Khó khăn của cuộc đời
và Trách nhiệm của con người
Hòa thượng K. S. Dhammananda
Thích Tâm Quang dịch Việt
Nguyên tác: "Problems and Responsibilities"
Bạn có lo lắng không? Bạn có đau khổ không? Nếu có, xin mời bạn đọc cuốn sách nhỏ này để mở rộng tầm hiểu biết hơn về những vấn đề bạn phải đối phó. Cuốn sách này để cống hiến cho bạn và cho những ai lo lắng.
SỢ HÃI VÀ LO LẮNG
Sợ hãi và lo lắng phát sinh từ ý niệm ảnh hưởng bởi những điều kiện trần thế, bắt nguồn từ tham dục và luyến ái. Thật ra, đời sống giống hệt như một cuốn phim đang quay mà trong đó tất cả mọi thứ (hình ảnh) đều chuyển động, thay đổi không ngừng. Không một thứ gì trên thế gian này trường cửu và thường còn. Những người trẻ, khỏe mạnh sợ hãi bị chết non. Những người già yếu bệnh hoạn, lo lắng phải kéo dài cuộc sống. Đứng ở giữa là những kẻ tham đắm dục lạc quanh năm.
Niềm vui được hoan lạc hình như qúa ngắn ngủi. Niềm sợ hãi vì không được hoan lạc tạo lo âu hình như không bao giờ chấm dứt. Những cảm nghĩ này thật ra rất bình thường. Cuộc đời lên bổng xuống chìm diễn tiến vói bản ngã hay cái "tôi" không thực tế chẳng khác nào trò múa rối trên giây. Nhưng trí óc con người tự chính nó mới là tối thượng.
Huấn luyện trí óc, nói một cách khác mở mang trí tuệ là bước đầu tiên để chế ngự tâm hồn hoang mang.
Đức Phật dạy:
"Từ tham dục nẩy mầm đau khổ
Từ tham dục nẩy mầm sợ hãi
Với Ngài thoát vòng tham dục
Không còn đau khổ, không còn sợ hãi."
Tất cả luyến ái đều đi dến cuối cùng là phiền muộn. Cả nước mắt lẫn những lời chào từ biệt dài dòng cũng không chấm dứt được cái vô thường của đời sống. Tất cả mọi việc kết hợp đó đều không vĩnh viễn.
Gìà trẻ đều đau khổ trong cuộc sống hiện tại. Không ai có thể tránh khỏi. Nhiều thiếu niên lớn lên trong đau khổ. Chẳng phải như con ếch (ngồi đáy giếng) hay con nòng nọc (duới nước), cũng vẫn rất dễ hiểu là thiếu niên thiếu kinh nghiệm trong việc thiết lập được mối tương quan tốt đẹp vói người khác phái. Các chàng trai này khoe sắc đẹp để gây ấn tượng cho người khác phái hãnh diện cho rằng mình là đối tượng của dục tình. Cả hai đều thiếu thái độ thực tế nhưng họ nghĩ là họ đã trưởng thành. Họ sợ hãi có thái độ bình thường chân thật vì họ sợ bị chế nhạo. Thái độ cư xử như vậy có tiềm lực đi đến lợi dụng. Sợ hãi bị gạt bỏ cũng như lo lắng giá trị bản ngã bị suy giảm. Tình yêu không được đáp ứng làm tan vỡ trái tim của thanh thiếu niên vì lẽ họ cảm thấy chính họ đã tự đánh lừa họ. Đôi khi một vài thiếu niên đã tự vận. Những vết thương tình cảm trên có thể tránh được nếu đời sống được nhận thức đúng vói thực tế. Người trẻ phải được dạy dỗ theo hướng đi của Phật Giáo để họ có thể truởng thành chín chắn, đúng đuờng hướng.
"Dù ở đâu đi nữa, sợ hãi phát xuất, thì cũng chỉ phát xuất nơi người mất trí điên khùng và không bao giờ phát xuất nơi người khôn ngoan." Đó là lời Đức Phật dạy. Sợ hãi không ngoài là một trạng thái của tâm thần. Trạng thái tâm thần cần phải được chế ngự và hướng dẫn. Tạo hóa phú cho con người có thể kiềm chế tuyệt đối một điều, đó là tư tưởng Tất cả mọi thứ mà con người tạo ra phát xuất từ một dạng thức của tư tưởng. Đó là cái chìa khóa giúp cho ta hiểu được nguyên lý để trấn áp đuợc sợ hãi.
Một nhà cơ thể học Anh nổi tiếng có lần được hỏi bởi một sinh viên về phương cách hữu hiệu nhất để chữa trị bệnh sợ hãi, đã trả lời: "Hãy cố gắng làm một điều thiện gì cho một người nào đó". Người sinh viên hết sức ngạc nhiên về câu trả lời này nên yêu cầu giảng thêm cho sáng tỏ vấn đề . đã được vị thầy học này giải thích: "Bạn không thể nào có thể có hai tư tưởng chống đối nhau cùng một lúc trong đầu óc. Tư tuởng này đến thì tư tưởng kia đi. Nếu chẳng hạn tâm trí bạn đang hoàn toàn bận bịu với niềm mong ước không vị kỷ để giúp đỡ một người nào đó, bạn không thể cùng một lúc chứa chấp niềm sợ hãi trong đầu óc bạn".
"Lo âu làm cạn khô máu nhanh hơn là tuổi già". Sợ hãi và lo lắng vừa phải là bản năng bảo vệ tự nhiên. Nhưng sợ hãi triền miên không hợp lý, kéo dài là kẻ thù tàn nhẫn của cơ thể con người. Chúng làm trở ngại cho sự hoạt động bình thường của cơ thể.
GIỮ VỮNG TINH THẦN
Tâm trí của con người ảnh hưởng sâu đậm đến cơ thể. Tâm trí có nhiều tiềm năng là một vị thuốc để chữa trị mà cũng có thể là một loại độc dược cho cơ thể. Khi tâm trí xấu xa, có thể giết một chúng sanh, nhưng khi tâm trí điềm tĩnh, chuyên cần đem lợi ích cho con người. Khi tâm trí được tập trung vào những tư tưởng lành mạnh, hỗ trợ bởi sự cố gắng và hiểu biết chính đáng, tác dụng phát xuất rất rộng lớn. Tâm trí thanh tịnh, tư tưởng lành mạnh đưa đến một cuộc sống khỏe mạnh, thoải mái.
Đức Phật dạy: "Không có kẻ thù nào làm hại chúng ta bằng tư tưởng của chính chúng ta về tham dục, đố kỵ, ganh ghét vân vân...".
Một người không làm sao điều hợp tâm trí mình cho thích đáng đối với hoàn cảnh thì chẳng khác nào như đã chết. Hãy quay tâm trí vào nội tâm và cố gắng tìm thấy lạc thú trong lòng.
Chỉ khi tâm trí được kiềm chế và hướng dẫn đúng cách, nó sẽ trở nên rất hữu ích cho chính sở hữu chủ và cho xã hội. Một tâm trí phóng túng không kiềm chế được sẽ nguy cơ cho chính sở hữu chủ và người chung quanh. Tất cả sự tàn phá reo rắc trên thế giới là do sự tạo thành loại người mà tâm trí không đuợc huấn luyện, kiềm chế, cân nhắc, thăng bằng.
Bình tĩnh không phải là suy nhược. Một thái độ bình tĩnh luôn luôn thấy nơi con người có văn hóa. Chẳng khó khăn gì cho một người giữ được bình tĩnh trước những sự thuận lợi, nhưng giữ được thái độ bình tĩnh khi gập việc bất ổn thì thực sự là khó. Chính vì đức tính khó khăn ấy mới đáng đạt cho được vì thực hiện sự bình tĩnh và làm chủ lấy mình, con người đó tạo đưọc một nghị lực sung mãn.
TIẾNG NÓI CỦA THIÊN NHIÊN
Con người hiện đại không nghe tiếng nói của thiên nhiên vì bận bịu với lòng ham muốn vật chất và lạc thú. Hoạt động tâm thần của người đó qúa mải mê với những thú vui trần tục nên đã chểnh mảng không lưu ý tới sự cần thiết của chính tâm trí mình. Thái độ bất thường của con người hiện đại dẫn ngay đến kết quả trong một nhận định sai lầm về đời sống trên thế gian và về mục đích tối hậu của cuộc đời. Đó là nguyên nhân của tất cả các mối thất vọng, lo âu, sợ hãi, bấp bênh trong hiện tại.
Nếu một ngưòi tàn bạo và độc ác, sống trái vói định luật thiên nhiên và vũ trụ, hành động, lời nói và tư tưởng của người này sẽ làm ô nhiễm bầu khí quyển. Thiên nhiên bị lạm dụng sẽ không thỏa mãn nhu cầu cho con người mà còn dành cho con người tàn phá, mâu thuẫn, truyền nhiễm và thiên tai thảm họa.
Nếu con người sống hòa hợp với định luật thiên nhiên, có một cuộc sống chính đáng, thanh tịnh bầu khí quyển qua những giá trị của đức hạnh, đem lòng từ bi tình thương đến cho chúng sanh, con người đó mang hạnh phúc đến cho nhân loại. Một ngưòi thật sự yêu chuộng hòa bình sẽ không vi phạm tự do của kẻ khác. Thật là sai trái khi nhiễu loạn hay lừa gạt người khác.
Bạn có thể là người rất đa đoan công việc nhưng bạn hãy dành một vài phút trong một ngày để thiền định hay đọc sách có giá trị. Thói quen này sẽ giúp cho bạn khỏi phiền não và mở mang tâm trí. Tôn giáo đem lợi lạc cho bạn, cho nên bổn phận của bạn là phải nghĩ đến tôn giáo. Hãy dành thì giờ để tham gia các cuộc hội họp trong bầu không khí tôn giáo. Dù chỉ ít phút sống với các vị hướng dẫn tinh thần tạo được các kết quả tốt.
BỆNH TÂM THẦN VÀ KHUYNH HƯỚNG TỘI ÁC
Việc gia tăng các loại bệnh tâm thần và nhiễu loạn là bệnh được báo nguy nhất trong tất cả các thứ bệnh của thời đại tiền tiến. Càng ngày càng có nhiều người bị bệnh tâm thần trên thế giới,đặc biệt tại các quốc gia giầu có.
Trong nhiều trường hợp, yếu tố gây tội ác trong xã hội của chúng ta được ghi nhận là do các bệnh tâm thần. Kết quả khẳng định tiên đoán bắt nguồn trực tiếp từ công trình khảo cứu của Freud, là việc xác nhận những kẻ gây tội ác và phạm tội là những người bị bệnh thần kinh; những người này cần được chữa trị hơn là bị trừng phạt. Nhìn vào vấn đề với quan điểm rộng rãi đó là căn bản của tất cả mọi cải cách trong xã hội "cấp tiến" phải thay thế hình phạt bằng sự giáo dục cải tạo.
BIẾT NGƯỜI LÁNG GIỀNG CỦA BẠN
Khi chúng ta không nhìn thấy cuộc sống của người khác ra sao thì chúng ta không thể học hỏi được cách sống . Du lịch là một hình thức tốt nhất của giáo dục. Tiếp xúc với những người lạ lòng chúng ta cảm thấy có thiện cảm nhiều hơn. Sự thiếu khoan dung thường phát xuất từ không thấu triệt được nhu cầu cũng như cách suy nghĩ của một con người khác.
NGƯỜI KHÔNG HẠNH PHÚC
Đức Phật daỵ con người không hạnh phúc là do lòng ham muốn vị kỷ: dùng tiền bạc để mua nhiều lạc thú, nhiều quyền thế hơn người khác, và quan trọng hơn tất cả là sống mãi mãi, cả đến khi sau cái chết! Ham muốn những dục vọng trên làm con người ích kỷ. Những người này chỉ nghĩ đến mình, không lưu ý đến những gì sẩy ra cho người khác Khi những ứơc vọng không đạt được, họ trở nên bồn chồn và bất mãn. Con đường duy nhất để tránh sự ray rứt bất an ấy là quét sạch lòng ham muốn, nguyên nhân tạo ra. Việc đó thật khó khăn; nhưng khi con người đạt được, sẽ trân trọng nó.
THỜI GIAN SẼ CHỮA LÀNH CÁC VẾT THƯƠNG
Phiền muộn trôi qua. Cái đã làm cho bạn phải rơi lệ, rồi cũng quên đi. Bạn có thể nhớ lại bạn đã khóc, nhưng tại sao bạn phải khóc như vậy chứ! Chúng ta lớn lên qua dòng đời, chúng ta thường ngạc nhiên tại sao đang đêm chúng ta sực tỉnh, nghĩ đến những việc làm cho chúng ta lo ngại ban ngày và làm sao chúng ta còn nuôi dưỡng lòng oán hận một người nào đó và tại sao những ý tưởng như vậy còn vương vấn trong đầu óc chúng ta. Chúng ta có thể nổi cơn thịnh nộ lúc bị kích thích vì một điều gì đó, và sau này khi tự hỏi cái gì đã khiến cho ta nóng giận như vậy và ngạc nhiên khi hiểu rõ được chúng ta đã phí thì giờ và năng lực vào đấy. Lẽ ra chúng ta ngưng hành động như trên thì trạng thái không hạnh phúc sẽ qua đi và bắt đầu nghĩ đến điều gì khác lành mạnh hơn.
Phiền muộn của bạn đến thế nào đi nữa, dù bạn có thể cảm thấy đau buồn đến thế nào đi nữa, thời gian cũng hàn gắn được các vết thương này. Nhưng chắc chắn phải có một điều gì đó mà chúng ta có thể làm được để chúng ta khỏi phải buồn đau ngay từ lúc đầu. Tại sao chúng ta phải để việc này việc kia hay phiền muộn tiêu hao năng lực của chúng ta và làm chúng ta không hạnh phúc? Câu trả lời là không phải các phiền muộn đó đâu. Chính là tự chúng ta làm cho chúng ta không hạnh phúc mà thôi.
Có thể là bạn gặp một vài điều khó khăn nơi bạn làm việc, tuy nhiên bạn không nên mang bầu không khí xấu tại đó về ô nhiễm căn nhà bạn. Bạn phải hiểu rằng những khó khăn ấy phải chấm dứt. Giải đáp có thể tìm thấy khi đạt được giải thoát khỏi những ham muốn vị kỷ của bạn bằng cách loại trừ tất cả sự hồ đồ và ngu muội.
Bất cứ lúc nào khi chúng ta thất bại trong việc tìm kiếm một giải pháp cho vấn đề, chúng ta có khuynh hướng tìm một bung sung để trút lên những hoảng hốt của chúng ta. Chúng ta không chuẩn bị để chấp nhận các nhược điểm của mình. Thật là dễ dàng đổ lỗi cho kẻ khác. Thật ra, có một số người thích thú làm như vậy. Đó là một thái độ áp dụng hoàn toàn sai quấy. Chúng ta không nên đem sự bực bội của chúng ta đến cho người khác. Chúng ta nên hết sức mình chấp nhận khổ đau và bình tĩnh giải quyết các khó khăn của chúng ta. Chúng ta phải chuẩn bị để đối đầu với bất cứ những khó khăn nào đến với chúng ta.
BẦU KHÔNG KHÍ LÀNH MẠNH
Những lời đùa cợt và phê bình chẳng ngọt ngào gì nhằm thẳng vào bạn, phải được bạn làm cho chệch hướng trong niềm hoan hỷ. Đó là cách duy nhất để tránh thù hận với bất cứ ai. Không giữ được bình tĩnh trong lúc thi đấu có thể làm cho tinh thần bạn căng thẳng. Bạn sẽ thua cuộc lẽ ra phần thắng về bạn. Bạn cũng làm những ai đang xem cuộc đấu mất vui.
Không có một cách nào bạn có thể thay đổi một ai trên thế gian này theo đường lối của bạn suy nghĩ. Không thể nào được cả đến khi đường lối đó là điều mong ước. Nếu tất cả mọi người đều dồng ý với bạn thì thế giới này rồi chẳng mấy chốc chẳng còn ý kiến nữa.
Có nhiều cách để sửa một người khi người này sai. Nếu bạn phê bình, trách cứ và sỷ vả người ấy trước công chúng, bạn sẽ bị làm nhục và không sửa được người đó. Phê bình chắc chắn sẽ tạo thêm nhiều kẻ thù. Nếu bạn có thể tỏ ra lo lắng cho tương lai của người đó bằng những lời lẽ dịu dàng, người đó, một ngày nào đó, sẽ cảm ơn bạn.
Không bao giờ nên dùng những lời lẽ thô lỗ hay những lời lẽ thiếu nhã nhặn trong bất cứ lúc nào bạn muốn giải thích quan niệm của bạn để giải quyết vấn đề. Ngoại giao, khéo léo, lịch sự và lễ độ không làm buồn ai cả, thật ra mang lại nhiều lối thoát.
Không nên cảm thấy ở vị thế chống đỡ khi những yếu điểm của bạn được nêu lên. Lầm lỗi của bạn là những biển chỉ đường tiến tới sự học hỏi để hoàn bị hơn. Khi một người không kìm hãm được nóng giận, kẻ đó sẽ thốt ra rất nhiều điều không nên nói. Không bao giờ phanh phui bí mật riêng tư của người bạn cũ dù bạn tức giận người bạn này đến thế nào bây giờ đi nữa. Bạn sẽ bị giảm giá trị của mình trong tiến trình và những người kia chẳng bao giờ còn nhìn nhận bạn là một người bạn tốt từ đó trở đi. Họ sẽ nghĩ rằng bạn có thể lại làm giống như vậy như bạn đã làm hại người bạn cũ: Chẳng còn ai tin bạn cả.
HÃY CAN ĐẢM ĐỐI ĐẦU VỚI NHỮNG LỜI PHÊ BÌNH
Mật ngọt sanh bệnh, đắng cay giã tật. Tán dương thì đường mật, nhưng tán dương thái qua tạo thành bệnh; phê bình giống như viên thuốc đắng chữa khỏi bệnh. Chúng ta cần phải có can đảm, hoan hỉ nhận lời phê bình và không sợ hãi gì lời chỉ trích cả.
"Tật xấu ta nhìn thấy nơi người khác
Là phản ảnh bản tính của chính ta"
Cuộc sống của con người, hoàn cảnh và thế gian phản ảnh tư tưởng và niềm tin của chính mình. Tất cả mọi người là tấm gương cho chính họ, cho đau đớn, cho bệnh hoạn và cho tất cả.
HẠNH PHÚC VÀ CHỦ NGHĨA VẬT CHẤT
Nhiều người tin rằng họ chỉ cần tiền bạc là giải quyết được tất cả mọi vấn đề. Họ cũng không hiểu rằng tiền bạc tự nó cũng có những vấn đề khó khăn kèm theo. Tiền bạc không thể giải quyết tất cả mọi vấn đề.
Hầu hết con người chẳng bao giờ suy nghĩ cho chính xác. Mặc dù cuộc sống của họ tựa như cuộc rượt theo của con chó săn đuổi bắt con thỏ mồi. Khi cuộc rượt bắt chấm dứt, tất cả mọi hứng thú sôi nổi đều tiêu tan. Nó thật giống như bản chất hạnh phúc nhục dục trong thế giới của chủ nghĩa duy vật. Ngay khi mục tiêu ham muốn đạt được, hạnh phúc chấm dứt và những ham muốn mới lại trỗi lên. Đạt được mục tiêu hình như chưa đủ để thỏa mãn giống như cuộc rượt bắt vậy.
Hoặc khi chúng ta mất mát gì, hãy nhớ tới lời khuyên sau:
"Đừng nên nói cái đó là của bạn và cái đó là của tôi
Chỉ nên nói cái đó đến với bạn và cái đó đến với tôi
Cho nên đối với tất cả những gì là huy hoàng không còn tồn tại nữa,
Chúng ta chẳng nên hối tiếc cái bóng mờ đó"
Của cải chẳng phải là thứ gì mà bạn phải tích lũy vì tham dục. Của cải chỉ nhằm cho an sinh của bạn cũng như cho những người khác. Hãy cố gắng làm cho thế giới chung quanh bạn có một đời sống tốt đẹp hơn. Hãy sử dụng của cải của bạn một cách khôn ngoan để giảm thiểu các niềm đau của người nghèo khổ, người bệnh tật, người gìà cả. Hãy chu toàn nhiệm vụ của bạn với dân tộc, xứ sở và tôn giáo. Khi thời điểm đến cho bạn phải ra đi, hãy tưởng tượng đến nguồn an lạc và hạnh phúc mang đến cho bạn khi bạn nhớ lại những hành động thiện và vị tha mà bạn đã làm.
Tìm cách làm giầu qua cờ bạc chẳng khác nào trông chờ vào một đám mây lang thang che khuất mặt trời để tránh nắng. Mặt khác, tạo dựng tài sản bằng chuyên cần bảo đảm cho bạn một tòa nhà an toàn trường cửu để tránh nắng mưa.
"Tài sản của bạn sẽ còn đó khi bạn chết. Bạn bè và thân quyến bạn tiễn đưa bạn ra tới huyệt. Nhưng chỉ chỉ có hành động tốt hay xấu do bạn làm trong cuộc sống (Nghiệp) là theo bạn xuống tận dưới mồ."
Mơ tưởng làm giầu hấp dẫn như ma lực nhưng sợ hãi và lo lắng lúc nào ám ảnh trong lúc chờ đợi cái ma lực ấy mòn con mắt. Một lối sống giầu sang mang xáo trộn tâm thần. Giầu sang phú qúi nhưng dùng không đúng thi những điều đơn giản như tình bạn, kỳ vọng và tín nhiệm cũng chẳng đạt được. Khi lối sống bắt đầu tạo bất an, việc cần thiết đến trí tuệ để đưa chúng ta lại vào con đường chính đáng. Người giàu sang có những sự trao đổi, sợ hãi và lo lắng bị mất mát nên hạnh phúc tư hữu bị giảm thiểu.
Vì hạnh phúc cá nhân, chúng ta nên tạo dựng của cải một cách chính đáng. Đức Phật nói:"Hạnh phúc thay cho những ai kiếm sống mà không làm hại đến người khác" . Hạnh phúc không sẽ trường cửu và có ý nghĩa nếu của cải đem lại phiền não và đau khổ liền sau đó. Của cải do lừa lọc dẫn đế đố kỵ, nhưng của cải tạo dựng do lương thiện được kính nể.
Của cải của bạn chỉ có thể kiến trúc cái nhà của bạn nhưng không xây dựng bạn được. Chỉ có đức hạnh của bạn mới xây dựng bạn. Bộ đồ chỉ tô điểm xác thân của bạn nhưng không làm đẹp bạn được. Chỉ có phẩm hạnh của bạn mới có thể làm đẹp bạn.
Sau hết, thật là sung sướng hiểu được "hạnh phúc chỉ là hương thơm bạn không thể rót vào người khác mà không vuơng vài giọt trên chính người bạn". Thế gian không như ý bạn muốn, nhưng bạn có thể hướng con tim bạn tìm hạnh phúc trong đó. Chỉ khi nào bạn chịu đau khổ vì làm việc thiện thì bạn mới vượt lên trên các người khác trong hiểu biết và hạnh phúc cá nhân mình.
"Nếu chúng ta muốn tìm hạnh phúc, chúng ta hãy chấm dứt suy việc nghĩ về biết ơn và bội ơn và hãy cho niềm vui nội tâm của bố thí. Bội ơn rất thường tình - như cỏ dại. Biết ơn như đóa hoa hồng. Đóa hoa này phải được chăm sóc, tưới nước, nuôi dưỡng, yêu dấu và che chở. (Dale Carnegie)
HÀNH ĐỘNG KHÔN NGOAN
Con người phải biết sử dụng tuổi thanh xuân, của cải, kiến thức đúng lúc, đúng chỗ và đúng cách vì lợi ích cho chính mình cũng như cho tha nhân. Nếu người đó sử dụng sai trái quyền lợi của mình, sẽ đưa đến sự suy sụp.
"Con người phải đủ kiên cường để biết khi mình yếu, đủ can đảm để đối phó với sợ hãi, tự hào và không quỵ lụy trong thất bại chính đáng, khiêm nhường và nhã nhặn khi chiến thắng".
Nhiều người may mắn bỗng nhiên đưọc hưởng của cải do tình cờ hay do thừa huởng gia tài. Nhưng không mấy ai đưọc phú cho có trí tuệ để bảo vệ, gìn giữ và sử dụng nó một cách hữu ích. Bất kỳ những gì không do mồ hôi nước mắt tạo nên, thường bị lạm dụng và phung phí.
CHÚNG TA HÃY TỰ ĐIỀU CHỈNH
Phong tục và tập quán là những mối quan hệ quan trọng cho việc học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm con người trong bất cứ cộng đồng nào. Tình trạng khó xử mà ta phải đối phó trong thế gian chẳng bao giờ thay đổi này phải hay không phải sống với qúa khứ hay sống từ bỏ qúa khứ. Bao giờ cũng có một (khỏang cách) "thế hệ trống" giữa già và trẻ vì những nhận định khác nhau về hoàn cảnh thay đổi và về giá trị. Người già sợ người trẻ có thể mất gia tài truyền thống và người trẻ lo âu qúa khứ cổ xưa có thể là một chướng ngại cho đời sống văn minh. Sự thay đổi bao giờ cũng phải được xem xét rất cẩn thận.
Văn hóa bình dân tạo những thần tượng nhất thời và những anh hùng dân gian tượng trưng với các hình ảnh tương phản với lối sống (hiện đại). Quần chúng chiết trung (đứng giữa) giúp đỡ làm vững mạnh thêm những hình ảnh đó và những đầu óc non dại phải ngả về chấp nhận mọi thứ mà họ bênh vực. Cũng có những thông điệp chính trị và xã hội như những phong trào Hippie hay Yupie nhưng là điều sống còn cho những người trẻ phải có trí tuệ của người già để giúp họ phân biệt phải trái. Thời gian thử nghiệm chứng minh những giá trị tốt cổ xưa không thay đổi. Những giá trị như tiết kiệm, thành thật, phóng khoáng, và siêng năng của cuộc sống có phẩm cách lúc nào cũng vần tươi tốt trong bất cứ cộng đồng nào.
Tại Á Châu, các phong tục và tập quán trong các hôn lễ và các tang lễ rất quan trọng. Câu hỏi là phải hay không phải chúng ta có nên tiêu quá nhiều tiền và dành qúa nhiều thì giờ vào những phong tục, tập quán đó không trong thế giới hiện đại. Có thật là cần thiết không? Không có một lời khuyên nào tốt hơn bằng lời dạy của Đức Phật trong kinh Kalama:
"Khi bạn tự biết: "Những điều đó đó không lợi lạc gì, có thể bị chê bai, lên án bởi các nhà hiền triết, đem áp dụng sẽ đưa hậu quả đến tai hại và đau khổ, bạn nên bỏ các điều này.... Khi bạn tự biết: "Các điều đó lành mạnh, không có lỗi, ca ngợi bởi các nhà hiền triết, đem áp dụng, hậu quả đưa đến an sinh và hạnh phúc, bạn nên mang áp dụng và tuân theo."
Mỗi con người là một sáng tạo của vũ trụ. Chừng nào mà con người còn quan tâm đến xã hội con người và việc tái lập trật tự thế gian cho tốt đẹp hơn, thời gian bao giờ cũng sẽ là nhịp cầu nối giữa người trẻ và người già. Lo âu và sợ hãi trên chiều hướng thay đổi sẽ không còn thắt chặt nữa. Những người già chỉ cần nhớ lại, trưóc đây khi các cụ thân sanh đã phản đối một số lối sống hiện đại đang thịnh hành khi họ còn trẻ như thế nào. Chấp nhận những dị biệt cho vấn đề là một đức hạnh. Một thái độ cởi mở mới là một thái độ hạnh phúc.
