8/8/13

GS. TƯƠNG LAI - HIỆN TƯỢNG TRẦN ĐỘ


Trần Độ (Tạ Ngọc Phách) ở chiến trường.
Trần Độ (Tạ Ngọc Phách) ở chiến trường.
GS. TƯƠNG LAI

Nói như vậy, vì người viết muốn nhìn ra ở đây “một hiện tượng lịch sử” có ‎ nghĩa biểu tượng.  
Lịch sử đi tới theo đội hình hình thoi chứ không “dàn hàng ngang mà tiến”. Bao giờ những người đi trước cũng thuộc số ít. Càng ít hơn nữa là những ngươi có tầm mắt vượt lên phía trước, nhìn thấu được những điều mà nhiều người đồng hành chưa nhìn ra, hoặc nhìn nhưng chưa thấy, hoặc thấy nhưng chưa rõ. Và càng sát cái điểm đầu chóp hình thoi ấy thì càng đơn độc! Trần Độ là một hiện tượng, đúng hơn, là một bằng chứng rất sống động về sự “đơn độc của tia chớp” đang dẫn dắt suy tư của người viết nhân ngày mất của ông, 9. 8. 2002.
Nhận thức là một quá trình, điều này chẳng có gì mới đáng nói. Cái đáng nói hơn vào thời điểm này là: với sự kiểm nghiệm của thời gian, có những con người đã trở thành một  hiện tượng lịch sử vì nó là biểu tượng sống động về sự oái oăm của lịch sử trong nhận thức về lịch sử. Mà trớ trêu thay, chính sự oái oăm đó làm nên lịch sử. Làm nên bằng chính cái tầm vươt lên phía trước ấy. Chẳng thế mà Voltaire từng khuyến cáo rằng “Lịch sử không nên đề cập đến sự thăng trầm của các ông vua mà là trào lưu tiến hoá của dân tộc, không nên đề cập đến từng quốc gia riêng rẽ mà là toàn thể nhân loại, không nên đề cập đến chiến tranh mà là đề cập đến sự phát triển của tư tưởng. Những trận đánh, những đoàn quân chiến thắng hoặc chiến bại, những thành phố bị chiếm đi hoặc lấy lại là những sự kiện quá tầm thường, không nói lên điều gì quan trọng. Điều quan trọng là con người sống và suy nghĩ như thế nào qua các thời đại… qua những giai đoạn nào con người đi từ trạng thái man rợ đến trạng thái văn minh”.* 
Không hiểu có phải lẩn thẩn không mà người viết bài này những cứ muốn bạo gan đặt ra câu hỏi với nhà Khai sáng Pháp : liệu dưới tác động nào đó, trong một thời đoạn đau thương nào đó, có thể có quá trình ngược lại, một cơ chế phi lý‎ đẩy con người đi từ trạng thái văn minh trở lại với trạng thái man rợ ? Trần Độ có bốn câu thơ dưới dạng “tự bạch” :
                                          Những mơ xoá ác ở trên đời
                                            Ta phó thân ta với đất trời
                                         Ngỡ ác xóa rồi thay cực thiện
                                           Ai hay, biến đổi, ác luân hồi.
Liệu nỗi niềm “ ai hay, biến đổi, ác luân hồi” có chút bóng dáng nào của cái cơ chế phi lý kia không? Vì rằng, nếu cứ nhìn về nhân thân và sự nghiệp theo một nếp hằn rất chi là “lập trường quan điểm” từng chi phối đời sống tinh thần xã hội gần hai phần ba thế kỷ nay, thì con người này là một mẫu mực sáng giá, một điểm son chói lọi trong những trang sử hiện đại : Đi làm cách mạng từ năm 16 tuổi, vào đảng năm 17 tuổi, vào tù, cắn răng chịu tra tấn trong các nhà tù đế quốc , vượt ngục về hoạt động bí mật vào những ngày “tiền khởi nghĩa”, góp phần vào Cách Mạng tháng 8.1945, đảm nhiệm vai trò chính ủy Mặt trận Hà Nội “cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh” những ngày Thủ đô rực lửa năm 1946, tiếp đó là chính ủy trung đoàn, chính ủy đại đoàn, chính ủy quân khu, rồi phó chính ủy và phó bí thư quân ủy, được phong hàm thiếu tướng rồi trung tướng, được bầu làm Phó Chủ tịch Quốc hội, ủy viên BCHTƯĐCSVN, Trưởng ban văn hóa văn nghệ TƯ.
Dù được quy chiếu theo những hệ thống giá trị nào thì cuộc đời dấn thân hết mình cho tổ quốc, nằm gai nếm mật, vào tù ra tội, luôn đứng ở mũi nhọn của cuộc chiến tranh cứu nước, con người này có một cuộc sống thật đẹp! Càng đẹp theo kiểu “ta phó thân ta với đất trời” chứ không chỉ vì những chức vụ, danh vọng mà ông có được bằng sự dấn thân kia !
Ấy thế mà khi con người ấy nằm xuống, người ta quyết không cho cuộc đời “thương tiếc” ông. Dùng một con rôbốt vô hồn để thực hiện một công vụ táng tận lương tâm là kể tội ông trong điếu văn đọc trước linh cữu người quá cố, người ta đã chà đạp lên truyền thống “nghĩa tử là nghĩa tận” trong đời sống dân tộc. Cái đáng sợ nhất, khủng khiếp nhất chính ở chỗ này đây.
Một giải pháp vô văn hóa, phản tâm linh được thực thi một cách triệt để theo lối “đào tận gốc, trốc tận rễ” khi người ta “trả nghĩa” cho ông “Trưởng ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương” của đảng bằng hành động vô văn hóa đó. Một hành động được hoạch định kỹ càng và đóng dấu ở nơi cao cấp nhất! Từ cách công bố tin ông mất sát kề ngày tang lễ để đồng chí, đồng đội của ông không đến kịp nhằm giảm tối đa số người “thương tiếc” ông tại nhà tang lễ đến chuyện xé bỏ những băng tang đính trên vòng hoa nếu có chữ “vô cùng thương tiếc” và rồi bài điếu văn phản nhân văn, ráo cạn nhân tình không tiền khoáng hậu đi vào lịch sử như một vết nhơ không sao xóa mờ đi được!
Xin chen vào đây một mẩu chuyện : vòng hoa của người viết bài này nhờ một người bạn vốn là lính của tướng Độ mang đến nhà tang lễ. Hai vị CA chặn lại, yêu cầu gỡ bỏ mấy chữ “Vô cùng thương tiếc” .Vị cựu chiến binh là thương binh chiến đấu ở chiến trường Miền Tây cố làm nhẹ sự căng thẳng bằng một đề nghị hóm hỉnh :” thế tôi sửa lại là ”thương tiếc vừa vừa đồng chí Trần Độ nhé“. CA trừng mắt, quát. Xô xát có cơ xảy ra vì anh thương binh “quân của tướng Độ” đã xắn tay áo. Ánh mắt đang đổ dồn về đây. Một vị đeo lon trung tá vừa lịch lãm vừa xử sự rất “có nghề” đã nhanh chóng xin lỗi người cựu chiến binh, vừa gạt tay thuộc cấp định gỡ vòng hoa, rồi mời người cựu chiến binh mang nó cùng đi. Nhưng khi đến gần bậc thềm nhà tang lễ thì anh ta nói “ theo quy định, chúng tôi phải trực tiếp chuyển vòng hoa, đồng chí cứ đứng đây“. Thế rồi y nhấc bổng vòng hoa đi vòng ra phía sau, mất hút!
Gọi điện kể lại, người cựu chiến binh tự hào là “quân của tướng Độ” đó an ủi : “thôi chú ạ, thế là mình cũng đã thể hiện được tấm lòng và ý chí trọn nghĩa vẹn tình với ông ấy, người sẽ đi vào lịch sử. Đến vòng hoa của Đại tướng Võ Nguyên Giáp mà chúng nó cũng đòi bóc, đại tá Huyên quyết liệt đấu tranh, cuối cùng cũng đành chỉ còn hai chữ “thương tiếc“, phải bỏ hai chữ “vô cùng” trên vòng hoa tang của bậc công thần, người anh cả của quân đội cụ Hồ gửi viếng một vị tướng từng chỉ huy Mặt trận quyết tử của Hà Nội mở đầu cuộc chiến tranh giữ nước để rồi có mặt trên tất cả các mặt trận nóng bỏng nhất cho đến khi kết thúc chiến tranh, mà chú!
Có thể ai đó khi hạ lệnh gỡ bỏ những dòng chữ “vô cùng thương tiếc” trên vòng hoa tang đã cạn nghĩ, hoặc mê muội trong nguyên lý khủng khiếp từng thuộc nằm lòng về sự chuyên chính đối với kẻ thù giai cấp, đã không lường trước được hệ lụy cũng khủng khiếp không kém của quyết định dại dột bất cận nhân tình ấy. Trong tâm thức của dân tộc, vết nhơ kia sẽ không có cách gì rửa sạch được. Và nếu như ông cha ta dạy “gươm dơ lấy nước làm sạch, nước dơ lấy máu làm sạch” thì rồi đây lấy gì để rửa vết nhơ lịch sử kia đây? Xét cho cùng, vết nhơ lịch sử này chính là nỗi đau văn hóa.
Đây là điều mà M.Gorki, một thời được mệnh danh là “nhà văn vô sản vĩ đại” từng chiếm lĩnh trọn vẹn các giáo trình lý luận văn học của các trường đại học và sách dạy phổ thông ở nước ta đã từng quyết liệt cảnh báo ngay từ những năm 1917-1918 [đương nhiên là người ta dấu nhẹm sự cảnh báo này] : “Cách mạng đã đánh đổ nền quân chủ, điều đó đúng! Nhưng điều đó có lẽ cũng có nghĩa rằng cuộc cách mạng đã mang chứng bệnh ngoài da vào bên trong nội tạng. Người ta không được phép tin rằng cách mạng đã chữa trị và làm phong phú cho nước Nga về mặt tinh thần. Chính vì vậy, M.Gorki viết : “Đối với tôi, lời kêu gọi Tổ quốc lâm nguy cũng không đáng sợ hơn lời kêu gọi “Hỡi các công dân! Văn hóa bị lâm nguy”!**
Sư suy thoái đạo đức đích thực, chứ không phải sự gán ghép tùy tiện do sự lú lẫn đầy ác ý, là biểu hiện dễ thấy của “sự lâm nguy” này. Sự lâm nguy bắt đầu từ khi người ta “đã mang chứng bệnh ngoài da vào bên trong nội tạng” của cả dân tộc. Càng nguy hiểm hơn khi, thay vì “phải được trui rèn trong ngọn lửa cháy không bao giờ dứt của văn hóa, tinh thần nô lệ đã hằn sâu trong nó phải bị tẩy sạch đi“, thì người ta làm ngược lại, tàn phá văn hóa.
