Hạnh phúc là con đường (I)
THICH NHAT HANH
Hiện Pháp Lạc Trú
Chúng ta thường nói tới con đường: con đường đưa tới giải thoát, con đường đưa tới hạnh phúc, con đường đưa tới hòa bình. Khi có ý niệm về con đường thì chúng ta đồng thời có ý niệm là chúng ta vẫn còn đang trên con đường đó, nghĩa là chúng ta chưa tới. Nếu chúng ta đang trên con đường đi tới hạnh phúc, thì chúng ta chưa có hạnh phúc. Nếu chúng ta đang trên con đường đi tới hòa bình, thì chúng ta chưa có hòa bình.
Nếu chúng ta đang trên con đường đi tới giải thoát, thì chúng ta chưa có giải thoát, giải thoát là vấn đề tương lai. Cái ý niệm về con đường có thể gây ra hiểu lầm, có thể gây ra tai hại, một khi chúng ta nói tới con đường như là quá trình phải đi tới. Trong khi đó tại Làng Mai có câu: "There is no way to happiness, happiness is the way", là không có con đường nào đi đến hạnh phúc, hạnh phúc chính là con đường. “There is no way to peace, peace is the way”, không có con đường nào đưa tới hòa bình cả, hòa bình chính là con đường. Giải thoát cũng vậy. Không có con đường nào đi đến giải thoát, giải thoát chính là con đường. Đó là pháp môn của Làng Mai.
Chúng ta tu học như thế nào để có được giải thoát, có được hạnh phúc, có được hòa bình ngay trong giây phút hiện tại, mà đừng nghĩ rằng giải thoát, hòa bình và hạnh phúc là cái gì chỉ có thể đạt tới trong tương lai. Theo nguyên tắc đó, trong quá trình tu học, chúng ta phải tiếp xúc được với hạnh phúc, giải thoát và hòa bình ngay trong giây phút hiện tại, tại vì không có con đường đi tới hạnh phúc, không có con đường đi tới giải thoát, không có con đường đi tới hòa bình. Hạnh phúc là con đường mình đang đi, đi mà có hạnh phúc. Giải thoát là con đường mình đang đi, vừa đi vừa giải thoát. Hòa bình là con đường mình đang đi, và mình phải có hòa bình trong mỗi giây phút của đời sống hàng ngày. Đó là sự thực tập của chúng ta. Có như vậy chúng ta mới thật sự thực tập được cái gọi là Hiện Pháp Lạc Trú.
Hạnh phúc là cái gì có thật hay không? Mỗi chúng ta ai cũng có kinh nghiệm những giây phút hạnh phúc, và cố nhiên là chúng ta cũng đã có những giây phút khổ đau. Chúng ta thường hỏi: 'Hạnh phúc đó có phải là hạnh phúc chân thật hay không? Khổ đau đó có phải là khổ đau chân thật không ? Hay tự ta làm khổ ta ?' Cho nên xét lại cái quan niệm về hạnh phúc và khổ đau là một sự thực tập.
Giáo lý Tam Pháp Ấn, theo đạo Bụt Bắc Truyền là Vô Thường, Vô Ngã và Niết Bàn, là ba đặc tính của thực tại, nghĩa là thực tại là Vô Thường, thực tại là Vô Ngã, nhưng thực tại cũng là Niết Bàn. Trong khi đó, ba đặc tính của thực tại trong Đạo Bụt Nam Truyền là Vô Thường, Khổ và Vô Ngã.
Nếu thực tại là Khổ thì làm sao ta có hạnh phúc được. Chúng ta nhìn vào cái bàn này, chúng ta nói cái bàn này là Vô Thường, cái đó hiểu được. Chúng ta nói cái bàn này là Vô Ngã, không có cái ngã riêng biệt, nếu không có những yếu tố như là cây, rừng hay là thợ mộc... thì cái bàn này không thể nào có được, vì vậy nói cái bàn là vô ngã thì ta có thể hiểu được. Nhưng nói cái bàn là khổ thì thật là khó hiểu. Bàn ơi mi có khổ không ? Sự thật là khi cái bàn là vô thường mà ta nghĩ là nó thường thì ta khổ, khi cái bàn là vô ngã mà ta nghĩ là nó có ngã thì ta khổ. Cái khổ này không nằm trong cái bàn, mà nó nằm trong cái cách ta nhìn cái bàn. Nhìn cái bàn và cho nó là thường, là ngã, thì ta khổ thôi. Khổ không phải là bản chất của thực tại. Khổ là kết quả của cái cách ta nhìn về thực tại.
Có một kinh trong hệ A Hàm (thuộc Đạo Bụt Bắc Truyền) đã sử dụng cụm danh từ Vô Thường, Vô Ngã và Niết Bàn tới năm lần trong kinh này. Trong khi đó, ở thế kỷ thứ hai, thầy Long Thọ đã nói tới Tam Pháp Ấn là Vô thường, Vô Ngã và Niết Bàn, mà không phải là Vô Thường, Vô Ngã và Khổ. Chúng ta thấy rõ là có một sự sai lầm trong khi truyền thừa kinh điển. Có những thế hệ Phật tử đã quá bị ám ảnh bởi cái danh từ Khổ, tại vì khi học Tứ Diệu Đế thì sự thật đầu tiên là Khổ đế, cho nên họ đã muốn nhìn tất cả bằng cái nhãn quang là Khổ. Có nhiều người thực tập cho rằng nếu họ không tự nhắc 'đời là khổ', thì họ không chứng đạo được, vì vậy cho nên họ cứ lặp lại 'đời là khổ, đời là khổ'. Và lâu dần, 'đời là khổ' trở thành ra một cái giáo điều. May mắn cho chúng ta là giáo lý về Tam Pháp Ấn có ở trong một vài kinh được trao truyền lại trong Đạo Bụt Bắc Truyền, thì ba đặc tính của thực tại là Vô Thường, Vô Ngã và Niết Bàn. Chúng ta còn nhớ một bài kệ rất nổi tiếng, trong đó có nói Niết Bàn là hạnh phúc. Bài kệ đó là:
Chư hành vô thường
Thị sinh diệt pháp
Sinh diệt diệt dĩ
Tịch diệt vi Lạc
'Chư hành vô thường' dịch ra tiếng Anh là all formations are impermanent. Formation là danh từ chuyên môn của đạo Bụt. Chữ hành có nghĩa là hiện tượng, tiếng Phạn là samskara. Cái bàn là một hành, do đó cái bàn là vô thường (chư hành vô thường); cái chuông là vô thường, ta là vô thường, cái nhà là vô thường, núi sông là vô thường, tất cả những cái đó là đều là hành cả. Chư hành vô thường tức là tất cả mọi hiện tượng đều là vô thường. Thị sinh diệt pháp, chúng nó đều là những pháp phải đi ngang qua Sinh và Diệt. Sinh Diệt diệt dĩ. Sinh là birth, Diệt là death. Dĩ là xong rồi. Một khi ý niệm sinh diệt đã được lấy ra rồi, đạt tới sự vắng lặng rồi, thì tịch diệt vi Lạc, tức là sự vắng lặng đó là hạnh phúc. Chữ tịch diệt này nghĩa là Niết Bàn. Nirvana có nghĩa là extinction, tức là không còn nữa, là vắng lặng, là sự tắt ngấm. Sinh và Diệt là một cặp đối nghịch, có sinh thì có diệt, hễ còn sinh thì còn diệt, hễ vượt thoát sinh diệt thì gọi là Niết Bàn. Niết Bàn là sự vắng mặt của những ý niệm về sinh và về diệt.
Hãy lấy hình ảnh của sóng và nước để giúp cho ta hiểu. Khi nhìn một đợt sóng, ta thấy sóng có sinh có diệt : Đây là điểm sinh của đợt sóng, đây là điểm diệt của đợt sóng ; và đây là điểm sinh của đợt sóng khác, và đây là điểm diệt của đợt sóng khác. Các pháp được ví dụ là sóng, và hễ là sóng thì có lên có xuống, có cao có thấp, có sinh só diệt. Đó là đứng về phương diện hiện tượng (tích môn) mà nói. Còn đứng về phương diện bản thể (bản môn), thì tuy sóng là sinh diệt nhưng sóng đồng thời cũng là nước. Và khi sóng biết mình là nước rồi thì nó không còn sợ sinh diệt nữa, tại vì nước thì không sinh không diệt, không cao không thấp, không lên không xuống. Đối với sóng lúc bấy giờ thì sinh cũng vui mà diệt cũng vui.
Vậy ta phải thực tập làm sao để đạt tới Niết Bàn, đạt tới Bản Môn?
Sóng là thuộc về thế giới của hiện tượng (Tích Môn). Nước là thuộc về thế giới của bản thể (Bản Môn). Bản thể là self nature, là cái entité ontologic. Sóng với nước không phải là hai cái khác nhau. Sóng là nước, và nước là sóng. Cho nên sóng cũng là nước đứng về phương diện hiện tượng. Còn nước cũng là sóng đứng về phương diện Bản Thể. Đứng về phương diện hiện tượng (sóng), thì ta thấy có sinh có diệt, có có có không, có còn có mất. Khi mà đứng về phương diện bản thể (nước) thì không có lên có xuống, có sinh có diệt nữa. Sự vắng mặt của sinh diệt đó là Tịch Diệt, là Niết Bàn. Vì vậy Niết Bàn là hạnh phúc, và hạnh phúc này thật.
Sinh Diệt diệt dĩ, tịch diệt vi Lạc, một khi mà không còn sinh diệt nữa thì sự vắng lặng đó, Niết Bàn đó được gọi là hạnh phúc. Nhưng sóng có cần phải hết là sóng thì mới là nước không ? Không, sóng vẫn là sóng như thường, trong khi là sóng thì nó vẫn là nước. Và cái hạnh phúc có liền trong giây phút này, tức là trong khi đang còn là sóng thì nó cũng là nước rồi, vì nó tiếp xúc được với bản thể của nó là nước thì nó có hạnh phúc thôi. Cho nên một trong những đặc tính của Niết Bàn là hạnh phúc, điều này không phải là của Đại Thừa riêng mà của Đạo Bụt Nguyên Thỉ nữa. Trong rất nhiều kinh, đức Thế Tôn đã nói Niết Bàn là hạnh phúc. Như vậy hạnh phúc là có thật, và nó có thật ngay bây giờ, không phải đợi tới sau này. Kinh Pháp Hoa nói rằng, các pháp từ xưa đến nay đang an trú trong tự tánh Niết Bàn của nó (chư pháp tùng bản lai, thường trụ tịch diệt tướng), tức là cái bàn này tuy là vô thường, vô ngã nhưng nó cũng là Niết Bàn trong giây phút này. Vô thường, vô ngã và cặp đối lập của nó là thường, ngã, chỉ là những cấu tạo của tâm thức mà thôi. Cái bàn này không là thường mà kỳ thực cũng không vô thường, cái bàn này không phải là ngã mà kỳ thực cũng không phải là vô ngã. Vô thường và vô ngã được dùng để đối trị với ý niệm về thường và về ngã. Và Niết Bàn là sự vắng mặt của tất cả mọi ý niệm, trong đó có ý niệm về thường và vô thường, ngã và vô ngã. Vô thường và vô ngã là thuốc để trị bệnh thường và ngã. Một khi trị bệnh rồi thì thuốc đâu cần sài nữa, bệnh đã mất rồi mà thuốc cũng vất luôn. Do đó ý niệm thường là cái bệnh, thì thuốc trị là vô thường ; ý niệm ngã là cái bệnh thì thuốc trị là vô ngã. Tại vì có bệnh nên có thuốc, nếu không có bệnh thì cần gì thuốc. Vì vậy Niết Bàn không phải là vô thường, Niết Bàn không phải là vô ngã, Niết Bàn là không thường cũng không vô thường, Niết Bàn là không ngã cũng không vô ngã.
Khi người ta cho rằng sự vật là thường, sự vật là ngã, thì cái đó gọi là tà kiến. Tà kiến là vọng tưởng điên đảo. Vọng tưởng nghĩa là tri giác sai lầm. Điên đảo nghĩa là chổng ngược lại. Sự vật là vô thường mà cho là thường, sự vật là vô ngã mà cho là ngã, đó là những cái thấy chổng ngược lại, gọi là tà kiến, gọi là điên đảo (upside down). Trong Tâm Kinh có câu là 'viễn ly điên đảo mộng tưởng rồi mới cứu cánh Niết Bàn'. Tà kiến, dịch theo tiếng Anh là perverted view, wrong view.
Theo kinh Tam Pháp Ấn của Đạo Bụt Nam Truyền thì có bốn tà kiến: Thường, Ngã, Lạc, và Tịnh. Sự vật vô thường thì cho là thường, đó là tà kiến; sự vật vô ngã thì cho là có ngã, đó là tà kiến; sự vật là không có hạnh phúc thì cho là có hạnh phúc, đó là tà kiến; và sự vật là bất tịnh, nhơ nhớp mà cho là thanh tịnh, đó là tà kiến. Cái gì không có trong sạch, không có thanh tịnh, không có đẹp, mà nghĩ là nó thanh tịnh, nó trong sạch, nó đẹp thì gọi là tà kiến. Khi một số các thầy dạy về Tứ Niệm Xứ thì các thầy ghép bốn đặc tính vô thường, vô ngã, khổ và bất tịnh, coi đó là cái nhìn về thực tại. Và vì vậy khi nói về Tứ Niệm Xứ thì các thầy nói rằng: Thân là bất tịnh, thọ là khổ, tâm là vô thường, pháp là vô ngã. Khi tôi còn là chú tiểu thì phải học thuộc những câu: Thân bất tịnh , thọ thị khổ, tâm vô thường, pháp vô ngã. Học như là giáo điều vậy, học như là nhồi sọ vậy. Thân, Thọ, Tâm và Pháp là bốn đối tượng của sự quán chiếu, gọi là Tứ Niệm Xứ, Four Foundations of Mindfulness. Các thầy mới ghép bốn đặc tính của hiện hữu vào trong bốn lãnh vực quán niệm: Thân bất tịnh, thọ thị khổ, tâm vô thường, pháp vô ngã. Có cái gì sai ở trong mà ta phải tìm ra cho được. Nó sai ở chỗ là: tâm vô thường nhưng tâm cũng vô ngã, pháp vô ngã nhưng pháp cũng vô thường. Tại sao lại nói pháp chỉ có vô ngã không thôi ? Tại sao chỉ có thân mới bất tịnh thôi ? Tại sao chỉ có thọ mới là khổ thôi ? Chúng ta biết là thọ có tới ba loại: lạc thọ, khổ thọ và xã thọ. Thành ra, khi nói 'thân bất tịnh, thọ thị khổ, tâm vô thường, pháp vô ngã' là có hơi gượng ép, hơi có tính cách giáo điều, hơi có tính cách nhồi sọ, không đi đúng với tinh thần truyền thống của đạo Bụt. Có cái gì sai ở trong ! Hồi còn nhỏ, tôi học thuộc lòng câu 'thân bất tịnh, thọ thị khổ, tâm vô thường, pháp vô ngã', học như là con vẹt vậy.
Theo cái nhìn của Đạo Bụt Nam Truyền thì thường, lạc, ngã, tịnh là bốn tà kiến. Vì nhìn cho kỹ có cái gì là thường đâu, nhìn cho kỹ có cái gì là ngã đâu, nhìn cho kỹ có cái gì là lạc đâu. Trong khi đó, Đạo Bụt Đại Thừa đã đi đến định nghĩa bốn đặc tính của Niết Bàn lại là Thường, Lạc, Ngã và Tịnh (theo kinh Đại Niết Bàn). Điều này làm sao hiểu được nếu ta không phân biệt được Tích Môn và Bản Môn. Đứng về phương diện tích môn, đứng về phương diện sóng thì có sanh có diệt, có thường, có ngã; đứng về phương diện bản môn, tức là nước, thì không còn có sanh có diệt, không còn có thường có ngã nữa. Nếu hiểu được Thường, Lạc, Ngã, Tịnh theo cái nghĩa siêu việt của nó, siêu việt vô thường, siêu việt vô ngã, thì mới có thể hiểu được đó là bốn đặc tính của Niết Bàn. Niết Bàn là gì ? Niết Bàn là sự vượt thoát không những ý niệm về thường mà vượt thoát ý niệm về vô thường, vượt thoát ý niệm ngã và vô ngã, vượt thoát ý niệm lạc và khổ, vượt thoát ý niệm tịnh và bất tịnh. Tất cả mọi ý niệm đều có thể gây ra khổ đau. Niết Bàn, trước hết, có nghĩa là sự vắng lặng, sự tắt ngấm. Sự vắng lặng đây là sự vắng lặng của những ý niệm. Không những có sự vắng lặng của ý niệm thường mà cũng có sự vắng lặng của ý niệm vô thường, vì thường và vô thường là một cặp. Cặp thứ hai là sinh và diệt, và Niết Bàn là sự vắng mặt của cả sinh và diệt. Sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi Lạc, khi ý niệm về sinh và diệt vắng mặt rồi, thì sự vắng mặt đó, sự tắt ngấm đó, sự vắng lặng đó, được gọi là hạnh phúc. Cái Lạc này không phải là cái lạc nằm trong cặp đối nghịch của lạc và khổ. Bây giờ mình lấy một cái ví dụ để cho dễ hiểu : Có hai con gà sắp bị đi làm thịt. Người ta ra chợ mua hai con gà để làm giỗ, và trong hai giờ đồng hồ nữa hai con gà này sẽ bị chọc tiết. Người ta đem cái lồng gà về, đem hạt bắp và hạt lúa để cho chúng ăn trước khi chết. Hai con gà đánh nhau, mổ nhau nói rằng: 'Hột bắp ngon hơn hay là hột lúa ngon hơn ?' Chúng nó tranh nhau cái gì là ngon, cái gì là dở, cái gì là hạnh phúc, cái gì là không hạnh phúc. Chúng không biết rằng ăn hột bắp hay ăn hột lúa đều là khổ. Ăn bắp cũng khổ, ăn lúa cũng khổ, tại vì cái sự thật là chúng sẽ bị giết trong vòng hai giờ đồng hồ nữa. Chỉ có một việc là tháo cái lồng ra cho chúng chạy thoát, khỏi phải bị làm thịt, mới thật là hạnh phúc. Thành ra cái lạc đích thật của chúng không phải trong chỗ hột bắp ngon hay là hột lúa ngon, mà ở chỗ được tháo củi sổ lồng bay đi và không bị giết. Vì vậy cái lạc mà hai con gà tranh chấp nhau không phải là cái Lạc của Niết Bàn là vậy.
Cái Lạc của Niết Bàn không nằm trong vòng tranh chấp của khổ lạc tầm thường. Ví dụ: trúng số độc đắc là lạc, nghèo kiết xác mồng tơi là khổ. Cái lạc, khổ đó nằm trong vòng tương đối, quanh quẩn trong tà kiến: có tiền nhiều là hạnh phúc, không có tiền nhiều là đau khổ. Một người đã được giải thoát, đã thấy hạnh phúc nằm ở chỗ hiểu biết và thương yêu thì thấy người kia rất là tội nghiệp. Người kia có quan niệm về hạnh phúc và khổ đau của họ căn cứ trên tiền tài, còn mình có quan niệm về hạnh phúc lớn hơn, đó là khi nào mà có hiểu và có thương là mình có hạnh phúc. Hạnh phúc của Niết Bàn không phải là hạnh phúc được diễn tả trong sinh tử, trong Tích Môn. Quý vị thấy được điều này thì mình mới đi tiếp được. Có thấy được điều này không? Cái Lạc của Niết Bàn không phải là cái lạc của sinh tử. Cái lạc của sinh tử thì đối chiếu với cái khổ của sinh tử. Cái Lạc của Niết Bàn vượt thoát cái lạc và cái khổ của sinh tử. Cũng như cái tự do của hai con gà mới thật sự là Lạc, còn hai con gà tranh chấp ăn cái này là ngon, ăn cái kia là không ngon, là thuộc về cái lạc khổ của sinh tử. Chúng ta mất thì giờ tranh đấu với nhau, ghanh ghét nhau, đánh lộn nhau, giết nhau là tại chúng ta đi tìm cái lạc tránh cái khổ của tương đối mà không biết rằng cái hạnh phúc thật sự nằm ở chỗ khác.
Giữa cái lạc/khổ của thế gian và cái Lạc của Niết Bàn có sự liên hệ gì ? Quan điểm về hạnh phúc của thế gian là khi mình có được đối tượng của năm dục thì mình mới có hạnh phúc, tức là phải có tiền, phải có tài (tiền tài). Có tiền nhiều thì hạnh phúc, có danh nhiều thì hạnh phúc, có quyền lực nhiều thì hạnh phúc. Có tiền tài, danh vọng, quyền lực, sắc dục là có hạnh phúc. Phần lớn chúng ta đều nghĩ như vậy, và chúng ta đã đi tìm hạnh phúc ở cái hướng đó. Có tiền thì có thể mua sắm được. Có nhiều người nói mua được cái ti vi lớn đó, cái xe hơi đó, thì là hạnh phúc. Bây giờ mình chưa có cái ti vi đó, chưa có cái xe hơi đó, và mình nghĩ rằng: mua được cái xe hơi đó, mua được cái ti vi đó là mình có hạnh phúc. Mình tiên đoán hạnh phúc sẽ có được khi mình mua được chiếc xe đó, mua được cái ti vi đó. Đứng về phương diện danh vọng, mình nghĩ là nếu mình được bầu làm Tổng Thống, bầu làm Dân Biểu Quốc Hội, hay mình giật được cái bằng cấp tiến sĩ..., thì lúc đó mình mới có hạnh phúc, còn bây giờ mình chưa có hạnh phúc. Hạnh phúc là khi nào mình giật được mảnh bằng đó, mình được bầu vào chức vụ đó, thì mình có hạnh phúc. Chúng ta đang đứng ở chỗ không có hạnh phúc, và tiên đoán rằng sẽ có hạnh phúc khi mà chúng ta được cái đó. Trước hết là chuyện mua sắm, thứ hai là chuyện danh vọng. Nếu chúng ta quán chiếu và nghiên cứu để kiểm chứng lại sự thật đó, thì chúng ta thấy rằng : một tuần hay hai tuần sau khi mua xe hơi, thì cái hạnh phúc đó không còn nữa. Một năm hay sáu tháng sau khi có chức vụ đó, hay là có bằng cấp đó, thì ta không còn cảm thấy hạnh phúc nữa. Những người nào đã đậu bằng tiến sĩ, nên nghĩ lại là trước khi mình có cái bằng tiến sĩ đó, mình ước ao nó như thế nào : 'Nếu mình không có bằng tiến sĩ chắc là mình chết quá, mình sẽ không có hạnh phúc.' Nhưng khi có cái bằng đó rồi, thì tự hỏi mình hạnh phúc được mấy ngày, được mấy tuần hay mấy tháng ? Sự thật là mình chỉ sử dụng cái điều kiện hạnh phúc đó trong một thời gian rất là ngắn, sau đó sự kiện đó nó lờn và không đủ sức làm cho mình có hạnh phúc nữa. Có hạnh phúc thiệt đó, nhưng trong một thời gian ngắn thôi. Cấu trúc của cơ thể và của tâm lý có công năng biến những cái đó ra bình thường, không còn có tính cách kích động nữa. Cho nên cái điều kiện ban đầu mình cho là hạnh phúc, khi mình đạt được rồi, thì chỉ trong một thời gian ngắn nó sẽ lờn đi, nó không còn có cái hấp dẫn lực nữa và không còn cho mình hạnh phúc nữa. Ví dụ khi mình chưa xuất gia, mình nghĩ được xuất gia mới là hạnh phúc. Khi được cạo đầu rồi, được mặc áo nhật bình vô rồi, mới thật là hạnh phúc, chứ bây giờ mình chưa có hạnh phúc. Nhưng xuất gia xong thì hạnh phúc được kéo dài tới mấy tháng hay mấy năm, rồi sau đó mình thấy không còn hạnh phúc nữa. Tại vì điều kiện mình cho là căn bản có hạnh phúc đó, mình làm lờn đi. Thân và tâm của mình có tác dụng làm cho lờn đi. Sau đó khi thấy không có hạnh phúc nữa thì mình lại đi tìm cái điều kiện hạnh phúc khác nữa. Cứ như vậy mà đi tìm hết cái này đến cái khác. Tâm ta rong ruổi chạy theo đối tượng của năm dục mà không bao giờ nhàm chán, đó là kinh Bát Đại Nhân Giác (kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân). Được cái này rồi thì thấy cái này cũng chưa được thỏa mãn, và chạy theo cái khác. Tâm mình cứ tiên đoán thời tiết : nếu mà có được thêm cái đó là có hạnh phúc ; cứ như vậy mà mình chạy về tương lai. Trong khi đó những điều kiện hạnh phúc nhiều khi có đủ rồi hoặc là quá đủ, mà mình không có thừa hưởng được. Cũng như một người có đôi mắt đang sáng, tự nhiên mù không thấy gì được nữa, thì rất là đau khổ. Và nghĩ rằng nếu người ta mổ cho mắt mình sáng lại thì mình hạnh phúc biết bao. Cái điều đó đúng, sau khi giải phẩu, mắt thấy lại thì hạnh phúc thật, nhưng hạnh phúc vài ba tháng rồi mình lại quên và mình coi hai con mắt sáng của mình không còn quan trọng nữa. Chúng sanh rất dại dột. Những điều hạnh phúc đang có thì không biết thừa hưởng, cứ ngồi đó mà tiên đoán, mà ước mơ là nếu giả dụ mình có cái này, mình có kia thì mình có hạnh phúc. Các vị chưa làm giáo thọ thì nói : 'Trời ơi, mình mà làm giáo thọ thì oai lắm, lúc đó mình mới có hạnh phúc.' Nhưng làm giáo thọ rồi thì có hạnh phúc gì đâu, đôi khi còn mệt hơn nữa. Cái tiên đoán đó thường thường là không đúng, trước hết là tầm quan trọng của nó, thứ hai là thời gian của nó. Mình nghĩ rằng có cái ti vi đó mình sống hạnh phúc suốt đời, năm này qua năm khác. Nhưng mua ti vi về được hai tuần, mình bắt đầu lờn, mình thấy không có hạnh phúc gì mấy. Mình tưởng là có cái bằng cấp đó rồi thì mình sẽ hạnh phúc suốt đời, ai dè cái bằng cấp đó chỉ hấp dẫn mình sáu tháng hay một năm rồi mình thấy cái chuyện có bằng cấp cũng không có gì đặc biệt, thành ra mình không có hạnh phúc nữa, và mình bắt đầu đi tìm cái khác. Đó là cái sự thật về quan niệm hạnh phúc của mình.
Không những hạnh phúc như vậy mà khổ đau cũng như vậy. Giả tưởng là một ngày nào đó mình bị tai nạn xe hơi, mình sẽ đi giải phẩu và bị cụt một chân. Bây giờ chưa có tai nạn đó, nhưng mình nghĩ nếu cái tai nạn đó xảy ra cho mình thì chắc là mình chết quá. Mình mà cụt chân thì đâu còn gì là cuộc đời nữa. Hoặc là trong gia đình có một người thân chết đi thì làm sao mình sống nỗi. Thành ra mình tiên đoán thời tiết, nếu cái đó xảy ra cho mình, mình không sống nỗi. Sự thật là người ta sống được hết, tại vì thân và tâm của mình có khả năng thích ứng với hoàn cảnh. Cho dù cụt một chân mình vẫn sống được, vẫn có thể có được niềm vui. Dầu người mình thương nhất ở trong gia đình mất đi, mình đau khổ, nhưng thân và tâm mình học thích ứng được với hoàn cảnh, mình vẫn có thể sống được, la vie continue, sự sống vẫn tiếp tục được như thường. Mình phải trông thấy được điều đó. Thân và tâm của mình làm cho bình thường hóa, làm cho những cái excitement dịu xuống, làm cho những khổ đau dịu xuống.
Trong đạo Bụt có nói tới hỷ và lạc. Hỷ chưa phải là Lạc. Hỷ tức là niềm vui sắp được cái đó. Cũng như một người đi trong sa mạc, sắp chết khát rồi mà thấy được một cái hồ nước, thì tuy là chưa có uống nước nhưng mà đã có hỷ rồi, đã có niềm vui rồi. Trong hỷ có cái thao thức, có cái bồn chồn (exciting). Khi mình quỳ xuống bên bờ hồ vóc nước lên uống, lúc đó lạc phát sinh. Giữa hỷ và lạc có sự khác nhau. Trong lạc không còn cái thao thức, bồn chồn của lúc ban đầu. Đối với khổ đau cũng vậy. Mình chưa bị tai nạn, mình chưa mất người thương, mình chưa bị mù, nhưng nghĩ rằng mình có tai nạn, mình bị mù, mình mất người thương, thì mình sống không nỗi, mình đã bắt đầu khổ rồi, tuy là cái khổ chưa tới. Khi cái khổ tới rồi, thì thân và tâm mình sẽ vận động, sẽ hành động, và có thể thích ứng được. Đó là sự thật có thể kiểm chứng bằng những cuộc thí nghiệm, rất là khoa học.
Bây giờ áp dụng lại, quý vị có thể làm thử một bài tập là : Những cái gì mình nghĩ là rất thiết yếu cho cái hạnh phúc mà mình chưa đạt được, thì quý vị hãy gọi tên nó ra và viết xuống một tấm giấy. Mỗi người đều có quyền có ba lời ước : 'Nếu mà tôi được cái này..., tôi được cái kia..., cái nọ..., là tôi có hạnh phúc.' Viết xuống ba lời ước đó rồi quán chiếu coi thử. Đó là cái giây phút bây giờ mình có ba lời ước. Ai trong chúng ta mà không có ba lời ước. Và chúng ta hãy nhảy lui năm năm về trước. Chúng ta nhìn lại năm năm về trước, ba lời ước đó là ba lời ước nào, đã có lời ước nào đã được thực hiện chưa, nếu thực hiện rồi tại sao ta không có hạnh phúc ? Quý vị làm thử đi rồi sẽ thấy cái chân lý, cái sự thật bởi chính mình chứ không phải do một người nào khác trao truyền lại. Trong giây phút hiện tại, chúng ta có một ý niệm về hạnh phúc. Chúng ta nghĩ rằng nếu chúng ta có điều kiện này, thì hạnh phúc sẽ lớn lắm, đó là giây phút hiện tại. Rồi chúng ta đi về quá khứ, năm năm về trước hoặc mười năm về trước, chúng ta có những ước vọng gì, và những ước vọng đó đã thành tựu chưa. Một trong ba cái đã thành tựu chưa ? Giả dụ đã thành tựu rồi mình đang có hạnh phúc không, hay là cũng vậy thôi. Tiên đoán thời tiết là nếu ta có cái đó thì ta sẽ có hạnh phúc. Có vị nói : 'Chà được qua bên Pháp, ở Làng Mai chắc là hạnh phúc lớn lắm.' Ngày đêm trông ngóng, ngủ không được, ăn không được, làm sao có được chiếu kháng, hộ chiếu, lên được trên máy bay ngồi thao thức. Nhưng khi qua bên Làng Mai thì khóc quá chừng. Cái tiên đoán thời tiết đó trật lất. Cái đó gọi là forcasting. Forcasting errors là những cái lầm lỗi trong khi tiên đoán thời tiết. Chúng ta thấy trong quá khứ có nhiều khi ông weatherman tiên đoán thời tiết trật lất hết. Chúng ta cũng vậy. Chúng ta tiên đoán hạnh phúc rất là trật, và chúng ta người nào cũng vấp phải. Hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc ở chỗ chúng ta có đang làm chuyện đó không ? Chúng ta đang có tiên đoán thời tiết hay không ? Chúng ta nghĩ rằng hạnh phúc chỉ có được trong tương lai khi mà những điều kiện đó được thực hiện, đó là cái bẫy của tất cả chúng ta. Câu hỏi đúng cần được đặt ra là: Nếu chúng ta không biết được cái gì làm cho chúng ta có hạnh phúc trong giây phút hiện tại, thì làm sao ta biết được những cái gì làm cho ta hạnh phúc trong tương lai ? Phải hỏi câu hỏi đó. Thành ra, mỗi chúng ta sẽ đặt câu hỏi trong giây phút hiện tại này, cái gì sẽ làm cho ta hạnh phúc. Đó là câu hỏi rất là thiết yếu. Mà cái gì đó có thể có thật hay không ? Có được liền hay không ? Nếu chúng ta không nhận diện được điều kiện có thể làm cho ta có hạnh phúc trong giây phút hiện tại, thì làm sao ta có thể tiên đoán được cái mà làm cho ta có hạnh phúc trong tương lai. Sự thật là trong hiện tại, mình không biết cái gì có thể làm cho mình có hạnh phúc được, nhưng mình phải biết cái gì đem lại hạnh phúc thật cho mình. Nếu biết được rồi thì có hạnh phúc liền lập tức. Hạnh phúc không phải là cái gì trong tương lai, hạnh phúc không phải là con đường, hạnh phúc không phải là cái gì có ở cuối đường nữa, mà hạnh phúc nằm ngay trên mỗi bước chân trên con đường. Ví dụ sư cô Minh Hương tự hỏi, trong giây phút hiện tại cái gì làm cho mình có hạnh phút ? Mình có thể thí nghiệm liền lập tức : Mì gói hay là có sư chị ngồi một bên. Những điều kiện đó mình cứ thử đi. Đó là sự thực tập. Chúng ta có thể tìm hiểu và thấy một cách rõ ràng. Nếu biết được cái gì có thể làm cho mình hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại, thì mình có hạnh phúc liền. Không cần ngồi đó mà đau khổ, mà tiên đoán thời tiết là sau này ta sẽ có hạnh phúc nếu ta có cái này, cái kia. Cái Lạc này không phải là vấn đề tương lai, nó là vấn đề hiện tại.