HÃY LO ĐẾN VIỆC CỦA MÌNH
Thật là sung sướng được tham gia vào việc riêng của bạn mà không có nghi ngờ trong đầu óc về người khác. Đây là lời khuyên của Đức Phật:
"Ta không nên tìm lỗi của kẻ khác, những điều đã làm, những điều chưa làm xong của họ, mà phải tìm trong hành động của mình về nhiệm vụ và sơ sót chểnh mảng của mình."
"Người mà lúc nào cũng dòm ngó lỗi lầm của người khác, cáu kỉnh, tính xấu nhơ bẩn của chính mình càng tăng trưởng. Người đó khó có thể đoạn diệt được tính nhơ bẩn.
"Thấy lỗi người thì dễ, nhưng lỗi của chính mình thì quả thật khó thấy. Lỗi của người thì ta sàng sẩy để quan sát tỷ mỷ, nhưng của ta thì dấu kín như người đi bẫy chìm ngụy trang để núp trốn".
Không ai tránh khỏi chỉ trích và phê bình. Đức Phật dạy:
"Lặng thinh cũng bị trách. Nói ít, nói nhiều cũng bị trách Cho nên không có một ai trên thế giới này mà không bị trách cứ. Ngài nói tiếp: "Ngay cả bây giờ, và sẽ chẳng bao giờ có một ai hoàn toàn bị trách cứ hay hoàn toàn được tán dương ".
Không phải tất cả những người phê bình bạn là những kẻ thù của bạn. Trong dịp này bạn có thể dùng những lời phê phán của họ để tìm những yếu điểm của bạn mà bạn không thấy.
Bạn không nên bỏ việc tốt đang làm chỉ vì phê bình. Nếu bạn có thể chấp nhận các yếu điểm của chính bạn, đương nhiên bạn có sức mạnh tinh thần để thành công.
"Những người cao qúi không đi lệch hướng con đường chính đáng, mặc cho cái gì xẩy ra, không còn tham dục theo các thú vui trần tục. Người khôn ngoan lúc nào cũng bình tĩnh và kiên trì trong đầu óc, lúc vui cũng như lúc buồn."
KHÔNG THÀNH KIẾN
Bạn không nên đi ngay đến bất cứ một quyết định vội vàng nào đối với tất cả vấn đề gì khi bạn đang trong một tâm trạng bất an hay bị khiêu khích. Bất cứ một quyết định nào hay một kết luận nào trong thời gian ấy có thể làm cho bạn hối tiếc một ngày nào đó. Hãy để cho đầu óc của bạn trước nhất thanh thản đã rồi suy nghĩ. Cách phán đoán như vậy của bạn sẽ không có thành kiến.
Trau dồi độ lượng, độ lượng giúp bạn có cảm tình với những ai gập khó khăn. Tránh những phê bình không cần thiết. Phải nên hiểu rằng cả đến người giỏi nhất cũng không thể không sai lầm được. Những yếu điểm bạn nhìn thấy nơi người láng giềng có thể tìm thấy ngay nơi bạn đó. Có câu nói rằng bạn không nên ném đá vào người khác trong khi bạn ở trong lồng kính.
KHIÊM TỐN
Khiêm nhường là biện pháp của người khôn ngoan để hiểu biết sự khác biệt giữa điều đó là gì hoặc điều đó chưa là gì cả. " Chính Đức Phật bắt đầu sứ mạng hoằng pháp của Ngài bằng cách loại bỏ tất cả cái kiêu hãnh của một vị hoàng tử bằng một hành động tự khiêm cung. Ngài đã đạt được thánh quả ngay trong đời sống của Ngài nhưng chẳng bao giờ Ngài mất cái hồn nhiên của Ngài, và chẳng bao giờ mang cái vẻ giỏi hơn người. Những bình luận và ngụ ngôn của Ngài chẳng bao giờ hoa mỹ phô trương. Ngài lúc nào cũng tỏ là một người hết sức khiêm nhường. Ngài chẳng bao giờ để mất đi tính hài hước của Ngài.
ĐỪNG PHÍ PHẠM THÌ GIỜ
Phí phạm cuộc sống của một con người trong lo lắng về tương lai, tiếc nuối về qúa khứ, biếng nhác hay không lưu ý đến gì cả, chứng tỏ người đó thiếu khả năng để giữ địa vị là một sanh vật thượng thặng sáng tạo cao qúi trên trái đất. Người đó sẽ tạo nghiệp xấu cho mình và sẽ bị loại bỏ xuống nơi không xứng đáng thích hợp cho mình. Nhớ điều đó trong đầu và làm các điều thiện trong cuộc sống. Phí phạm thì giờ, bạn không những làm tổn thương cho chính bạn ma còn làm hại đến người khác, vì thì giờ của bạn cũng như của người khác hoặc thì giờ của người khác chính là thì giờ của bạn.
NHẪN NẠI VÀ KHOAN DUNG
Hãy kiên nhẫn với tất cả mọi chuyện. Nóng giận sẽ đưa đến con đường mù quáng. Trong khi bực bội, làm phiền người khác và làm chính mình đau khổ. Nóng giận làm suy yếu cơ thể và làm xáo trộn đầu óc. Một lời cục cằn giống như một mũi tên từ cây cung bắn ra không bao giờ có thể lấy lại được dù cho bạn có cải chính đến cả ngàn lần.
Một số sinh vật không thể nhìn thấy ban ngày trong lúc một số sinh vật khác không nhìn thấy ban đêm. Nhưng người nóng giận đến cực độ thì không nhìn thấy gì hết cả ban ngày lẫn ban đêm.
Với ai và với cái gì bạn tranh đấu khi bạn nóng giận? Bạn tranh đấu với chính bạn, chính bạn là kẻ thù tệ hại nhất của bạn. Trí óc bạn là người bạn tốt nhất của bạn nhưng nó cũng rất dễ dàng trở nên kẻ địch nguy hại nhất của bạn đấy. Một vài loại như bệnh tim, phong thấp, và bệnh ngoài da được truy cứu là do sự oán giận, căm hờn và ghen ghét kinh niên. Những cảm nghĩ phá hoại như vậy đầu độc tim bạn. Những cảm nghĩ này nuôi dưỡng việc phát triển các bệnh tiềm ẩn làm suy giảm sự kháng cự tư nhiên của cơ thể chống lại các vi trùng của bệnh tật.
TỪ ÁC ĐỔI THÀNH THIỆN
Nếu bạn không muốn có kẻ thù, trước tiên là bạn phải giết kẻ thù lớn nhất chính nơi bạn - đó là sự nóng giận của bạn. Nếu bạn bị xáo trộn bởi kẻ thù của bạn có nghĩa là bạn đã làm đúng những ước vọng của kẻ thù bạn, bạn đã vô tình xa vào bẫy của kẻ thù.
Bạn không nên nghĩ rằng bạn chỉ học hỏi được từ những ngưòi tán dương bạn, giúp bạn, và thân cận gần gũi với bạn. Bạn có thể học rất nhiều điều từ kẻ thù của bạn. Bạn không nên nghĩ rằng những điều đó hoàn toàn sai chỉ vì lẽ các điều đó xẩy ra ở nơi kẻ thù của bạn. Những kẻ thù bạn cũng có một số các đức tính tốt.
Bạn không thể loại bỏ kẻ thù bằng lấy ác diệt ác. Lấy ác thì chỉ tạo thêm thù mà thôi. Phương pháp tốt nhất để chống lại kẻ thù là mang lòng từ tâm thương yêu đến họ. Bạn có thể nghĩ rằng điều đó không thể làm được hay không cần thiết. Nhưng đường lối đó đã được chứng minh ở một người có văn hóa. Khi bạn đến để tìm hiểu một người nào đó rất giận giữ với bạn, trước nhất bạn hãy gắng tìm nguyên nhân. Nếu là do lầm lỗi của bạn, bạn nên thừa nhận và không ngần ngại gì xin lỗi người đó. Nếu do vì những sự hiểu lầm nào đó xẩy ra giữa hai người, thì bạn nên làm sáng tỏ bằng cách giãi bầy tâm sự.
Nếu do vì ghen ghét, cố gắng đem tâm từ lòng thương yêu đến người đó. Bạn có thể ảnh hưởng, cảm hóa người đó bằng trí huệ. Bạn có thể không hiểu tại sao nó lại có kết qủa, nhưng kinh nghiệm của nhiều người đã chứng minh đó là một phương pháp mạnh nhất, khôn ngoan và dễ dàng để chiến thắng. Phương pháp đó được đặc biệt đề cao đem áp dụng trong Phật Giáo. Lẽ đương nhiên, muốn làm vậy, bạn phải tự tin, kiên nhẫn chính nơi bạn. Làm như thế, bạn có thể làm cho kẻ thù hiểu được chính họ sai. Ngoài ra, bạn cũng được lợi lạc trong nhiều chiều hướng vì không còn kẻ thù trong tâm bạn nữa.
LÒNG TỪ TÂM THƯƠNG YÊU
Chừng nào còn có một đồng loại đơn côi được an ủi bởi những lời dịu dàng của bạn, được bạn làm cho phấn khởi và hứng thú,được bạn có thể giúp đỡ với của cải trần thế của bạn thì dù việc bác ái này nhỏ nhoi đến thế nào nữa bạn vẫn là một tài sản qúy báu của nhân loại. Bạn không nên bao giờ ngã lòng và phiền muộn.
Có thể có đôi khi khi những người mà bạn thương mến hình như không lưu ý đến bạn, làm tâm bạn có khuynh hướng nặng chĩu buồn phiền. Nhưng không phải lý do chính đáng làm bạn thất vọng. Còn vấn đề gì nữa khi mà bạn hiểu với tất cả tầm lòng từ tâm đối với người đồng loại ? Đừng bao giờ ỷ lại vào người khác vì hạnh phúc riêng tư của mình. Kẻ muốn bảo đảm sự thỏa mãn của mình trong đời sống bằng cách trông chờ từ người khác thì còn tệ hại hơn là người ăn xin qùy gối kêu khóc xin miếng ăn hàng ngày.
MỐI ĐE DỌA CỦA MA TÚY VÀ RƯỢU CHÈ.
Rượu được mô tả là nguyên nhân chính của sự sa đọa thể chất và tinh thần của con người. Hiện nay, một hình thức xấu xa và tội lỗi hơn nữa là các loại ma túy độc hại và nguy hiểm, nhất là chất heroin, đã gây nhiều khó khăn cho nhân loại và xã hội. Vấn đề khó khăn này lan rộng khắp thế giới. Hậu qủa của việc ghiền ma túy nghiêm trọng hơn và sinh tử hơn ghiền rượu nữa. Trộm cắp, cướp bóc, tội ác về bạo dâm, lừa đảo các món tiền lớn đã xẩy ra do ảnh hưởng đ?c hại vì ghiền ma túy.
Các bạo chúa ma túy, chưa thỏa mãn là sự chết chóc của các con buôn mà còn gắng sức để kiểm soát các chính phủ yếu bằng tham nhũng, hối lộ, đảo chính và bom đạn. Về đường lối chính trị, các chính phủ phải bảo vệ nguời dân chống lại việc dùng ma túy. Đúng, bạo chúa ma túy trong những mưu đồ qủy quyệt, đã đe dọa đến tận nền móng của xã hội - nhân phẩm của con người . Những nhà phát ngôn có lương tri và gia đình của họ sống trong đe dọa của tử thần vì họ đã dám bước qua con đường phi luật pháp của bạo chúa ma túy.
Nếu không có sự phối hợp quốc tế để dập tắt tội lỗi này, tiềm năng và tương lai của các dân tộc đương nhiên bị lu mờ không bảo đảm. Trên khắp thế giới, hàng triệu triệu Mỹ kim kiếm được từ lao động nhọc nhằn đã phải dùng đến để chi tiêu trong việc bài trừ ma túy nhưng ma túy vẫn còn. Bổn phận của chúng ta là phải giúp đỡ với bất cứ phương tiện nào mà chúng ta có thể để nhổ tận rễ tệ nạn khủng khiếp này và để ngăn ngừa con cái chúng ta khỏi bén bảng tới.
Đời sống của một người ghiền ma túy hay một người ghiền rượu là một đời sống bị hành hạ khổ sở, địa ngục tại trần gian, sớm đưa đến nhà mồ.
NGƯỜI SAY
Người say chối bỏ lẽ phải
Chìm đắm trí nhớ
Biến thể khối óc
Suy yếu sức lực
Làm viêm mạch máu
Gây thành các vết nội và ngoại thương bất trị
Là mụ phù thủy của cơ thể
Là con qủy của trí óc
Là kẻ trộm của túi tiền
Là kẻ ăn xin ghê tởm
Là tai ương của người vợ
Là đau buồn của con cái
Là hình ảnh một người hung bạo
Là kẻ tự giết mình
Uống sức khoẻ của người khác
Và cướp đoạt chính mình.
Là con người, chúng ta phải có sự bình tĩnh để phân biệt giữa cái gì là điều thiện cái gì là tội lỗi. Hãy tránh xa ma túy và rượu và giúp đỡ người khác tránh xa. Đó là cách phục vụ vĩ đại nhất cho nhân loại.
BẠN TẠO THIÊN ĐƯỜNG VÀ ĐỊA NGỤC NƠI ĐÂY
"Nếu bạn muốn sống hòa bình và hạnh phúc trên thế giới này, bạn cũng phải để những người khác sống hòa bình và hạnh phúc, cho nên bạn làm một cái gì cho thế giới này có ý nghĩa cho đời sống". Cho đến lúc nào mà bạn chưa tự điều chỉnh để sống hoà hợp theo những nguyên lý cao thượng ấy thì bạn không thể có hạnh phúc và hòa bình. Đơn giản bằng cầu nguyện không thôi, bạn không thể hy vọng hạnh phúc và hòa bình từ thiên đường.
Nếu bạn hành động theo đúng nguyên tắc luân lý bằng cách gìn giữ phẩm hạnh của con người, bạn tạo thiên đường của bạn ngay tại đây, thế giới này. Bạn cũng có thể tạo hỏa ngục trên trái đất này nếu bạn lạm dụng giá trị của đời sống con người. Không biết sống thế nào hòa hợp theo đúng định luật thiên nhiên vũ trụ thì chúng ta thường sai lầm vấp váp. Nếu mỗi người cố gắng tạo một cuộc sống không hại ai và đáng kính trọng, thì ta có thể thực sự hưởng hạnh phúc tốt hơn là loại hạnh phúc mà một số người hy vọng đạt được sau khi chết.
Không cần thiết phải tạo dựng một thiên đường nơi nào đó để tưỏng thưởng cho đức hạnh hay tạo một địa ngục để trừng phạt tội lỗi thì cho dù bất kể ở niềm tin tôn giáo nào đức hạnh và tội lỗi có những hệ lụy không thể tránh được trên thế giới này. Từ bi với tất cả các sinh vật là con đường duy nhất tạo thiên đường. Có thể chúng ta có lý tưởng chói sáng hấp dẫn vì lợi ích của xã hội và xứ sở bằng khoan dung và cảm tình sinh động cho tiến bộ và hạnh phúc của con người. Là con người chúng ta đã đạt được điều này là nhờ những cá nhân xuất chúng đã chỉ ra con đường. Khi giúp đỡ tinh thần người khác, bạn đã tự giúp mình và khi bạn tự giúp mình tinh thần, bạn giúp đỡ người khác.
HẠNH PHÚC LỨA ĐÔI TRONG CUỘC SỐNG
Đối với một hôn nhân đứng đắn, người đàn ông và người phụ nữ thường nghĩ đến người hôn phối hơn là nghĩ đến chính mình. Hôn nhân ví như một chiếc xe đạp dùng cho hai người . Cảm nghĩ an toàn và thoải mái đến từ sự cố gắng hỗ tương. Thiếu kiên nhẫn và hiểu lầm là lý do của hầu hết các vấn đề khó khăn trong gia đình. Người vợ không phải là một người đầy tớ của chồng. Người vợ đáng được kính trọng đồng đều. Tuy người chồng có bổn phận kiếm tiền nuôi gia đình, nhưng vẫn giúp đỡ gia đình trong các công việc nội trợ lặt vặt, không phải là hạ nam tính của đấng trượng phu. Đồng thời một người vợ luôn luôn than phiền và gắt gỏng không thể đền bù những thiếu thốn trong gia đình. Cũng không luôn nếu có sự nghi ngờ của người vợ về sự giúp đỡ của người chồng để tao hạnh phúc hôn nhân. Nếu người chồng có những nhược điểm, chỉ có lòng khoan dung và những lời ngọt ngào là có thể làm cho người chồng nhìn thấy ánh sáng. Hiểu biết chánh đáng (Chánh Tư Duy) và tư cách đạo đức là phần thực hành của trí tuệ.
Hôn nhân là hạnh phúc nhưng nhiều người đã biến cuộc sống lứa đôi thành khổ sở bất hạnh. Sự nghèo nàn không phải là nguyên nhân chính của sự mất hạnh phúc. Cả chồng lẫn vợ phải trau dồi chia sẻ vui buồn mọi việc trong đời sống hàng ngày. Thông cảm lẫn nhau là bí quyết của hạnh phúc gia đình.
KHÔNG LO LẮNG
Bí quyết của đời sống hạnh phúc thành công là phải làm những gì cần làm ngay bây giờ, và đừng lo lắng về qúa khứ cũng như tương lai. Chúng ta không thể tái tạo qúa khứ và cững không thể tiên liệu mọi thứ cho tương lai.
Nhưng có một lúc nào đó lúc thời gian qua mà chúng ta ý thức được việc tự chủ, đó là hiện tại.
Nhiều người lo lắng về tương lai. Những người này cần phải học hỏi để thích nghi với mọi hoàn cảnh. Dù cái lâu đài nào nữa xây trong không khí, dù giấc mơ đến ra sao, lúc nào họ cũng phải nhớ là họ đang sống trong cái thế gian va chạm không ngùng và thay đổi này.
"Không có ngôi sao nào ta có thể tin tưởng được,
Không có ánh sáng nào hướng dẫn ta,
Nhưng chúng ta biết rằng chúng ta phải
LƯƠNG THIỆN, CÔNG BẰNG, THẲNG THẮN"
CỘT TRỤ CỦA THÀNH CÔNG
Thất bại nhưng là cột trụ của thành công. Học hỏi từ thất bại của chúng ta đưa đến thành công.
Không bao giờ có bại thì cũng không bao giờ có thắng. Nếu chúng ta không gập thất bại và cay đắng, chúng ta chẳng bao giờ ý thức hương thơm ngọt ngào của chiến thắng; nó chỉ trở thành khúc ngoặt của những biến cố nhỏ nhoi không đáng kể. Thất bại không những giúp chúng ta đi đến thành công, còn làm cho ta thêm nghị lực, phấn khởi và giầu kinh nghiệm.
"Chúng ta sống, làm việc và mơ mộng
Mỗi người đều có kế hoạch nhỏ
Đôi khi chúng ta cười,
Đôi khi chúng ta khóc,
Và cứ vậy, ngày qua"
VẺ ĐẸP CHÂN CHÍNH
Nét xấu ề ngoài không phương hại gì đến nhân phẩm duyên dáng. Nếu một nguời xấu xí trau dồi đức hạnh của tình thương, tình thương này sẽ chứng tỏ trong nhiều đuờng thắng lợi - thanh thản, rạng rỡ, phong thái dịu dàng và lịch sự. Những nép đẹp hấp dẫn ấy dễ dàng bù trừ lại bất cứ yếu điểm nào của bề ngoài.
Một ngưòi đẹp trai mà điệu bộ mầu mè, kiêu căng thì nhìn không hấp dẫn, xa cách. Cái đẹp bên trong mới là vẻ đẹp chân chính. Vẻ đẹp bên trong có một phẩm cách đặc biệt, thu hút.
TẠI SAO KHÓ KHĂN KHI TỪ GIÃ THẾ GIỚI NÀY?
Với đa số, cái chết là một biến cố không được hoan nghênh. Với qúa nhiều tham dục phải được thỏa mãn, nhiệm vụ của cuộc sống, mặc dù nhiều đau khổ lớn lao, chẳng bao giờ đủ để chấm dứt. Người ta cảm thấy thoải mái với ảo vọng hạnh phúc hơn là với thực tế của cái chết. Nếu tất cả phải nghĩ về việc này thì đó là giờ phút cuối cùng.
Luyến ái vào đời sống thế gian tạo một niềm sợ hãi bệnh về cái chết. Nhưng sự thật thì tất cả đời sống không là gì cả mà duy nhất là đau khổ. Cái chết là điều tự nhiên không thể tránh được. Không phải là nửa hoảng sợ như tư tưởng tự nó đang chết. Trí óc tự nó có khả năng tạo thành và phóng đại hình ảnh ma của cái chết. Lý do là tại đầu óc không được huấn luyện để nhìn thấy cuộc đời với tất cả cái vô thuòng và bất toại nguyện của nó. giống như bám vào các ảo ảnh y như một người đang chết đưối cố bám vào cọng rơm.
Cái chết cũng tạo nên sự khó chịu cho những ai nhiệt thành cầu nguyện đấng siêu nhiên tuỏng tượng nào đó tha tội và cho một chỗ trên thiên đường khi cuộc sống hình như vô vọng. Đương nhiên sợ hãi cái chết là một hiện tượng tự nhiên của bản năng tự bảo toàn. Nhưng có một con đường để vượt qua sự sợ hãi đó. Hãy làm một việc vị tha cho an-sinh người khác để đạt hy vọng và tự tin ở kiếp sau. Lòng vị tha thanh lọc tất cả luyến ái vị kỷ.
Đầu óc thanh tịnh, không luyến ái các điều trần tục, bảo đảm hạnh phúc khi đi khỏi thế giới này. Đó là sự suy gẫm kiên trì về cái chết để hiểu được cái vô thường của cuộc đời và trí tuệ để sửa chữa lối sống sai lầm, và để khỏi sợ hãi cái chết. Củng cố tinh thần để đối phó với những sự việc và thực tế của cuộc đời. Hãy tránh các tham vọng không thực tế và không thể thực hiện được. Hãy phát triển lòng tự tin. Rồi bạn sẽ được thoải mái hơn để vượt qua các khó khăn của đời sống.
TRÁCH NHIỆM
Chúng ta đều có khuynh hướng đổ lỗi cho người khác về những yếu điểm và bất hạnh của mình. Có bao giờ bạn nghĩ rằng chính bạn chịu trách nhiệm về tất cả những khó khăn của bạn không? Sự đau buồn của bạn không dính dấp gì đến tai ương của gia đình hay các tội nguyên thủy của cha ông. Cũng chẳng phải là việc làm ra của thần thánh hay ma qủy. Đau buồn của bạn do chính bạn tạo ra. Cho nên chính bạn là ngưòi cai tù cho chính bạn và cũng là người giải thoát cho chính bạn. Đồng thời, bạn tạo địa ngục hay thiên đường cho chính bạn. Bạn có tiềm lực trở thành người tội lỗi hay trở thành thánh. Không ai có thể tạo cho bạn thành người tội lỗi hay thành thánh.
Bạn phải học hỏi trau dồi để gánh lấy tránh nhiệm đời sống của bạn. Bạn phải học hỏi để chấp nhận những yếu điểm của bạn để không đổ lỗi hay phiền hà ai. Hãy nhớ câu của ngưòi xưa:
"Người vô học thức lúc nào cũng đổ lỗi cho người khác; người bán học thức thì tự trách mình, và người có học thức thì sẽ không trách ai cả".
Bất luận một khó khăn nào phát xuất lúc nào hay tại đâu, là ngưòi hiểu biết, chúng ta nên tự tìm hiểu xem lỗi lầm do đâu mà ra không đổ lỗi cho ai cả. Nếu mỗi người tự sửa chữa lấy mình, sẽ không có một khó khăn nào hay một sự xung đột nào xẩy ra trên thế giới này. Nhưng tiếc thay con người lại không bao giờ cố gắng để gia tăng tầm hiểu biết bằng hành động không thiên vị. Họ thích tìm kiếm những bung xung để chịu báng thay thế cho họ. Họ chỉ nhìn bên ngoài họ để tìm nguyên nhân những khó khăn gây ra vì lẽ họ không thích chấp nhận những yếu điểm của chính họ.
Trí óc của con nguời có qúa nhiều dối trá cho nên con người cố tìm cách bào chữa để chúng minh hành động của mình hầu tạo ảo tưởng là mình không lỗi lầm. Đức Phật nói:
"Thấy lỗi của người khác thì dễ, nhưng lỗi của chính mình thì quả thật khó thấy". (Kinh Pháp Cú)
Để che dấu nhược điểm hầu bao che lầm lỗi của mình, nhiều người có một thái độ hung hăng với người khác vì nghĩ rằng làm như vậy họ sẽ tránh được tình trạng xấu hổ hoặc tránh né những lời oán trách . Họ không hiểu rằng một thái độ như vậy không chỉ tạo thêm nhiều khó khăn cho chính mình và ngoài ra còn tạo thêm bầu không khí nguy hiểm chung quanh hơn.
Khi làm sai bạn phải thừa nhận là bạn sai. Đừng theo con đường của những kẻ vô học thức lúc nào cũng đổ lỗi cho người khác. Đức Phật nói:
"Người điên mà không cho mình là điên, quả là một người điên thực sự. Và người điên biết mình điên, vì lẽ ấy, là một người trí". (Kinh Pháp Cú)
Bạn chịu trách nhiệm về mọi nỗi buồn đau đến với bạn. Khi để, dù là một việc bất ngờ nhỏ xẩy ra, làm phiền hay đảo lộn đầu óc bạn, thì chính cái bất ngờ nhỏ nhoi ấy đưa dến buồn đau cho bạn. Bạn phải hiểu rằng điều đó không sai nhưng chúng ta mới sai.
TRÁCH NHIỆM CỦA BẠN VÀ SỰ HIỂU BIẾT LẪN NHAU
Hãy luôn nhớ bất cứ cái điều gi xẩy ra, bạn sẽ không cảm thấy đau đớn nếu bạn biết giữ quân bình đầu óc của bạn. Bạn chỉ bị đau đớn bởi thái độ tinh thần mà bạn áp dụng cho chính bạn và cho các ngưòi khác. Nếu bạn tỏ một thái độ yêu thương tới nguời khác, bạn cũng sẽ nhận lại được giống như vậy một thái độ yêu thương. Nếu bạn tỏ ra oán ghét, bạn sẽ nhận được, không nghi ngờ gì, oán ghét trở lại. Một người giận dữ thở ra chất độc, chính người đó bị nhiễm độc và đau đớn nhiều hơn là làm người khác đau.
Một người giận dữ la mắng người khác không thể nhìn thấy sự việc một cách đứng đắn tỷ như khói bốc làm mờ mắt. Kẻ nào khôn ngoan không giận dữ sẽ không bao giờ bị đau khổ. Lúc nào cũng nhớ rằng không ai có thể làm bạn đau đớn được trừ phi chính bạn dọn đuờng cho nguời khác làm bạn đau khổ. Nếu bạn theo đúng Pháp (Chánh Mạng) Pháp đó sẽ che chở cho bạn. Đức Phật dạy:
"Kẻ nào xâm phạm người ôn hòa, trong sạch và vô tội, qủa dữ sẽ dội trở lại kẻ cuồng dại ấy, như tung cát bụi ngược chiều gió (cát bụi sẽ bay trở vào mắt)". (Kinh Pháp Cú)
Nếu bạn làm người khác nổi giận, bạn phải chịu trách nhiệm về những hậu quả gây nên. Tỏ thái độ hung hăng, bạn sẽ chỉ làm đúng điều kẻ thù mong muốn.
KHÔNG TRÁCH CỨ NGƯỜI KHÁC
Nếu bạn biết giữ vững đúng tinh thần bạn, những việc xẩy ra bên ngoài sẽ không ảnh hưởng gì bạn. Bạn không nên đổ lỗi cho hoàn cảnh khi sự việc sai lầm. Bạn không nên nghĩ rằng bạn không may mắn, là nạn nhân của số mệnh, hay người nào đó nguyền rủa bạn hay "bùa trú" bạn. Dù với lý do nào mà bạn cho là phải đi nữa, bạn cũng không thoát khỏi trách nhiệm về hành động của chính bạn. Cố gắng giải quyết vấn đề, không hờn dỗi. Cố gắng làm việc vui vẻ cả đến trong những hoàn cảnh hết sức thử thách.
