10/3/13

Nguyễn Trung - Đừng bỏ lỡ cơ hội xây dựng Hiến pháp mới



Nguyễn Trung 


          Hiến pháp 1992 được sửa đổi năm 2001 (xin gọi tắt là HP cũ) có 147 điều.  Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 (xin gọi tắt là Dự thảo) do Quốc hội đưa ra cho cả nước thảo luận đã sửa đổi và bổ sung, viết lại thành 124 điều. Có tới khoảng 140/147 điều của HP cũ đã được Dự thảo sửa đổi. Tổng cộng Dự thảo đã đưa ra khoảng 150 chỗ sửa đổi, bổ sung hay viết lại. Riêng việc phân loại để đếm cho thật chính xác số lượng các chỗ sửa đổi, bổ sung hay viết lại này đã rất khó khăn. Bởi vì có những điều của HP được sửa lại 2 hay 3 chỗ ngay trong một điều; mặt khác có một số điều của HP được gộp lại làm một thì không biết nên tính là một hay nhiều chỗ được sửa đổi? Vân vân…


          Tuy nhiên, Dự thảo vẫn là HP gần như cũ cả về tinh thần và nội dung. Bởi vì những sửa đổi, bổ sung hay viết lại của Dự thảo về cơ bản vẫn giữ nguyên hệ thống chính trị nói chung và hệ thống nhà nước nói riêng như hiện nay, với đặc điểm nổi bật là được “đảng hóa” toàn diện. Từ nội dung đến cấu trúc các điều của Dự thảo đều toát lên tinh thần này, rõ nhất là:

-         trên thực tế vai trò Đảng vẫn được xác lập là đứng trên Hiến pháp;

-         nhân danh quyền lực là thống nhất bác bỏ việc phân quyền và kiểm soát lẫn nhau giữa các quyền; đặc biệt là phân quyền giữa lập pháp và hành pháp còn nhiều chỗ không rõ – trong đó có vấn đề coi Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội (điều 99) là không hợp lý – , quyền tư pháp hoàn toàn mờ nhạt và hầu như không có khả năng bảo vệ và kiểm soát việc thực thi Hiến pháp;

-         tiếp tục thâu tóm mọi quyền của dân và mọi hoạt động của đời sống đất nước vào hệ thống chính trị và hệ thống nhà nước được “đảng hóa” trong một khụng khổ chung “đảng + chính quyền + mặt trận”, do Đảng chi phối toàn bộ về nhân sự và các quyết định quan trọng ở mọi cấp;

-         chủ quyền tối cao đối với toàn bộ đời sống đất nước thuộc về nhân dân chỉ được xác nhận một cách hình thức ở câu văn, nhưng trên thực tế là vẫn tiếp tục bị giới hạn hoặc loại bỏ do duy trì 3 đặc điểm nêu bên trên;

-         có một số bổ sung mới có ý nghĩa tích cực về quyền công dân và quyền con người, nhưng lại được khóa bằng “nghĩa vụ” và bằng mệnh đề các quyền này phải “thực hiện theo quy định của pháp luật”, thậm chí tính pháp quyền bị xóa bỏ bằng việc đưa vào Dự thảo “nguyên tắc tập trung dân chủ” của riêng ĐCSVN;

-         điểm sửa đổi quan trọng nhất là điều 4 (về ĐCSVN) được viết lại và bổ sung thêm khoản “2.” và “khoản 3”; nhưng cả 2 khoản này hoặc là không khả thi, hoặc là không có nội dung nếu như giữ nguyên hệ thống chính trị (bao gồm cả hệ thống nhà nước, mặt trận) được “đảng hóa” như đã phân tích trên;

-         Dự thảo vẫn giữ nguyên “đất đai thuộc sử hữu toàn dân”;

-         Lời nói đầu và nội dung một số điều trong Dự thảo – nhất là điểu 4 được viết lại – trên thực tế vẫn là áp đặt ý thức hệ, quan điểm và sự lãnh đạo của Đảng lên trên chủ quyền của nhân dân, không thích hợp với tinh thần nhà nước của dân, do dân, vì dân; 

-         vân vân…

Riêng về mặt kỹ thuật, HP cũ được sửa đổi, bổ sung hay viết lại khoảng 150 chỗ, dấn đến hệ quả:

-         Dự thảo là một văn kiện hiến pháp chắp vá, nhiều chỗ quá chi tiết, nhưng lại sót nhiều vấn đề quan trọng (vì không xuất phát từ quan điểm chủ quyền của nhân dân là tối thượng, vì nhân danh quyền lực nhà nước là thống nhất nên không chấp nhận phân quyền và kiểm soát quyền, quyền tư pháp rất mơ hồ, vân vân…)

-         có nhiều chỗ là văn nghị quyết – ngay từ lời nói đầu; có nhiều điều mang cách hành văn không thống nhất là dạng văn kiện hiến pháp;

-         có nhiều chỗ quá chi tiết nên không còn mang tính chất hiến pháp với tính cách là đạo luật gốc – mà lấn sang lĩnh vực của các luật cụ thể dưới hiến pháp, hoặc thuộc lĩnh vực các chủ trương chính sách;

-         ngay cả quy định chỉ được góp ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được Quốc hội khóa 13 thông qua và do Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 công bố rõ ràng là đã giới hạn phạm vi góp ý kiến của nhân dân; cách làm như vậy trực tiếp vi phạm nguyên tắc chủ quyền của nhân dân là tối thượng đối với mọi vấn đề của đất nước.

-         vân vân…

Thiết nghĩ, với tính cách là đạo luật gốc, Hiến pháp cần thể hiện được: (a)ý chí của nhân dân, của quốc gia (lời nói đầu); (b)hình thành một thể chế cho sự vận hành đất nước;  (c)dễ thực thi cho người dân với nghĩa là rõ ràng và dễ hiểu trong thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình; dễ thực thi đối với hệ thống nhà nước với nghĩa là có sự ràng buộc trách nhiệm rành mạch và tạo được nền tảng cho việc điều hành đất nước cũng như việc ban bố các luật và chính sách… Vì thế Hiến pháp mới nên viết gọn lại và giảm bớt những điều thuộc phạm vi luật hay chính sách.

II

          Có những vấn đề hệ trọng sẽ phải đưa vào Hiến pháp, lãnh đạo Đảng và Nhà nước nên trực tiếp tổ chức các diễn đàn thảo luận khoa học và công khai trên mọi phương tiện thông tin đại chúng, để nâng cao hiểu biết và tạo được đồng thuận lớn nhất trong nhân dân. Mặt khác, nên lấy danh nghĩa Quốc hội giao cho một nhóm trí thức có uy tín và được chọn lọc xây dựng một dự thảo Hiến pháp tối ưu cho đất nước để trình nhân dân phúc quyết. Việc làm này là cần thiết ngay cả đối với những người giữ trọng trách trong toàn bộ hệ thống chính trị của đất nước từ cấp cao nhất trở xuống. Hoạt động của những diễn đàn này cũng là cách để nâng cao hiểu biết của toàn thể nhân dân, nhất là ngay trong hàng ngũ gần 4 triệu đảng viên. 

Đừng xây dựng hiến pháp theo kiểu lấy ý kiến đại trà như một phong trào. Lừa mỵ, áp đặt hay trấn áp… không phải là các biện pháp thích hợp. Lấy ý kiến xây dựng góp vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp như đang làm là khoét sâu thêm chia rẽ dân tộc, phơi bẩy rõ hơn nữa bản chất của bộ máy chính trị, và hệ quả là đẩy nhân dân ra xa nữa về phía đối nghịch đối với ĐCSVN.

Quyền phúc quyết của nhân dân cần được thực hiện nghiêm túc trên cơ sở học hỏi, trao đổi, thuyết phục, đồng thuận nhờ vào kết quả nâng cao dân trí của những diễn đàn khoa học và công khai trong cả nước như kiến nghị bên trên. Xây dựng Hiến pháp cần phải là một quá trình tăng cường đoàn kết dân tộc trên cơ sở mở rộng dân chủ và nâng cao dân trí. Sau này bản thân Hiến pháp phải trở thành nền tảng vững chắc cho đoàn kết dân tộc.

Trong tình hình hiện tại của hệ thống chính trị nước ta, tối ưu nhất là nên lựa chọn phương châm đầu xuôi đuôi lọt để tìm đường xây dựng Hiến pháp mới và thay đổi đất nước. Cách tốt nhất là nhân dịp sửa đổi Hiến pháp lần này, Bộ Chính trị chủ xướng và phát động tinh thần Diên Hồng. Bộ Chính trị nên mời các trí thức có uy tín hình thành một số diễn đàn khoa học và công khai nêu trên cho những vấn đề hệ trọng của đất nước để tạo sự đồng thuận tốt nhất có thể trong Hiến pháp mới. Đồng thời phát huy dân chủ để nhân dân tự triển khai những diễn đàn như thế ở mọi nơi. Tất cả những diễn đàn này hoạt động với với tinh thần xây dựng và hiến kế: Chắt lọc mọi điều tốt nhất cho sự lựa chọn tối ưu của nhân dân đối với những vấn đề sinh tử của quốc gia và việc xây dựng Hiến pháp.

Những diễn đàn này cần nhìn thẳng vào sự thật, dựa trên sự thật và những quan điểm khoa học tiên tiến nhất, nhưng tuyệt đối không được phép là chỗ chỉ trích, bới móc hay đả kích lẫn nhau. 

Nếu Bộ Chính trị vì nước và vì Đảng thì nhất thiết cần làm như vậy. Không làm như vậy, đồng nghĩa là không vì nước và cũng không vì Đảng!

Về vấn đề bô-xít Tây Nguyên, Bộ Chính trị đã phải có một quyết định riêng trong cuộc họp ngày 16-04-2009 và cuối cùng đã ra một thông báo công khai cho cả nước mang số 245 – TB/TƯ ngày 24-04-2009 về chủ trương khai thác thí điểm bô-xít Tây Nguyên. (Tiếc rằng quyết định này của Bộ Chính trị vẫn là cho khai thác thí điểm, chứ không phải là đình chỉ hẳn để xem xét tiếp). Vấn đề khai thác bô-xít Tây Nguyên dù hệ trọng đến sinh tồn của quốc gia như thế nào đi nữa, cũng không thể so sánh với việc sửa đổi/xây dựng Hiến pháp mới. Chẳng lẽ không đáng để Bộ Chính trị có một quyết định chính thức và công khai như thế cho toàn Đảng và cả nước về việc hình thành cuộc thảo luận xây dựng và hiến kế cho đất nước trong việc sửa đổi/xây dựng hiến pháp mới?