Chúng ta mới nói tới vấn đề tiền tài, mua sắm, danh vọng, bằng cấp, địa vị, chúng ta chưa nói tới quyền lực. Có quyền thì có hạnh phúc. Mình ra lệnh thì người ta theo, mà mình không cần phải theo lệnh của ai hết. Đó là một cái hạnh phúc. 'Có quyền ra lệnh, có quyền làm cái này cái kia, hạnh phúc rất là lớn', mình nghĩ như vậy. Mình nghĩ đến tổng thống Bush, ông có quyền rất là lớn, tại vì ông làm tổng thống một nước rất là lớn. Mình có thể tưởng tượng ông tổng thống Bush ăn không ngon, ngủ không yên: cái đầu nằm ở Irac, cái đầu nằm ở Liên Hiệp Quốc, cái đầu nằm ở nước Pháp. Quyền lực rất là lớn, nhưng mà đau khổ cũng rất là lớn. Mình có thể thấy được những âu lo, ưu tư, những dằn vặt của ông tổng thống đó. Trong khi đó, bao nhiêu người thanh niên Mỹ đều ôm ấp là làm sao, sau này mình được làm tổng thống Mỹ. Người con trai Mỹ nào cũng ôm ấp cái ước vọng đó. Và cái tiên đoán thời tiết đó rất là trật. Còn chuyện sắc dục cũng vậy. Nếu được ngủ với anh chàng đó, nếu được ngủ với cô nàng đó, chắc là hạnh phúc lắm. Nhưng mà đi tới đó rồi sẽ biết. Tất cả những việc làm của chúng sanh là ngồi đó mà tiên đoán, mà ước mơ những điều kiện. Thường thường những tiên đoán đều trật, không trật hoàn toàn nhưng có thể trật hai phần ba, hoặc là hơn hai phần ba.
Mỗi khi mình có điều kiện hạnh phúc đó rồi, ví dụ như là một cái danh vọng, một cái bằng cấp, một cái địa vị, hay là một số tiền lớn, mình vẫn tiếp tục đau khổ như thường. Những cái đó ban đầu cho mình những cái 'exiting', nhưng sau đó thân và tâm mình chấp nhận và biến nó thành ra bình thường, và nó hết trở thành một điều kiện của hạnh phúc. Đó là sự thật. Trong đời của một con người, dầu mới có hai mươi mấy tuổi, mình cũng đã thấy điều đó đã xảy ra trong quá khứ của đời mình rồi, mình cần phải học từ những cái đó.
Source : LANG MAI
20/11/11
Cirlot, Juan Eduardo Tính biểu tượng của màu sắc
Cirlot, Juan Eduardo Tính biểu tượng của màu sắc
Đoàn Khương Duy dịch từ bản tiếng Anh.
Nguyễn Tiến Văn hiệu đính.
JUAN EDUARDO CIRLOT
(1916-1973)
Juan Eduardo Cirlot, người Tây-ban-nha, là một thi sĩ, nhà phê bình mỹ thuật, nhà thần thoại học, nhạc sĩ, và dịch giả. Đầu những năm 1940, cùng với Alfonso Buñuel, ông đã dịch thơ của Paul Éluard, André Breton, và Antonin Artaud. Ông bắt đầu viết phê bình mỹ thuật từ năm 1943; in tập thơ đầu tay từ năm 1946; ra mắt tác phẩm âm nhạc đầu tay từ năm 1948; xuất bản cuốn Igor Stravinsky (về âm nhạc của Stravinsky) và cuốn Diccionario de los ismos [“Từ điển về các chủ nghĩa”] năm 1949. Sau đó, ông bước vào lĩnh vực nghiên cứu biểu tượng học và mỹ thuật thời Gothic, xuất bản cuốn El Ojo en la Mitología: su simbolismo [“Con mắt trong thần thoại học: Tính biểu tượng của nó”] năm 1954.
Cirlot mất năm 1973 vì bệnh ung thư tụy tạng. Những tác phẩm của ông đã xuất bản gồm có 10 tập thơ và 13 cuốn sách nghiên cứu, trong đó cuốn Diccionario de símbolos tradicionales (“Từ điển về những biểu tượng truyền thống”, 1958) [bản Anh ngữ, A Dictionary of Symbols (1962)] là tác phẩm nổi tiếng nhất của ông.
Dưới đây, chúng tôi hân hạnh giới thiệu đến độc giả Tiền Vệ một bài viết thú vị của Juan Eduardo Cirlot do Đoàn Khương Duy trích dịch từ cuốn A Dictionary of Symbols.
Tiền Vệ
___________
TÍNH BIỂU TƯỢNG CỦA MÀU SẮC
Biểu tượng về màu sắc là một trong những loại biểu tượng mang tính phổ quát nhất, và được dùng một cách ý thức trong những nghi thức tế lễ, trong các huy hiệu, luyện đan, nghệ thuật và văn chương. Có nhiều sự suy xét liên hệ đến mặt ý nghĩa của màu sắc mà ta có thể nói qua một chút. Có sự phân chia một cách chung chung về măt quang học và về tâm lí học thực nghiệm. Nhóm đầu tiên gồm những màu “tăng tiến” (advancing) và có tính ấm, tương ứng với những cách thức đồng hóa, tính hoạt động và cường độ của màu sắc (gồm các màu đỏ, cam vàng và rộng hơn nữa là màu trắng), và nhóm thứ hai mang tính lạnh, là những màu “lùi” (retreating), tương ứng với những quá trình tách biệt, tính thụ động và quá trình làm suy yếu (gồm các màu xanh dương, chàm, tím và rộng hơn nữa là màu đen), màu xanh lá cây là màu trung gian, chuyển tiếp và trải đều cho cả hai nhóm. Màu sắc có cách dùng phụ khác trong việc đưa vào những mẫu hình vẽ trên huy hiệu. Thứ tự từng dãy của khoảng phạm vi màu sắc chính là điều cơ bản, được tạo thành khi dãy màu sắc (mặc dù trong một cái nghĩa có phần trừu tượng) làm thành một loại tập hợp hữu hạn của các màu sắc hoàn chỉnh, khác biệt nhau và có trật tự. Mối quan hệ dạng thức giữa, một mặt là, một chuỗi sáu hay bảy sắc thái của màu sắc — vì thỉnh thoảng cũng khó mà phân biệt màu xanh với màu chàm, hoặc màu xanh da trời với màu xanh biển — và, ở mặt khác, một chuỗi nguyên âm — có bảy nguyên âm trong tiếng Hi-lạp — cũng như các nốt nhạc trong khung nhạc, mối quan hệ này chỉ ra một sự giống nhau cơ bản giữa ba dãy này với nhau và cũng là giữa chúng với sự phân chia của tầng trời, theo tư tưởng sinh vật học thiên văn cổ đại, thành bảy phần (mặc dù thực tế thỉnh thoảng người ta chia thành chín phần).
Biểu tượng học về màu sắc thường xuất phát từ một trong các nguồn sau: (1) đặc tính vốn có của từng màu sắc, được nhận biết theo trực giác như là một thực tế khách quan; (2) mối liên hệ giữa màu sắc và biểu tượng hành tinh được kết nối với màu sắc theo cách truyền thống; hoặc (3) mối liên hệ mà luận lí học cơ bản, sơ khai nhận biết được. Tâm lí học và phân tâm học hiện đại dường như đặt nặng vấn đề thứ ba trong số những cách thức này hơn cả vấn đề đầu tiên (cách thức thứ nhì hoạt động với vai trò cây cầu bắt ngang giữa hai vấn đề còn lại). Do vậy, Jolan de Jacobi, trong quá trình nghiên cứu của bà ta về tâm lí học Jung, đã phát biểu chính xác từng chữ thế này: ‘Sự tương ứng của các màu sắc đối với các chức năng theo thứ tự thì biến đổi theo những nền văn hoá và những nhóm người khác nhau và thậm chí trong số những cá nhân; như là một quy tắc chung, tuy nhiên,...màu xanh, màu của bầu không khí loãng, của bầu trời trong vắt, thì đại diện cho quá trình suy tư; màu vàng, màu của mặt trời nhìn từ đằng xa, xuất hiện mang ánh sáng ra khỏi vùng bóng đêm bí hiểm, chỉ biến mất trở lại vào bóng đêm, màu vàng này là trực giác, cái chức năng có thể nắm được trong một khoảnh khắc loé sáng cho sự thông hiểu nguồn gốc và các xu hướng của những sự kiện bất thường; màu đỏ, màu của mạch máu di chuyển và của ngọn lửa, là cho những cảm xúc dâng trào và dữ dội; trong khi đó màu xanh lá cây, màu của những vật sinh trưởng trên trái đất, hữu hình và cảm quan được tức thì, đại diện cho chức năng của cảm giác’.[1]
Cái quan trọng nhất của các biểu tượng xuất phát từ những quy luật đi trước là những điều này: màu đỏ liên hệ với máu, các vết thương, sự giãy chết, và sự thăng hoa; màu cam liên hệ với ánh lửa và ngọn lửa; màu vàng là với ánh sáng mặt trời, là của sự soi sáng, của phổ biến tri thức và của sự tổng quát hoá toàn diện; màu xanh lá cây là với cây cỏ, nhưng cũng có thể được liên hệ với cái chết và sự giận dữ tột cùng (do vậy màu xanh là đường liên kết giữa màu đen — của khoáng vật — và đỏ — của máu và động vật — cũng như giữa đời sống động vật với sự tan rã và cái chết); màu xanh nhạt liên hệ với bầu trời vào buổi ban ngày, và cũng liên hệ với mặt biển hiền hoà; màu xanh đen liên hệ với bầu trời buổi đêm, với mặt biển bão tố; màu nâu và màu hoàng thổ liên hệ với đất; và màu đen thì liên hệ với vùng đất được gieo hạt. Vàng tương ứng với khía cạnh huyền bí của mặt trời; bạc là với mặt trăng. Những kết luận khác nhau được rút ra từ những nhà tâm lí học và từ những nhà tư tưởng truyền thống, bí truyền, mấy kết luận này đã rõ ràng trong những phần tóm gọn ở trên có thể được giải thích bằng một thực tế rằng trong quan điểm của các nhà tâm lí học, những cảm giác biểu tượng được hình thành trong tâm trí có thể chỉ là tình cờ, còn theo như lí thuyết bí truyền, ba cái chuỗi (của sắc thái màu sắc, của các nguyên tố thành phần và vẻ ngoài tự nhiên, và của cảm giác hoặc phản ứng) là kết quả của một nguyên do đơn lẻ và đồng thời, hoạt động ở những tầng lớp sâu thẳm nhất của thực tại. Vì lí do này mà Ély Star và những người khác khẳng định rằng bảy màu sắc có mối tương tự nhau một cách biệt lập với bảy trạng thái tâm hồn, với bảy đức tính (từ quan điểm tích cực), với bảy thói xấu (từ quan điểm tiêu cực), với những dạng hình học, những ngày trong tuần và bảy hành tinh.[2] Thật sự điều này là một khái niệm có liên hệ với ‘lí thuyết tương ứng” hơn là với biểu tượng học của màu sắc phù hợp. Nhiều người nguyên thuỷ theo trực giác đã cảm nhận được các liên kết gần gũi tồn tại giữa toàn bộ các khía cạnh khác nhau của thế giới thực: ví dụ như người da đỏ Zuni ở miền Tây Hoa-kì cống nạp hàng năm cho các thầy tư tế của họ bằng “bắp bảy màu”, mỗi màu ứng với một vị thần hành tinh. Mặc dù vậy, thật đáng để ghi nhớ trong tâm trí những cái thiết yếu nhất của những sự tương ứng này. Ví dụ: lửa được tượng trưng bởi màu đỏ và cam; không khí bởi màu vàng; cả hai màu xanh lá cây và tím đều tượng trưng cho nước; và màu đen hay màu hoàng thổ tượng trưng cho đất. Thời gian thường được biểu tượng bằng sự óng ánh của tơ lụa. Về những sắc thái khác nhau của màu xanh, trải dài từ màu gần đen cho đến màu thanh ngọc sáng trong, thì có nhiều sự phỏng đoán. Những nhận xét hợp lí nhất theo ý kiến chúng tôi là những nhận xét sau: ‘Màu xanh, biểu tượng cho đường thẳng dọc’ — và về trạng thái không gian hoặc tính biểu tượng học của các tầng lớp — ‘mang ý nghĩa về độ cao và độ sâu (trời xanh bên trên, biển xanh phía dưới)’.[3] ‘Màu sắc mang biểu tượng về một thế lực có xu hướng bứt lên trên ở trong cái khuôn mẫu của bóng tối (hoặc là của u ám và cái ác) và của ánh sáng (hoặc của sự soi sáng, vinh quang và cái thiện). Do vậy, màu xanh đen được xếp chung nhóm với màu đen, và màu xanh da trời, giống như màu vàng trong trẻo, được xếp cặp cùng với màu trắng’.[4] ‘Màu xanh là bóng tối được làm cho hữu hình ra.’ Màu xanh, giữa trắng và đen (là ngày và đêm) chỉ ra tình trạng cân bằng ‘biến đổi theo sắc thái’.[5]
Có niềm tin rằng những màu sắc có thể được phân thành nhóm theo những vấn đề thiết yếu cơ bản của chúng, và trong nội tại của xu hướng toàn cục để đặt những hiện tượng vào những nhóm đối nghịch nhau, tuỳ theo màu sắc đó mang giá trị dương (liên hệ với ánh sáng) hoặc âm (liên hệ với bóng tối), niềm tin đó được lặp đi lặp lại thậm chí trong lĩnh vực mĩ học ngày nay, với việc hệ thống màu sắc không chỉ được dựa trên ba màu chính là đỏ, vàng, xanh dương mà còn dựa trên sự đối nghịch hàm ý của màu vàng (hoặc trắng) hay xanh dương (hoặc đen), lấy màu đỏ như là màu chuyển giao gián tiếp giữa hai màu này (các giai đoạn là: vàng, cam, đỏ, tím, xanh dương) và màu xanh lá cây là màu chuyển giao trực tiếp (hay là màu tổng kết lại), điều này là quan điểm của Kandinsky và Herbin.
Tóm lại, những sự diễn giải như thế về biểu tượng học của màu sắc, cái mà trong quan điểm chúng tôi là điều tối quan trọng, là như sau: màu xanh dương (đại diện cho đặc tính của Jupiter và Juno với vai trò là nam thần và nữ thần của thiên đàng)[6] biểu tượng cho niềm tin tôn giáo, sự cống hiến và sự trong sạch;[7] màu xanh lá cây (màu có liên hệ với Venus và Tự nhiên) là kí hiệu cho sự phồn thực của đất đai,[6][7] cho sự thông cảm và khả năng thích nghi với hoàn cảnh;[7] màu tím tượng trưng cho sự hoài cổ và các kí ức, vì nó được tạo thành từ màu xanh dương (chỉ sự cống hiến) và màu đỏ (sự cảm thụ); [7] màu vàng (đặc tính của Apollo, vị thần mặt trời) chỉ tính khoan dung, trực giác và trí tuệ;[6][7] màu cam, là cho sự kiêu hãnh và tham vọng;[6][7] màu đỏ (đặc tính của Mars, vị thần chiến tranh), tượng trưng cho cảm xúc mạnh mẽ, tình cảm và nguyên lí truyền sức sống;[6][7] màu xám là tượng trưng cho sự trung hoà, tính vị kỉ, sự trầm cảm, sức ì và sự thờ ơ — những ý nghĩa này bắt nguồn từ màu sắc của những đám tro tàn;[6][7] màu tía (màu áo choàng của các hoàng đế La-mã, hoặc của giáo chủ hồng y) cho một sự kết hợp có tính tương đồng, mặc dù thế nó là hoàn toàn đối nghịch, với màu tím, và tượng trưng cho quyền lực, cho tính duy linh và cho sự thăng hoa;[6][7] màu hồng (màu thịt) là cho thú nhục dục và các cảm xúc.[6][7]
Người ta có thể tiếp tục với những diễn giải thế này cho đến vô hạn, đưa ra thêm ngày càng nhiều ý nghĩa chính xác hơn cho ngày càng nhiều sắc thái màu sắc chuẩn xác hơn, nhưng làm thế thì sẽ rơi vào cái bẫy của biểu tượng học, đó là, sự cám dỗ để phát triển thêm nữa một hệ thống cứng nhắc của các trùng ngôn. Dù sao, điều quan trọng là nhớ đến sự tương tự giữa sắc thái màu sắc (đó là, cường độ màu sắc, hoặc mức sáng — vị trí của nó trên cái khung ở giữa hai cực đối nhau của đen và trắng) và tính biểu tượng học theo tầng lớp tương ứng của sắc thái đó. Nó cũng phải được nhớ rằng tính thuần khiết của màu sắc sẽ luôn luôn có điểm đối ứng với tính thuần khiết của ý nghĩa biểu tượng. Tương tự vậy, các màu chính sẽ tương ứng với những cảm xúc chính, trong khi những màu ở hàng thứ hai hay thứ ba sẽ thể hiện biểu tượng của một khối phức tạp y như vậy. Trẻ con theo bản năng sẽ gạt bỏ toàn bộ những màu sắc được trộn lẫn vào nhau hoặc không thuần khiết, bởi vì các màu đó chẳng mang ý nghĩa gì với chúng. Ngược lại, nghệ thuật của các nền văn hoá phát triển và tinh tế luôn rực rỡ nhờ vào những sắc thái màu kết hợp với nhau một cách khéo léo, với màu tía nhạt pha vàng, màu hồng gần như thành tím, màu hoàng thổ có chút xanh lá, v.v.. Để ta xem xét một số ứng dụng thực tế của biểu tượng học màu sắc, bằng cách làm rõ cái ở trên. Theo Beaumont, màu sắc có sự tạo nghĩa đặc biệt trong biểu tượng học của Trung-hoa, vì nó tượng trưng cho cấp bậc hoặc quyền uy; ví dụ như màu vàng, vì nó liên hệ với mặt trời, nên màu vàng được xem như là đặc quyền linh thiêng của hoàng gia.[8] Đối với người Ai-cập, màu xanh dương được dùng để tượng trưng cho chân lí.[9] Màu xanh lá cây có vai trò vượt trội trong nghệ thuật Thiên Chúa giáo bởi vì giá trị của nó được xem như là cầu nối giữa hai nhóm màu sắc.[10] Vị thánh mẫu của Ấn-độ được tượng trưng bởi sắc đỏ (ngược lại với tính biểu tượng thông thường của màu trắng vốn là màu của tính nữ), bởi vì bà ta được liên kết với nguyên lí của sự sáng tạo và màu đỏ bản thân nó là màu sắc của tính hoạt động.[11] Màu đỏ cũng là màu của máu, và vì lí do này mà người tiền sử sẽ nhuộm đỏ cho bất kì vật gì mà người đó muốn mang lại sự sống; và người Trung-hoa dùng cờ hiệu màu đỏ để làm bùa may mắn.[12] Cũng vì lí do là màu của máu, nên khi vị tướng La-mã được đón chào trong niềm vui chiến thắng thì ông ta được chở trên cỗ xe ngựa được kéo bởi bốn con ngựa trắng được mang giáp mạ vàng (đóng vai trò là biểu tượng của mặt trời), và trên mặt vị tướng được sơn màu đỏ. Schneider sau khi xem xét phương diện thiết yếu của sắc đỏ dựa trên các quá trình luyện đan thì đã kết luận rằng màu đỏ phải có liên hệ với lửa và sự tinh chế.[13]
Một bằng chứng thú vị cho cái dấu hiệu điềm gở và bi kịch của màu cam — một màu mà theo quan điểm của Oswald Wirth thực ra là màu của ngọn lửa, sự dã man, sự tàn bạo và tính vị kỉ — được đưa ra sau đây trong một đoạn văn trich từ nhà đông phương học Heinrich Zimmer: ‘Sau khi Đức Phật Tương lai xuống tóc và đổi bộ đồ hoàng tộc của ông ta để lấy cái áo choàng màu vàng cam của một người khất sĩ khổ hạnh (những người đó không được xã hội loài người chấp nhận đã tự nguyện dùng những bộ đồ màu vàng cam vốn ban đầu là mảnh vải dùng để phủ lên những kẻ tử tội được đưa đến pháp trường xử tử)...’.[11] Để kết thúc những nhận xét dựa trên ý nghĩa huyền bí của màu sắc, chúng ta sẽ chỉ ra một số điểm tương ứng trong lĩnh vực luyện đan. Ba giai đoạn chính của “Tác phẩm Lớn” (the Great Work) (biểu tượng của sự tiến hoá tinh thần) là (1) vật chất sơ nguyên (prime matter) (tương ứng với màu đen), (2), thuỷ ngân (màu trắng) và (3) lưu huỳnh (màu đỏ), kết lại với thành phẩm là một “hòn đá” (kim loại vàng). Màu đen liên hệ với trạng thái lên men, phân huỷ, sự che khuất, sự sám hối; màu trắng liên hệ với sự soi sáng, sự vươn lên, thiên khải và sự tha thứ; màu đỏ liên hệ với nỗi đau khổ, sự thăng hoa và tình yêu. Và kim loại vàng là trạng thái của sự vinh quang. Như vậy chuỗi đen - trắng - đỏ - kim loại vàng ý chỉ con đường của sự vươn lên về mặt tinh thần. Cái ngược lại hay là chuỗi đi xuống có thể được thấy trong một khung màu bắt đầu từ màu vàng (đó là, kim loại vàng trong cái nghĩa phủ định của điểm khởi hành hoặc điểm khởi sinh thay vì là điểm đến), màu xanh dương (cõi trời), màu xanh lá cây (tự nhiên, hoặc là đời sống tự nhiên trước mắt), màu đen (là “sa đoạ” theo nghĩa của thuyết tân Plato).[14] Trong một số niềm tin truyền thống, màu xanh lá cây và màu đen được xem như là một dạng thể hiện tổng hợp của phân xanh. Ví lí do này, chuỗi tăng dần của xanh lá cây – trắng – đỏ tạo thành một biểu tượng ưa thích của người Ai-cập và của các tu sĩ Celtic cổ xưa. [2][15]
René Guénon cũng chỉ ra một thực tế mang tính tạo nghĩa rằng Dante, người đặt ra hệ thống biểu tượng truyền thống của ông ta, đã cho Beatrice xuất hiện trong bộ đồ màu xanh lá cây, trắng và đỏ, biểu hiện của sự hi vọng, niềm tin và lòng bác ái và tương ứng với ba bình diện (của luyện đan) mà ta đã đề cập.[16] Tính biểu tượng phức hợp của các màu sắc trộn lẫn nhau bắt nguồn từ các màu nguyên thuỷ mà từ đó chúng được tạo thành. Do vậy mà, ví dụ, màu xám và màu hoàng thổ có liên hệ với đất đai và cây cối. Không thể biết được tất cả các khái niệm mà bắt nguồn từ cái ý nghĩa ban sơ. Do đó, nhóm Ngộ giáo (Gnostics) đã phát triển ý tưởng rằng, bởi vì màu hồng là màu trùng với màu thịt, nên nó cũng là màu của sự phục sinh. Quay trở lại màu cam, lời giải thích tuyệt vời từ các nhân vật trùng ngôn trong tác phẩm có tính luyện đan Abraham người Do-thái chứa đựng một hàm ý màu cam là “màu của tuyệt vọng”, và tiếp tục: ‘Một người đàn ông và một người đàn bà được sơn màu cam lên mình và đứng nổi trên khung cảnh một vùng đất mang màu xanh da trời, ý chỉ rằng họ không được đặt hi vọng của mình vào thế giới này, vì màu cam thể hiện cho sự tuyệt vọng và cái nền xanh da trời là dấu hiệu của hi vọng ở cõi trời.’ Và cuối cùng, quay trở lại màu xanh lá cây, đây là màu của những khuynh hướng đối nghịch: nó là màu của cây cỏ (hoặc, nói cách khác, là của cuộc sống) và là màu của tử thi (hay là của cái chết); vì lẽ đó, người Ai-cập đã sơn vị thần Osiris (vị thần của cây cỏ và của người chết) bằng màu xanh lá cây. Tương đồng vậy, màu xanh lá cây giữ một vị trí chính giữa trong thang màu sắc hàng ngày.
Dịch tại Sài-gòn,
20101118.
_________________________
Chú thích của tác giả:
[1]JACOBI, Jolan de. The Psychology of C. G. Jung. London, 1951.
[2]STAR, Ély. Les Mystère du verbe. Paris, 1908.
[3]JUNG, C. G. Psychology and Alchemy (Collected Works, 12). London, 1953.
[4]DAVY, M.-M. Essai sur la Symbolique Romane. Paris, 1955.
[5]BACHELARD, GASTON. La Psycanalyse du feu. Paris, 1938.
[6]TEILLARD, Ania. Il Simbolismo del Sogni. Milan, 1951.
[7]WIRTH, Oswald. Le Tarot des imagiers du Moyen Age. Paris, 1927.
[8]BEAUMONT, A. Symbolism in Decorative Chinese Art. New York, 1949.
[9]BAYLEY, HAROLD. The Lost Language of Symbolism. London, 1912 (repr. 1951).
[10]LÉVI, Éliphas. Les Mystère de la Kabbale. Paris, 1920.
[11]ZIMMER, Heinrich. Myths and Symbols in Indian Art and Civilization. New York, 1946.
[12]MARQUÈS RIVÈRE, J. Amulettes, talismans et pantacles. Paris, 1950.
[13]SENARD, M. Le Zodiaque. Lausanne, 1948.
[14]JUNG, C. G. ‘Pschology of the Transference’. In The Pratice of Psychotherapy (Collected Works, 16). London, 1954.
[15]FRAZER, Sir James G. The Golden Bough. London, 1911-15.
[16]GUÉNON, René. L’Esotérisme de Dante. Paris, 1949.
-----------
Nguồn: Cirlot, J. E. “Colour”, A Dictionary of Symbols, trans. Jack Sage; 2nd edition (London: Routledge, 1971).
Nhan đề tiếng Việt, “Tính biểu tượng của màu sắc”, do người dịch đặt.
Đoàn Khương Duy dịch từ bản tiếng Anh.
Nguyễn Tiến Văn hiệu đính.
JUAN EDUARDO CIRLOT
(1916-1973)
Juan Eduardo Cirlot, người Tây-ban-nha, là một thi sĩ, nhà phê bình mỹ thuật, nhà thần thoại học, nhạc sĩ, và dịch giả. Đầu những năm 1940, cùng với Alfonso Buñuel, ông đã dịch thơ của Paul Éluard, André Breton, và Antonin Artaud. Ông bắt đầu viết phê bình mỹ thuật từ năm 1943; in tập thơ đầu tay từ năm 1946; ra mắt tác phẩm âm nhạc đầu tay từ năm 1948; xuất bản cuốn Igor Stravinsky (về âm nhạc của Stravinsky) và cuốn Diccionario de los ismos [“Từ điển về các chủ nghĩa”] năm 1949. Sau đó, ông bước vào lĩnh vực nghiên cứu biểu tượng học và mỹ thuật thời Gothic, xuất bản cuốn El Ojo en la Mitología: su simbolismo [“Con mắt trong thần thoại học: Tính biểu tượng của nó”] năm 1954.
Cirlot mất năm 1973 vì bệnh ung thư tụy tạng. Những tác phẩm của ông đã xuất bản gồm có 10 tập thơ và 13 cuốn sách nghiên cứu, trong đó cuốn Diccionario de símbolos tradicionales (“Từ điển về những biểu tượng truyền thống”, 1958) [bản Anh ngữ, A Dictionary of Symbols (1962)] là tác phẩm nổi tiếng nhất của ông.
Dưới đây, chúng tôi hân hạnh giới thiệu đến độc giả Tiền Vệ một bài viết thú vị của Juan Eduardo Cirlot do Đoàn Khương Duy trích dịch từ cuốn A Dictionary of Symbols.
Tiền Vệ
___________
TÍNH BIỂU TƯỢNG CỦA MÀU SẮC
Biểu tượng về màu sắc là một trong những loại biểu tượng mang tính phổ quát nhất, và được dùng một cách ý thức trong những nghi thức tế lễ, trong các huy hiệu, luyện đan, nghệ thuật và văn chương. Có nhiều sự suy xét liên hệ đến mặt ý nghĩa của màu sắc mà ta có thể nói qua một chút. Có sự phân chia một cách chung chung về măt quang học và về tâm lí học thực nghiệm. Nhóm đầu tiên gồm những màu “tăng tiến” (advancing) và có tính ấm, tương ứng với những cách thức đồng hóa, tính hoạt động và cường độ của màu sắc (gồm các màu đỏ, cam vàng và rộng hơn nữa là màu trắng), và nhóm thứ hai mang tính lạnh, là những màu “lùi” (retreating), tương ứng với những quá trình tách biệt, tính thụ động và quá trình làm suy yếu (gồm các màu xanh dương, chàm, tím và rộng hơn nữa là màu đen), màu xanh lá cây là màu trung gian, chuyển tiếp và trải đều cho cả hai nhóm. Màu sắc có cách dùng phụ khác trong việc đưa vào những mẫu hình vẽ trên huy hiệu. Thứ tự từng dãy của khoảng phạm vi màu sắc chính là điều cơ bản, được tạo thành khi dãy màu sắc (mặc dù trong một cái nghĩa có phần trừu tượng) làm thành một loại tập hợp hữu hạn của các màu sắc hoàn chỉnh, khác biệt nhau và có trật tự. Mối quan hệ dạng thức giữa, một mặt là, một chuỗi sáu hay bảy sắc thái của màu sắc — vì thỉnh thoảng cũng khó mà phân biệt màu xanh với màu chàm, hoặc màu xanh da trời với màu xanh biển — và, ở mặt khác, một chuỗi nguyên âm — có bảy nguyên âm trong tiếng Hi-lạp — cũng như các nốt nhạc trong khung nhạc, mối quan hệ này chỉ ra một sự giống nhau cơ bản giữa ba dãy này với nhau và cũng là giữa chúng với sự phân chia của tầng trời, theo tư tưởng sinh vật học thiên văn cổ đại, thành bảy phần (mặc dù thực tế thỉnh thoảng người ta chia thành chín phần).