Hãy can đảm để đối đầu với bất cứ thay đổi nào nếu sự thay đổi này đương nhiên và cần thiết, cho nên bạn phải đủ can đảm chấp nhận cái mà bạn không tránh được. Bạn nên đủ khôn ngoan để hiểu biết cái bấp bênh trần thế ảnh hưởng đến tất cả mọi người.Cho nên bạn phải phát triển can đảm để đối đầu với thất vọng và khó khăn không cảm thấy hoảng sợ. Khó khăn về đời sống của chúng ta, chúng ta phải can đảm đương đầu. Nếu bạn biết làm sao để vượt khỏi các khó khăn ấy không tạo thêm nhiều khó khăn nữa, thì bạn khôn ngoan đấy.
Những ai cố gắng phục vụ cho người khác thì cũng phải gặp các khó khăn. Họ còn gập nhiều trách cứ hơn những người không giúp đỡ gì cho ai cả. Bạn không nên ngã lòng, thay vào bạn phải có sự hiểu biết để thực thi việc vị tha đó kết quả đem hạnh phúc như một phần thưởng. Giúp đỡ người khác, phải có kiến thức và hiểu biết. Bertrand Russell, một triết gia Anh nói:
"Thương yêu không kiến thức và kiến thức không thương yêu thì không thể tạo một đời sống tốt đẹp".
BẠN CHỊU TRÁCH NHIỆM AN LẠC NƠI TÂM CỦA BẠN
Bạn phải học hỏi làm sao bảo vệ an lạc nội tâm và bình tĩnh tạo trong tâm khảm của bạn. Để gìn giữ an lạc nội tâm, bạn phải biết lúc nào nên giảm thiểu cái phức tạp mặc cảm tự tôn của bạn; bạn cũng phải biết lúc nào bạn phải quên lòng tự hào của bạn, khi bạn khuất phục được cái ngã giả tạm của bạn, khi bạn loại được cái cứng rắn của bạn và khi bạn thực thi kiên nhẫn. Bạn không nên để ngư?i khác lấy mất an lạc nội tâm của bạn. Bạn phải gìn giữ an lạc nội tâm của bạn nếu bạn biết hành động khôn ngoan.
Trí tuệ đến do hiểu biết. "Con người không phải là một thiên thần từ trên trời rơi xuống, mà là một động vật được nuôi nấng". Hãy tận dụng các cố gắng với quan niệm kiên quyết và khéo léo giữ vững đúng nguyên tắc. Đồng thời hãy khiêm nhường vì lợi ích của hòa bình và độ lượng để tránh xung đột và bạo động. Làm như vậy, bạn sẽ không bao giờ mất gì cả. Thay vào đó,cuối cùng, bạn lại đạt được.
LÀM SAO ĐỂ ĐỐI ĐẦU VỚI CÁC LỜI PHÊ BÌNH
Bạn phải học hỏi làm sao để tự bảo vệ chống lại các lời phê bình không chính đáng và làm sao sử dụng có ý thức các lời phê bình xây dựng. Bạn phải luôn luôn nhìn lời phê bình với tính cách khách quan. Nếu những lời phê bình bạn không chính đáng, vô căn cứ, có ác ý, thì phẩm giá của bạn không làm bạn hèn nhát khuất phục. Nếu bạn biết không có lỗi lầm trong lương tâm của bạn, thái độ của bạn đứng đắn, sẽ được tán thưởng bởi những người hiểu biết, bạn không cần phải lo lắng về những lời phê bình vô căn cứ. Sự hiểu biết về cả hai loại phê bình xây dựng và phá hoại rất cần thiết cho bạn để điều hợp lối sống của bạn trong bất cứ xã hội nào. Đức Phật dạy:
"Không có một ngưòi nào không bị trách cứ (lầm lỗi) trong thế giới này". (Kinh Pháp Cú)
KHÔNG MONG ƯỚC GÌ VÀ KHÔNG CÓ GÌ LÀM BẠN THẤT VỌNG
Bạn có thể tránh thất vọng bằng cách không ước vọng gì về việc làm của bạn. Nếu bạn không ước mong gì, thì không có gì làm cho bạn thất vọng. Hãy làm việc gì đem lợi ích cho người khác để giảm bớt khổ đau. Nếu bạn có thể làm như vậy mà không ước vọng một phần thưỏng nào cho bạn cả, không có nguyên nhân nào làm cho bạn thất vọng. Bạn là một người mãn nguyện! Hạnh phúc hiện ra trong đầu óc bạn vì điều thiện bạn đã làm, chính đó là phần thưởng to lớn. Hạnh phúc này tạo lòng thỏa mãn mênh mông trong cuộc sống của bạn. Nếu vì ước vọng được tưởng thưỏng, bạn không những sẽ mất hạnh phúc, mà còn nhận được thất vọng cay đắng.
Có lẽ bạn có thể là một người bản tính tốt nên bạn không hại ai. Thế mà bạn vẫn bị trách cứ mặc dù bạn làm điều thiện. Rồi bạn có thể hỏi: "Nếu làm tốt được tốt, làm xấu đuợc xấu, tại sao tôi phải đau khổ khi tôi hoàn toàn vô tội? Tại sao tôi lại phải gặp nhiều khó khăn như vậy? Tại sao tôi nhiều phiền muộn với qúa nhiều xáo trộn? Tại sao tôi bị trách cứ bởi người ta mặc dầu việc của tôi tốt? Câu trả lời đơn giản là khi bạn làm một số hành động thiện bạn có thể vô tình chống lại những lực lượng của ma vương hoạt động trong vũ trụ. Những lực lượng ma vương này đương nhiên chống lại các hành động thiện. Nếu không, có thể là bạn đã chịu ảnh hưởng của ma vương trong qúa khứ (nghiệp) đến bây giờ mới chín mùi để chống lại bạn. Cứ tiếp tục làm các việc thiện với sự hiểu biết vững vàng, cuối cùng bạn sẽ thoát khỏi các phiền não ấy. Vì bạn là người đầu tiên tạo thất vọng, thì chính chỉ có bạn mới có thể vượt qua các các thất vọng ấy - bằng cách hiểu được tình hình thật sự đời sống trần thế của chúng ta.
"Bảo vệ người khác là bạn bảo vệ chính bạn. Bạn bảo vệ bạn là bạn bảo vệ người khác"
Nhiều các điều kiện trần thế ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. Những sự thay đổi bất ngờ, các ảnh hưởng và các bấp bênh xẩy ra làm ta bất toại nguyện. Cho nên tại sao đôi khi khó khăn để làm việc thiện trong những hoàn cảnh thay đổi như vậy. Nếu người ta chú ý đến lời khuyên của Đức Phật, mọi nguời đều có thể đóng góp chút gì cho việc bảo vệ lẫn nhau.
BIẾT ƠN LÀ MỘT ĐỨC HẠNH HIẾM CÓ
Đức Phật coi biết ơn là một đức hạnh vĩ đại. Phải, thật là đúng đức hạnh này rất hiếm trong bất cứ xã hội nào. Bạn không thể ước vọng luôn luôn người ta biết ơn bạn về những gì bạn đã làm.
Người ta có khuynh huớng quên ơn đặc biệt đến lúc phải nhớ lại các ơn cũ. Nếu ngưòi ta không bầy tỏ lòng biết ơn, bạn phải chấp nhận như vậy - chỉ có thế bạn mới tránh được thất vọng. Bạn có thể hạnh phúc chẳng cần để ý đến ngưòi ta có biết ơn về sự tử tế và các sự giúp đỡ của bạn hay không; bạn chỉ cần nghĩ vả cảm thấy thỏa mãn bạn đã làm bổn phận cao thượng là một con người đối với đồng loại.
ĐỪNG SO SÁNH VỚI NGƯỜI KHÁC
Bạn có thể tự bạn đoạn trừ lo âu không cần thiết và phiền não đơn giản là không so sánh bạn với người khác. Chừng nào mà bạn còn nhìn người khác so sánh là "bằng với bạn", "cao hơn" hay "kém hơn" bạn sẽ cố chấp và áy náy bồn chồn. Nếu bạn không áp dụng thái độ ấy, không có gì làm cho bạn phải lo lắng. Nếu bạn nghĩ rằng bạn cao hơn người khác, bạn trở nên hãnh diện. Nếu bạn nghĩ là bạn đứng thứ hai hay không là gì cả, người khác sẽ hạ bạn. Nếu bạn nghĩ là bạn thấp kém, bạn sẽ mất lòng tự tin.
Với đa số, rất khó nén được niềm kiêu hãnh của họ. Nên khôn ngoan học hỏi làm sao để giảm bớt lòng kiêu hãnh của chính mình. Nếu bạn có thể hy sanh niềm kiêu hãnh của mình, bạn có thể tìm thấy an lạc nội tâm. Bạn có thể hòa hợp với người khác để chứng nghiệm an lạc và hạnh phúc. Cái gì quan trọng hơn - giữ niềm kiêu hãnh hay an lạc trong tâm hồn?
Cố gắng mà hiểu rằng, bằng nhau, hơn hay kém, tất cả đều trong trạng thái thay đổi: Bạn có thể nghèo bây giờ nhưng một thời điểm nào đó, bạn có thể giầu có. Ngày nay bạn có thể ngu si, nhưng mai này bạn trở nên khôn ngoan. Ngày nay bạn có thể bị đau yếu và không hạnh phúc, nhưng thời gian sau bạn sẽ vẫn có thể lại mạnh khỏe. Tuy nhiên, có nhiều đức tính không thể thấu hiểu được của con người được coi như là gia tài của nhân loại - nhân quyền, phẩm giá của con người, địa vị của con người vân vân ... Không ai có quyền tưóc đoạt những thứ đó của bạn.
"Nếu bạn tốt với chính bạn, bạn sẽ tốt vối ngưòi khác. Nếu bạn tốt với ngưòi khác, bạn tốt với chính bạn".
LÀM THẾ NÀO ĐỂ ĐỐI XỬ VỚI NHỮNG KẺ LÀM RỐI LOẠN?
Bạn phải hiểu rằng bạn phải đóng góp chút gì, dụng ý hay không dụng ý, vì những phiền não và khó khăn xẩy đến cho bạn bây giờ. Cũng rất quan trọng cho bạn hiểu là bạn phải vượt qua những khó khăn đến với bạn từ nhiều nguyên nhân. Nếu sự hiểu biết của bạn đủ sâu rộng để thăng hoa trách nhiệm của bạn vì đã gây ra các khó khăn hiện tại, chắc chắn bạn sẽ có ý kiến làm thế nào tốt nhất để đoạn trừ.
Rồi bạn sẽ hiểu làm thế nào để đối xử với kẻ làm rối loạn và những người chống đối. Những kẻ chống lại bạn cũng có một trái tim con người. Cho nên không khó khăn gì lắm để hòa giải họ; phát triển mối thân hữu với họ thay vì cô lập họ. Nếu bạn đủ sức mạnh để chống lại thái độ sai lầm của họ, không có lý do gì bạn tránh không tiếp súc với họ. Qua sự liên kết với những người như vậy, bạn có thể ảnh hưởng họ để họ tự cải tiến. Hãy nhớ rằng sự hiểu biết riêng của chính bạn bảo vệ bạn khỏi kẻ thù và giúp bạn hướng dẫn họ trở nên lương thiện.
Nếu một người làm một việc gì sai quấy cho bạn vì ngu si và thiếu hiểu biết, đó là dịp tốt nhất để bạn trình bầy cho người đó biết trí tuệ, học vấn và và sự thấu triệt tôn giáo của bạn. Cái gì là để sử dụng tất cả học vấn của bạn và kiến thức về tôn giáo của bạn nếu bạn không biết cư sử như một người quân tử thực sự nhất là trong lúc thử thách? Nếu những người khác làm sai cho bạn phải coi những hành động này là dịp để bạn phát triển kiên nhẫn và cảm tình của bạn.
Kiên nhẫn là một trong những đức tính đầu tiên mà mỗi người phải trau dồi. Bạn càng thực hành đức tính này càng nhiều, bạn càng có thể giữ vững được phẩm cách của bạn. Bạn phải biết làm sao sử dụng hữu hiệu kiến thức của bạn và nguyên tắc để giao tế với người chống đối bạn. Sớm muộn họ sẽ hiểu hành động dại dột của họ và thay đổi thái độ kình chống. Đôi khi, có người cố gắng lợi dụng lòng khoan dung và nhẫn nại của bạn như những dấu hiệu của yếu kém. Đó là lúc cho bạn hành động khôn ngoan để không trở thành nạn nhân của các con người xảo quyệt như vậy.
"Đức hạnh phải được thực hành một cách khôn ngoan".
Tử tế, thành thực và kiên nhẫn là những mảnh đất phì nhiêu cho hạng người xảo quyệt dùng làm phương tiện với những nạn nhân đã được họ dụng ý vì những người này có những đức tính rộng lượng trên.
THA THỨ VÀ QUÊN ĐI
Trả thù những kẻ gây náo loạn chỉ tạo thêm nhiều khó khăn và xáo trộn. Bạn phải hiểu rằng những cảm nghĩ tiêu cực và hành động chống đối chỉ mang lại tai hại và đau khổ cho cả bạn và kẻ gây náo loạn. Muốn hành động trả đũa, bạn phải nuôi dưỡng hận thù mãnh liệt trong tâm bạn. Hận thù đó giống như chất độc. Khi thuốc độc khởi sự nơi bạn, chắc chắn nó sẽ hại bạn trước khi hại một người nào khác. Trước khi bạn ném một thanh sắt nóng bỏng vào người khác, bạn đã bị phỏng trước. Hành động của bạn chỉ là để cho thấy căn bản không có gì khác biệt giữa bạn và đối thủ.
Ghét người khác bạn chỉ cho họ thêm sức mạnh hơn bạn mà thôi. Bạn không giải quyết được vấn đề. Nếu bạn trở nên nóng giận một người nào đó, người này đơn giản chỉ mỉm cười lại bạn, bạn cảm thấy bị bại và đau khổ. Khi người đó không phối hợp với bạn để chu toàn ước nguyện của bạn, chính là người đó là người thắng lợi. Đức Phật dạy chúng ta sống vui vẻ khi chúng ta phải đương đầu với các xáo trộn. "Hạnh phúc thay cho chúng ta sống không thù hận giữa những người hận thù. Giữa những người hận thù chúng ta sống không thù hận". (Kinh Pháp Cú)
Chúng ta có thể sống hạnh phúc không thổi lửa hận thù. Có lẽ bạn không đủ sức mạnh để trải tình thương đến kẻ địch nhưng vì lợi ích của sức khỏe và hạnh phúc của chính bạn và của mọi người khác, ít nhất bạn phải học hỏi làm thế nào để tha thứ và quên đi.
Không hận thù và không tiêu diệt kẻ gây náo loạn, bạn hành động như người quân tử. Muốn hành động như vậy bạn phải hiểu kẻ kia bị hướng dẫn lầm đường bởi nóng giận, ghen ghét và ngu si. Cho nên kẻ đó không khác gì tất cả các con người đã có lần này hay lần khác lầm đường vì cùng trạng thái tiêu cực trong đầu óc.
Đức Phật nói:
"Kẻ gây tội lỗi bản tính không phải ác độc. Chúng gây tội lỗi vì ngu si". Cho nên chúng cần được hướng dẫn.
Chúng ta không nên làm cho họ đau đớn. Chúng ta không nên biện minh nói là chúng đáng bị kết án đau khổ triền miên vì chưa qúa trễ để sủa chữa chúng. Chúng ta nên cố gắng giải thích cho chúng trong đuờng lối làm cho chúng khuất phục để chúng hiểu được chúng sai. Với sự hiểu biết như vậy, bạn sử sự với kẻ gây tội lỗi như con bệnh đang đau khổ vì bệnh tật cần phải chữa trị. Khi bệnh tình được chữa khỏi, kẻ mắc bệnh cũng như mọi người khác đều mạnh và vui vẻ. Kẻ ngu si phải đươc hướng dẫn bởi người khôn.
"Đời sống có tốt đẹp là do tình thương và là được hướng dẫn bởi kiến thức".
Nếu một người nào đó làm một việc gì sai trái với bạn vì ngu si và thiếu hiểu biết, đó là lúc bạn phải mang tình thuơng đến kẻ gây tội lỗi này. Một ngày nào đó, kẻ đó sẽ hiểu cái dại dột đáng thương về thói xấu tội lỗi của mình. Cho nên tốt hơn là cho y có dịp để trở nên tốt. Hối cải về những hành động lầm lỡ qúa khứ, sẽ thay đổi y thành một người tốt và cuối cùng y sẽ nhận thức được tư tưởng tử tế của bạn. Lời khuyên vị tha nhất của Đức Phật là: "Sân hận không thể dập tắt được sân hận. Duy có tình thương mới dập tắt được sân hận. Đó là định luật trường cửu".
Nếu bạn có thể trải tâm từ, không có sự tai hại nào đến vói bạn. Tình thương yêu đó sẽ giúp bạn đạt được sức khỏe cả thể chất lẫn tinh thần. Đời sống có nhịp điệu riêng của nó. Lên bổng xuống chầm rồi đâu cũng vẫn vào đấy. Những người không hiểu rõ nguyên tắc này, thường rơi vào phiền não và đối đầu với khó khăn trong đời sống.
Nếu một người làm điều gì sai trái với bạn hết lần này đến lần khác, bạn phải hành động khôn ngoan để sửa y mỗi khi y phạm lỗi. Dù không dễ dàng gì làm được tuy nhiên bạn vẫn phải cố gắng hết mình theo gương Đức Phật. Rồi bạn sẽ hiểu là sau cùng không phải là không thể được. Thái độ của Đúc Phật trong trường hợp này có thể tóm tắt trong câu:
"Càng nhiều tai ương đến với tôi, tôi càng thực hiện nhiều thiện chí".
Một số người nghĩ rằng không thể thực hiện được việc đổi tốt từ xấu. Hãy thử đi rồi các bạn sẽ tự thấy. Nếu bạn thấy việc không thể đổi tốt từ xấu thế mà bạn vẫn có thể làm việc vĩ đại cho chính bạn và cho những người khác bằng cách đừng trở lại xấu từ xấu.
"Đối với những người thiếu hiểu biết phạm lầm lỗi thì cần phải suy xét và thiện cảm".
TẤT CẢ CHÚNG TA ĐỀU LÀ CON NGƯỜI
Tất cả những con người đều có yếu điểm cho nên có khuynh hướng tạo lầm lỗi. Tất cả những con người đều có ham muốn, nóng giận và ngu si. Tất cả những nhược điểm này chiếm ưu thế trong chúng ta với nhiều mức độ khác nhau. Ngoại trừ bạn đã hoàn toàn hay là bậc A La Hán, còn không ai tránh khỏi. Bản tính đầu óc của con người tự nó biểu hiện trong câu này:
"Con người không thoả mãn với đời sống của mình và không bao giờ tìm thấy mục đích của đời sống, cả đến khi đã gồm thâu được cả thế giới".
Chúng ta hãy nhìn kỹ con người bị bao trùm trong ngu si. Trí óc bị mờ mịt bởi xáo trộn, bối rối và tối tăm. Do ngu si, con người tạo bất hạnh và chia sẻ bất hạnh này với đồng loại. Đa số lo âu và đau khổ đến cho con ngưòi do sự thay đổi của thế gian và sự tham đắm của con người vào những thú vui trần tục mà đầu óc vị kỷ cứ tiếp tục không ngừng. Thất vọng và những ham muốn không toại nguyện do những sự thay đổi bất thường tạo niềm lo âu. Cho nên bạn chịu trách nhiệm niềm lo âu của bạn.
Không ai hoàn toàn trên thế giới này; mỗi con người đều liên quan lúc nào đó, phạm một số lỗi lầm nào đó hay những hành động tội lỗi. Nên làm sao bạn có thể nghĩ rằng bạn thoát khỏi lầm lẫn hay tội lỗi? Ngu si là nguyên nhân chính vì nuôi dưỡng sự thúc đẩy của tham dục phát xuất lo âu.
"Sự sợ hãi và lo lắng sẽ không còn khi ngu si bị xua tan bởi kiến thức".
Nếu bạn có thể hiểu được nhược điểm hiện tại trong đầu óc của con người trên đây, thì không có lý do gì bạn càu nhầu về các khó khăn của bạn. Bạn sẽ có can đảm để đối phó với những khó khăn ấy. Trí óc của con người chịu trách nhiệm về cả hạnh phúc lẫn bất hạnh phúc.
"Không có gì xẩy ra cho con người mà không nằm trong con người" - C. Jung, một nhà tâm lý học nổi tiếng.
TRÁCH NHIỆM CỦA CHA MẸ
Bạn chịu trách nhiệm về hạnh phúc của con cái và việc nuôi nấng chúng. Nếu đứa trẻ lớn tráng kiện, khỏe mạnh và là người công dân hữu dụng, đó là kết qủa của các cố gắng của bạn. Nếu đứa trẻ lớn lên thành kẻ phạm pháp, bạn phải chịu trách nhiệm. Không nên đổ lỗi cho người khác. Là bậc cha mẹ, nhiệm vụ bắt buộc của bạn là hướng dẫn con cái trên con đường chính đáng. Mặc dù có ít trường hợp các thiếu niên phạm pháp không thể sửa chữa được, tuy nhiên là bậc cha mẹ, bạn vẫn phải chịu trách nhiệm về tư cách của đứa trẻ.
Đứa trẻ lúc tuổi dễ bị ảnh hưởng, cần có tình thương, chăm sóc, trìu mến và lưu ý của cha mẹ. Không có tình thương và hướng dẫn của cha mẹ, đứa trẻ cảm thấy bị bất lợi thiệt thòi, sẽ đi tìm trên thế giới một nơi hoang mang bối rối để sống. Biểu hiện tình thương của cha mẹ không có nghĩa là thỏa mãn tất cả những đòi hỏi của đứa trẻ mà phải hợp lý hay cách nào thích hợp. Qúa nuông chiều thực sự làm hư đứa trẻ. Người mẹ dành cho con tình thương và chăm sóc cũng phải nghiêm khắc và cứng rắn nhưng không cay nghiệt trong lúc sử sự trước cái hư đốn của đứa trẻ. Tỏ tình thương nhưng kỷ luật - đứa trẻ rồi ra sẽ hiểu được.
Thật là bất hạnh, tình thương của cha mẹ trong xã hội ngày nay đáng buồn thường thiếu thốn. Sự đổ sô vào các vật chất tiến bộ, khát vọng dâng lên đòi hỏi quyền nam nữ bình đẳng, đưa đến kết qủa là nhiều bà mẹ theo chồng trong cuộc thi đua. Các bà mẹ tranh đấu để gìn giữ hình ảnh gia đình hay các biểu tượng tình trạng bằng cách làm việc tại các bàn giấy hay các xưởng thợ hơn là ở nhà để trông nom con cái.
Con cái, để cho các thân nhân hay cho các người làm được trả tiền để săn sóc, giống như các "chìa khóa rập theo khuôn" bằng máy móc, thường thiều tình thương và săn sóc của người mẹ. Người mẹ cảm thấy có tội vì thiếu chăm sóc, cố gắng xoa dịu đứa trẻ bằng cách thỏa mãn cho nó tất cả những gì nó đòi hởi. Hành động như vậy chỉ làm hư đứa trẻ mà thôi.
Cung cấp cho đứa trẻ những đồ chơi tinh vi hiện đại, như xe tăng, súng máy, súng lục, kiếm là làm hại sự hình thành cá tính của trẻ nhỏ và tương tự về tâm lý thì chẳng lành mạnh gì. Đứa trẻ vô tình được dạy tha thứ việc phá hoại thay vì được dạy dỗ là phải tử tế, từ bi, và hảo tâm. Những đứa trẻ như vậy sẽ phát triển khuynh hướng tàn bạo khi chúng lớn. Cho những đứa trẻ những đồ chơi này không thể thay thế tình thương và trìu mến của người mẹ.
Cha mẹ thường bị đặt vào tình trạng khó xử. Vội vã về nhà sau một ngày làm việc cực nhọc, cha mẹ có những việc lặt vặt đang chờ đợi phải làm tại nhà. Sau khi làm xong công việc là giờ ăn tối theo sau là truyền hình, đâu còn bao nhiều thì giờ đủ để dành cho bổn phận thương yêu và trìu mến dành cho đứa trẻ.
Với lời kêu gọi giải phóng phụ nữ, nhiều bà nghĩ rằng giải pháp là để tranh đua với phái nam ngoài gia đình. Những các bà này phải coi cẩn thận mình có nên mang thai hay không. Đớ là trách nhiệm của bà mẹ đem đời sống đến thế gian và sau này lại "bỏ" đời sống này. Bạn phải chịu trách nhiệm cho cái gì bạn đã tạo ra.
Đứa trẻ có quyền được thỏa mãn về vật chất, nhưng quan trọng hơn nữa là tinh thần và tâm lý. Cung cấp đầy đủ về vật chất đứng sau việc cung cấp tình thương và săn sớc của cha mẹ. Chúng ta biết có rất nhiều gia đình nghèo, lợi tức rất đạm bạc nhưng đã nuôi nấng dạy đỗ con cái thành công bằng chan chứa tình thương. Ngược lại, có những gia đình rất giầu có, cung cấp cho con cái vật chất đầy đủ tiện nghi, nhưng thiếu tình thương nơi cha mẹ, những đứa trẻ đó lớn lên thiệt thòi về tâm lý và tinh thần.
Một số các phụ nữ có thể cảm thấy lời khuyên phụ nữ tập trung vào việc nuôi dưỡng gia đình là điều hèn hạ giảm giá trị phản ảnh lối suy nghĩ cổ và bảo thủ. Đúng, thời xưa phụ nữ đã bị đối xử rất tồi tệ, đó là do ngu si phần ngưòi nam hơn là nhược điểm cố hữu của người đàn bà. Tiếng Phạn chỉ người nội trợ "Gruhini" theo đúng nghĩa đen là "lãnh đạo trong nhà" (nội tướng). Chắc chắn tiếng này không ngụ ý là đàn bà bị thấp kém hơn. Đúng hơn nó có nghĩa sự phân chia trách nhiệm cho phái nam và phái nữ.
Trong một vài xứ, đa số người chồng đưa tiền lương kiếm được cho người vợ để lo việc nội trợ . Làm như vậy, người chồng được rảnh rang tập trung vào việc nào khác mà người chồng có thể làm tốt đẹp hơn. Khi người hôn phối hiểu rõ trách nhiệm của mình, không xẩy ra xung đột giữa hai vợ chồng. Không khí gia đình hạnh phúc và an lạc, và các con cái lớn lên thành công.
Lẽ đương nhiên, người chồng phải nhìn thấy người bạn đường của mình lo lắng chu đáo, tham khảo mọi quyết định của gia đình, tự do để mở mang nhân cách và cũng có thì giờ rảnh rỗi để theo đuổi việc riêng tư của mình. Trong ý thức ấy, chồng và vợ chịu trách nhiệm đồng đều về hạnh phúc của gia đình. Chồng và vợ không thi đua với nhau.
Một bà mẹ nên xem xét cẩn thận nên hay không nên tiếp tục đi làm với tất cả nhiều chông gai cạm bẫy hay ở nhà làm người nội trợ đem tình thương và chăm sóc nuôi dưỡng con cái đang lớn lên. Rất lạ, những bà mẹ hiện đại, đặc biệt tại một vài nước với chế độ quân phiệt, thiếu nhân lực, đã được huấn luyện để cầm súng và các vũ khi giết người khác lẽ ra các bà phải nâng niu trong tay con cái và huấn luyện chúng trở nên tốt hay người công dân biết tôn trọng luật pháp.