Mọi cách làm trong việc sửa đổi Hiến pháp lần này nếu chỉ nhằm quy kết hoặc khép tội những “ý kiến khác” như đang diễn ra trên mọi phương tiện thông tin đại chúng và qua mọi hoạt động trong xã hội do bộ máy chính trị của đất nước đang tiến hành, cho thấy: Bộ Chính trị trong thâm tâm vẫn kiên quyết giữ nguyên hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước như hiện tại. Làm như thế, hiển nhiên sẽ chỉ tiếp tục xô đẩy đất nước đi sâu thêm vào con đường của thảm họa.

Nhưng nếu Bộ Chính trị quyết tâm thay đổi đất nước, thì cơ hội và mọi điều kiện cho mục đích thay đổi này đều trong tầm tay, bắt đầu từ xây dựng Hiến pháp mới. Tình hình hoàn toàn cho phép Bộ Chính trị chủ động tiến hành cải cách chính trị thành công, với sự hậu thuẫn không gì lay chuyển nổi của toàn dân tộc.

Thực tế vừa trình bầy trên cho thấy: Hệ lụy hay kết quả đối với đất nước của việc sửa đổi/xây dựng Hiến pháp mới lần này hoàn toàn chỉ phụ thuộc vào cái tâm của Bộ Chính trị. Vì vậy, Bộ Chính trị sẽ là người chịu trách nhiệm đầu tiên và duy nhất trước nhân dân và trước Đảng về những gì sẽ đến.

          Những thông tin được loan tải trên phương tiện thông tin đại chúng “lề phải” cho thấy những vấn đề đang bị trấn áp bằng những lý lẽ đao to búa lớn[1] đúng là những vấn đề hệ trọng bậc nhất phải tìm ra sự lựa chọn tối ưu cho đất nước. Thảo luận một cách chụp mũ trên những diễn đàn “đơn phương” như đang diễn ra – nghĩa là không có người đối thoại với đúng nghĩa – rõ ràng chỉ là sự đả kích theo kiểu cả vú lấp miệng em.  

Đối thoại theo kiều đơn phương và quy chụp như thế làm sao có thể phát huy trí tuệ và tâm huyết cả nước cho việc tạo ra đồng thuận lớn nhất của nhân dân về những vấn đề trọng đại của đất nước cũng như về Hiến pháp?

          Những vấn đề về “điều 4”, về chế độ chính trị và về phân quyền trong hệ thống nhà nước, về quân đội trung thành với ai, về các quyền tự do dân chủ của nhân dân, về quyền con người, vấn đề đất đai… là những vấn đề nổi bật nhất trên các diễn đàn đơn phương này. Xin dành việc thảo luận những vấn đề trọng đại này cho các diễn đàn thảo luận khoa học và công khai, với tinh thần xây dựng và hiến kế, mà tôi rất thiết tha mong Bộ Chính trị chủ xướng. Trong phạm vi bài viết này chỉ xin nêu lên một nhận xét chung là: Các lập luận của “lề phải” trên các diễn đàn đơn phương về những vấn đề trọng đại này ngoài sự bám víu vào quá khứ lịch sử để biện hộ, có quá nhiều chỗ ngụy biện, không có lý lẽ thuyết phục, lạc lõng với cuộc sống hiện tại, làm ngơ trước tình trạng tha hóa trầm trọng hiện nay của Đảng và của toàn bộ hệ thống chính trị, không thấy những thách thức mới nguy hiểm của đất nước, thiếu trí tuệ và kiến thức mới.

          Hệ thống chính trị đa đảng là một tất yếu trong hệ thống nhà nước pháp quyền dân chủ. Dự thảo đã dứt khoát phủ nhận. Nhưng Kiến nghị 72 đã thẳng thắn đối mặt với đòi hỏi khách quan này bằng đề nghị cụ thể. Thiết nghĩ, Việt Nam là nước đi sau, có thể và cần vận dụng những kinh nghiệm của các nước đi trước. Cần đem hết trí tuệ ra cân nhắc nên tiếp thu những kiến thức gì của văn minh nhân loại để tránh được thứ hệ thống chính trị đa đảng theo kiểu “dân chủ bầy đàn” luôn luôn chứa đựng những nguy cơ hỗn loạn. Cần xắp xếp tiến trình các bước đi chuyển sang thể chế pháp quyền dân chủ như thế nào để có được một nền dân chủ của học hỏi? Vân… vân… Những vấn đề này không dễ. Tìm ra những câu trả lời và quyết định thích hợp cho nước ta phải là sản phẩm của trí tuệ và là một trong những công  việc hệ trọng của các diễn đàn khoa học và xây dựng như đã kiến nghị bên trên.

III   

Trước sau tôi vẫn kiên định một suy nghĩ: Sửa đổi/xây dựng Hiến pháp mới lần này không gắn với cải cách thể chế chính trị sẽ là một việc làm chẳng những vô nghĩa mà còn nguy hại cho đất nước.

Về phần mình, làm nghĩa vụ công dân của mình, tôi vẫn xin nhắc lại quan điểm đã nêu trong thư ngỏ ngày 19-02-2013: Tối ưu đối với đất nước là nên coi việc sửa đổi/xây dựng Hiến pháp mới lần này là một cơ hội tự nhiên  để thay đổi hệ thống chính trị và thay đồi việc xây dựng Đảng cho phù hợp với giai đoạn phát triển mới của đất nước. Thật lòng tôi muốn nói tới mức đây là một cơ hội gần như là trời cho, vì thế trong thư này tôi đã mạnh dạn kiến nghị một số ý tưởng phác thảo như một kế sách nắm lấy cơ hội này.

Thực ra trong bức thư ngày 09-08-1995 của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt gởi Bộ Chính trị đã nêu ra đòi hỏi bức thiết phải có sự thay đổi này[2]. Nhiều ý kiến quan trọng rất xây dựng của “lề trái” (tôi xin lỗi sử dụng khái niệm này chỉ vì sự thuận tiện) đóng góp cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp hôm nay đồng nhất một cách kỳ lạ với những ý kiến của giáo sư Phan Đình Diệu trước đây đã nêu lên tại cuộc họp của UBTƯ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày 12-03-1992 bàn về xây dựng Hiến pháp năm 1992!..

Tôi cứ tự hỏi mình, nếu các ý kiến của giáo sư Phan Đình Diệu ngày 12-03-1992, và nếu bức thư ngày 09-08-1995 của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt được chấp nhận, hôm nay, đất nước ta chắc sẽ không như thế này? Tôi lại nhớ đến hàng nghìn ý kiến tâm huyết của nhân dân và đảng viên góp ý cho Đại hội X, Đại hội XI… Bây giờ trong tôi cũng đang nóng rát câu hỏi: Nếu các ý kiến phản biện về bô-xít Tây Nguyên được lắng nghe, kinh tế đất nước hôm nay sẽ bớt đi được gánh nặng gì?.. Tại sao lãnh đạo Đảng và Nhà nước để cho đất nước ta thập kỷ này qua thập kỷ khác phải gian truân sống với biết bao nhiêu chữ “nếu” như vậy?

Trong một cuộc hội thảo tuần trước của các tổ chức trong xã hội dân sự góp ý cho xây dựng Hiến pháp, tôi được nghe một thanh niên phát biểu: “…Tôi ước gì nước ta có một Hiến pháp đọc lên tôi thấy được chính mình! Đọc lên, tôi thấy được ước mơ của nước mình! Dự thảo Hiến pháp sửa đổi không đem lại cho tôi mong muốn này!...”

Ngồi nghe thanh niên này nói, trong tôi rộn lên ký ức những tiếng hô vang khi Cách mạng Tháng Tám: “Nước Việt Nam là của người Việt Nam!”, “Việt Nam muôn năm!”… Tôi lại nhớ đến Tuyên ngôn Độc lập. “…“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc…” Trong tôi khát khao xây dựng một nước Việt Nam độc lập, tự do, hạnh phúc…

Cải cách chính trị là trách nhiệm trực tiếp không thể thoái thác của Bộ Chính trị, người nắm mọi quyền lực đối với đất nước. Nhân dân không có trách nhiệm này, vì họ không có quyền lực trong tay; hơn nữa họ chỉ là nạn nhân của mọi lạm dụng quyền lực. Nhưng nhân dân có quyền đòi hỏi. Tránh né cải cách chính trị sẽ đẩy tiếp đất nước đến chỗ cùng cực, chắc chắn sẽ có ngày nhân dân đứng dậy lật thuyền. Không khó hình dung kịch bản quyết liệt này và cái giá đất nước sẽ phải trả. Chính vì thế, xin đừng bỏ lỡ cơ hội xây dựng Hiến pháp mới để cải cách chính trị thay đổi đất nước, thay đổi ĐCSVN thành đảng của dân tộc. Kiến nghị 72 thực sự là một kiến nghị khai phá lối ra./.

N.T.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Quy kết là: “âm mưu của đảo chính mềm”, “ý đồ lật đổ chế độ”, “dã tâm loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng”, “suy thoái đạo đức, chính trị, tư tưởng”, “lấy chữ ký cho kiến nghị  chỉ là những việc ngụy tạo”… v… v…

[2] Trong thư này cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đặt vấn đề (a)phải nhìn nhận lại thế giới, (b)phải thay đổi đường lối xây dựng và bảo vệ đất nước, (c)phải xây dựng nhà nước pháp quyền, (d)phải đôi mới xây dựng và tổ chức Đảng.

source : Anhbasam

Gửi người em gái

Gửi người em gái 
  ( khi nghe tin em bị bắt vì biểu tình chống TQ chiếm HS-TS )

Mặt trời hằng ngày vẫn mọc
Em tôi ơi cứ hy vọng từng  ngày
Đám mây  xám sẽ  không còn che được
Ánh dương hồng chiếu sáng khắp non sông
Giặc phương Bắc từ ngàn năm vẫn thế
Không thể nào cùng đội mái trời chung
Ngàn năm cũ dưới gọng kìm đô hộ
Có bao giờ đồng hóa nỗi dân Nam ?
Vận nước   dẫu  có lúc suy , lúc thịnh
Hồn địa linh nhân kiệt vẫn còn tràn    
Có những kẻ  bịt tai vì danh lợi
Còng lưng đành cam chịu kiếp tay sai
Nào ai có khen chi  phường " Ích Tắc"
Vì lợi riêng , bán đứng nước non nhà
Lũ  cõng rắn cắn gà nhà  "Chiêu Thống "
Biết bao giờ mới rửa được vết nhơ
Lẽ Trời -Đất  hễ cùng thì tắc biến

Em tôi ơi , cứ hy vọng từng ngày
Đất nước vẫn đợi  chờ ngày vận hội
Quét kẻ thù ra sạch khỏi biển Đông

Nếu em bị  những kẻ hèn hạ bắt
Thì em ơi , vẫn cứ ngẩng cao đầu
Mang  dòng máu của bà Trưng , bà Triệu   