Biểu tượng học về màu sắc thường xuất phát từ một trong các nguồn sau: (1) đặc tính vốn có của từng màu sắc, được nhận biết theo trực giác như là một thực tế khách quan; (2) mối liên hệ giữa màu sắc và biểu tượng hành tinh được kết nối với màu sắc theo cách truyền thống; hoặc (3) mối liên hệ mà luận lí học cơ bản, sơ khai nhận biết được. Tâm lí học và phân tâm học hiện đại dường như đặt nặng vấn đề thứ ba trong số những cách thức này hơn cả vấn đề đầu tiên (cách thức thứ nhì hoạt động với vai trò cây cầu bắt ngang giữa hai vấn đề còn lại). Do vậy, Jolan de Jacobi, trong quá trình nghiên cứu của bà ta về tâm lí học Jung, đã phát biểu chính xác từng chữ thế này: ‘Sự tương ứng của các màu sắc đối với các chức năng theo thứ tự thì biến đổi theo những nền văn hoá và những nhóm người khác nhau và thậm chí trong số những cá nhân; như là một quy tắc chung, tuy nhiên,...màu xanh, màu của bầu không khí loãng, của bầu trời trong vắt, thì đại diện cho quá trình suy tư; màu vàng, màu của mặt trời nhìn từ đằng xa, xuất hiện mang ánh sáng ra khỏi vùng bóng đêm bí hiểm, chỉ biến mất trở lại vào bóng đêm, màu vàng này là trực giác, cái chức năng có thể nắm được trong một khoảnh khắc loé sáng cho sự thông hiểu nguồn gốc và các xu hướng của những sự kiện bất thường; màu đỏ, màu của mạch máu di chuyển và của ngọn lửa, là cho những cảm xúc dâng trào và dữ dội; trong khi đó màu xanh lá cây, màu của những vật sinh trưởng trên trái đất, hữu hình và cảm quan được tức thì, đại diện cho chức năng của cảm giác’.[1]
Cái quan trọng nhất của các biểu tượng xuất phát từ những quy luật đi trước là những điều này: màu đỏ liên hệ với máu, các vết thương, sự giãy chết, và sự thăng hoa; màu cam liên hệ với ánh lửa và ngọn lửa; màu vàng là với ánh sáng mặt trời, là của sự soi sáng, của phổ biến tri thức và của sự tổng quát hoá toàn diện; màu xanh lá cây là với cây cỏ, nhưng cũng có thể được liên hệ với cái chết và sự giận dữ tột cùng (do vậy màu xanh là đường liên kết giữa màu đen — của khoáng vật — và đỏ — của máu và động vật — cũng như giữa đời sống động vật với sự tan rã và cái chết); màu xanh nhạt liên hệ với bầu trời vào buổi ban ngày, và cũng liên hệ với mặt biển hiền hoà; màu xanh đen liên hệ với bầu trời buổi đêm, với mặt biển bão tố; màu nâu và màu hoàng thổ liên hệ với đất; và màu đen thì liên hệ với vùng đất được gieo hạt. Vàng tương ứng với khía cạnh huyền bí của mặt trời; bạc là với mặt trăng. Những kết luận khác nhau được rút ra từ những nhà tâm lí học và từ những nhà tư tưởng truyền thống, bí truyền, mấy kết luận này đã rõ ràng trong những phần tóm gọn ở trên có thể được giải thích bằng một thực tế rằng trong quan điểm của các nhà tâm lí học, những cảm giác biểu tượng được hình thành trong tâm trí có thể chỉ là tình cờ, còn theo như lí thuyết bí truyền, ba cái chuỗi (của sắc thái màu sắc, của các nguyên tố thành phần và vẻ ngoài tự nhiên, và của cảm giác hoặc phản ứng) là kết quả của một nguyên do đơn lẻ và đồng thời, hoạt động ở những tầng lớp sâu thẳm nhất của thực tại. Vì lí do này mà Ély Star và những người khác khẳng định rằng bảy màu sắc có mối tương tự nhau một cách biệt lập với bảy trạng thái tâm hồn, với bảy đức tính (từ quan điểm tích cực), với bảy thói xấu (từ quan điểm tiêu cực), với những dạng hình học, những ngày trong tuần và bảy hành tinh.[2] Thật sự điều này là một khái niệm có liên hệ với ‘lí thuyết tương ứng” hơn là với biểu tượng học của màu sắc phù hợp. Nhiều người nguyên thuỷ theo trực giác đã cảm nhận được các liên kết gần gũi tồn tại giữa toàn bộ các khía cạnh khác nhau của thế giới thực: ví dụ như người da đỏ Zuni ở miền Tây Hoa-kì cống nạp hàng năm cho các thầy tư tế của họ bằng “bắp bảy màu”, mỗi màu ứng với một vị thần hành tinh. Mặc dù vậy, thật đáng để ghi nhớ trong tâm trí những cái thiết yếu nhất của những sự tương ứng này. Ví dụ: lửa được tượng trưng bởi màu đỏ và cam; không khí bởi màu vàng; cả hai màu xanh lá cây và tím đều tượng trưng cho nước; và màu đen hay màu hoàng thổ tượng trưng cho đất. Thời gian thường được biểu tượng bằng sự óng ánh của tơ lụa. Về những sắc thái khác nhau của màu xanh, trải dài từ màu gần đen cho đến màu thanh ngọc sáng trong, thì có nhiều sự phỏng đoán. Những nhận xét hợp lí nhất theo ý kiến chúng tôi là những nhận xét sau: ‘Màu xanh, biểu tượng cho đường thẳng dọc’ — và về trạng thái không gian hoặc tính biểu tượng học của các tầng lớp — ‘mang ý nghĩa về độ cao và độ sâu (trời xanh bên trên, biển xanh phía dưới)’.[3] ‘Màu sắc mang biểu tượng về một thế lực có xu hướng bứt lên trên ở trong cái khuôn mẫu của bóng tối (hoặc là của u ám và cái ác) và của ánh sáng (hoặc của sự soi sáng, vinh quang và cái thiện). Do vậy, màu xanh đen được xếp chung nhóm với màu đen, và màu xanh da trời, giống như màu vàng trong trẻo, được xếp cặp cùng với màu trắng’.[4] ‘Màu xanh là bóng tối được làm cho hữu hình ra.’ Màu xanh, giữa trắng và đen (là ngày và đêm) chỉ ra tình trạng cân bằng ‘biến đổi theo sắc thái’.[5]
Có niềm tin rằng những màu sắc có thể được phân thành nhóm theo những vấn đề thiết yếu cơ bản của chúng, và trong nội tại của xu hướng toàn cục để đặt những hiện tượng vào những nhóm đối nghịch nhau, tuỳ theo màu sắc đó mang giá trị dương (liên hệ với ánh sáng) hoặc âm (liên hệ với bóng tối), niềm tin đó được lặp đi lặp lại thậm chí trong lĩnh vực mĩ học ngày nay, với việc hệ thống màu sắc không chỉ được dựa trên ba màu chính là đỏ, vàng, xanh dương mà còn dựa trên sự đối nghịch hàm ý của màu vàng (hoặc trắng) hay xanh dương (hoặc đen), lấy màu đỏ như là màu chuyển giao gián tiếp giữa hai màu này (các giai đoạn là: vàng, cam, đỏ, tím, xanh dương) và màu xanh lá cây là màu chuyển giao trực tiếp (hay là màu tổng kết lại), điều này là quan điểm của Kandinsky và Herbin.
Tóm lại, những sự diễn giải như thế về biểu tượng học của màu sắc, cái mà trong quan điểm chúng tôi là điều tối quan trọng, là như sau: màu xanh dương (đại diện cho đặc tính của Jupiter và Juno với vai trò là nam thần và nữ thần của thiên đàng)[6] biểu tượng cho niềm tin tôn giáo, sự cống hiến và sự trong sạch;[7] màu xanh lá cây (màu có liên hệ với Venus và Tự nhiên) là kí hiệu cho sự phồn thực của đất đai,[6][7] cho sự thông cảm và khả năng thích nghi với hoàn cảnh;[7] màu tím tượng trưng cho sự hoài cổ và các kí ức, vì nó được tạo thành từ màu xanh dương (chỉ sự cống hiến) và màu đỏ (sự cảm thụ); [7] màu vàng (đặc tính của Apollo, vị thần mặt trời) chỉ tính khoan dung, trực giác và trí tuệ;[6][7] màu cam, là cho sự kiêu hãnh và tham vọng;[6][7] màu đỏ (đặc tính của Mars, vị thần chiến tranh), tượng trưng cho cảm xúc mạnh mẽ, tình cảm và nguyên lí truyền sức sống;[6][7] màu xám là tượng trưng cho sự trung hoà, tính vị kỉ, sự trầm cảm, sức ì và sự thờ ơ — những ý nghĩa này bắt nguồn từ màu sắc của những đám tro tàn;[6][7] màu tía (màu áo choàng của các hoàng đế La-mã, hoặc của giáo chủ hồng y) cho một sự kết hợp có tính tương đồng, mặc dù thế nó là hoàn toàn đối nghịch, với màu tím, và tượng trưng cho quyền lực, cho tính duy linh và cho sự thăng hoa;[6][7] màu hồng (màu thịt) là cho thú nhục dục và các cảm xúc.[6][7]
Người ta có thể tiếp tục với những diễn giải thế này cho đến vô hạn, đưa ra thêm ngày càng nhiều ý nghĩa chính xác hơn cho ngày càng nhiều sắc thái màu sắc chuẩn xác hơn, nhưng làm thế thì sẽ rơi vào cái bẫy của biểu tượng học, đó là, sự cám dỗ để phát triển thêm nữa một hệ thống cứng nhắc của các trùng ngôn. Dù sao, điều quan trọng là nhớ đến sự tương tự giữa sắc thái màu sắc (đó là, cường độ màu sắc, hoặc mức sáng — vị trí của nó trên cái khung ở giữa hai cực đối nhau của đen và trắng) và tính biểu tượng học theo tầng lớp tương ứng của sắc thái đó. Nó cũng phải được nhớ rằng tính thuần khiết của màu sắc sẽ luôn luôn có điểm đối ứng với tính thuần khiết của ý nghĩa biểu tượng. Tương tự vậy, các màu chính sẽ tương ứng với những cảm xúc chính, trong khi những màu ở hàng thứ hai hay thứ ba sẽ thể hiện biểu tượng của một khối phức tạp y như vậy. Trẻ con theo bản năng sẽ gạt bỏ toàn bộ những màu sắc được trộn lẫn vào nhau hoặc không thuần khiết, bởi vì các màu đó chẳng mang ý nghĩa gì với chúng. Ngược lại, nghệ thuật của các nền văn hoá phát triển và tinh tế luôn rực rỡ nhờ vào những sắc thái màu kết hợp với nhau một cách khéo léo, với màu tía nhạt pha vàng, màu hồng gần như thành tím, màu hoàng thổ có chút xanh lá, v.v.. Để ta xem xét một số ứng dụng thực tế của biểu tượng học màu sắc, bằng cách làm rõ cái ở trên. Theo Beaumont, màu sắc có sự tạo nghĩa đặc biệt trong biểu tượng học của Trung-hoa, vì nó tượng trưng cho cấp bậc hoặc quyền uy; ví dụ như màu vàng, vì nó liên hệ với mặt trời, nên màu vàng được xem như là đặc quyền linh thiêng của hoàng gia.[8] Đối với người Ai-cập, màu xanh dương được dùng để tượng trưng cho chân lí.[9] Màu xanh lá cây có vai trò vượt trội trong nghệ thuật Thiên Chúa giáo bởi vì giá trị của nó được xem như là cầu nối giữa hai nhóm màu sắc.[10] Vị thánh mẫu của Ấn-độ được tượng trưng bởi sắc đỏ (ngược lại với tính biểu tượng thông thường của màu trắng vốn là màu của tính nữ), bởi vì bà ta được liên kết với nguyên lí của sự sáng tạo và màu đỏ bản thân nó là màu sắc của tính hoạt động.[11] Màu đỏ cũng là màu của máu, và vì lí do này mà người tiền sử sẽ nhuộm đỏ cho bất kì vật gì mà người đó muốn mang lại sự sống; và người Trung-hoa dùng cờ hiệu màu đỏ để làm bùa may mắn.[12] Cũng vì lí do là màu của máu, nên khi vị tướng La-mã được đón chào trong niềm vui chiến thắng thì ông ta được chở trên cỗ xe ngựa được kéo bởi bốn con ngựa trắng được mang giáp mạ vàng (đóng vai trò là biểu tượng của mặt trời), và trên mặt vị tướng được sơn màu đỏ. Schneider sau khi xem xét phương diện thiết yếu của sắc đỏ dựa trên các quá trình luyện đan thì đã kết luận rằng màu đỏ phải có liên hệ với lửa và sự tinh chế.[13]
Một bằng chứng thú vị cho cái dấu hiệu điềm gở và bi kịch của màu cam — một màu mà theo quan điểm của Oswald Wirth thực ra là màu của ngọn lửa, sự dã man, sự tàn bạo và tính vị kỉ — được đưa ra sau đây trong một đoạn văn trich từ nhà đông phương học Heinrich Zimmer: ‘Sau khi Đức Phật Tương lai xuống tóc và đổi bộ đồ hoàng tộc của ông ta để lấy cái áo choàng màu vàng cam của một người khất sĩ khổ hạnh (những người đó không được xã hội loài người chấp nhận đã tự nguyện dùng những bộ đồ màu vàng cam vốn ban đầu là mảnh vải dùng để phủ lên những kẻ tử tội được đưa đến pháp trường xử tử)...’.[11] Để kết thúc những nhận xét dựa trên ý nghĩa huyền bí của màu sắc, chúng ta sẽ chỉ ra một số điểm tương ứng trong lĩnh vực luyện đan. Ba giai đoạn chính của “Tác phẩm Lớn” (the Great Work) (biểu tượng của sự tiến hoá tinh thần) là (1) vật chất sơ nguyên (prime matter) (tương ứng với màu đen), (2), thuỷ ngân (màu trắng) và (3) lưu huỳnh (màu đỏ), kết lại với thành phẩm là một “hòn đá” (kim loại vàng). Màu đen liên hệ với trạng thái lên men, phân huỷ, sự che khuất, sự sám hối; màu trắng liên hệ với sự soi sáng, sự vươn lên, thiên khải và sự tha thứ; màu đỏ liên hệ với nỗi đau khổ, sự thăng hoa và tình yêu. Và kim loại vàng là trạng thái của sự vinh quang. Như vậy chuỗi đen - trắng - đỏ - kim loại vàng ý chỉ con đường của sự vươn lên về mặt tinh thần. Cái ngược lại hay là chuỗi đi xuống có thể được thấy trong một khung màu bắt đầu từ màu vàng (đó là, kim loại vàng trong cái nghĩa phủ định của điểm khởi hành hoặc điểm khởi sinh thay vì là điểm đến), màu xanh dương (cõi trời), màu xanh lá cây (tự nhiên, hoặc là đời sống tự nhiên trước mắt), màu đen (là “sa đoạ” theo nghĩa của thuyết tân Plato).[14] Trong một số niềm tin truyền thống, màu xanh lá cây và màu đen được xem như là một dạng thể hiện tổng hợp của phân xanh. Ví lí do này, chuỗi tăng dần của xanh lá cây – trắng – đỏ tạo thành một biểu tượng ưa thích của người Ai-cập và của các tu sĩ Celtic cổ xưa. [2][15]
René Guénon cũng chỉ ra một thực tế mang tính tạo nghĩa rằng Dante, người đặt ra hệ thống biểu tượng truyền thống của ông ta, đã cho Beatrice xuất hiện trong bộ đồ màu xanh lá cây, trắng và đỏ, biểu hiện của sự hi vọng, niềm tin và lòng bác ái và tương ứng với ba bình diện (của luyện đan) mà ta đã đề cập.[16] Tính biểu tượng phức hợp của các màu sắc trộn lẫn nhau bắt nguồn từ các màu nguyên thuỷ mà từ đó chúng được tạo thành. Do vậy mà, ví dụ, màu xám và màu hoàng thổ có liên hệ với đất đai và cây cối. Không thể biết được tất cả các khái niệm mà bắt nguồn từ cái ý nghĩa ban sơ. Do đó, nhóm Ngộ giáo (Gnostics) đã phát triển ý tưởng rằng, bởi vì màu hồng là màu trùng với màu thịt, nên nó cũng là màu của sự phục sinh. Quay trở lại màu cam, lời giải thích tuyệt vời từ các nhân vật trùng ngôn trong tác phẩm có tính luyện đan Abraham người Do-thái chứa đựng một hàm ý màu cam là “màu của tuyệt vọng”, và tiếp tục: ‘Một người đàn ông và một người đàn bà được sơn màu cam lên mình và đứng nổi trên khung cảnh một vùng đất mang màu xanh da trời, ý chỉ rằng họ không được đặt hi vọng của mình vào thế giới này, vì màu cam thể hiện cho sự tuyệt vọng và cái nền xanh da trời là dấu hiệu của hi vọng ở cõi trời.’ Và cuối cùng, quay trở lại màu xanh lá cây, đây là màu của những khuynh hướng đối nghịch: nó là màu của cây cỏ (hoặc, nói cách khác, là của cuộc sống) và là màu của tử thi (hay là của cái chết); vì lẽ đó, người Ai-cập đã sơn vị thần Osiris (vị thần của cây cỏ và của người chết) bằng màu xanh lá cây. Tương đồng vậy, màu xanh lá cây giữ một vị trí chính giữa trong thang màu sắc hàng ngày.
Dịch tại Sài-gòn,
20101118.
_________________________
Chú thích của tác giả:
[1]JACOBI, Jolan de. The Psychology of C. G. Jung. London, 1951.
[2]STAR, Ély. Les Mystère du verbe. Paris, 1908.
[3]JUNG, C. G. Psychology and Alchemy (Collected Works, 12). London, 1953.
[4]DAVY, M.-M. Essai sur la Symbolique Romane. Paris, 1955.
[5]BACHELARD, GASTON. La Psycanalyse du feu. Paris, 1938.
[6]TEILLARD, Ania. Il Simbolismo del Sogni. Milan, 1951.
[7]WIRTH, Oswald. Le Tarot des imagiers du Moyen Age. Paris, 1927.
[8]BEAUMONT, A. Symbolism in Decorative Chinese Art. New York, 1949.
[9]BAYLEY, HAROLD. The Lost Language of Symbolism. London, 1912 (repr. 1951).
[10]LÉVI, Éliphas. Les Mystère de la Kabbale. Paris, 1920.
[11]ZIMMER, Heinrich. Myths and Symbols in Indian Art and Civilization. New York, 1946.
[12]MARQUÈS RIVÈRE, J. Amulettes, talismans et pantacles. Paris, 1950.
[13]SENARD, M. Le Zodiaque. Lausanne, 1948.
[14]JUNG, C. G. ‘Pschology of the Transference’. In The Pratice of Psychotherapy (Collected Works, 16). London, 1954.
[15]FRAZER, Sir James G. The Golden Bough. London, 1911-15.
[16]GUÉNON, René. L’Esotérisme de Dante. Paris, 1949.
-----------
Nguồn: Cirlot, J. E. “Colour”, A Dictionary of Symbols, trans. Jack Sage; 2nd edition (London: Routledge, 1971).
Nhan đề tiếng Việt, “Tính biểu tượng của màu sắc”, do người dịch đặt.
5/11/11
Ross Terrill - Trung Quốc muốn gì ?
Trung Quốc muốn gì?*
Ross Terrill
Đại học Harvard, Mỹ
Khi Trung Quốc lần đầu tiên làm Mỹ tò mò vào cuối thế kỷ 18, chúng
ta muốn trà và lụa của họ. Các nhà truyền giáo Mỹ và các thương nhân
đến Quảng Châu và các cảng khác chẳng bận tâm nghĩ xem Trung Quốc
có thể muốn gì ở chúng ta - chỉ là phúc âm Kitô giáo, đồ tiêu dùng lặt vặt
và thuốc lá, dường như họ cho là như vậy. Trong nhiều năm kể từ khi ấy
đến nay, người Mỹ ít có dịp để cân nhắc lại câu hỏi này. Khuôn mẫu lịch
sử là nước Mỹ ảnh hưởng đến Trung Quốc, và động lực không ngang
bằng đó đạt đến cao điểm trong liên minh với chính phủ Quốc Dân Đảng
khập khễnh của Tưởng Giới Thạch chống các cường quốc phát xít trong
Thế Chiến thứ II. Trong những năm 1940, người ta nghĩ rằng ước vọng
Trung Quốc đơn giản chỉ là hồi phục từ ách thống trị của Nhật, sự nghèo
đói, mất đoàn kết, và tham nhũng.
Khi “Trung Quốc của chúng ta”(chính quyền Quốc Dân Đảng của
Tưởng Giới Thạch) bị tan thành khói vào cuối thập niên 1940, và những
người Cộng Sản chiếm lấy Bắc Kinh, thì Trung Quốc trở thành một Kẻ
Khác. Trong những năm gay gắt sau chiến thắng của Mao Trạch Đông
vào năm 1949, Trung Quốc đã vượt ra ngoài vùng ảnh hưởng của chúng
ta. Nhưng chúng ta vẫn biết Trung Quốc muốn gì: Mao đã cảnh báo
rằng ông sẽ ”nghiêng về một phía,”và ngay sau đó ông ta tuyên bố,
“Liên Xô hôm nay là ngày mai của Trung Quốc.”Chúng ta là “bọn đế
quốc”, và Mao chống lại chúng ta.
* Phỏng dịch bài “What does China Want?”, Wilson Quarterly, Mùa thu 2005.
†Ross Terrill, chuyên gia nghiên cứu ở Trung tâm Nghiên cứu Đông Á
Fairbank thuộc Đại học Harvard , là tác giả cuốn Mao (1999), Trung
Quốc trong Thời đại của chúng ta (1992), và Bà Mao (2000). Cuốn sách
gần đây nhất của ông, Đế chế Trung Hoa mới, được giải của Los Angeles
Times Book năm 2004.
Sau khi Moscow và Bắc Kinh xích mích vào đầu những năm 1960 và
chiến tranh Việt Nam leo thang sau đó trong cùng thập kỷ, thì những
mong muốn của Trung Quốc trở nên phức tạp hơn. Trong cái gọi là Cách
mạng Văn hóa của những năm 1960, những lĩnh vực Mao Trạch Đông
quan tâm có vẻ phi lý đối với Mỹ, cũng như đối với Moscow và hầu hết
các nước trên thế giới. Tuy nhiên, vào năm 1971 Bắc Kinh cho Tổng
thống Richard Nixon thấy là họ muốn nghiêng về phía Mỹ để giúp một
nước Mỹ mà họ cho là yếu đi đối trọng với sự nổi lên của Liên Xô.
Ngày nay, một lần nữa, các mục tiêu của Trung Quốc trở nên khó
nhận ra, nhưng sự hiểu biết các mục tiêu này lại bức xúc hơn bao giờ hết.
Sau khi Liên Xô tan rã vào năm 1991 và sự lan tràn của dân chủ trên
khắp thế giới, Trung Quốc là một hiện tượng khó hiểu: thành công kinh
tế dưới một chế độ cộng sản. Thế giới biết rõ Hoa Kỳ bênh vực cái gì: đó
là thị trường tự do và dân chủ ở bất cứ nơi nào có thể. Và cũng biết
Osama bin Laden muốn cái gì: đó là sự khôi phục thần quyền của các
giáo chủ đạo Hồi. Mục tiêu của Trung Quốc thì không rõ ràng như thế.
Người Trung Quốc nghĩ đến tiền, trong thời hậu Mao, hậu Liên Xô,
muốn gì? Câu hỏi này làm nhiều người Mỹ thắc mắc - và âu lo.
Mặc dù ảnh hưởng của Trung Quốc đã lên cao trong những năm qua,
Bắc Kinh vẫn còn xu hướng cư xử theo kiểu phản ứng, thay vì theo đuổi
những mục tiêu rõ rệt, ngoài biên giới của họ. (Nhấn mạnh của người
dịch: Bài này được xuất nản năm 2005.) Điều này làm một số người an
lòng, họ cho rằng Trung Quốc là một cường quốc thận trọng, thậm chí
bảo thủ. Và, trong mức độ nào đó, quốc gia ấy quả là vậy. Song đấy
không phải là trọn câu chuyện. Thật ra, Bắc Kinh chỉ cư xử kiểu phòng
thủ trong ba khía cạnh cơ bản: Một là, họ tự thấy mình như đang hồi
phục từ tình trạng lạc hậu kinh tế; hai là, họ đối phó, trong sự nản lòng
thầm lặng, với sự yếu đuối của họ so với sức mạnh của Mỹ, và ba là, họ
tham gia vào nhiều tổ chức quốc tế chỉ với mục đích hạn hẹp là để ngăn
ngừa chương trình nghị sự của các tổ chức này gây phiền toái cho Trung
Quốc. Cách hành xử phòng thủ này có thể cho ấn tượng rằng Bắc Kinh
có sự lưỡng lự: liệu nên tìm cách trở về vị trí đứng đầu châu Á như thời
đế quốc trước đây, thuở “Vương quốc Trung tâm”, hoặc nên tham gia cái
mà những người không phải Trung Quốc gọi là “cộng đồng quốc tế.”Tất
nhiên, có thể chỉ đơn giản là Trung Quốc đang chơi trò chờ thời, che giấu
những ý đồ mà hiện nay dường như quá khó thực hiện.
Không giống như Mỹ hay tuyên bố ầm ĩ các mục tiêu của họ, Trung
Quốc có vẻ muốn giữ các ý định của họ trong bọc kín. Nếu bạn đọc các
bài phát biểu của chủ tịch Hồ Cẩm Đào, cũng là lãnh đạo Đảng Cộng sản
và là người đứng đầu quân đội, hoặc những phát biểu của người tiền
nhiệm của ông là Giang Trạch Dân, thì “hòa bình và phát triển”dường
như là mục tiêu của chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Cụm từ này
đưa thông tin nhưng cũng đánh lạc hướng. Hòa bình và phát triển là
phương tiện chứ không phải là cứu cánh cho chính sách đối ngoại của
Bắc Kinh. Nói rằng chúng là mục tiêu của Trung Quốc thì cũng như nói
rằng mục tiêu ngày mai của Hồ Cẩm Đào là sẽ mặc quần và đánh răng.
Trong thế giới ngày nay, Trung Quốc là khác thường vì họ vừa một
phần là đế chế và một phần là quốc gia hiện đại. Một nhà nước đảng trị
theo chủ nghĩa Mác-Lênin hiện đại hóa đã được thiết lập trên một truyền
thống cai trị thành công rất lâu đời và tinh thần đế quốc nằm trong truyền
thống ấy. Đặc tính này kéo dài đế chế chuyên quyền vào một kỷ nguyên
mà các đế chế thường là đa quốc gia. Đáng kinh ngạc là Cộng sản Trung
Quốc thừa kế biên giới của đế chế nhà Thanh vào thời điểm cực đại, bao
gồm Tây Tạng, nam Mông Cổ, và tây Hồi có thời từng là Đông
Turkestan. Song, một Trung Quốc hiện đại hóa đang bị giằng co: Nên
tiếp tục đế chế vì vinh quang của Trung Quốc? Hay là theo một nền
chính trị hậu đế quốc tự nhiên nảy sinh từ xã hội và nền kinh tế mới như
hình ảnh của Thượng Hải, Quảng Châu, và Bắc Kinh hiện nay?
Lực thúc đẩy chuyển hóa Vương quốc Trung tâm ngày xưa thành một
bá quyền không dựa trên đạo lý Nho giáo nhưng trên quyền lực kinh tế,
là vẫn còn, nhưng gặp hai lực phản. Một là, đến một lúc nào đó, sự tùy
thuộc lẫn nhau giữa các nước về kinh tế và văn hóa trên thế giới sẽ đụng
đến tác phong gia trưởng chính trị. Hai là, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ, và
các cường quốc khác có thể sẽ không cho phép có một tân-Vương quốc
Trung tâm như thế.
Vì Trung Quốc là một nhà nước độc tài, ta không thể biết người dân
Trung Quốc muốn gì. Ta lại càng khó định hướng tương lai nền văn
minh Trung Quốc, chẳng hạn khó thể nói rằng nó sẽ “đụng độ”với đạo
Hồi hoặc với nền văn minh phương Tây hay không. Chúng ta có thể trả
lời câu hỏi về các mục tiêu của Trung Quốc chỉ dựa theo các hành động
của nhà nước độc đảng Bắc Kinh hiện nay. Chín ông “kỹ sư”làm nên Uỷ
ban thường vụ Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đang
tìm kiếm điều gì cho Trung Quốc? Chúng ta có thể nhận ra sáu mục tiêu
trong hành động của họ.
●
Trung Quốc theo đuổi một chính sách đối ngoại nhằm tối đa hóa sự
ổn định trong nước. Điều này cũng đúng với nhiều quốc gia khác, nhưng
với Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc (CHNDTQ) thì tầm quan trọng của
nó rất cao hơn. Bắc Kinh hậu-1949 ít khi xem việc kiểm soát nhân dân
của họ là việc dễ dàng, cũng như việc này đã không đuợc coi là dễ dàng
bởi các nhà cầm quyền Trung Quốc qua 150 năm bị nước ngoài chèn ép
và những khó khăn trong nước đánh dấu sự suy tàn của triều đại nhà
Thanh. Từ buổi đầu của CHNDTQ cho đến nay, Bắc Kinh luôn cảnh giác
việc bị mất khả năng kiểm soát các vùng xa xôi.
Ba tỉnh lớn nhất của Trung Quốc, Tân Cương, Tây Tạng và Nội
Mông về mặt lịch sử không phải lãnh thổ Trung Quốc, và người dân địa
phương ở đó khác biệt về tôn giáo, ngôn ngữ, văn hóa, và cách sống điển
hình so với người Hán. Đối phó với các nhóm dân thiểu số có thể thích
độc lập hơn là thích bị Trung Quốc thống trị đã khiến Bắc Kinh phải
dùng đến các biện pháp nửa thực dân. Ở Tây Tạng, giáo dục đại học chỉ
dành cho các những ai nói tiếng Hoa, cả vùng phía tây rộng lớn của
Trung Quốc đều theo giờ Bắc Kinh, và dân số Hồi giáo Duy Ngô Nhĩ
(Uyghur) ở Tân Cương đã được cố ý làm loãng ra bằng biện pháp nhập
cư nội bộ của Trung Quốc, đó chỉ là vài ví dụ. Ngoài ra, luận điệu của
ĐCSTQ như là nguồn mạch của sự thật cũng như của quyền lực tạo ra
nhiều khu vực cấm tinh thần phải được theo dõi sát. Bất kỳ khác biệt nào
về triết lý cũng bị xem, có hoặc không có biện minh, như là một mối đe
dọa chính trị đối với ĐCSTQ. Chế độ này tin bạn với tiền của bạn chứ
không tin bạn với đầu óc của bạn.
Năm 1998, trong một chuyến thăm Nhật Bản, Giang Trạch Dân đã
đọc 20 bài diễn văn gây sửng sốt về Thế Chiến thứ II. Trưởng thư ký nội
các Nhật Bản cuối cùng đã nản lòng mà nói rằng “chẳng phải những lỗi
lầm ấy đều đã ở sau lưng chúng ta rồi sao?”. Nhưng tội lỗi của Nhật Bản
trong quá khứ sẽ không bao giờ “ở đàng sau chúng ta”cả, khi nào mà
nhà nước đế quốc ở Bắc Kinh còn cảm thấy nhu cầu chứng tỏ sự chính
đáng của họ với người dân Trung Quốc bằng cách hét to “bọn quân phiệt
Nhật!”. Những bất an kiểu này định hình chính sách ngọai giao của
Trung Quốc. Vì vậy, những giao dịch với Nam Á là nhằm mục đích làm
suy yếu mối liên kết giữa Tây Tạng và chính phủ Tây Tạng lưu vong ở
Ấn Độ -- tương tự, nhiều giao dịch với Trung Á là nhằm làm giảm hy
vọng ly khai của người Duy Ngô Nhĩ (Uyghur) ở Tân Cương. Cũng
chính mục tiêu kiểm sóat trong nước đã chi phối chính sách của Trung
Quốc đối với Mông Cổ, Hàn Quốc, Thái Lan và các nước láng giềng
khác. Tóm lại, CHNDTQ là một bán đế chế đa dạng, với nhiều cư dân có
các liên hệ chủng tộc, tôn giáo, hoặc lịch sử với các dân tộc nằm ngay
bên kia biên giới của Trung Quốc. Và CHNDTQ là một chế độ chuyên
chế mà, dường như để đối phó với những ác mộng mà họ gây cho họ, cư
xử giống như những người cai trị sợ hãi người dân của chính họ.
Như thế, mục tiêu đầu tiên của Trung Quốc là sự ổn định nội bộ.
Mục tiêu thứ hai của chính sách ngoại giao của Bắc Kinh là duy trì
tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc. Khi chủ nghĩa Mác phai nhạt dần và
không có triết lý công cộng chính thức nào thay thế nó thì một mức sống
được nâng cao và niềm tự hào quốc gia đã chính đáng hóa một chế độ
không bao giờ phải đối mặt với bầu cử. Những thành tựu kinh tế trong
phần tư thế kỷ kể từ khi Đặng Tiểu Bình cầm quyền lãnh đạo trong thời
kỳ hậu-Mao chắc chắn là đáng được giữ gìn. Nền kinh tế đã tăng gấp bốn
lần về kích cỡ, và tốc độ tăng trưởng hàng năm vẫn tiếp tục ở mức 8-9%
(theo số liệu của chính phủ). Ngoại thương nói chung đã tăng gấp 10;
gần đây, khối lượng giao thương với nước ngoài đã tăng lên 25% mỗi
năm. Sự tăng trưởng kinh tế hậu-Mao được đẩy mạnh bởi vốn nước
ngoài, và các khu vực đô thị ven biển được hưởng lợi nhiều nhất từ
thương mại, công nghệ và kỹ năng quản lý mà đầu tư này mang lại.
Nông dân đã khá hơn trong những đợt cải cách đầu tiên, nhưng sau đó thì
đã bị tụt lại phía sau cư dân thành phố một cách thê thảm, chỉ vào khoảng
15% nông dân được hưởng những thứ thường có trong cuộc sống của
tầng lớp trung lưu hiện đại: điện thoại di động, truy cập internet, xe hơi,
sở hữu nhà, và du lịch ra nước ngòai.
Bắc Kinh đang cẩn thận hoạch định một chính sách đối ngoại để duy
trì tăng trưởng kinh tế, nhằm bảo toàn tính chính đáng của chế độ. Đó là
lý do khiến Trung Quốc đã phải chấp nhận các đòi hỏi khắt khe của Mỹ
và những nước khác để được gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới vào
năm 2001, cũng do đó mà Trung Quốc có những hành động tung hứng
tương đối minh bạch về tỉ giá giữa nhân dân tệ và đô la, và cũng do đó có
sự tự kềm chế của Trung Quốc trong tháng sáu vừa qua khi Úc cho phép
một nhà ngoại giao đào thoát của Trung Quốc được quy chế thường trú
tại Úc. (Trung Quốc ngày càng phụ thuộc vào khí thiên nhiên hóa lỏng,
than đá, và quặng sắt của Úc.) Chắc chắn một phần để tránh thiệt hại cho
lượng xuất khẩu khổng lồ của Trung Quốc sang thị trường Mỹ mà Bắc
Kinh đã đình chỉ các vụ thử tên lửa khiêu khích tổ chức ngoài bờ biển
của Đài Loan nhằm biểu lộ sự không hài lòng của Trung Quốc đối với
một ứng cử viên ủng hộ độc lập trong cuộc bầu cử tổng thống của hòn
đảo này năm1996. (Tổng thống Bill Clinton đã phái hai tàu sân bay đến
vùng lân cận.) Và vào năm 2001, sau một vụ va chạm giữa các máy bay
quân sự của Mỹ và của Trung Quốc gần đảo Hải Nam, Bắc Kinh đột
ngột ngưng những lời to tiếng “chống bá quyền”ban đầu của họ và trao
trả toàn bộ nhân viên phi hành Mỹ - một lần nữa để bảo vệ mối quan hệ
song phương cốt lõi cần cho việc đẩy mạnh hiện đại hóa kinh tế của
Trung Quốc.
Mục tiêu thứ ba của chính sách đối ngoại của Bắc Kinh là duy trì một
môi trường hòa bình trong vị trí địa lý phức tạp của Trung Quốc.