Sẽ quá dài nếu phải liệt kê ra đây sự tàn phá đó khi mà chỉ lẩy riêng ra “một hiện tượng Trần Độ“, nói chính xác hơn, cách ứng xử với ông Trưởng Ban Văn hóa Văn Nghệ Trung Ương Trần Độ khi ông nằm xuống, cũng đã quá đủ để minh họa một cách sống động về điều này.
.
Trong một bài gần đây trên tạp chí “Văn Hóa Nghệ An” ngày 31.7.2013, giáo sư Nguyễn Minh Thuyết lưu ý‎ rằng : “quan sát trong xã hội, đạo đức suy thoái, đúng là chưa bao giờ đất nước ở vào tình trạng như hiện nay. Nói cách khác, trong lịch sử chỉ thời mạt mới xuất hiện những chuyện như thế…”. Ông dẫn trong “Hoàng Lê Nhất thống chí” lời học trò của L‎ý‎ Trần Quán trả lời thầy khi bị ông mắng về tội bắt Chúa Trịnh Tông nộp cho Tây Sơn : “Sợ thầy không bằng sợ giặc, yêu chúa không bằng yêu thân” để đưa ra nhận định : “Có thể nói đó là câu nói điển hình cho sự suy thoái…. Còn về các nước, có thể nói, nếu so sánh, phải thấy là những xã hội có hiện tượng như thế này là xã hội kém phát triển. Xã hội văn minh cũng có những hiện tượng này nhưng nó không bệ rạc, không phổ biến như thế“….Quả đúng vậy. Nhưng để cho trọn vẹn hơn thì xin mạo muội đề nghị giáo sư Thuyết trích thêm một dòng nữa ở trang 106 trong sách nói trên, con người “lừa thầy phản chúa” ấy rồi “được phong làm Tráng Nghĩa hầu thêm chức Trấn thủ Sơn Tây“! Chính cái “được” này mới là động cơ mãnh liệt thôi thúc những chuyện lừa thầy, phản chủ mà giáo sư gọi là “suy thoái” kia.
Những con “rô bốt” vô hồn, dù là cao sang quyền quý, danh gia vọng tộc hay lưu manh chính trị mạt hạng đang nhan nhản khắp nơi, hoặc tác oai tác quái với dân, hoặc lên mặt đạo đức giả đi rao giảng đạo đức lấy đó làm cái lá nho để che đi những xấu xa thối nát quá lộ liễu, hoặc nói một đằng làm một nẻo mất hết liêm sỉ mà dân gian gọi là đã đứt giây thần kinh xấu hổ …xét đến cùng chính là vì cái được ấy! Ngay cả những người đang theo lý thuyết “mắc-kê-nô”, tạm bằng lòng với ngôi nhà vừa tậu, chiếc ô tô đời mới hay cái công ty của con đang làm ăn yên ổn đang xua tay “không muốn động đến chuyện chính trị” thì trong sâu thẳm tâm hồn họ, cái động cơ mãnh liệt kia vẫn đang khởi động.
Xét đến cùng, vâng, xét đến cùng, cái “được” kia, nói chữ nghĩa ra là lợi ích nhận được từ cái cơ chế sản sinh ra những “rôbốt” vô hồn kia chính là chất xi măng gắn kết chúng với nhau vì lợi ích, và cái đem lại lợi ích nhanh chóng nhất chính là quyền lực. Trong bài viết cách đây chưa lâu, người viết này đã nói về quy luật này : Quyền lực thúc đẩy việc mở rộng vô hạn độ quyền lực, và hầu như không có điểm dừng. Nhưng “quyền lực lại có xu hướng tha hóa và quyền lực tuyệt đối thì tha hóa cũng tuyệt đối”(Power tends to corrupt and absolute power corrupts absolutely, có người dịch từ “corrupt” là “tham nhũng” trong những văn cảnh nhất định nào đó).Chế độ toàn trị phản dân chủ là nguyên nhân sâu xa cho cái chuyện “quyền lực tuyệt đối thì tha hóa cũng tuyệt đối ” ấyLiệu lịch sử loài người đã biết có bao nhiêu thứ “quyền lực tuyệt đối” như chê độ toàn trị hiện hành?
Thật ra thì vào cuối những năm 50 của thế kỷ trước, Milovan Dijlas, tác giả của “Giai cấp mới“, một tác phẩm viết trong tù  được bí mật gửi ra nước ngoài và được in ở New York năm 1957 từng phân tích rất rành mạch về chyện này :
Đảng sinh ra giai cấp. Sau đó giai cấp tự phát triển bằng chính nguồn lực của mình và sử dụng đảng như là cơ sởỞ đây, muốn trở thành chủ sở hữu hay đồng sở hữu thì cần phải len được vào hàng ngũ của bộ máy quan liêu chính trị“.
Ông chỉ ra rằng : “Giai cấp mới giống như một hình kim tự tháp : đáy to, càng lên trên càng hẹp dần. Để đi lên, chỉ ý chí không chưa đủ, còn cần phải hiểu và “vận dụng lý luận nữa”, cần phải quyết liệt trong cuộc đấu tranh với kẻ thù, phải cực kỳ khôn khéo khi xảy ra các cuộc tranh chấp trong nội bộ đảng, phải nắm được nghệ thuật, thậm chí tài năng trong việc củng cố vị trí cho giai cấp nữa“.
Vì thế, “cùng với việc củng cố giai cấp mới, khi bộ mặt của nó càng thể hiện rõ, thì vai trò của đảng cũng ngày càng giảm đi. Hạt nhân và cơ sở của giai cấp mới đã hình thành ở bên trong cũng như trên đỉnh quyền lực của đảng cũng như của bộ máy nhà nước. Cái đảng từng có lúc là một tổ chức sinh động đầy sáng kiến, thì nay, đối với những người cầm đầu của giai cấp mới, đảng đã biến thành một vật trang trí, càng ngày chỉ càng kéo vào hàng ngũ của mình những kẻ hãnh tiến, những kẻ muốn nhập vào hàng ngũ của giai cấp mới và đẩy những người vẫn còn tin vào lý tưởng ra“.***
“Hiện tượng Trần Độ” liệu có phải là minh chứng sống động về“những người vẫn còn tin vào lý tưởng” bị đẩy ra một cách quyết liệt, quá sức phũ phàng, cạn tàu ráo máng? Mà phải đẩy ra bằng được, vì lý tưởng cao đẹp của con người ấy đang là vật cản cho quá trình “củng cố giai cấp mới ở bên trong cũng như trên đỉnh quyền lực của đảng, cũng như của bộ máy nhà nước“.
Chẳng có gì khó hiểu và ví ( bí?) ẩn trong chuyện phũ phàng, cạn tàu ráo máng với Trần Độ. Đây là diễn biến logic về sự tha hóa của quyền lực. Nó đồng thời cảnh báo một nguyên lý sẽ được đẩy tới ngày càng hung dữ và bất chấp đạo lý cũng như luật pháp : quyền lực tuyệt đối thì tha hóa cũng tuyệt đối! Chuyện chà đạp lên đời sống tâm linh trong đạo lý nghĩa tình dân tộc chẳng là gì so với chuyện củng cố bộ máy quyền lực khi “cần phải quyết liệt trong cuộc đấu tranh với kẻ thù, phải cực kỳ khôn khéo khi xảy ra các cuộc tranh chấp trong nội bộ đảng, phải nắm được nghệ thuật, thậm chí tài năng trong việc củng cố vị trí cho giai cấp mới đang nắm quyền”!***
Thế thì làm sao chấp nhận được một ủy viên trung ương đảng, một phó chủ tịch Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, lại đòi hỏi :” Đảng Cộng sản phải tự mình từ bỏ chế độ độc đảng, toàn trị, khôi phục vai trò, vị trí vốn có của Quốc hội, Chính phủ. Phải thực hiện đúng Hiến pháp, tức là sửa chữa các đạo luật chưa đúng tinh thần Hiến pháp. Đó là phải có những đạo luật ban bố quyền tự do lập hội, lập đảng, tự do ngôn luận, luật báo chí, xuất bản. Sửa chữa các luật bầu cử ứng cử tự do, từ bỏ quyền quyết định của cơ quan tổ chức Đảng…”.
Càng không thể nào dung nạp được một cách tư duy quyết liệt khi vạch ra rằng :” Không nên lạm dụng chữ cách mạng. Ta bây giờ không phải là cách mạng chống ai cả, không phải đánh đổ ai cả. Xây dựng hoà bình thì phải đoàn kết, có gì trở ngại thì hoá giải nó để tiến lên…không thể lúc nào cũng phải có chương trình hoạt động cách mạng, lúc nào cũng phải hành động cách mạng…
Chính quyền bây giờ không phải là chính quyền cách mạng. Điều đó chỉ có ý nghĩa khi cách mạng vừa mới thành côngNgày nay chính quyền phải là chính quyền xây dựng. Chính quyền xây dựng thì phải có những chủ trương, chính sách làm cho mọi người dân đều được tự do làm ăn. Và từ đó người dân phải có tự do nói, tự do tìm thông tin và trao đổi thông tin. Như thế tự do làm ăn mới thực hiện được… Ở rất nhiều nơi, nhiều lúc, không cần đến cách mạngNhưng ở tất cả các nơi đều cần có tự do, và lớn nhất là “tự do làm ăn” phải có tự do hưởng lợi ích của kết quả sự làm ăn đó.
Nhân dân chỉ muốn tiến hoá, chứ không muốn cách mạng bạo lực! Đất nước ta đã trải qua một thời kỳ lịch sử kéo dài gồm những cuộc chiến đấu chống xâm lược giành độc lập, hoà bình xây dựng, rồi lại bị xâm lược. Và lại chiến tranh chống xâm lược. Qua quá trình đó mà đất nước ta trưởng thành và phát triển. Cho đến nay, đất nước đã được hoà bình độc lập, thống nhất.