Hãy hỏi rằng " Dám   bắt  hết dân Nam ? "  

Tranhodung. Washington . USA . 7/2012-2/2013

9/3/13

Nói Với Tuổi Hai Mươi (2) - CÔ ĐƠN

 

Nói Với Tuổi Hai Mươi 
Thiền sư Nhất Hạnh 
Sàigòn – Lá Bối – 1966 
--------------------------------------------------------------------------------



Cô đơn

Em muốn nói chuyện với tôi, bởi vì trong thâm tâm, em chưa mất hẳn niềm tin nơi tất cả chúng tôi. Và tôi muốn nói chuyện với em, bởi vì có lẽ tôi là một trong những người chưa chịu đầu hàng cuộc đời. Thực ra, những người đầu hàng cuộc đời không hẳn đã phải là những người lớn. Trong lứa tuổi các em, cũng đã có rất nhiều người đầu hàng cuộc đời rồi. Hãy để cho họ tạm yên, bởi vì họ đang cần được yên. Dù sao họ cũng đáng thương như chúng ta. Em có thể gọi họ là những người chết, nếu em muốn. Hoặc em có thể nói  như Albert Camus rằng họ sống như những người chết, điều đó cũng không sao. Cái gì đã khiến cho chúng ta ngồi lại bên nhau để nói chuyện cùng nhau, nếu không phải là ý thức về thực trạng của chúng ta ? Hãy tự hào là những người tỉnh táo. Hãy tự hào là những người không bị chìm đắm trong cảnh túy sinh mộng tử. Hãy có thái độ nổi loạn đối với guồng máy đang muốn lôi kéo tất cả chúng ta vào cảnh túy sinh mộng tử. Điều thiết yếu là ta phải biết nổi loạn bằng cách nào. Bởi vì có những cách nổi loạn chỉ gây thêm chìm đắm. Và có những cách nổi loạn khác có thể đưa tới sự giải phóng con người. Tôi muốn được đàm luận với em về những điều ấy. Và đàm luận một cách thẳng thắn, can đảm.

Có lẽ điều bi thảm nhất đối với những con người trẻ tuổi hôm nay là càng chống đối và ghét bỏ những hình thái sinh hoạt hiện tại bao nhiêu, con người lại càng bị mắc kẹt vào những hình thái ấy bấy nhiêu. Em thử nhìn lại xem. Em chán ghét trường học, nhưng em cũng cứ phải hàng ngày chui đầu vào lớp học để nghe giảng những môn học hình như không dính líu gì đến những băn khoăn thao thức lớn nhất trong tâm hồn em. Em chán ghét thi cử, khinh miệt bằng cấp, vậy mà em vẫn phải chui đầu vào phòng thi, cố cướp cho được một mảnh bằng như bất cứ ai khác. Em rất chán ghét đời sống cạo giấy an phận của công tư chức nhưng mà em vẫn phải lê mòn gót chân đi tìm công việc như bất cứ một người thất nghiệp nào. Em không yêu, không nghĩ đến đời sống lứa đôi nhưng em vẫn lao đầu vào những cuộc phiêu lưu cảm giác để gây thêm chán chường và bực tức cho em và cho kẻ khác. Em phải bắn vào đầu những kẻ em không thù hận. Em bị mắc kẹt vào những gì em khinh ghét và những gì em ghê sợ nhất. Nhận thức ấy làm cho em khinh ghét và ghê sợ chính em. Em thấy em bất lực trước một thực tại càng ngày càng trở nên khắc nghiệt, càng ngày càng thêm sức khống chế, và tiêu diệt em. Ý thức điều ấy em đã nổi loạn. Em đập phá lung tung. Và càng vùng vẫy, em lại càng mắc kẹt. Không những em đã làm như thế mà chúng tôi cũng đã làm như thế. Những người đi trước ta cũng đã làm như thế. Trong cơn hốt hoảng, bối rối, chúng ta có thể tạo nên nhiều lầm lỗi, chúng ta nổi loạn không đúng cách. Chúng ta đã không đập vỡ được mà chỉ mua thêm lấy những thất vọng, những chán chường, những mệt mỏi. Để rồi chúng ta tự làm cho tình trạng đã bi đát lại càng bi đát thêm ra đến cả trăm lần.

Tôi thấy nhất định là chúng ta phải nổi loạn rồi. Bởi vì nếu ngồi yên, thúc thủ, tiêu cực, chúng ta sẽ bị lôi tất cả vào guồng máy, và nhân loại sẽ đi đen chỗ tiêu diệt nhân tính. Con người vì tiện dụng đã đặt ra những khuôn khổ, và những khuôn khổ ấy cũng đã trở lại khống chế con người. Con người bị bắt buộc phải chui vào những khuôn khổ kia để rồi phải từ chối bản ngã chân thực của mình. Con người khoác lên một bộ mặt giả tạo để có thể mua được sự an thân tầm thường. Xã hội bắt em phải điêu đứng thảm hại nếu em không chấp nhận những khuôn khổ của nó. Em phải ăn theo những cách thức nào đó, nói theo những khuôn thước nào đó, cười theo những mẫu mực nào đó. Có những cái em không được ưa thích và có những cái khác em phải tập ưa thích cho bằng được. Có những cái xã hội không cho phép em có, và có những cái xã hội bắt em phải có. Nếu em không tuân theo những mệnh lệnh đó, nếu em không làm được những gì xã hội buộc em phải làm thì em sẽ bị xem như là một người bất thuờng, và tệ hơn nữa, một người bất lực. Vì vậy muốn được an thân, con người phải cúi đầu chịu khuất phục mệnh lệnh của số phận, con người phải chui đầu vào guồng máy. Bởi vì chúng ta không muốn tiêu diệt con người của chúng ta nên chúng ta nổi loạn. Thân phận của con người sở dĩ đã bi thảm lại càng bi thảm thêm là vì những cuộc nổi loạn của con người đã không đủ sức để phá vỡ được guồng máy mà thương thay chỉ gây thảm thương tích cho con người nổi loạn. Cuộc đời đã trả thù những kẻ nổi loạn chống lại nó và trả thù một cách đích đáng. Con người nổi loạn đã bị điêu đứng thảm hại. Con người nổi loạn đã bị lên án, đã bị gạt ra ngoài lề của xã hội, đã mang đầy thương tích, đã trở thành điên loạn. Đứng trước những đe dọa tiêu diệt nhân tính của guồng máy xã hội, đứng trước những đổ vỡ trong và ngoài, chứng kiến những thảm kịch của cuộc sống, người trẻ tuổi hôm nay vừa bàng hoàng vừa phẫn nộ, vừa khiếp sợ vừa xót xa. Câu hỏi về ý nghĩa của cuộc đời đã đến với các em rất sớm. Tuổi các em đáng lẽ phải còn là tuổi hát ca, nay đã bắt đầu là tuổi của những băn khoăn thắc mắc siêu hình. Có phải cuộc sống kinh nghiệm an phận đã đánh mất hồn nhiên của em đâu. Có phải người lớn đã cướp giật hồn nhiên của em đâu. Chính là cuộc đời, chính là những khuôn khổ, chính là sự tàn phá khốc hại của guồng máy.

Những biến cố xảy ra cho đất nước trong mấy mươi năm vừa qua đã làm cho tình trạng trầm trọng hơn lên. Chiến tranh đã tàn phá. Máu chúng ta đã đổ. Vấn đề quốc gia trở thành một vấn đề quốc tế. Một số trong chúng ta mang nặng mặc cảm nhược tiểu bất lực.

Trong hoang mang khổ đau, chúng ta  nhận thấy gia sản tinh thần của cha ông chúng ta đã mất đi rất nhiều giá trị và hiệu lực trong cuộc sống mới. Những nguyên tắc của đạo làm người, xưa tưởng như là bất di bất dịch, nay đã tự chứng tỏ là những giáo điều không còn phù hợp với tâm trạng và hoàn cảnh của người thời đại. Nền tảng của sinh họat gia đình cũ và của lễ giáo cũ đã bị lung lay. Chúng ta chưa kịp rút được trong truyền thống tinh thần của dân tộc ra những chất liệu cần thiết để tạo dựng cho chúng ta một nhân sinh quan mới thích hợp với tâm trạng và hoàn cảnh mới, thì những khắc khoải những đổ vỡ của văn minh Tây phương đã lại tràn sang như những đợt sóng vỡ bờ tàn hại. Một số lớn các bậc phụ huynh, không hiểu được nguyên do căn bản của cuộc khủng hoảng, đã quy hết tội lỗi về cho thế hệ trẻ. Họ nói đến sự suy đồi của đạo lý. Họ nói đến tuổi trẻ như tuổi của ăn chơi, của tinh thần vô trách nhiệm. Họ chứng kiến sự suy sụp của nền tảng gia đình cũ và cứ cố níu lại một cách tuyệt vọng thứ uy quyền mà ngày xưa đã từng là một giá trị tuyệt đối trong gia đình - một giá trị được đạo lý và luật pháp bảo đảm. Thứ uy quyền đó đã mất rồi, không phải vì các bậc phụ huynh không biết sử dụng nó, cũng không phải vì các con em cố tình chống lại nó, mà tại vì nền tảng kinh tế của gia đình đã thay đổi một cách đáng kể. Cá nhân bây giờ không còn là cá nhân trong chế độ gia đình cũ. Phong tục, tập quán, luật pháp và kinh tế xưa không cho phép cá nhân tồn tại ngoài gia đình, hạnh phúc của cá nhân và của gia đình liên hệ với nhau một cách mật thiết, và cá nhân chỉ có thể có hạnh phúc trong phạm vi gia đình của mình. Thời đại của Tự Lực Văn Đoàn đã chứng kiến thảm kịch của sự vùng vẫy của cá nhân để thoát ra khỏi những kiềm tỏa của gia đình. Từ ngày kỹ nghệ và thương mại chiếm được địa vị trên trường kinh tế, nhu yếu giải phóng ấy càng ngày càng thêm rõ rệt, thêm cấp bách. Gia đình ngày nay, ai cũng biết, không còn giống như gia đình ngày xưa, vì vậy uy quyền và trách nhiệm phụ huynh phải được quan niệm lại để có thể trở nên phù hợp và hữu hiệu. Cố níu lấy thứ uy quyền cũ, cố sử dụng thứ uy quyền mà thực ra bây giờ mình không có, các bậc phụ huynh chỉ làm cho con em xa lánh mình và do đó cắt đứt những giây liên lạc cảm thông với chúng. Trong thời đại này của chúng ta, ai cũng có một tâm sự đa đoan, ai cũng là nạn nhân của những biến cố những tệ đoan xã hội. Sự giao tiếp với thế giới con người trở nên phức tạp; cùng đứng trong guồng máy tranh chấp con người dần dần trở nên nguồn khổ đau cho nhau. Con người không xướng họa hòa hợp với nhau nữa mà phải vùng dậy lấn áp nhau, đè bẹp nhau. Hoàn cảnh kinh tế chính trị văn hóa xô đẩy con người đi vào cái thế địa ngục của nhau. Những nét nhăn trên trán, những bực dọc thường nhật, những cau có gắt gỏng ấy, vô tình chúng ta đem về nhà để làm cho không khí của gia đình căng thẳng. Ai cũng có một thế giới lo âu riêng và không có đủ thì giờ lo nghĩ và săn sóc đến người khác, dù người khác ấy chỉ là người trong gia đình. Mỗi người là một thế giới, một vũ trụ, một hoang đảo. Mỗi người có một vỏ cứng bao bọc chung quanh. Những bực dọc những cau có kia lách vào giữa mọi người và càng lúc càng tách xa người này với người khác. Chúng ta có cảm giác cô đơn thực sự, và tệ hại hơn nữa là cảm giác ấy, trong khi chung đụng với những người thận yêu trong gia đình, lại càng rõ rệt hơn bao giờ hết.