CHNDTQ là nước duy nhất trên thế giới phải đối phó với 14 nước láng
giềng tiếp giáp, bảy trong số đó chia sẻ đường biên giới dài hơn 600
dặm, và bốn nước khác gần bên bờ biển quá dài của Trung Quốc. Trong
30 năm đầu của chế độ, CHNDTQ đã tiến hành chiến tranh với tất cả
năm nước cạnh bên sườn của họ. Trong chiến tranh Triều Tiên, họ phải
chịu thiệt hại với hơn một triệu thương vong. Trung Quốc đã đánh nhau
với Ấn Độ vào năm 1959 và 1962. Họ đã gửi 320.000 cán bộ kỹ thuật và
bộ đội phòng không giúp Hồ Chí Minh giành chiến thắng trong chiến
tranh Việt Nam. Năm 1969, hai nước xem là xã hội chủ nghĩa anh em là
Moscow và Bắc Kinh đã vung kiếm đánh nhau ở sông Amur và Ussuri
phía đông bắc. Trong năm 1979, Trung Quốc của Đặng Tiểu Bình tấn
công Việt Nam để “dạy cho Hà Nội một bài học”.
Đáng khen cho Trung Quốc và đáng làm cho các nước châu Á nhẹ
nhỏm, vào những năm 1980 Bắc Kinh đã theo đuổi một chính sách đối
ngoại mới của “những nụ cười về mọi phía”, mà họ gọi là một “chính
sách hòa bình và độc lập.”Không tiến hành thêm chiến tranh sau năm
1979, Bắc Kinh nhanh chóng làm dịu các mối quan hệ với Liên Xô, hàn
gắn hàng rào bị vỡ với Indonesia, bất ngờ công nhận Hàn Quốc và nhét
khăn vào cổ họng giận dữ của Bắc Triều Tiên, thiết lập và chia sẻ nhiệm
vụ người canh cổng với Moscow ở Trung Á, tham gia sinh hoạt các tổ
chức quốc tế hàng tháng, và cuối cùng trở nên dính chặt với Hoa Kỳ
(ngoại trừ trong mối quan hệ quân sự) hơn bất cứ lúc nào trong lịch sử
Trung Quốc. Trong một sự thay đổi rất nổi bật từ những cái đã là đúng
đối với hầu hết lịch sử của CHNDTQ, Bắc Kinh ngày nay không có kẻ
thù.
Sự thận trọng chờ thời vẫn đang tiếp tục. Trong các cuộc đàm phán
sáu bên đang diễn ra hiện nay (Bài này đăng năm 2005 - Người dịch) về
bán đảo Triều Tiên, Bắc Kinh với kiểu cách mập mờ, đang theo đuổi một
chính sách (không nằm trong lợi ích của Mỹ) gìn giữ hòa bình bằng cách
bám vào tình trạng hiện hữu. Một đất nước Triều Tiên bị chia cắt, dù
vẫn tiếp tục với những quay cuồng sởn tóc gáy trong chính sách của Bình
Nhưỡng, sẽ tốt cho Trung Quốc hơn là một Triều Tiên thống nhất với
định hướng khó tiên đoán. Ở Trung Á cũng vậy, Bắc Kinh chỉ chọn “các
cuộc đàm phán”về phân định cắm mốc biên giới và về các vấn đề “ly
khai”đùng đẩy các vấn đề xuống dưới thảm và duy trì nguyên trạng.
Khi bước sang thế kỷ 21 thì rõ ràng là Bắc Kinh đã không còn theo
chính sách “những nụ cười về mọi phía”, họ đổi sang đặt định nền móng
cho một phiên bản Trung Quốc của Học thuyết Monroe ở Đông Á. Mục
tiêu thứ tư này của Trung Quốc tất nhiên là không được nói ra. Trung
Quốc cố thay thế Mỹ trong vai trò gây ảnh hưởng chính yếu ở Đông Á.
Thật không may, các dự án do Washington cầm đầu ở Afghanistan và
Iraq có thể đã làm cho chính quyền của Tổng thống Bush và công chúng
Mỹ quên để ý sự chuẩn bị mà Bắc Kinh đang tiến hành cho sự thống trị
trong tương lai. Đáng lẽ Mỹ phải chú tâm sát sao tới những động thái
này.
Mục tiêu thứ tư dựa vào uy tín lên cao của Trung Quốc do không bị
xáo trộn bởi hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998,
và vào sự thành công kinh tế trong hai thập kỷ của nước này. Cụ thể hơn,
dù vẫn là tiêu cực, chủ đích của Trung Quốc trở nên khá rõ ràng. Trên
một ít vấn đề toàn cầu mà các lợi ích Trung Quốc và Mỹ trùng hợp, hoặc
Bắc Kinh không thể chống lại một cách có hiệu quả chính sách của Mỹ,
thì hoặc họ sẽ đi theo Mỹ, hoặc “bỏ phiếu vắng mặt”, hoặc phản đối
Washington một cách yếu ớt. Nhưng ở châu Á, các nhà lãnh đạo Trung
Quốc đang làm nhiều thứ để làm nãn lòng và loại Mỹ ra ngòai. Họ tìm
cách chèn một cây nêm giữa Nhật Bản và Mỹ trong mọi cơ hội. Họ thì
thầm trong tai Australia rằng sẽ tốt cho Canberra hơn nếu chỉ nhìn Châu
Á chứ không nhìn qua bên kia Thái Bình Dương. Trong tháng mười hai
(năm 2005, chú thích của người dịch), một cột mốc quan trọng là ở hội
nghị thượng đỉnh Đông Á họp tại Malaysia mà không có đại diện của
Mỹ, một phần vì áp lực của Trung Quốc. Bắc Kinh coi hội nghị thượng
đỉnh này như một bước tiến tới hình thành một tổ chức khu vực Đông Á
không bao gồm Mỹ.
Trên diễn trường Đông Nam Á, có thể nghe không nhầm lẫn khúc dạo
đầu một Học thuyết Monroe Trung Quốc ở Myanmar và ở nhiều nước
khác. Myanmar nhận được viện trợ đáng kể của Trung Quốc, bao gồm cả
kinh phí cho các dự án cơ sở hạ tầng quan trọng. Các nhà lãnh đạo
Myanmar lo ngại việc Hán hóa ở miền bắc Myanmar, nơi mà người gốc
Hán sống và buôn bán. Nhưng cũng giống như nước Myanmar chư hầu
ngày xưa phải triều cống cho thiên triều Trung Quốc trong nhiều thế kỷ,
những nụ cười với Bắc Kinh là một chính sách bảo hiểm cho Myanmar.
Kết quả là Myanmar đã bước vào vòng ảnh hưởng của Trung Quốc như
Lào hiện nay. Thái Lan và thậm chí Malaysia có thể là các ứng viên
trong tương lai.
Trong khi ấy, Bắc Kinh vun quén một nhận thức về Trung Quốc như
một nước ngang bằng với Mỹ - mục tiêu quý giá thứ năm. Hãy xem
chuyến viếng thăm Mỹ của Giang Trạch Dân năm 1997. Tờ New York
Times tường thuật “Các nhà đàm phán Mỹ chuẩn bị cho chuyến thăm nói
rằng họ bối rối về cách mà các đối tác Trung Quốc của họ dường như tỏ
ra coi trọng quá mức các chi tiết về nghi thức và biểu tượng.”Những thứ
này bao gồm kích thước và màu sắc của thảm, vị trí trong các bức ảnh sẽ
chụp của ông Giang, của biểu tượng Veritas của Đại học Harvard và
chuông Tự Do của Philadelphia, và kiểu dáng và mẫu mã các cà vạt của
Giang Trạch Dân và Tổng thống Clinton sẽ mang. Tất cả các chi tiết đó
đã được dàn dựng để làm nổi thêm hình ảnh Trung Quốc là ngang hàng
với Mỹ. Sau chuyến viếng thăm, một xã luận của tờ (New York)
Times chắc đã làm phấn khởi Bắc Kinh: “[Ông Giang] đã dùng sự xuất
hiện của ông với ông Clinton để tự thể hiện mình như một chính khách
có thể gặp gỡ một cách ngang hàng với nhà lãnh đạo của quốc gia giàu
nhất và mạnh nhất thế giới.”
Năm sau đó, Clinton đi Trung Quốc, và Bắc Kinh cũng lặp lại bài bản
tương tự cố đánh ra cú đấm vượt quá hạng cân của mình. Đàm phán
quyết liệt để cho Clinton không ghé qua Nhật trên đường đi - một cách
để cho thấy đó chính là chuyến thăm Trung Quốc chứ không phải nước
nào khác - và kéo dài chuyến thăm này thành tám ngày để nó có thể hơn
bảy ngày lịch sử ma Nixon đã dành ở Trung Quốc vào năm 1972. Trong
một bài phát biểu mật sau chuyến thăm này, Thủ tướng Trung Quốc bày
tỏ sự hài lòng rằng Clinton “không dừng chân tại Nhật Bản trên đường
đến Trung Quốc... với kết quả là Nhật Bản đã bị mất mặt.”Báo chí chính
thức Trung Quốc chộp ngay lấy bất kỳ mảnh bình luận từ bên ngoài
Trung Quốc cho rằng Clinton và Giang Trạch Dân đã gặp nhau như hai
lãnh đạo ngang bằng. Họ tuyên bố rằng “hai nhà lãnh đạo cùng với nhau”
(quên đi châu Âu, Nhật Bản, và Ấn Độ) đã làm Châu Á “ổn định hơn”và
“thế giới hòa bình hơn”.
Mục tiêu thứ sáu của chính sách ngọai giao Trung Quốc là “lấy lại”
những vùng lãnh thổ mà Bắc Kinh cho là theo đúng lẽ thì thuộc về
CHNDTQ. Danh sách các vùng lãnh thổ mà họ cho là như vậy gồm từ
những khu vực mà họ công khai tuyên bố là của họ cho đến những khu
vực mà họ bí mật hi vọng sẽ có ngày chiếm đọat. Danh sách ấy gồm Đài
Loan và một số lớn các đảo trong vùng biển Hoàng Hải, biển Nam Trung
Hoa (Biển Đông), và Biển Đông Trung Hoa. Trong trường hợp Đài
Loan, Bắc Kinh đang chờ đợi một thời cơ kết hợp diễn biến thuận lợi
(theo Bắc Kinh) trong chính trị nội bộ Đài Loan, sự mệt mỏi của Mỹ do
căng thẳng hỗ trợ Đài Loan, khả năng lớn hơn của Trung Quốc vận
chuyển binh lính và trang thiết bị nhanh chóng vượt qua eo biển Đài
Loan rộng 100 dặm, và một Nhật Bản dễ uốn theo mong muốn của
Trung Quốc hơn hiện nay. Trong trường hợp quần đảoTrường Sa, trải dài
qua các tuyến đường biển rất quan trọng ở Đông Nam Á và có yêu sách
chủ quyền từng phần của sáu quốc gia, Bắc Kinh đang chờ đợi đủ năng
lực hải quân để “khôi phục lại”quyền kiểm soát các đảo về cơ bản là
không có người ở nhưng giàu dầu mỏ và các nguồn tài nguyên khác này.
Không ít người Việt Nam, Hàn Quốc, Thái Lan, và Ấn Độ cũng dự kiến
rằng Trung Quốc, khi có thể, sẽ đưa ra đòi hỏi chủ quyền đối với một số
phần của lãnh thổ của họ có lần thuộc Trung Quốc khi xưa.
Về khát vọng của Trung Quốc đối với vùng lãnh thổ trên sườn phía
bắc của họ, Mao đã nói điều này vào năm 1964: “Khu vực phía đông của
hồ Baikal là của chúng ta đã trở thành lãnh thổ của Nga khoảng 100 năm
trước đây và kể từ đó Vladivostok, Khabarovsk, Kamchatka, và các khu
vực khác cũng là lãnh thổ của Liên Xô. Chúng ta chưa đưa ra chứng cứ
của chúng ta về danh sách này. Chúng ta có thể đưa ra chứng cứ khi
đúng lúc.”Đến năm 1973, Mao kéo dài thêm danh sách các vùng lãnh
thổ ông cảm thấy đã bị Moscow đánh cắp. Trong một cuộc trò chuyện về
các chủ đề khác với Ngoại trưởng Henry Kissinger, đột nhiên ông than
phiền “Liên bang Xô viết đã xẻo bớt của Trung Quốc một triệu rưởi
kilomét vuông.”Trong những năm 1960 và 1970, cũng đảng Cộng sản
hiện cầm quyền ở Bắc Kinh đã tuyên bố nhiều phần của Kazakhstan,
Tajikistan và Kyrgyzstan ngày nay là các bộ phận của lãnh thổ Trung
Quốc. Nếu sự nắm giữ của Nga đối với vùng Viễn Đông yếu đi, và sự
qua lại của người Trung Quốc sống và buôn bán trong các khu vực biên
giới tiếp tục, Trung Quốc có thể “đưa ra chứng cứ chủ quyền”đối với
một phần của Siberia.
Chẳng phải lúc nào một cường quốc đang lên cũng đạt được mục tiêu
của mình. Đối với các quốc gia chuyên chế thời hiện đại, những thành
công của họ hầu hết đều ngắn ngủi. Các mục tiêu của cả ba cường quốc
phát xít gây ra Chiến tranh thế giới II, đã đột ngột bị dập tắt năm 1945,
và các mục tiêu đối ngoại của khối Xô Viết cũng đã biến mất không còn
dấu vết sau năm 1991. Tôi tin rằng Trung Quốc có sẽ đạt được sáu mục
tiêu của chính sách đối ngoại của họ hay không là tùy thuộc vào hệ thống
chính trị của họ và vào phản ứng của các cường quốc khác sẽ là thế nàđối
với những tham vọng của nước ấy.
Màn kịch trong tương lai cận kề của Trung Quốc có thể sẽ diễn ra
chẳng phải trong quan hệ đối ngoại nhưng ở trong nước: Đòi hỏi của của
giới trung lưu đối với quyền sở hữu, sự bất mãn ở nông thôn, Internet,
150 triệu người thất nghiệp lang thang giữa làng mạc và thành phố, và
một dân số thình lình lão hóa đang gây ra những căng thẳng tài chính và
xã hội, sẽ kịch tính hoá một số những mâu thuẫn của “chủ nghĩa Lenin
thị trường.”Đi một đường trong kinh tế và một đường khác trong chính
trị gây ra khó khăn trong việc đi tới một điểm đích quy định. Cách thức
mà Trung Quốc giải quyết các mâu thuẫn giữa chính trị và kinh tế của họ
sẽ xác định mức độ mạnh mẽ như thế nào vai trò mà họ sẽ giữ trên thế
giới.
Sự trỗi dậy hiện nay của Trung Quốc, giống như sự nổi lên của Đức
và Nhật cuối thế kỷ 19, thể hiện cao vọng, lòng bất bình, và chủ nghĩa
dân tộc cao độ. Tuy nhiên, sự trỗi dậy của các quốc gia có nhiều hậu quả
khác nhau. Chẳng hạn Vương quốc Anh cuối cùng chấp nhận một cách
bình thản sự trỗi dậy của Mỹ ở Tây bán cầu. Ngược lại, sự trỗi dậy của
Đức và Nhật Bản kết thúc bằng hai cuộc chiến tranh thế giới và sự hủy
diệt hệ thống chính trị ở hai nước này - thay thế bằng các chính thể hoàn
toàn mới và cách hành xử quốc tế hoàn toàn mới. Dân chủ, chứ không
phải những đặc điểm văn minh hoặc bất kỳ sự khác biệt to lớn về tầm
mức kinh tế quốc gia hiện nay so với những năm 1930, là lý do Đức và
Nhật Bản đã trở thành cường quốc hành xử đàng hoàng trong thời đại
chúng ta. Dù có ảnh hưởng to lớn, cả hai đều không là mối đe dọa cho
các nước khác như trước đây. Vai trò tương lai của Trung Quốc trên thế
giới sẽ được định đọat phần lớn bởi những gì xảy ra với hệ thống chính
trị lỗi thời của nước này trong hai thập kỷ sắp đến
Đôi khi ta quên rằng bất cứ ở đâu, khi nào, việc thăng được lên vị trí
bá chủ mới luôn luôn cần ba yếu tố: Một là ý muốn trở thành số một của
cường quốc đang lên, hai là khả năng đạt được mục tiêu đó, và ba là sự
chấp nhận cường quốc ấy về phía những nước chịu ảnh hưởng. Bắc Kinh
có ý muốn. Khả năng thì chưa rõ là có vượt ngoài tầm của họ hay không.
Nhưng liệu những nước ngòai Trung Quốc có chấp nhận họ chăng?
Đông Á vẫn còn giữ ký ức về Vương triều Trung tâm (Trung Quốc).
Mỗi người Việt Nam và Hàn Quốc đều biết thái độ ngạo mạn lâu đời của
triều đình Trung Quốc đối với các nước láng giềng. Tốt hoặc xấu,
khoảng 60 triệu người Hoa đang cư trú ở Đông Á bên ngoài CHNDTQ,
nhắc nhở Indonesia, Philippines, Malaysia, và các nước chủ nhà khác về
sự ưu việt của văn minh Trung Quốc trong khu vực; trong một số trường
hợp, tình trạng sống chung vẫn còn căng thẳng. Một nửa dân số Đài Loan
chống đối thẳng thừng ý định của Bắc Kinh “tái lập”sự cai trị hòn đảo
của họ, theo các cuộc thăm dò; trong một cuộc khảo sát năm 2002, 38%
coi mình như là người Đài Loan, 8% như người Hoa, 50% như là cả hai.
Trung Quốc đã qua nhiều thập kỷ tự xưng là nạn nhân: “bị cạo khóet
giống như một quả dưa”sau chiến tranh Nha phiến, bị bắt nạt bởi các “đế
quốc”phương Tây, vân vân.... Thành công ban đầu của họ như một nước
bá quyền sẽ nhanh chóng đặt ra những vấn đề về diện mạo của họ cũng
như nhiều hậu quả thực tế. Trung Quốc sẽ phát giác, như Mỹ đã đau đớn
phát giác, rằng một chúa tể mới lên của rừng xanh sẽ bị các vết cắn của
những con thú khác vừa bị đẩy ra ngòai. Một nước Nhật nhìn thấy Trung
Quốc áng Mỹ - một đồng minh chính của Nhật, một nước mà ưu thế
hàng đầu trong khu vực Đông Á đã khiến Nhật kềm chế trong sáu thập
kỷ - chắc chắn sẽ thách thức Trung Quốc. Một lần nữa, như trong năm
thập kỷ sau năm 1894, Trung Quốc và Nhật Bản sẽ giành giật nhau - và
có thể đánh nhau - để kiểm soát khu vực này.
Một Trung Quốc chuyên chế - lo lắng về khả năng kiểm soát chính
người Trung Quốc và không nắm giữ một cách thoải mái bán đế quốc
“phi Hán”ngay chính trong lãnh thổ của họ - sẽ có thể thiếu sự hấp dẫn
đạo đức để lãnh đạo châu Á. Có thể lý luận rằng đế quốc Trung Quốc
xưa, trong nhiều thế kỷ đã qua, là một thế lực ổn định, nhưng trong thế
kỷ 21, bất kỳ một động thái nào của Trung Quốc nhằm mở rộng đế quốc
của họ, hoặc chỉ để tiếp tục dài lâu các lĩnh vực đa quốc gia hiện tại của
họ, có lắm khả năng gây bất ổn.
Ở Liên Xô, đã có một liên hệ chặt chẽ giữa “đế quốc”và “chuyên
chính cộng sản”. Ở Trung Quốc cũng có một gắn kết tương tự. Cũng
như Nga, Trung Quốc là một mãnh đất rộng không có một đế quốc
nhưng là một đế quốc. Sự tan rã của Liên Xô kết thúc Chiến tranh Lạnh
cũng như làm nứt vở sự độc quyền chính trị của Đảng Cộng sản ở
Moscow. Điều Zbigniew Brzezinski nói về Moscow cũng đúng cho cả
Bắc Kinh: “Nga có thể là một đế quốc hay một nền dân chủ, nhưng
không thể là cả hai.”
Moscow, dưới áp lực, đang xác định lại những lợi ích quốc gia của ho,
khi họ để lại sau lưng nhiều thập kỷ là đế quốc cộng sản. Trung Quốc
hầu như mới chập chững bắt đầu tiến trình này. Các nhà lãnh đạo Trung
Quốc phải tự hỏi xem họ có thể cai trị suông sẻ một xã hội khác biệt với
Trung Quốc như Đài Loan ngày nay hay không. Họ có thể nên cân nhắc
liệu để cho Tây Tạng như là một nhà nước liên kết với Trung Quốc -
chắc chắn là dưới cái bóng của Trung Quốc, nhưng có chủ quyền - có thể
là tốt hơn so với sự căng thẳng dai dẳng giữa Lhasa và Bắc Kinh như nay
hay không. Những câu hỏi này chưa được nêu ra bởi vì Trung Quốc vẫn
còn trong quá trình chuyển đổi từ đế quốc cộng sản sang quốc gia hiện
đại, và còn bị giằng co giữa những gì họ muốn và những gì họ thực sự
cần. Các huyền thoại quốc gia (một “Trung Quốc nạn nhân”) đúng là lý
thú; nhưng sự mời gọi của lợi ích quốc gia (một “Trung Quốc thịnh
vượng”) có vẻ hấp dẫn hơn.
Còn nhiều vấn đề nữa về khả năng của Trung Quốc trở thành một bá
quyền toàn cầu. Bắc Kinh hiện nay không thể phóng sức mạnh của họ ra
xa; trong thảm họa sóng thần tháng 12 năm 2004 họ đã không thể làm
như vậy, ngay cả tới Nam và Đông Nam Á. Nhiều vấn đề chắc chắn sẽ
phát sinh ở châu Phi và châu Mỹ La tinh, bắt đầu với ngôn ngữ và bao
gồm cả chủng tộc và tôn giáo rồi văn hóa, nếu Trung Quốc tìm cách để
có tác động ở những khu vực mà châu Âu và Mỹ đã có ảnh hưởng. Ngoài
ra còn nhiều nghi ngờ rằng liệu Trung Quốc có đủ trang bị về mặt triết lý
cho sự thống trị thế giới theo cách mà nước Anh đã từng hưởng qua sức
mạnh trên biển, hoặc theo cách Mỹ hiện đang hưởng dựa trên các giao
dịch kinh doanh, sức mạnh quân sự, văn hóa đại chúng, và những ý niệm
về thị trường tự do và dân chủ. Ý thức về sức mạnh của chủ nghĩa Mao
chắc chắn là mạnh mẽ, giống như ý thức về “sứ mệnh”của người Anh-
Mỹ phát xuất từ đạo Tin Lành. Nhưng, nếu không có sự bén nhọn của
chủ nghĩa cộng sản thì chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc thiếu một thông
điệp cho thế giới. Nước Mỹ dưới thời Tổng thống George W. Bush rõ
ràng là có một thông điệp, ngay khi nó hầu như không thuyết phục đuợc
ai không phải là Mỹ. CHNDTQ hiện nay chẳng có thông điệp nào, nhưng
rất chuyên tâm trong việc kiểm soát trong nước và tham vọng có một bầu
ảnh hưởng.
Tôi nói về Trung Quốc như một nước có tham vọng. Nhưng có sẽ tốt
hơn cho Trung Quốc nếu họ là một cường quốc bảo thủ? Mỗi mệnh đề
đều có những người nhiệt tình ủng hộ, nhưng cả hai có một mối quan hệ
âm dương. Các yêu sách bành trướng của Bắc Kinh thì ai cũng thấy rõ
ràng và là độc nhất trong các cường quốc ngày nay. Tuy nhiên, chế độ
Bắc Kinh, tuy là chế độ độc tài, là một chế độ độc tài có lý trí. Họ biết
đếm các con số. Họ thường kiên nhẫn trong việc thực hiện các mục tiêu
của mình. Được trang bị với một lực lượng nòng cốt ngày càng nhiều
quan chức trẻ, được đào tạo bài bản, Bắc Kinh ngày nay không như các
triều đình nhà Minh và nhà Thanh xưa, lừa mị chính mình bằng những
hư cấu đẹp đẽ để che giấu sự cách biệt giữa thực tế và thế giới quan ưa
thích của Trung Quốc. Tóm lại, Trung Quốc là một cường quốc đầy tham
vọng, nếu phải chạm mặt với sức mạnh đối kháng, sẽ hành động thận
trọng trong chiến lược dài hạn của họ. Họ biết chắc có một danh sách
đáng nễ gồm các cường quốc như Mỹ, Nhật Bản, Nga, Ấn Độ ... có
nhiều lý do để từ chối cho Trung Quốc cơ hội làm Vương quốc Trung
tâm của thế kỷ 21. Trung Quốc không phải là yếu như họ dường như thế
khi còn là “một con bệnh của Châu Á.”Quốc gia này có thể cũng không
mạnh mẽ một cách bền vững như họ có vẻ hiện nay đối với những người
sợ hãi hay chiêm ngưỡng họ.
---------------------------
Compiled by Tran Ho Dung
Ross Terrill
Đại học Harvard, Mỹ
Khi Trung Quốc lần đầu tiên làm Mỹ tò mò vào cuối thế kỷ 18, chúng
ta muốn trà và lụa của họ. Các nhà truyền giáo Mỹ và các thương nhân
đến Quảng Châu và các cảng khác chẳng bận tâm nghĩ xem Trung Quốc
có thể muốn gì ở chúng ta - chỉ là phúc âm Kitô giáo, đồ tiêu dùng lặt vặt
và thuốc lá, dường như họ cho là như vậy. Trong nhiều năm kể từ khi ấy
đến nay, người Mỹ ít có dịp để cân nhắc lại câu hỏi này. Khuôn mẫu lịch
sử là nước Mỹ ảnh hưởng đến Trung Quốc, và động lực không ngang
bằng đó đạt đến cao điểm trong liên minh với chính phủ Quốc Dân Đảng
khập khễnh của Tưởng Giới Thạch chống các cường quốc phát xít trong
Thế Chiến thứ II. Trong những năm 1940, người ta nghĩ rằng ước vọng
Trung Quốc đơn giản chỉ là hồi phục từ ách thống trị của Nhật, sự nghèo
đói, mất đoàn kết, và tham nhũng.
Khi “Trung Quốc của chúng ta”(chính quyền Quốc Dân Đảng của
Tưởng Giới Thạch) bị tan thành khói vào cuối thập niên 1940, và những
người Cộng Sản chiếm lấy Bắc Kinh, thì Trung Quốc trở thành một Kẻ
Khác. Trong những năm gay gắt sau chiến thắng của Mao Trạch Đông
vào năm 1949, Trung Quốc đã vượt ra ngoài vùng ảnh hưởng của chúng
ta. Nhưng chúng ta vẫn biết Trung Quốc muốn gì: Mao đã cảnh báo
rằng ông sẽ ”nghiêng về một phía,”và ngay sau đó ông ta tuyên bố,
“Liên Xô hôm nay là ngày mai của Trung Quốc.”Chúng ta là “bọn đế
quốc”, và Mao chống lại chúng ta.
* Phỏng dịch bài “What does China Want?”, Wilson Quarterly, Mùa thu 2005.
†Ross Terrill, chuyên gia nghiên cứu ở Trung tâm Nghiên cứu Đông Á
Fairbank thuộc Đại học Harvard , là tác giả cuốn Mao (1999), Trung
Quốc trong Thời đại của chúng ta (1992), và Bà Mao (2000). Cuốn sách
gần đây nhất của ông, Đế chế Trung Hoa mới, được giải của Los Angeles
Times Book năm 2004.
Sau khi Moscow và Bắc Kinh xích mích vào đầu những năm 1960 và
chiến tranh Việt Nam leo thang sau đó trong cùng thập kỷ, thì những
mong muốn của Trung Quốc trở nên phức tạp hơn. Trong cái gọi là Cách
mạng Văn hóa của những năm 1960, những lĩnh vực Mao Trạch Đông
quan tâm có vẻ phi lý đối với Mỹ, cũng như đối với Moscow và hầu hết
các nước trên thế giới. Tuy nhiên, vào năm 1971 Bắc Kinh cho Tổng
thống Richard Nixon thấy là họ muốn nghiêng về phía Mỹ để giúp một
nước Mỹ mà họ cho là yếu đi đối trọng với sự nổi lên của Liên Xô.
Ngày nay, một lần nữa, các mục tiêu của Trung Quốc trở nên khó
nhận ra, nhưng sự hiểu biết các mục tiêu này lại bức xúc hơn bao giờ hết.
Sau khi Liên Xô tan rã vào năm 1991 và sự lan tràn của dân chủ trên
khắp thế giới, Trung Quốc là một hiện tượng khó hiểu: thành công kinh
tế dưới một chế độ cộng sản. Thế giới biết rõ Hoa Kỳ bênh vực cái gì: đó
là thị trường tự do và dân chủ ở bất cứ nơi nào có thể. Và cũng biết
Osama bin Laden muốn cái gì: đó là sự khôi phục thần quyền của các
giáo chủ đạo Hồi. Mục tiêu của Trung Quốc thì không rõ ràng như thế.
Người Trung Quốc nghĩ đến tiền, trong thời hậu Mao, hậu Liên Xô,
muốn gì? Câu hỏi này làm nhiều người Mỹ thắc mắc - và âu lo.
Mặc dù ảnh hưởng của Trung Quốc đã lên cao trong những năm qua,
Bắc Kinh vẫn còn xu hướng cư xử theo kiểu phản ứng, thay vì theo đuổi
những mục tiêu rõ rệt, ngoài biên giới của họ. (Nhấn mạnh của người
dịch: Bài này được xuất nản năm 2005.) Điều này làm một số người an
lòng, họ cho rằng Trung Quốc là một cường quốc thận trọng, thậm chí
bảo thủ. Và, trong mức độ nào đó, quốc gia ấy quả là vậy. Song đấy
không phải là trọn câu chuyện. Thật ra, Bắc Kinh chỉ cư xử kiểu phòng
thủ trong ba khía cạnh cơ bản: Một là, họ tự thấy mình như đang hồi
phục từ tình trạng lạc hậu kinh tế; hai là, họ đối phó, trong sự nản lòng
thầm lặng, với sự yếu đuối của họ so với sức mạnh của Mỹ, và ba là, họ
tham gia vào nhiều tổ chức quốc tế chỉ với mục đích hạn hẹp là để ngăn
ngừa chương trình nghị sự của các tổ chức này gây phiền toái cho Trung
Quốc. Cách hành xử phòng thủ này có thể cho ấn tượng rằng Bắc Kinh
có sự lưỡng lự: liệu nên tìm cách trở về vị trí đứng đầu châu Á như thời
đế quốc trước đây, thuở “Vương quốc Trung tâm”, hoặc nên tham gia cái
mà những người không phải Trung Quốc gọi là “cộng đồng quốc tế.”Tất
nhiên, có thể chỉ đơn giản là Trung Quốc đang chơi trò chờ thời, che giấu
những ý đồ mà hiện nay dường như quá khó thực hiện.
Không giống như Mỹ hay tuyên bố ầm ĩ các mục tiêu của họ, Trung
Quốc có vẻ muốn giữ các ý định của họ trong bọc kín. Nếu bạn đọc các
bài phát biểu của chủ tịch Hồ Cẩm Đào, cũng là lãnh đạo Đảng Cộng sản
và là người đứng đầu quân đội, hoặc những phát biểu của người tiền
nhiệm của ông là Giang Trạch Dân, thì “hòa bình và phát triển”dường
như là mục tiêu của chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Cụm từ này
đưa thông tin nhưng cũng đánh lạc hướng. Hòa bình và phát triển là
phương tiện chứ không phải là cứu cánh cho chính sách đối ngoại của
Bắc Kinh. Nói rằng chúng là mục tiêu của Trung Quốc thì cũng như nói
rằng mục tiêu ngày mai của Hồ Cẩm Đào là sẽ mặc quần và đánh răng.
Trong thế giới ngày nay, Trung Quốc là khác thường vì họ vừa một
phần là đế chế và một phần là quốc gia hiện đại. Một nhà nước đảng trị
theo chủ nghĩa Mác-Lênin hiện đại hóa đã được thiết lập trên một truyền
thống cai trị thành công rất lâu đời và tinh thần đế quốc nằm trong truyền
thống ấy. Đặc tính này kéo dài đế chế chuyên quyền vào một kỷ nguyên
mà các đế chế thường là đa quốc gia. Đáng kinh ngạc là Cộng sản Trung
Quốc thừa kế biên giới của đế chế nhà Thanh vào thời điểm cực đại, bao
gồm Tây Tạng, nam Mông Cổ, và tây Hồi có thời từng là Đông
Turkestan. Song, một Trung Quốc hiện đại hóa đang bị giằng co: Nên
tiếp tục đế chế vì vinh quang của Trung Quốc? Hay là theo một nền
chính trị hậu đế quốc tự nhiên nảy sinh từ xã hội và nền kinh tế mới như
hình ảnh của Thượng Hải, Quảng Châu, và Bắc Kinh hiện nay?
Lực thúc đẩy chuyển hóa Vương quốc Trung tâm ngày xưa thành một
bá quyền không dựa trên đạo lý Nho giáo nhưng trên quyền lực kinh tế,
là vẫn còn, nhưng gặp hai lực phản. Một là, đến một lúc nào đó, sự tùy
thuộc lẫn nhau giữa các nước về kinh tế và văn hóa trên thế giới sẽ đụng
đến tác phong gia trưởng chính trị. Hai là, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ, và
các cường quốc khác có thể sẽ không cho phép có một tân-Vương quốc
Trung tâm như thế.
Vì Trung Quốc là một nhà nước độc tài, ta không thể biết người dân
Trung Quốc muốn gì. Ta lại càng khó định hướng tương lai nền văn
minh Trung Quốc, chẳng hạn khó thể nói rằng nó sẽ “đụng độ”với đạo
Hồi hoặc với nền văn minh phương Tây hay không. Chúng ta có thể trả
lời câu hỏi về các mục tiêu của Trung Quốc chỉ dựa theo các hành động
của nhà nước độc đảng Bắc Kinh hiện nay. Chín ông “kỹ sư”làm nên Uỷ
ban thường vụ Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đang
tìm kiếm điều gì cho Trung Quốc? Chúng ta có thể nhận ra sáu mục tiêu
trong hành động của họ.