Thái độ hiện đại của các bà mẹ đi làm việc đối vói con cái khuynh hướng làm hao mòn thời gian hiếu thảo mà những đứa con ước vọng gìn giữ. Thay thế sữa mẹ bằng sữa chai cũng là một nguyên nhân khác. Cho đến nay, khi các bà mẹ cho con bú bằng sữa của mình, nâng niu đứa con trong tay, tình thương yêu đậm đà giữa ngưòi mẹ và đứa con trở nên càng nẩy nở mạnh mẽ .
Cho con bú bằng sữa của mình, qua tình mẫu tử thiên nhiên, kinh nghiệm cho thấy một thỏa mãn to lớn nơi người mẹ thấy mình cung cấp cho con như tạo hóa đã dành, cái gì chính của mình không ai ngoài có thể cho được. Ảnh hưởng của người mẹ với đứa trẻ ngày càng lớn và càng ngày càng trở nên rõ rệt. Trong những trường hợp như vậy, tình hiếu thảo, gia đình keo sơn và thuận thảo luôn luôn hiện hữu.
Những nét truyền thống trên là điều tốt và hạnh phúc cho con cái. Tùy nơi cha mẹ, đặc biệt người mẹ cung cấp tình thương, chăm sóc và trìu mến là quyền được hưởng chính đáng của con cái. Người mẹ trách nhiệm về đứa con ngoan hay ương ngạnh. Người mẹ có thể, do vậy, làm giảm thiếu niên phạm pháp! Nghĩ sâu xa nữa, các bạn có thể nhìn thấy sự việc như thế nào không phải như các bạn nghĩ. Rồi các bạn hiểu bạn chịu trách nhiệm mọi thứ.
"Những kẻ có một cuộc sống chống lại thiên nhiên, phải đối đầu với hậu qủa cả về vật chất lẫn tinh thần".
LÀM SAO ĐỂ GIẢM BỚT SỰ ĐAU ĐỚN TINH THẦN CỦA BẠN?
Bất cứ lúc nào một số khó khăn và các vấn đề đến với bạn, hãy quyết định LÀM giảm thiểu sự đau đớn tinh thần của bạn. Trước tiên, bạn hãy cố gắng hiểu biết bản chất thế gian mà bạn đang sống. Bạn không thể kỳ vọng thế gian này bao giờ cũng toàn hảo và trôi chảy. Tình trạng của thế gian này có thể không bao giờ thuận lợi cho bạn. Không có một thế giới nào hay một đời sống nào mà không có khó khăn. Sức mạnh thiên nhiên giống như ánh sáng mặt trời, mưa, gió, ánh trăng, thuận lợi và hữu ích cho nhiều người, nhưng cũng có khi có thể làm hại nhiều người khác. Nói tóm lại không có gì hoàn toàn xấu hay hoàn toàn tốt trên thế gian này vì lẽ rất nhiều sự việc được hoan nghênh bởi nhóm này thì lại bị ghét bỏ bởi nhóm kia. Cho nên chúng ta định nghĩa tốt hay xấu theo nhu cầu của chúng ta. Các sự việc ch?ng tốt và cũng chẳng xấu theo bản chất. Theo Phật Giáo, thế giới hiện hữu trên mâu thuẫn mà trong đó bạn là một thành phần.
Nếu lòng tham dục vị kỷ của bạn lớn mạnh cho hiện sinh và giác quan, bạn sẽ phải trả một giá đắt - cái đau đớn tinh thần để sống với quan điểm não loạn của thế gian. Ước vọng, khao khát được bất diệt và bám vào cảm nghĩ như cái "Ngã" hay "Tôi" khó nắm được, lúc nào cũng bao trùm đầu óc và giác quan . Những ham muốn không toại nguyện tạo ra hàng loạt cãi nhau, xích mích, thất bại trong truyền đạt, sợ hãi, lo lắng, cô quạnh, và băn khoăn. Điều nào cũng phải trả giá.
Nếu bạn thích đoạn trừ cái đau đớn tinh thần, bạn phải làm dịu bớt lòng tham dục vị kỷ. Dòng đời có chỗ tiếp giáp nhau. Hoặc bạn theo con đường chính đáng để mở mang tinh thần, để làm cho đời sống trần thế không căng thẳng, hay bạn tiếp tục miệt mài trong những thú vui nhục dục với những đương đầu kèm theo.
Một cách làm giảm bớt cái đau đớn tinh thần bất thường phát xuất là hiểu được mức độ đau đớn và khó khăn của bạn so sánh với kinh nghiệm của những người khác. Khi bạn không hạnh phúc, bạn thường cảm thấy thế gian chống lại bạn. Bạn nghĩ rằng mọi thứ chung quanh bạn sắp sửa đi đến tàn lụi. Bạn cảm thấy cuối đường gần kề. Tuy nhiên, nếu bạn có một sự lưu ý tinh thần về những điều chung quanh bạn và nhẩm đến những phước lành của bạn, rất ngạc nhiên bạn thấy bạn thực ra thắng lợi nhiều hơn những người khác.
Chắc bạn cũng đã có nghe câu nói sau:"Tôi phàn nàn tôi không có giầy cho đến khi tôi gặp người không có chân". Tóm lại bạn đã phóng đại quá đáng các khó khăn và các vấn đề của bạn. Thực ra những người khác còn gặp điều xấu hơn xong họ không lo lắng qúa đáng. Những vấn đề còn đấy. Bạn phải cố gắng giải quyết thay vì lo lắng tạo đau khổ tinh thần nơi bạn. Ngưòi Trung Hoa có câu nói sau để giải quyết các khó khăn:
"Nếu bạn gập một khó khăn lớn, cố gắng làm nó thành nhỏ đi. Nếu bạn gập một khó khăn nhỏ, cố gắng làm nó thành không có khó khăn".
Một cách khác để giảm bớt những khó khăn của bạn là tổng kết tất cả gì bạn đã làm từ trước đến nay trong những hoàn cảnh tương tự hay hoàn cảnh xấu hơn, và làm thế nào bằng nhẫn nại của chính bạn, bằng sáng kiến và cố gắng, có thể giúp bạn vượt qua những khó khăn ấy mà những khó khăn này hình như không thể vượt qua được. Làm như vậy, bạn không để các khó khăn hiện tại "dìm chết bạn". Trái lại, nhìn đời trong một viễn cảnh mới, bạn có thể giải quyết bất cứ khó khăn nào mà bây giờ bạn phải đối đầu.
Bạn nên nhớ rằng bạn đã từng trải nhiều trường hợp tệ hơn nữa trước đây, và bạn sửa soạn để kiên quyết đối đầu dù các khó khăn đến thế nào đi nữa. Với trạng thái tinh thần như vậy, bạn sẽ không lâu lấy lại lòng tự tin, và ở trong một vi thế tốt hơn để giải quyết bất cứ khó khăn nào còn nơi bạn.
Nếu bạn phải đương đầu với vấn đề, chắc chắn phải có phương thuốc để vượt qua. Nên tại sao phải lo lắng chứ? mặt khác, dù là không có giải pháp nào cho vấn đề của bạn, tại sao lo lắng nữa chứ vì lo âu của bạn không đóng góp được gì cho việc giải quyết.
TẤT CẢ KHÔNG TỐT ĐỒNG ĐỀU
Đôi khi, có những lời phàn nàn của những người không bao giờ gây hay làm khó khăn gì cho người khác nhưng họ trở thành những nạn nhân vô tội của những qủy kế và âm mưu của kẻ khác. Họ cảm thấy hoảng sợ mặc dù họ đã sống cuộc đời lương thiện. Họ cảm thấy họ bị làm hại mà lỗi không phải nơi họ. Trong những trường hợp này, các nạn nhân vô tội phải hiểu rằng thế gian này gồm có nhiều hạng người - người tốt, người không tốt lắm, người xấu, người không xấu lắm, với tất cả tính nết bất thường mà làm thành thế giới của chúng ta. Nạn nhân vô tội có thể tự an ủi mình là thuộc thành phần hạng tốt còn kẻ nhiễu loạn hòa bình thuộc hạng xấu và vào một số dịp nào đó, người đó vẫn hãy còn phải nhẫn nại chịu đựng những việc làm có hại của kẻ thuộc thành phần xấu.
Chúng ta hãy lấy thí dụ trường hợp của một người "lái xe giỏi và cẩn thận" và một người "lái xe dở và ẩu ". Người lái xe giỏi và cẩn thận rất thận trọng khi lái thế mà lại bị tai nạn do không phải lỗi của mình - lỗi là do người lái dở và ẩu.
Cho nên chúng ta có thể thấy người tốt chịu đau khổ mặc dù lòng tốt của họ, vì có những người xấu và không thận trọng chung quanh chúng ta. Thế gian chẳng tốt mà cũng chẳng xấu. Thế gian sản xuất các tội phạm mà cũng sản xuất các bậc thánh, người ngu xuẩn và những người giác ngộ. Cũng từ một loại đất sét mà ra, cái thì đẹp cái thì xấu, cái hữu dụng cái vô dụng được làm ra. Phẩm chất của loại đồ gốm tốt do người thợ làm đồ gốm, mà không phải do đất sét. Tóm lại người thợ đồ gốm chính là bạn đó. Rèn đúc hạnh phúc hay bất hạnh của bạn do chính bàn tay bạn.
BẠN SẼ ĐƯỢC NHỮNG GÌ BẠN TÌM KIẾM
Nếu bạn cố gắng vượt qua những khó khăn bằng cách áp dụng những lời khuyên trong tập sách nầy, chắc chắn bạn sẽ tìm được bình an, hạnh phúc và hòa hợp, vốn là những gì bạn đang mong tìm. Hãy tuân theo các nguyên tắc - vốn đã được thử nghiệm và minh chứng - như đã trình bày trong tập sách tạo thành một sự che chở cho bạn.
28/9/11
Osho - Nghệ Thuật Sống
Nghệ Thuật Sống
Osho
Câu hỏi : "Thày vừa nói rằng đa phần nhân loại chỉ sống như là thực vật. Làm ơn hãy giải thích về cách sống thế nào để cái chết có thể trở thành một lễ hội."
Osho trả lời :
Con người sinh ra để hiện thực cuộc sống, nhưng điều đó còn tùy vào anh ta. Anh ta có thể thở, có thể ăn, có thể đi, có thể già, và có thể tiến dần tới nấm mộ…nhưng điều này không phải là “cuộc sống”. Cái này gọi là sự chết dần từ cái nôi đến nấm mộ, chính xác là cái chết mòn trong bảy mươi năm.
Bởi vì hàng triệu người quanh bạn đang chết trong cái kiểu chết dần mòn này, cho nên bạn cũng bắt chước họ. Trẻ con thì học mọi thứ từ những người xung quanh, mà xung quanh thì toàn là sự chết.
Cho nên điều đầu tiên bạn phải hiểu đời sống (life) có nghĩa gì?
“Đời sống” không phải chỉ đơn giản là già đi (growing old)
Mà “Đời sống” phải là lớn lên và trưởng thành (growing up).
Và đây là hai điều hoàn toàn khác biệt.
Trở nên già, mọi con vật đều có khà năng như thế. Còn trưởng thành lại là đặc quyền riêng của loài người. Nhưng tiếc thay chỉ có một ít người đòi hỏi cái đặc quyền đó.
Lớn lên và trưởng thành (growing up) có nghĩa là sống từng khoảnh khắc sâu trong nguyên lí của đời sống. Điều đó có nghĩa là đi thoát ra khỏi sự chết, chứ không phải đi dần đến sự chết. Bạn càng đi sâu vào sự sống, bạn càng nhận ra cái bất tử của chính bạn. Có một khoảnh khắc nào đó bạn sẽ nhận biết rằng sự chết chẳng là cái gì, cũng giống như thay đổi quần áo, thay đổi nhà cửa, thay đổi hình dạng…chẳng có cái gì chết, và chẳng có cái gì có thể chết.
Sự chết là một ảo giác lớn nhất của con người.
Để trưởng thành hãy nhìn cái cây. Khi cái cây lớn rể của nó mọc sâu. Đó là sự cân bằng, cây càng lớn rễ càng sâu; rễ nhỏ không chịu nổi sức nặng của cây lớn.
Trong đời sống trưởng thành (growing up) là mọc sâu (growing deep) vào trong chính bạn
Với tôi, nguyên lí đầu tiên của đời sống là thiền định (meditation). Mọi điều khác là thứ cấp. Và tuổi thơ là thời gian đẹp nhất. Khi bạn già hơn, gần cái chết hơn, bạn càng khó khăn hơn để đi vào thiền định.
Thiền định có nghĩa là đi vào sự bất tử của bạn, vào sự vĩnh hằng của bạn, đi vào bản chất thần thánh của bạn. Trẻ con là con người đầy đủ phẩm chất nhất cho thiền định bởi vì trẻ con chưa bị chất nặng bởi giáo dục, kiến thức, tôn giáo hay bởi nhiều loại rác rưởi khác. Trẻ con thì ngây thơ, vô nhiễm, vô tội (tiếng Anh chỉ dùng có có một chữ là innocent) Nhưng bất hạnh thay sự ngây thơ của trẻ con bị coi giống như là không hiểu biết (ignorant).
“Không hiểu biết” và “ngây thơ” cũng có chỗ giống nhau như chúng không phải là một. Ignorance là tình trạng không biết, giống như ngây thơ. Nhưng có một khác biệt lớn mà cả nhân loại đến bây giờ cũng không biết. Ngây thơ là không có kiến thức nhưng không hề khao khát có được kiến thức. Ngây thơ tự nó tròn đầy ý nghĩa.
Một đứa con nít không có tham vọng, không có ước vọng. Nó luôn luôn sống hết mình trong từng khoảnh khắc sống của nó… Một con chim bay qua, đứa trẻ nhìn không chớp mắt; hay chỉ thoáng thấy một con bướm màu sắc đẹp cũng đủ để đứa trẻ hát ca. Với một cái cầu vổng trên trời, đứa trẻ sẽ ngây ngất như không còn biết điều gì huy hoàng hơn nữa. Cũng cảm giác như thế đến với trẻ con, khi chúng nhìn thấy trăng sao vằng vặc trong đêm tối mênh mông.
“Ngây thơ vô nhiễm” là tinh khiết, là tràn đầy, là giàu có.
“Không hiểu biết” là nghèo nàn là ăn xin…là tôi muốn điều này, tôi muốn điều kia, tôi muốn được hiểu biết, tôi muốn được kính trọng, tôi muốn được giàu sang, tôi muốn được quyền lực.
Không hiểu biết (ignorance) đi trên con đường của khát khao.
Ngây thơ vô nhiễm (innocence) là trạng thái không hề khát khao.
Nhưng bởi vì cả hai trường hợp cùng là tình trạng không có kiến thức (knowledge) nên chúng ta thường lầm lẫn và qui kết rằng chúng cũng như nhau.
Bước đầu tiên trong nghệ thuật sống là nhìn thấy cái ranh giới phân biệt giữa cái không hiểu biết(ignorance) và sự ngây thơ vô nhiễm (innocence). Sự ngây thơ vô nhiễm phải được cũng cố và bảo vệ, bởi vì đứa trẻ được sinh ra với sự ngây thơ nghĩa là với một kho báu lớn, cái kho báu mà các nhà thông thái phải đi tìm cả đời với nổ lực nhọc nhằn. Các minh sư thường nói rằng họ đã trở lại trẻ thơ một lần nữa, họ đã được tái sanh.
Ở Ấn độ một người Bà la môn thực sự, nghĩa là một người hiểu biết thực sự, tự gọi mình là Dwij, nghĩa là được sinh hai lần. Tại sao lại được sinh hai lần? Cái gì đã xảy ra trong lần sinh thứ nhất? Tại sao cần phải có lần sinh thứ hai? Lần sinh thứ hai ông ấy được gì? Trong lần sinh thứ hai ông ấy lấy lại tất cả những cái ông ta đã có trong lần sinh thứ nhất, nhưng cái mà cha mẹ, xã hội, và tất cả những người xung quanh đã hủy diệt và triệt tiêu chúng.
Trẻ con đang bị nhồi nhét đầy ắp những kiến thức. Cái đơn thuần và trong sáng vì thế bị cướp mất, lí do là ai cũng biết cái đơn thuần không giúp được gì cho đứa trẻ trong cái xã hội cạnh tranh này. Một đúa trẻ đơn thuần (simple) thường bị coi là ngốc nghếch, và đứa trẻ ngốc nghếch sẽ bị cuộc đời lợi dụng và bóc lột. Sợ hãi xã hội, sợ hãi thế giới, chúng ta tự thay đổi mình để thích ứng và cũng muốn làm cho trẻ con trở thành thông minh, sắc xảo, đầy kiến thức, để chúng được hội nhập vào thế giới quyền lực mạnh mẽ, chứ không để chúng rơi vào sự yếu kém hay bị áp bức. Và một khi đứa trẻ lớn lên sai định hướng, nó sẽ tiếp tục con đường sai lầm đó, cả cuộc đời nó sẽ tiếp tục bị sai lầm.
Bất cứ khi nào bạn thấy rằng dường như bạn đã đánh mất cuộc sống, nguyên tắc đầu tiên là tìm lại sự ngây thơ (innocent).
Buông kiến thức xuống, quên hết kinh điển đi, quên tôn giáo đi, quên thần học và triết lí đi. Cố gắng để được sinh ra một lần nữa, trở lại ngây thơ… và điều này bạn có thể làm được, bằng cách: Tẩy sạch tâm trí của bạn, tẩy sạch tất cả những gì không phải là của bạn, tẩy sạch tất cả những gì vay mượn, tất cả những gì thuộc về truyền thống, qui ước, tất cả những gì thuộc về người khác như cha mẹ, thầy giáo, trường đại học…tẩy sạch, vất tất cả. Một lần nữa ta trở nên đơn thuần.
Điều diệu kì này có thể thực hiện được nhờ thiền định.
Thiền định chỉ là một phương pháp phẫu thuật lạ kì, nó cắt bỏ đi tất cả những gì không thuộc về bạn, chỉ để lại con người thực sự của bạn mà thôi. Thiền định thiêu hủy tất cả mọi thứ và để lại bạn như một con người trần trụi cô độc dưới ánh mặt trời. Để bạn thấy dường như mình là người đầu tiên sinh ra trên mặt đất, không hiểu, không biết một điều gì, người phải khám phá lại tất cả, phải tìm kiếm, phải hành hương.
Đời sống phải là cuộc truy tìm, không phải là một khát vọng. Đời sống là một tìm tòi, chú không phải là tham vọng để trở thành cái này cái nọ, như trở thành chủ tịch một quốc gia, một thủ tướng, một bộ trưởng. Sống là để tim ra Tôi là ai? Một điều rất lạ lùng là người ta thường không biết mình thực sự là ai, lại mong muốn trở thành một người như thế nào đó. Người ta không biết mình là ai ngay trong hiện tại, không quen thuộc với chính hiện hữu của mình nhưng bao giờ cũng muốn trở thành cái gì đó!
Trở thành một cái gì (becoming), đó là căn bệnh của tâm hồn.
Hiên sinh (being) mới chính là bạn.
Ngay lúc khám phá ra hiện sinh của mình thì đời sống bắt đầu. Rồi thì cứ mỗi khoảnh khắc sống của ta là một khám phá mới mẻ. Bất cứ một khoảnh khắc nào cũng là một niềm vui; Cánh cửa bí mật đã mở, tình yêu mới đâm chồi, đam mê mới xuất hiện, cảm xúc mới về cái đẹp, cái tốt. Bạn trở thành thật nhạy cảm, chỉ một cạnh sắc của lá cỏ cũng đem đến vô vàn cảm giác. Sự nhạy cảm làm cảm giác bạn rõ ràng đến mức dù là hiện hữu của chỉ môt lá cỏ cũng bằng như hiện hữu của một vì sao; không có lá cỏ này hiện sinh dường như thiếu đi; và bởi vì lá cỏ này là duy nhất không có gì thay thế cho nên nó có riêng tính cá thể của nó.
Sự nhạy cảm sẽ tạo nên nhiều tình bạn. Tình bạn với cỏ cây, với chim muông, với thú vật, với núi đồi, với sông suối, với đại dương và với cả những vì sao. Đời sống trở thành giàu có hơn vì tình yêu lớn dậy vì tình bạn lớn lên.
Cuộc đời của thánh Francis đầy những chuyện đẹp. Ngài thường phải đi trên một con lừa đây đó để chia sẻ những thể nghiệm của mình. Vị thánh sắp chết.Tất cả đệ tử vây quanh để nghe lời cuối của ngài. Lời cuối của một vị thày luôn luôn là điều gì tiêu biểu nhất vì nó chứa toàn bộ kinh nghiệm sống của thày. Nhưng các đệ tử không tin rằng mình đã nghe một điều như thế! Thánh Francis không nói gì với các đệ tử mà vấn an con lừa của ngài. Vị thánh nói: “Người anh em, tôi vô cùng mang ơn người anh em. Người anh em đã mang tôi đi khắp mọi nơi mà không hề than vãn, không hề càu nhàu. Trước khi rời bỏ thế giới này tất cả điều tôi muốn nói là xin hãy tha lỗi cho tôi; tôi đã không đối xử với người anh em bằng tình người chan chứa.”
Đó là những lời cuối của thánh Francis. Cảm xúc bén nhạy trong lời nói với con lừa, “người anh em”, “xin hay tha lỗi”. Nếu bạn nhạy cảm hơn, cuộc sống sẽ lớn hơn. Nó sẽ không là cái ao nhỏ mà là một đại dương. Nó không giới hạn ở vợ con của bạn, nó không có giới hạn. Toàn bộ hiên hữu này trở thành gia đình bạn. Và chỉ khi nào toàn thể hiện hữu trở thành gia đình, bạn mới biết sự sống là gì. Con người không phải là một hòn đảo cô độc, tất cả chúng ta đều có kết nối.
Chúng ta là một lục địa lớn, hội tụ từ trăm nẻo đường về. Nếu trái tim chúng ta không tràn đầy tình yêu cho cái toàn thể thì đời sống chúng ta sẽ phải ngắn hơn.
Thiền định sẽ làm cho ta nhạy cảm, ta sẽ cảm thấy mình gắn liền với thế giới. Thế giới là của chúng ta, trăng sao là của chúng ta, chúng ta không phải là người ngoài cuộc. Chúng ta thuộc về mọi tồn tại tự bên trong. Chúng ta là một phần và cũng là trái tim của tồn tại
Thứ nữa, thiền định sẽ mang đến bạn sự yên tĩnh trọn vẹn vì tất cả kiến thức rác rưởi đã ra đi. Các suy nghĩ, các ý tưởng (những cái cấu thành tri kiến) cũng ra đi…Một sự yên tĩnh mênh mông, và rồi bạn sẽ ngạc nhiên cái yên lặng này lại chính là âm nhạc. Tất cả các loại âm nhạc trần gian chỉ là cái thể hiện từ sự yên lặng bên trong. Các nhà thần bí đông phương đều cùng nhấn mạnh một điểm rằng: tất cả các nghệ thuật lớn như âm nhạc, thi ca, múa, hội họa, điêu khắc…đều sinh ra từ thiền định. Một cách nào đó có thể hiểu là các bộ môn nghệ thuật chính là những cái nằm trong thế giới không được biết bộc lộ ra ngoài thế giới đang được biết, và dành cho những ai chưa sẵn sàng cho cuộc hành trình trí tuệ của mình. Chúng là quà tặng cho những người chưa đi trên cuộc hành trình trí tuệ. Đôi khi một bản nhạc, một bức tượng…cũng có thể khơi dậy nỗi khát khao đi tìm nguồn cội. Bạn này, khi nào bạn bước vào ngôi chùa của Phật Thích ca hay ngôi đền của Mahavira, cứ ngồi yên lặng lẽ ngắm nhìn bức tượng. Bức tượng thì chả có lien hệ nào với Thích ca hay Mahavira, nhưng nó đã được làm và tính toán theo một tỉ lệ để mỗi khi bạn nhìn nó bạn sẽ rơi vào yên lặng. Đây gọi là thiền định với tượng.
Đó là lí do tại sao các bức tượng luôn giống nhau Mahavira, Gautama, Neminata, Adinatha…Hai mươi bốn vị thánh tăng của đạo Jaina…Trong cùng một ngôi chùa bạn sẽ thấy hai mươi bốn bức tượng giống nhau hoàn toàn. Hồi còn nhỏ tôi thường hỏi cha tôi “Cha giải thích cho con biết tại sao hai mươi bốn người lại cùng giống hệt nhau? Cùng kích thước, cùng cái mũi, cùng khuôn mặt, cùng thân hình”.
Cha tôi nói “Cha không biết, chính cha cũng ngạc nhiên tại sao chẳng thấy có chút khác biệt nào cả. Ai cũng nói trên đời này chẳng có đến hai người giống hệt nhau, nói chi đến hai mươi bốn người!”
Đến lúc tôi thành tựu thiền định, tôi đã tự tìm thấy câu trả lời. Câu trả lời là: Tất cả các bức tượng chẳng có liên hệ gì với những nhân vật, Tất cả các bức tượng chỉ liên hệ với những gì xảy ra bên trong các nhân vật, và cái bên trong đó thì hoàn toàn giống nhau. Chúng ta không phải quan tâm đến cái bên ngoài mà phải chỉ chú ý đến cái bên trong. Cái dáng vẻ bên ngoài không quan trong. Có người trẻ, có người già, có người đen, có người trắng, có đàn ông, có đàn bà…chẳng có gì quan trọng. Cái quan trọng là tất cả bên trong cùng là một đại dương yên lặng. Trong cái mênh mông yên lặng kia cơ thể thẻ hiện một tư thế nhất định nào đó. Bạn cũng đã từng quan sát chính bạn, nhưng chắc là bạn chưa nhận ra điều này: Khi bạn nổi giân, cơ thể bạn có một tư thế nào đó, hai bàn tay bạn không thể mở ra được, bạn chỉ có thể nắm chặt tay. Trong cơn giận bạn cũng chẳng có thể cười.
Với một cảm xúc nào đó, thân thể lại có tương ứng một tư thế nào đó. Những điều nhỏ nhặt ảnh hưởng sâu xa đến bên trong. Vì thế những bức tượng được tạo bằng một cách nào để mà bạn chỉ yên lặng ngồi, yên lặng ngắm nhìn, rồi khép mắt lại, một hình ảnh sẽ đi vào tâm bạn và bạn sẽ cảm nhận được những điều chưa từng biết.
Những bức tượng và đền đài không phải xây ra cho việc thờ cúng, chúng dùng cho việc thể nghiệm. Chúng là những phòng thí nghiệm khoa học, không có quan hệ gì với tôn giáo. Hàng thế kỉ trước đã có một khoa học thần bí nào đó dụng ý giúp cho những thế hệ sau có thể liên hệ với những thể nghiệm của thế hệ trước…không qua sách, không qua ngôn ngữ, mà qua cái sâu thẳm hơn: Cái yên lặng, thiền định và an lạc.
Khi cái yên lặng trở nên yên lặng hơn; tình bạn, tình yêu đâm chồi nảy lộc; cuộc đời bạn trong từng mỗi khoảnh khắc trở thành vũ điệu, niềm vui, lễ hội. Bạn có nghe tiếng pháo nổ ngoài kia? Bạn có bao giờ nghĩ rằng tại sao trên toàn thế giới chỗ nào cũng tổ chức lễ hội vài ngày trong năm? Vài ngày lễ hội là để bù đắp, vì xã hội đã làm mất lễ hội của chính cuộc đời bạn, cho nên nó phaỉ có cái gì đó để bù trừ.
Mỗi một nền văn hóa phải có cách bù đắp cho bạn để bạn không cảm thấy hoàn toàn mất hút trong khốn cùng và tuyệt vọng. Nhưng tất cả những bù đắp này đều là giả tạo.