Chúng ta rút vào trong cái vỏ của chúng ta với ước mong được yên thân. Nhưng chúng ta không được yên thân hơn chút nào. Đối diện với niềm cô đơn của chúng ta, đối diện với chính chúng ta, chúng ta không đủ sức để chịu đựng. Con trai thì leo lên xe gắn máy đi tìm một thằng bạn, bất cứ thằng bạn nào, để rồi cùng vào ngồi nơi một quán nước, trao đổi vài câu chuyện, nhìn người đi kẻ lại qua khói thuốc của mình Con gái thì khoác vào một chiếc áo dài, xuống phố theo đám đông, trôi xuôi hai bên bờ đại lộ. Các em trốn không khí gia đình tìm đến nơi đám đông để rồi lại từ đám đông trở về với cái cô đơn của mình. Các em không có bản lĩnh thực sự cho nên các em không dám đối diện với cái cô đơn ấy. Và các em phải thường trực trốn chạy, trốn chạy sự cô đơn, trốn chạy chính bản ngã của các em.

Trong khi đó, oán ghét gia đình, em phải bám lấy gia đình; oán ghét học đường em vẫn phải chui đầu vào lớp học. Em vẫn phải học, phải thi, phải đỗ, phải kiếm việc làm. Không tin ở giá trị những việc em làm, em có mặc cảm rằng em giả dối. Em không thừa nhận những bảng giá trị hiện tại nhưng em vẫn phải phục tùng. Em vẫn phải phục tùng, vì những lý do do thật giản dị: em phải ăn, em phải mặc, em phải ngủ, nói tóm lại em có những nhu cầu ngũ uẩn phải được thỏa mãn. Có phải chính bi kịch của con người là ở chỗ vừa phủ nhận vừa phải phục tùng những ước muốn ác liệt của số phận không ? Mà số phận là gì nếu không phải là những gì do con người tạo ra bây giờ đã trở lại không chế con người?

Tôi cũng như em , tất cả chúng ta đều có một hệ thống thần kinh cần được giữ cho tương đối thăng bằng, tất cả chúng ta đều có những nhu cầu trí tuệ tình cảm sinh lý thông thường, tất cả chúng ta cần phải được nuôi dưỡng trong những môi trường thuận tiện (chứ không phải dễ dãi) để có thể bảo vệ và phát triển những khả năng đặc biệt của chúng ta. Và bởi vì hoàn cảnh bao giờ cũng mang tính cách cộng đồng, chúng ta biết rằng chính con người đã tạo nên hoàn cảnh của mình và chỉ có con người mới đủ sức chuyển tạo được hoàn cảnh. Là nạn nhân trực tiếp của những hoàn cảnh xã hội hiện tại khống chế bởi guồng máy hiện tại, chúng ta mất đi rất nhiều tự do sáng tạo. Tuy vậy chỉ có chúng ta mới chuyển đổi được hoàn cảnh, mới đập vỡ được guồng máy. Ta không còn có thể hy vọng ở một thế lực nào khác ngoài thế lực của chúng ta. Nhưng trong tình trạng cô đơn, nghi ngờ và thác loạn, ta không thể nào thực sự tạo nên một sự thay đổi. Chúng ta đã nổi loạn, nhưng những cuộc nổi loạn đó vẫn chỉ là những cuộc nổi loạn rất cô đơn. Chúng đưa tới sự trả thù của guồng máy. Chúng ta bị điêu đứng tàn hại vì đã dám chống lại nó. Bị gạt ra khỏi cuộc sống ước lệ, bị khinh bỏ, đè nén, la mắng, tủi nhục, chúng ta càng cảm thấy xa lìa mọi người, càng trở nên cô đơn, càng thêm thù ghét con người. Càng mất bình tĩnh, chúng ta càng đập phá lung tung, và sự mệt mỏi rã rời của thần kinh của thể xác và tâm hồn kêu gọi một sự trốn chạy cuối cùng: tự tử. Khi một người nhận thấy rằng cuộc đời vô lý không đáng sống, thì hắn cũng nhận thấy luôn rằng tự tử không phải là một cái gì đen tối mà có thể là một nẻo thoát quang đãng cũng chưa biết chừng.

Em hãy cho tôi trở lại với hệ thống thần kinh của chúng ta. Thực ra vì cái hệ thống thần kinh bị giao động mãnh liệt đó mà chúng ta đã thấy cuộc đời quá bi thảm. Sự thực, thiếu bình tĩnh, chúng ta đã tạo thêm quá nhiều đen tối cho cuộc đời, nhất là cho cuộc đời của chính chúng ta. Cảm giác cô đơn là do những vụng dại, ngu dốt và kém cỏi của chúng ta tạo ra: đó là một chứng bệnh của con người, hơn là một cái gì nằm trong bản chất của con người. Vì thiếu bản lĩnh, thiếu khôn ngoan, ta đã tạo ra những đường nứt, những chiếc vỏ cứng, những bức tường chia cách cao vút, ngay giữa những người thân yêu và có cảm tưởng rằng ta với những người khác không được cùng làm bằng một chất, do đó, không thể nào có sự cảm thông. Nếu gia đình là một tổ chức giả hiệu, thiếu tình thương, thiếu cảm thông. Nếu gia đình chỉ là một quán trọ, thì đó chính là vì sự hèn kém của chúng ta, vì sự ích kỷ của chúng ta, vì những vô minh của chúng ta. Chính chúng ta gieo mầm tách biệt thì chúng ta không nên phàn nàn về sự cô đơn. Ta phàn nàn rằng không ai hiểu ta thì chính lúc đó, ta không hiểu được ai. Chính những phàn nàn đó biểu lộ rõ rệt sự ích kỷ của chúng ta và cả sự độc tài của chúng ta nữa.

Có những trang thanh niên, chỉ vì một vài thất bại nhỏ khi mới bước chân vào đời, một vài lần thi hỏng, một vài sự phản bội chẳng hạn, cũng đã tự cho rằng mình cô độc nhất đời. Những người trẻ tuổi này bắt đầu nói chuyện chán nản, nói chuyện cô độc, nói chuyện nôn mửa. Một số khác, sẵn có chút ít kiêu ngạo và ngông nghênh của tuổi trẻ, cũng nói chuyện chán nản, cô độc và nôn mửa. Rốt cuộc thái độ tỏ ra bất cần đời đó trở nên một cái mốt mới.

Ai mà không “nổi loạn” thì kẻ đó là người tầm thường, kẻ an phận. Những cuốn tiểu thuyết hiện sinh ngoại quốc bắt đầu bán chạy ở xứ ta không phải vì giá trị của chúng mà vì cái mốt hiện sinh đã được đề cao. Cả những kẻ không đọc trôi được những cuốn tiểu thuyết ấy cũng có chúng trong tủ sách mình, trong tay mình, trên xe buýt cũng như trong lớp học. Rồi truyện ngắn truyện dài nói chuyện chán chường khinh bạc cũng xuất hiện trên thị trường văn chương Việt Nam và kéo vào vũng lầy của sự tự kỷ ám thị một số không ít những con cừu của Panurge. Chúng ta ai cũng biết rằng bắt đầu bằng những câu chuyện chán chường, và một vài cử chỉ tỏ vẽ chán chường, dần dần nếp sống của ta sẽ trở nên chán chường thật sự. Con người yếu đuối và dễ bị nhiễm độc, dễ bị ảnh hưởng: chúng ta cần nhìn nhận sự thực đó.

Cho nên ta hãy van xin các nhà văn nghệ đừng đào sâu thêm, đừng trình bày thêm khía cạnh chán chường cô độc của con người, đừng bi kịch hóa thêm những gì đã vì vụng dại của chúng ta mà trở nên bi kịch. Vết thương rướm máu, xin đừng cào quấu thêm ra. Đừng tự ám thị và đừng ám thị kẻ khác nữa. Vạn sự là do tâm chúng ta. Đừng chết đuối trong biển chán chường cô độc do chúng ta tự tạo. Văn nghệ nên đảm nhận sứ mệnh tri liệu bởi vì ở giữa đời này không có ai lại là người có thể sống một cách vô trách nhiệm, dù là nhân danh tự do. Chúng ta hãy lắng lòng cho phong ba bão táp dịu xuống, cho mây mù tan đi. Chúng ta không thực sự cô đơn. Cuộc đời không thực sự đáng ghê tởm. Cuộc đời cũng như sự sống là một cái gì mầu nhiệm. Mẫu trời xanh trong mắt em thơ thật là mầu nhiệm. Tư tưởng chúng ta cũng là những gì mầu nhiệm. Chúng ta hãy bình tĩnh lại để thấy rằng ngục tù giam hãm chúng ta trong cô đơn vốn là một ngục tù do tâm chúng ta tự tạo. Hãy ngồi xuống và bắt đầu bằng một cuộc nói chuyện thực sự. Hãy đập vỡ cái vỏ cứng đang giam hãm em. Hãy cố gắng về phần em một tí. Tôi biết khi em đọc qua những giòng này em có thể nói rằng tôi không hiểu em. Và khi nghe em nói như thế, tôi cũng có thể trả lời rằng: Em không hiểu tôi. Như vậy, cuối cùng chúng ta cũng sẽ chẳng đi đến đâu. Chi bằng chúng ta hãy chấp nhận sự thực này: nếu tôi không hiểu em, thì ít nhất tôi cũng đang muốn tìm hiểu em và muốn được em hiểu. Nơi em, tôi cũng chỉ mong có chừng ấy. Bởi vì tôi thấy chìa khóa của vấn đề là nơi sự thông cảm. Có sự thông cảm, chúng ta mới đánh tan được ảo giác cô độc. Và chỉ có thông cảm chúng ta mới có phương tiện gom tâm lực của chúng ta thành một sức mới để có thể nổi loạn một cách bình tĩnh, hữu hiệu, chống lại được guồng máy, chuyển đổi được tình trạng. Nếu không, những cuộc nổi loạn đơn độc vụng về và mất bình tĩnh cũng sẽ chỉ đưa đến thêm những đổ vỡ những  đen tối và tình trạng sẽ vì vậy mà càng ngày càng trầm trọng hơn lên.