●
Trung Quốc theo đuổi một chính sách đối ngoại nhằm tối đa hóa sự
ổn định trong nước. Điều này cũng đúng với nhiều quốc gia khác, nhưng
với Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc (CHNDTQ) thì tầm quan trọng của
nó rất cao hơn. Bắc Kinh hậu-1949 ít khi xem việc kiểm soát nhân dân
của họ là việc dễ dàng, cũng như việc này đã không đuợc coi là dễ dàng
bởi các nhà cầm quyền Trung Quốc qua 150 năm bị nước ngoài chèn ép
và những khó khăn trong nước đánh dấu sự suy tàn của triều đại nhà
Thanh. Từ buổi đầu của CHNDTQ cho đến nay, Bắc Kinh luôn cảnh giác
việc bị mất khả năng kiểm soát các vùng xa xôi.
Ba tỉnh lớn nhất của Trung Quốc, Tân Cương, Tây Tạng và Nội
Mông về mặt lịch sử không phải lãnh thổ Trung Quốc, và người dân địa
phương ở đó khác biệt về tôn giáo, ngôn ngữ, văn hóa, và cách sống điển
hình so với người Hán. Đối phó với các nhóm dân thiểu số có thể thích
độc lập hơn là thích bị Trung Quốc thống trị đã khiến Bắc Kinh phải
dùng đến các biện pháp nửa thực dân. Ở Tây Tạng, giáo dục đại học chỉ
dành cho các những ai nói tiếng Hoa, cả vùng phía tây rộng lớn của
Trung Quốc đều theo giờ Bắc Kinh, và dân số Hồi giáo Duy Ngô Nhĩ
(Uyghur) ở Tân Cương đã được cố ý làm loãng ra bằng biện pháp nhập
cư nội bộ của Trung Quốc, đó chỉ là vài ví dụ. Ngoài ra, luận điệu của
ĐCSTQ như là nguồn mạch của sự thật cũng như của quyền lực tạo ra
nhiều khu vực cấm tinh thần phải được theo dõi sát. Bất kỳ khác biệt nào
về triết lý cũng bị xem, có hoặc không có biện minh, như là một mối đe
dọa chính trị đối với ĐCSTQ. Chế độ này tin bạn với tiền của bạn chứ
không tin bạn với đầu óc của bạn.
Năm 1998, trong một chuyến thăm Nhật Bản, Giang Trạch Dân đã
đọc 20 bài diễn văn gây sửng sốt về Thế Chiến thứ II. Trưởng thư ký nội
các Nhật Bản cuối cùng đã nản lòng mà nói rằng “chẳng phải những lỗi
lầm ấy đều đã ở sau lưng chúng ta rồi sao?”. Nhưng tội lỗi của Nhật Bản
trong quá khứ sẽ không bao giờ “ở đàng sau chúng ta”cả, khi nào mà
nhà nước đế quốc ở Bắc Kinh còn cảm thấy nhu cầu chứng tỏ sự chính
đáng của họ với người dân Trung Quốc bằng cách hét to “bọn quân phiệt
Nhật!”. Những bất an kiểu này định hình chính sách ngọai giao của
Trung Quốc. Vì vậy, những giao dịch với Nam Á là nhằm mục đích làm
suy yếu mối liên kết giữa Tây Tạng và chính phủ Tây Tạng lưu vong ở
Ấn Độ -- tương tự, nhiều giao dịch với Trung Á là nhằm làm giảm hy
vọng ly khai của người Duy Ngô Nhĩ (Uyghur) ở Tân Cương. Cũng
chính mục tiêu kiểm sóat trong nước đã chi phối chính sách của Trung
Quốc đối với Mông Cổ, Hàn Quốc, Thái Lan và các nước láng giềng
khác. Tóm lại, CHNDTQ là một bán đế chế đa dạng, với nhiều cư dân có
các liên hệ chủng tộc, tôn giáo, hoặc lịch sử với các dân tộc nằm ngay
bên kia biên giới của Trung Quốc. Và CHNDTQ là một chế độ chuyên
chế mà, dường như để đối phó với những ác mộng mà họ gây cho họ, cư
xử giống như những người cai trị sợ hãi người dân của chính họ.
Như thế, mục tiêu đầu tiên của Trung Quốc là sự ổn định nội bộ.
Mục tiêu thứ hai của chính sách ngoại giao của Bắc Kinh là duy trì
tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc. Khi chủ nghĩa Mác phai nhạt dần và
không có triết lý công cộng chính thức nào thay thế nó thì một mức sống
được nâng cao và niềm tự hào quốc gia đã chính đáng hóa một chế độ
không bao giờ phải đối mặt với bầu cử. Những thành tựu kinh tế trong
phần tư thế kỷ kể từ khi Đặng Tiểu Bình cầm quyền lãnh đạo trong thời
kỳ hậu-Mao chắc chắn là đáng được giữ gìn. Nền kinh tế đã tăng gấp bốn
lần về kích cỡ, và tốc độ tăng trưởng hàng năm vẫn tiếp tục ở mức 8-9%
(theo số liệu của chính phủ). Ngoại thương nói chung đã tăng gấp 10;
gần đây, khối lượng giao thương với nước ngoài đã tăng lên 25% mỗi
năm. Sự tăng trưởng kinh tế hậu-Mao được đẩy mạnh bởi vốn nước
ngoài, và các khu vực đô thị ven biển được hưởng lợi nhiều nhất từ
thương mại, công nghệ và kỹ năng quản lý mà đầu tư này mang lại.
Nông dân đã khá hơn trong những đợt cải cách đầu tiên, nhưng sau đó thì
đã bị tụt lại phía sau cư dân thành phố một cách thê thảm, chỉ vào khoảng
15% nông dân được hưởng những thứ thường có trong cuộc sống của
tầng lớp trung lưu hiện đại: điện thoại di động, truy cập internet, xe hơi,
sở hữu nhà, và du lịch ra nước ngòai.
Bắc Kinh đang cẩn thận hoạch định một chính sách đối ngoại để duy
trì tăng trưởng kinh tế, nhằm bảo toàn tính chính đáng của chế độ. Đó là
lý do khiến Trung Quốc đã phải chấp nhận các đòi hỏi khắt khe của Mỹ
và những nước khác để được gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới vào
năm 2001, cũng do đó mà Trung Quốc có những hành động tung hứng
tương đối minh bạch về tỉ giá giữa nhân dân tệ và đô la, và cũng do đó có
sự tự kềm chế của Trung Quốc trong tháng sáu vừa qua khi Úc cho phép
một nhà ngoại giao đào thoát của Trung Quốc được quy chế thường trú
tại Úc. (Trung Quốc ngày càng phụ thuộc vào khí thiên nhiên hóa lỏng,
than đá, và quặng sắt của Úc.) Chắc chắn một phần để tránh thiệt hại cho
lượng xuất khẩu khổng lồ của Trung Quốc sang thị trường Mỹ mà Bắc
Kinh đã đình chỉ các vụ thử tên lửa khiêu khích tổ chức ngoài bờ biển
của Đài Loan nhằm biểu lộ sự không hài lòng của Trung Quốc đối với
một ứng cử viên ủng hộ độc lập trong cuộc bầu cử tổng thống của hòn
đảo này năm1996. (Tổng thống Bill Clinton đã phái hai tàu sân bay đến
vùng lân cận.) Và vào năm 2001, sau một vụ va chạm giữa các máy bay
quân sự của Mỹ và của Trung Quốc gần đảo Hải Nam, Bắc Kinh đột
ngột ngưng những lời to tiếng “chống bá quyền”ban đầu của họ và trao
trả toàn bộ nhân viên phi hành Mỹ - một lần nữa để bảo vệ mối quan hệ
song phương cốt lõi cần cho việc đẩy mạnh hiện đại hóa kinh tế của
Trung Quốc.
Mục tiêu thứ ba của chính sách đối ngoại của Bắc Kinh là duy trì một
môi trường hòa bình trong vị trí địa lý phức tạp của Trung Quốc.
CHNDTQ là nước duy nhất trên thế giới phải đối phó với 14 nước láng
giềng tiếp giáp, bảy trong số đó chia sẻ đường biên giới dài hơn 600
dặm, và bốn nước khác gần bên bờ biển quá dài của Trung Quốc. Trong
30 năm đầu của chế độ, CHNDTQ đã tiến hành chiến tranh với tất cả
năm nước cạnh bên sườn của họ. Trong chiến tranh Triều Tiên, họ phải
chịu thiệt hại với hơn một triệu thương vong. Trung Quốc đã đánh nhau
với Ấn Độ vào năm 1959 và 1962. Họ đã gửi 320.000 cán bộ kỹ thuật và
bộ đội phòng không giúp Hồ Chí Minh giành chiến thắng trong chiến
tranh Việt Nam. Năm 1969, hai nước xem là xã hội chủ nghĩa anh em là
Moscow và Bắc Kinh đã vung kiếm đánh nhau ở sông Amur và Ussuri
phía đông bắc. Trong năm 1979, Trung Quốc của Đặng Tiểu Bình tấn
công Việt Nam để “dạy cho Hà Nội một bài học”.
Đáng khen cho Trung Quốc và đáng làm cho các nước châu Á nhẹ
nhỏm, vào những năm 1980 Bắc Kinh đã theo đuổi một chính sách đối
ngoại mới của “những nụ cười về mọi phía”, mà họ gọi là một “chính
sách hòa bình và độc lập.”Không tiến hành thêm chiến tranh sau năm
1979, Bắc Kinh nhanh chóng làm dịu các mối quan hệ với Liên Xô, hàn
gắn hàng rào bị vỡ với Indonesia, bất ngờ công nhận Hàn Quốc và nhét
khăn vào cổ họng giận dữ của Bắc Triều Tiên, thiết lập và chia sẻ nhiệm
vụ người canh cổng với Moscow ở Trung Á, tham gia sinh hoạt các tổ
chức quốc tế hàng tháng, và cuối cùng trở nên dính chặt với Hoa Kỳ
(ngoại trừ trong mối quan hệ quân sự) hơn bất cứ lúc nào trong lịch sử
Trung Quốc. Trong một sự thay đổi rất nổi bật từ những cái đã là đúng
đối với hầu hết lịch sử của CHNDTQ, Bắc Kinh ngày nay không có kẻ
thù.
Sự thận trọng chờ thời vẫn đang tiếp tục. Trong các cuộc đàm phán
sáu bên đang diễn ra hiện nay (Bài này đăng năm 2005 - Người dịch) về
bán đảo Triều Tiên, Bắc Kinh với kiểu cách mập mờ, đang theo đuổi một
chính sách (không nằm trong lợi ích của Mỹ) gìn giữ hòa bình bằng cách
bám vào tình trạng hiện hữu. Một đất nước Triều Tiên bị chia cắt, dù
vẫn tiếp tục với những quay cuồng sởn tóc gáy trong chính sách của Bình
Nhưỡng, sẽ tốt cho Trung Quốc hơn là một Triều Tiên thống nhất với
định hướng khó tiên đoán. Ở Trung Á cũng vậy, Bắc Kinh chỉ chọn “các
cuộc đàm phán”về phân định cắm mốc biên giới và về các vấn đề “ly
khai”đùng đẩy các vấn đề xuống dưới thảm và duy trì nguyên trạng.
Khi bước sang thế kỷ 21 thì rõ ràng là Bắc Kinh đã không còn theo
chính sách “những nụ cười về mọi phía”, họ đổi sang đặt định nền móng
cho một phiên bản Trung Quốc của Học thuyết Monroe ở Đông Á. Mục
tiêu thứ tư này của Trung Quốc tất nhiên là không được nói ra. Trung
Quốc cố thay thế Mỹ trong vai trò gây ảnh hưởng chính yếu ở Đông Á.
Thật không may, các dự án do Washington cầm đầu ở Afghanistan và
Iraq có thể đã làm cho chính quyền của Tổng thống Bush và công chúng
Mỹ quên để ý sự chuẩn bị mà Bắc Kinh đang tiến hành cho sự thống trị
trong tương lai. Đáng lẽ Mỹ phải chú tâm sát sao tới những động thái
này.
Mục tiêu thứ tư dựa vào uy tín lên cao của Trung Quốc do không bị
xáo trộn bởi hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998,
và vào sự thành công kinh tế trong hai thập kỷ của nước này. Cụ thể hơn,
dù vẫn là tiêu cực, chủ đích của Trung Quốc trở nên khá rõ ràng. Trên
một ít vấn đề toàn cầu mà các lợi ích Trung Quốc và Mỹ trùng hợp, hoặc
Bắc Kinh không thể chống lại một cách có hiệu quả chính sách của Mỹ,
thì hoặc họ sẽ đi theo Mỹ, hoặc “bỏ phiếu vắng mặt”, hoặc phản đối
Washington một cách yếu ớt. Nhưng ở châu Á, các nhà lãnh đạo Trung
Quốc đang làm nhiều thứ để làm nãn lòng và loại Mỹ ra ngòai. Họ tìm
cách chèn một cây nêm giữa Nhật Bản và Mỹ trong mọi cơ hội. Họ thì
thầm trong tai Australia rằng sẽ tốt cho Canberra hơn nếu chỉ nhìn Châu
Á chứ không nhìn qua bên kia Thái Bình Dương. Trong tháng mười hai
(năm 2005, chú thích của người dịch), một cột mốc quan trọng là ở hội
nghị thượng đỉnh Đông Á họp tại Malaysia mà không có đại diện của
Mỹ, một phần vì áp lực của Trung Quốc. Bắc Kinh coi hội nghị thượng
đỉnh này như một bước tiến tới hình thành một tổ chức khu vực Đông Á
không bao gồm Mỹ.
Trên diễn trường Đông Nam Á, có thể nghe không nhầm lẫn khúc dạo
đầu một Học thuyết Monroe Trung Quốc ở Myanmar và ở nhiều nước
khác. Myanmar nhận được viện trợ đáng kể của Trung Quốc, bao gồm cả
kinh phí cho các dự án cơ sở hạ tầng quan trọng. Các nhà lãnh đạo
Myanmar lo ngại việc Hán hóa ở miền bắc Myanmar, nơi mà người gốc
Hán sống và buôn bán. Nhưng cũng giống như nước Myanmar chư hầu
ngày xưa phải triều cống cho thiên triều Trung Quốc trong nhiều thế kỷ,
những nụ cười với Bắc Kinh là một chính sách bảo hiểm cho Myanmar.
Kết quả là Myanmar đã bước vào vòng ảnh hưởng của Trung Quốc như
Lào hiện nay. Thái Lan và thậm chí Malaysia có thể là các ứng viên
trong tương lai.
Trong khi ấy, Bắc Kinh vun quén một nhận thức về Trung Quốc như
một nước ngang bằng với Mỹ - mục tiêu quý giá thứ năm. Hãy xem
chuyến viếng thăm Mỹ của Giang Trạch Dân năm 1997. Tờ New York
Times tường thuật “Các nhà đàm phán Mỹ chuẩn bị cho chuyến thăm nói
rằng họ bối rối về cách mà các đối tác Trung Quốc của họ dường như tỏ
ra coi trọng quá mức các chi tiết về nghi thức và biểu tượng.”Những thứ
này bao gồm kích thước và màu sắc của thảm, vị trí trong các bức ảnh sẽ
chụp của ông Giang, của biểu tượng Veritas của Đại học Harvard và
chuông Tự Do của Philadelphia, và kiểu dáng và mẫu mã các cà vạt của
Giang Trạch Dân và Tổng thống Clinton sẽ mang. Tất cả các chi tiết đó
đã được dàn dựng để làm nổi thêm hình ảnh Trung Quốc là ngang hàng
với Mỹ. Sau chuyến viếng thăm, một xã luận của tờ (New York)
Times chắc đã làm phấn khởi Bắc Kinh: “[Ông Giang] đã dùng sự xuất
hiện của ông với ông Clinton để tự thể hiện mình như một chính khách
có thể gặp gỡ một cách ngang hàng với nhà lãnh đạo của quốc gia giàu
nhất và mạnh nhất thế giới.”
Năm sau đó, Clinton đi Trung Quốc, và Bắc Kinh cũng lặp lại bài bản
tương tự cố đánh ra cú đấm vượt quá hạng cân của mình. Đàm phán
quyết liệt để cho Clinton không ghé qua Nhật trên đường đi - một cách
để cho thấy đó chính là chuyến thăm Trung Quốc chứ không phải nước
nào khác - và kéo dài chuyến thăm này thành tám ngày để nó có thể hơn
bảy ngày lịch sử ma Nixon đã dành ở Trung Quốc vào năm 1972. Trong
một bài phát biểu mật sau chuyến thăm này, Thủ tướng Trung Quốc bày
tỏ sự hài lòng rằng Clinton “không dừng chân tại Nhật Bản trên đường
đến Trung Quốc... với kết quả là Nhật Bản đã bị mất mặt.”Báo chí chính
thức Trung Quốc chộp ngay lấy bất kỳ mảnh bình luận từ bên ngoài
Trung Quốc cho rằng Clinton và Giang Trạch Dân đã gặp nhau như hai
lãnh đạo ngang bằng. Họ tuyên bố rằng “hai nhà lãnh đạo cùng với nhau”
(quên đi châu Âu, Nhật Bản, và Ấn Độ) đã làm Châu Á “ổn định hơn”và
“thế giới hòa bình hơn”.
Mục tiêu thứ sáu của chính sách ngọai giao Trung Quốc là “lấy lại”
những vùng lãnh thổ mà Bắc Kinh cho là theo đúng lẽ thì thuộc về
CHNDTQ. Danh sách các vùng lãnh thổ mà họ cho là như vậy gồm từ
những khu vực mà họ công khai tuyên bố là của họ cho đến những khu
vực mà họ bí mật hi vọng sẽ có ngày chiếm đọat. Danh sách ấy gồm Đài
Loan và một số lớn các đảo trong vùng biển Hoàng Hải, biển Nam Trung
Hoa (Biển Đông), và Biển Đông Trung Hoa. Trong trường hợp Đài
Loan, Bắc Kinh đang chờ đợi một thời cơ kết hợp diễn biến thuận lợi
(theo Bắc Kinh) trong chính trị nội bộ Đài Loan, sự mệt mỏi của Mỹ do
căng thẳng hỗ trợ Đài Loan, khả năng lớn hơn của Trung Quốc vận
chuyển binh lính và trang thiết bị nhanh chóng vượt qua eo biển Đài
Loan rộng 100 dặm, và một Nhật Bản dễ uốn theo mong muốn của
Trung Quốc hơn hiện nay. Trong trường hợp quần đảoTrường Sa, trải dài
qua các tuyến đường biển rất quan trọng ở Đông Nam Á và có yêu sách
chủ quyền từng phần của sáu quốc gia, Bắc Kinh đang chờ đợi đủ năng
lực hải quân để “khôi phục lại”quyền kiểm soát các đảo về cơ bản là
không có người ở nhưng giàu dầu mỏ và các nguồn tài nguyên khác này.
Không ít người Việt Nam, Hàn Quốc, Thái Lan, và Ấn Độ cũng dự kiến
rằng Trung Quốc, khi có thể, sẽ đưa ra đòi hỏi chủ quyền đối với một số
phần của lãnh thổ của họ có lần thuộc Trung Quốc khi xưa.
Về khát vọng của Trung Quốc đối với vùng lãnh thổ trên sườn phía
bắc của họ, Mao đã nói điều này vào năm 1964: “Khu vực phía đông của
hồ Baikal là của chúng ta đã trở thành lãnh thổ của Nga khoảng 100 năm
trước đây và kể từ đó Vladivostok, Khabarovsk, Kamchatka, và các khu
vực khác cũng là lãnh thổ của Liên Xô. Chúng ta chưa đưa ra chứng cứ
của chúng ta về danh sách này. Chúng ta có thể đưa ra chứng cứ khi
đúng lúc.”Đến năm 1973, Mao kéo dài thêm danh sách các vùng lãnh
thổ ông cảm thấy đã bị Moscow đánh cắp. Trong một cuộc trò chuyện về
các chủ đề khác với Ngoại trưởng Henry Kissinger, đột nhiên ông than
phiền “Liên bang Xô viết đã xẻo bớt của Trung Quốc một triệu rưởi
kilomét vuông.”Trong những năm 1960 và 1970, cũng đảng Cộng sản
hiện cầm quyền ở Bắc Kinh đã tuyên bố nhiều phần của Kazakhstan,
Tajikistan và Kyrgyzstan ngày nay là các bộ phận của lãnh thổ Trung
Quốc. Nếu sự nắm giữ của Nga đối với vùng Viễn Đông yếu đi, và sự
qua lại của người Trung Quốc sống và buôn bán trong các khu vực biên
giới tiếp tục, Trung Quốc có thể “đưa ra chứng cứ chủ quyền”đối với
một phần của Siberia.
Chẳng phải lúc nào một cường quốc đang lên cũng đạt được mục tiêu
của mình. Đối với các quốc gia chuyên chế thời hiện đại, những thành
công của họ hầu hết đều ngắn ngủi. Các mục tiêu của cả ba cường quốc
phát xít gây ra Chiến tranh thế giới II, đã đột ngột bị dập tắt năm 1945,
và các mục tiêu đối ngoại của khối Xô Viết cũng đã biến mất không còn
dấu vết sau năm 1991. Tôi tin rằng Trung Quốc có sẽ đạt được sáu mục
tiêu của chính sách đối ngoại của họ hay không là tùy thuộc vào hệ thống
chính trị của họ và vào phản ứng của các cường quốc khác sẽ là thế nàđối
với những tham vọng của nước ấy.
Màn kịch trong tương lai cận kề của Trung Quốc có thể sẽ diễn ra
chẳng phải trong quan hệ đối ngoại nhưng ở trong nước: Đòi hỏi của của
giới trung lưu đối với quyền sở hữu, sự bất mãn ở nông thôn, Internet,
150 triệu người thất nghiệp lang thang giữa làng mạc và thành phố, và
một dân số thình lình lão hóa đang gây ra những căng thẳng tài chính và
xã hội, sẽ kịch tính hoá một số những mâu thuẫn của “chủ nghĩa Lenin
thị trường.”Đi một đường trong kinh tế và một đường khác trong chính
trị gây ra khó khăn trong việc đi tới một điểm đích quy định. Cách thức
mà Trung Quốc giải quyết các mâu thuẫn giữa chính trị và kinh tế của họ
sẽ xác định mức độ mạnh mẽ như thế nào vai trò mà họ sẽ giữ trên thế
giới.
Sự trỗi dậy hiện nay của Trung Quốc, giống như sự nổi lên của Đức
và Nhật cuối thế kỷ 19, thể hiện cao vọng, lòng bất bình, và chủ nghĩa
dân tộc cao độ. Tuy nhiên, sự trỗi dậy của các quốc gia có nhiều hậu quả
khác nhau. Chẳng hạn Vương quốc Anh cuối cùng chấp nhận một cách
bình thản sự trỗi dậy của Mỹ ở Tây bán cầu. Ngược lại, sự trỗi dậy của
Đức và Nhật Bản kết thúc bằng hai cuộc chiến tranh thế giới và sự hủy
diệt hệ thống chính trị ở hai nước này - thay thế bằng các chính thể hoàn
toàn mới và cách hành xử quốc tế hoàn toàn mới. Dân chủ, chứ không
phải những đặc điểm văn minh hoặc bất kỳ sự khác biệt to lớn về tầm
mức kinh tế quốc gia hiện nay so với những năm 1930, là lý do Đức và
Nhật Bản đã trở thành cường quốc hành xử đàng hoàng trong thời đại
chúng ta. Dù có ảnh hưởng to lớn, cả hai đều không là mối đe dọa cho
các nước khác như trước đây. Vai trò tương lai của Trung Quốc trên thế
giới sẽ được định đọat phần lớn bởi những gì xảy ra với hệ thống chính
trị lỗi thời của nước này trong hai thập kỷ sắp đến
Đôi khi ta quên rằng bất cứ ở đâu, khi nào, việc thăng được lên vị trí
bá chủ mới luôn luôn cần ba yếu tố: Một là ý muốn trở thành số một của
cường quốc đang lên, hai là khả năng đạt được mục tiêu đó, và ba là sự
chấp nhận cường quốc ấy về phía những nước chịu ảnh hưởng. Bắc Kinh
có ý muốn. Khả năng thì chưa rõ là có vượt ngoài tầm của họ hay không.
Nhưng liệu những nước ngòai Trung Quốc có chấp nhận họ chăng?
Đông Á vẫn còn giữ ký ức về Vương triều Trung tâm (Trung Quốc).
Mỗi người Việt Nam và Hàn Quốc đều biết thái độ ngạo mạn lâu đời của
triều đình Trung Quốc đối với các nước láng giềng. Tốt hoặc xấu,
khoảng 60 triệu người Hoa đang cư trú ở Đông Á bên ngoài CHNDTQ,
nhắc nhở Indonesia, Philippines, Malaysia, và các nước chủ nhà khác về
sự ưu việt của văn minh Trung Quốc trong khu vực; trong một số trường
hợp, tình trạng sống chung vẫn còn căng thẳng. Một nửa dân số Đài Loan
chống đối thẳng thừng ý định của Bắc Kinh “tái lập”sự cai trị hòn đảo
của họ, theo các cuộc thăm dò; trong một cuộc khảo sát năm 2002, 38%
coi mình như là người Đài Loan, 8% như người Hoa, 50% như là cả hai.
Trung Quốc đã qua nhiều thập kỷ tự xưng là nạn nhân: “bị cạo khóet
giống như một quả dưa”sau chiến tranh Nha phiến, bị bắt nạt bởi các “đế
quốc”phương Tây, vân vân.... Thành công ban đầu của họ như một nước
bá quyền sẽ nhanh chóng đặt ra những vấn đề về diện mạo của họ cũng
như nhiều hậu quả thực tế. Trung Quốc sẽ phát giác, như Mỹ đã đau đớn
phát giác, rằng một chúa tể mới lên của rừng xanh sẽ bị các vết cắn của
những con thú khác vừa bị đẩy ra ngòai. Một nước Nhật nhìn thấy Trung
Quốc áng Mỹ - một đồng minh chính của Nhật, một nước mà ưu thế
hàng đầu trong khu vực Đông Á đã khiến Nhật kềm chế trong sáu thập
kỷ - chắc chắn sẽ thách thức Trung Quốc. Một lần nữa, như trong năm
thập kỷ sau năm 1894, Trung Quốc và Nhật Bản sẽ giành giật nhau - và
có thể đánh nhau - để kiểm soát khu vực này.
Một Trung Quốc chuyên chế - lo lắng về khả năng kiểm soát chính
người Trung Quốc và không nắm giữ một cách thoải mái bán đế quốc
“phi Hán”ngay chính trong lãnh thổ của họ - sẽ có thể thiếu sự hấp dẫn
đạo đức để lãnh đạo châu Á. Có thể lý luận rằng đế quốc Trung Quốc
xưa, trong nhiều thế kỷ đã qua, là một thế lực ổn định, nhưng trong thế
kỷ 21, bất kỳ một động thái nào của Trung Quốc nhằm mở rộng đế quốc
của họ, hoặc chỉ để tiếp tục dài lâu các lĩnh vực đa quốc gia hiện tại của
họ, có lắm khả năng gây bất ổn.
Ở Liên Xô, đã có một liên hệ chặt chẽ giữa “đế quốc”và “chuyên
chính cộng sản”. Ở Trung Quốc cũng có một gắn kết tương tự. Cũng
như Nga, Trung Quốc là một mãnh đất rộng không có một đế quốc
nhưng là một đế quốc. Sự tan rã của Liên Xô kết thúc Chiến tranh Lạnh
cũng như làm nứt vở sự độc quyền chính trị của Đảng Cộng sản ở
Moscow. Điều Zbigniew Brzezinski nói về Moscow cũng đúng cho cả
Bắc Kinh: “Nga có thể là một đế quốc hay một nền dân chủ, nhưng
không thể là cả hai.”
Moscow, dưới áp lực, đang xác định lại những lợi ích quốc gia của ho,
khi họ để lại sau lưng nhiều thập kỷ là đế quốc cộng sản. Trung Quốc
hầu như mới chập chững bắt đầu tiến trình này. Các nhà lãnh đạo Trung
Quốc phải tự hỏi xem họ có thể cai trị suông sẻ một xã hội khác biệt với
Trung Quốc như Đài Loan ngày nay hay không. Họ có thể nên cân nhắc
liệu để cho Tây Tạng như là một nhà nước liên kết với Trung Quốc -
chắc chắn là dưới cái bóng của Trung Quốc, nhưng có chủ quyền - có thể
là tốt hơn so với sự căng thẳng dai dẳng giữa Lhasa và Bắc Kinh như nay
hay không. Những câu hỏi này chưa được nêu ra bởi vì Trung Quốc vẫn
còn trong quá trình chuyển đổi từ đế quốc cộng sản sang quốc gia hiện
đại, và còn bị giằng co giữa những gì họ muốn và những gì họ thực sự
cần. Các huyền thoại quốc gia (một “Trung Quốc nạn nhân”) đúng là lý
thú; nhưng sự mời gọi của lợi ích quốc gia (một “Trung Quốc thịnh
vượng”) có vẻ hấp dẫn hơn.
Còn nhiều vấn đề nữa về khả năng của Trung Quốc trở thành một bá
quyền toàn cầu. Bắc Kinh hiện nay không thể phóng sức mạnh của họ ra
xa; trong thảm họa sóng thần tháng 12 năm 2004 họ đã không thể làm
như vậy, ngay cả tới Nam và Đông Nam Á. Nhiều vấn đề chắc chắn sẽ
phát sinh ở châu Phi và châu Mỹ La tinh, bắt đầu với ngôn ngữ và bao
gồm cả chủng tộc và tôn giáo rồi văn hóa, nếu Trung Quốc tìm cách để
có tác động ở những khu vực mà châu Âu và Mỹ đã có ảnh hưởng. Ngoài
ra còn nhiều nghi ngờ rằng liệu Trung Quốc có đủ trang bị về mặt triết lý
cho sự thống trị thế giới theo cách mà nước Anh đã từng hưởng qua sức
mạnh trên biển, hoặc theo cách Mỹ hiện đang hưởng dựa trên các giao
dịch kinh doanh, sức mạnh quân sự, văn hóa đại chúng, và những ý niệm
về thị trường tự do và dân chủ. Ý thức về sức mạnh của chủ nghĩa Mao
chắc chắn là mạnh mẽ, giống như ý thức về “sứ mệnh”của người Anh-
Mỹ phát xuất từ đạo Tin Lành. Nhưng, nếu không có sự bén nhọn của
chủ nghĩa cộng sản thì chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc thiếu một thông
điệp cho thế giới. Nước Mỹ dưới thời Tổng thống George W. Bush rõ
ràng là có một thông điệp, ngay khi nó hầu như không thuyết phục đuợc
ai không phải là Mỹ. CHNDTQ hiện nay chẳng có thông điệp nào, nhưng
rất chuyên tâm trong việc kiểm soát trong nước và tham vọng có một bầu
ảnh hưởng.
Tôi nói về Trung Quốc như một nước có tham vọng. Nhưng có sẽ tốt
hơn cho Trung Quốc nếu họ là một cường quốc bảo thủ? Mỗi mệnh đề
đều có những người nhiệt tình ủng hộ, nhưng cả hai có một mối quan hệ
âm dương. Các yêu sách bành trướng của Bắc Kinh thì ai cũng thấy rõ
ràng và là độc nhất trong các cường quốc ngày nay. Tuy nhiên, chế độ
Bắc Kinh, tuy là chế độ độc tài, là một chế độ độc tài có lý trí. Họ biết
đếm các con số. Họ thường kiên nhẫn trong việc thực hiện các mục tiêu
của mình. Được trang bị với một lực lượng nòng cốt ngày càng nhiều
quan chức trẻ, được đào tạo bài bản, Bắc Kinh ngày nay không như các
triều đình nhà Minh và nhà Thanh xưa, lừa mị chính mình bằng những
hư cấu đẹp đẽ để che giấu sự cách biệt giữa thực tế và thế giới quan ưa
thích của Trung Quốc. Tóm lại, Trung Quốc là một cường quốc đầy tham
vọng, nếu phải chạm mặt với sức mạnh đối kháng, sẽ hành động thận
trọng trong chiến lược dài hạn của họ. Họ biết chắc có một danh sách
đáng nễ gồm các cường quốc như Mỹ, Nhật Bản, Nga, Ấn Độ ... có
nhiều lý do để từ chối cho Trung Quốc cơ hội làm Vương quốc Trung
tâm của thế kỷ 21. Trung Quốc không phải là yếu như họ dường như thế
khi còn là “một con bệnh của Châu Á.”Quốc gia này có thể cũng không
mạnh mẽ một cách bền vững như họ có vẻ hiện nay đối với những người
sợ hãi hay chiêm ngưỡng họ.
