bị tác động bởi những báo cáo loại này từ nguồn tin của “phe Giải phóng” thì cũng chỉ là những thông tin để cảnh giác và điều tra chứ không thể để tuỳ tiện và dễ dàng kết luận như ông đã suy luận rằng “các ông lớn Trung ương” đã đứng về phe bên kia để “trù” ông.

Trong phần cuối của hồi ký, ông Giàu có kể một sự kiện chứng tỏ nhận xét trên đây là có cơ sở: đó là việc đầu năm 1988 ông được Lê Đức Thọ – mệnh danh lão Sáu Búa lừng danh mà chỉ nghe tên ai cũng ớn – mời cơm cùng một số đồng chí lão thành tại Sài gòn, nhân đó ông có đề nghị Lê Đức Thọ khi về Hà Nội can thiệp với Ban tổ chức Trung ương ra văn bản khẳng định tính chất không có cơ sở của những vu cáo về ông bấy lâu nay. Lời đề nghị được chấp nhận và một tháng sau ông Giàu nhận được quyết nghị do Nguyễn Đức Tâm (đang làm Trưởng ban Tổ chức Trung ương thay Lê Đức Thọ) ký, trong đó có những xác nhận làm ông hài lòng, duy chỉ có vụ Deschamps 1935 thì vẫn quy trách nhiệm cho ông. Tất nhiên ông Giàu khiếu nại vì ông vẫn cho là mình vô tội, mặc dù những gì ông kể trong hồi ký về vụ này còn có nhiều chỗ mập mờ (nhất là việc ông nhận khi bị bắt có khai này nọ, chứ không kiên cường được như Trần Phú) làm người ta có thể suy diễn vấn đề theo hướng khác. Dù sao với một nhà cách mạng trung kiên như ông thì một cái kết thúc như vậy cho cả một đời buồn phiền vì tai tiếng cũng có thể gọi được là thắng lợi “về cơ bản” rồi.

Điều đó chứng tỏ rằng, nếu có bị Trung ương phê bình thì những phê bình ấy chủ yếu không hề phát xuất từ mấy chuyện ông bị vu cáo đã bán mình cho Tây, cho Nhật: mấy chuyện động trời này mà lúc bấy giờ bị Trung ương cho là cần xử lý thì đời ông chắc hẳn đã chuyển sang hướng khác hoàn toàn rồi. Trái lại, sau ngày 2 tháng 9, 1945, sau khi bị Hoàng Quốc Việt ngưng chức xứ uỷ Nam kỳ, chuyển ông ra Bắc gặp Trung ương (chắc chắn là để kiểm điểm), khi ông đề đạt nguyện vọng được sang Mặt trận Biển Hồ (Campuchia) hoạt động tiếp tế cho kháng chiến Nam bộ thì được chấp nhận ngay, không có gì cần thẩm tra lâu dài. Đầu năm 1947, ông được điều động về Việt Bắc đảm nhận chức vụ Tổng giám đốc Nha Thông tin. Năm 1951, trong một đợt chỉnh huấn theo kiểu Mao, bị Hoàng Quốc Việt đem chuyện cũ ra hoạnh hoẹ, nhưng cũng chẳng làm gì được ông. Năm ấy ông vẫn tham gia Bộ giáo dục, để từ đó về sau luôn nhận lãnh các chức vụ quan trọng trong ngành này. Trong lí lịch của ông, vụ Deschamps thực sự chỉ còn là một vết mờ, dù chưa xoá hẳn được nhưng chẳng liên can gì đến những vu cáo động trời từng đồn đãi trong dư luận.