Thiền sư Nhất Hạnh - Nói Với Tuổi Hai Mươi (I)

Tôi đã đọc tác phẩm NÓI VỚI TUỔI 20 vào đầu thập niên 70 . Đây là loạt bài viết hình như để "đối thoại " với trí thức tuổi trẻ miền nam ngày ấy , cụ thể là để trả lời " tuyên ngôn " của một thế hệ tuổi trẻ , mà đại diện là Phạm Công Thiện , qua tác phẩm " Ý THỨC MỚI TRONG VĂN NGHỆ & TRIẾT HỌC ( XB 1965 tại miền nam VN ) . 
Nay đọc lại , vẫn thấy rất hay và cần cho thế hệ trẻ ,nên post lại đây làm " tư liệu tham khảo " .. THD 
------------------------------------------



Nói Với Tuổi Hai Mươi 

Thiền sư Nhất Hạnh 
Sàigòn – Lá Bối – 1966 
--------------------------------------------------------------------------------



Nhận diện

Chưa bao giờ tôi khóc khi nghe người ta hát. Thế mà tối hôm đó nước mắt tôi cứ chực trào xuống trong suốt thời gian tôi ngồi nghe nhạc sĩ Phạm Duy hát bài tâm ca số năm của anh. Buổi họp mặt gồm có chừng ba trăm thanh niên nam nữ, phần lớn là những người đang theo học trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, một số các vị giáo sư và thân hữu của trường. Bài tâm ca mang tên là “Để Lại Cho Em”, những lời tự thú của một người anh bốn mươi tuổi nói với người em hai mươi tuổi. Phải, đúng là những lời tự thú. Những lời tự thú thẳng thắn, đầy ân hận, đầy đau thương; những lời tự thú làm cho xót thương dâng lên tràn ngập lòng người, người của thế hệ đi trước cũng như của thế hệ đi sau. Những lời tự thú khiến cho giận hờn và  trách móc tan biến và khiến cho nguồn thông cảm được khơi mở. Trong ánh mắt của những người trẻ tuổi hôm ấy, tôi quả đã đọc thấy tha thứ và tin yêu. 

Tôi rưng rưng nước mắt, vì tôi được nghe chính tiếng nói của lòng tôi, tiếng tự thú của lòng tôi, do một nhạc sĩ tài ba hát lên. Phạm Duy đã hát gì? Thế hệ của những người đi trước- là chúng tôi- đã để lại cho thế hệ đi sau- là những người em hai mươi tuổi ngày hôm nay- những hèn kém những tội lỗi của họ. Một giải non sông gấm vóc, một miền oai linh hiển hách bây giờ chỉ còn là một mảnh đất bị chia cắt, cày xới lên bởi bom đạn. Hận thù nhân danh chủ nghĩa, bạo lực vênh vang bề thế, các anh đã để lại cho các em những giọt máu của dân lành, những nấm mồ chưa xanh cỏ, những tấm khăn sô, những thành phố buồn trong đó loài người đang tranh nhau từng đám bụi đen. Các anh đã vụng về, đã hèn kém, đã để lại cho các em một quê hương nghèo khổ đói lạnh dù ruộng đồng của tổ quốc ta vốn rất mầu mỡ phì nhiêu. Đường về tương lai nghẽn lối, bàn tay các anh đáng lẽ phải thơm mùi đất nay thành ra hôi mùi thuốc súng; các anh đã để lại cho các em những giả dối, đê hèn và vụng dại của các anh. Nhưng cơ sự đã xảy ra như thế rồi, xin các em đừng trách móc hờn giận: hãy thương chúng tôi và hãy can đảm nhận lấy cái gia tài khôn khổ khốn nạn do các anh để lại Nếu chúng ta biết thương nhau, nếu các em biết thương yêu và tha thứ cho chúng tôi, nếu chúng ta cùng gom sức mới, cùng nhận lời tranh đấu, thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ tìm được một lối thoát cho nhau. Nếu các em biết thương yêu và tha thứ thì hồn nước cũng sẽ giật mình, đời chúng ta sẽ lên sức sống, tủi hờn sẽ lắng xuống và niềm kiêu hãnh sẽ vươn lên. Nếu các em biết thương yêu và tha thứ thì súng đạn cũng sẽ phải thở dài, tàu bay cũng sẽ phải khóc, lựu đạn sẽ phải im tiếng, và quê hương ta sẽ không còn là một bãi chiến trường.

Một bài hát như thế quả thực đã là tiếng nói phát ra từ tâm niệm thành khẩn, từ ý thức trách nhiệm, từ những khổ đau của nhận thức. Một bài hát như thế không còn là một bài hát nữa. Đó là máu, đó là xương, đó là linh hồn, đó là những khúc ruột quặn đau, đó là sự sống Chúng tôi, những người anh bốn mươi thời hôm nay, nhân danh Mẹ tổ quốc, Mẹ tình thương, chờ mong em đáp lại tiếng kêu bi thương đó, kêu gọi em trở về với tình huynh đệ, ngồi lại bên nhau, bàn bạc với nhau đề tìm ra một lối thoát. Em đừng oán giận trách móc nữa, và cũng đừng nghĩ rằng những điều chúng tôi nói, chúng tôi viết đây là những lời than trách, nhục mạ, lên án tuổi trẻ nữa. Tôi biết tuổi trẻ còn nhiều trong trắng, còn nhiều tha thứ. Tôi biết em sẵn sàng tha thứ, cũng như chúng tôi cũng đã từng biết tha thứ cho những vụng dại, những thành kiến của lớp người đã làm cho chúng tôi khổ đau.

Em hãy nhìn lại chúng tôi: trán chúng tôi cũng bị cày lên những đường nét ưu tư, khổ đau, mắt chúng tôi vì cát bụi cuộc đời cũng không còn trong xanh nữa, niềm tin và sự trong trắng của tâm hồn cũng đã sứt mẻ và vỡ nát nặng nề. Chúng tôi cũng đã cô độc như bây giờ em đang cô độc. Chúng tôi cũng đã bơ vơ như em bây giờ còn đang bơ vơ. Chúng tôi nào phải là muốn lên giọng đạo đức để nhục mạ em. Đến nước này mà còn nhục mạ nhau, còn lên giọng đạo đức với nhau thì quả thực là chúng ta đã điên mất rồi. Quê hương thân yêu tan nát, chúng ta người lớn cũng như người nhỏ, hầu như không còn là chúng ta nữa. Chúng ta đã đổ trách nhiệm lên đầu nhau, đổ oán giận lên đầu nhau, để càng xa nhau, để càng thêm không hiểu nhau. Đau thương đã lớn lao quá rồi, chúng ta đừng gây nhiều thêm nữa. Trong giai đoạn nầy chỉ còn có lòng xót thương mới có thể giữ cho chúng ta còn là chúng ta, mới có thể giúp cho chúng ta có đủ bình tĩnh và thương yêu để tự lái con thuyền chúng ta ra khỏi cơn bão táp. Hãy hướng về chắp tay xót thương cho tổ quốc, cho giống nòi, xót thương Mẹ, xót thương Em, xót thương mảnh vườn xanh xưa của thời thơ ấu. Chất liệu xót thương sẽ biến khổ đau thành hoa trái ngọt ngào. Thương nhau, chúng ta sẽ tìm thấy con đường. Thương nhau, chúng ta sẽ làm nên lịch sử.

Hình bóng? Hình bóng của em? Hình bóng nào là hình bóng đích thực của tôi, đích thực của em? Hình bóng nào mới thực là hình bóng của Mẹ tạo nên, của Mẹ trao truyền? Hình bóng nào mang được tiếng ru bên nôi nhỏ, mang được ánh mắt biết hy sinh, giàu tha thứ, mang được bàn tay cần mẫn biết chăm lo của truyền thống Việt Nam? Hỡi người em hai mươi tuổi, dù cho phong ba bão táp có đến trên đời em một trăm lần, một ngàn lần, dù có quật ngã em, tôi vẫn nhận ra em, vẫn thấy em còn mang hình bóng của người con tổ quốc. Dù em có từ chối tôi, có từ chối Mẹ, tôi vẫn thấy nơi em, hình bóng của Mẹ. Em vẫn còn rung động khi nghe lại tiếng ru bên nôi nhỏ. Em vẫn còn thấy tâm hồn tràn ngập xót thương khi nhìn lại ánh mắt giàu hy sinh và tha thứ. Em vẫn còn là em. Dù đã có lần em thù ghét tôi, từ bỏ tôi, phủ nhận tôi, tôi cũng không thể nào không nhận ra em. Em có mặc lên trên người em những y phục dị kỳ, em có làm tội làm tình em bằng cách chặt bớt vài ngón tay, rạch thêm những lằn sâu trên mặt, xẻo bớt thân thể em để tạo nên những vết sẹo lớn thì tôi cũng vẫn còn nhận ra em. Tôi còn nhận ra em thì không bao giờ tôi có thể từ bó em. Tôi còn nhận ra em tại vì chất liệu thực của con người em dễ dầu gì mà bị tiêu diệt bằng phong ba bão táp, dù cho từ phương Bắc thổi xuống, dù cho từ phương Tây thổi qua. Thôi, em cho tôi nhìn nhận em là em của tôi đi, xin cho tôi nhìn nhận em là con của Mẹ. Tôi có hư hỏng, tôi có gây khổ đau cho em thì vì Mẹ em vẫn còn có thể tha thứ được cho tôi mà. Cái mà em khoác vào người và em cho là hình bóng của em, vốn không phải là hình bóng đích thực của em, do Mẹ trao truyền lại. Dù những vết thương có sâu, dù những đường rạch có lớn, dù những vết sẹo có nhiều thì không phải vì vậy mà em tiêu diệt được hình bóng đích thực của em. Hình bóng mà bây giờ em nhận là của em, tôi thấy đó chỉ là những vết thương, những đường rạch, những cái sẹo. Tôi, chính chúng tôi cũng có những vết thương, những đường rạch, những cái sẹo. Mà có phải vì vậy mà tôi với Mẹ không còn những liên lạc huyết thống đâu. Mà có phải vì vậy mà tôi với em không còn những liên lạc huyết thống đâu.