---------------------------
Compiled by Tran Ho Dung
28/9/11
Xấu xa hơn cả bọn ăn thịt người ( Worse than Cannibals )
Xấu xa hơn cả bọn ăn thịt người
Harry Kreisler phỏng vấn Daniel Ellsberg
Nguyên tác:
Worse than Cannibals
Guernica, tháng 1-2010
Lời giới thiệu của người dịch: Trong một phần tư thế kỉ Mĩ can thiệp ở Việt Nam (1950-1975), nhất là trong những năm quân đội Hoa Kỳ trực tiếp tham gia chiến trận (1965-1973) với hơn 3 triệu binh lính, hàng triệu người Mĩ đã lên tiếng chống lại chính sách chiến tranh, bằng những hình thức và mức độ khác nhau. Họ là những trí thức, sinh viên, thanh niên, mục sư, linh mục, nghệ sĩ… Họ là những người có tên tuổi do sự nghiệp, chức vị, như Martin Luther King, Noam Chomsky, Benjamin Spock, Jane Fonda… hoặc là những người mà dư luận chỉ biết tên qua hành động chống chiến tranh dũng cảm như Angela Davis, hai linh mục anh em Daniel và Philip Berrigan (vào tù vì chống chiến tranh), Norman Morrison (tín đồ Quaker, tự thiêu trước Lầu năm góc)… Đằng sau họ, chung quanh họ là hàng triệu người “vô danh” đã “biểu tình ngồi”, “biểu tình đứng”, “biểu tình đi vòng quanh”, đốt thẻ quân dịch, chấp nhận án tù hay lưu đầy để không tham gia cuộc chiến tranh phi nghĩa.
Trong những con người ấy, Daniell Ellsberg giữ một vị trí đặc biệt. Anh thuộc thế hệ và loại người mà nhà báo Mĩ David Halberstam gọi là “ The Best and the Brightest ” (những con người ưu tú và xuất sắc nhất), những cá nhân giỏi giang được tuyển mộ vào chính quyền Mĩ, trở thành những cộng sự viên đắc lực nhất của tổng thống Hoa Kì. Sinh năm 1931, Daniel Ellsberg là một điển hình của mẫu người “văn võ toàn tài” kiểu Mĩ: tiến sĩ kinh tế học (Trường đại học Harvard, 1962), tốt nghiệp thủ khoa khoá đào tạo 1100 thiếu uý Thuỷ quân lục chiến (Marine Corps Basic School, Quantico, Virginia). Sau hai năm phục vụ trong quân chủng “sừng sỏ” này, Ellsberg vào làm “phân tích viên” của tập đoàn RAND. Từ đó cho đến mùa hè năm 1969, với tư cách là nhân viên của “think tank” này, hay với tư cách là viên chức của chính quyền, ở Lầu năm góc, Việt Nam hay Nhà Trắng, Ellsberg đã làm việc với những cánh tay mặt của các tổng thống (Kennedy, Johnson, Nixon) như Robert McNamara (bộ trưởng quốc phòng của Kennedy và Johnson), Edward Lansdale (CIA, cha đỡ đầu của chế độ Việt Nam cộng hoà), Henry Kissinger (cố vấn an ninh của Nixon).
Là một trong vài ba người đã được đọc toàn bộ 7000 trang tài liệu “mật” mang tên “Hồ sơ Lầu năm góc” (Pentagon Papers) và đã chứng kiến từ bên trong chính sách “nói một đàng làm một nẻo” ở Việt Nam của “5 đời tổng thống” (từ Harry Truman đến Richard Nixon), Ellsberg bắt đầu tham gia những cuộc biểu tình chống chiến tranh, gặp những người sẵn sàng vào tù để lên án cuộc chiến tranh phi nghĩa và vô vọng. Cuối cùng là quyết định công bố Pentagon Papers, như ông kể lại trong cuộc phỏng vấn này.
Điều mà bài phỏng vấn không đề cập là những gì diễn ra trước và sau khi công bố. Xin nhắc lại vài mốc chính:
* trong suốt năm 1970, D. Ellsberg tìm cách thuyết phục những thượng nghị sĩ phản đối chiến tranh – như J. William Fulbright, chủ tịch Uỷ ban đối ngoại Thượng viện, George McGovern, người sẽ ra tranh cử với Nixon năm 1972 – hãy công bố Hồ sơ Lầu năm góc ngay tại hội trường Thượng viện, nhưng không người nào dám làm việc này.
* D. Ellsberg đành cung cấp bộ tài liệu mật cho kí giả Neil Sheehan: ngày chủ nhật 13.6.1971, báo The New York Times công bố phần đầu trong 9 phần trích đoạn 7000 trang hồ sơ. Toà án, theo yêu cầu của chính quyền Nixon, ra lệnh cho New York Times phải ngừng công bố. Ellsberg trao hồ sơ cho The Washington Post và 17 nhật báo khác trước khi “rút vào vòng bí mật” vì, tuy The New York Times không tiết lộ danh tính, ông tin rằng chính quyền sẽ biết chính ông là nguồn gốc của sự “rò rỉ” này.
* Ngày 29.6.1971, thượng nghị sĩ Mike Gravel (bang Alaska) cho đăng 4 100 trang Hồ sơ Lầu năm góc vào ấn bản của một tiểu ban Thượng viện. Tài liệu này sau đó được nhà xuất vản Beacon Press phát hành dưới tên gọi “ấn bản Gravel”. (trước đó một ngày, Ellsberg ra trình diện trước công lý, đến tháng 1.1973 mới bị xử -- xem dưới).
* Cuối cùng, Toà án Tối cao xử The New York Times thắng kiện chính quyền liên bang. Nhà Trắng trả thù bằng cách bôi nhọ Ellsberg. John Erlichman, trợ lý nội vụ của tổng thống Nixon, thành lập nhóm “Thợ hàn của Nhà Trắng” (White House Plumbers, hàm ý nhiệm vụ của nhóm này là “bịt kín” những “rò rỉ” hồ sơ mật). Nhóm này đột nhập phòng khám bệnh của Lewis Fielding, bác sĩ tâm thần học của Ellsberg, nhưng không tìm thấy “hồ sơ bệnh lí” của Ellsberg. Từ đó, nhóm “Thợ hàn” tiếp tục được Nhà Trắng sử dụng để bới móc đời tư của các chính khách đối lập như Thượng nghị sĩ Edward Kennedy, và cuối cùng bị bắt quả tang đột nhập trụ sở Uỷ ban tranh cử của Đảng dân chủ tại toà nhà Watergate. Vụ “ bê bối Watergate ” đã dẫn tới việc Nixon phải từ chức năm 1974 để tránh bị truy tố và cách chức.
* Vụ ăn trộm văn phòng của bác sĩ Fielding, mãi đến ngày 3.1.1973 mới được công bố trong phiên toà xử Daniel Ellsberg vì vi phạm “Luật gián điệp 1917”, tại Los Angeles. Cùng với việc này, nhiều hành động phạm pháp khác của Nhà Trắng (nghe trộm các cuộc điện đàm, mua chuộc quan toà…) đã được đưa ra ánh sáng, nêu rõ trách nhiệm của những người thân cận tổng thống (Haldeman, tổng thư kí Nhà Trắng, Mitchell, bộ trưởng bộ tư pháp..) và của chính tổng thống Nixon. Cuối cùng, ngày 11.5.1973, toà án Los Angeles đã bác bỏ tất cả các tội trạng của Daniel Ellsberg và bạn ông là Anthony Russo. Một năm sau, Richard M. Nixon phải từ chức.
Nguyễn Ngọc Giao
Giới thiệu của Tạp chí Guernica: “Phần tử quấy rối” trứ danh nhất của nước Mĩ kể lại chuyện ông chuẩn bị vào tù, chuyện tổng thống dối trá tràn lan, và tại sao chiến tranh kéo dài.
Sang năm 2011 sẽ là 40 năm kể từ ngày Daniel Ellsberg tiết lộ Hồ sơ Lầu năm góc cho nhật báo New York Times. Sự kiện này đã vạch trần sự dối trá của chính quyền trong việc thông tin về chiến tranh Việt Nam và góp phần thúc đẩy việc tổng thống Nixon từ chức. Năm mới cũng có thể chứng kiến việc cuốn phim tài liệu The Most Dangerous Man in America: Daniel Ellsberg and the Pentagon Papers (Người đàn ông nguy hiểm nhất của nước Mĩ: Daniel Ellsberg và Hồ sơ Lầu năm góc) được vào chung kết giải Oscar (nó đã được vào vòng đầu hồi tháng 11.2009). Cuốn phim nói về “ phần tử quấy rối ” có lẽ nổi tiếng nhất nước Mĩ, đồng thời cũng là biểu tượng cho lòng dũng cảm và tinh thần trách nhiệm của phong trào phản chiến ngày nay. Ở thời điểm mà đất nước của ông đang dính líu vào hai cuộc chiến tranh gây ra tranh cãi, lời nói của Daniel Ellsberg, năm xưa và bây giờ, vẫn gây tiếng vang lớn.
Tháng giêng năm nay, Hoa Kì bắt đầu triển khai thêm gần ba chục ngàn binh sĩ trong cuộc chiến ở Afghanistan, thì khi Daniel Ellsberg nói về quá trình quyết định của tổng thống, về cách thức mà chính quyền trình bày các quyết định ấy với công chúng, nhất là trong tình huống các cuộc chiến tranh trở thành thứ tâm bệnh di truyền thừa hưởng từ quá khứ, sự mô tả của ông âm hao như một lời tiên tri. Trong cuộc phỏng vấn công bố dưới đây, ông nói: “ Điều mà tôi rút ra từ năm 1969 và từ Hồ sơ Lầu năm góc, là Nixon, người thứ năm trong chuỗi những tổng thống Mĩ (dính líu vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam), đã quyết định kéo dài cuộc chiến tranh vì ông ta hi vọng hão huyền rằng mình có thể đạt được một kết cuộc tốt đẹp hơn là nếu ông ta chấp nhận thương lượng cách nào rút ra êm thấm, và cơ bản có nghĩa là chấp nhận thất bại. Ông ta hy vọng đạt kết quả tốt hơn thế nhiều ” (bài phỏng vấn sẽ được công bố trong cuốn Political Awakening: Conversations with History, nhà xuất bản New Press sẽ ấn hành vào tháng 3.2010).
Cuộc đời của Daniel Ellsberg (năm nay 78 tuổi) là cả một hành trình khác thường. Sinh trưởng ở thành phố Detroit, ông đỗ tiến sĩ kinh tế học ở Harvard trước khi đầu quân vào Thuỷ quân lục chiến. Sau đó vào làm việc cho Rand Corporation. Với cương vị chuyên gia về Việt Nam của công ti này, Ellsberg được Bộ trưởng quốc phòng Robert McNamara yêu cầu tham gia vào một nhóm tuyệt mật có nhiệm vụ nghiên cứu các tài liệu mật về quá trình tiến hành chiến tranh Việt Nam, sau này sẽ được gọi chung là Hồ sơ Lầu năm góc. Hiếm ai có trải nghiệm (và dũng cảm) để có thể khẳng định một cách có thẩm quyền về những tổng thống Mĩ như Ellsberg trong cuộc phỏng vấn dưới đây khi ông nói: “Thật sự là họ chẳng mấy khi ngại nói dối về các vấn đề đó. Trình bày sự việc cho công chúng theo một đường hướng không tương ứng gì với thực tại, đối với họ là “thuận tiện” và có lợi về chính trị”.
Cho nên khi tổng thống Obama nói với sinh quân Học viện West Point (và qua đó, với thế giới) rằng quyết định của ông là do ông “tin tưởng rằng nền an ninh của chúng ta được định đoạt ở Afghanistan và Pakistan”, Ellsberg nhảy chồm lên thì cũng không có gì lạ. Những lí do được nêu ra để giải thích rằng an ninh của Hoa Kì bị đe doạ ở Afghanistan – một chính phủ thối nát, phi nghĩa đối với nhân dân Afghanistan, bầu cử thì gian lận, dân chúng ủng hộ các lực lượng chống đối không phải vì ưa thích đám này, mà vì họ muốn người ngoại quốc (nhất là lính Mĩ) cuốn gói đi – “nghe hệt như chuyện Việt Nam trước đây”, Ellsberg nói.
Daniel Ellsberg
Harry Kreisler phỏng vấn Daniel Ellsberg (năm 1998):
Harry Kreisler: Lần đầu tiên ông dính líu tới Việt Nam là năm nào?
Daniel Ellsberg: Tôi chưa bao giờ nói công khai chuyện này, nhưng sự thật là tôi đã sang Việt Nam năm 1961 với một nhóm đặc nhiệm, tổ nghiên cứu của Bộ quốc phòng thời Kennedy, về nghiên cứu & phát triển chiến tranh hạn chế. Lúc đó tôi đã có một cái nhìn chung về tình hình Việt Nam và tôi đã quyết định là nếu có thể, trên con đường quan lộ, tôi sẽ lánh xa vấn đề này. Trở về Mĩ, tôi tham gia việc soạn thảo bản báo cáo cho RAND. Bản báo cáo chứa đựng những gì tôi biết được trong nhóm nghiên cứu, với khuyến nghị cơ bản là: chớ tìm kiếm tài trợ để nghiên cứu vấn đề Việt Nam, đừng dính liu vào đó, hãy tránh xa ra, sa vào đó nhất định thất bại. Bởi vì ngay từ năm 1961, hay trước đó nữa, rõ ràng là không thể hi vọng rằng phương Tây có thể làm gì được để khuất phục một phong trào đấu tranh cho độc lập quốc gia và chủ quyền dân tộc ở Việt Nam, do Cộng sản lãnh đạo, đã đánh bại người Pháp được người Mĩ ủng hộ mạnh mẽ về tài chính, vật tư và các thứ. Trước mặt chúng ta, cơ bản vẫn là đối phương đó, và khả năng chúng ta làm tốt hơn người Pháp là rất thấp.
Thế là trong nhiệm kì Kennedy làm tổng thống (năm 1961, rồi 1962, 1963), tôi đã tránh xa những cuộc thảo luận về Việt Nam, tôi không muốn sa vào đó. Tôi cho là dính dấp vào đó cũng tương tợ như dính líu vào vụ Vịnh Con Heo, cuộc đổ bộ thảm bại ở Cuba đã làm cho hầu như tất cả những người dính dáng vào đó đã bị thân bại danh liệt.
Harry Kreisler: Nhưng rồi ít năm sau ông vẫn trở lại Việt Nam?
Daniel Ellsberg: Không, tôi bị gửi sang… Có thể nói là tôi miễn cưỡng, bị người ta gửi trở lại Việt Nam. Phần tôi cũng muốn quan sát quá trình hoạch định chính sách của chính phủ từ bên trong, sau mấy năm tìm hiểu quá trình ấy với tư cách một nhà nghiên cứu và tư vấn. Ngày đầu tiên tôi dính líu vào vụ này, là tôi ngồi đọc các “bức điện”, hay như họ thường nói, là “tắm mình” trong dòng chảy của những điện tín gửi từ một vùng đất nhất định. Hầu như tất cả những bức điện đầu tiên tôi đọc hôm ấy đều liên quan tới một vụ có vẻ như là tấn công vào khu trục hạm của ta ở Vịnh Bắc Bộ. Đó là ngày mồng 4 tháng 8 năm 1964. Và tôi ngồi đó, đọc một loạt điện “thượng khẩn”, báo cáo các khu trục hạm của chúng ta lại bị tấn công, dồn dập tới vào khuya hôm đó. Tất cả các điều họ biết chỉ đều là qua radar và sonar.
Nhảy cóc mấy năm sau nhé: mấy năm sau, rõ ràng là không có tấn công gì ráo. Họ đánh nhau với những hình bóng trên màn ảnh radar và sonar dưới nước. Họ bắn loạn xạ vào những bóng ma đó chứ thật ra không hề có ngư lôi nào của đối phương bắn ra cả.
Nhưng trở lại thời điểm đó, họ được báo cáo tường tận là chiến hạm của ta bị tấn công. Rồi, cũng trong ngày đầu tiên ấy, tôi đọc một bức điện nói “Tạm ngưng mọi chuyện”. Viên chỉ huy hai chiến hạm thỉnh cầu chưa hành động phản ứng gì vội, đợi ban ngày họ có cơ hội quan sát mặt biển xung quanh xem có xác tàu đắm, vết dầu loang, người sống sót nào không. Bởi vì họ nghĩ đã đánh đắm tàu địch, tất sẽ phải tìm thấy vài dấu hiệu. Lúc đó có nghi vấn lớn về quy mô cuộc tấn công, và nghi vấn là thật sự có tấn công hay không. Thực khó mà xác nhận điều này. Tuy nhiên, trước lúc nhận được bức điện ấy, thì tổng thống đã quyết định bắt đầu những phi vụ chống Bắc Việt.
Thế là chúng ta đã tung ra 64 phi vụ đánh Bắc Việt. Suốt đêm hôm đó, tôi ở liền trong Lầu năm góc để theo dõi các phi vụ và hậu quả, những sự việc diễn ra ở phía bên kia trái đất, cách 12 thoi giờ, nghĩa là bên ấy là ngày, bên này là đêm.
Rồi trong vài ngày tiếp theo, tổng thống đã được Quốc hội hầu như nhất trí ủng hộ một điều coi như là tương đương với quyết định tuyên chiến: nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, mà tổng thống cho rằng như vậy là Quốc hội ủng hộ chiến tranh, trong khi Quốc hội lại được giải thích để hiểu là không phải như vậy. Và thế là chúng ta đã bước sang giai đoạn Hoa Kì tham gia mạnh mẽ vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam.
Harry Kreisler: Căn cứ vào những gì chính ông thấy tận mắt, lúc đó ông có hoài nghi gì không về những điều mà tổng thống yêu cầu nơi Quốc hội?Công chúng thì ngày ngày bị tổng thống, người phát ngôn của tổng thống và các quan chức lừa dối.
Daniel Ellsberg: Hoàn toàn không thể nghi ngờ. Tổng thống nói với Quốc hội và công chúng rằng chiến hạm nước ta bị tấn công, bằng chứng về điều này hết sức rõ ràng. Nói thế là nói dối. Và tôi, lúc đó tôi biết là nói dối. Trước khi cuộc tấn công bắt đầu, đã có rất nhiều nghi vấn đã được nêu lên, và rõ ràng là tình hình rất mập mờ, không có gì rõ ràng cả. Tôi nghĩ lúc đó tôi chỉ có thể nói, và nhiều người khác nữa cũng chỉ có thể nói thế này thôi: “Có thể đã xảy ra một cuộc tấn công”. Nhưng tổng thống đâu có nói thế với công chúng. Ông đã nói dối với công chúng.
Thứ nữa, giả định là cuộc tấn công có thực, tổng thống còn nói rằng: đó rõ ràng là một cuộc tấn công ở ngoài khơi, vô cớ đánh vào khu trục hạm của chúng ta. Đây cũng là một lời nói dối, theo nghĩa này: trước đó hai ngày, đúng là đã có một cuộc tấn công tiến hành sau khi Mĩ tung ra những cuộc đánh phá Bắc Việt vào đêm hôm trước – những hành động này được tiến hành một cách bí mật, nguỵ trang và nhất mực bị phủ nhận. Tóm lại, có bằng chứng là vụ này do chính chúng ta gây hấn. Thế mà tất cả, McNamara, Rusk, Vance đều giấu nhẹm, không cho Quốc hội biết về các cuộc đánh phá mà Hoa Kì đã tiến hành.
Harry Kreisler: Trong bối cảnh làm việc như vậy của ông ở Lầu năm góc, các tuyên bố công cộng không ăn khớp gì với những điều mà ông và những người khác ở trong hành lang của quyền lực biết được, các ông xử lí ra sao trước sự bất nhất này?
Daniel Ellsberg: Tính từ năm 1959 đến thời điểm đó, tôi đã làm tư vấn cho chính phủ được khoảng 6 năm, từ Eisenhower, qua Kennedy rồi bấy giờ là Johnson. Tính tới lúc đó, tôi đã được đọc hàng vạn trang tài liệu mật, do đó có thể so sánh những gì tôi biết với những gì công chúng được nghe giải thích. Công chúng đã bị tổng thống, các người phát ngôn của ông ta cũng như các viên chức nói dối, nói dối ngày này qua ngày kia. Nếu anh không chế ngự được ý tưởng rằng, vì đủ mọi thứ lí do, tổng thống đã dối trá đối với công chúng, thì anh không thể nào ở yên trong vị trí đó trong chính quyền, là nơi anh buộc phải biết, tuần nào cũng thế, tất cả những điều đó.
Tôi nói điều này vì đôi khi có người suy luận, cho rằng tôi đã trao Hồ sơ Lầu năm góc cho New York Times là để bị bỏ tù. Như Harrison Salisbury của báo New York Times đã nói, “Anh ấy đã không chịu được sự dối trá”. Tuyệt nhiên không phải vậy đâu. Tôi không đâm đầu vào tù chỉ để công bố hồ sơ. Nếu anh không thể chung sống với ý tưởng là tổng thống nói dối, thì anh không thể làm việc với các tổng thống được. Sự thật là hiếm khi nào các tổng thống nói toàn bộ sự thật. Họ không bao giờ nói thật và nói hết là họ toan tính, chờ đợi gì, là họ đang làm gì, họ tin tưởng ở những điều gì và tại sao họ lại đang làm những việc họ làm. Và sự thực là ít khi họ ngần ngại nói dối về những điều này. Nói với công chúng, trình bày sự việc theo một cung cách không đúng với sự thật, đối với họ, rất là tiện lợi, và về mặt chính trị, rất hữu hiệu.
Harry Kreisler: Và cứ như thế, ông ngày càng dấn thân vào cuộc chiến tranh. Sau thời gian này, ông đã sang Việt Nam và làm việc ở đó.
Daniel Ellsberg: Vâng, vào mùa hè 1965, tổng thống đã quyết định leo thang chiến tranh không kì hạn. Từ tháng hai 1965, chúng ta đã ném bom (miền Bắc Việt Nam) và tham chiến mạnh mẽ; lúc đó, chúng ta đã có hơn 100 000 binh sĩ ở Việt Nam. Chúng ta đã “làm chiến tranh”. Và tôi, vốn là một thuỷ quân lục chiến trong thời bình (1954-1957) – tiểu đội trưởng, rồi chỉ huy đại đội – tôi không muốn ngồi yên ở Washington mà theo dõi chiến cuộc. Nên tôi đã tình nguyện sang Việt Nam, làm công tác liên lạc giữa đại sứ quán và phía Việt Nam. Tôi cảm thấy đây là cơ hội để hiểu được cuộc chiến tranh và có thể tránh được những thể loại kết cục xấu nhất.
Phần lớn thời gian tham gia ở Việt Nam, tôi thấy rõ là chúng ta không có triển vọng nào khác là ẩn ức, bế tắc, giết hại và chết chóc. Chẳng có mấy hi vọng đi tới một kết cục thuận lợi hay ít nhất một kết cục tạm gọi là chấp nhận được. Giỏi lắm là khả năng hoặc trì hoãn sự thất bại, hoặc phải thay đổi chính sách.
Tôi là người nghiên cứu duy nhất, ở trong cũng như ở ngoài chính quyền, được phép tham khảo toàn bộ 47 tập khảo sát để thực hiện cuộc nghiên cứu. Tổng cộng là bảy nghìn trang tài liệu, tối mật.
Sau này, khi nghiên cứu trở lại toàn bộ hồ sơ, tôi mới phát hiện ra một điều là: thực ra, các tổng thống chưa bao giờ nhận được những khuyến nghị mang lại hi vọng dứt khoát là sẽ kết cục thành công ở Việt Nam. Mặt khác, họ chỉ thấy nêu ra khả năng trì hoãn được thất bại, hay trì hoãn được tình thế gay go sẽ xảy ra nếu Mĩ rút khỏi Việt Nam, để người Việt Nam quyết định lấy cuộc sống chính trị của họ -- điều ấy có nghĩa, hầu như chắc chắn, là sự bá quyền của cộng sản. Để tránh viễn ảnh ấy, họ chỉ còn một chọn lựa là cái giá phải trả đối với người Mĩ và người Việt ngày mỗi tăng, về sinh mạng, tiền của cũng như sự dính líu. Rốt cuộc là tổng thống nào cũng chọn cách ấy. Kennedy đã chọn như thế, Johnson đã chọn như thế, và đó cũng là chọn lựa của Nixon cho đến ngày ông ra phải từ chức.
Harry Kreisler: Về lại Washington với công việc ở RAND, ông được phép tham khảo những hồ sơ sau này sẽ được họi là “Hồ sơ Lầu năm góc”. Ông hãy cho biết đó là những tài liệu gì.
Daniel Ellsberg: Tôi ở Việt Nam hai năm, từ 1965 đến 1967. Phần lớn thời gian đó tôi có nhiệm vụ đánh giá công cuộc bình định, nên tôi đã đi hầu hết các tỉnh (Nam) Việt Nam. Chính xác là tôi đã đi 38 tỉnh trên tổng số 43. Tuy là dân sự, tôi đã sử dụng sự huấn luyện trong thuỷ quân lục chiến để làm việc với quân đội trong một thời gian, và có lúc tôi đã trải nghiệm chiến đấu thực sự. Do đó, tôi đã thấy “cận cảnh” cuộc chiến tranh, cụ thể là ở cấp độ đại đội bộ binh. Tôi đã bị viêm gan, có lẽ đã nhiễm bệnh trong một cuộc hành quân dã ngoại, trở về Mĩ, ra khỏi cơ quan chính quyền và trở lại hàng ngũ Tập đoàn RAND. Ngay lập tức, tôi được cử tham gia dự án lịch sử mà McNamara đã tiến hành tổ chức ở Lầu năm góc, dưới tên gọi chính thức là “Quá trình lấy quyết định của Hoa Kì ở Việt Nam, 1945-1968”.
Tôi là nhà nghiên cứu duy nhất, ở trong cũng như ở ngoài chính quyền, được tiếp cận toàn bộ 47 tập khảo sát để thực hiện công cuộc nghiên cứu. Tổng cộng là bảy ngàn trang tài liệu “tối mật”. Trong phòng làm việc tôi có hẳn một cái tủ “tuyệt mật” để cất giữ tài liệu, tiến hành công trình nghiên cứu mang tên “Những bài học từ Việt Nam”.
Điều khá lạ lùng: tôi là người duy nhất ăn lương do hợp đồng với chính phủ Hoa Kì để rút ra những bài học về Việt Nam. Có một lúc, cả nước Mĩ chỉ có ba người thực sự đã đọc toàn bộ nghiên cứu, do đó có khả năng rút ra những bài học của thời kì 23 năm, từ 1945 đến 1968.
Harry Kreisler: Những gì đã làm ở Việt Nam thường không có gì là thuận lí, mà chỉ phản ánh một động lực chịu ảnh hưởng nặng nề của chính trị. Thế mà trong nhiều năm, ông đã sống với nó.
Daniel Ellsberg: Cũng phải nói là, đứng ở quan điểm tổng thống, đó là tinh tuý của sự thuận lí: thắng cử và giữ được quyền lực. Ông có thể hợp lí hoá điều đó bằng cách nói rằng điều quan trọng là đảng tôi và bản thân tôi khôn ngoan hơn mấy người khác, quyết định sẽ sáng suốt hơn. Thí dụ: nhất thiết không thể để cho Goldwater thắng cử. Thà rằng phải làm thế này thế nọ, chứ không nên để cho Goldwater thắng. Và tất nhiên, cũng như trong vụ Watergate, người của tổng thống phân bua: “Chúng tôi làm như thế chỉ là để ngăn chặn không cho McGovern trở thành tổng thống; McGovern mà làm tổng thống thì tai hoạ lắm”. Lí lẽ của họ là như vậy. Nếu anh bảo họ “nói thế không hợp lí” thì tôi xin trả lời: đó là lôgic của quyền lực nội trị, lôgic của việc giữ chặt quyền lực, của sự tự trọng, của uy tín tổng thống, những thứ mà các tổng thống và giới thân cận rất dễ đồng hoá với quyền lợi của quốc gia. Họ rất khó phân biệt hai thứ ấy.
Harry Kreisler: Trong nhiều năm, ông ở trong chính quyền, nằm trong một tổ nghiên cứu, sống với những nhân tố của quá trình lấy quyết định. Sau những thất vọng, ẩn ức về tình hình Việt Nam, sau khi đọc các Hồ sơ Lầu năm góc, ông đã thay đổi quan niệm về ranh giới giữa những điều chấp nhận được và những điều không thể chấp nhận, giữa những điều phù hợp với đạo lý và những điều đi ngược đạo lý. Ông hãy giải thích sự thay đổi đó trong suy nghĩ của ông.
Daniel Ellsberg: Ở Việt Nam thực ra tôi cũng không rút ra điều gì thực sự mới về việc không có triển vọng thành công. Song có một điều tôi đã học được: đó là nét mặt của người Việt Nam. Tôi đã biết quan tâm tới số phận của người Việt Nam, điều mà các đồng nghiệp của tôi ở Washington có lẽ không biết. Người Việt Nam, đối với tôi, đã trở thành một hiện thực. Họ không chỉ còn là những con số, những mã số trừu tượng như trong đầu óc của những đồng sự khác.
Điều đặc biệt nhất mà tôi học được, vào năm 1969, và từ Hồ sơ Lầu năm góc, là Nixon, người thứ năm trong chuỗi dài các tổng thống (dính dấp tới Việt Nam) đã chọn lựa quyết định kéo dài cuộc chiến tranh, với hi vọng hão huyền là ông ta có thể đạt tới một kết cuộc tốt đẹp hơn là kết cuộc sẽ có nếu ông ta chịu thương lượng cuộc rút quân, và về thực chất, là chấp nhận thất bại. Ông ta tưởng có thể làm tốt hơn thế nhiều. Ông ta tưởng có thể kiểm soát mãi được Sài Gòn và các vùng đông dân, rằng các vùng này sẽ phục tùng ý chí của chúng ta, chính sách của chúng ta, chứ không do cộng sản cai trị. Và ông ta có thể làm được điều ấy, như Johnson trước đó đã hi vọng, bằng cách đe doạ leo thang chiến tranh. Nixon đã lớn tiếng đe doạ và sẵn sàng thực hiện lời đe doạ của mình.
Tôi không tin rằng những lời đe doạ ấy sẽ mang lại kết quả. Tôi đoán trước là chiến tranh sẽ mở rộng. Mà lúc ấy, công chúng đã không còn chấp nhận tiếp tục chiến tranh nữa, huống chi tới mở rộng chiến tranh. Nhưng Nixon đã thành công trong việc đánh lừa công chúng, bởi vì công chúng không muốn tin rằng tổng thống lại điên rồ và thiển cận (đứng về quyền lợi cá nhân mà nói) đến mức sau cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân mà còn muốn kéo dài chiến tranh. Thế là một lần nữa, tôi chứng kiến cảnh một tổng thống bí mật đe doạ đối phương, gần như chắc chắn sẽ thực hiện lời đe doạ ấy, đồng thời lại lừa dối công chúng về hành động của mình.
Đọc Hồ sơ Lầu năm góc (mùa thu năm 1969 thì tôi đọc xong), tôi đã có được cái nhìn bao quát về lịch sử đi tới một kết luận mà chắc tôi không thể đạt được nếu không được đọc. Đó là: có rất ít hi vọng làm thay đổi não trạng (của tổng thống) từ bên trong ngành hành pháp – thí dụ như đưa ra cho tổng thống những khuyến nghị đúng đắn, hay cung cấp cho ông những đánh giá hiện thực về tình hình Việt Nam. Bởi vì đọc trong Hồ sơ Lầu năm góc, tôi đã thấy là từ những ngày đầu – thời Truman – tổng thống nào cũng đã nhận được những khuyến nghị như vậy rồi. Và bây giờ, sự thực là Nixon đã lao mình vào một cuộc đua mới, thì so với những tổng thống tiền nhiệm, lại càng ít có khả năng chịu nghe những lời khuyên can.
Như vậy, muốn cho ông ta thay đổi quyết định – và chính vì tôi quan tâm tới Việt Nam và nước ta, tôi lại càng bức xúc mong muốn Hoa Kì phải chấm dứt oanh tạc và chém giết người Việt Nam – thì phải có sức ép từ bên ngoài tác động vào hành pháp. Điều này đòi hỏi là ở bên ngoài cơ quan hành pháp, cụ thể là Quốc hội và công chúng, phải được thông tin tốt hơn về quá khứ cũng như về hiện tại. Nếu tôi có trong tay những tư liệu về các kế hoạch của Nixon thì tôi đã tung ra cho Quốc hội để các nghị sĩ biết việc gì sắp xảy ra. Như thế, tôi chẳng còn phải bận tâm với hàng nghìn trang lịch sử liên quan tới các tổng thống tiền nhiệm; chỉ cần vạch rõ những gì Nixon đang tiến hành. Những tài liệu ấy, tôi không có. Mà ở thời ấy, rất khó làm cho công chúng hiểu ra rằng tổng thống đang đánh lừa họ, để công chúng có hành động thích ứng. Điều này không có trong ý thức của người dân Mĩ. Nội cái việc đưa ra ý kiến đó cũng sẽ được rất ít người đồng ý.
Thành ra, lần đầu tiên, tôi tự hỏi: nếu tôi sẵn sàng vào tù thì tôi có thể làm gì để chấm dứt chiến tranh?
Có lần ra toà để bênh vực những người bị truy tố về tội chống quân dịch, tôi đã tuyên bố tổng thống nói dối. Đó là hồi đầu năm 1971, trước khi Hồ sơ Lầu năm góc được công bố. Ngay lập tức, quan toà ra lệnh ngừng ghi biên bản, gọi luật sư lại gần. “Nếu ông còn đưa ra những nhân chứng như vậy”, quan toà cảnh cáo trạng sư bên bị, “thì sẽ coi là ông lăng nhục, xúc phạm. Tại phòng xử án này, tôi sẽ không bao giờ cho phép ai tuyên bố là tổng thống nói dối”. Đó là phiên toà xét xử những người chống chiến tranh một cách bất bạo động. Và họ không được phép mời những chứng nhân dám nói rằng tổng thống dối trá. Hồ sơ Lầu năm góc đã làm thay đổi hẳn tình trạng này. Bảy nghìn trang tư liệu về sự dối trá của Nhà trắng đã vĩnh viễn vạch rõ – và hai ba năm sau, vụ Watergate đã xác nhận lần nữa – rằng tổng thống nào cũng dối trá.