Không biết tương lai loài người sẽ phát triển, tiến bộ thế nào và do đó đất nước ta sẽ gặp những tình huống thế nào ? Nhưng chắc chắn là những bước đi sắp tới của ta cũng không có thể lặp lại y nguyên những tình hình trước đây
“Động trời” hơn nữa khi Trần Độ tuyên bố không úp mở : “ Chiến tranh lớn và các hoạt động bạo lực, lật đổ càng ngày càng trở nên lạc hậu lỗi thời…Để có tự do và hạnh phúc, không nhất thiết phải có bạo lực, không nhất thiết phải đánh đổ ai. Thậm chí ngày nay có những nền độc lập giành được cũng không cần có bạo lực và chiến tranh“!
Và rồi, người đứng đầu cơ quan lãnh đạo văn hóa văn nghệ mà lại công khai nói thẳng cái sự thật nghiệt ngã mà hơn nửa thế kỷ qua người ta cố né tránh, bưng bít : “Văn hóa mà không có tự do là văn hóa chết. Văn hóa mà chỉ còn có văn hóa tuyên truyền cũng là văn hóa chết. Càng tăng cường lãnh đạo bao nhiêu, càng bóp chết văn hóa bấy nhiêu, càng hiếm có những giá trị văn hóa và những nhà văn hóa cao đẹp”.
Cách chức, khai trừ đảng là chuyện quá dễ hiểu, không thế mới lạ! Thì chẳng phải đã có một ví dụ quá rõ nét khi Đảng và nhà nước Nam Tư đã bỏ tù tác giả của “Giai cấp mới“, người đã từng được bầu làm Phỏ Tổng thống Liên bang Nam Tư, “cây lý luận hàng đầu” của Đảng Cộng sản Nam Tư đó sao?
Milovan Dijlas từng tuyên bố : “Tôi, một trí thức đã đi trọn con đường mà một đảng viên cộng sản có thể đi. Từ những chức vụ thấp nhất, từ các tổ chức cơ sở cho đến quốc gia và quốc tế, từ việc thành lập một đảng cộng sản chân chính, chuẩn bị cách mạng, đến việc tham gia xây dựng cái gọi là chế độ xã hội chủ nghĩa. Không ai buộc tôi phải tham gia hay từ bỏ chủ nghĩa cộng sản cả. Tôi đã tự quyết, theo niềm tin của mình, một cách tự do…Càng rời xa chủ nghĩa cộng sản, tôi càng tiến gần đến lý tưởng của chủ nghĩa xã hội dân chủ”…
Tư tưởng bình đẳng và bác ái tồn tại cũng lâu như chính loài người, được chủ nghĩa cộng sản ủng hộ trên lời nói, vốn mang trong mình nó sức hấp dẫn vĩnh hằng đối với những chiến sĩ tranh đấu cho tự do và tiến bộ. Sức hấp dẫn mang tính nhân bản của những lý tưởng đó đã làm cho việc phê phán chúng trở thành không chỉ phản động mà còn trống rỗng và vô nghĩa nữa”.
Chính vì thế, người trí thức “đã đi trọn con đường mà một đảng viên cộng sản có thể đi” ấy đã “tập trung mô tả đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản hiến đại…Tất cả chỉ là sản phẩm của thế giới mà tôi đang sống và đang phê phán. Tôi đã thấy và đã trình bày tất cả mà không ngượng ngùng khi thú nhận rằng mình đã là sản phẩm của nó, có lúc đã là người tham gia xây dựng nó và bây giờ là người phê phán nó“. ***
Phải chăng đây là sự” phê phán nó” khi “” đã tự tha hóa, tự biến mình thành công cụ trong tay “giai cấp mới” với lợi ích của chính nó, củng cố chế độ toàn trị phản dân chủ, quay lưng lại với nhân dân? Trong những bức thư Trần Độ gửi lãnh đạo của, đặc biệt là bức thư viết vào cuối năm 1974 dưới bút danh Chín Vinh, đã có bóng dáng của sự phê phán nói trên :” nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội và trong tất cả các tổ chức Đảng, trong bộ máy chính quyền…Điều đó ai cũng thấy. Thế nhưng vấn đề là tại sao nó lại chuyển biến chậm chạp. Sự biến chuyển chậm chạp này đã tạo ra một tình trạng giảm sút lòng tin trong cán bộ, đảng viên, trong nhân dân và đáng ngại nhất là trong thanh niên…Những hiện tượng tiêu cực của xã hội ( và trong Đảng, trong chính quyên) làm vẩn đục sự trong sáng và đẹp đẽ của những lý tưởng, đầu độc những lòng say mê hăng hái có tính chất lãng mạn cách mạng, “sống tiêu cực”, tạo nên “một thế lực xã hội” bao vây và xua đuổi những tâm hồn trung thực”…mọi người trung thực đều nóng lòng mong đó một cái gì đổi mới, chuyển biến gì mạnh mẽ…”.****
Phải chuyển nhanh, phải đổi mới nhanh để khỏi phải chứng kiến những điều đau lòng mà ông nghe được từ người bạn cũ cùng xóm lần ông từ chiến trường về quê sau mười năm xa cách :”cuộc sống ở nhà thật khốn khổ, khốn khổ nhưng không ai dám kêu. Đói đấy phải bảo là no. Có ai hỏi đều nói ” cám ơn bác cũng đủ ăn. Nếu kêu đói tức là thành phần xấu. Ông hỏi người bạn cũ : Được mấy cháu rồi?- Nhờ ơn cách mạng được ba đứa- Sao lại nhờ ơn cách mạng?- Ở chiến trường không biết chứ ở nhà cái gì chả nhờ ơn cách mạng. Nuôi được con lợn to, cưới được vợ cho con, nhất nhất là ơn của cách mạng cả“!
Là người lăn lộn ở chiến trường cùng với chiến sĩ, lặng lẽ ghi những hiện thực thất đáng buồn ở hậu phương, câu chữ ngọn bút ghi lại chạy trên trang giây mỏng hoàn toàn là sự thật, tướng Trần Độ day dứt : “Nếu sự thật này ở tiền tuyến người lính biết được hoàn cảnh sống của cha mẹ vợ con thì cấp trên biết nói thế nào với họ“? **** Trung thực với chính mình, trung thực với cuộc sống, trung thực với lịch sử, chính cái đó tạo ra “hiện tượng Trần Độ”, ở đây “sức hấp dẫn vĩnh hằng đối với những chiến sĩ tranh đấu cho tự do và tiến bộ. Sức hấp dẫn mang tính nhân bản của những lý tưởng đó” bị chính sự dối trá lọc lừa của “quyền lực bị tha hóa” làm cho băng hoại. Bằng sự trải nghiệm của cả cuộc đời dấn thân trọn vẹn cho lý‎ tưởng nhân văn cao đẹp, Trần Độ tỉnh táo nhận ra sự băng hoại khủng khiếp đó.
Trong Nhật ký viết vào những năm cuối đời mà ông gọi “đây là một tấc lòng “để tặng người đời và cuộc đời”. Đây là những ý nghĩ nung nấu trong những tháng cuối năm Rồng và đầu năm Rắn, và cũng là những ý nghĩ nung nấu trước đó hàng chục năm và sẽ còn nung nấu tiếp đến cả khi sang thế giới bên kia. Đây là nỗi niềm cay đắng của một cuộc cách mạng, và của một kiếp người“.
Vấn đề Trần Độ đặt ra đâu chỉ là ý nghĩ của riêng ông. Một xã hội mà công dân không được quyền sống thật, nói thật, nhà văn cũng không được quyền bộc bạch tâm sự riêng tư của mình trên trang giấy là một xã hội không có chân móng. Câu này Nguyễn Khải viết trong “Đi tìm cái tôi đã mât“. Thật đau đớn khi “một dân tộc đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ mà mặt người dân nám đen, mắt nhìn ngơ ngác, đi đứng long rom như một kẻ bại trận. Quả thật dân tộc Việt Nam đã thắng lớn trong phong trào chiến tranh giải phóng nhưng lại thua đậm trong công cuộc xây dựng một xã hội tự do và dân chủ. Thoát ách nô lệ của thực dân lại tự nguyện tròng vào cổ cái ách của một học thuyết đã mất hết sức sống. Dân mình sao lại phải chịu một số phận nghiệt ngã đến vậy! Vẫn là Nguyễn Khải dăn vặt trong “Đi tìm cái tôi đã mất“.
Mà đâu chỉ nhà văn Nguyễn Khải có nỗi dắn văt đó, nhà thơ Chế Lan Viên trong bài “Trừ Đi” cũng từng nói lên nỗi đau dằng xé tâm can :
Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ
Có  phải tôi viết đâu! Một nửa
Cái cần đưa vào thơ, tôi đã giết rồi
Giết một tiếng đau – giết một tiếng cười
Giết một kỷ niệm – giết một ước mơ – tôi giết
Cái cánh sắp bay – trước khi tôi viết
Tôi giết bão ngoài khơi cho được yên ổn trên bờ
Và giết luôn mặt trời lên trên biển – Giết mưa
Và giết cả cỏ trong mưa luôn thể
Cho nên câu thơ tôi gầy còm như thế
Tôi viết bằng xương thôi, không có thịt của mình
Và thơ này rơi đến tay anh
Anh bảo đấy là tôi.
                             Không phải!
Nhưng cũng chính là tôi – Người có lỗi
Đã phải giết đi bao nhiêu cái
Có khi không có tội như mình 
                                             
Chính vì thế, Trần Độ thẳng thắn chỉ rõ :
 ”Tự do là chìa khoá của phát triển.
Tôi nghĩ thế này: nước Việt Nam ta hiện nay, sau bao nhiêu năm đấu tranh và chiến tranh gian khổ, cần phải hoà bình phát triển và cần phải phát triển nhanh, để bù lại những thời gian đã mất, và để theo kịp các nước chung quanh. Đó là mục đích và yêu cầu quan trọng nhất của đất nước. Những cái khác là phụ. Do đó, để phát triển đất nước thì rõ ràng ta phải tìm đường lối nào, học thuyết nào phục vụ được yêu cầu đó. Nếu thật sự coi phát triển đất nước là quan trọng nhất thì Đại đoàn kết dân tộc là quan trọng hơn đấu tranh giai cấp; trí thức quan trọng hơn công nhân và nông dân; phát triển sức sản xuất là quan trọng hơn mọi thứ; để dân làm chủ mọi lĩnh vực quan trọng hơn các trò chuyên chính đàn áp; nghe và thu thập được nhiều ý kiến khác nhau và trái ngược nhau kể cả về đường lối chính sách, quan trọng hơn là bắt mọi người phải tuân theo một quan điểm, một ý kiến“.