***

Trong lời nói đầu của cuốn hồi ký của mình, ông Giàu có viết dòng sau đây: “Tôi chỉ viết hồi ký khoảng thời gian 1940-1945 vì đó là thời gian tôi sống có chất lượng hơn hết trong cuộc đời dài quá 80 năm, xấp xỉ 90 năm”. Thực sự thì với tuổi đời 100 năm hiếm có của ông, ông đã bỏ ra hết 80 năm (ông bắt đầu hoạt động khi 20 tuổi) theo đuổi cuộc cách mạng cộng sản, ở nhiều nơi, làm nhiều việc, đáng chú ý nhất là 50 năm trong ngành giáo dục, nhưng khi viết hồi ký ông chỉ viết về 5 năm ngắn ngủi, 1940 đến 1945, ngắn ngủi nhưng ông cho rằng đó là thời gian ông “sống có chất lượng hơn hết”. Nói cho chính xác về khoảng thời gian này thì phải tính từ cuối năm 1941 khi ông vượt “căng” Tà Lài ra hoạt động cho đến ngày ông lãnh đạo thành công cuộc khởi nghĩa tháng 8 ở Nam bộ. Hầu hết thời gian trước khi ra khỏi Tà Lài ông đều sống trong tù. Sau ngày 2 tháng 9, 1945, không theo thủ tục quy định do Hoàng Quốc Việt đề ra, ông đã tự tiện phát tán “Lời kêu gọi kháng chiến”, để liền sau đó tự nói với mình: “Thế là đời chính trị của Trần Văn Giàu đã hết”.[7] Có nghĩa là cuộc sống “có chất lượng” của ông gom vào những ngày tháng ngắn ngủi ấy cũng đã hết.

Hiểu theo nghĩa rộng thì thật sự sau đó ông vẫn chưa dứt khỏi nghề làm làm chính trị vì ông vẫn còn là một đảng viên cộng sản và còn tin tưởng mãnh liệt vào Lenin (và cả Stalin) mà ông thần phục từ thời thanh niên. Nhưng có một cái gì đó không còn gì là khí thế vốn có của ông trong mấy dòng chữ sau đây: “Kiểm lại, tôi thấy trong hơn ba, bốn mươi năm bị hàm oan, tôi không hề rời công tác, việc gì giao cho dầu nhỏ tôi cũng làm tròn, không giao việc gì thì tôi viết sách, viết báo, dạy học và tôi đã đạt những thành tựu tôi mong muốn, giữ vững tư cách đảng viên, giữa vững nhân cách Việt Nam”. Nhẫn nhục, khiêm tốn và đã mất đi hoàn toàn cái hơi hám của thứ “chính trị” định nghĩa như một thái độ dấn thân đầy hứng khởi, sáng tạo để biến đổi thế gian cùng với cái ý chí mãnh liệt của một người muốn ghi tên mình vào hàng ngũ những lãnh tụ thay đổi thế gian như trong những ngày Cách mạng Mùa thu ở Sài Gòn.

Nhưng cũng qua những gì ông viết về những ngày làm “chính trị” có nội dung trên đây như một hoài niệm mà chúng ta biết được những gì đã diễn ra thực sự ở Nam bộ và vai trò thực sự của ông trong cuộc khởi nghĩa Mùa thu đó: đó sẽ là những tư liệu sống của một người cộng sản vẫn còn đủ lòng tự trọng để nói lên sự thật, giúp những người viết sử về sau dựng lại trung thực hơn những gì họ đã viết, đặc biệt làm rõ hơn mối quan hệ giữa trung ương và địa phương, giữa lãnh đạo và tự phát, ghi nhận tính sáng tạo đa nguyên trong đấu tranh cách mạng, từ đó hy vọng chấm dứt được các thứ lý giải có tham vọng không chính đáng muốn quy mọi hiện tượng phức tạp về một đầu mối giả tạo,[8] và cũng căn cứ vào đó chấm dứt việc khái quát hoá những sai lầm có giới hạn của ông trong cuộc khởi nghĩa lịch sử ấy.