Harry Kreisler: Những người biểu tình và lập trường đạo lí của họ có tác động tới quyết định đó của ông không?
Daniel Ellsberg: Phải nói thực là tác động của những người biểu tình đối với tôi không lớn bằng tác động của những người mà tôi đã được gặp, là những người đã phải trả cái giá cao hơn nhiều trong cuộc sống của họ để gửi đi một thông điệp mạnh mẽ. Họ sẵn sàng vào tù hơn là đi quân dịch hay sang Việt Nam, hay chạy sang Canada, hay là chọn quy chế “từ chối quân dịch vì lương tâm”, hay là vào đội Vệ quốc. Họ có thể chọn nhiều cách để tránh đi đánh nhau ở Việt Nam, trong đó có cách là chọn quy chế “từ chối quân dịch vì lương tâm” (conscientious objector). Nhưng họ đã chọn cách khẳng định mạnh mẽ nhất thông điệp này: cuộc chiến tranh này là sai trái, phải chấm dứt nó, họ từ chối mọi hình thức hợp tác với chính sách chiến tranh, kể cả việc chấp nhận quy chế “không đi quân dịch vì lương tâm”. Và họ chấp nhận đi tù.
Trong số những người tôi đã gặp như thế, có một người tên là Randall Keeler, mà tôi gặp hồi cuối tháng tám năm 1969. Đến lúc tôi bàng hoàng hiểu ra rằng anh ra sắp sửa phải ra toà vì tội chống quân dịch và chuẩn bị vào tù – và đúng thế, anh ấy đã ở tù hai năm – thì tôi mới ngỡ ngàng, ngộ ra là chúng ta đang ở trong tình thế mà những con người trí tuệ và tận tâm như Randy Keeler phải cảm thấy rằng điều tốt đẹp nhất anh ta có thể làm là chấp nhận đi tù, để đồng bào của mình có thể hiểu rằng đây là vấn đề đạo lý. Keeler đã làm điều phải làm, và hành động của anh cho thấy rõ bản chất tình thế nước Mĩ lúc đó là gì. Thật là kinh khủng! Tôi cảm thấy chúng ta đang ăn thịt thanh niên của chúng ta. Xấu xa hơn cả những kẻ ăn thịt người: chúng ta ăn thịt ngay cả con em mình. Chúng ta dùng con em để trả giá cho việc tìm ra một lối thoát cho cuộc chiến tranh, bằng cách hi sinh tuổi trẻ như là thịt nhồi đại bác trong cuộc chiến tranh. Những con người như Keeler phải được ủng hộ. Mỗi người phải làm bất cứ việc gì có thể, bất bạo động và thành khẩn. Họ đúng là những môn đệ của Gandhi. Trước đó, tôi đã được đọc Gandhi và Martin Luther King. Và bây giờ, tôi được gặp những người đang thật sự sống cuộc sống mà tôi đã đọc trong sách vở. Dưới tiêu chí thành khẩn và bất bạo động, tôi nhận thức rằng, noi gương họ, tôi sẵn sàng làm tất cả những gì có thể, nghĩa là tôi sẵn sàng từ bỏ sự nghiệp, sẵn sàng đi tù.
Cho nên, lần đầu tiên tôi tự hỏi: nếu tôi sẵn sàng ở tù, thì tôi có thể làm gì để góp phần chấm dứt chiến tranh? Tôi tìm cách thu xếp ra điều trần ở Quốc hội. Tôi tìm cách thúc đẩy việc mở ra các cuộc điều trần. Cũng với một số người, tôi viết thư gửi từ RAND. Và tôi cũng sao chụp Hồ sơ Lầu năm góc với hi vọng mang thêm sức mạnh cho các việc làm khác, thí dụ như điều trần ở Quốc hội. Thực ra tôi không tin là việc này có nhiều khả năng làm thay đổi tình thế, nhưng cũng có khả năng nào đó. Tôi đã sẵn sàng làm bất cứ điều gì có thể, và đó là một điều tôi có thể làm.
Harry Kreisler: Ngoài ra còn có những nhân tố nào khác, giúp chúng tôi hiểu thêm cái động lực nội tâm đã thúc đẩy ông làm điều đó? Đối với bất cứ người nào, đây không phải là một sự chọn lựa dễ dàng.
Daniel Ellsberg: Đọc Hồ sơ Lầu năm góc đã làm tan biến trong tôi cái ý muốn làm việc cho tổng thống. Qua đó, tôi đã thấy liên tiếp năm vị tổng thống lầm lỗi đi theo con đường ngoan cố, vị kỷ, điên rồ, tổng cộng tới lúc đó là hai mươi bốn năm trời.
Từ thuở bé, tôi đã nuôi dưỡng cái ý định, và nhiều người Mĩ cũng như tôi, nuôi dưỡng ý tưởng là có cơ hội phục vụ tổng thống (Chúng ta hay nói tới giấc mơ lớn lên làm tổng thống, Clinton là một ví dụ khá hiếm, nhưng mấy ai như Clinton, từ nhỏ đã thực sự nuôi dưỡng ý tưởng trở thành tổng thống). Tôi thì khi tôi là trung uý thuỷ quân lục chiến, tôi đã nghĩ tới làm việc dưới quyền tổng thống. Theo tôi nghĩ, thuỷ quân lục chiến, hơn các binh chủng khác, tự coi mình là lực lượng phản ứng nhanh mà tổng thống có trong tay, họ tự coi là một thứ quân cận vệ tổng thống, họ có tâm lý tự đề cao mình, xuất phát từ chỗ họ tự đồng nhất với tổng thống. Trong ngành hành pháp, mọi người đều quen miệng nói “Chúng tôi làm thế này, chúng tôi làm thế kia”, điều này cũng biểu lộ sự đồng nhất hoá cao độ của những người, nam cũng như nữ, làm việc dưới trướng tổng thống.
Như thế là năm 1969, tôi là nghiên cứu viên duy nhất của RAND mà lại làm việc trực tiếp cho trợ lí an ninh quốc gia của tổng thống. Tôi làm công tác tham mưu về Việt Nam cho Kissinger ngày từ buổi đầu của chính quyền mới. Đó là một công việc hết sức danh giá và hứng khởi. Bên trong cũng như bên ngoài ngành hành pháp, rất nhiều người cho rằng được làm việc cho cơ quan hành pháp là vinh hạnh lớn nhất mà một người Mĩ có thể kì vọng. Các thứ công việc khác, viết báo, viết sách, cộng tác với một nghị sĩ, trở thành đại biểu quốc hội, chẳng có việc nào sánh bằng công việc cung cấp thông tin cho tổng thống và có ảnh hưởng với tổng thống. Điều này đúng với mọi người làm việc cho Nhà trắng, bất luận đã bỏ phiếu hay không bỏ phiếu ủng hộ tổng thống, đã làm việc nay không làm việc cho đảng của tổng thống. Mỗi thời chỉ có một tổng thống, bất luận ông ấy thuộc đảng nào, có cơ hội tác động tới tổng thống bằng cách báo cáo tin tức hay tham gia hoạch định chính sách là điều quan trọng nhất mà anh có khả năng thực hiện.
Đọc Hồ sơ Lầu năm góc và suy ngẫm về vấn đề Việt Nam làm cho tôi đốn ngộ là dù có được tham vấn đúng đắn tới đâu chăng nữa, các tổng thống đều có thể mắc sai lầm nghiêm trọng. Cho nên, cách tốt nhất để phục vụ đất nước không nhất thiết là giúp tổng thống làm những điều ông ta muốn làm, bởi vì cách tốt nhất có khi lại là ngăn cản không để cho ông ta làm điều ông ta muốn. Muốn làm như vậy thì phải đứng ở bên ngoài giới hành pháp, phải thông qua Quốc hội, qua toà án, qua cử tri, qua công chúng. Đúng thế, ở ngoài ngành hành pháp, anh có thể làm tốt hơn nhiều để giúp nước.
Thứ nữa, cái hào quang bao quanh tổng thống, cái ý tưởng tự đồng nhất với tổng thống, phục vụ tổng thống, trở thành người của tổng thống, một kiểu quan hệ phong kiến, hiệp sĩ, bỗng nhiên mất hết hào quang lấp lánh. Tôi hết muốn là “người của tổng thống”. Sống ở ngoài vòng hành pháp, cái ý này, đối với tôi, trở thành tốt như, tốt hơn là làm việc cho tổng thống. Theo tôi, chưa có đồng nghiệp nào đã đạt tới điểm đó trong đời họ. Họ không thể nào tưởng tượng ra một cuộc sống tốt đẹp hơn ở ngoài vòng hành pháp. Khi đảng của họ rời chính quyền, hay là họ bị sa thải, hoặc là họ từ chức để kiếm được nhiều tiền hơn hoặc vì lí do nào khác, họ vẫn sống trong tâm trạng chờ đợi một cú điện thoại, gọi họ trở lại hoặc hỏi ý kiến họ. Dù cho sự đoạn tuyệt với tổng thống tiền nhiệm còn để lại nỗi đau, họ vẫn sẵn sàng trở lại. Đối với họ, đó là sự nghiệp cao quý nhất. Tự hào, danh giá, hưng phấn, trọng vọng, lại thêm cảm thấy mình đang phục vụ đất nước. Tất cả những thứ đó đã cháy rụi trong tôi sau khi đọc xong bảy nghìn trang tài liệu. Nhờ đó mà tôi có thể hình dung ra một hành động khả dĩ chặn đường tôi từ nay về sau có thể quay lại phục vụ cho bất cứ tổng thống nào. Làm được việc đó rồi, không một quan chức hành pháp nào còn có thể thuê tôi làm việc trở lại nữa. Phần lớn các đồng nghiệp của tôi không thể nào quan niệm một hành động nào khiến cho các tổng thống sau này không còn tin cậy họ, gọi họ ra làm việc trở lại. Mấu chốt vấn đề là ở đó.
Cuối cùng dẫn tới kết cục là tôi làm được một việc mà tôi tin chắc sẽ đưa tôi vào tù. Làm sao được như vậy?
Tôi đã ở trong thuỷ quân lục chiến, đã sang Việt Nam, đã tham gia chiến trận. Ba triệu binh sĩ sang Việt Nam là dấn thân vào tình thế có thể cụt hai chân, mất xác, mất mạng vì mìn nổ, bị bắn tỉa, hay ăn đạn moọc-chê. Họ không được coi là anh hùng hay bị coi là điên rồ chỉ vì họ chấp nhận vai trò ấy. Chẳng ai chẩn đoán bệnh lí tâm thần cho họ, như người ta đã làm cho tôi. Chẳng ai tra hỏi họ xem tại sao họ làm như thế. Họ làm thế vì tổng thống, vì đất nước. Song, tổng thống lại lầm to khi ông quyết định điều gì là ích lợi cho đất nước. Nhưng anh vẫn làm theo lời tổng thống, anh vẫn làm những gì tổng thống muốn anh làm. Làm những chuyện nhạy cảm dù anh có thể chết, dù anh có phải giết người, rốt cuộc là làm những việc phi nghĩa. Phi nghĩa nếu xét theo mọi tiêu chuẩn nào khác hơn là nó do tổng thống chủ trương. Sự thật đó là điều phi nghĩa.
Thành ra rốt cuộc mất mạng và giết người trong một công cuộc phi nghĩa lại được coi là hết sức bình thường. Và tôi cứ thế mà làm. Tôi đã sang bên ấy. Mặc dù tôi tôi không còn tin vào công cuộc mà tôi phục vụ vì tổng thống nữa. Cho đến lúc hành động của Randy Keeler làm cho tôi giác ngộ ra rằng muốn làm theo lương tâm, có những phương cách khác hơn là phục vụ tổng thống. Có những cách dũng cảm khác. Rồi tôi tự hỏi, mình đã như bạn bè, sẵn sàng bỏ mình hay bị bắt làm tù binh ở Việt Nam vì mình ủng hộ hay cam chịu công cuộc chiến tranh, thì nay tại sao không sẵn sàng vào tù, không sẵn sàng hy sinh tự do của mình? Một khi phải đối diện với câu hỏi ấy, thì câu trả lời đến cũng nhanh.
Anh hỏi tôi làm sao tôi có thể đảm đương được cái đó, (xin trả lời) tôi thuộc lớp người đã tự nguyện sang Việt Nam. Tôi không phải là người duy nhất đã làm như vậy. Không phải bất cứ ai, nhưng nhiều người cũng đã làm như vậy. Chỉ có điều là không mấy ai có cơ hội, sau khi tích cực phục vụ tổng thống, lại tích cực dấn thân chống lại ý chí, chống lại đường lối của tổng thống, chống lại việc ông ta muốn làm, chống lại cuộc chiến tranh mà ông ta ra lệnh tiến hành. Lại đặt mình vào vị trí một người phản kháng, hay là vị trí một đại biểu Quốc hội chống lại cuộc chiến tranh.
Có thể nói, từ ngành hành pháp mà chuyển sang giúp việc cho Quốc hội và lộ diện trước công chúng, là cả một cuộc thay đổi. Một sự thay đổi lớn về “căn cước” rất khó làm, cực kỳ khó đối với một viên chức hành pháp. Một thay đổi nữa, tất nhiên, là dọn mình để sẵn sàng vào tù vì những việc mình làm. Mà đó là vì tôi liên hệ với việc bản thân tôi đã làm ở Việt Nam hay trong hàng ngũ thuỷ quân lục chiến. Nhưng sở dĩ tôi làm được cũng là nhờ tấm gương của hàng nghìn người Mĩ. Tháng trước, tạp chí Esquire có gọi tôi. Họ chuẩn bị một số đặc biệt về anh hùng và hỏi tôi có người anh hùng nào mà tôi muốn nêu tên. Tôi đã nêu tên Randy Keeler là người đã làm gương cho tôi, đã thay đổi đời tôi.
Harry Kreisler: Nói vắn tắt, thì trong một chế độ dân chủ, trách nhiệm của một cá nhân trong những vấn đề chiến tranh và hòa bình mà ta đã bàn là như thế nào?
Daniel Ellsberg: Tôi có thể vắn tắt vài câu về quyết định của riêng tôi như tôi vừa kể. Tôi cho rằng bài học mà tôi rút ra về việc phải làm gì có thể áp dụng không những cho thời trước mà cho người ta trong tương lai. Trước hết, chúng ta có cái may là trong Hiến pháp, chịu trách nhiệm về chuyện chiến tranh và hòa bình không chỉ có hành pháp (như hành pháp vẫn tưởng), mà còn có cả Quốc hội: Hiến pháp nước ta quy định rằng Quốc hội có trách nhiệm tuyên chiến, tài trợ, kiểm soát ngân sách, và có rất nhiều phương cách để thực sự kháng cự lại đường lối của hành pháp trong lãnh vực chiến tranh và hòa bình. Và trong nội bộ ngành hành pháp, lại có những quan chức có thể nghĩ tới việc thông báo cho Quốc hội, với sự đồng ý hay không đồng ý của tổng thống. Có nhiều cách làm tránh được trách nhiệm pháp lý. Ngược lại, thường ra họ chỉ cần nói thật chứ không phạm pháp vì khai man như họ thường làm. Nói khác đi, họ chỉ cần tuân thủ pháp luật thay vì vi phạm pháp luật, họ chỉ cần làm theo Hiến pháp. Tóm lại, hợp tác với Quốc hội để thay đổi tình hình. Nhưng điều đó, ít khi nào họ dám nghĩ tới bởi như thế là chéo cẳng ngỗng đối với người đã bổ nhiệm họ. Song, như tôi vẫn thường nói, ra khỏi hàng rào hành pháp, người ta vẫn có thể sống như thường.
Thứ hai, những thanh niên đi quân dịch hay những người tự nguyện nhập ngũ mà họ đưa ra trận mạc, phải chịu những rủi ro như thế nào, thì họ cũng phải hiểu rằng chính họ cũng có bị rủi ro như thế ấy trên con đường hoạn lộ của họ. Nói cách khác, họ có thể suy nghĩ, chấp nhận phải trả giá trong cuộc đời của mình bằng việc nói thực, bằng việc cung cấp thông tin cho công chúng, bằng hành động theo lương tâm, một cách trung thực, ra ngoài ngành hành pháp để nói sự thật, để thông tin cho công chúng. Nghĩa là phải trả một cái giá đắt về sự nghiệp tương lai, nhưng là cái giá mà họ phải sẵn sàng trả. Tóm lại, họ phải thấy rằng nếu họ chịu trả cái giá trong cuộc đời, thì có được một thứ quyền lực lớn hơn mà họ tưởng nhiều lắm.
Bản dịch của Nguyễn Ngọc Giao
© Thời Đại Mới
Harry Kreisler phỏng vấn Daniel Ellsberg
Nguyên tác:
Worse than Cannibals
Guernica, tháng 1-2010
Lời giới thiệu của người dịch: Trong một phần tư thế kỉ Mĩ can thiệp ở Việt Nam (1950-1975), nhất là trong những năm quân đội Hoa Kỳ trực tiếp tham gia chiến trận (1965-1973) với hơn 3 triệu binh lính, hàng triệu người Mĩ đã lên tiếng chống lại chính sách chiến tranh, bằng những hình thức và mức độ khác nhau. Họ là những trí thức, sinh viên, thanh niên, mục sư, linh mục, nghệ sĩ… Họ là những người có tên tuổi do sự nghiệp, chức vị, như Martin Luther King, Noam Chomsky, Benjamin Spock, Jane Fonda… hoặc là những người mà dư luận chỉ biết tên qua hành động chống chiến tranh dũng cảm như Angela Davis, hai linh mục anh em Daniel và Philip Berrigan (vào tù vì chống chiến tranh), Norman Morrison (tín đồ Quaker, tự thiêu trước Lầu năm góc)… Đằng sau họ, chung quanh họ là hàng triệu người “vô danh” đã “biểu tình ngồi”, “biểu tình đứng”, “biểu tình đi vòng quanh”, đốt thẻ quân dịch, chấp nhận án tù hay lưu đầy để không tham gia cuộc chiến tranh phi nghĩa.
Trong những con người ấy, Daniell Ellsberg giữ một vị trí đặc biệt. Anh thuộc thế hệ và loại người mà nhà báo Mĩ David Halberstam gọi là “ The Best and the Brightest ” (những con người ưu tú và xuất sắc nhất), những cá nhân giỏi giang được tuyển mộ vào chính quyền Mĩ, trở thành những cộng sự viên đắc lực nhất của tổng thống Hoa Kì. Sinh năm 1931, Daniel Ellsberg là một điển hình của mẫu người “văn võ toàn tài” kiểu Mĩ: tiến sĩ kinh tế học (Trường đại học Harvard, 1962), tốt nghiệp thủ khoa khoá đào tạo 1100 thiếu uý Thuỷ quân lục chiến (Marine Corps Basic School, Quantico, Virginia). Sau hai năm phục vụ trong quân chủng “sừng sỏ” này, Ellsberg vào làm “phân tích viên” của tập đoàn RAND. Từ đó cho đến mùa hè năm 1969, với tư cách là nhân viên của “think tank” này, hay với tư cách là viên chức của chính quyền, ở Lầu năm góc, Việt Nam hay Nhà Trắng, Ellsberg đã làm việc với những cánh tay mặt của các tổng thống (Kennedy, Johnson, Nixon) như Robert McNamara (bộ trưởng quốc phòng của Kennedy và Johnson), Edward Lansdale (CIA, cha đỡ đầu của chế độ Việt Nam cộng hoà), Henry Kissinger (cố vấn an ninh của Nixon).
Là một trong vài ba người đã được đọc toàn bộ 7000 trang tài liệu “mật” mang tên “Hồ sơ Lầu năm góc” (Pentagon Papers) và đã chứng kiến từ bên trong chính sách “nói một đàng làm một nẻo” ở Việt Nam của “5 đời tổng thống” (từ Harry Truman đến Richard Nixon), Ellsberg bắt đầu tham gia những cuộc biểu tình chống chiến tranh, gặp những người sẵn sàng vào tù để lên án cuộc chiến tranh phi nghĩa và vô vọng. Cuối cùng là quyết định công bố Pentagon Papers, như ông kể lại trong cuộc phỏng vấn này.
Điều mà bài phỏng vấn không đề cập là những gì diễn ra trước và sau khi công bố. Xin nhắc lại vài mốc chính:
* trong suốt năm 1970, D. Ellsberg tìm cách thuyết phục những thượng nghị sĩ phản đối chiến tranh – như J. William Fulbright, chủ tịch Uỷ ban đối ngoại Thượng viện, George McGovern, người sẽ ra tranh cử với Nixon năm 1972 – hãy công bố Hồ sơ Lầu năm góc ngay tại hội trường Thượng viện, nhưng không người nào dám làm việc này.
* D. Ellsberg đành cung cấp bộ tài liệu mật cho kí giả Neil Sheehan: ngày chủ nhật 13.6.1971, báo The New York Times công bố phần đầu trong 9 phần trích đoạn 7000 trang hồ sơ. Toà án, theo yêu cầu của chính quyền Nixon, ra lệnh cho New York Times phải ngừng công bố. Ellsberg trao hồ sơ cho The Washington Post và 17 nhật báo khác trước khi “rút vào vòng bí mật” vì, tuy The New York Times không tiết lộ danh tính, ông tin rằng chính quyền sẽ biết chính ông là nguồn gốc của sự “rò rỉ” này.
* Ngày 29.6.1971, thượng nghị sĩ Mike Gravel (bang Alaska) cho đăng 4 100 trang Hồ sơ Lầu năm góc vào ấn bản của một tiểu ban Thượng viện. Tài liệu này sau đó được nhà xuất vản Beacon Press phát hành dưới tên gọi “ấn bản Gravel”. (trước đó một ngày, Ellsberg ra trình diện trước công lý, đến tháng 1.1973 mới bị xử -- xem dưới).
* Cuối cùng, Toà án Tối cao xử The New York Times thắng kiện chính quyền liên bang. Nhà Trắng trả thù bằng cách bôi nhọ Ellsberg. John Erlichman, trợ lý nội vụ của tổng thống Nixon, thành lập nhóm “Thợ hàn của Nhà Trắng” (White House Plumbers, hàm ý nhiệm vụ của nhóm này là “bịt kín” những “rò rỉ” hồ sơ mật). Nhóm này đột nhập phòng khám bệnh của Lewis Fielding, bác sĩ tâm thần học của Ellsberg, nhưng không tìm thấy “hồ sơ bệnh lí” của Ellsberg. Từ đó, nhóm “Thợ hàn” tiếp tục được Nhà Trắng sử dụng để bới móc đời tư của các chính khách đối lập như Thượng nghị sĩ Edward Kennedy, và cuối cùng bị bắt quả tang đột nhập trụ sở Uỷ ban tranh cử của Đảng dân chủ tại toà nhà Watergate. Vụ “ bê bối Watergate ” đã dẫn tới việc Nixon phải từ chức năm 1974 để tránh bị truy tố và cách chức.
* Vụ ăn trộm văn phòng của bác sĩ Fielding, mãi đến ngày 3.1.1973 mới được công bố trong phiên toà xử Daniel Ellsberg vì vi phạm “Luật gián điệp 1917”, tại Los Angeles. Cùng với việc này, nhiều hành động phạm pháp khác của Nhà Trắng (nghe trộm các cuộc điện đàm, mua chuộc quan toà…) đã được đưa ra ánh sáng, nêu rõ trách nhiệm của những người thân cận tổng thống (Haldeman, tổng thư kí Nhà Trắng, Mitchell, bộ trưởng bộ tư pháp..) và của chính tổng thống Nixon. Cuối cùng, ngày 11.5.1973, toà án Los Angeles đã bác bỏ tất cả các tội trạng của Daniel Ellsberg và bạn ông là Anthony Russo. Một năm sau, Richard M. Nixon phải từ chức.
Nguyễn Ngọc Giao
Giới thiệu của Tạp chí Guernica: “Phần tử quấy rối” trứ danh nhất của nước Mĩ kể lại chuyện ông chuẩn bị vào tù, chuyện tổng thống dối trá tràn lan, và tại sao chiến tranh kéo dài.
Sang năm 2011 sẽ là 40 năm kể từ ngày Daniel Ellsberg tiết lộ Hồ sơ Lầu năm góc cho nhật báo New York Times. Sự kiện này đã vạch trần sự dối trá của chính quyền trong việc thông tin về chiến tranh Việt Nam và góp phần thúc đẩy việc tổng thống Nixon từ chức. Năm mới cũng có thể chứng kiến việc cuốn phim tài liệu The Most Dangerous Man in America: Daniel Ellsberg and the Pentagon Papers (Người đàn ông nguy hiểm nhất của nước Mĩ: Daniel Ellsberg và Hồ sơ Lầu năm góc) được vào chung kết giải Oscar (nó đã được vào vòng đầu hồi tháng 11.2009). Cuốn phim nói về “ phần tử quấy rối ” có lẽ nổi tiếng nhất nước Mĩ, đồng thời cũng là biểu tượng cho lòng dũng cảm và tinh thần trách nhiệm của phong trào phản chiến ngày nay. Ở thời điểm mà đất nước của ông đang dính líu vào hai cuộc chiến tranh gây ra tranh cãi, lời nói của Daniel Ellsberg, năm xưa và bây giờ, vẫn gây tiếng vang lớn.
Tháng giêng năm nay, Hoa Kì bắt đầu triển khai thêm gần ba chục ngàn binh sĩ trong cuộc chiến ở Afghanistan, thì khi Daniel Ellsberg nói về quá trình quyết định của tổng thống, về cách thức mà chính quyền trình bày các quyết định ấy với công chúng, nhất là trong tình huống các cuộc chiến tranh trở thành thứ tâm bệnh di truyền thừa hưởng từ quá khứ, sự mô tả của ông âm hao như một lời tiên tri. Trong cuộc phỏng vấn công bố dưới đây, ông nói: “ Điều mà tôi rút ra từ năm 1969 và từ Hồ sơ Lầu năm góc, là Nixon, người thứ năm trong chuỗi những tổng thống Mĩ (dính líu vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam), đã quyết định kéo dài cuộc chiến tranh vì ông ta hi vọng hão huyền rằng mình có thể đạt được một kết cuộc tốt đẹp hơn là nếu ông ta chấp nhận thương lượng cách nào rút ra êm thấm, và cơ bản có nghĩa là chấp nhận thất bại. Ông ta hy vọng đạt kết quả tốt hơn thế nhiều ” (bài phỏng vấn sẽ được công bố trong cuốn Political Awakening: Conversations with History, nhà xuất bản New Press sẽ ấn hành vào tháng 3.2010).
Cuộc đời của Daniel Ellsberg (năm nay 78 tuổi) là cả một hành trình khác thường. Sinh trưởng ở thành phố Detroit, ông đỗ tiến sĩ kinh tế học ở Harvard trước khi đầu quân vào Thuỷ quân lục chiến. Sau đó vào làm việc cho Rand Corporation. Với cương vị chuyên gia về Việt Nam của công ti này, Ellsberg được Bộ trưởng quốc phòng Robert McNamara yêu cầu tham gia vào một nhóm tuyệt mật có nhiệm vụ nghiên cứu các tài liệu mật về quá trình tiến hành chiến tranh Việt Nam, sau này sẽ được gọi chung là Hồ sơ Lầu năm góc. Hiếm ai có trải nghiệm (và dũng cảm) để có thể khẳng định một cách có thẩm quyền về những tổng thống Mĩ như Ellsberg trong cuộc phỏng vấn dưới đây khi ông nói: “Thật sự là họ chẳng mấy khi ngại nói dối về các vấn đề đó. Trình bày sự việc cho công chúng theo một đường hướng không tương ứng gì với thực tại, đối với họ là “thuận tiện” và có lợi về chính trị”.
Cho nên khi tổng thống Obama nói với sinh quân Học viện West Point (và qua đó, với thế giới) rằng quyết định của ông là do ông “tin tưởng rằng nền an ninh của chúng ta được định đoạt ở Afghanistan và Pakistan”, Ellsberg nhảy chồm lên thì cũng không có gì lạ. Những lí do được nêu ra để giải thích rằng an ninh của Hoa Kì bị đe doạ ở Afghanistan – một chính phủ thối nát, phi nghĩa đối với nhân dân Afghanistan, bầu cử thì gian lận, dân chúng ủng hộ các lực lượng chống đối không phải vì ưa thích đám này, mà vì họ muốn người ngoại quốc (nhất là lính Mĩ) cuốn gói đi – “nghe hệt như chuyện Việt Nam trước đây”, Ellsberg nói.
Daniel Ellsberg
Harry Kreisler phỏng vấn Daniel Ellsberg (năm 1998):
Harry Kreisler: Lần đầu tiên ông dính líu tới Việt Nam là năm nào?
Daniel Ellsberg: Tôi chưa bao giờ nói công khai chuyện này, nhưng sự thật là tôi đã sang Việt Nam năm 1961 với một nhóm đặc nhiệm, tổ nghiên cứu của Bộ quốc phòng thời Kennedy, về nghiên cứu & phát triển chiến tranh hạn chế. Lúc đó tôi đã có một cái nhìn chung về tình hình Việt Nam và tôi đã quyết định là nếu có thể, trên con đường quan lộ, tôi sẽ lánh xa vấn đề này. Trở về Mĩ, tôi tham gia việc soạn thảo bản báo cáo cho RAND. Bản báo cáo chứa đựng những gì tôi biết được trong nhóm nghiên cứu, với khuyến nghị cơ bản là: chớ tìm kiếm tài trợ để nghiên cứu vấn đề Việt Nam, đừng dính liu vào đó, hãy tránh xa ra, sa vào đó nhất định thất bại. Bởi vì ngay từ năm 1961, hay trước đó nữa, rõ ràng là không thể hi vọng rằng phương Tây có thể làm gì được để khuất phục một phong trào đấu tranh cho độc lập quốc gia và chủ quyền dân tộc ở Việt Nam, do Cộng sản lãnh đạo, đã đánh bại người Pháp được người Mĩ ủng hộ mạnh mẽ về tài chính, vật tư và các thứ. Trước mặt chúng ta, cơ bản vẫn là đối phương đó, và khả năng chúng ta làm tốt hơn người Pháp là rất thấp.
Thế là trong nhiệm kì Kennedy làm tổng thống (năm 1961, rồi 1962, 1963), tôi đã tránh xa những cuộc thảo luận về Việt Nam, tôi không muốn sa vào đó. Tôi cho là dính dấp vào đó cũng tương tợ như dính líu vào vụ Vịnh Con Heo, cuộc đổ bộ thảm bại ở Cuba đã làm cho hầu như tất cả những người dính dáng vào đó đã bị thân bại danh liệt.
Harry Kreisler: Nhưng rồi ít năm sau ông vẫn trở lại Việt Nam?
Daniel Ellsberg: Không, tôi bị gửi sang… Có thể nói là tôi miễn cưỡng, bị người ta gửi trở lại Việt Nam. Phần tôi cũng muốn quan sát quá trình hoạch định chính sách của chính phủ từ bên trong, sau mấy năm tìm hiểu quá trình ấy với tư cách một nhà nghiên cứu và tư vấn. Ngày đầu tiên tôi dính líu vào vụ này, là tôi ngồi đọc các “bức điện”, hay như họ thường nói, là “tắm mình” trong dòng chảy của những điện tín gửi từ một vùng đất nhất định. Hầu như tất cả những bức điện đầu tiên tôi đọc hôm ấy đều liên quan tới một vụ có vẻ như là tấn công vào khu trục hạm của ta ở Vịnh Bắc Bộ. Đó là ngày mồng 4 tháng 8 năm 1964. Và tôi ngồi đó, đọc một loạt điện “thượng khẩn”, báo cáo các khu trục hạm của chúng ta lại bị tấn công, dồn dập tới vào khuya hôm đó. Tất cả các điều họ biết chỉ đều là qua radar và sonar.
Nhảy cóc mấy năm sau nhé: mấy năm sau, rõ ràng là không có tấn công gì ráo. Họ đánh nhau với những hình bóng trên màn ảnh radar và sonar dưới nước. Họ bắn loạn xạ vào những bóng ma đó chứ thật ra không hề có ngư lôi nào của đối phương bắn ra cả.
Nhưng trở lại thời điểm đó, họ được báo cáo tường tận là chiến hạm của ta bị tấn công. Rồi, cũng trong ngày đầu tiên ấy, tôi đọc một bức điện nói “Tạm ngưng mọi chuyện”. Viên chỉ huy hai chiến hạm thỉnh cầu chưa hành động phản ứng gì vội, đợi ban ngày họ có cơ hội quan sát mặt biển xung quanh xem có xác tàu đắm, vết dầu loang, người sống sót nào không. Bởi vì họ nghĩ đã đánh đắm tàu địch, tất sẽ phải tìm thấy vài dấu hiệu. Lúc đó có nghi vấn lớn về quy mô cuộc tấn công, và nghi vấn là thật sự có tấn công hay không. Thực khó mà xác nhận điều này. Tuy nhiên, trước lúc nhận được bức điện ấy, thì tổng thống đã quyết định bắt đầu những phi vụ chống Bắc Việt.
Thế là chúng ta đã tung ra 64 phi vụ đánh Bắc Việt. Suốt đêm hôm đó, tôi ở liền trong Lầu năm góc để theo dõi các phi vụ và hậu quả, những sự việc diễn ra ở phía bên kia trái đất, cách 12 thoi giờ, nghĩa là bên ấy là ngày, bên này là đêm.
Rồi trong vài ngày tiếp theo, tổng thống đã được Quốc hội hầu như nhất trí ủng hộ một điều coi như là tương đương với quyết định tuyên chiến: nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, mà tổng thống cho rằng như vậy là Quốc hội ủng hộ chiến tranh, trong khi Quốc hội lại được giải thích để hiểu là không phải như vậy. Và thế là chúng ta đã bước sang giai đoạn Hoa Kì tham gia mạnh mẽ vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam.