Cho nên, đúng là không có gì khó hiểu khi người ta phải khai trừ Trần Độ ra khỏi đảng, rốt raó đến độ khi ông mất lại cạn tào ráo máng cấm không được “thương tiếc ông“. Đây là kế tục thực hiện một nguyên lý‎ cai trị. Thì chẳng thế sao ? Từ những năm 1955, ngay sau giải phóng Thủ đô, thay vì “Khi đoàn quân tiến về là đêm tan dần” như Văn Cao mơ ước, người ta đã “…đem bục công an đặt giữa tim người/ Bắt tình cảm ngược xuôi/ theo luật đi đường nhà nước“. [Thơ Lê Đạt] Chẳng những thế, “phải tạo ra một tình hình chính trị luôn căng thẳng (một cuộc chiến tranh có thể xảy ra, một cuộc bạo loạn có thể xảy ra) để buộc các công dân phải sống trong những quy chế nghiêm ngặt của thời chiến, ở các chế độ toàn trị chỉ có hai cơ quan mà quyền uy bao trùm cả xã hội. Đó là cơ quan tư tưởng, tuyên truyền và cơ quan công an. Một để chặn, một để chống. 
Còn khi đã có chuyện bất thường xảy ra thì chỉ có một biện pháp: đàn áp, bắt giữ, lập toà án xét xử những kẻ cầm đầu. Cách giải quyết vừa nhanh gọn lại mau ổn định, không dây dưa, phiền toái vì có quá nhiều luật lệ, qua nhiều lý lẽ như ở các nước tư bản. Những rối loạn vặt vãnh thật ra là nước là không khí của các nhà cầm quyền độc tài. 
Họ đâu có sợ loạn. Họ còn bày ra những cuộc chiến cung đình như ở Liên Xô và các nước Đông Âu, hay một cuộc chiến giữa nhân dân với nhau như đã làm ở Trung Quốc. Không có mùi vị của thuốc súng, của máu người và những tiếng la hét cuồng nộ của đám đông thì người cầm quyền biết thở bằng gì“…Những câu này là của tác giả “Đi tìm cái tôi đã mất”.
Chính vì thế mà phải “ Nói dối lem lém, nói dối lì lợm, nói không biết xấu hổ, không biết run sợ vì người nghe không có thói quen hỏi lại, không có thói quen lưu giữ các lời giải thích và lời hứa để kiểm tra. Hoặc giả hỏi lại và kiểm tra là không được phép, là tối kỵ, dễ gặp tai hoạ nên không hỏi gì cũng là một phép giữ mình. Người nói nói trong cái trống không, người nghe tuy có mặt đấy nhưng cũng chỉ nghe có những tiếng vang của cái trống không. Nói để giao tiếp đã trở thành nói để không giao tiếp gì hết, nói để mà nói, chả lẽ làm người lại không nói .
 Thật ra nói thế mà vẫn hiểu nhau cả. Người cầm quyền thì biết là nhân dân đang rất bất bình về nhiều chuyện, nhân dân thì biết người cầm quyền đang nói dối, nhìn vào thực tiễn là biết ngay họ đang nói dối. Nhưng hãy mặc họ với những lời lẽ dối trá của họ, còn mình là dân chả nên hỏi lại nói thế là thật hay không thật
Mọi cái khác với chính thống đều bị lên án, mọi cái giống nhau đều được tuyên dương. Vì những cái khác nhau rất khó tạo ra sự nhất trí, còn những cái giống nhau sẽ dễ nghe theo, làm theo mọi mệnh lệnh.
Nhà văn Nguyễn Khải đau đớn đặt ra một câu hỏi : “một môi trường xã hội ngột ngạt vì cái bóng quyền lực phủ lên tất cả, quyết định tất cả thì số phận những cá nhân sẽ ra sao? Vị tướng Trần Độ trả lời câu hỏi đó trong những trang Nhật ký viết ở chặng sắp kết thúc một cuộc đời dấn thân trọn vẹn cho lý tưởng cao cả từ thuở đầu xanh cho đến lúc tóc bạc để đúc kết vào chỉ mỗi một câu thôi :
 Đây là nỗi niềm cay đắng của một cuộc cách mạng, và của một kiếp người“.
Tôi mượn câu này làm một nén hương lòng thắp trước di ảnh của ông nhân ngày Giỗ của người mà tôi kính mến. Tôi là kẻ hậu sinh, quen biết ông quá muộn, được ông xem là bạn vong niên đã là một niềm cảm kích lớn, xin chỉ gợi lại một kỷ niệm nhỏ với ông. Hôm ông đến chơi, ông trách tôi : “anh tệ thật, không thèm gửi sách cho tôi”, vừa nói ông vừa đến bên giá sách và chỉ vào cuốn “Khảo sát xã hội học về phân tầng xã hội” đã in cách đó 5 năm. Tôi choáng người, vội xin lỗi và thanh mình : “Chết tôi rồi, tôi đã gửi biếu anh ngay sau khi nhận được từ nhà xuất bản về. Tôi còn nhớ rõ, cuốn đánh số 4“. “Sao? Đánh số? lại số 4″, ông ngạc nhiên hỏi.
“Vâng, chính vì thế mà tôi nhớ rõ mà. Duyên do là cuốn sách ấy chỉ là toàn bộ bản báo cáo về cuộc khảo sát xã hội học ở Thái Bình mà Anh đã hỏi chuyện tôi khi gặp anh tại nhà khách tỉnh ủy sau đó một năm nay hoàn chỉnh lại về văn phong, câu chữ để đưa in. Tuy đã được Hội đồng nghiệm thu cấp Nhà nước chấp thuận, nhưng khi đưa in thì Nhà xuất bản đòi bỏ một số đoạn. Tôi từ chối. Giằng co mãi, cuối cùng anh Nguyễn Duy Quý xử lý một cách rất cao tay : in và lưu hành nội bộ. Tôi đồng ý ngay. Chỉ cần in, còn lưu hành nội bộ thì càng tốt, đó là một cách quảng cáo cho sách. NXB chơi chua : chỉ in 100 cuốn và đánh số từ 1 đến 100, gửi cho ai thì phải ghi tên người đó và số của cuốn sách (!). Cuốn này, tôi gửi cho anh HTK, sau khi anh ấy mất, tình cờ đến chơi nhà, thấy cuốn sách nằm lăn lóc trong đống sách cũ, tôi xin lại đem về đặt vào đây, cuốn sách mà anh đang cầm trong tay đó, vì còn cuốn cuối cùng trên giá sách này thì một người bạn thân cầm về rồi “quên” chưa trả”.
Ông trầm ngâm đưa trả cuốn sách không nói gì. Một lần khác, cùng ông lên chơi nhà Thu Bồn ở “Suối Lồ Ồ”, đến nơi thì đã tối tròi, khi bước xuống xe thấy ánh đèn flash lóe sáng. Ông cầm tay tôi nói to với các bạn cùng xuống xe : “đứng lại để người ta chụp ảnh đã, chụp xong rồi hãy vào nhà“, mọi người cười ồ. Lúc ăn cơm, tôi nhắc với ông để in lỗi vì chưa đi photo cuốn sách để gửi đến ông nhưng nói thêm là sách lạc hậu rồi, anh đứng mất thì giờ đọc làm gì. Ông cười và yêu cầu gửi gấp, câu này ông nói hơi to. Thế là, sáng hôm sau, một người học trò cũ của tôi, nay là “nhà báo”, người ngồi cạnh tôi tối qua ở nhà Thu Bồn và bả lả vui vẻ : “em tình cờ thấy thầy và theo vào đây, vui quá, thầy cho phép em ngồi chứ“, bỗng bất ngờ đến chơi. Thầy trò gặp nhau vui vẻ, anh ấy xuống bếp mươn mấy cái đĩa, lôi từ trong túi giấy ra mấy thứ bánh lá “em biết thầy vẫn thích loại bánh này nên mang đến thấy dùng bữa sáng“. Vừa ăn bánh, vừa hàn huyên bao chuyện cũ, anh học trò hạ giọng, “thầy ơi, cuốn sách thầy đinh photo biếu bác Độ, thấy có thể cho em xem được không ạ”.Biết việc anh ấy phải làm và mục đích của bữa ăn sáng, tôi kéo anh ta đến giá sách, lôi cuốn sách ra đưa cho anh và nói : “Mình nhờ cậu đi photo giúp mình, quả thật mình cũng đang định làm chuyện này nhưng bận quá. Cậu photo cho mình 2 cuốn, một mình giữ lại, một đưa biếu ông Độ, còn lại cậu muốn photo ấy bản đủ cho công việc của cậu thì tùy“! Người ta “chăm sóc” ông Độ thật chu đáo.
Nhưng rồi bộ sách”Trần Độ. Tác Phẩm tập 1, 2,3″ do NXB Hội Nhà Văn in rất đẹp cũng đã ra mắt bạn đọc. Dành thì giờ đọc lướt qua mấy nghìn trang sách, nhưng những lời, những đoạn tôi trích ra trong bài viết này thì không có ở trong đó.Thôi thì chăc là ai đó đang sực nghĩ đến những bước đi của lịch sử và sự sòng phẳng của lịch sử. Ngạn ngữ phương tây có câu : “Không có vĩ nhân dưới con mắt của kẻ hầu phòng“. Người hầu phòng mẫn cán và thông thạo nghiệp vụ chỉ cần đánh giá khách hàng của anh ta thông qua đẳng cấp căn phòng mà khách thuê và số tiến bo anh ta sẽ nhận được từ hầu bao của vị khách.
Sực nhớ đến “Lời” trong “Bơ vơ Đông đảo” của Việt Phương :
Những người lính trẻ ngã xuống ở Lạng Sơn
                   không liên quan gì đến ngày hôm nay nữa
Chỉ còn lo toan những ghế nhỏ lên ghế to
                    xe cúp lên ô tô chung cư lên biệt thự
                              trong cuộc đòi bơ sữa mà thôi. 