Những tiếng pháo nổ và ánh đèn ngoài kia không thể làm bạn vui vẻ được. Những thứ đó chỉ dành cho trẻ con; với bạn nó chỉ làm thêm khó chịu. Ngay từ thế giới bên trong bạn đã có thể có bất tận vô vàn ánh sang, âm nhạc, niềm vui. Luôn luôn phải nhớ rằng xã hội chỉ tìm cách bù đắp cho bạn khi nó nghĩ rằng sự dồn nén của cá thể có khả năng nổ bùng một tình thế hiểm nguy. Xã hội tìm mọi phương cách để bạn giải tỏa áp lực dồn nén. Nhưng những thứ này không phải là lễ hội thực sự, nó không bao giờ có thể là sự thực. Lễ hội thực sự phải khởi đầu từ đời sống bạn và bên trong bạn. Lễ hội thực sự không thể căn cứ theo lịch, ví dụ đến đầu tháng mười một tôi sẽ tham gia lễ hội. Điên chưa! Cả năm sầu khổ bỗng dưng tôi thoát ra được khỏi khổ đau, bước ra đường nhảy múa. Cả cái cảm giác thoát khổ lẫn cái ngày đầu tháng mười một đều là giả tạo. Lễ hội ngày đầu tháng mười một qua đi rồi thì bạn sẽ bước về cái hố đen, và mọi người cũng thế, tất cả trở lại với nỗi buồn đau của mình.
Đời sống phải là một lễ hội liên tục, phải là một fesitval ánh sáng suốt năm tròn. Chỉ đến khi bạn trưởng thành, bạn mới có thể trổ hoa, bạn mới có thể biến những cái nhỏ nhoi tầm thường thành lễ hội.
Thí dụ ở Nhật bản họ có lễ trà. Trong tất cả Thiền viện và ngay cả trong từng gia đình cũng có thể thực hiện được. Trà không còn là phẩm vật bình thường nũa, người ta đã chuyển nó thành lễ mừng. nơi uống trà thiết kế theo một cách nào đó, trong một khu vườn đẹp, có hồ, có thiên nga, hoa cỏ…khách đến bỏ giày bên ngoài, vậy thôi.
Khi bước vào, bạn không được nói chuyện; bạn phải bỏ lại mọi suy nghĩ, lời nói cùng với giày dép bên ngoài. Bạn ngồi xuống trong tư thế thiền định. Người chủ, thường là một quí bà sẽ pha trà cho bạn. Động tác của người pha trà thật đẹp, giống như là nghệ sĩ múa, đi vòng quanh khách, phục vụ trà, tách, đĩa…giống như bạn là thượng đế. Thật là kính cẩn nàng cúi đầu dâng trà và bạn cũng cúi đầu trân trọng y như thế.
Một vật tầm thường như trà thôi cũng có thể được dùng tạo ra lễ hội mà ai đó khi bước ra cũng cảm thấy mình như hồi sinh, tươi trẻ lại, ngọt ngào hơn. Cái gì ta đã làm được với trà thì cũng có thể làm được với tất cả thứ khác, như với quần áo, thức ăn…Đa số con người sống như trong giấc ngủ say; ngoài ra vải vóc có vẻ đẹp riêng của nó, cảm giác riêng của nó. Nếu bạn nhạy cảm, quàn áo không chỉ để che thân chúng cũng có thể dùng biểu cảm cá tính, sở thích, văn hóa và tồn tại của bạn. Mọi việc mà bạn làm nên phải là cách thể hiện riêng của ban, nên phải có dấu ấn của bạn, như thế đời sống sẽ trở nên lên lễ hội liên tục.
Ngay cả khi bạn bị bệnh đang nằm trên giường, bạn cũng nên lấy cái thời gian này mà hưởng thụ, thời gian thư giản và nghĩ ngơi, thời gian thiền định, không lo buồn vì mình đang bị bệnh. Khi bạn bị bệnh hãy gọi bác sĩ, nhưng lúc này bạn bè quan trọng hơn thuốc men, nhất là những người yêu bạn. Thuốc men thường là phương tiện trị liệu kém nhất.
Hãy sáng tạo mọi thứ, làm ra cái tốt nhất từ cái dở nhất, điều đó tôi gọi là “nghệ thuật”. Nếu một người sống suốt một đời tạo tất cả khoảnh khắc thành cái đẹp, thành tình yêu, thành niềm vui thì cái chết tự nhiên trở thành đỉnh điểm của toàn bộ nổ lực trong đời. Giây phút cuối cùng của người đó sẽ không tồi tệ như cái chết thông thường của mọi người khác. Nếu cái chết là điều tồi tệ, có nghĩa là toàn bộ đời sống của bạn đã là một phí phạm. Cái chết nên là sự chấp nhận bình yên, sự dẫn nhập tràn đầy tình yêu vào cõi mà ta chưa biết, lời chào từ giả vui vẻ với bạn bè, với thế giới cũ. Không nên có chút gì gọi là bi kịch.
Một thiền sư, Linh Chi, đang hấp hối. Hàng ngàn đệ tử vây quanh chờ nghe bài pháp cuối cùng. Nhưng Linh Chi chỉ nằm xuống vui vẻ mỉm cười, không nói một lời. Một người thiền sư bạn cũ nhắc nhở:” Linh Chi, sao thày quên không nói những lời cuối cùng, trí nhớ thày không được tốt rồi, thày đang hấp hối, thày cố đừng quên”. Linh Chi nói:”Hãy lắng nghe này”…và trên mái nhà, hai con sóc đang chạy nhảy vui đùa. Linh Chi chỉ nói:”đẹp làm sao” rồi chết. Ngay khi ông nói “Hãy lắng nghe này” thì mọi người im lặng phăng phắc để chuẩn bị nghe những lời vĩ đại; Nhưng chỉ nghe thấy tiếng hai con sóc đùa giỡn cắn nhau chạy nhảy trên mái nhà mà thôi. Vị thày chỉ cười rồi chết.
Thực ra vị thày đã gởi đi thông điệp cuối: Đừng phân biệt chuyện lớn chuyện nhỏ, đừng phân biệt cái tầm thường cái quan trọng. Ngay phút giây đó sự kiện Linh Chi chết cũng giống như sự kiện hai con sóc chạy đuổi trên mái nhà. Không có gì khác biệt. Trong hiện sinh, tất cả đều giống nhau. Đây là toàn bộ triết học, toàn bộ sự nghiệp giảng dạy của vị thày. Chẳng có cái gì lớn chẳng có cái gì nhỏ, tất cả đều tùy thuộc vào bạn.
Bắt đầu bằng thiền định, mọi sự sẽ nảy nở trong bạn…tĩnh lặng, tinh khiết, an lạc, mẫn cảm. Mang hết những điều thủ đắc trong thiền định vận dụng trong đời sống và chia sẻ chúng, bởi vì những cái chia sẻ đều mau phát triển. Rồi đến lúc bạn chết, bạn sẽ biết không có sự chết. Bạn có thể nói tạm biệt mà không cần có nước mắt và buồn rầu, nếu có, phải chỉ là nước mắt của niềm vui.
Nhưng điều cốt tủy là phải bắt đầu bằng ngây thơ vô nhiễm. Trước tiên vất đi tất cả cặn bã thối tha mà bạn đang mang vác. Mọi người đang mang vác quá nhiều căn bã. Có một điều đáng ngạc nhiên là lại có nhiều người nói với bạn rằng đó là những hệ tư tưởng lớn, những nguyên lí lớn ! (trong trường hợp này sự thông minh không bắt đầu từ bạn, bạn chỉ mượn của người khác). Hãy thông minh tự bản thân mình.
Đời sống rất đơn giản; nó là điệu nhảy của vui mừng. Tất cả trái đất có thể tràn đầy niềm vui, tràn đầy hoan lạc, nhưng có một số người quyền thế, vì quyền lợi, lại nói rằng không ai nên cười, không ai nên vui bởi vì cuộc đời là tội lỗi, đó là một sự trừng phạt. Làm sao có thể yên vui khi bạn liên tục bị nhồi sọ rằng đời sống là sự trừng phạt, bạn đã làm sai và bây giờ đang bị giam ở trái đất này để chuộc lỗi!
Tôi phải nói lớn rằng: Đời sống không phải là ngục tù, không phải là sự trừng phạt. Đời sống là một tặng thưởng, và nó chỉ trao cho ai chắt chiu với nó, cho những ai xứng đáng với nó. Và bây giờ, quyền lựa chọn là của bạn; và bạn sẽ là kẻ có tội nếu không hưởng thụ nó. Nếu đến lúc bạn chia tay với cuộc đời mà cứ để cuộc đời y nguyên như lúc bạn bước vào, nếu bạn không làm đẹp thêm cho nó, là bạn đã chống lại hiện hữu. Xin bạn, xin hãy để lại cho đời một chút đẹp đẽ, một chút hạnh phúc, một chút hương thơm./.
Phạm Doãn dịch từ:
Osho – Beyond Enlightenment. Chapter 28
Osho
Câu hỏi : "Thày vừa nói rằng đa phần nhân loại chỉ sống như là thực vật. Làm ơn hãy giải thích về cách sống thế nào để cái chết có thể trở thành một lễ hội."
Osho trả lời :
Con người sinh ra để hiện thực cuộc sống, nhưng điều đó còn tùy vào anh ta. Anh ta có thể thở, có thể ăn, có thể đi, có thể già, và có thể tiến dần tới nấm mộ…nhưng điều này không phải là “cuộc sống”. Cái này gọi là sự chết dần từ cái nôi đến nấm mộ, chính xác là cái chết mòn trong bảy mươi năm.
Bởi vì hàng triệu người quanh bạn đang chết trong cái kiểu chết dần mòn này, cho nên bạn cũng bắt chước họ. Trẻ con thì học mọi thứ từ những người xung quanh, mà xung quanh thì toàn là sự chết.
Cho nên điều đầu tiên bạn phải hiểu đời sống (life) có nghĩa gì?
“Đời sống” không phải chỉ đơn giản là già đi (growing old)
Mà “Đời sống” phải là lớn lên và trưởng thành (growing up).
Và đây là hai điều hoàn toàn khác biệt.
Trở nên già, mọi con vật đều có khà năng như thế. Còn trưởng thành lại là đặc quyền riêng của loài người. Nhưng tiếc thay chỉ có một ít người đòi hỏi cái đặc quyền đó.
Lớn lên và trưởng thành (growing up) có nghĩa là sống từng khoảnh khắc sâu trong nguyên lí của đời sống. Điều đó có nghĩa là đi thoát ra khỏi sự chết, chứ không phải đi dần đến sự chết. Bạn càng đi sâu vào sự sống, bạn càng nhận ra cái bất tử của chính bạn. Có một khoảnh khắc nào đó bạn sẽ nhận biết rằng sự chết chẳng là cái gì, cũng giống như thay đổi quần áo, thay đổi nhà cửa, thay đổi hình dạng…chẳng có cái gì chết, và chẳng có cái gì có thể chết.
Sự chết là một ảo giác lớn nhất của con người.
Để trưởng thành hãy nhìn cái cây. Khi cái cây lớn rể của nó mọc sâu. Đó là sự cân bằng, cây càng lớn rễ càng sâu; rễ nhỏ không chịu nổi sức nặng của cây lớn.
Trong đời sống trưởng thành (growing up) là mọc sâu (growing deep) vào trong chính bạn
Với tôi, nguyên lí đầu tiên của đời sống là thiền định (meditation). Mọi điều khác là thứ cấp. Và tuổi thơ là thời gian đẹp nhất. Khi bạn già hơn, gần cái chết hơn, bạn càng khó khăn hơn để đi vào thiền định.
Thiền định có nghĩa là đi vào sự bất tử của bạn, vào sự vĩnh hằng của bạn, đi vào bản chất thần thánh của bạn. Trẻ con là con người đầy đủ phẩm chất nhất cho thiền định bởi vì trẻ con chưa bị chất nặng bởi giáo dục, kiến thức, tôn giáo hay bởi nhiều loại rác rưởi khác. Trẻ con thì ngây thơ, vô nhiễm, vô tội (tiếng Anh chỉ dùng có có một chữ là innocent) Nhưng bất hạnh thay sự ngây thơ của trẻ con bị coi giống như là không hiểu biết (ignorant).
“Không hiểu biết” và “ngây thơ” cũng có chỗ giống nhau như chúng không phải là một. Ignorance là tình trạng không biết, giống như ngây thơ. Nhưng có một khác biệt lớn mà cả nhân loại đến bây giờ cũng không biết. Ngây thơ là không có kiến thức nhưng không hề khao khát có được kiến thức. Ngây thơ tự nó tròn đầy ý nghĩa.
Một đứa con nít không có tham vọng, không có ước vọng. Nó luôn luôn sống hết mình trong từng khoảnh khắc sống của nó… Một con chim bay qua, đứa trẻ nhìn không chớp mắt; hay chỉ thoáng thấy một con bướm màu sắc đẹp cũng đủ để đứa trẻ hát ca. Với một cái cầu vổng trên trời, đứa trẻ sẽ ngây ngất như không còn biết điều gì huy hoàng hơn nữa. Cũng cảm giác như thế đến với trẻ con, khi chúng nhìn thấy trăng sao vằng vặc trong đêm tối mênh mông.
“Ngây thơ vô nhiễm” là tinh khiết, là tràn đầy, là giàu có.
“Không hiểu biết” là nghèo nàn là ăn xin…là tôi muốn điều này, tôi muốn điều kia, tôi muốn được hiểu biết, tôi muốn được kính trọng, tôi muốn được giàu sang, tôi muốn được quyền lực.
Không hiểu biết (ignorance) đi trên con đường của khát khao.
Ngây thơ vô nhiễm (innocence) là trạng thái không hề khát khao.
Nhưng bởi vì cả hai trường hợp cùng là tình trạng không có kiến thức (knowledge) nên chúng ta thường lầm lẫn và qui kết rằng chúng cũng như nhau.
Bước đầu tiên trong nghệ thuật sống là nhìn thấy cái ranh giới phân biệt giữa cái không hiểu biết(ignorance) và sự ngây thơ vô nhiễm (innocence). Sự ngây thơ vô nhiễm phải được cũng cố và bảo vệ, bởi vì đứa trẻ được sinh ra với sự ngây thơ nghĩa là với một kho báu lớn, cái kho báu mà các nhà thông thái phải đi tìm cả đời với nổ lực nhọc nhằn. Các minh sư thường nói rằng họ đã trở lại trẻ thơ một lần nữa, họ đã được tái sanh.
Ở Ấn độ một người Bà la môn thực sự, nghĩa là một người hiểu biết thực sự, tự gọi mình là Dwij, nghĩa là được sinh hai lần. Tại sao lại được sinh hai lần? Cái gì đã xảy ra trong lần sinh thứ nhất? Tại sao cần phải có lần sinh thứ hai? Lần sinh thứ hai ông ấy được gì? Trong lần sinh thứ hai ông ấy lấy lại tất cả những cái ông ta đã có trong lần sinh thứ nhất, nhưng cái mà cha mẹ, xã hội, và tất cả những người xung quanh đã hủy diệt và triệt tiêu chúng.
Trẻ con đang bị nhồi nhét đầy ắp những kiến thức. Cái đơn thuần và trong sáng vì thế bị cướp mất, lí do là ai cũng biết cái đơn thuần không giúp được gì cho đứa trẻ trong cái xã hội cạnh tranh này. Một đúa trẻ đơn thuần (simple) thường bị coi là ngốc nghếch, và đứa trẻ ngốc nghếch sẽ bị cuộc đời lợi dụng và bóc lột. Sợ hãi xã hội, sợ hãi thế giới, chúng ta tự thay đổi mình để thích ứng và cũng muốn làm cho trẻ con trở thành thông minh, sắc xảo, đầy kiến thức, để chúng được hội nhập vào thế giới quyền lực mạnh mẽ, chứ không để chúng rơi vào sự yếu kém hay bị áp bức. Và một khi đứa trẻ lớn lên sai định hướng, nó sẽ tiếp tục con đường sai lầm đó, cả cuộc đời nó sẽ tiếp tục bị sai lầm.
Bất cứ khi nào bạn thấy rằng dường như bạn đã đánh mất cuộc sống, nguyên tắc đầu tiên là tìm lại sự ngây thơ (innocent).
Buông kiến thức xuống, quên hết kinh điển đi, quên tôn giáo đi, quên thần học và triết lí đi. Cố gắng để được sinh ra một lần nữa, trở lại ngây thơ… và điều này bạn có thể làm được, bằng cách: Tẩy sạch tâm trí của bạn, tẩy sạch tất cả những gì không phải là của bạn, tẩy sạch tất cả những gì vay mượn, tất cả những gì thuộc về truyền thống, qui ước, tất cả những gì thuộc về người khác như cha mẹ, thầy giáo, trường đại học…tẩy sạch, vất tất cả. Một lần nữa ta trở nên đơn thuần.
Điều diệu kì này có thể thực hiện được nhờ thiền định.
Thiền định chỉ là một phương pháp phẫu thuật lạ kì, nó cắt bỏ đi tất cả những gì không thuộc về bạn, chỉ để lại con người thực sự của bạn mà thôi. Thiền định thiêu hủy tất cả mọi thứ và để lại bạn như một con người trần trụi cô độc dưới ánh mặt trời. Để bạn thấy dường như mình là người đầu tiên sinh ra trên mặt đất, không hiểu, không biết một điều gì, người phải khám phá lại tất cả, phải tìm kiếm, phải hành hương.
Đời sống phải là cuộc truy tìm, không phải là một khát vọng. Đời sống là một tìm tòi, chú không phải là tham vọng để trở thành cái này cái nọ, như trở thành chủ tịch một quốc gia, một thủ tướng, một bộ trưởng. Sống là để tim ra Tôi là ai? Một điều rất lạ lùng là người ta thường không biết mình thực sự là ai, lại mong muốn trở thành một người như thế nào đó. Người ta không biết mình là ai ngay trong hiện tại, không quen thuộc với chính hiện hữu của mình nhưng bao giờ cũng muốn trở thành cái gì đó!
Trở thành một cái gì (becoming), đó là căn bệnh của tâm hồn.
Hiên sinh (being) mới chính là bạn.
Ngay lúc khám phá ra hiện sinh của mình thì đời sống bắt đầu. Rồi thì cứ mỗi khoảnh khắc sống của ta là một khám phá mới mẻ. Bất cứ một khoảnh khắc nào cũng là một niềm vui; Cánh cửa bí mật đã mở, tình yêu mới đâm chồi, đam mê mới xuất hiện, cảm xúc mới về cái đẹp, cái tốt. Bạn trở thành thật nhạy cảm, chỉ một cạnh sắc của lá cỏ cũng đem đến vô vàn cảm giác. Sự nhạy cảm làm cảm giác bạn rõ ràng đến mức dù là hiện hữu của chỉ môt lá cỏ cũng bằng như hiện hữu của một vì sao; không có lá cỏ này hiện sinh dường như thiếu đi; và bởi vì lá cỏ này là duy nhất không có gì thay thế cho nên nó có riêng tính cá thể của nó.
Sự nhạy cảm sẽ tạo nên nhiều tình bạn. Tình bạn với cỏ cây, với chim muông, với thú vật, với núi đồi, với sông suối, với đại dương và với cả những vì sao. Đời sống trở thành giàu có hơn vì tình yêu lớn dậy vì tình bạn lớn lên.
Cuộc đời của thánh Francis đầy những chuyện đẹp. Ngài thường phải đi trên một con lừa đây đó để chia sẻ những thể nghiệm của mình. Vị thánh sắp chết.Tất cả đệ tử vây quanh để nghe lời cuối của ngài. Lời cuối của một vị thày luôn luôn là điều gì tiêu biểu nhất vì nó chứa toàn bộ kinh nghiệm sống của thày. Nhưng các đệ tử không tin rằng mình đã nghe một điều như thế! Thánh Francis không nói gì với các đệ tử mà vấn an con lừa của ngài. Vị thánh nói: “Người anh em, tôi vô cùng mang ơn người anh em. Người anh em đã mang tôi đi khắp mọi nơi mà không hề than vãn, không hề càu nhàu. Trước khi rời bỏ thế giới này tất cả điều tôi muốn nói là xin hãy tha lỗi cho tôi; tôi đã không đối xử với người anh em bằng tình người chan chứa.”
Đó là những lời cuối của thánh Francis. Cảm xúc bén nhạy trong lời nói với con lừa, “người anh em”, “xin hay tha lỗi”. Nếu bạn nhạy cảm hơn, cuộc sống sẽ lớn hơn. Nó sẽ không là cái ao nhỏ mà là một đại dương. Nó không giới hạn ở vợ con của bạn, nó không có giới hạn. Toàn bộ hiên hữu này trở thành gia đình bạn. Và chỉ khi nào toàn thể hiện hữu trở thành gia đình, bạn mới biết sự sống là gì. Con người không phải là một hòn đảo cô độc, tất cả chúng ta đều có kết nối.
Chúng ta là một lục địa lớn, hội tụ từ trăm nẻo đường về. Nếu trái tim chúng ta không tràn đầy tình yêu cho cái toàn thể thì đời sống chúng ta sẽ phải ngắn hơn.
Thiền định sẽ làm cho ta nhạy cảm, ta sẽ cảm thấy mình gắn liền với thế giới. Thế giới là của chúng ta, trăng sao là của chúng ta, chúng ta không phải là người ngoài cuộc. Chúng ta thuộc về mọi tồn tại tự bên trong. Chúng ta là một phần và cũng là trái tim của tồn tại
Thứ nữa, thiền định sẽ mang đến bạn sự yên tĩnh trọn vẹn vì tất cả kiến thức rác rưởi đã ra đi. Các suy nghĩ, các ý tưởng (những cái cấu thành tri kiến) cũng ra đi…Một sự yên tĩnh mênh mông, và rồi bạn sẽ ngạc nhiên cái yên lặng này lại chính là âm nhạc. Tất cả các loại âm nhạc trần gian chỉ là cái thể hiện từ sự yên lặng bên trong. Các nhà thần bí đông phương đều cùng nhấn mạnh một điểm rằng: tất cả các nghệ thuật lớn như âm nhạc, thi ca, múa, hội họa, điêu khắc…đều sinh ra từ thiền định. Một cách nào đó có thể hiểu là các bộ môn nghệ thuật chính là những cái nằm trong thế giới không được biết bộc lộ ra ngoài thế giới đang được biết, và dành cho những ai chưa sẵn sàng cho cuộc hành trình trí tuệ của mình. Chúng là quà tặng cho những người chưa đi trên cuộc hành trình trí tuệ. Đôi khi một bản nhạc, một bức tượng…cũng có thể khơi dậy nỗi khát khao đi tìm nguồn cội. Bạn này, khi nào bạn bước vào ngôi chùa của Phật Thích ca hay ngôi đền của Mahavira, cứ ngồi yên lặng lẽ ngắm nhìn bức tượng. Bức tượng thì chả có lien hệ nào với Thích ca hay Mahavira, nhưng nó đã được làm và tính toán theo một tỉ lệ để mỗi khi bạn nhìn nó bạn sẽ rơi vào yên lặng. Đây gọi là thiền định với tượng.
Đó là lí do tại sao các bức tượng luôn giống nhau Mahavira, Gautama, Neminata, Adinatha…Hai mươi bốn vị thánh tăng của đạo Jaina…Trong cùng một ngôi chùa bạn sẽ thấy hai mươi bốn bức tượng giống nhau hoàn toàn. Hồi còn nhỏ tôi thường hỏi cha tôi “Cha giải thích cho con biết tại sao hai mươi bốn người lại cùng giống hệt nhau? Cùng kích thước, cùng cái mũi, cùng khuôn mặt, cùng thân hình”.
Cha tôi nói “Cha không biết, chính cha cũng ngạc nhiên tại sao chẳng thấy có chút khác biệt nào cả. Ai cũng nói trên đời này chẳng có đến hai người giống hệt nhau, nói chi đến hai mươi bốn người!”
Đến lúc tôi thành tựu thiền định, tôi đã tự tìm thấy câu trả lời. Câu trả lời là: Tất cả các bức tượng chẳng có liên hệ gì với những nhân vật, Tất cả các bức tượng chỉ liên hệ với những gì xảy ra bên trong các nhân vật, và cái bên trong đó thì hoàn toàn giống nhau. Chúng ta không phải quan tâm đến cái bên ngoài mà phải chỉ chú ý đến cái bên trong. Cái dáng vẻ bên ngoài không quan trong. Có người trẻ, có người già, có người đen, có người trắng, có đàn ông, có đàn bà…chẳng có gì quan trọng. Cái quan trọng là tất cả bên trong cùng là một đại dương yên lặng. Trong cái mênh mông yên lặng kia cơ thể thẻ hiện một tư thế nhất định nào đó. Bạn cũng đã từng quan sát chính bạn, nhưng chắc là bạn chưa nhận ra điều này: Khi bạn nổi giân, cơ thể bạn có một tư thế nào đó, hai bàn tay bạn không thể mở ra được, bạn chỉ có thể nắm chặt tay. Trong cơn giận bạn cũng chẳng có thể cười.
Với một cảm xúc nào đó, thân thể lại có tương ứng một tư thế nào đó. Những điều nhỏ nhặt ảnh hưởng sâu xa đến bên trong. Vì thế những bức tượng được tạo bằng một cách nào để mà bạn chỉ yên lặng ngồi, yên lặng ngắm nhìn, rồi khép mắt lại, một hình ảnh sẽ đi vào tâm bạn và bạn sẽ cảm nhận được những điều chưa từng biết.
Những bức tượng và đền đài không phải xây ra cho việc thờ cúng, chúng dùng cho việc thể nghiệm. Chúng là những phòng thí nghiệm khoa học, không có quan hệ gì với tôn giáo. Hàng thế kỉ trước đã có một khoa học thần bí nào đó dụng ý giúp cho những thế hệ sau có thể liên hệ với những thể nghiệm của thế hệ trước…không qua sách, không qua ngôn ngữ, mà qua cái sâu thẳm hơn: Cái yên lặng, thiền định và an lạc.
Khi cái yên lặng trở nên yên lặng hơn; tình bạn, tình yêu đâm chồi nảy lộc; cuộc đời bạn trong từng mỗi khoảnh khắc trở thành vũ điệu, niềm vui, lễ hội. Bạn có nghe tiếng pháo nổ ngoài kia? Bạn có bao giờ nghĩ rằng tại sao trên toàn thế giới chỗ nào cũng tổ chức lễ hội vài ngày trong năm? Vài ngày lễ hội là để bù đắp, vì xã hội đã làm mất lễ hội của chính cuộc đời bạn, cho nên nó phaỉ có cái gì đó để bù trừ.
Mỗi một nền văn hóa phải có cách bù đắp cho bạn để bạn không cảm thấy hoàn toàn mất hút trong khốn cùng và tuyệt vọng. Nhưng tất cả những bù đắp này đều là giả tạo.
Những tiếng pháo nổ và ánh đèn ngoài kia không thể làm bạn vui vẻ được. Những thứ đó chỉ dành cho trẻ con; với bạn nó chỉ làm thêm khó chịu. Ngay từ thế giới bên trong bạn đã có thể có bất tận vô vàn ánh sang, âm nhạc, niềm vui. Luôn luôn phải nhớ rằng xã hội chỉ tìm cách bù đắp cho bạn khi nó nghĩ rằng sự dồn nén của cá thể có khả năng nổ bùng một tình thế hiểm nguy. Xã hội tìm mọi phương cách để bạn giải tỏa áp lực dồn nén. Nhưng những thứ này không phải là lễ hội thực sự, nó không bao giờ có thể là sự thực. Lễ hội thực sự phải khởi đầu từ đời sống bạn và bên trong bạn. Lễ hội thực sự không thể căn cứ theo lịch, ví dụ đến đầu tháng mười một tôi sẽ tham gia lễ hội. Điên chưa! Cả năm sầu khổ bỗng dưng tôi thoát ra được khỏi khổ đau, bước ra đường nhảy múa. Cả cái cảm giác thoát khổ lẫn cái ngày đầu tháng mười một đều là giả tạo. Lễ hội ngày đầu tháng mười một qua đi rồi thì bạn sẽ bước về cái hố đen, và mọi người cũng thế, tất cả trở lại với nỗi buồn đau của mình.