Riêng với tôi, một kẻ hậu sinh không quen ông đến độ thân thiết, từ đất Sài gòn này, cũng có một thời theo tiếng gọi của Marx, của Lenin mà đi theo con đường làm cách mạng vô sản, nay không còn tin tưởng bao nhiêu vào con đường ấy nữa, nhưng đọc hồi ký của ông, tôi vẫn quý trọng ông như một tiền bối, chăm chú theo dõi những việc ông kể về lịch sử đất nước để mong hiểu thêm lịch sử của con người ông nhiều hơn: tôi đã hiểu ông như một chiến sĩ vô sản của đất Nam kỳ mà sự cá biệt độc đáo trong tính cách của ông đã vượt qua rất xa vai trò ông giữ trong cái tập thể mà ông muốn phụng sự suốt đời. Ông đam mê, kiên cường, chết sống cho sự nghiệp chung cũng là để thể hiện vị trí cá nhân của mình đến chỗ cao nhất. Nhưng cũng chính từ tham vọng “chính trị” ấy ông đã bước ra ngoài cái chuẩn mực mà lý luận cách mạng của ông đã quy định thành lý do tồn tại cho cái “đoàn thể” hiện thân cho thứ lý luận đó. Có lẽ từ đó ông tạo ra bi kịch, oán thù, hiểu lầm, và tiếc nuối cho mình. Và cũng chính vì vậy mà khi ông làm cộng sản không có Trung ương lãnh đạo thì ông sống một cuộc sống “ có chất lượng”, tuy bị tai tiếng nhưng đầy say mê và đạt được vinh quang tột đỉnh. Còn khi ông trở về làm cộng sản có sự lãnh đạo của Trung ương, thì tuy vẫn có thể trở thành anh hùng nhưng thâm tâm dường như ông vẫn coi đó chỉ là một thứ anh hùng “phải đạo”, anh hùng xó bếp. Một thứ anh hùng chấm dứt “anh hùng”. Một thứ chính trị hết còn là “chính trị”.

***

Hồi ký ông viết đã lâu nhưng chỉ cho xuất hiện sau khi ông mất khiến chúng ta không khỏi bùi ngùi nhận ra trong hành vi đó ý nghĩa một cuộc dấn thân tổng lực cuối cùng nhằm vớt vát lại sự chói sáng cho một vầng hào quang đã bị cái thực thể mà ông phấn đấu hy sinh suốt đời làm lu mờ đi. Cái hậu mà hồi ký của ông gợi ra có thể làm yên lòng những người quý mến ông nhưng với ông có thể chỉ là thời điểm để ông nhớ lại “những đồng tuyết năm xưa” nhiều hơn. Đó là một cái hậu, hiểu theo nghĩa “chính trị” của ông, có vẻ như không có gì gọi được là “cách mạng vô sản” cả!





Chú thích

[1] Đăng nhiều kỳ từ tháng 12/2010 đến tháng 3/2011 trên hai trang mạng Diễn Đàn và Viet-Studies, đăng lại tòan bộ như Phụ Lục trong số Thời Đại Mới này.

[2] Theo nhận xét của Hoàng Tùng thì Trần Văn Giàu là một trong những người học ở Liên xô về có ý xem thường Nguyễn Ái Quốc, cho ông này là “dân tộc chủ nghĩa, trình độ lý luận kém” (Diễn Đàn, số 123, tháng 11-2002). Cũng cần chú ý một chi tiết này: lúc bấy giờ, khi nhắc đến Nguyễn Ái Quốc, trong hồi ký, ông Giàu đã gọi bằng “anh”: “Bây giờ Nguyễn Ái Quốc còn sống không, nếu còn thì làm sao anh biết được mọi uẩn khúc ở Nam Kỳ?” Trong một bài viết trên một tạp chí nào đó (tôi quên tên LP), ông Giàu thuật lại chuyện gặp Nguyễn Ái Quốc lần đầu (lúc ấy đã là Hồ Chí Minh) và cũng gọi bằng “anh” nhưng đã bị Hồ Chí Minh khuyên không nên gọi như vậy mà nên xưng hô như mọi người.

[3] Xem Lữ Phương: Từ Nguyễn Tất thành đến Hồ Chí Minh, Chương “Việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam”, http://www.viet-studies.info/LuPhuong/LuPhuong_ViecThanhLapDCSVN.htm

[4] ] Xem Nguyễn Phan Quang: Giáo sư Trần Văn Giàu – Nghe thầy kể chuyện, Nxb Tổng hợp Tp Hồ Chí Minh, 2011, tr. 60 -71.