Vậy thì người lính Trần Độ, tướng Trần Độ, nhà văn hóa Trần Độ liệu có “bơ vơ” giữa cuộc đời “đông đảo” này không nhỉ?
Tôi tìm thấy trong tâp thơ “Nắng” của Việt Phương với đề từ “đời đang đón đợi để đong đầy” vừa nhận được hôm qua hai câu :
Mong sao được là người mê muội
Lặn xuống sâu đắm đuối gặp chân trời
                                                                                                      Sài Gòn 8.8.2013
Source : Blog Nguyen Trong Tao 
_______________________
Roger Pearson, (2005), Voltaire Almighty, London: Bloombury Publishing. Tr. 66 – 67.
** Maxim Gorky Những ý tưởng không hợp thời đăng trên nhật báoNovaja Žizn (Đời Mới) trong những năm 1917-1918.  NXB Surkamp               taschenbuch của Đức ấn hành năm 1974.
     ***Những đoạn có *** đều trích trong “Giai Cấp Mới” của Milovan Dijlas
     **** Những đoạn có **** đều trích trong “Chuyện Tướng Độ” của Võ Bá Cường. NXB Quân Đội Nhân dân

7/8/13

Trần Doãn Nho - Tự Lực Văn Đoàn và chuyện văn phong





“- Trời muốn trở rét…
Nói xong và nghe tiếng mình nói, Trúc nhớ lại rằng câu ấy chàng đã thốt ra nhiều lần, năm nào cũng vậy. Sự rung động êm ái và hiu hắt buồn trước cơn gió lạnh đầu tiên khiến vẻ mặt Trúc trở nên dịu dàng và thoáng trong một giây chàng sống lại hết cả những ngày mới trở rét trong đời.”
(Đôi bạn)
“Trời lạnh”, “trời rét” là sự kiện. “Trời trở rét” nghe đã khác. “Trời muốn trở rét” lại càng khác hơn và trở thành một cái gì riêng của Nhất Linh. “Sự rung động êm ái và hiu hắt buồn” lại càng riêng hơn nữa.
Cũng là trời rét, nhưng Dương Nghiễm Mậu viết khác hẳn:
Trời trở rét làm cho nền trời co nhàu lại, mọi người đi đứng một cách nhẹ nhàng như con mèo khôn khéo lựa mình chui vào lần chăn trong đêm mùa lạnh” (Tuổi nước độc)
Những cái khác, cái riêng đó tạo nên một hiện tượng ngôn ngữ gọi là văn phong.
Mô tả thân xác một con người ta có nhà sinh lý học, mô tả trăng sao, ta có những nhà thiên văn học, mô tả cây cỏ sông núi, ta có những nhà địa lý học, nói chuyện đạo đức thì có những nhà tu hành, chuyện học hành thì có những nhà giáo dục. Những cách viết đó, ta cần sự kiện, cần chi tiết, cần tài liệu và tất nhiên cần văn phạm, cú pháp, nhưng không cần một cái gì quá riêng gọi là văn phong. Nhưng viết văn thì cần văn phong. Hay nói một cách khác, chỉ có văn phong mới tạo nên những nhà văn.
Có lẽ ông Buffon là người đầu tiên bàn về văn phong trong nghệ thuật viết văn. Trong bài diễn văn Discours sur le style[1] đọc trước Hàn Lâm Viện Pháp vào tháng 8/1753, Buffon đưa ra một lời phát biểu đã đi vào lịch sử: Văn tức là người (Le style, c’est l’homme). Nhận xét này – theo Nhất Linh[2], do Phạm Quỳnh dịch ra tiếng Việt – trở thành danh ngôn bàn về chuyện viết văn, thực ra khác với nguyên văn. Nguyên văn của nó là: Ces choses sont hors de l’homme, le style est l’homme même.[3] Những sự vật này (tức là lượng kiến thức, những sự kiện độc đáo…) thì nằm ngoài con người, nhưng văn phong chính là con người. Theo tôi hiểu, văn là để diễn tả sự vật, nhưng không phải là sự vật, mà nó là sản phẩm của chính con người. Nói cách khác, con người không tạo ra sự vật, nhưng tạo ra văn phong. Văn phong, do đó, mang tính cách người. Tính cách người nói chung chứ không phải là cá tính nhà văn. Tất nhiên, văn phong có thể phản ảnh một phần nào đó con người riêng tư của nhà văn, nhưng không có nghĩa là phản ảnh tính tình, phẩm cách nhà văn. Viết hung bạo không có nghĩa là nhà văn ấy tính tình hung bạo, viết thanh cao không có nghĩa là tính tình nhà văn ấy thanh cao, viết bạo về tình dục không có nghĩa là nhà văn ấy đa dâm. Biến sự vật bên ngoài, qua trung gian của những con chữ, thành một cái gì để con người thưởng thức, lưu giữ, xúc động và hành động…chính là văn phong.
Quan niệm của Nhất Linh và Thạch Lam về chuyện viết

Nhất Linh bàn khá kỹ về vấn đề văn phong trong Viết và đọc tiểu thuyết [4]. Theo ông, "Văn tức là người" là một câu vắn tắt chỉ cốt bày tỏ rằng: mỗi người có một lối văn khác biệt, không ai giống ai. Tâm hồn nhà văn, ý tưởng cùng sở thích riêng của từng nhà văn không ít thì nhiều cũng biểu lộ ra trong lối hành văn, người đọc có thể nhận được nếu tinh ý (…) Nói tóm lại "con người" của nhà văn thế nào cũng biểu lộ ra trong văn, không sao giấu giếm được.
Tuy thế, Nhất Linh khẳng định: “Trong tiểu thuyết, không cần văn chương”. Vì “văn trong tiểu thuyết là thứ ít quan trọng nhất.” Theo ông, “đặt văn chương lên một bực quá ư quan trọng trong tiểu thuyết” là một điều sai lầm. Ông cho đó là một thành kiến văn chương, và chính cái thành kiến văn chương đó đã cản trở nước ta không có những truyện hay. Để viết được một cuốn truyện, cái chính là “có những chi tiết, việc xảy ra hay, nhận xét đúng, hiểu biết thâm thúy cuộc đời và sự rung động tế nhị; những cái ấy mới khó, nghìn vạn người mới có một. Viết xong chỉ việc nhờ người sửa lại cho đúng mẹo, đúng chính tả, chấm câu cho mạch lạc; việc này có hàng vạn người làm nổi. Những mánh khóe về viết: đặt câu cho khỏi sai mẹo, chỗ nào nên xuống dòng, nên chấm phẩy, chấm câu, chỉ ít lâu là thâu thái được, không khó gì.” Ông cho rằng “đức tính” của một tiểu thuyết gia là: một linh hồn phức tạp, dồi dào, dễ rung động, một bộ óc có trí nhận xét, quan sát tinh vi, hơn cả những người có học rộng (bởi vì học rộng đến đâu cũng không làm cho tâm hồn mình dễ cảm xúc hay nhận xét giỏi hơn).”
Để chứng minh cho luận điểm này, Nhất Linh dẫn chứng tài kể chuyện của những ông đồ, ông khóa, theo đó, “Chỉ bằng vài nét nho nhỏ, những người đó đã làm cho các nhân vật như sống dưới mắt ta với cả những việc xảy ra trong đời sống hằng ngày với tất cả cái phức tạp xấu lẫn đẹp của cuộc đời. Lúc họ kể chuyện họ tự nhiên, họ thành thực, họ chính là họ (…) Chính tôi đã được nghe một bà kể lại cho nghe một chuyện vừa xảy ra, bà ta kể một cách linh động và rất dí dỏm đến nỗi tôi thấy tôi cố rán sức viết lại cũng không thể nào hay hơn được. Bà ấy thực đã "viết tiểu thuyết" bằng lời nói, bà đã "viết văn" bằng lời nói.”
Dẫu văn “không giữ địa vị quan trọng trong tiểu thuyết nhưng tiểu thuyết vẫn có văn.” Văn, theo Nhất Linh, là “xếp đặt chữ, hoặc xếp đặt câu theo một thứ tự nào để chữ và câu diễn được đúng cái ý mình định diễn tả.” Ông đề cao cách viết giản dị. Thế nào là giản dị? Giản dị là viết “như lời nói thường, càng giản dị, càng không có văn chương càng hay. Khi nhìn thì nói nhìn, đi thì nói đi, quả tim đập thì nói quả tim đập v.v…”. Ông cho rằng điều quan trọng là “tìm ra được những chi tiết hay”. Nếu không tìm ra được những chi tiết hay thì “có nắn nót đến mấy đi nữa văn vẫn là văn trống rỗng, không đánh lừa được ai.” Nói tóm lại, khi mình đã có được cái chính (nhận xét đúng, nhìn đời một cách riêng biệt, tìm được những chi tiết hay, v.v…) thì mình sẽ thành được một văn sĩ có tài, còn văn chương chỉ là thứ phụ thêm vào.
Chính trong quan điểm đó, ông thích Tolstoï vì “lối văn của Tolstoï lúc nào cũng trong sáng giản dị như lời nói thường mà vẫn sâu sắc vô cùng.” Và ông không mấy thích Dostoïevsky, vì “Lối văn của Dostoïevsky nặng nề khó hiểu, loanh quanh”. Ông nhận thấy “Sự băn khoăn của Tolstoï (nhất là khi ông trở về già) khác hẳn sự quằn quại bệnh hoạn của Dostoïevsky”.
Trong một cái nhìn như thế, Nhất Linh không thích những nhà văn “cách tân” sau này. Ông gọi họ là “những nhà văn lập dị", chỉ chú trọng quá về mặt hình thức. Ông quả quyết: “Hình thức của họ chỉ là một thứ hình thức kỳ quặc để cốt độc giả chú ý và tưởng họ thâm thúy. Nhưng độc giả họ tinh khôn lắm, không dễ bị ai đánh lừa và lối văn lập dị hiện nay chẳng bao lâu cũng sẽ biến mất.” Ông khen họ là có đầu óc tìm tòi cái mới lạ, nhưng theo ông, văn phong chỉ là cái vỏ bề ngoài. Mà “cái vỏ ngoài thì dù đẽo gọt chạm trổ khéo đến đâu, làm cho nó lạ mắt đến đâu, cái vỏ bao giờ cũng chỉ là cái vỏ.” Nhất Linh kết luận về văn phong: “Tuyệt đích, đối với tôi là viết giản dị mà không lạt lẽo, rất bình thường mà vẫn sâu sắc, giọng văn hơi điểm một chút khôi hài rất nhẹ, kín đáo.”