Để trả thù tôi, em đã hủy hoại em, em đã tạo cho em một hình dáng mà chất liệu là những đổ vỡ do phong bão gây nên, rồi em nhận hình dáng ấy là hình dáng của chính em. Để cho tôi khổ đau, và để cho Mẹ khổ đau. Mà thực ra thì Mẹ đã khổ đau, tôi đã khổ đau. Vì chính em đã khổ đau. Tôi biết em đã khổ đau, khổ đau hơn chính chúng tôi. Nhưng tôi không thể nào giận em được. Tôi xót thương cho tôi, xót thương cho em, xót thương cho tất cả chúng ta. Có phải em đã tự miêu tả hình dáng em như thế này chăng, và có phải khi em nhìn vào một hình dáng như hình dáng này, em thấy thắp thoáng hình bóng em trong ấy phải không ? 

“Thế giới người lớn là thế giới nghĩa địa, thế giới chết, thế giới ma quái ngu dại.

Các ông tự cho là các ông khôn ngoan, chín chắn, kinh nghiệm. Chúng tôi không cần những thứ ấy và chúng tôi cũng không đụng chạm gì đến những thứ ấy, vì thế chúng tôi lễ phép xin các ông hãy trả thế giới hồn nhiên cho chúng tôi: đừng làm điếc tai chúng tôi với những tiếng thối nát như “ khôn ngoan”, “chín chắn”,  “kinh nghiệm”.

Chúng tôi không cần kinh nghiệm.

Kinh nghiệm là gì, nếu không phải là thói quen mà các ông đã bám vào đó để bảo đảm cái thân người hèn mọn nô lệ của các ông

Tôi đã vô lễ hằn học với các ông.

Những sự hằn học ấy cần thiết.

Chúng tôi, thế hệ thanh niên Việt Nam tù I5 đến 25 tuổi, muốn nói lên một sụ thực đau buồn nhất trong đời chúng tôi; sự thực bi đát ấy là:

CHÚNG TÔI KHÔNG CÒN TIN TƯỞNG NƠI CÁC ÔNG NỮA

Hơn thế nữa, sự thực bi đát trên trở thành bi tráng: chúng tôi không cần các ông nữa.

Đối với chúng tôi, các ông đã chết, và bây giờ đã đến lúc chúng tôi phải sống, phải đứng thẳng nhìn đời với nỗi niềm cô đơn vô hạn của tuổi trẻ, chúng tôi sẽ đi và chỉ đi một mình. Quê hương Việt Nam đang đổ vỡ; chúng tôi sẽ gánh Iấy sự đổ vỡ ấy trên hai vai yếu đuối, nhưng vẫn mang niềm kiêu hãnh vô biên, chúng tôi sẽ tự tạo ra trách nhiệm cho mình; các ông đã chết; tôi phải cần lập lại một lần nữa rằng các ông đã chết, vì thế các ông không có trách nhiệm và các ông cũng không thể bắt chúng tôi nhận trách nhiệm nào cả. Trách nhiệm là trách nhiệm riêng của mỗi anh em trong chúng tôi.

Đau buồn không phải là mái nhà đang đổ vỡ ; đau buồn là chúng tôi đã ngu dại để chờ những người chết xây dựng lại; những người chết là đã chết hẳn; chỉ  có chúng tôi là xây dụng lại thôi, chỉ có những người sống là thổi sức sống vào thế giới điêu tàn này.

Các ông thường phàn nàn rằng chúng tôi là một thế hệ thối hóa, sống không biết ngày mai, không biết lý tưởng, trụy lạc, la cà ruợu chè, hút thuốc, tục tằn, du côn, mất dạy, lấc xấc, ngang tàng, chỉ biết ăn chơi, non nớt, không làm gì ra hồn, đàng điếm, nhảy đầm, trác táng, hoang đàng và một triệu hình dung từ khác. 

Vâng, chúng tôi hãnh diện chấp nhận hết cả nhũng hình dung từ trên. Và chúng tôi chỉ  xin nở một nụ cuời lễ độ và cúi đầu không biện hộ. Các bạn bè thân yêu của chúng tôi đang gục chết trên cánh đồng biên giới, bên bờ sông hay giữa rừng rú hoang vu; khói lửa ngút trời, máu đỏ của tuổi trẻ đang tưới trên những giải đất khô cằn quê hương, những mái tóc xanh trở thành nhĩrng bãi cỏ xanh trên những nấm mồ trận địa.

Hỡi ơi, hãy khóc đi hỡi quê hương yêu dấu...

Các ông trách rằng chúng tôi sống không lý tuởng. Lý tuởng là gì? Lý tuởng là gì? Lý tưởng có phải tranh đấu giữ gìn để cho các ông sống nốt cuộc đời tầm thường an phận của các ông . Mục đích của cuộc đời là Sống - Sống gì? Sống cuộc đời thực sự của mình. Cuộc đời thực sự không phải là cuộc đời của đám đông, của xã hội, của khuôn mòn lối cũ, của công thức tù hãm. Cuộc đời thực sự không phải là những phép tắc luân lý đạo đức. Cuộc đời thực sự

không phải là những ông công an, những ông cảnh sát, những ông giáo sư trung học và đại học. Cuộc đời thực sự là

chúng tôi, là tuổi trẻ.

CHỈ CÓ CHÚNG TÔI LÀ ĐẶT RA NHỮNG LỀ LUẬT.

Chúng tôi không còn lý tưởng, vì lý tưởng là lý tưởng của các ông.

Lý tưởng (dù lý tưởng nào) đều là nhà tù để nhốt lại sức sống vỡ bờ của tuổi xuân; lý tưởng là ảo tưởng; sống không lý tưởng là sống trọn vẹn, là lao mình vào cuộc đời với trọn sự hồn nhiên bỡ ngỡ của mình.

Con người hồn nhiên không có lý tưởng.

Chỉ  khi nào người ta mất mát rồi thì người ta mới tạo ra lý tưỏng để tự đánh lừa mình bằng sự phiêu lưu vô định trong thế giới tư tưởng.

Lý tưởng là những sản phẩm của lý trí ; lý trí là ký ức; ký ức là quá khứ là kinh nghiệm;  kinh nghiệm đánh mất hồn nhiên.

Sống có lý tưởng là sống có quá khứ, lấy quá khứ mà nhìn dòng đời: dòng đời luôn luôn trôi chảy mới lạ từng giây

phút;  lấy quá khứ  nhìn dòng đời là chận đứng dòng đời lại, là bắt dòng đời phải chảy ngược lại chỗ cũ mà nó đã chảy qua từ lâu rồi, như  thể  là đã giết chết sức sống phong phú. 

Sống có lý tưởng là sống không còn ngạc nhiên nữa ; người ta không thể biết ngạc nhiên trước cuộc đời khi người ta sống có lý tưởng

Sống không lý tưởng là lao mình vào đời với trọn vẹn hồn nhiên, ngạc nhiên, thao thức, bỡ ngỡ , mới lạ trong trắng giây phút một.

Ngoài kia, trời đang vẫn còn mưa, tôi lại đứng đây để lý luận với những người chết sao?...” [1]

Không! Không, em ơi ! Đó không phải là hình bóng đích thực của em. Đó chỉ là những thương tích

Đó chỉ là những thương tích. Em nhìn lại em xem. Em vẫn còn cảm động khi nghe tiếng ru bên nôi nhỏ.

Em vẫn còn thay lòng mình tràn ngập xót thương khi nhìn thấy giọt lệ mẹ già.

Đó chỉ là những thương tích. Những dấu tích. Những chứng tích của giai đoạn lịch sử này. Hãy bình tâm đi em: đau khổ sẽ làm em trưởng thành. Đau khổ sẽ làm ta trưởng thành. Bình tâm và yêu thương, em sẽ làm nên lịch sử. Thực ra, có thể em không còn tin nơi tôi. Nhưng không phải vì vậy mà tôi đã chết. Bằng cớ là em vừa nói với chúng tôi vừa lý luận với chúng tôi. “Ngoài kia, trời đang vẫn còn mưa, tôi lại đứng đây để lý luận với những người chết sao?”. Tôi thấy rồi, em ơi, cái giận dữ của em chỉ là cái giận dữ bề ngoài. Trong em, vẫn còn tin yêu, vẫn còn những liên hệ muôn đời với tôi, với Mẹ. Em nói tôi đã chết. Em nói em không nên lý luận với những người chết. Nhưng em đã lý luận với người chết rồi, đã lý luận với tôi rồi. Và như vậy trong thâm tâm em vẫn tin rằng tôi còn sống, em vẫn muốn nói chuyện với tôi. Còn gì làm  sung sướng hơn nữa. Còn gì làm tôi hy vọng hơn nữa. Tất cả những xua đuổi, những oán ghét, những phũ phàng của em, trước sau, chỉ là những dấu tích, những thương tích, những chứng tích. Nằm trong sâu thẳm của hồn em, là con người đích thực của em, là huyết thống của Mẹ, là chất liệu huynh đệ của anh em ta. Em không thể nào thù ghét tôi được bởi vì em vẫn còn là em. Em hãy bình tĩnh lại, em ngồi xuống. Hãy nghe lại tiếng ru ngày xưa. Cho tâm hồn em lắng dịu. Và để cho tôi nói chuyện với em. Bởi vì dù giận dữ, hung hăng, em cũng đã muốn nói chuyện với tôi rồi.


--------------------------------------------------------------------------------

[1] Phạm Công Thiện, Ý thức mới trong Văn nghệ và Triết học, trang XV- XX, Lá Bối, 1965

Từ 'chiến tranh lạnh' đến 'chiến tranh mát'

 

     VOA
08.03.2013

 bởi Nguyễn Hưng Quốc

Từ “Chiến tranh lạnh” (Cold War) được nhà văn Anh George Orwell sử dụng đầu tiên trong bài tiểu luận “You and the Atomic Bomb” đăng trên báo Tribune vào tháng 10 năm 1945; sau đó, trở thành phổ biến rộng rãi khi Walter Lippmann xuất bản cuốn sách nhan đề The Cold War vào năm 1947. Nó được dùng để chỉ sự căng thẳng về cả chính trị lẫn quân sự giữa hai khối tư bản (đứng đầu là Mỹ) và khối Cộng sản (đứng đầu là Liên Xô) kéo dài từ năm 1947 đến năm 1991. Cả hai siêu cường quốc đứng đầu hai khối, Mỹ và Liên Xô, đều muốn làm bá chủ thế giới. Nhưng cả hai đều biết, với kho vũ khí hạt nhân khổng lồ của mình, nếu thực sự đánh nhau, sẽ không có ai thắng ai cả: Cả hai đều cùng bị tiêu diệt. Bởi vậy, người ta chọn hai cách khác để đánh nhau: Một, sử dụng chiến tranh tâm lý; và hai, tiến hành các cuộc chiến tranh cục bộ ở một số nước với sự giúp đỡ của hai siêu cường quốc lãnh đạo, trong đó, nổi bật nhất là cuộc chiến tranh ở Triều Tiên (1950-53) và chiến tranh ở Việt Nam (1954-75). Ngoài hai cách đánh nhau ấy, cả hai đều cạnh tranh ráo riết trên các mặt trận khác, từ ngoại giao đến kinh tế và đặc biệt, nâng cấp các kho vũ khí hạt nhân của mình.