Đời sống phải là một lễ hội liên tục, phải là một fesitval ánh sáng suốt năm tròn. Chỉ đến khi bạn trưởng thành, bạn mới có thể trổ hoa, bạn mới có thể biến những cái nhỏ nhoi tầm thường thành lễ hội.
Thí dụ ở Nhật bản họ có lễ trà. Trong tất cả Thiền viện và ngay cả trong từng gia đình cũng có thể thực hiện được. Trà không còn là phẩm vật bình thường nũa, người ta đã chuyển nó thành lễ mừng. nơi uống trà thiết kế theo một cách nào đó, trong một khu vườn đẹp, có hồ, có thiên nga, hoa cỏ…khách đến bỏ giày bên ngoài, vậy thôi.
Khi bước vào, bạn không được nói chuyện; bạn phải bỏ lại mọi suy nghĩ, lời nói cùng với giày dép bên ngoài. Bạn ngồi xuống trong tư thế thiền định. Người chủ, thường là một quí bà sẽ pha trà cho bạn. Động tác của người pha trà thật đẹp, giống như là nghệ sĩ múa, đi vòng quanh khách, phục vụ trà, tách, đĩa…giống như bạn là thượng đế. Thật là kính cẩn nàng cúi đầu dâng trà và bạn cũng cúi đầu trân trọng y như thế.
Một vật tầm thường như trà thôi cũng có thể được dùng tạo ra lễ hội mà ai đó khi bước ra cũng cảm thấy mình như hồi sinh, tươi trẻ lại, ngọt ngào hơn. Cái gì ta đã làm được với trà thì cũng có thể làm được với tất cả thứ khác, như với quần áo, thức ăn…Đa số con người sống như trong giấc ngủ say; ngoài ra vải vóc có vẻ đẹp riêng của nó, cảm giác riêng của nó. Nếu bạn nhạy cảm, quàn áo không chỉ để che thân chúng cũng có thể dùng biểu cảm cá tính, sở thích, văn hóa và tồn tại của bạn. Mọi việc mà bạn làm nên phải là cách thể hiện riêng của ban, nên phải có dấu ấn của bạn, như thế đời sống sẽ trở nên lên lễ hội liên tục.
Ngay cả khi bạn bị bệnh đang nằm trên giường, bạn cũng nên lấy cái thời gian này mà hưởng thụ, thời gian thư giản và nghĩ ngơi, thời gian thiền định, không lo buồn vì mình đang bị bệnh. Khi bạn bị bệnh hãy gọi bác sĩ, nhưng lúc này bạn bè quan trọng hơn thuốc men, nhất là những người yêu bạn. Thuốc men thường là phương tiện trị liệu kém nhất.
Hãy sáng tạo mọi thứ, làm ra cái tốt nhất từ cái dở nhất, điều đó tôi gọi là “nghệ thuật”. Nếu một người sống suốt một đời tạo tất cả khoảnh khắc thành cái đẹp, thành tình yêu, thành niềm vui thì cái chết tự nhiên trở thành đỉnh điểm của toàn bộ nổ lực trong đời. Giây phút cuối cùng của người đó sẽ không tồi tệ như cái chết thông thường của mọi người khác. Nếu cái chết là điều tồi tệ, có nghĩa là toàn bộ đời sống của bạn đã là một phí phạm. Cái chết nên là sự chấp nhận bình yên, sự dẫn nhập tràn đầy tình yêu vào cõi mà ta chưa biết, lời chào từ giả vui vẻ với bạn bè, với thế giới cũ. Không nên có chút gì gọi là bi kịch.
Một thiền sư, Linh Chi, đang hấp hối. Hàng ngàn đệ tử vây quanh chờ nghe bài pháp cuối cùng. Nhưng Linh Chi chỉ nằm xuống vui vẻ mỉm cười, không nói một lời. Một người thiền sư bạn cũ nhắc nhở:” Linh Chi, sao thày quên không nói những lời cuối cùng, trí nhớ thày không được tốt rồi, thày đang hấp hối, thày cố đừng quên”. Linh Chi nói:”Hãy lắng nghe này”…và trên mái nhà, hai con sóc đang chạy nhảy vui đùa. Linh Chi chỉ nói:”đẹp làm sao” rồi chết. Ngay khi ông nói “Hãy lắng nghe này” thì mọi người im lặng phăng phắc để chuẩn bị nghe những lời vĩ đại; Nhưng chỉ nghe thấy tiếng hai con sóc đùa giỡn cắn nhau chạy nhảy trên mái nhà mà thôi. Vị thày chỉ cười rồi chết.
Thực ra vị thày đã gởi đi thông điệp cuối: Đừng phân biệt chuyện lớn chuyện nhỏ, đừng phân biệt cái tầm thường cái quan trọng. Ngay phút giây đó sự kiện Linh Chi chết cũng giống như sự kiện hai con sóc chạy đuổi trên mái nhà. Không có gì khác biệt. Trong hiện sinh, tất cả đều giống nhau. Đây là toàn bộ triết học, toàn bộ sự nghiệp giảng dạy của vị thày. Chẳng có cái gì lớn chẳng có cái gì nhỏ, tất cả đều tùy thuộc vào bạn.
Bắt đầu bằng thiền định, mọi sự sẽ nảy nở trong bạn…tĩnh lặng, tinh khiết, an lạc, mẫn cảm. Mang hết những điều thủ đắc trong thiền định vận dụng trong đời sống và chia sẻ chúng, bởi vì những cái chia sẻ đều mau phát triển. Rồi đến lúc bạn chết, bạn sẽ biết không có sự chết. Bạn có thể nói tạm biệt mà không cần có nước mắt và buồn rầu, nếu có, phải chỉ là nước mắt của niềm vui.
Nhưng điều cốt tủy là phải bắt đầu bằng ngây thơ vô nhiễm. Trước tiên vất đi tất cả cặn bã thối tha mà bạn đang mang vác. Mọi người đang mang vác quá nhiều căn bã. Có một điều đáng ngạc nhiên là lại có nhiều người nói với bạn rằng đó là những hệ tư tưởng lớn, những nguyên lí lớn ! (trong trường hợp này sự thông minh không bắt đầu từ bạn, bạn chỉ mượn của người khác). Hãy thông minh tự bản thân mình.
Đời sống rất đơn giản; nó là điệu nhảy của vui mừng. Tất cả trái đất có thể tràn đầy niềm vui, tràn đầy hoan lạc, nhưng có một số người quyền thế, vì quyền lợi, lại nói rằng không ai nên cười, không ai nên vui bởi vì cuộc đời là tội lỗi, đó là một sự trừng phạt. Làm sao có thể yên vui khi bạn liên tục bị nhồi sọ rằng đời sống là sự trừng phạt, bạn đã làm sai và bây giờ đang bị giam ở trái đất này để chuộc lỗi!
Tôi phải nói lớn rằng: Đời sống không phải là ngục tù, không phải là sự trừng phạt. Đời sống là một tặng thưởng, và nó chỉ trao cho ai chắt chiu với nó, cho những ai xứng đáng với nó. Và bây giờ, quyền lựa chọn là của bạn; và bạn sẽ là kẻ có tội nếu không hưởng thụ nó. Nếu đến lúc bạn chia tay với cuộc đời mà cứ để cuộc đời y nguyên như lúc bạn bước vào, nếu bạn không làm đẹp thêm cho nó, là bạn đã chống lại hiện hữu. Xin bạn, xin hãy để lại cho đời một chút đẹp đẽ, một chút hạnh phúc, một chút hương thơm./.
Phạm Doãn dịch từ:
Osho – Beyond Enlightenment. Chapter 28
25/9/11
Bùi Trân Phượng - Xao động và miễn cưỡng: tháo cái nút chặn
Xao động và miễn cưỡng: tháo cái nút chặn
Bùi Trân Phượng
Bài viết nầy chủ yếu được trích từ bản thảo sách Việt Nam 1918-1945, giới và hiện đại: sự trỗi dậy những nhận thức và trải nghiệm mới, là bản dịch tiếng Việt của luận án cùng tên đã được bảo vệ tại Đại học Lyon, Pháp. Trích đoạn nầy lấy từ Phần Hai, “Phụ nữ, chủ thể và đối tượng của sự thay đổi”. Trong phần nầy, sử dụng nguồn ấn phẩm gồm các tác phẩm nghệ thuật đương thời, đặc biệt là văn học, trước hết, chúng tôi phân tích các hình tượng nhân vật nữ. Tiểu thuyết và truyện ngắn chứng tỏ sự tìm tòi những khả năng mới trong quan hệ vợ chồng, trong đức hạnh đàn bà cũng như trong từng thành viên nam hay nữ của gia đình nhỏ và đại gia đình. Bài dưới đây mở đầu chương IV, tựa nhỏ là “Không còn có thể tiếp tục như trước: những xao động và miễn cưỡng ban đầu”, phân tích hình tượng nữ trong các tác phẩm thời khai sinh của văn học quốc ngữ Nam bộ.
So với nguyên bản tiếng Pháp, sử dụng nguyên tác của Hồ Biểu Chánh cho phép chúng tôi trích dẫn đủ, phân tích kỹ hơn những sắc thái khó chuyển tải hết khi phải dịch ra tiếng Pháp, nhứt là đối với bản dịch tiếng Việt kịch thơ Le Cid. So với luận án, bài nầy sử dụng thêm một tư liệu mới tiếp cận sau là bản in năm 1912 của tiểu thuyết Ai làm được?
Tiểu thuyết đầu tiên bằng quốc ngữ ra đời năm 1887 với nhan đề Thầy[1] Lazaro Phiền[2]. Nó kể chuyện một người chồng vì nghi ngờ vợ ngoại tình đã thuốc chết vợ mình sau khi giết người tình nghi là ý trung nhân của vợ, một người bạn lâu năm. Khi biết ra sự thật, người nầy đi tu, nhưng rốt cuộc không sống nổi vì quá hối hận. Hai khía cạnh đáng quan tâm suy nghĩ. Thứ nhứt, nếu người vợ thực sự phạm tội, người chồng có ân hận hay chăng sau hai án mạng? Luật Gia Long cho phép người chồng giết tại chỗ “gian phu dâm phụ” nếu bắt quả tang. Trong một tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh viết năm 1929[3], đôi gian phu dâm phụ bị người chồng dùng gậy đập chết; người chồng sau đó được cả gia đình và công luận tán thành, ủng hộ[4]. Tòa án thuộc địa chỉ xử kẻ sát nhân có một năm tù vì anh ta giết người vì ghen và đó chỉ là ngộ sát[5]. Tuy nhiên, Lazaro Phiền đã nổ súng bắn người bạn thân bị hiểu lầm là tình địch và giết vợ bằng một thứ thuốc độc làm nàng chết từ từ, không để lại dấu vết. Anh cũng không thể viện lẽ tức giận không thể kìm nén, như kẻ sát nhân được hưởng khoan hồng của luật Gia Long hay trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Anh đã tự cho mình một cái quyền, quyền xử một tội coi là tội đáng chết. Chính cái quyền ấy không còn tuyệt đối và bắt đầu chao đảo.
Người vợ trong Thầy Lazaro Phiền biết mình bị ngờ oan và biết chồng định hại chết mình, nhưng nàng không nói một lời, không tìm cách minh oan hay tránh khỏi cái chết từ từ bằng thuốc độc. Nàng hành xử y hệt như đạo lý nho giáo đã dạy: con người đức hạnh – dù nữ hay nam – biết là mình đúng cho nên bất chấp bất công và cái chết, người đó biết rằng rồi ra thế nào mình cũng được minh oan; vả chăng sự minh oan từ nhân thế cũng không cần thiết, bởi người phụ nữ tiết sạch giá trong đó – giống như kẻ trượng phu trong nghịch cảnh – đã sát thân thành nhân, giữ đạo làm người chỉ bằng hành vi tự sát của mình. Nhắc điều nầy để nhớ thiếu phụ Nam Xương hay người vợ trong Thầy Lazaro Phiền đều không chỉ là nạn nhân thụ động của bất bình đẳng giới, hiểu theo nghĩa giản lược và thô thiển. Và khi dạy chữ nhân, nho giáo không phải không thể có tác dụng bồi bổ nhân cách cho cả nam lẫn nữ.
Giống như vợ chàng Trương vào thế kỷ XV[6], vợ thầy Phiền đã chết vì bị chồng nghi oan; nàng không nổi loạn, không phản ứng; có thể lưu ý là suốt truyện, nàng luôn luôn câm lặng. Cái đang nhúc nhích, cái bắt đầu chao đảo, chính là vị thế xưa kia rất êm ái của người đàn ông-người chồng. Vào thế kỷ XX, kể cả sau khi đã xưng tội với cha sở bên đạo Thiên chúa – hình tượng mới của “quân, sư, phụ” đáng lẽ có quyền phán xử và rửa tội – người chồng vẫn không tìm lại được sự bình an trong tâm. Phán xét của cha sở và tác giả đều rộng lượng, nhưng cái chết đầy day dứt ăn năn của người chồng-sát nhân cho thấy chính bản thân anh không tự tha thứ được cho mình.[7]
Một tác phẩm ý nghĩa khác, còn ít được biết đến[8] hơn cả Thầy Lazaro Phiền, là bản dịch ra tiếng Việt kịch thơ Le Cid của Corneille, đây là bản dịch có trước hai bản[9] kia. Hồ Biểu Chánh làm thành một truyện thơ mô phỏng Truyện Kiều của Nguyễn Du về hình thức. Bùi Đức Tịnh ghi nhận: Ngay trên bìa sách, có nhắc câu thơ của Nguyễn Du trong truyện Kiều “Duyên hội ngộ, đức cù lao/Chữ tình chữ hiếu chữ nào nặng hơn”. Tác giả chú thích rằng tất cả các bản truyện Kiều đều chép “bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn”; ông cũng có vẻ thấy không hợp lý khi câu trích dẫn đó được sử dụng cho bản dịch Le Cid. Hồ Biểu Chánh tùy tiện trong trích dẫn chăng? Đối với người thuộc và mê Kiều như ông, hơi đáng ngạc nhiên. Hay từ trong tiềm thức “bên tình, bên hiếu” đã không còn là hai bên, rạch ròi, phân biệt và có trên, có dưới? (Thiệt ra, ở Nguyễn Du, chúng đã không còn là trên/dưới khi chẳng những hai cô gái con nhà gia giáo đều cư xử không hoàn toàn theo luân lý Khổng Mạnh mà cả cha mẹ hai nàng cũng thổn thức, xót xa ngăn cản con phụ tình vì chữ hiếu!)
Hồ Biểu Chánh giữ nguyên nhiều tình tiết cốt truyện từ nguyên tác. Nhưng ông bỏ đi cuộc đấu gươm báo thù, có lẽ vì quá xa lạ với phong hóa Việt. Quan trọng nhứt là ông đã đổi kết cuộc, để Lệ Bích[10] giải quyết mâu thuẫn bằng cách tự sát[11], với tư thế liệt nữ: “Rút ra một ngọn đao vàng/Đâm ngay vào ruột; bá quan kinh hoàng”. Thanh Tòng muốn chết theo người yêu, nhưng tự kìm chế vì tổ quốc – vì “ơn chúa nợ cha”, Rodrigue Việt nói, đúng đạo nhà nho – còn cần chàng chống giặc Trung Hoa. Chàng xin và được phép ra trận với hai viễn cảnh: “Ví dầu thắng trận hồi kinh/Thảo ngay đền đáp, thinh danh lại càng/Bằng như thân bỏ chiến tràng/Tóc tơ vẹn giữ, đá vàng không phai”.
Như vậy, chàng trai anh hùng của Corneille ra trận với lòng phấn khích, quyết thắng giặc lập công; vì phần thưởng là mối lương duyên được nhà vua tác hợp, gạt qua một bên những tị hiềm, xung đột của thế hệ hai người cha thù địch. Còn Thanh Tòng của Hồ Biểu Chánh, vì ràng buộc đạo lý khiến người yêu đã tuẫn tiết, chàng phân vân giữa hai dòng nước: “thảo cha ngay chúa”, danh dự kẻ làm trai mâu thuẫn với tình yêu chung thủy đá vàng! Đáng suy nghĩ hơn, hình như lưỡi đao oan nghiệt của Lệ Bích cũng không chỉ đơn thuần vì nghĩa vụ làm con. Thanh Tòng có tội giết bầy tôi lương đống của triều đình là Nhị Lôi, nhưng lại thắng giặc Hung nô, nên được vua binh vực: “Thanh Tòng tội ấy công nầy cũng ngang/Trẫm đà phong xá cho chàng/Lại phong Đốc tướng hiển vang mọi bề/Khuyên nàng thôi chớ chấp nê”. Vì trung thành với nguyên tác của ông Corneille tận trời Tây, Hồ Biểu Chánh không ngần ngại đặt vào miệng quân vương Việt lời khuyên vô cùng “trái lẽ” Á Đông? “Theo luân lý và phong tục Việt Nam đương thời”, tác giả Bùi Đức Tịnh phân tích, Lệ Bích của Hồ Biểu Chánh không thể, như Chimène, chấp nhận cuộc hôn nhân với kẻ giết cha mình, dẫu là hôn nhân trong hy vọng. Nhưng hãy nghe nàng phân trần: “Thù bất cộng thiên/Lòng nào mà nỡ kết duyên cho đành?/Trời kia đã phụ lòng thành/Tháo thân khôn trá, chỉ mành xe lơi/Cái đời còn kể chi đời/Thà liều một thác, cho người hiển vang”. “Lòng nào mà nỡ”, là chữ hiếu chăng, hay cũng là thổn thức của con tim non trẻ, vừa xót cha vừa giận người yêu đã không “vị tình” mình? “Trời kia đã phụ”, hay con người vì viễn cảnh “hiển vang” mà “tháo thân”, trí trá, “chỉ mành xe lơi” là bạc tình lang trước mặt? Vậy thì nàng “thà liều một thác, cái đời còn kể chi đời”, chỉ vì bổn phận làm con hay còn vì hờn oán tình lang, vì duyên tình trắc trở?
Hồ Biểu Chánh đặt tên cho bản dịch Le Cid có sửa đổi của mình cái nhan đề độc đáo – biểu lộ một xác tín được khẳng định hay ngược lại, hòng trấn an xao xuyến băn khoăn? – là Vậy mới phải. Chúng tôi muốn cắc cớ hỏi lại: “vậy” là sao, là cái gì đây? Là “đạo lý” cổ truyền chăng? Đạo lý ấy rõ ràng đang được tác giả bảo vệ với khá nhiều lúng túng và trăn trở.
Đến năm 1922, sau mười năm nghiền ngẫm trong thinh lặng (Hồ Biểu Chánh dịch Le Cid năm 1913, xuất bản năm 1918; viết Ai làm được năm 1912, xuất bản năm 1922), hình như tác giả đã lấy quyết định khác, với tác phẩm văn xuôi đầu tiên của mình[12].
Nhân vật chánh trong Ai làm được?[13] tên Bạch Tuyết. Tên nầy không xa lạ trong tiếng Việt; nhưng sự liên tưởng đến Bạch Tuyết của Tây phương không phải không có; vì nàng Bạch Tuyết ở đây cũng bị dì ghẻ đầu độc, như đã thuốc chết mẹ nàng trước đó. Bà ép nàng uống chén thuốc có độc dược. Nàng được cứu sống giờ chót, khi “hoàng tử” của nàng trở về kịp lúc để, thay vì nụ hôn, giằng người yêu khỏi tay kẻ sát nhân, rồi thưa bà dì ghẻ ra tòa, nhờ trạng sư và nhân chứng với chén thuốc làm tang vật!
Còn có thể khai thác nhiều thông tin trong tiểu thuyết nầy. Nhưng nội dung cốt yếu là:
Bạch Tuyết đem lòng yêu Chí Đại, thư ký của cha nàng, do ông ngoại nàng đưa vô làm trong phủ. Ông nàng rất quý chàng trai đó vì, cũng như tác giả, anh được đào tạo từ cựu học – dạy đạo làm người, Hồ Biểu Chánh nói – và tân học, giúp anh mưu sinh và lập nghiệp trong xã hội đương thời. Vốn con nhà gia giáo[14], nàng không hề tỏ tình ý gì với chàng trai – chàng đã sống trong phủ một thời gian mà cả hai chưa bao giờ nói chuyện với nhau – ngoại trừ việc sai lão bộc đưa chàng chén thuốc có quế mài, một hôm chàng đau bụng. Như vậy cũng đủ cho bọn tôi tớ lời ra tiếng vào và cho bà dì ghẻ có cớ đâm thọt với cha nàng. Dì ghẻ tức tối vì Bạch Tuyết cương quyết cãi lời cha, không ưng lấy cháu trai của bà làm chồng, nên vu cáo nàng là “gái hư”, khiến nàng bị cha đánh đòn[15] vừa đau vừa nhục.
Bạch Tuyết quyết định bỏ nhà trốn đi và lấy Chí Đại làm chồng. Nhiều biến cố dồn dập xảy ra. Bạch Tuyết ở một mình tại Sài Gòn, xa nhà cha mẹ, sau lại trốn khỏi nhà ông ngoại lần thứ hai vì không đành lòng ăn sung mặc sướng trong lúc chồng dầu dãi nắng mưa lập nghiệp phương xa. Lâm trọng bịnh nên nàng bị bắt trở về nhà và suýt thiệt mạng về tay dì ghẻ nếu chồng nàng không quay về kịp một cách kỳ diệu.
Trên đường lưu lạc, Bạch Tuyết kết nghĩa chị em với một cô gái mồ côi, nhà nghèo được chú thím nuôi. Cô gái nầy được Hồ Biểu Chánh đặt tên cũng ý nghĩa: Băng Tâm[16]. Say mê nhan sắc của nàng, một chàng trai nhà giàu lúc đầu định lợi dụng nàng trong quan hệ trăng gió nhứt thời. Chú thím vì nghèo nên sẵn sàng đồng lõa với âm mưu; thím càng tỏ ra tham lam, mưu trí và độc ác hơn chồng. Băng Tâm chống lại quyết liệt và, sau khi cũng bị đòn như người bạn gái con quan, nàng chẳng thà bị đuổi khỏi nhà[17] hơn chịu nhục.
Tuy nhiên, sự gan dạ và đức hạnh của nàng làm chàng trai theo đuổi động lòng; chàng trở thành một người yêu tận tụy. Nhưng còn phải rất nhiều những biểu hiện chứng minh tình yêu chân thành tôn trọng nhân phẩm người thiếu nữ gia thế bần hàn hơn mình thì Trường Khanh mới chiếm được trái tim trong sạch đó. Băng Tâm tự nguyện nhận lời cầu hôn sau nhiều thử thách; nàng kiêu hãnh từ chối khi ông ngoại Bạch Tuyết ngỏ lời tặng của hồi môn để xóa chênh lệch giàu nghèo. Vậy là đám cưới của lứa đôi hạnh phúc nầy được cử hành trang trọng; và đánh thức nỗi đau của Bạch Tuyết.
Nàng đã trả được mối thù cho mẹ, cuộc hôn nhân – với người yêu nàng và được nàng yêu – từ ngoài vòng lễ giáo đã được hợp thức hóa nhờ ông ngoại đưa đôi trẻ ra làm hôn thú trước chánh quyền, có đủ mặt nhân chứng theo pháp luật (thuộc địa), cha nàng đã hiểu tội ác của người vợ thứ và tán thành hành động của con, nàng đã sum họp cùng chồng sau khi chồng lập nghiệp thành công, giàu có, nàng chứng kiến bạn thân mình hạnh phúc. Vậy mà, chính lúc đó, nàng quyết định tự tử.
Nguyên nhân của quyết định nầy là ý thức về danh dự và đức hạnh theo quan niệm cổ truyền: đối với người con gái, không nỗi nhục nào lớn hơn là bỏ nhà theo trai, theo không, nghĩa là không có lễ vật cưới hỏi của đàng trai như cha mẹ mình thách cưới, không có nghi lễ ra mắt hai họ và được xóm giềng chứng kiến. Kể cả khi người chồng đã được gia đình chọn lựa, như trong trường hợp Bạch Tuyết, bởi ông ngoại nàng – là người đại diện gia đình một cách chánh đáng hơn người cha, vì người nầy đã mất quyền do nghe lời vợ lẽ, ít ra theo đạo lý bình dân miền Nam mà Hồ Biểu Chánh chia sẻ, có thể lập luận như vậy – đã định gả nàng cho Chí Đại. Nhưng lần nầy, trái với lập trường hồi năm 1913 khi ông đã “sửa” Corneille, Hồ Biểu Chánh quyết định khác.
Khi vợ cắt nghĩa lý do tự tử: “Em hư lắm, em quấy lắm, không đáng làm vợ anh.”, Chí Đại nắm tay vợ, đáp bằng lời rất hữu tình lại hữu lý: “Nếu em không hư, thì ngày nay đôi ta làm sao được gần nhau đây, còn nếu em sợ quấy thì có thể nào báo thù cho mẹ được?” Tác giả tả: vợ ngồi ngó đèn, rồi day lại ôm chồng mà nói rằng: “Anh như vầy mà chết sao đành.”[18]
Thà chết hơn sống nhục, đó là điều nho giáo dạy cả đàn bà và đàn ông. Đối với đàn bà, có rất nhiều lý do đã được dạy cho họ là điều khiến họ phải biết nhục. Các nhà cách tân những năm 1920 nhìn lại các lý do nầy thấy chúng có mức độ chánh đáng khác nhau. Đóng góp xuất sắc của Hồ Biểu Chánh trong Ai làm được? là đề cao nghị lực và sự chủ động của những phụ nữ như Bạch Tuyết và Băng Tâm. Họ đấu tranh bảo vệ nhân phẩm của mình trong ý nghĩa hiện đại nhứt của khái niệm nầy. Họ rời mái ấm gia đình và mỗi người tự xây dựng lấy hạnh phúc riêng, tự chọn người chồng mà họ tin cậy, yêu thương. Bạch Tuyết tỏ ra rất kiên quyết báo thù cho mẹ và tự làm chủ cuộc đời mình, một mực chung thủy với người trái tim mình đã chọn. Với một cá tánh như vậy, sẽ khiên cưỡng biết bao nếu tưởng tượng nàng tự sát như Hồ Biểu Chánh đã buộc cô Chimène Việt phải làm trong Vậy mới phải, được viết ở Long Xuyên năm 1913 và xuất bản ở Sài Gòn năm 1918[19].
Hồ Biểu Chánh 27 tuổi khi viết Ai làm được? năm 1912 tại Cà Mau. Ông 37 tuổi khi tác phẩm xuất bản năm 1922 tại Sài Gòn. Khi viết luận án, chúng tôi chưa tìm ra bản thảo năm 1912. So sánh hai tác phẩm Vậy mới phải và Ai làm được?, chúng tôi đưa ra giả thuyết là trong bản thảo 1912, có thể Bạch Tuyết cũng đã tự tử chết, vì tác giả còn quan niệm vậy mới phải. Chúng tôi tự hỏi: phải chăng Hồ Biểu Chánh không đành lòng, nên sau mười năm nghiền ngẫm, ông đã cho phép Chí Đại lần thứ hai cứu sống người vợ đồng thời là người yêu, người tình của mình thoát khỏi độc dược của một đạo lý quá ư nghiệt ngã? Năm 2009, cầm trong tay bản đã đăng nhiều kỳ trên báo Nông cổ mín đàm năm 1912[20], hóa ra sự thật còn thú vị hơn nhiều. Tác giả đã quyết định để cho Bạch Tuyết sống và hưởng hạnh phúc xứng đáng ngay từ bản thảo đầu tiên. Nhưng mười năm sau, khi xuất bản thành sách, trình làng một kết cuộc bất chấp đạo lý cổ truyền như vậy, ông đã tưởng tượng thêm vụ tự tử bất thành và một số chi tiết khác chỉ để làm cho nhân vật nữ của mình giữ được “đức hạnh” trong mắt độc giả. Đó cũng là cơ hội để ông biện hộ cho nàng – không phải như Nhất Linh mượn lời trạng sư người Pháp biện hộ cho cô Loan trước tòa – mà bằng lời và cử chỉ “rất hữu tình lại hữu lý” của người yêu, như Kim Trọng từng ca ngợi Thúy Kiều là “bụi nào cho đục được mình ấy vay” sau mười lăm năm lưu lạc phong trần! Có lẽ Bạch Tuyết giống một người con gái nông thôn Nam bộ – hậu duệ của cô Kiều Nguyệt Nga “nết na” theo quan niệm nhà nho Gia Định[21] – hơn là cô Tố Tâm tân học của Hoàng Ngọc Phách.