Viết và đọc tiểu thuyết, được viết từ 1952-1960, không phải là một lý thuyết văn học, hiểu như một quan điểm được soạn thảo nhằm xây dựng và hướng dẫn một khuynh hướng văn học, mà chỉ là một tổng kết kinh nghiệm về việc viết (và đọc) tiểu thuyết của chính ông, đồng thời “giúp đỡ một phần nào vào sự cố gắng của hàng nghìn hàng vạn các anh chị em có chí muốn tiến trên đường văn nghệ”, nhất là những ngườimới bước chân vào làng văn.”
Trước đó khá lâu, Thạch Lam, trong Theo giòng, vài ý nghĩ về văn chương[5], đã bàn về việc viết và đọc tiểu thuyết. Cũng như Nhất Linh, Thạch Lam cho rằng “văn tức là người”. Ông viết: “Theo ý tôi, một tác phẩm nào của nhà văn cũng có một chút ít nhà văn trong ấy; muốn dùng danh từ gì mặc lòng, tả chân, khách quan, hay chủ quan, cái bản ngã của tác giả cũng lộ ra trong những câu văn tác giả viết.” Thạch Lam nhấn mạnh đến vai trò của tâm hồn. Theo ông, “tài năng không phải ở cách xếp đặt các câu văn, xếp đặt cốt truyện cho có mạch lạc; cái thực tài của nhà văn nguồn gốc ở chính tâm hồn nhà văn; một nghệ sĩ phải có một tâm hồn phong phú những tình cảm dồi dào. Nếu không, nghệ sĩ đó chỉ là thợ văn khéo mà thôi.”[6]
Cũng như Nhất Linh, Thạch Lam chuộng sự thành thật, xem thành thật là tiêu chuẩn để trở thành nhà văn. Một nhà văn “không thành thực, không bao giờ trở nên một nhà văn có giá trị. Không phải cứ thành thực là trở nên một nghệ sĩ. Nhưng một nghệ sĩ không thành thực chỉ là một người thợ khéo tay mà thôi.”[7] Tại sao phải thành thực? Vì “Sự thật bao giờ cũng giản dị và sâu sắc”[8] Trong tiểu thuyết, xây dựng một nhân vật hoàn toàn quá, thánh thiện quá, chỉ đó chỉ là loại phường tuồng. “Một nhân vật hoàn toàn là một nhân vật không thực” và gọi cái “hoàn toàn” đó là một thứ “hoàn toàn” lạnh lẽo, theo ông.[9]
Tuy nhiên khi bàn về cách viết, Thạch Lam khác với Nhất Linh. Trong lúc Nhất Linh quả quyết rằng “văn trong tiểu thuyết là thứ ít quan trọng nhất” và do đó, “đặt văn chương lên một bực quá ư quan trọng trong tiểu thuyết” là một điều sai lầm thì với Thạch Lam, “Bên ta, có bao nhiêu người viết văn, tưởng mình là văn sĩ, là thi sĩ một cách quá dễ dàng. Họ làm thơ để có một bài thơ, viết truyện để có một quyển truyện. Họ không muốn một tý cố công nào, họ viết thế nào xong thôi, thế nào cũng được. Làm thợ, đi buôn còn phải khó nhọc, còn phải học nghề; tại làm sao viết văn lại không muốn học, không muốn cố?” Những người này, theo ông, “cái gì cũng viết, chỗ nào cũng đăng, làm cho ta chán nản”. Ông tán đồng ý kiến của André Gide khi nhà văn Pháp nổi tiếng này cho rằng “Nếu họ viết ít đi, ta sẽ thấy thích viết hơn” vì, theo Gide, trong chuyện viết, “Có hai mươi cách diễn đạt ý tưởng, nhưng chỉ có một cách là đúng”. Thạch Lam, trong khi chê bai loại nghệ sĩ mà ông gọi là “thợ văn khéo” nhưng thiếu tâm hồn, lại nhấn mạnh về vai trò quan trọng của việc viết văn: “Trước khi đến được cách đúng ấy còn phải bao nhiêu ngày giờ, bao nhiêu khó nhọc, bao nhiêu công tìm. Mà cũng có khi chỉ cần đến chỗ đúng mà thôi. Những nhà văn giá trị ít khi mình lại tự bằng lòng mình. Mỗi câu văn viết ra thường là một dịp cho họ ân hận, băn khoăn.”[10]
Về cách viết văn, tôi đồng ý với Thạch Lam.

Văn phong: cuộc phiêu lưu của chữ

Văn phong, nói chung, là cách viết. Tất nhiên là viết thì phải có câu, có kéo, phải nắm vững từ ngữ, ngữ âm, các quy tắc tu từ của ngôn ngữ, biết cách mô tả các chi tiết, vân vân, tức là biết cách dùng câu, chữ cho phù hợp với sự kiện, hoàn cảnh và nhân vật. Nhưng viết như thế nào không phải là điều đơn giản. Tôi hoàn toàn tán đồng ý kiến của Nhất Linh khi ông cho rằng “đức tính” của một tiểu thuyết gia là “một linh hồn phức tạp, dồi dào, dễ rung động, một bộ óc có trí nhận xét, quan sát tinh vi” nhưng hoàn toàn không tán đồng lối nói khẳng định của ông “Trong tiểu thuyết, không cần văn chương”. Nhận xét này có gì mâu thuẫn với những nhận xét khác, cũng của Nhất Linh, theo đó, viết hay là “tả đúng sự thực”, “diễn tả được một cách linh động” các trạng thái phức tạp của cuộc đời, đi thật sâu vào sự sống với tất cả những chuyển biến mong manh, tế nhị của tâm hồn”. “Tả đúng”, “diễn tả được một cách linh động” chính là văn phong hay theo cách dùng chữ của ông, “văn chương”. Với văn phong, ta mới có thể biến những cái – theo cách nói của Nhất Linh – “giản dị mà không lạt lẽo, rất bình thường mà vẫn sâu sắc”, những cái “mông lung bí ẩn của tâm hồn” thành hiện thực. Nếu như thế, theo tôi, viết không đơn giản chỉ ghi lại trung thực những gì xảy ra rồi “nhờ người sửa lại cho đúng mẹo, đúng chính tả, chấm câu cho mạch lạc” là xong.
Nhất Linh đưa ra những người có tài kể chuyện như là bằng chứng cho luận điểm của ông. Thực ra, kể chuyện (hay) hoàn toàn khác với viết (hay). Kể chuyện cũng như diễn kịch: có tiếng nói, có âm thanh, có thái độ, cử chỉ cụ thể, có bày tỏ cảm xúc; những yếu tố này góp phần làm cho lời kể – những con chữ nói ra – trở nên sống động. Tuy nhiên, khi viết lên giấy, tức là sử dụng những ký hiệu vô hồn, thì mọi điều khác hẳn. Viết làm sao cho những ký hiệu này có âm thanh, có màu sắc, gây nên cảm xúc vân vân đòi hỏi phải vận dụng chữ một cách nào đó, vừa phản ảnh những trạng thái phức tạp của tâm hồn vừa truyền đạt chúng đến người đọc. Văn phong quan trọng ở chỗ đó. Không tạo nên được một văn phong cần thiết thì không thể có văn chương, dù tâm hồn của anh có phong phú, sâu sắc đến đâu chăng nữa!
Hãy đọc một đoạn văn bình thường, rất bình thường của Nhất Linh:
Bóng chiều sẫm dần dần; không khí mỗi lúc một trong hơn lên, trong như không có nữa, mong manh như sắp tan đi để biến thành bóng tối. Một mùi thơm nhẹ thoảng đưa, hương thơm của tóc Loan hay hương thơm của buổi chiều? Mắt Loan lặng nhìn Dũng, nàng nói:
- Em nghe thấy tiếng sáo diều ở đâu
Dũng đặt tay vào rá đậu ván tìm mấy chiếc lá lẫn trong quả đậu.
- Tôi thích trước cửa buồng có một giàn đậu ván vì hoa đậu ván đẹp
Loan đáp:
- Hoa đậu ván màu tim tím…
Nàng nói câu ấy, tiếng khẽ quá như sợ hãi điều gì. Một bàn tay Loan rời cạnh rá, đặt gần tay Dũng. Mấy ngón tay thong thả cời những quả đậu lên lại bỏ xuống. Dũng nghĩ nếu lúc này đặt tay mình lên tay Loan và nắm lấy, Loan sẽ yên lặng: Loan, cũng như chàng, chắc sẽ phải cho thế là một sự tự nhiên. Một giây phút đợi chờ.