Năm 1989, sau khi Liên Xô rút quân khỏi Afghanistan, bức tường Berlin bị sụp đổ, và chế độ Cộng sản bị phá sản ở tất cả các quốc gia Đông Âu, Tổng thống George H.W. Bush tuyên bố tại cuộc hội nghị thượng đỉnh ở Malta là Chiến tranh lạnh đã kết thúc.

Gần hai thập niên sau đó, thế giới vẫn còn chiến tranh, dĩ nhiên. Nhưng chiến tranh ấy thuộc ba loại: Một, nội chiến giữa các phe phái trong một nước (ví dụ, ở Congo, từ 1991-97; Tajikistan, 1992-96; Algeria, 1992-99; Burundi, 1993-2005; Rwanda, 1994; Côte d’Ivoire, 2002; Syria, 2012-13); hai, giữa hai nước (ví dụ, Nga và Chechnya, 1991-2009; Armenia và Azerbaijan, 1991-94; Ethiopia và Eritrea, 1998-2000); và ba, chiến tranh giữa một khối liên minh lớn trên thế giới với lực lượng thù nghịch ở một nước nào đó (ví dụ, chiến tranh ở Vùng Vịnh năm 1991, ở Afghanistan, từ 2001, và ở Iraq, 2003-2011). Ở hình thức chiến tranh thứ ba, khối đồng minh bao giờ cũng do Mỹ lãnh đạo, phần lớn được sự đồng thuận và sự tham gia của rất nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới. Một số quốc gia phản đối, nhưng hầu hết đều chỉ phản đối về phương diện ngoại giao và với mức độ vừa phải, không gây nên những mâu thuẫn quá trầm trọng. Hầu như mọi người đều thừa nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Mỹ.

Gần đây, với sự trỗi dậy của Trung Quốc, tình hình dần dần đổi khác. Về mọi phương diện, từ kinh tế đến khoa học kỹ thuật và quân sự, Trung Quốc vẫn còn thua Mỹ rất xa. Tuy nhiên, quan hệ giữa hai nước dần dần đi từ chỗ hợp tác đến đối kháng. Gần đây, một số nhà bình luận chính trị quốc tế bắt đầu nói đến một thứ Chiến tranh lạnh giữa hai nước.

Chính Tổng thống Mỹ, Barack Obama, hầu như cũng thừa nhận điều đó trong chuyến viếng thăm châu Á vào tháng 11 năm 2011.

Hình thức Chiến tranh lạnh mới này khác hình thức Chiến tranh lạnh kiểu cũ, giữa Mỹ và Liên Xô, ở nhiều điểm.

Thứ nhất, về nguyên nhân, trong khi Chiến tranh lạnh kiểu cũ bắt nguồn, trước hết, từ những mâu thuẫn về ý thức hệ, giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa Cộng sản, hình thức Chiến tranh lạnh kiểu mới chỉ bắt nguồn từ những mâu thuẫn về quyền lợi, chủ yếu là quyền lợi kinh tế và địa chính trị của mỗi nước.

Thứ hai, về thế, trong Chiến tranh lạnh kiểu cũ, mỗi bên đều có một khối liên minh quân sự đông đảo, tính về nhân số, hầu như ngang ngửa nhau; trong Chiến tranh lạnh kiểu mới này, chỉ có Mỹ là có liên minh, không những các liên minh cũ ở châu Âu mà còn có thêm nhiều các liên minh mới ở châu Á, còn phía Trung Quốc, cho đến nay, vẫn chỉ một mình. Lý do chính là, trên nguyên tắc, một liên minh thực sự chỉ có thể được xây dựng trên nền tảng những bảng giá trị chung mà mọi quốc gia đều chia sẻ. Về phương diện ấy, Mỹ có: Đó là những lý tưởng về tự do, dân chủ và nhân quyền; còn Trung Quốc thì không: Những lý tưởng xã hội chủ nghĩa đã bị phá sản, chính bản thân Trung Quốc cũng không còn tin tưởng hay đề cao nữa; họ chỉ còn sử dụng quyền lợi để lôi kéo các nước khác, hầu hết là các nước nghèo ở châu Phi và châu Á. Loại đồng minh kiểu đó chỉ có ít nhiều giá trị trong việc buôn bán nhưng nếu chiến tranh bùng nổ, nó hoàn toàn vô nghĩa.

Thứ ba, về lực, trong chiến tranh lạnh kiểu cũ, Mỹ và Liên Xô hầu như ngang ngửa nhau; trong chiến tranh lạnh kiểu mới, Trung Quốc vẫn còn thua hẳn Mỹ ít nhất là vài ba thập niên. Thua về số vũ khí. Thua về trình độ kỹ thuật, và từ đó, hiệu quả tác chiến. Thua về kinh nghiệm tổ chức và chiến đấu.

Chính vì thế, hầu hết các nhà bình luận đều cho Trung Quốc chưa phải là một sự đe dọa đối với nền an ninh của Mỹ trong hiện tại. Việc Mỹ bố trí lại quân đội, đặc biệt là lực lượng hải quân ở vùng châu Á - Thái Bình Dương, chủ yếu là để chuẩn bị cho một chiến lược lâu dài hơn là để đáp ứng một nhu cầu khẩn thiết trước mắt. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là nguy cơ chiến tranh không có. Nếu Trung Quốc tấn công Đài Loan, Nhật Bản hoặc Philippines, Mỹ không thể khoanh tay ngồi nhìn. Trung Quốc có thể tấn công ba nước ấy không? Bình thường, chỉ cần tỉnh táo một tí, người ta đều biết là không. Nhưng lịch sử lại dạy chúng ta một điều: Không thể nói chắc được. Khi chơi với lửa, không ai có thể cam đoan là nó sẽ không bùng cháy và thiêu rụi một cái gì đó. Chỉ cần một hành động nóng nảy hoặc dại dột của một người lính hải quân nào đó, hai bên có thể sẽ đánh nhau, thoạt đầu giữa hai tàu chiến, sau đó, giữa hai nước; và sau đó nữa, giữa hai khối. Trên thế giới, từ trước đến nay, vẫn có những cuộc chiến bùng nổ vì những lý do lãng nhách như vậy.

Thứ tư, về hình thức. Trong khi chưa có tiếng súng nào giữa Mỹ và Trung Quốc, nhiều nhà bình luận cho một hình thức chiến tranh lạnh đã thực sự nổ ra giữa hai nước, thậm chí, giữa Trung Quốc và cả khối tự do do Mỹ đứng đầu, bao gồm tất cả các quốc gia phát triển và dân chủ ở châu Âu và Úc. Cuộc chiến ấy diễn ra trên mạng.

Từ lâu, người ta đã biết Trung Quốc chuyên đi đánh cắp các phát minh kỹ thuật từ Mỹ và Tây phương nói chung. Bực thì bực, nhưng người ta vẫn xem đó là chuyện bình thường. Thật ra, nước nào cũng vậy, cũng đều có đội ngũ tình báo kinh tế lúc nào cũng tất bật hoạt động, không phải chỉ nhắm vào đối thủ mà còn, nếu không muốn nói chủ yếu là còn, nhắm vào các đồng minh thân thiết nhất của mình. Đó chỉ là một quy luật cạnh tranh. Tuy nhiên, việc đánh cắp kỹ thuật của Trung Quốc càng ngày càng vượt quá những giới hạn thông thường. Quá về mức độ: Họ ăn cắp hầu như mọi thứ, từ kỹ thuật tin học đến khoa học không gian, viễn thông, năng lượng, điện tử, tài chính… Bọn tin tặc của họ thâm nhập vào máy điện toán của các nhà khoa học, các công ty và xí nghiệp lớn nhỏ ở Mỹ và ở Tây phương để ăn cắp các dự án nghiên cứu và các tài liệu liên quan đến kế hoạch phát triển. Thậm chí, nhiều người từ Tây phương sang Trung Quốc họp hành bị công ty cấm sử dụng laptop hoặc cả điện thoại di động; hoặc nếu phải sử dụng, sau khi về nước, phải đưa các thứ đó cho nhân viên an ninh mạng “tẩy trùng”. Quá ở phạm vi: Không dừng lại ở lãnh vực kinh tế, đám tin tặc Trung Quốc còn thường xuyên quấy nhiễu các website cũng như máy điện toán của chính phủ hoặc các cơ quan an ninh, quốc phòng và ngoại giao Tây phương. Quá ở tổ chức: chính phủ Trung Quốc luôn luôn chối bỏ các lời cáo buộc liên quan đến việc ăn cắp của mình, nhưng các cơ quan an ninh mạng của Mỹ, đặc biệt là Mandiant, mới đây đã đưa ra những bằng chứng cụ thể cho thấy các hành vi ăn cắp ấy đều xuất phát từ cả ngàn nhân viên tin tặc thuộc Quân đội Nhân dân Trung Quốc, được thành lập từ năm 2006 và đặt tên là đơn vị 61398, có trụ sở là một tòa nhà 12 tầng ngay tại Thượng Hải.

Người ta thường phân biệt tin tặc thành hai loại: Có tổ chức và không có tổ chức. Phần lớn tin tặc chỉ là những kẻ không có tổ chức: đó chỉ là những kẻ giỏi về tin học, lại thích nghịch ngợm, hay đi lang thang trong thế giới ảo, khám phá hoặc rình ngó chỗ này chỗ khác. Khi việc nghịch ngợm của họ có thể gây hại cho người khác, họ có thể bị bắt và bị bỏ tù. Thuộc loại tổ chức, có hai giới hạn: tổ chức xã hội hoặc kinh tế nhằm phục vụ cho lợi ích của nhóm hoặc của công ty và tổ chức chính phủ. Trong hai loại tổ chức ấy, dĩ nhiên loại tổ chức của chính phủ được xem là nghiêm trọng hơn. Khi tổ chức chính phủ ấy lại nằm trong tay quân đội, ý nghĩa thay đổi hẳn: Nó được xem là một sự tấn công dưới hình thức phi-vũ trang.

Chữ “phi-vũ trang” ở trên rất dễ gây hiểu lầm. Trước, theo cách hiểu thông thường, phi-vũ trang được được xem là vô hại. Nhưng những cuộc tấn công trên mạng internet thì lại rất lợi hại. Thực chất, đó là một thứ vũ khí mới đến độ Leon Panetta, nguyên Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, phải lên tiếng cảnh báo: Nếu Đệ nhị Thế chiến bắt đầu bằng trận chiến ở Trân Châu Cảng; Đệ tam Thế chiến có thể sẽ bắt đầu bằng một trận Trân Châu Cảng ảo trên internet (cyber Pearl Harbour).