Dẫu sao, so với cái chết thảm của Tố Tâm, tiểu thuyết ra đời gây chấn động dư luận Hà thành năm 1925, Bạch Tuyết được sống để khẳng định “cái hư, cái quấy” của mình là cần thiết, đáng yêu, thiệt đã hiện đại hơn nhiều lắm. Và đối với văn nghiệp của tiểu thuyết gia Hồ Biểu Chánh, việc xuất bản Ai làm được? năm 1922 như tháo đi một nút chặn. Chỉ từ sau thời điểm đó, ông mới sáng tác liên tục, rất đều, rất mạnh, có khi một năm hai, ba tiểu thuyết.
Hình tượng phụ nữ sẽ còn phát triển phong phú, đa dạng trong văn học quốc ngữ. Tư tưởng và chủ nghĩa nữ quyền cũng sẽ tự khẳng định trên mọi lãnh vực, lý luận và thực tiễn, với nhiều dạng thức khác nhau. Bài viết nầy chỉ ghi nhận những trăn trở buổi đầu. Ở đó, dấu ấn đạo lý cổ truyền còn rất rõ, rất mạnh và sâu. Tuy nhiên, cả trong bản chất chung của nó và trong các sắc thái đặc thù địa phương Nam bộ, nó đều đối sánh (confronter, se comparer) với những giá trị văn hóa mới du nhập từ phương Tây một cách hiển lộ. Đối sánh hay đôi chối[22] – như vợ chồng Chí Đại-Bạch Tuyết ở trên – không nhứt thiết là đối đầu, xung đột, loại trừ nhau hay nhắm mắt quay lưng vọng ngoại; mà hoàn toàn có thể là dung hòa, cải biến nhau, để sản sanh cái mới, không phải sống sít ngoại lai, mà nhuần nhuyễn tánh chất Việt, miễn là Việt hiện đại, như sau nầy cuộc hành trình thú vị từ chiếc áo tân thời Lơ-muya tới tà áo dài biểu tượng cho “nữ tính Việt” trong tâm tưởng của nhiều người, bất chấp nguồn gốc không thể nào coi là “thuần” Việt của nó.
Nguyễn Trọng Quản (1865-1911) thuộc lớp học sinh Việt Nam đầu tiên du học ở Algérie. Không phải ngẫu nhiên, ông nêu trong lời Tựa Thầy Lazaro Phiền, mà cốt truyện chỉ là câu chuyện bi kịch gia đình, một trong những mục đích của ông khi viết tác phẩm nầy là “làm cho dân các xứ biết rằng người Annam sánh trí sánh tài thì cũng chẳng thua ai!”[23]. Và trong lời tặng bằng tiếng Pháp gởi Diệp Văn Cường và các bạn học cũ tại trường trung học Alger, ông nhắc “kỷ niệm những buổi tối êm đẹp vào dịp hè đi dạo trong vườn Merenge dưới ánh trăng mập mờ, miệng ngậm điếu thuốc bị cấm hút, mơ ước cho xứ Nam kỳ yêu quý của chúng ta một tương lai xán lạn và văn minh, và cuốn sách nhỏ nầy là một đóng góp thực hiện mơ ước thuở xưa.”[24] Kế thừa truyền thống, nhưng có chọn lọc, có phản biện, đồng thời tháo dỡ ra, xây dựng lại quan hệ giới theo xu hướng bình đẳng hơn, tôn trọng nhân cách con người dù là nữ hay nam, là một yếu tố cấu thành tương lai xán lạn và văn minh đó, trong nhận thức của từng lớp trí thức những thập niên đầu thế kỷ XX.
Tp. Hồ Chí Minh, 29 tháng chạp, Canh Dần
Chú thích
[1] Thầy được đặt trước danh từ (chung và riêng) để chỉ người (mà nghề nghiệp hay vị thế xã hội) được kính trọng.
[2] P.J.B. Nguyễn Trọng Quản, Thầy Lazaro Phiền, 1887, in lại trong Cao Xuân Mỹ&Mai Quốc Liên (chủ biên), Văn xuôi Nam Bộ nửa đầu thế kỷ 20, 1999, T. I, tr. 14-36.
[3] Hồ Biểu Chánh, Khóc thầm, xb. lần đầu 1929. Tất cả tác phẩm của Hồ Biểu Chánh đều có thể tham khảo trên www.hobieuchanh.com. Xin cám ơn anh Trang Quan Sen và nhóm bạn đã tạo ra và nuôi dưỡng trang nầy, với ý thức bảo tồn những di sản văn hóa vô giá của dân tộc. Ở Việt Nam, nhà xuất bản Tổng hợp Tiền Giang đã tái bản một số tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh năm 1988 và sau đó, từ khoảng 2005 trở đi, các nhà xuất bản khác như Phụ nữ, Văn hóa Sài Gòn đã tái bản Hồ Biểu Chánh.
[4] Cần nói rõ: gian phu được mô tả là một tên trí thức lưu manh, bóc lột nông dân nghèo và người vợ, một người đàn bà chưng diện, lẳng lơ.
[5] Khóc thầm. Chúng tôi chưa xác định được bản án như vậy có thể xảy ra trong thực tế đương thời không. Nhưng bình luận của tác giả cho thấy rất rõ bản án đó hoàn toàn phù hợp với quan điểm của chính ông; và ông đã tận dụng sự hiểu biết của mình về luật Gia Long (luôn giảm nhẹ tội khi là người trên phạm tội đối với người dưới, nhứt là trong trường hợp người dưới vi phạm lễ giáo nho gia) và luật thực dân, có thể là chỗ đã dạy ông khái niệm giảm khinh đối với tội ngộ sát.
[6] Vợ chàng Trương một mình nuôi con trong ba năm chồng đi lính xa nhà. Khi người chồng về, định ôm con, bị đứa nhỏ đẩy ra và và nói: “Cha tôi đến tối đỏ đèn mới về.” Chồng gặng hỏi, vợ không trả lời, lẳng lặng gieo mình xuống sông tự vận. Sau tang lễ, buổi tối thắp đèn dầu, Trương thấy con khoanh tay cúi đầu chào cái bóng trên vách là cha, hiểu ra oan tình của vợ thì đã muộn. Vua Lê Thánh Tông là người đương thời đã làm thơ Vịnh miếu vợ chàng Trương, kết bằng câu: “Khá trách chàng Trương khéo hững hờ!”
[7] Tôi rất cảm phục sự phân tích vừa thấm đẫm thấu cảm nghệ thuật vừa chặt chẽ, sâu sắc trong tư duy triết học của Gs Nguyễn Đình Chú khi “Nói thêm về người con gái Nam Xương”, viet-studies 4/8/2010; và hoàn toàn đồng ý với lý giải về “sự ma quái có thực trong sự sống vốn là nghiệt ngã của con người muôn nơi muôn thuở”. Tuy nhiên, cũng không phải không còn gì để nói thêm về cái tác giả gọi là “lớp giá trị lộ thiên, chỉ khéo khơi khơi một tí đã thấy”. Đã đành, như tác giả dẫn Kiều: “ “Ghen tuông thì cũng người ta thường tình”. “Người ta” đây hẳn là có cả nam lẫn nữ.” và nêu câu hỏi: “Cứ giả thiết ở một xã hội nào đó, quyền nam nữ bình đẳng đã đươc thực hiện trăm phần trăm thì đã có thể tin rằng con người không còn cái máu ghen “thường tình” này nữa sao?” Chỉ xin lưu ý thêm: dẫu là vì cái ghen của người đàn ông Trương sinh hay người đàn bà Hoạn Thư thì nạn nhân đau khổ nhứt vẫn là giai nhân bạc mệnh Thúy Kiều hay người con gái Nam Xương, chớ không phải bậc trượng phu nào cả. Bất bình đẳng giới không phải chỉ có trong suy nghĩ nông cạn của đàn bà hay người binh vực nữ quyền. Nó có thật, thật đến nỗi chính tác giả Nguyễn Đình Chú cũng kết luận: “Người con gái Nam xương đã cho người đọc thấy thế nào là cái mong manh vô cùng mong manh của hạnh phúc đàn bà muôn nơi muôn thuở.” Dẫu vua Lê, nhà vua thời Tống nho cực thịnh, có trách chàng Trương, dẫu chàng có “tỉnh ngộ thấu nỗi oan của vợ” thì chàng vẫn sống bình yên cùng công luận, với luật vua phép nước và cả với lương tri mình. Một chút cảm thương, hối tiếc muộn mằn; không phải ý thức mình phạm tội sát nhân. Bởi vậy, nỗi ân hận đến mức không sống nổi của thầy Phiền mới là sự xao xuyến lần đầu mới mẻ khuấy động một trật tự, quả là tôn ti, có trên có dưới.
[8] Chỉ duy nhứt một tác giả văn học sử cung cấp tóm lược cốt truyện và bình luận. Xem Bùi Đức Tịnh, Những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và thơ mới (1865-1932), tb. lần 2, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 2002, tr. 189-193. Tác giả cho biết: “Trên bìa tác phẩm xuất bản năm 1918 (nhà in Imprimerie de l’Union, Sài Gòn) có ghi: Hồ Văn Trung, tự Biểu Chánh chiết thảo, Long Xuyên, quý đông 1913.”
[9] Bản dịch thứ hai, được biết nhiều nhứt (nhưng bị ngộ nhận là bản đầu tiên) của Phạm Quỳnh ở Hà Nội, đăng các số 38 và 39 tạp chí Nam Phong, tháng 8-9 năm 1920; và bản thứ ba của Ưng Bình Thúc Giạ Thị xb. lần đầu ở Huế năm 1936.
[10] Tất cả nhân vật được đặt tên Việt và đưa vào bối cảnh hoàn toàn Việt. Trong toàn bộ tác phẩm sau nầy, Hồ Biểu Chánh tỏ rõ tài năng phỏng dịch và phóng tác, thích nghi xuất sắc với thực tế Việt Nam, một thực tế đang chuyển động. Trong nguyên bản chúng tôi để tên Pháp của nhân vật cho độc giả tiện theo dõi. Trong bản nầy, xin dùng tên Việt: Rodrigue (Le Cid) là Thanh Tòng, Chimène là Phan Lệ Bích. Cốt truyện tóm tắt như sau: Thanh Tuyền có con là Thanh Tòng, đã hứa hôn với nàng Lệ Bích, con của đồng liêu là Nhị Lôi. Vì sự chọn lựa của vua, hai bạn đồng liêu tranh tài dẫn tới xung đột; Nhị Lôi đá Thanh Tuyền “nhào lăn” (cử chỉ xúc phạm được Việt hóa tài tình từ cái tát tai trong nguyên tác). Thanh Tòng sau khi phân vân giữa tình và hiếu (“ít hơn Rodrigue rất xa”, theo nhận xét tinh tế của Bùi Đức Tịnh) đã mang gươm đi giết cha vợ tương lai để rửa hờn, rửa nhục cho cha ruột. Lệ Bích, nàng Chimène Việt, đứng trước thế lưỡng nan bên tình bên hiếu.
[11] Corneille trong nguyên tác viện dẫn tập tục xứ Maure để Chimène phải lấy người chiến thắng trong cuộc đấu gươm danh dự; dùng thêm uy thế quân vương khuyên nhủ Chimène: “Hãy đình đãi một năm, nếu nàng muốn, để lau khô nước mắt” và động viên Rodrigue: “Hãy phó thác cho thời gian, lòng quả cảm của ngươi và quân vương của ngươi”. Bản dịch tiếng Việt các câu thơ được trích dẫn là của Bùi Đức Tịnh, sđd., tr. 191.
[12] Phần in lùi vào là tóm lược nội dung tác phẩm.
[13] Hồ Biểu Chánh, Ai làm được, soạn xong năm 1912, xb. lần đầu 1922.
[14] Cha nàng là viên chức đầu tỉnh, thời đó gọi là quan Phủ. Người ta coi công chức trung cao cấp của chánh quyền thuộc địa như quan, cũng ít nhiều có cơ sở, vì trong những năm 1920 nhiều viên chức (kể cả cấp cơ sở) xuất thân cựu học và vẫn trung thành với khuôn mẫu cũ về mặt trị dân cũng như về luân lý trong hành xử riêng.
[15] Cảnh đánh đòn được trích dịch ở Phụ lục của bản tiếng Pháp, để minh chứng cho một cách cư xử phổ biến thời đó và, đáng buồn là vẫn còn tồn tại tận ngày nay.
[16] Tên nầy không hợp lý lắm vào thời đó, đối với gia cảnh được mô tả là bần hàn của nhân vật; nhưng Hồ Biểu Chánh rất thích thể hiện tánh cách nhân vật ngay trong tên của họ.
[17] Thời đó và cả ngày nay, đây vẫn thường là cách hành xử của cha mẹ nuôi khi trẻ mồ côi trở thành gánh nặng, nhứt là khi người con gái lớn lên, như nhân vật trong tiểu thuyết, từ chối không chịu bị “bán” dưới hình thức nầy hay hình thức khác, để bù đắp chi phí người ta từng nuôi mình.
[18] Ai làm được. Chữ in đứng là phần tóm tắt của chúng tôi, in nghiêng là trích dẫn từ Hồ Biểu Chánh.
[19] Bùi Đức Tịnh, Những bước đầu của báo chí…, tr. 189. Theo tác giả, Hồ Biểu Chánh ký truyện thơ nầy bằng tên thật Hồ Văn Trung, kèm bút danh Biểu Chánh, có nghĩa “tỏ rõ sự ngay đúng”. Tên khai sanh của ông, Trung có nghĩa “trung thành (với vua, với chủ)” là tên rất thường dùng đặt cho con trai.
[20] Chúng tôi cám ơn Gs John C. Schafer đã nhiệt tình gởi tặng bài viết của ông và bản photocopy tiểu thuyết Ai làm được in năm 1912. John C. Schafer là tác giả bài “The Novel Emerges in Cochinchina”, viết chung với Thế Uyên, The Journal of Asian Studies 52, n° 4 (11/1993), tr. 854-884 và bản dịch tiếng Việt của Cao Thị Như Quỳnh, “Tiểu thuyết xuất hiện tại Nam kỳ”, Hợp Lưu, 10&11/1994, tr. 17-38. Bản dịch nầy có thể tham khảo trên trang www.hobieuchanh.com.
[21] Trong chương I của luận án, chúng tôi đã “đọc lại” Đồ Chiểu và phân tích nhân vật nữ của ông, tóm lược như sau: Trong lúc Vân Tiên tuân thủ nghiêm nhặt nguyên tắc bất tương thân, Nguyệt Nga chủ động rút trâm cài tóc tặng chàng, cử chỉ tương đương lời tỏ tình mà Vân Tiên không dám nhận. Nguyệt Nga nài thêm bằng cách “dâng một bài thơ tạ từ”. Sự bộc lộ văn tài có hiệu lực hơn cử chỉ dâng trâm “thường tình nhi nữ”. Vậy là đối với Vân Tiên, chỉ qua thơ xướng họa Nguyệt Nga tự coi như đã nặng lời hẹn ước. Về nhà nàng họa hình, tạc tượng Vân Tiên, đêm ngày ngắm nghía và từ chối nhiều lời cầu hôn môn đăng hộ đối hơn, vì đó là thế gia vọng tộc như gia đình nàng, trong lúc Vân Tiên chỉ là học trò khó. Nàng không ngần ngại đương đầu cả với nhà vua khi vua ban lịnh cống nạp nàng vì mục đích chánh trị ngoại giao. Trái lịnh vua, từ chối nhiệm vụ vì đất nước – cô hầu gái Kim Liên thay nàng hy sinh nhận nhiệm vụ và sẽ được ban thưởng ở kết cuộc vì Vân Tiên sẽ cưới cô làm thứ thiếp – để chung thủy với một tình yêu mà đôi trai gái đã tự ý thề nguyền hẹn ước trước khi gia đình hai bên biết nhau, hành xử của cô gái Nguyệt Nga nức tiếng nết na là vậy đó. Vậy mà hình tượng đó đã được cả nhà nho và công chúng bình dân Nam bộ tán thưởng suốt nhiều thế hệ, với sự đồng thuận tuyệt đối; không như nàng Kiều của Nguyễn Du – dẫu tác giả được tôn phục thi bá, văn hào – vẫn chỉ được yêu quý, cảm thông bởi những nhà nho tài tử “vốn nòi tình, thương người đồng điệu”, còn thì không khỏi bị một số nhà nho “chính thống” chỉ trích, mỉa mai, dè bỉu, thậm chí mắng nhiếc: “Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa, Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm!” Nho giáo ở Gia Định quả có sắc thái riêng.
[22] Đôi chối: examiner, discuter (xem xét, tranh luận), Gustave Hue, Tự điển Việt-Hoa-Pháp, tb. Khai Trí, Sài Gòn, 1971, tr. 284. Đôi chối: phân phải trái, Bùi Đức Tịnh, Từ điển tiếng Việt, Văn hóa thông tin, 2002, tr. 263.
[23] Văn xuôi Nam bộ…, sđd, t. 1, tr. 16.
[24] Dẫn theo Nguyễn Văn Trung, “Về các loại truyện viết bằng quốc ngữ vào cuối thế kỷ XIX-đầu thế kỷ XX ở Việt Nam”, Văn xuôi Nam bộ…, sđd, T. 1, tr. 670-694.
© Thời Đại Mới
Vol. 21 /12-5-11
Bùi Trân Phượng
Bài viết nầy chủ yếu được trích từ bản thảo sách Việt Nam 1918-1945, giới và hiện đại: sự trỗi dậy những nhận thức và trải nghiệm mới, là bản dịch tiếng Việt của luận án cùng tên đã được bảo vệ tại Đại học Lyon, Pháp. Trích đoạn nầy lấy từ Phần Hai, “Phụ nữ, chủ thể và đối tượng của sự thay đổi”. Trong phần nầy, sử dụng nguồn ấn phẩm gồm các tác phẩm nghệ thuật đương thời, đặc biệt là văn học, trước hết, chúng tôi phân tích các hình tượng nhân vật nữ. Tiểu thuyết và truyện ngắn chứng tỏ sự tìm tòi những khả năng mới trong quan hệ vợ chồng, trong đức hạnh đàn bà cũng như trong từng thành viên nam hay nữ của gia đình nhỏ và đại gia đình. Bài dưới đây mở đầu chương IV, tựa nhỏ là “Không còn có thể tiếp tục như trước: những xao động và miễn cưỡng ban đầu”, phân tích hình tượng nữ trong các tác phẩm thời khai sinh của văn học quốc ngữ Nam bộ.
So với nguyên bản tiếng Pháp, sử dụng nguyên tác của Hồ Biểu Chánh cho phép chúng tôi trích dẫn đủ, phân tích kỹ hơn những sắc thái khó chuyển tải hết khi phải dịch ra tiếng Pháp, nhứt là đối với bản dịch tiếng Việt kịch thơ Le Cid. So với luận án, bài nầy sử dụng thêm một tư liệu mới tiếp cận sau là bản in năm 1912 của tiểu thuyết Ai làm được?
Tiểu thuyết đầu tiên bằng quốc ngữ ra đời năm 1887 với nhan đề Thầy[1] Lazaro Phiền[2]. Nó kể chuyện một người chồng vì nghi ngờ vợ ngoại tình đã thuốc chết vợ mình sau khi giết người tình nghi là ý trung nhân của vợ, một người bạn lâu năm. Khi biết ra sự thật, người nầy đi tu, nhưng rốt cuộc không sống nổi vì quá hối hận. Hai khía cạnh đáng quan tâm suy nghĩ. Thứ nhứt, nếu người vợ thực sự phạm tội, người chồng có ân hận hay chăng sau hai án mạng? Luật Gia Long cho phép người chồng giết tại chỗ “gian phu dâm phụ” nếu bắt quả tang. Trong một tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh viết năm 1929[3], đôi gian phu dâm phụ bị người chồng dùng gậy đập chết; người chồng sau đó được cả gia đình và công luận tán thành, ủng hộ[4]. Tòa án thuộc địa chỉ xử kẻ sát nhân có một năm tù vì anh ta giết người vì ghen và đó chỉ là ngộ sát[5]. Tuy nhiên, Lazaro Phiền đã nổ súng bắn người bạn thân bị hiểu lầm là tình địch và giết vợ bằng một thứ thuốc độc làm nàng chết từ từ, không để lại dấu vết. Anh cũng không thể viện lẽ tức giận không thể kìm nén, như kẻ sát nhân được hưởng khoan hồng của luật Gia Long hay trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Anh đã tự cho mình một cái quyền, quyền xử một tội coi là tội đáng chết. Chính cái quyền ấy không còn tuyệt đối và bắt đầu chao đảo.
Người vợ trong Thầy Lazaro Phiền biết mình bị ngờ oan và biết chồng định hại chết mình, nhưng nàng không nói một lời, không tìm cách minh oan hay tránh khỏi cái chết từ từ bằng thuốc độc. Nàng hành xử y hệt như đạo lý nho giáo đã dạy: con người đức hạnh – dù nữ hay nam – biết là mình đúng cho nên bất chấp bất công và cái chết, người đó biết rằng rồi ra thế nào mình cũng được minh oan; vả chăng sự minh oan từ nhân thế cũng không cần thiết, bởi người phụ nữ tiết sạch giá trong đó – giống như kẻ trượng phu trong nghịch cảnh – đã sát thân thành nhân, giữ đạo làm người chỉ bằng hành vi tự sát của mình. Nhắc điều nầy để nhớ thiếu phụ Nam Xương hay người vợ trong Thầy Lazaro Phiền đều không chỉ là nạn nhân thụ động của bất bình đẳng giới, hiểu theo nghĩa giản lược và thô thiển. Và khi dạy chữ nhân, nho giáo không phải không thể có tác dụng bồi bổ nhân cách cho cả nam lẫn nữ.
Giống như vợ chàng Trương vào thế kỷ XV[6], vợ thầy Phiền đã chết vì bị chồng nghi oan; nàng không nổi loạn, không phản ứng; có thể lưu ý là suốt truyện, nàng luôn luôn câm lặng. Cái đang nhúc nhích, cái bắt đầu chao đảo, chính là vị thế xưa kia rất êm ái của người đàn ông-người chồng. Vào thế kỷ XX, kể cả sau khi đã xưng tội với cha sở bên đạo Thiên chúa – hình tượng mới của “quân, sư, phụ” đáng lẽ có quyền phán xử và rửa tội – người chồng vẫn không tìm lại được sự bình an trong tâm. Phán xét của cha sở và tác giả đều rộng lượng, nhưng cái chết đầy day dứt ăn năn của người chồng-sát nhân cho thấy chính bản thân anh không tự tha thứ được cho mình.[7]
Một tác phẩm ý nghĩa khác, còn ít được biết đến[8] hơn cả Thầy Lazaro Phiền, là bản dịch ra tiếng Việt kịch thơ Le Cid của Corneille, đây là bản dịch có trước hai bản[9] kia. Hồ Biểu Chánh làm thành một truyện thơ mô phỏng Truyện Kiều của Nguyễn Du về hình thức. Bùi Đức Tịnh ghi nhận: Ngay trên bìa sách, có nhắc câu thơ của Nguyễn Du trong truyện Kiều “Duyên hội ngộ, đức cù lao/Chữ tình chữ hiếu chữ nào nặng hơn”. Tác giả chú thích rằng tất cả các bản truyện Kiều đều chép “bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn”; ông cũng có vẻ thấy không hợp lý khi câu trích dẫn đó được sử dụng cho bản dịch Le Cid. Hồ Biểu Chánh tùy tiện trong trích dẫn chăng? Đối với người thuộc và mê Kiều như ông, hơi đáng ngạc nhiên. Hay từ trong tiềm thức “bên tình, bên hiếu” đã không còn là hai bên, rạch ròi, phân biệt và có trên, có dưới? (Thiệt ra, ở Nguyễn Du, chúng đã không còn là trên/dưới khi chẳng những hai cô gái con nhà gia giáo đều cư xử không hoàn toàn theo luân lý Khổng Mạnh mà cả cha mẹ hai nàng cũng thổn thức, xót xa ngăn cản con phụ tình vì chữ hiếu!)
Hồ Biểu Chánh giữ nguyên nhiều tình tiết cốt truyện từ nguyên tác. Nhưng ông bỏ đi cuộc đấu gươm báo thù, có lẽ vì quá xa lạ với phong hóa Việt. Quan trọng nhứt là ông đã đổi kết cuộc, để Lệ Bích[10] giải quyết mâu thuẫn bằng cách tự sát[11], với tư thế liệt nữ: “Rút ra một ngọn đao vàng/Đâm ngay vào ruột; bá quan kinh hoàng”. Thanh Tòng muốn chết theo người yêu, nhưng tự kìm chế vì tổ quốc – vì “ơn chúa nợ cha”, Rodrigue Việt nói, đúng đạo nhà nho – còn cần chàng chống giặc Trung Hoa. Chàng xin và được phép ra trận với hai viễn cảnh: “Ví dầu thắng trận hồi kinh/Thảo ngay đền đáp, thinh danh lại càng/Bằng như thân bỏ chiến tràng/Tóc tơ vẹn giữ, đá vàng không phai”.
Như vậy, chàng trai anh hùng của Corneille ra trận với lòng phấn khích, quyết thắng giặc lập công; vì phần thưởng là mối lương duyên được nhà vua tác hợp, gạt qua một bên những tị hiềm, xung đột của thế hệ hai người cha thù địch. Còn Thanh Tòng của Hồ Biểu Chánh, vì ràng buộc đạo lý khiến người yêu đã tuẫn tiết, chàng phân vân giữa hai dòng nước: “thảo cha ngay chúa”, danh dự kẻ làm trai mâu thuẫn với tình yêu chung thủy đá vàng! Đáng suy nghĩ hơn, hình như lưỡi đao oan nghiệt của Lệ Bích cũng không chỉ đơn thuần vì nghĩa vụ làm con. Thanh Tòng có tội giết bầy tôi lương đống của triều đình là Nhị Lôi, nhưng lại thắng giặc Hung nô, nên được vua binh vực: “Thanh Tòng tội ấy công nầy cũng ngang/Trẫm đà phong xá cho chàng/Lại phong Đốc tướng hiển vang mọi bề/Khuyên nàng thôi chớ chấp nê”. Vì trung thành với nguyên tác của ông Corneille tận trời Tây, Hồ Biểu Chánh không ngần ngại đặt vào miệng quân vương Việt lời khuyên vô cùng “trái lẽ” Á Đông? “Theo luân lý và phong tục Việt Nam đương thời”, tác giả Bùi Đức Tịnh phân tích, Lệ Bích của Hồ Biểu Chánh không thể, như Chimène, chấp nhận cuộc hôn nhân với kẻ giết cha mình, dẫu là hôn nhân trong hy vọng. Nhưng hãy nghe nàng phân trần: “Thù bất cộng thiên/Lòng nào mà nỡ kết duyên cho đành?/Trời kia đã phụ lòng thành/Tháo thân khôn trá, chỉ mành xe lơi/Cái đời còn kể chi đời/Thà liều một thác, cho người hiển vang”. “Lòng nào mà nỡ”, là chữ hiếu chăng, hay cũng là thổn thức của con tim non trẻ, vừa xót cha vừa giận người yêu đã không “vị tình” mình? “Trời kia đã phụ”, hay con người vì viễn cảnh “hiển vang” mà “tháo thân”, trí trá, “chỉ mành xe lơi” là bạc tình lang trước mặt? Vậy thì nàng “thà liều một thác, cái đời còn kể chi đời”, chỉ vì bổn phận làm con hay còn vì hờn oán tình lang, vì duyên tình trắc trở?