Đoạn văn này tả sự kiện “tình trong như đã” của hai nhân vật Loan và Dũng trong “Đôi bạn”. Câu kéo rất đơn giản, không có gì cầu kỳ, tưởng như cầm bút lên là viết được. Nhưng không phải thế! Đọc một đoạn văn như thế, người ta thường có cảm giác rằng có một Loan đàn bà và một Dũng đàn ông đang đứng gần nhau, rằng có mùi thơm, rằng có tiếng sáo diều, rằng có hoa đậu ván màu tim tím và nhất là tưởng rằng có bàn tay của Loan đặt gần tay Dũng và Dũng muốn đặt tay anh ta lên tay Loan, vân vân và vân vân. Thực ra, tất cả chỉ là cách sắp chữ: từ “mong manh như sắp tan”, “lặng nhìn”, “hoa đậu ván màu tim tím”…cho đến “tiếng khẽ quá như sợ hãi điều gì”, “thong thả cời những quả đậu lên rồi bỏ xuống”, “Loan sẽ yên lặng”, “một giây phút đợi chờ”. Nhà văn đã dùng văn phong của riêng mình, để tạo cho ta cái cảm giác (rất thật) rằng có những sự kiện như thế. Nhà văn đã dùng cái giả để tạo ra cái thật. Chính Nhất Linh, khi đề cập đến kỹ thuật viết trong các tác phẩm “luận đề” của mình, cũng thú nhận: “Độ ấy tôi chỉ coi nhân vật như những quân cờ để đánh một ván bài, họ không phải là cái chính và chỉ dùng những chi tiết nào lợi cho cái ý chứng tỏ của mình không theo sát cuộc đời thực là mục đích chính của tiểu thuyết mà đổi cuộc đời thực đi để lại luận đề của mình.”[11]
Thực ra, theo tôi, không những nhân vật mà tất cả các chi tiết nêu ra đều là “những quân cờ” và điều này diễn ra không chỉ trong những tác phẩm luận đề, mà trong tất cả các cuốn tiểu thuyết khác của Nhất Linh. Viết là chọn cách viết, là sử dụng chữ để mô tả những gì mà mình cho là cần thiết. Có lẽ vì thế mà Huỳnh Phan Anh có một cái nhìn rất khác về Nhất Linh trong “Bướm trắng”: “Bướm trắng  không chỉ là một cuốn sách thêm vào số lượng tác phẩm của Nhất Linh. Nó còn thể hiện ước muốn tích cực của người viết, viết chống lại những gì mình đã viết, viết không có nghĩa là viết lại một tác phẩm nào đó đã viết, viết khác đi, viết như thế tác phẩm mình chưa hề hoàn tất, cũng chưa hề bắt đầu và chỉ đang hứa hẹn”.[12] Cũng ở điểm này mà Phan Huy Đường cho rằng “văn không là người” vì cùng một người có thể có nhiều văn phong khác nhau. Ông viết: “Văn không là người, nó hiện-thực dưới dạng ngôn-ngữ quan-hệ của một người với thế-giới ở một thời điểm nhất định của đời mình trong một vấn đề và một hoàn cảnh lịch-sử nhất định của loài người.”[13]
Khác với cách nhìn của Nhất Linh, tôi nhận thấy chính văn phong của Nhất Linh đã tạo nên Nhất Linh, chứ không phải là những điều linh tinh khác.
Cách viết của mỗi tác giả ở mỗi tác phẩm, với tôi, là một điều bí ẩn. Cái lạ là, nó không có gì bí ẩn cả. Cũng chừng ấy chữ, cũng chừng ấy dấu chấm, phẩy, ai cũng viết ra được. Thế mà không phải ai cũng viết ra được như thế. Lại càng không bắt chước được. Nếu muốn viết thì rồi cũng viết ra được một cái gì đó, nhưng một là, nó nhạt nhẽo, vô hồn, hai là nó không giống ai. Chẳng thế mà Thạch Lam bảo viết một câu văn ra không dễ, mà phải học, phải tìm, phải cố. Cách viết văn đâu chỉ là cái mẹo về văn phạm, ngữ pháp! Vì như Nhất Linh nói, văn, có người viết điềm đạm, có người viết, hóm hỉnh, có người viết nặng nề, có người viết tối tăm, bí hiểm…Cái điềm đạm, hóm hỉnh hay nặng nề, bí hiểm đó đến từ đâu nếu không biểu lộ qua cách viết. Tôi gọi đó là hơi văn, hay nói giản dị hơn, hơi chữ. Hơi chữ khác từ tác giả này đến tác giả khác. Đôi khi cùng một tác giả, mà mỗi bài, mỗi truyện hay thậm chí mỗi đoạn lại có một hơi khác nhau. Cũng có bài, ta không thấy có hơi. Trong lúc đó, có một số tác giả, văn của họ tỏa ra một hơi hướm riêng biệt vì có cách hành văn khác thường, độc sáng. Có khi, cách viết làm cho ta say mê đến nỗi quên cả cốt truyện và nhân vật. Hơi văn, hơi chữ có thể không quyết định chuyện hay, dở của một tác phẩm nhưng nhất định nó đóng góp phần riêng rất lớn của nó vào đó.[14]
Trong cuộc thăm dò sự vật và tương quan giữa con người và sự vật, tiếc thay và cũng vui thay, chúng ta không có cách nào, không có phương tiện nào khác ngoài những con chữ. Nhân vật, sự kiện, thái độ, tiếng khóc, nụ cười, nỗi buồn, niềm vui cho đến trăng, sao, mây, nước, gì gì thì cũng phải qua chữ. Đau cũng phải dùng chữ mà đau, nhớ thì cũng phải dùng chữ mà nhớ. Khi bàn về một tiểu thuyết hay một truyện ngắn, ta thường bàn về nhân vật, về cốt truyện, về sự kiện, về tư tưởng, tưởng như không có chúng sẽ không có văn chương. Ta quên rằng chất liệu để chúng thành hình là chữ, hay nói cho đúng hơn là cấu tạo chữ, là xếp đặt chữ làm sao để cho chúng trở thành những sinh thể. Ấy thế mà, ta chỉ có vài chục chữ cái, khoảng chừng vài ngàn từ vựng và một số rất giới hạn các dấu chấm câu! Chính vì thế, văn phong theo tôi, – xin dùng lại một chữ của Paul Ricoeur – là “một cuộc phiêu lưu của chữ” (aventure du mot).[15] Phiêu lưu vì trong văn chương, người ta dùng cái giới hạn của chữ để nói lên những điều vô hạn của cuộc đời. Không phiêu lưu thì văn phong chỉ là một trò vẽ chữ vô hồn.
"Chuyến tầu đêm nay không giống như mọi khi, thưa vắng người và hình như kém sang hơn. Nhưng họ ở Hà Nội về! Liên lặng theo mơ tưởng, Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo.
Con tầu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn các vầng sáng ngọn đèn của chị Tý và ánh lửa của bác Siêu. Ðêm tối vẫn bao bọc chung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và yên lặng." (Hai chị em/Thạch Lam).
“Con tầu như đã đem một chút thế giới khác đi qua.” Với một cách sắp chữ độc đáo như thế, câu văn đọc lên nghe vang vang cả một trạng thái tâm hồn phức tạp: ước ao, tiếc nuối, buồn, tuyệt vọng…
Nhà văn, như thế, không viết chữ mà điều động chữ, hà hơi thở sống vào trong chúng. Và khi cần, họ bất chấp văn phạm, mẹo luật. Họ vượt ra ngoài những quy tắc ngữ pháp thông thường. Họ lệch chuẩn. Chẳng thế mà Henry de Montherlant (1895-1972), nhà văn Pháp, phát biểu:“ Nhờ sự táo bạo dám phạm những lỗi văn phạm mà chúng ta có được những nhà văn lớn.”[16] Đúng thế, trong cuộc phiêu lưu của mình, chữ có khi như muốn phá tung mọi xiềng xích của ngữ pháp, mẹo luật. Chúng muốn được giải thoát, tự do. Trong một số trường hợp, câu thúc chữ sẽ đồng nghĩa với câu thúc trí tưởng tượng và câu thúc ham muốn diễn tả. Cái lạ là: dường như càng ra ngoài vòng cương tỏa của cú pháp, càng “lệch chuẩn”, thì chữ có lúc lại càng phản ảnh được nhiều hơn bản chất của sự việc, sự vật và cảm giác.
Thật lâu. Trong tối. Rồi khóc một mình, khóc ngồi lên, khóc xuống giường, khóc chân đất đi ra (…) Nàng đưa chúng trở lại bàn. Kéo ghế. Ngồi xuống. Hai bàn tay trắng muốt của nàng, ngón út cong lên, khởi sự cuốn dần những cuốn bi tròn trĩnh. Xong. Nàng nhặt từng cuốn, nhúng vào nước chấm. Và bắt đầu ăn. Nàng ăn, đói bụng, đẹp mắt, ngon lành, phúng phính, đầy miệng. Và vừa ăn vừa khóc tiếp (Một truyện rất ngắn/Mai Thảo)
Ở những đoạn văn như thế này, Mai Thảo bóc chữ khỏi câu, bóc câu khỏi đoạn. Chữ, như bị nén lại. Một chữ hay một cụm chữ bây giờ chứa đựng nhiều chữ khác. Cái ngắn tạo nên cảm giác bứt rứt, bồn chồn. Những dấu chấm và dấu phết bây giờ không mang giá trị của những ngắt quãng mà là những âm vang, những dồn nén. Chúng là những ý tưởng không nói ra. Chúng trở thành những con chữ dấu mặt. Ở đây, quy luật văn phạm chào thua. Không có. Không cần có. Chính cái không cần đó lại làm giàu thêm nội dung của con chữ.
Tả một người thổi kèn, Dương Nghiễm Mậu viết: “một lần da sần sùi không hơi nóng, không thoi thóp thở, một thứ gì sượng sần, nhớp nháp, tim tôi đập mạnh, mồ hôi đổ nóng, má tôi chạm vào một lần đất sỏi khô. Một điệu kèn ré lên buốt nhức (…) Tiếng kèn thấu vào lục phủ ngũ tạng hắn, như một nhịp điệu man rợ, như ngọn lửa nhiệt đới oằn oại, dấy lên những đam mê, dục lạc, những thèm khát đớn đau của thân phận nhược tiểu. (Dương Nghiễm Mậu/Buồn vàng).
Thoi thóp thở, sượng sần, nhớp nháp, man rợ, oằn oại, thèm khát đớn đau…Dương Nghiễm mậu tận dụng tính chất cụ thể, gợi hình của hình dung từ. Câu văn tạo cảm giác.
Túy Hồng lại có một cách viết khác:
Thương chồng, thương luôn những ly rượu của chồng. Thương chồng, thương cả chiếc miệng nói nhanh. Thương chồng, thương cả tật rung đùi, thương từ ngón chân cái, ngón chân út đến sợi tóc sớm bạc trên đỉnh đầu, thương từ đầu gối thương lên đôi môi lười biếng tạo những chiếc hôn, đôi môi chỉ biết hôn khi có chuyện cần…
Chữ của Túy Hồng thả rong, nghe như cái gì tuôn chảy. Đọc Túy Hồng như lội trong giòng chảy miên man của chữ kéo theo những bứt rứt, những lo toan, những buồn vui và cả những rác rến của cuộc đời. Việc và vật như hòa chung với chữ, tan loãng trong chữ, tưởng chừng như văn không còn là phương tiện, là con đò chở cuộc sống mà chính là cuộc sống. Đọc Túy Hồng, ta nhớ văn hơn là nhớ sự.