Cuộc tấn công của tin tặc Trung Quốc nhắm vào Mỹ và Tây phương như thế đặt Mỹ và Tây phương vào thế bất lợi. Thứ nhất, họ chỉ ở thế phòng thủ, luôn luôn phòng thủ. Hơn nữa, ở đây, “mặt trận” lại quá rộng, bao gồm không những các cơ quan chính phủ mà còn mọi công ty xí nghiệp và cơ quan nghiên cứu: Không phải ở đâu cũng có khả năng chống đỡ lại đám tin tặc chuyên nghiệp ấy. Thứ hai, Mỹ và Tây phương không thể phản công: về phương diện khoa học kỹ thuật, Trung Quốc không có gì đáng để người ta sử dụng tin tặc để đánh cắp cả. Chả lẽ người ta lại đánh cắp lại những thứ mà Trung Quốc ăn cắp của họ?

Không những bất lợi, Mỹ và Tây phương còn ở thế khó xử: Người ta không thể công khai tuyên chiến với một nước chỉ vì một đám tin tặc dù người ta biết rõ đám tin tặc ấy nằm trong quân đội và do nhà nước quản lý. Nhưng người ta không thể im lặng và chịu đựng mãi. Trước, trong nhiều năm, Mỹ và các quốc gia Tây phương đã chịu đựng và im lặng. Nay, người ta bắt đầu lên tiếng, nêu đích danh Trung Quốc là một tên ăn cắp và quấy phá trên mạng. Lên tiếng như thế cũng là một cách tuyên chiến.
Dĩ nhiên, đó không phải là chiến tranh nóng. Đó chỉ là một kiểu Chiến tranh lạnh. Nhưng vì kiểu Chiến tranh lạnh này khác hẳn cuộc chiến tranh lạnh kéo dài cả nửa thế kỷ giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa Cộng sản trước đây, nên David Rothkopf, biên tập viên tạp chí Foreign Policy, đề nghị một tên gọi mới: Chiến tranh mát (the Cool War).

“Mát” ấm hơn “lạnh” một chút. Nhưng dù sao thì cũng vẫn là chiến tranh.

* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc /VOA

7/3/13

CHARLIE CHAPLIN - BÀI DIỄN VĂN CỦA ÔNG THỢ CẠO

CHARLIE CHAPLIN : Bài diễn văn của ông thợ cạo







Chaplin, Charlie  Bài diễn văn của ông thợ cạo trong vị thế một nhà độc tài vĩ đại bất đắc dĩ  


Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn


Lời người dịch: 

The Great Dictator (Nhà độc tài vĩ đại) là một cuốn phim khôi hài của Charlie Chaplin. Được trình chiếu lần đầu vào tháng 9 năm 1940 tại New York, rồi xuất hiện tại nhiều rạp cinema trên khắp nước Mỹ vào tháng 10, và đến với công chúng của nước Anh vào tháng 11 năm ấy. Sau đó, cuốn phim được trình chiếu ở Pháp vào tháng 4 năm 1945, ngay trước khi Thế Chiến II kết thúc.

Đây là cuốn phim “nói” đầu tiên của Charlie Chaplin và được xem là tác phẩm điện ảnh thành công nhất của ông. Trong phim có rất nhiều đoạn tuyệt vời, nhưng đoạn gây xúc động và để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong tôi là đoạn ông thợ cạo (do chính Chaplin đóng) bị nhận diện nhầm là nhà độc tài vĩ đại (cũng do chính Chaplin đóng), và bị mời lên khán đài để đọc một bài diễn văn được truyền thanh khắp thế giới. Trong vị thế một nhà độc tài vĩ đại bất đắc dĩ, ông thợ cạo bắt đầu bài diễn văn của ông với vẻ do dự, nhưng càng diễn đạt tư tưởng của mình thì ông càng trở nên lưu loát hơn, và giọng nói của ông càng lúc càng mạnh mẽ, quyết liệt, đầy xúc cảm và sức thuyết phục.

Đây là một bài diễn văn tuyệt vời được trình diễn một cách tuyệt vời bởi thiên tài Charlie Chaplin. Ở thế kỷ 21, chúng ta có thể cho rằng một số ý tưởng trong bài diễn văn này không còn mới mẻ. Tuy nhiên, là một người Việt Nam trong thời điểm này, tôi cảm thấy xúc động sâu xa mỗi lần nghe lại những đoạn cuối cùng trong bài diễn văn của ông thợ cạo.

Tôi xin gửi đến các bạn bản dịch Việt ngữ của bài diễn văn, và mời các bạn cùng xem lại đoạn phim này trên Youtube, theo link dưới đây:

 
BÀI DIỄN VĂN CỦA ÔNG THỢ CẠO 

TRONG VỊ THẾ MỘT NHÀ ĐỘC TÀI VĨ ĐẠI BẤT ĐẮC DĨ 



Tôi xin lỗi. Tôi không muốn làm một đại đế. Đó không phải là công việc của tôi. Tôi không muốn thống trị hay chinh phạt ai cả. Trong khả năng của mình, tôi muốn giúp đỡ mọi người — Do-thái, không Do-thái, da đen, da trắng.

Tất cả chúng ta đều muốn giúp đỡ nhau. Con người là như thế. Chúng ta muốn sống vì niềm vui của nhau — không phải vì nỗi khốn khổ của nhau. Chúng ta không muốn thù ghét và khinh bỉ nhau. Thế giới này có đủ chỗ cho mọi người và quả đất tốt lành này thì giàu có và có thể nuôi sống mọi người.

Con đường của sự sống có thể là tự do và đẹp đẽ, nhưng chúng ta đã đánh mất con đường ấy. Sự tham lam đã đánh độc tâm hồn con người, đã vây hãm thế giới trong sự oán thù, đã xua chúng ta dấn bước vào sự lầm than và đổ máu. Chúng ta đã phát triển tốc độ, nhưng chúng ta đã giam hãm chính mình. Máy móc đáng lẽ mang đến cho chúng ta sự dư dật, thì lại khiến chúng ta đói rách. Sự hiểu biết của chúng ta đã làm chúng ta trở nên chua cay; sự khôn khéo của chúng ta đã làm chúng ta trở nên khắc nghiệt. Chúng ta suy nghĩ quá nhiều và cảm nhận quá ít. Hơn cả máy móc, chúng ta cần tình người. Hơn cả sự khôn khéo, chúng ta cần sự tử tế và sự dịu dàng. Không có những phẩm tính này, cuộc sống sẽ trở nên cuồng bạo và chúng ta sẽ đánh mất tất cả.

Máy bay và máy truyền thanh đã mang chúng ta đến gần nhau hơn. Bản chất của những phát minh này đòi hỏi thiện tâm của con người, đòi hỏi tình anh em trong nhân loại, đòi hỏi sự hợp quần của tất cả chúng ta. Ngay trong giây phút này tiếng nói của tôi đang đến với hàng triệu người trên khắp thế giới — hàng triệu người đàn ông, đàn bà, và trẻ con đang tuyệt vọng — những nạn nhân của một hệ thống — cái hệ thống đã sai khiến những kẻ hành hạ và giam cầm những người vô tội. Đối với những ai có thể nghe tôi, tôi nói: “Đừng tuyệt vọng.” Sự khốn khổ hôm nay đang đè nặng trên chúng ta chỉ là khoảnh khắc ngắn ngủi của sự tham lam, chỉ là sự cay đắng của những kẻ sợ hãi trước sự tiến bộ của nhân loại. Lòng thù hận của con người sẽ trôi qua, và những tên độc tài sẽ chết, và cái sức mạnh mà họ chiếm đoạt từ con người sẽ trở lại với con người. Và đến khi con người còn phải chết đi, thì khi ấy tự do vẫn không hề tàn lụi.

Các chiến sĩ! Đừng nạp mình cho những con thú — những kẻ khinh bỉ các bạn và bắt các bạn làm nô lệ, những kẻ đặt cuộc sống của các bạn vào hệ thống, điều khiển hành động của các bạn, ý nghĩ của các bạn và cảm xúc của các bạn! Những kẻ trui rèn các bạn, kiểm soát khẩu phần của các bạn, xem các bạn như trâu bò, dùng các bạn như những con cờ thí. Đừng nạp mình cho những kẻ quái đản ấy, những con người máy móc với những đầu óc máy móc và những trái tim máy móc! Các bạn không phải là máy móc! Các bạn không phải là trâu bò! Các bạn là những con người! Các bạn có tình yêu nhân loại trong tim. Các bạn không thù hận. Chỉ những kẻ không được yêu thương thì mới thù hận. Đó là những kẻ không có tình thương và những kẻ quái đản!

Hỡi các chiến sĩ! Đừng chiến đấu cho sự nô lệ! Hãy chiến đấu cho sự tự do! Chương thứ 17 của sách thánh Luca có viết rằng vương quốc của Thượng Đế thì ở trong con người, không chỉ trong một người hay một nhóm người, mà trong mọi con người! Trong các bạn! Các bạn, là nhân dân, các bạn có sức mạnh — cái sức mạnh để sáng tạo ra máy móc. Cái sức mạnh để sáng tạo ra hạnh phúc! Các bạn, là nhân dân, các bạn có sức mạnh để làm cho cuộc sống này tự do và đẹp đẽ, để làm cho cuộc sống này trở thành một cuộc phiêu lưu tuyệt vời. Thế thì, nhân danh dân chủ, chúng ta hãy sử dụng sức mạnh đó. Tất cả chúng ta hãy đoàn kết lại. Chúng ta hãy chiến đấu cho một thế giới mới, một thế giới tốt lành nơi đó con người sẽ có một cơ hội để làm việc, tuổi trẻ sẽ có một tương lai và tuổi già sẽ được an dưỡng.

Bằng lời hứa hẹn về những điều này, những con thú đã nổi lên nắm lấy quyền lực. Nhưng chúng chỉ nói láo! Chúng không giữ lời hứa. Chúng sẽ không bao giờ giữ lời hứa! Những tên độc tài giành lấy tự do cho chính họ nhưng lại bắt nhân dân làm nô lệ. Giờ đây chúng ta hãy chiến đấu để thực hiện lời hứa đó! Chúng ta hãy chiến đấu để làm cho thế giới được tự do, để xoá bỏ những biên cương quốc gia, để xoá bỏ lòng tham lam, hận thù và bất dung. Chúng ta hãy chiến đấu cho một thế giới hữu lý, một thế giới trong đó khoa học và sự tiến bộ sẽ mang hạnh phúc đến cho mọi con người.

Hỡi các chiến sĩ! Nhân danh dân chủ, hãy đoàn kết lại!