Hồ Biểu Chánh đặt tên cho bản dịch Le Cid có sửa đổi của mình cái nhan đề độc đáo – biểu lộ một xác tín được khẳng định hay ngược lại, hòng trấn an xao xuyến băn khoăn? – là Vậy mới phải. Chúng tôi muốn cắc cớ hỏi lại: “vậy” là sao, là cái gì đây? Là “đạo lý” cổ truyền chăng? Đạo lý ấy rõ ràng đang được tác giả bảo vệ với khá nhiều lúng túng và trăn trở.
Đến năm 1922, sau mười năm nghiền ngẫm trong thinh lặng (Hồ Biểu Chánh dịch Le Cid năm 1913, xuất bản năm 1918; viết Ai làm được năm 1912, xuất bản năm 1922), hình như tác giả đã lấy quyết định khác, với tác phẩm văn xuôi đầu tiên của mình[12].
Nhân vật chánh trong Ai làm được?[13] tên Bạch Tuyết. Tên nầy không xa lạ trong tiếng Việt; nhưng sự liên tưởng đến Bạch Tuyết của Tây phương không phải không có; vì nàng Bạch Tuyết ở đây cũng bị dì ghẻ đầu độc, như đã thuốc chết mẹ nàng trước đó. Bà ép nàng uống chén thuốc có độc dược. Nàng được cứu sống giờ chót, khi “hoàng tử” của nàng trở về kịp lúc để, thay vì nụ hôn, giằng người yêu khỏi tay kẻ sát nhân, rồi thưa bà dì ghẻ ra tòa, nhờ trạng sư và nhân chứng với chén thuốc làm tang vật!
Còn có thể khai thác nhiều thông tin trong tiểu thuyết nầy. Nhưng nội dung cốt yếu là:
Bạch Tuyết đem lòng yêu Chí Đại, thư ký của cha nàng, do ông ngoại nàng đưa vô làm trong phủ. Ông nàng rất quý chàng trai đó vì, cũng như tác giả, anh được đào tạo từ cựu học – dạy đạo làm người, Hồ Biểu Chánh nói – và tân học, giúp anh mưu sinh và lập nghiệp trong xã hội đương thời. Vốn con nhà gia giáo[14], nàng không hề tỏ tình ý gì với chàng trai – chàng đã sống trong phủ một thời gian mà cả hai chưa bao giờ nói chuyện với nhau – ngoại trừ việc sai lão bộc đưa chàng chén thuốc có quế mài, một hôm chàng đau bụng. Như vậy cũng đủ cho bọn tôi tớ lời ra tiếng vào và cho bà dì ghẻ có cớ đâm thọt với cha nàng. Dì ghẻ tức tối vì Bạch Tuyết cương quyết cãi lời cha, không ưng lấy cháu trai của bà làm chồng, nên vu cáo nàng là “gái hư”, khiến nàng bị cha đánh đòn[15] vừa đau vừa nhục.
Bạch Tuyết quyết định bỏ nhà trốn đi và lấy Chí Đại làm chồng. Nhiều biến cố dồn dập xảy ra. Bạch Tuyết ở một mình tại Sài Gòn, xa nhà cha mẹ, sau lại trốn khỏi nhà ông ngoại lần thứ hai vì không đành lòng ăn sung mặc sướng trong lúc chồng dầu dãi nắng mưa lập nghiệp phương xa. Lâm trọng bịnh nên nàng bị bắt trở về nhà và suýt thiệt mạng về tay dì ghẻ nếu chồng nàng không quay về kịp một cách kỳ diệu.
Trên đường lưu lạc, Bạch Tuyết kết nghĩa chị em với một cô gái mồ côi, nhà nghèo được chú thím nuôi. Cô gái nầy được Hồ Biểu Chánh đặt tên cũng ý nghĩa: Băng Tâm[16]. Say mê nhan sắc của nàng, một chàng trai nhà giàu lúc đầu định lợi dụng nàng trong quan hệ trăng gió nhứt thời. Chú thím vì nghèo nên sẵn sàng đồng lõa với âm mưu; thím càng tỏ ra tham lam, mưu trí và độc ác hơn chồng. Băng Tâm chống lại quyết liệt và, sau khi cũng bị đòn như người bạn gái con quan, nàng chẳng thà bị đuổi khỏi nhà[17] hơn chịu nhục.
Tuy nhiên, sự gan dạ và đức hạnh của nàng làm chàng trai theo đuổi động lòng; chàng trở thành một người yêu tận tụy. Nhưng còn phải rất nhiều những biểu hiện chứng minh tình yêu chân thành tôn trọng nhân phẩm người thiếu nữ gia thế bần hàn hơn mình thì Trường Khanh mới chiếm được trái tim trong sạch đó. Băng Tâm tự nguyện nhận lời cầu hôn sau nhiều thử thách; nàng kiêu hãnh từ chối khi ông ngoại Bạch Tuyết ngỏ lời tặng của hồi môn để xóa chênh lệch giàu nghèo. Vậy là đám cưới của lứa đôi hạnh phúc nầy được cử hành trang trọng; và đánh thức nỗi đau của Bạch Tuyết.
Nàng đã trả được mối thù cho mẹ, cuộc hôn nhân – với người yêu nàng và được nàng yêu – từ ngoài vòng lễ giáo đã được hợp thức hóa nhờ ông ngoại đưa đôi trẻ ra làm hôn thú trước chánh quyền, có đủ mặt nhân chứng theo pháp luật (thuộc địa), cha nàng đã hiểu tội ác của người vợ thứ và tán thành hành động của con, nàng đã sum họp cùng chồng sau khi chồng lập nghiệp thành công, giàu có, nàng chứng kiến bạn thân mình hạnh phúc. Vậy mà, chính lúc đó, nàng quyết định tự tử.
Nguyên nhân của quyết định nầy là ý thức về danh dự và đức hạnh theo quan niệm cổ truyền: đối với người con gái, không nỗi nhục nào lớn hơn là bỏ nhà theo trai, theo không, nghĩa là không có lễ vật cưới hỏi của đàng trai như cha mẹ mình thách cưới, không có nghi lễ ra mắt hai họ và được xóm giềng chứng kiến. Kể cả khi người chồng đã được gia đình chọn lựa, như trong trường hợp Bạch Tuyết, bởi ông ngoại nàng – là người đại diện gia đình một cách chánh đáng hơn người cha, vì người nầy đã mất quyền do nghe lời vợ lẽ, ít ra theo đạo lý bình dân miền Nam mà Hồ Biểu Chánh chia sẻ, có thể lập luận như vậy – đã định gả nàng cho Chí Đại. Nhưng lần nầy, trái với lập trường hồi năm 1913 khi ông đã “sửa” Corneille, Hồ Biểu Chánh quyết định khác.
Khi vợ cắt nghĩa lý do tự tử: “Em hư lắm, em quấy lắm, không đáng làm vợ anh.”, Chí Đại nắm tay vợ, đáp bằng lời rất hữu tình lại hữu lý: “Nếu em không hư, thì ngày nay đôi ta làm sao được gần nhau đây, còn nếu em sợ quấy thì có thể nào báo thù cho mẹ được?” Tác giả tả: vợ ngồi ngó đèn, rồi day lại ôm chồng mà nói rằng: “Anh như vầy mà chết sao đành.”[18]
Thà chết hơn sống nhục, đó là điều nho giáo dạy cả đàn bà và đàn ông. Đối với đàn bà, có rất nhiều lý do đã được dạy cho họ là điều khiến họ phải biết nhục. Các nhà cách tân những năm 1920 nhìn lại các lý do nầy thấy chúng có mức độ chánh đáng khác nhau. Đóng góp xuất sắc của Hồ Biểu Chánh trong Ai làm được? là đề cao nghị lực và sự chủ động của những phụ nữ như Bạch Tuyết và Băng Tâm. Họ đấu tranh bảo vệ nhân phẩm của mình trong ý nghĩa hiện đại nhứt của khái niệm nầy. Họ rời mái ấm gia đình và mỗi người tự xây dựng lấy hạnh phúc riêng, tự chọn người chồng mà họ tin cậy, yêu thương. Bạch Tuyết tỏ ra rất kiên quyết báo thù cho mẹ và tự làm chủ cuộc đời mình, một mực chung thủy với người trái tim mình đã chọn. Với một cá tánh như vậy, sẽ khiên cưỡng biết bao nếu tưởng tượng nàng tự sát như Hồ Biểu Chánh đã buộc cô Chimène Việt phải làm trong Vậy mới phải, được viết ở Long Xuyên năm 1913 và xuất bản ở Sài Gòn năm 1918[19].
Hồ Biểu Chánh 27 tuổi khi viết Ai làm được? năm 1912 tại Cà Mau. Ông 37 tuổi khi tác phẩm xuất bản năm 1922 tại Sài Gòn. Khi viết luận án, chúng tôi chưa tìm ra bản thảo năm 1912. So sánh hai tác phẩm Vậy mới phải và Ai làm được?, chúng tôi đưa ra giả thuyết là trong bản thảo 1912, có thể Bạch Tuyết cũng đã tự tử chết, vì tác giả còn quan niệm vậy mới phải. Chúng tôi tự hỏi: phải chăng Hồ Biểu Chánh không đành lòng, nên sau mười năm nghiền ngẫm, ông đã cho phép Chí Đại lần thứ hai cứu sống người vợ đồng thời là người yêu, người tình của mình thoát khỏi độc dược của một đạo lý quá ư nghiệt ngã? Năm 2009, cầm trong tay bản đã đăng nhiều kỳ trên báo Nông cổ mín đàm năm 1912[20], hóa ra sự thật còn thú vị hơn nhiều. Tác giả đã quyết định để cho Bạch Tuyết sống và hưởng hạnh phúc xứng đáng ngay từ bản thảo đầu tiên. Nhưng mười năm sau, khi xuất bản thành sách, trình làng một kết cuộc bất chấp đạo lý cổ truyền như vậy, ông đã tưởng tượng thêm vụ tự tử bất thành và một số chi tiết khác chỉ để làm cho nhân vật nữ của mình giữ được “đức hạnh” trong mắt độc giả. Đó cũng là cơ hội để ông biện hộ cho nàng – không phải như Nhất Linh mượn lời trạng sư người Pháp biện hộ cho cô Loan trước tòa – mà bằng lời và cử chỉ “rất hữu tình lại hữu lý” của người yêu, như Kim Trọng từng ca ngợi Thúy Kiều là “bụi nào cho đục được mình ấy vay” sau mười lăm năm lưu lạc phong trần! Có lẽ Bạch Tuyết giống một người con gái nông thôn Nam bộ – hậu duệ của cô Kiều Nguyệt Nga “nết na” theo quan niệm nhà nho Gia Định[21] – hơn là cô Tố Tâm tân học của Hoàng Ngọc Phách.
Dẫu sao, so với cái chết thảm của Tố Tâm, tiểu thuyết ra đời gây chấn động dư luận Hà thành năm 1925, Bạch Tuyết được sống để khẳng định “cái hư, cái quấy” của mình là cần thiết, đáng yêu, thiệt đã hiện đại hơn nhiều lắm. Và đối với văn nghiệp của tiểu thuyết gia Hồ Biểu Chánh, việc xuất bản Ai làm được? năm 1922 như tháo đi một nút chặn. Chỉ từ sau thời điểm đó, ông mới sáng tác liên tục, rất đều, rất mạnh, có khi một năm hai, ba tiểu thuyết.
Hình tượng phụ nữ sẽ còn phát triển phong phú, đa dạng trong văn học quốc ngữ. Tư tưởng và chủ nghĩa nữ quyền cũng sẽ tự khẳng định trên mọi lãnh vực, lý luận và thực tiễn, với nhiều dạng thức khác nhau. Bài viết nầy chỉ ghi nhận những trăn trở buổi đầu. Ở đó, dấu ấn đạo lý cổ truyền còn rất rõ, rất mạnh và sâu. Tuy nhiên, cả trong bản chất chung của nó và trong các sắc thái đặc thù địa phương Nam bộ, nó đều đối sánh (confronter, se comparer) với những giá trị văn hóa mới du nhập từ phương Tây một cách hiển lộ. Đối sánh hay đôi chối[22] – như vợ chồng Chí Đại-Bạch Tuyết ở trên – không nhứt thiết là đối đầu, xung đột, loại trừ nhau hay nhắm mắt quay lưng vọng ngoại; mà hoàn toàn có thể là dung hòa, cải biến nhau, để sản sanh cái mới, không phải sống sít ngoại lai, mà nhuần nhuyễn tánh chất Việt, miễn là Việt hiện đại, như sau nầy cuộc hành trình thú vị từ chiếc áo tân thời Lơ-muya tới tà áo dài biểu tượng cho “nữ tính Việt” trong tâm tưởng của nhiều người, bất chấp nguồn gốc không thể nào coi là “thuần” Việt của nó.
Nguyễn Trọng Quản (1865-1911) thuộc lớp học sinh Việt Nam đầu tiên du học ở Algérie. Không phải ngẫu nhiên, ông nêu trong lời Tựa Thầy Lazaro Phiền, mà cốt truyện chỉ là câu chuyện bi kịch gia đình, một trong những mục đích của ông khi viết tác phẩm nầy là “làm cho dân các xứ biết rằng người Annam sánh trí sánh tài thì cũng chẳng thua ai!”[23]. Và trong lời tặng bằng tiếng Pháp gởi Diệp Văn Cường và các bạn học cũ tại trường trung học Alger, ông nhắc “kỷ niệm những buổi tối êm đẹp vào dịp hè đi dạo trong vườn Merenge dưới ánh trăng mập mờ, miệng ngậm điếu thuốc bị cấm hút, mơ ước cho xứ Nam kỳ yêu quý của chúng ta một tương lai xán lạn và văn minh, và cuốn sách nhỏ nầy là một đóng góp thực hiện mơ ước thuở xưa.”[24] Kế thừa truyền thống, nhưng có chọn lọc, có phản biện, đồng thời tháo dỡ ra, xây dựng lại quan hệ giới theo xu hướng bình đẳng hơn, tôn trọng nhân cách con người dù là nữ hay nam, là một yếu tố cấu thành tương lai xán lạn và văn minh đó, trong nhận thức của từng lớp trí thức những thập niên đầu thế kỷ XX.
Tp. Hồ Chí Minh, 29 tháng chạp, Canh Dần
Chú thích
[1] Thầy được đặt trước danh từ (chung và riêng) để chỉ người (mà nghề nghiệp hay vị thế xã hội) được kính trọng.
[2] P.J.B. Nguyễn Trọng Quản, Thầy Lazaro Phiền, 1887, in lại trong Cao Xuân Mỹ&Mai Quốc Liên (chủ biên), Văn xuôi Nam Bộ nửa đầu thế kỷ 20, 1999, T. I, tr. 14-36.
[3] Hồ Biểu Chánh, Khóc thầm, xb. lần đầu 1929. Tất cả tác phẩm của Hồ Biểu Chánh đều có thể tham khảo trên www.hobieuchanh.com. Xin cám ơn anh Trang Quan Sen và nhóm bạn đã tạo ra và nuôi dưỡng trang nầy, với ý thức bảo tồn những di sản văn hóa vô giá của dân tộc. Ở Việt Nam, nhà xuất bản Tổng hợp Tiền Giang đã tái bản một số tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh năm 1988 và sau đó, từ khoảng 2005 trở đi, các nhà xuất bản khác như Phụ nữ, Văn hóa Sài Gòn đã tái bản Hồ Biểu Chánh.
[4] Cần nói rõ: gian phu được mô tả là một tên trí thức lưu manh, bóc lột nông dân nghèo và người vợ, một người đàn bà chưng diện, lẳng lơ.
[5] Khóc thầm. Chúng tôi chưa xác định được bản án như vậy có thể xảy ra trong thực tế đương thời không. Nhưng bình luận của tác giả cho thấy rất rõ bản án đó hoàn toàn phù hợp với quan điểm của chính ông; và ông đã tận dụng sự hiểu biết của mình về luật Gia Long (luôn giảm nhẹ tội khi là người trên phạm tội đối với người dưới, nhứt là trong trường hợp người dưới vi phạm lễ giáo nho gia) và luật thực dân, có thể là chỗ đã dạy ông khái niệm giảm khinh đối với tội ngộ sát.
[6] Vợ chàng Trương một mình nuôi con trong ba năm chồng đi lính xa nhà. Khi người chồng về, định ôm con, bị đứa nhỏ đẩy ra và và nói: “Cha tôi đến tối đỏ đèn mới về.” Chồng gặng hỏi, vợ không trả lời, lẳng lặng gieo mình xuống sông tự vận. Sau tang lễ, buổi tối thắp đèn dầu, Trương thấy con khoanh tay cúi đầu chào cái bóng trên vách là cha, hiểu ra oan tình của vợ thì đã muộn. Vua Lê Thánh Tông là người đương thời đã làm thơ Vịnh miếu vợ chàng Trương, kết bằng câu: “Khá trách chàng Trương khéo hững hờ!”
[7] Tôi rất cảm phục sự phân tích vừa thấm đẫm thấu cảm nghệ thuật vừa chặt chẽ, sâu sắc trong tư duy triết học của Gs Nguyễn Đình Chú khi “Nói thêm về người con gái Nam Xương”, viet-studies 4/8/2010; và hoàn toàn đồng ý với lý giải về “sự ma quái có thực trong sự sống vốn là nghiệt ngã của con người muôn nơi muôn thuở”. Tuy nhiên, cũng không phải không còn gì để nói thêm về cái tác giả gọi là “lớp giá trị lộ thiên, chỉ khéo khơi khơi một tí đã thấy”. Đã đành, như tác giả dẫn Kiều: “ “Ghen tuông thì cũng người ta thường tình”. “Người ta” đây hẳn là có cả nam lẫn nữ.” và nêu câu hỏi: “Cứ giả thiết ở một xã hội nào đó, quyền nam nữ bình đẳng đã đươc thực hiện trăm phần trăm thì đã có thể tin rằng con người không còn cái máu ghen “thường tình” này nữa sao?” Chỉ xin lưu ý thêm: dẫu là vì cái ghen của người đàn ông Trương sinh hay người đàn bà Hoạn Thư thì nạn nhân đau khổ nhứt vẫn là giai nhân bạc mệnh Thúy Kiều hay người con gái Nam Xương, chớ không phải bậc trượng phu nào cả. Bất bình đẳng giới không phải chỉ có trong suy nghĩ nông cạn của đàn bà hay người binh vực nữ quyền. Nó có thật, thật đến nỗi chính tác giả Nguyễn Đình Chú cũng kết luận: “Người con gái Nam xương đã cho người đọc thấy thế nào là cái mong manh vô cùng mong manh của hạnh phúc đàn bà muôn nơi muôn thuở.” Dẫu vua Lê, nhà vua thời Tống nho cực thịnh, có trách chàng Trương, dẫu chàng có “tỉnh ngộ thấu nỗi oan của vợ” thì chàng vẫn sống bình yên cùng công luận, với luật vua phép nước và cả với lương tri mình. Một chút cảm thương, hối tiếc muộn mằn; không phải ý thức mình phạm tội sát nhân. Bởi vậy, nỗi ân hận đến mức không sống nổi của thầy Phiền mới là sự xao xuyến lần đầu mới mẻ khuấy động một trật tự, quả là tôn ti, có trên có dưới.
[8] Chỉ duy nhứt một tác giả văn học sử cung cấp tóm lược cốt truyện và bình luận. Xem Bùi Đức Tịnh, Những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và thơ mới (1865-1932), tb. lần 2, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 2002, tr. 189-193. Tác giả cho biết: “Trên bìa tác phẩm xuất bản năm 1918 (nhà in Imprimerie de l’Union, Sài Gòn) có ghi: Hồ Văn Trung, tự Biểu Chánh chiết thảo, Long Xuyên, quý đông 1913.”
[9] Bản dịch thứ hai, được biết nhiều nhứt (nhưng bị ngộ nhận là bản đầu tiên) của Phạm Quỳnh ở Hà Nội, đăng các số 38 và 39 tạp chí Nam Phong, tháng 8-9 năm 1920; và bản thứ ba của Ưng Bình Thúc Giạ Thị xb. lần đầu ở Huế năm 1936.
[10] Tất cả nhân vật được đặt tên Việt và đưa vào bối cảnh hoàn toàn Việt. Trong toàn bộ tác phẩm sau nầy, Hồ Biểu Chánh tỏ rõ tài năng phỏng dịch và phóng tác, thích nghi xuất sắc với thực tế Việt Nam, một thực tế đang chuyển động. Trong nguyên bản chúng tôi để tên Pháp của nhân vật cho độc giả tiện theo dõi. Trong bản nầy, xin dùng tên Việt: Rodrigue (Le Cid) là Thanh Tòng, Chimène là Phan Lệ Bích. Cốt truyện tóm tắt như sau: Thanh Tuyền có con là Thanh Tòng, đã hứa hôn với nàng Lệ Bích, con của đồng liêu là Nhị Lôi. Vì sự chọn lựa của vua, hai bạn đồng liêu tranh tài dẫn tới xung đột; Nhị Lôi đá Thanh Tuyền “nhào lăn” (cử chỉ xúc phạm được Việt hóa tài tình từ cái tát tai trong nguyên tác). Thanh Tòng sau khi phân vân giữa tình và hiếu (“ít hơn Rodrigue rất xa”, theo nhận xét tinh tế của Bùi Đức Tịnh) đã mang gươm đi giết cha vợ tương lai để rửa hờn, rửa nhục cho cha ruột. Lệ Bích, nàng Chimène Việt, đứng trước thế lưỡng nan bên tình bên hiếu.
[11] Corneille trong nguyên tác viện dẫn tập tục xứ Maure để Chimène phải lấy người chiến thắng trong cuộc đấu gươm danh dự; dùng thêm uy thế quân vương khuyên nhủ Chimène: “Hãy đình đãi một năm, nếu nàng muốn, để lau khô nước mắt” và động viên Rodrigue: “Hãy phó thác cho thời gian, lòng quả cảm của ngươi và quân vương của ngươi”. Bản dịch tiếng Việt các câu thơ được trích dẫn là của Bùi Đức Tịnh, sđd., tr. 191.
[12] Phần in lùi vào là tóm lược nội dung tác phẩm.
[13] Hồ Biểu Chánh, Ai làm được, soạn xong năm 1912, xb. lần đầu 1922.
[14] Cha nàng là viên chức đầu tỉnh, thời đó gọi là quan Phủ. Người ta coi công chức trung cao cấp của chánh quyền thuộc địa như quan, cũng ít nhiều có cơ sở, vì trong những năm 1920 nhiều viên chức (kể cả cấp cơ sở) xuất thân cựu học và vẫn trung thành với khuôn mẫu cũ về mặt trị dân cũng như về luân lý trong hành xử riêng.
[15] Cảnh đánh đòn được trích dịch ở Phụ lục của bản tiếng Pháp, để minh chứng cho một cách cư xử phổ biến thời đó và, đáng buồn là vẫn còn tồn tại tận ngày nay.
[16] Tên nầy không hợp lý lắm vào thời đó, đối với gia cảnh được mô tả là bần hàn của nhân vật; nhưng Hồ Biểu Chánh rất thích thể hiện tánh cách nhân vật ngay trong tên của họ.
[17] Thời đó và cả ngày nay, đây vẫn thường là cách hành xử của cha mẹ nuôi khi trẻ mồ côi trở thành gánh nặng, nhứt là khi người con gái lớn lên, như nhân vật trong tiểu thuyết, từ chối không chịu bị “bán” dưới hình thức nầy hay hình thức khác, để bù đắp chi phí người ta từng nuôi mình.
[18] Ai làm được. Chữ in đứng là phần tóm tắt của chúng tôi, in nghiêng là trích dẫn từ Hồ Biểu Chánh.
[19] Bùi Đức Tịnh, Những bước đầu của báo chí…, tr. 189. Theo tác giả, Hồ Biểu Chánh ký truyện thơ nầy bằng tên thật Hồ Văn Trung, kèm bút danh Biểu Chánh, có nghĩa “tỏ rõ sự ngay đúng”. Tên khai sanh của ông, Trung có nghĩa “trung thành (với vua, với chủ)” là tên rất thường dùng đặt cho con trai.
[20] Chúng tôi cám ơn Gs John C. Schafer đã nhiệt tình gởi tặng bài viết của ông và bản photocopy tiểu thuyết Ai làm được in năm 1912. John C. Schafer là tác giả bài “The Novel Emerges in Cochinchina”, viết chung với Thế Uyên, The Journal of Asian Studies 52, n° 4 (11/1993), tr. 854-884 và bản dịch tiếng Việt của Cao Thị Như Quỳnh, “Tiểu thuyết xuất hiện tại Nam kỳ”, Hợp Lưu, 10&11/1994, tr. 17-38. Bản dịch nầy có thể tham khảo trên trang www.hobieuchanh.com.
[21] Trong chương I của luận án, chúng tôi đã “đọc lại” Đồ Chiểu và phân tích nhân vật nữ của ông, tóm lược như sau: Trong lúc Vân Tiên tuân thủ nghiêm nhặt nguyên tắc bất tương thân, Nguyệt Nga chủ động rút trâm cài tóc tặng chàng, cử chỉ tương đương lời tỏ tình mà Vân Tiên không dám nhận. Nguyệt Nga nài thêm bằng cách “dâng một bài thơ tạ từ”. Sự bộc lộ văn tài có hiệu lực hơn cử chỉ dâng trâm “thường tình nhi nữ”. Vậy là đối với Vân Tiên, chỉ qua thơ xướng họa Nguyệt Nga tự coi như đã nặng lời hẹn ước. Về nhà nàng họa hình, tạc tượng Vân Tiên, đêm ngày ngắm nghía và từ chối nhiều lời cầu hôn môn đăng hộ đối hơn, vì đó là thế gia vọng tộc như gia đình nàng, trong lúc Vân Tiên chỉ là học trò khó. Nàng không ngần ngại đương đầu cả với nhà vua khi vua ban lịnh cống nạp nàng vì mục đích chánh trị ngoại giao. Trái lịnh vua, từ chối nhiệm vụ vì đất nước – cô hầu gái Kim Liên thay nàng hy sinh nhận nhiệm vụ và sẽ được ban thưởng ở kết cuộc vì Vân Tiên sẽ cưới cô làm thứ thiếp – để chung thủy với một tình yêu mà đôi trai gái đã tự ý thề nguyền hẹn ước trước khi gia đình hai bên biết nhau, hành xử của cô gái Nguyệt Nga nức tiếng nết na là vậy đó. Vậy mà hình tượng đó đã được cả nhà nho và công chúng bình dân Nam bộ tán thưởng suốt nhiều thế hệ, với sự đồng thuận tuyệt đối; không như nàng Kiều của Nguyễn Du – dẫu tác giả được tôn phục thi bá, văn hào – vẫn chỉ được yêu quý, cảm thông bởi những nhà nho tài tử “vốn nòi tình, thương người đồng điệu”, còn thì không khỏi bị một số nhà nho “chính thống” chỉ trích, mỉa mai, dè bỉu, thậm chí mắng nhiếc: “Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa, Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm!” Nho giáo ở Gia Định quả có sắc thái riêng.
[22] Đôi chối: examiner, discuter (xem xét, tranh luận), Gustave Hue, Tự điển Việt-Hoa-Pháp, tb. Khai Trí, Sài Gòn, 1971, tr. 284. Đôi chối: phân phải trái, Bùi Đức Tịnh, Từ điển tiếng Việt, Văn hóa thông tin, 2002, tr. 263.
[23] Văn xuôi Nam bộ…, sđd, t. 1, tr. 16.
[24] Dẫn theo Nguyễn Văn Trung, “Về các loại truyện viết bằng quốc ngữ vào cuối thế kỷ XIX-đầu thế kỷ XX ở Việt Nam”, Văn xuôi Nam bộ…, sđd, T. 1, tr. 670-694.
© Thời Đại Mới
Vol. 21 /12-5-11
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)