[5] ] Xem Phan Văn Hoàng: “Bí thư Xứ uỷ Trần Văn Giàu và Cách mạng tháng Tám 1945 ở Nam bộ”, Hồn Việt 27-9-2010, http://honvietquochoc.com.vn/Nhan-vat/Bi-thu-Xu-uy-Tran-Van-Giau-va-Cach-mang-thang-Tam-.aspx

[6] Vấn đề phân hoá chính trị, tôn giáo đặc biệt xảy ra náo nhiệt ở Nam kỳ trong giai đoạn Nhật Pháp ghìm nhau thống trị Việt Nam vào thời kỳ 1940-1945 là một chuyên đề quan trọng cần được nghiên cứu, trong đó sự phân liệt không phải chỉ bộc lộ qua những phe phái khác nhau, mà còn thể hiện trong bản thân những tổ chức cùng một đường lối chung trong đó có cả những tổ chức mệnh danh “cộng sản”, như trong phe Đệ Tứ (Nhóm La Lutte của Tạ Thu Thâu, nhóm Militant của Hồ Hữu Tường, nhóm Octobre của Lư Sanh Hạnh) cả trong hàng ngũ Đệ Tam nữa: về mặt này nếu không kể sự khác biệt giữa Bắc và Nam mà chỉ nói đến Nam bộ thôi thì sự xung đột giữa “hai xứ uỷ” (“Giải phóng” và “Tiền Phong”) không thuần chỉ là vấn đề ganh ghét giữa những cá nhân. Có thể xem vài ghi chép sơ lược của Nguyễn Văn Trấn trong cuốn Viết cho Mẹ và Quốc hội (sách chuyền tay xuất hiện ở Việt Nam năm 1995) về cuộc tranh luận giữa báo Giải phóng (của phe “Giải phóng”) với những luận điểm trong một số bài viết của Trần Văn Giàu (ký Xuyên Vân Nhạn) để phát triển thêm đề tài này.

[7] Trần Hữu Phước ghi: “Trần Văn Giàu “không phải là người buông giáo”, Hồn Việt 9-4-2011 http://honvietquochoc.com.vn/Tu-lieu/Tu-lieu-lich-su/Tran-Van-Giau-khong-phai-la-nguoi-buong-giao.aspx

[8] Trong phần 4 của Hồi ký, ông Giàu có than phiền về cách viết sử xuyên tạc đó như sau: “Sau 9-3-1945, chị Mười Tốt [(Nguyễn Thị Thập)] còn ở Mỹ Tho, vậy mà theo một đoạn hồi ký của Thép Mới (in ấn năm 1995, nhân kỷ niệm cách mạng tháng Tám), có bài của Thép Mới nói rằng, tháng 3 năm 1945, có chị Mười và Dân Tôn Tử có mặt ở Bắc và Trường Chinh đã trao cho họ chỉ thị: “Nhật-Pháp đánh nhau, hành động của chúng ta”. Ôi! Chị Mười khi ấy ở Mỹ Tho và Dân Tôn Tử (tức đồng chí Trần Văn Vi), ngày 10-3-1945, mới ra khỏi căng (trại giam) Bà Rá thì làm sao họ đem Nghị quyết của Thường vụ Trung ương Đảng ngày 9 tháng 3 về Nam được? Bịa như thế thì than ôi, cũng có người tin, hễ tin như vậy thì tất phải đặt câu hỏi: “tại sao được chỉ thị của Trung ương mà Xứ uỷ Nam Kỳ và anh Giàu không làm theo?”. Sao mà bày đặt ác thế? Ác thế để làm gì? Bịa trắng trợn, sao mà sách ở một nhà xuất bản lớn ở Hà Nội lại đăng? Tai hại cho lịch sử quá.”



Source : Thời Đại Mới



11-5-2011