Harry Kreisler: Căn cứ vào những gì chính ông thấy tận mắt, lúc đó ông có hoài nghi gì không về những điều mà tổng thống yêu cầu nơi Quốc hội?Công chúng thì ngày ngày bị tổng thống, người phát ngôn của tổng thống và các quan chức lừa dối.
Daniel Ellsberg: Hoàn toàn không thể nghi ngờ. Tổng thống nói với Quốc hội và công chúng rằng chiến hạm nước ta bị tấn công, bằng chứng về điều này hết sức rõ ràng. Nói thế là nói dối. Và tôi, lúc đó tôi biết là nói dối. Trước khi cuộc tấn công bắt đầu, đã có rất nhiều nghi vấn đã được nêu lên, và rõ ràng là tình hình rất mập mờ, không có gì rõ ràng cả. Tôi nghĩ lúc đó tôi chỉ có thể nói, và nhiều người khác nữa cũng chỉ có thể nói thế này thôi: “Có thể đã xảy ra một cuộc tấn công”. Nhưng tổng thống đâu có nói thế với công chúng. Ông đã nói dối với công chúng.
Thứ nữa, giả định là cuộc tấn công có thực, tổng thống còn nói rằng: đó rõ ràng là một cuộc tấn công ở ngoài khơi, vô cớ đánh vào khu trục hạm của chúng ta. Đây cũng là một lời nói dối, theo nghĩa này: trước đó hai ngày, đúng là đã có một cuộc tấn công tiến hành sau khi Mĩ tung ra những cuộc đánh phá Bắc Việt vào đêm hôm trước – những hành động này được tiến hành một cách bí mật, nguỵ trang và nhất mực bị phủ nhận. Tóm lại, có bằng chứng là vụ này do chính chúng ta gây hấn. Thế mà tất cả, McNamara, Rusk, Vance đều giấu nhẹm, không cho Quốc hội biết về các cuộc đánh phá mà Hoa Kì đã tiến hành.
Harry Kreisler: Trong bối cảnh làm việc như vậy của ông ở Lầu năm góc, các tuyên bố công cộng không ăn khớp gì với những điều mà ông và những người khác ở trong hành lang của quyền lực biết được, các ông xử lí ra sao trước sự bất nhất này?
Daniel Ellsberg: Tính từ năm 1959 đến thời điểm đó, tôi đã làm tư vấn cho chính phủ được khoảng 6 năm, từ Eisenhower, qua Kennedy rồi bấy giờ là Johnson. Tính tới lúc đó, tôi đã được đọc hàng vạn trang tài liệu mật, do đó có thể so sánh những gì tôi biết với những gì công chúng được nghe giải thích. Công chúng đã bị tổng thống, các người phát ngôn của ông ta cũng như các viên chức nói dối, nói dối ngày này qua ngày kia. Nếu anh không chế ngự được ý tưởng rằng, vì đủ mọi thứ lí do, tổng thống đã dối trá đối với công chúng, thì anh không thể nào ở yên trong vị trí đó trong chính quyền, là nơi anh buộc phải biết, tuần nào cũng thế, tất cả những điều đó.
Tôi nói điều này vì đôi khi có người suy luận, cho rằng tôi đã trao Hồ sơ Lầu năm góc cho New York Times là để bị bỏ tù. Như Harrison Salisbury của báo New York Times đã nói, “Anh ấy đã không chịu được sự dối trá”. Tuyệt nhiên không phải vậy đâu. Tôi không đâm đầu vào tù chỉ để công bố hồ sơ. Nếu anh không thể chung sống với ý tưởng là tổng thống nói dối, thì anh không thể làm việc với các tổng thống được. Sự thật là hiếm khi nào các tổng thống nói toàn bộ sự thật. Họ không bao giờ nói thật và nói hết là họ toan tính, chờ đợi gì, là họ đang làm gì, họ tin tưởng ở những điều gì và tại sao họ lại đang làm những việc họ làm. Và sự thực là ít khi họ ngần ngại nói dối về những điều này. Nói với công chúng, trình bày sự việc theo một cung cách không đúng với sự thật, đối với họ, rất là tiện lợi, và về mặt chính trị, rất hữu hiệu.
Harry Kreisler: Và cứ như thế, ông ngày càng dấn thân vào cuộc chiến tranh. Sau thời gian này, ông đã sang Việt Nam và làm việc ở đó.
Daniel Ellsberg: Vâng, vào mùa hè 1965, tổng thống đã quyết định leo thang chiến tranh không kì hạn. Từ tháng hai 1965, chúng ta đã ném bom (miền Bắc Việt Nam) và tham chiến mạnh mẽ; lúc đó, chúng ta đã có hơn 100 000 binh sĩ ở Việt Nam. Chúng ta đã “làm chiến tranh”. Và tôi, vốn là một thuỷ quân lục chiến trong thời bình (1954-1957) – tiểu đội trưởng, rồi chỉ huy đại đội – tôi không muốn ngồi yên ở Washington mà theo dõi chiến cuộc. Nên tôi đã tình nguyện sang Việt Nam, làm công tác liên lạc giữa đại sứ quán và phía Việt Nam. Tôi cảm thấy đây là cơ hội để hiểu được cuộc chiến tranh và có thể tránh được những thể loại kết cục xấu nhất.
Phần lớn thời gian tham gia ở Việt Nam, tôi thấy rõ là chúng ta không có triển vọng nào khác là ẩn ức, bế tắc, giết hại và chết chóc. Chẳng có mấy hi vọng đi tới một kết cục thuận lợi hay ít nhất một kết cục tạm gọi là chấp nhận được. Giỏi lắm là khả năng hoặc trì hoãn sự thất bại, hoặc phải thay đổi chính sách.
Tôi là người nghiên cứu duy nhất, ở trong cũng như ở ngoài chính quyền, được phép tham khảo toàn bộ 47 tập khảo sát để thực hiện cuộc nghiên cứu. Tổng cộng là bảy nghìn trang tài liệu, tối mật.
Sau này, khi nghiên cứu trở lại toàn bộ hồ sơ, tôi mới phát hiện ra một điều là: thực ra, các tổng thống chưa bao giờ nhận được những khuyến nghị mang lại hi vọng dứt khoát là sẽ kết cục thành công ở Việt Nam. Mặt khác, họ chỉ thấy nêu ra khả năng trì hoãn được thất bại, hay trì hoãn được tình thế gay go sẽ xảy ra nếu Mĩ rút khỏi Việt Nam, để người Việt Nam quyết định lấy cuộc sống chính trị của họ -- điều ấy có nghĩa, hầu như chắc chắn, là sự bá quyền của cộng sản. Để tránh viễn ảnh ấy, họ chỉ còn một chọn lựa là cái giá phải trả đối với người Mĩ và người Việt ngày mỗi tăng, về sinh mạng, tiền của cũng như sự dính líu. Rốt cuộc là tổng thống nào cũng chọn cách ấy. Kennedy đã chọn như thế, Johnson đã chọn như thế, và đó cũng là chọn lựa của Nixon cho đến ngày ông ra phải từ chức.
Harry Kreisler: Về lại Washington với công việc ở RAND, ông được phép tham khảo những hồ sơ sau này sẽ được họi là “Hồ sơ Lầu năm góc”. Ông hãy cho biết đó là những tài liệu gì.
Daniel Ellsberg: Tôi ở Việt Nam hai năm, từ 1965 đến 1967. Phần lớn thời gian đó tôi có nhiệm vụ đánh giá công cuộc bình định, nên tôi đã đi hầu hết các tỉnh (Nam) Việt Nam. Chính xác là tôi đã đi 38 tỉnh trên tổng số 43. Tuy là dân sự, tôi đã sử dụng sự huấn luyện trong thuỷ quân lục chiến để làm việc với quân đội trong một thời gian, và có lúc tôi đã trải nghiệm chiến đấu thực sự. Do đó, tôi đã thấy “cận cảnh” cuộc chiến tranh, cụ thể là ở cấp độ đại đội bộ binh. Tôi đã bị viêm gan, có lẽ đã nhiễm bệnh trong một cuộc hành quân dã ngoại, trở về Mĩ, ra khỏi cơ quan chính quyền và trở lại hàng ngũ Tập đoàn RAND. Ngay lập tức, tôi được cử tham gia dự án lịch sử mà McNamara đã tiến hành tổ chức ở Lầu năm góc, dưới tên gọi chính thức là “Quá trình lấy quyết định của Hoa Kì ở Việt Nam, 1945-1968”.
Tôi là nhà nghiên cứu duy nhất, ở trong cũng như ở ngoài chính quyền, được tiếp cận toàn bộ 47 tập khảo sát để thực hiện công cuộc nghiên cứu. Tổng cộng là bảy ngàn trang tài liệu “tối mật”. Trong phòng làm việc tôi có hẳn một cái tủ “tuyệt mật” để cất giữ tài liệu, tiến hành công trình nghiên cứu mang tên “Những bài học từ Việt Nam”.
Điều khá lạ lùng: tôi là người duy nhất ăn lương do hợp đồng với chính phủ Hoa Kì để rút ra những bài học về Việt Nam. Có một lúc, cả nước Mĩ chỉ có ba người thực sự đã đọc toàn bộ nghiên cứu, do đó có khả năng rút ra những bài học của thời kì 23 năm, từ 1945 đến 1968.
Harry Kreisler: Những gì đã làm ở Việt Nam thường không có gì là thuận lí, mà chỉ phản ánh một động lực chịu ảnh hưởng nặng nề của chính trị. Thế mà trong nhiều năm, ông đã sống với nó.
Daniel Ellsberg: Cũng phải nói là, đứng ở quan điểm tổng thống, đó là tinh tuý của sự thuận lí: thắng cử và giữ được quyền lực. Ông có thể hợp lí hoá điều đó bằng cách nói rằng điều quan trọng là đảng tôi và bản thân tôi khôn ngoan hơn mấy người khác, quyết định sẽ sáng suốt hơn. Thí dụ: nhất thiết không thể để cho Goldwater thắng cử. Thà rằng phải làm thế này thế nọ, chứ không nên để cho Goldwater thắng. Và tất nhiên, cũng như trong vụ Watergate, người của tổng thống phân bua: “Chúng tôi làm như thế chỉ là để ngăn chặn không cho McGovern trở thành tổng thống; McGovern mà làm tổng thống thì tai hoạ lắm”. Lí lẽ của họ là như vậy. Nếu anh bảo họ “nói thế không hợp lí” thì tôi xin trả lời: đó là lôgic của quyền lực nội trị, lôgic của việc giữ chặt quyền lực, của sự tự trọng, của uy tín tổng thống, những thứ mà các tổng thống và giới thân cận rất dễ đồng hoá với quyền lợi của quốc gia. Họ rất khó phân biệt hai thứ ấy.
Harry Kreisler: Trong nhiều năm, ông ở trong chính quyền, nằm trong một tổ nghiên cứu, sống với những nhân tố của quá trình lấy quyết định. Sau những thất vọng, ẩn ức về tình hình Việt Nam, sau khi đọc các Hồ sơ Lầu năm góc, ông đã thay đổi quan niệm về ranh giới giữa những điều chấp nhận được và những điều không thể chấp nhận, giữa những điều phù hợp với đạo lý và những điều đi ngược đạo lý. Ông hãy giải thích sự thay đổi đó trong suy nghĩ của ông.
Daniel Ellsberg: Ở Việt Nam thực ra tôi cũng không rút ra điều gì thực sự mới về việc không có triển vọng thành công. Song có một điều tôi đã học được: đó là nét mặt của người Việt Nam. Tôi đã biết quan tâm tới số phận của người Việt Nam, điều mà các đồng nghiệp của tôi ở Washington có lẽ không biết. Người Việt Nam, đối với tôi, đã trở thành một hiện thực. Họ không chỉ còn là những con số, những mã số trừu tượng như trong đầu óc của những đồng sự khác.
Điều đặc biệt nhất mà tôi học được, vào năm 1969, và từ Hồ sơ Lầu năm góc, là Nixon, người thứ năm trong chuỗi dài các tổng thống (dính dấp tới Việt Nam) đã chọn lựa quyết định kéo dài cuộc chiến tranh, với hi vọng hão huyền là ông ta có thể đạt tới một kết cuộc tốt đẹp hơn là kết cuộc sẽ có nếu ông ta chịu thương lượng cuộc rút quân, và về thực chất, là chấp nhận thất bại. Ông ta tưởng có thể làm tốt hơn thế nhiều. Ông ta tưởng có thể kiểm soát mãi được Sài Gòn và các vùng đông dân, rằng các vùng này sẽ phục tùng ý chí của chúng ta, chính sách của chúng ta, chứ không do cộng sản cai trị. Và ông ta có thể làm được điều ấy, như Johnson trước đó đã hi vọng, bằng cách đe doạ leo thang chiến tranh. Nixon đã lớn tiếng đe doạ và sẵn sàng thực hiện lời đe doạ của mình.
Tôi không tin rằng những lời đe doạ ấy sẽ mang lại kết quả. Tôi đoán trước là chiến tranh sẽ mở rộng. Mà lúc ấy, công chúng đã không còn chấp nhận tiếp tục chiến tranh nữa, huống chi tới mở rộng chiến tranh. Nhưng Nixon đã thành công trong việc đánh lừa công chúng, bởi vì công chúng không muốn tin rằng tổng thống lại điên rồ và thiển cận (đứng về quyền lợi cá nhân mà nói) đến mức sau cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân mà còn muốn kéo dài chiến tranh. Thế là một lần nữa, tôi chứng kiến cảnh một tổng thống bí mật đe doạ đối phương, gần như chắc chắn sẽ thực hiện lời đe doạ ấy, đồng thời lại lừa dối công chúng về hành động của mình.
Đọc Hồ sơ Lầu năm góc (mùa thu năm 1969 thì tôi đọc xong), tôi đã có được cái nhìn bao quát về lịch sử đi tới một kết luận mà chắc tôi không thể đạt được nếu không được đọc. Đó là: có rất ít hi vọng làm thay đổi não trạng (của tổng thống) từ bên trong ngành hành pháp – thí dụ như đưa ra cho tổng thống những khuyến nghị đúng đắn, hay cung cấp cho ông những đánh giá hiện thực về tình hình Việt Nam. Bởi vì đọc trong Hồ sơ Lầu năm góc, tôi đã thấy là từ những ngày đầu – thời Truman – tổng thống nào cũng đã nhận được những khuyến nghị như vậy rồi. Và bây giờ, sự thực là Nixon đã lao mình vào một cuộc đua mới, thì so với những tổng thống tiền nhiệm, lại càng ít có khả năng chịu nghe những lời khuyên can.
Như vậy, muốn cho ông ta thay đổi quyết định – và chính vì tôi quan tâm tới Việt Nam và nước ta, tôi lại càng bức xúc mong muốn Hoa Kì phải chấm dứt oanh tạc và chém giết người Việt Nam – thì phải có sức ép từ bên ngoài tác động vào hành pháp. Điều này đòi hỏi là ở bên ngoài cơ quan hành pháp, cụ thể là Quốc hội và công chúng, phải được thông tin tốt hơn về quá khứ cũng như về hiện tại. Nếu tôi có trong tay những tư liệu về các kế hoạch của Nixon thì tôi đã tung ra cho Quốc hội để các nghị sĩ biết việc gì sắp xảy ra. Như thế, tôi chẳng còn phải bận tâm với hàng nghìn trang lịch sử liên quan tới các tổng thống tiền nhiệm; chỉ cần vạch rõ những gì Nixon đang tiến hành. Những tài liệu ấy, tôi không có. Mà ở thời ấy, rất khó làm cho công chúng hiểu ra rằng tổng thống đang đánh lừa họ, để công chúng có hành động thích ứng. Điều này không có trong ý thức của người dân Mĩ. Nội cái việc đưa ra ý kiến đó cũng sẽ được rất ít người đồng ý.
Thành ra, lần đầu tiên, tôi tự hỏi: nếu tôi sẵn sàng vào tù thì tôi có thể làm gì để chấm dứt chiến tranh?
Có lần ra toà để bênh vực những người bị truy tố về tội chống quân dịch, tôi đã tuyên bố tổng thống nói dối. Đó là hồi đầu năm 1971, trước khi Hồ sơ Lầu năm góc được công bố. Ngay lập tức, quan toà ra lệnh ngừng ghi biên bản, gọi luật sư lại gần. “Nếu ông còn đưa ra những nhân chứng như vậy”, quan toà cảnh cáo trạng sư bên bị, “thì sẽ coi là ông lăng nhục, xúc phạm. Tại phòng xử án này, tôi sẽ không bao giờ cho phép ai tuyên bố là tổng thống nói dối”. Đó là phiên toà xét xử những người chống chiến tranh một cách bất bạo động. Và họ không được phép mời những chứng nhân dám nói rằng tổng thống dối trá. Hồ sơ Lầu năm góc đã làm thay đổi hẳn tình trạng này. Bảy nghìn trang tư liệu về sự dối trá của Nhà trắng đã vĩnh viễn vạch rõ – và hai ba năm sau, vụ Watergate đã xác nhận lần nữa – rằng tổng thống nào cũng dối trá.
Harry Kreisler: Những người biểu tình và lập trường đạo lí của họ có tác động tới quyết định đó của ông không?
Daniel Ellsberg: Phải nói thực là tác động của những người biểu tình đối với tôi không lớn bằng tác động của những người mà tôi đã được gặp, là những người đã phải trả cái giá cao hơn nhiều trong cuộc sống của họ để gửi đi một thông điệp mạnh mẽ. Họ sẵn sàng vào tù hơn là đi quân dịch hay sang Việt Nam, hay chạy sang Canada, hay là chọn quy chế “từ chối quân dịch vì lương tâm”, hay là vào đội Vệ quốc. Họ có thể chọn nhiều cách để tránh đi đánh nhau ở Việt Nam, trong đó có cách là chọn quy chế “từ chối quân dịch vì lương tâm” (conscientious objector). Nhưng họ đã chọn cách khẳng định mạnh mẽ nhất thông điệp này: cuộc chiến tranh này là sai trái, phải chấm dứt nó, họ từ chối mọi hình thức hợp tác với chính sách chiến tranh, kể cả việc chấp nhận quy chế “không đi quân dịch vì lương tâm”. Và họ chấp nhận đi tù.
Trong số những người tôi đã gặp như thế, có một người tên là Randall Keeler, mà tôi gặp hồi cuối tháng tám năm 1969. Đến lúc tôi bàng hoàng hiểu ra rằng anh ra sắp sửa phải ra toà vì tội chống quân dịch và chuẩn bị vào tù – và đúng thế, anh ấy đã ở tù hai năm – thì tôi mới ngỡ ngàng, ngộ ra là chúng ta đang ở trong tình thế mà những con người trí tuệ và tận tâm như Randy Keeler phải cảm thấy rằng điều tốt đẹp nhất anh ta có thể làm là chấp nhận đi tù, để đồng bào của mình có thể hiểu rằng đây là vấn đề đạo lý. Keeler đã làm điều phải làm, và hành động của anh cho thấy rõ bản chất tình thế nước Mĩ lúc đó là gì. Thật là kinh khủng! Tôi cảm thấy chúng ta đang ăn thịt thanh niên của chúng ta. Xấu xa hơn cả những kẻ ăn thịt người: chúng ta ăn thịt ngay cả con em mình. Chúng ta dùng con em để trả giá cho việc tìm ra một lối thoát cho cuộc chiến tranh, bằng cách hi sinh tuổi trẻ như là thịt nhồi đại bác trong cuộc chiến tranh. Những con người như Keeler phải được ủng hộ. Mỗi người phải làm bất cứ việc gì có thể, bất bạo động và thành khẩn. Họ đúng là những môn đệ của Gandhi. Trước đó, tôi đã được đọc Gandhi và Martin Luther King. Và bây giờ, tôi được gặp những người đang thật sự sống cuộc sống mà tôi đã đọc trong sách vở. Dưới tiêu chí thành khẩn và bất bạo động, tôi nhận thức rằng, noi gương họ, tôi sẵn sàng làm tất cả những gì có thể, nghĩa là tôi sẵn sàng từ bỏ sự nghiệp, sẵn sàng đi tù.
Cho nên, lần đầu tiên tôi tự hỏi: nếu tôi sẵn sàng ở tù, thì tôi có thể làm gì để góp phần chấm dứt chiến tranh? Tôi tìm cách thu xếp ra điều trần ở Quốc hội. Tôi tìm cách thúc đẩy việc mở ra các cuộc điều trần. Cũng với một số người, tôi viết thư gửi từ RAND. Và tôi cũng sao chụp Hồ sơ Lầu năm góc với hi vọng mang thêm sức mạnh cho các việc làm khác, thí dụ như điều trần ở Quốc hội. Thực ra tôi không tin là việc này có nhiều khả năng làm thay đổi tình thế, nhưng cũng có khả năng nào đó. Tôi đã sẵn sàng làm bất cứ điều gì có thể, và đó là một điều tôi có thể làm.
Harry Kreisler: Ngoài ra còn có những nhân tố nào khác, giúp chúng tôi hiểu thêm cái động lực nội tâm đã thúc đẩy ông làm điều đó? Đối với bất cứ người nào, đây không phải là một sự chọn lựa dễ dàng.
Daniel Ellsberg: Đọc Hồ sơ Lầu năm góc đã làm tan biến trong tôi cái ý muốn làm việc cho tổng thống. Qua đó, tôi đã thấy liên tiếp năm vị tổng thống lầm lỗi đi theo con đường ngoan cố, vị kỷ, điên rồ, tổng cộng tới lúc đó là hai mươi bốn năm trời.
Từ thuở bé, tôi đã nuôi dưỡng cái ý định, và nhiều người Mĩ cũng như tôi, nuôi dưỡng ý tưởng là có cơ hội phục vụ tổng thống (Chúng ta hay nói tới giấc mơ lớn lên làm tổng thống, Clinton là một ví dụ khá hiếm, nhưng mấy ai như Clinton, từ nhỏ đã thực sự nuôi dưỡng ý tưởng trở thành tổng thống). Tôi thì khi tôi là trung uý thuỷ quân lục chiến, tôi đã nghĩ tới làm việc dưới quyền tổng thống. Theo tôi nghĩ, thuỷ quân lục chiến, hơn các binh chủng khác, tự coi mình là lực lượng phản ứng nhanh mà tổng thống có trong tay, họ tự coi là một thứ quân cận vệ tổng thống, họ có tâm lý tự đề cao mình, xuất phát từ chỗ họ tự đồng nhất với tổng thống. Trong ngành hành pháp, mọi người đều quen miệng nói “Chúng tôi làm thế này, chúng tôi làm thế kia”, điều này cũng biểu lộ sự đồng nhất hoá cao độ của những người, nam cũng như nữ, làm việc dưới trướng tổng thống.
Như thế là năm 1969, tôi là nghiên cứu viên duy nhất của RAND mà lại làm việc trực tiếp cho trợ lí an ninh quốc gia của tổng thống. Tôi làm công tác tham mưu về Việt Nam cho Kissinger ngày từ buổi đầu của chính quyền mới. Đó là một công việc hết sức danh giá và hứng khởi. Bên trong cũng như bên ngoài ngành hành pháp, rất nhiều người cho rằng được làm việc cho cơ quan hành pháp là vinh hạnh lớn nhất mà một người Mĩ có thể kì vọng. Các thứ công việc khác, viết báo, viết sách, cộng tác với một nghị sĩ, trở thành đại biểu quốc hội, chẳng có việc nào sánh bằng công việc cung cấp thông tin cho tổng thống và có ảnh hưởng với tổng thống. Điều này đúng với mọi người làm việc cho Nhà trắng, bất luận đã bỏ phiếu hay không bỏ phiếu ủng hộ tổng thống, đã làm việc nay không làm việc cho đảng của tổng thống. Mỗi thời chỉ có một tổng thống, bất luận ông ấy thuộc đảng nào, có cơ hội tác động tới tổng thống bằng cách báo cáo tin tức hay tham gia hoạch định chính sách là điều quan trọng nhất mà anh có khả năng thực hiện.
Đọc Hồ sơ Lầu năm góc và suy ngẫm về vấn đề Việt Nam làm cho tôi đốn ngộ là dù có được tham vấn đúng đắn tới đâu chăng nữa, các tổng thống đều có thể mắc sai lầm nghiêm trọng. Cho nên, cách tốt nhất để phục vụ đất nước không nhất thiết là giúp tổng thống làm những điều ông ta muốn làm, bởi vì cách tốt nhất có khi lại là ngăn cản không để cho ông ta làm điều ông ta muốn. Muốn làm như vậy thì phải đứng ở bên ngoài giới hành pháp, phải thông qua Quốc hội, qua toà án, qua cử tri, qua công chúng. Đúng thế, ở ngoài ngành hành pháp, anh có thể làm tốt hơn nhiều để giúp nước.
Thứ nữa, cái hào quang bao quanh tổng thống, cái ý tưởng tự đồng nhất với tổng thống, phục vụ tổng thống, trở thành người của tổng thống, một kiểu quan hệ phong kiến, hiệp sĩ, bỗng nhiên mất hết hào quang lấp lánh. Tôi hết muốn là “người của tổng thống”. Sống ở ngoài vòng hành pháp, cái ý này, đối với tôi, trở thành tốt như, tốt hơn là làm việc cho tổng thống. Theo tôi, chưa có đồng nghiệp nào đã đạt tới điểm đó trong đời họ. Họ không thể nào tưởng tượng ra một cuộc sống tốt đẹp hơn ở ngoài vòng hành pháp. Khi đảng của họ rời chính quyền, hay là họ bị sa thải, hoặc là họ từ chức để kiếm được nhiều tiền hơn hoặc vì lí do nào khác, họ vẫn sống trong tâm trạng chờ đợi một cú điện thoại, gọi họ trở lại hoặc hỏi ý kiến họ. Dù cho sự đoạn tuyệt với tổng thống tiền nhiệm còn để lại nỗi đau, họ vẫn sẵn sàng trở lại. Đối với họ, đó là sự nghiệp cao quý nhất. Tự hào, danh giá, hưng phấn, trọng vọng, lại thêm cảm thấy mình đang phục vụ đất nước. Tất cả những thứ đó đã cháy rụi trong tôi sau khi đọc xong bảy nghìn trang tài liệu. Nhờ đó mà tôi có thể hình dung ra một hành động khả dĩ chặn đường tôi từ nay về sau có thể quay lại phục vụ cho bất cứ tổng thống nào. Làm được việc đó rồi, không một quan chức hành pháp nào còn có thể thuê tôi làm việc trở lại nữa. Phần lớn các đồng nghiệp của tôi không thể nào quan niệm một hành động nào khiến cho các tổng thống sau này không còn tin cậy họ, gọi họ ra làm việc trở lại. Mấu chốt vấn đề là ở đó.
Cuối cùng dẫn tới kết cục là tôi làm được một việc mà tôi tin chắc sẽ đưa tôi vào tù. Làm sao được như vậy?
Tôi đã ở trong thuỷ quân lục chiến, đã sang Việt Nam, đã tham gia chiến trận. Ba triệu binh sĩ sang Việt Nam là dấn thân vào tình thế có thể cụt hai chân, mất xác, mất mạng vì mìn nổ, bị bắn tỉa, hay ăn đạn moọc-chê. Họ không được coi là anh hùng hay bị coi là điên rồ chỉ vì họ chấp nhận vai trò ấy. Chẳng ai chẩn đoán bệnh lí tâm thần cho họ, như người ta đã làm cho tôi. Chẳng ai tra hỏi họ xem tại sao họ làm như thế. Họ làm thế vì tổng thống, vì đất nước. Song, tổng thống lại lầm to khi ông quyết định điều gì là ích lợi cho đất nước. Nhưng anh vẫn làm theo lời tổng thống, anh vẫn làm những gì tổng thống muốn anh làm. Làm những chuyện nhạy cảm dù anh có thể chết, dù anh có phải giết người, rốt cuộc là làm những việc phi nghĩa. Phi nghĩa nếu xét theo mọi tiêu chuẩn nào khác hơn là nó do tổng thống chủ trương. Sự thật đó là điều phi nghĩa.
Thành ra rốt cuộc mất mạng và giết người trong một công cuộc phi nghĩa lại được coi là hết sức bình thường. Và tôi cứ thế mà làm. Tôi đã sang bên ấy. Mặc dù tôi tôi không còn tin vào công cuộc mà tôi phục vụ vì tổng thống nữa. Cho đến lúc hành động của Randy Keeler làm cho tôi giác ngộ ra rằng muốn làm theo lương tâm, có những phương cách khác hơn là phục vụ tổng thống. Có những cách dũng cảm khác. Rồi tôi tự hỏi, mình đã như bạn bè, sẵn sàng bỏ mình hay bị bắt làm tù binh ở Việt Nam vì mình ủng hộ hay cam chịu công cuộc chiến tranh, thì nay tại sao không sẵn sàng vào tù, không sẵn sàng hy sinh tự do của mình? Một khi phải đối diện với câu hỏi ấy, thì câu trả lời đến cũng nhanh.
Anh hỏi tôi làm sao tôi có thể đảm đương được cái đó, (xin trả lời) tôi thuộc lớp người đã tự nguyện sang Việt Nam. Tôi không phải là người duy nhất đã làm như vậy. Không phải bất cứ ai, nhưng nhiều người cũng đã làm như vậy. Chỉ có điều là không mấy ai có cơ hội, sau khi tích cực phục vụ tổng thống, lại tích cực dấn thân chống lại ý chí, chống lại đường lối của tổng thống, chống lại việc ông ta muốn làm, chống lại cuộc chiến tranh mà ông ta ra lệnh tiến hành. Lại đặt mình vào vị trí một người phản kháng, hay là vị trí một đại biểu Quốc hội chống lại cuộc chiến tranh.
Có thể nói, từ ngành hành pháp mà chuyển sang giúp việc cho Quốc hội và lộ diện trước công chúng, là cả một cuộc thay đổi. Một sự thay đổi lớn về “căn cước” rất khó làm, cực kỳ khó đối với một viên chức hành pháp. Một thay đổi nữa, tất nhiên, là dọn mình để sẵn sàng vào tù vì những việc mình làm. Mà đó là vì tôi liên hệ với việc bản thân tôi đã làm ở Việt Nam hay trong hàng ngũ thuỷ quân lục chiến. Nhưng sở dĩ tôi làm được cũng là nhờ tấm gương của hàng nghìn người Mĩ. Tháng trước, tạp chí Esquire có gọi tôi. Họ chuẩn bị một số đặc biệt về anh hùng và hỏi tôi có người anh hùng nào mà tôi muốn nêu tên. Tôi đã nêu tên Randy Keeler là người đã làm gương cho tôi, đã thay đổi đời tôi.
Harry Kreisler: Nói vắn tắt, thì trong một chế độ dân chủ, trách nhiệm của một cá nhân trong những vấn đề chiến tranh và hòa bình mà ta đã bàn là như thế nào?
Daniel Ellsberg: Tôi có thể vắn tắt vài câu về quyết định của riêng tôi như tôi vừa kể. Tôi cho rằng bài học mà tôi rút ra về việc phải làm gì có thể áp dụng không những cho thời trước mà cho người ta trong tương lai. Trước hết, chúng ta có cái may là trong Hiến pháp, chịu trách nhiệm về chuyện chiến tranh và hòa bình không chỉ có hành pháp (như hành pháp vẫn tưởng), mà còn có cả Quốc hội: Hiến pháp nước ta quy định rằng Quốc hội có trách nhiệm tuyên chiến, tài trợ, kiểm soát ngân sách, và có rất nhiều phương cách để thực sự kháng cự lại đường lối của hành pháp trong lãnh vực chiến tranh và hòa bình. Và trong nội bộ ngành hành pháp, lại có những quan chức có thể nghĩ tới việc thông báo cho Quốc hội, với sự đồng ý hay không đồng ý của tổng thống. Có nhiều cách làm tránh được trách nhiệm pháp lý. Ngược lại, thường ra họ chỉ cần nói thật chứ không phạm pháp vì khai man như họ thường làm. Nói khác đi, họ chỉ cần tuân thủ pháp luật thay vì vi phạm pháp luật, họ chỉ cần làm theo Hiến pháp. Tóm lại, hợp tác với Quốc hội để thay đổi tình hình. Nhưng điều đó, ít khi nào họ dám nghĩ tới bởi như thế là chéo cẳng ngỗng đối với người đã bổ nhiệm họ. Song, như tôi vẫn thường nói, ra khỏi hàng rào hành pháp, người ta vẫn có thể sống như thường.
Thứ hai, những thanh niên đi quân dịch hay những người tự nguyện nhập ngũ mà họ đưa ra trận mạc, phải chịu những rủi ro như thế nào, thì họ cũng phải hiểu rằng chính họ cũng có bị rủi ro như thế ấy trên con đường hoạn lộ của họ. Nói cách khác, họ có thể suy nghĩ, chấp nhận phải trả giá trong cuộc đời của mình bằng việc nói thực, bằng việc cung cấp thông tin cho công chúng, bằng hành động theo lương tâm, một cách trung thực, ra ngoài ngành hành pháp để nói sự thật, để thông tin cho công chúng. Nghĩa là phải trả một cái giá đắt về sự nghiệp tương lai, nhưng là cái giá mà họ phải sẵn sàng trả. Tóm lại, họ phải thấy rằng nếu họ chịu trả cái giá trong cuộc đời, thì có được một thứ quyền lực lớn hơn mà họ tưởng nhiều lắm.
Bản dịch của Nguyễn Ngọc Giao
© Thời Đại Mới
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)