Còn Sinh, Sinh yêu tôi vô tả vô tận, yêu bám lấy tôi như vẩy cá dính vào con cá. Xá tội mà yêu, nhắm mắt mà yêu, ở xa cũng yêu. Ở gần, chàng van xin tôi như hát vè con cá, ở xa, chàng liên miên thú tội trên mặt giấy. Sinh khư khứ nắm lấy tình yêu như cái lỗ mũi cố níu lấy hơi thở. Sinh yêu tôi cho đến giấc ngủ chung thân, chứ không phải như một kẻ níu lấy mạn thuyền bơi một hồi rồi bỏ. Yêu đến ngây thơ rồ dại, nhưng, cũng chín chắn lắm lắm, son sắt lắm lắm. Trên cuộc đời này, hầu hết đàn ông đều đểu, chỉ còn lại Sinh và vài người là khác. Chàng dệt mối tình từ đầu đến cuối, từ mặt tiền đến mặt hâu. Nhưng tôi đã coi Sinh giống như bất cứ người đàn ông nào khác.” (Túy Hồng/Những sợi sắc không)
Trong lúc đó, ở Phạm thị Hoài:
Man Nương, em không rón rén nhưng cũng không thật đàng hoàng băng qua một hành lang dài bếp dầu xô chậu và guốc dép vãi như kẹo trước mỗi cửa phòng nào cũng bốn mét nhân bốn mét rưỡi nhân hai mét tám màu xanh lơ. Trước cửa phòng tôi chỉ có một đôi dép nhựa tái sinh nâu thô kệch cở bốn mươi sáu là ít nhất. Động tác đầu tiên của em là cúi nhón đôi giày tràn trề nữ tính vừa trút ngoài cửa vào theo, đặt chính xác ở góc càng mở cửa càng là tàng hình. Rồi mới úp mặt vào ngực tôi mở sẳn, rồi hai bàn chân trần tìm trèo lên hai chân tôi cũng đã mở sẳn em có thêm năm centimet bệ đỡ để nhích úp mặt vào cổ tôi, rồi hai cánh tay tìm ghì lên vai tôi để em đu úp mặt vào mặt tôi, thế là tới đích.
Câu chữ kéo lê, co dãn. Lại thừa. Trạng từ chen lẫn tính từ, giới từ giành giựt chỗ đứng với danh từ và động từ. Dường như những khía cạnh giấu ẩn của sự vật, những trạng thái tâm lý phức tạp đòi hỏi những con chữ phải dịch chuyển một cách tự do, tùy hứng. Điều này có lẽ không khác mấy trong trường hợp hội họa lập thể: phá tung phép phối cảnh, phá tung những hình dạng tiêu chuẩn là con đường mở ra để đi sâu hơn vào bản chất của hình thể sự vật và nội tâm con người. Nói như Alain Robbe-Grillet, “Tất cả cái lợi của những trang sách diễn tả – nghĩa là vị trí cuả con người trong những trang này – không phải nằm trong những sự vật được diễn tả, mà nằm ngay trong chuyển động của sự diễn tả.” Tại sao? Ông khẳng định “Văn bản không phải là sự phô bày một chân lý, mà là cuộc phiêu lưu của một tự do.”[17]
Thử đọc thêm một trích đoạn của một nhà văn hiện nay:
Miên đứng dậy và ngay trước mắt chúng, lột phăng bộ da của mình như cởi một bộ đồ lặn. Bộ da còn hơi non nên một số chỗ bị rách. Miên ném phịch bộ da đó lên bàn. Bọn chúng đưa tay sờ mó vào bộ da, nhăn mặt nghĩ ngợi. Một số đứa sờ vào tấm thân trần truồng nóng hổi của Miên. Chúng ấn ấn vào những mạnh máu, có đứa còn kéo căng những sợi gân của Miên rồi thả chúng đánh bạch một cái vào da thịt.(Tạ Xuân Hải/Lột/trang mạng Tiền Vệ)
Tạ Xuân Hải diễn tả những điều không-cần-phải-là-hiện-thực. Chữ ở đây không cần quy chiếu vào bất cứ cái gì, bất cứ một hiện thực nào hay một ý tưởng nào rõ nét. Diễn tả ở đây chỉ là để diễn tả. Chỉ là cách trình diễn ngôn ngữ. Trong ý hướng này, Nguyễn Hưng Quốc quả quyết: Viết văn là ném chữ vào cái thế giới tối tăm mù mịt của những điều chưa biết và không biết. Chữ bay đến đâu, biên giới của tác phẩm trải dài ra đến đó. Biên giới của tác phẩm trải dài đến đâu, lãnh thổ văn học được mở rộng đến đó. Viết, với các nhà hậu hiện đại chủ nghĩa, nghĩ cho cùng, là một cách thăm dò chính khả thể và khả tính của cái viết. (Chủ nghĩa hậu hiện đại/Những mảnh nghĩ rời/trang mạng Tiền Vệ).
Qua sự khai phá của những nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn (TLVĐ), chữ bắt đầu một cuộc phiêu lưu trên những trang giấy, đưa chúng ta qua nhiều chuyến hành trình văn chương thú vị với nhiều thế hệ, nhiều chặng đường khác nhau. Mỗi một thế hệ, mỗi một hoàn cảnh cung cấp cho văn chương Việt Nam những khía cạnh đa dạng của phiêu lưu chữ. Nguyễn Tuân, Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu, Võ Phiến, Nguyễn Thị Hoàng, Túy Hồng, Cung Tích Biền, Nguyễn Thi Ngh…rồi những Kiệt Tấn, Trần Vũ, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Ngọc Tư, Lynh Barcadi…và nhiều, nhiều nữa. Tùy từng cá nhân và tùy từng tác phẩm, những con chữ bơi lội, vùng vẫy, dẫn chúng ta vươn tới những vùng trời xa lạ, mới mẻ.
Cuộc phiêu lưu của chữ vẫn tiếp tục và gần như vô tận! Một cuộc phiêu lưu không có ngày kết thúc. Đó là một phiêu lưu trong việc đi tìm bản lai diện mục của sự vật và cũng là cuộc phiêu lưu đi tìm bản lai diện mục của chính những con chữ.
Văn là thời
Cách viết văn TLVĐ đã tạo nên một bước ngoặt cho nền văn chương đương đại Việt Nam. Vì thế, nói không ngoa, cuộc cách mạng của TLVĐ là cuộc cách mạng văn phong.
Cố gắng vượt ra khỏi vòng kiểm thỏa của thứ văn biền ngẫu, đăng đối, sáo mòn, đầy dẫy những từ Hán Việt, những lối nói văn hoa những rỗng tuếch kiểu "Sao anh chẳng lo xa đến cái nỗi gió kép mưa đơn, sương thu nắng hạ, bây giờ em đã tàn tã trong mưa, tơi bời trước gió", những nhà văn TLVĐ đã sáng tạo ra một cách viết mới, thấm nhuần ngôn ngữ Việt. Nó được Việt-nam-hóa một cách toàn diện. Đó là một thứ văn phong trong sáng, tiêu chuẩn, đơn giản, trở thành một dụng cụ sử dụng trong việc diễn tả sự, việc, người, cảnh, tâm tình…trong mọi tình huống khác nhau và trong quá trình hư cấu hóa, vốn là đặc điểm hàng đầu của văn chương. Với cách viết này, những nhà văn TLVĐ đã sáng tạo ra những Loan, Dũng, Mai, Lộc, Phạm Thái, Lan, Ngọc, Trương, Hậu, Trương, bà mẹ Lê…, những trạng huống tâm lý phức tạp trong “Bướm trắng” hay những hình tượng lý tưởng về cái đẹp trong “Đẹp” của Khái Hưng (KH) hay những đoạn tả cảnh, tả tình hết sức đặc sắc và độc đáo trong nhiều truyện ngắn của Thạch Lam. Với cách viết hoàn toàn mới, văn chương Việt Nam thoát khỏi thứ văn chương “lý tưởng hóa”, thứ văn chương đã tạo ra những nhân vật “hoàn toàn” mà Thạch Lam gọi là cái “hoàn toàn lạnh lẽo”. Ông nhận xét: “Những tiểu thuyết luân lí ngày xưa khiến chúng ta lãnh đạm và không làm chúng ta cảm động, chính vì các nhân vật trong truyện hoàn toàn quá. Những nhân vật ấy hình như ở một thế giới riêng, không có những hèn yếu và băn khoăn của người đời và chúng ta không thấy hình ảnh mình ở những nhân vật ấy. Sự bịa đặt, dù hoàn toàn, không bao giờ bằng sự thực.”[18]
Văn TLVĐ có những ông tham, bà phán, trường bảo hộ, ô-tô, thầy thư ký, quan lớn, ái tình, xem tiểu thuyết, nhà giây thép…và không có hư vô, thân phận, nhược tiểu, da vàng, đại bác đêm đêm dội về thành phố, hư hao, quằn quại, hơi thở rướn cong, vòng tay học trò, nụ hôn, hao hụt, mệt nhoài, ray rứt, vết chém, vết thù…Thời đó chưa có những trào lưu triết học hiện đại, hay đã có, nhưng chưa gây ảnh hưởng vào xã hội và văn chương như phân tâm, thiền, tính dục, cộng sản… Thời đó cũng chưa có chiến tranh, xã hội tuy là thuộc địa nhưng tương đối an bình, ổn định. Những xung đột, mâu thuẫn xã hội chưa gay gắt. Văn cũng như chính đời sống, luôn luôn nằm trong không khí của thời đại của mình, cách này hay cách khác. TLVĐ cũng không thể khác hơn. Có thể nói, văn là thời. Le style, c’est le temps. Văn phong TLVĐ mang đầy hơi hướm của một thời.
Tuy nhiên:
Mai tỳ tay lên bao lơn cửa nhìn xuống con sông sâu thẳm, nước đỏ lờ đờ, điểm hạt mưa xuân lấm tấm. Chiếc buồm trắng con con, xen lẫn vào bọn buồm nâu sắc thẫm, to bản, cột cao, trôi theo giòng nước, theo chiều gió trôi đi như lướt trong cảnh rộng bao la, mà biến vào đám xa xa mờ mịt. Mai thở dài lo sợ vẫn vơ cho số phận chiếc thuyền con, lại chạnh nghĩ vơ vẫn đến số phận mình…(…) Xe hỏa sang bên kia cầu đã lâu, mà Mai vẫn còn tựa nhìn ra ngoài, vì cô có cái cảm giác Lộc đương nhìn cô, nên cô ngượng mà không dám quay lại. Xe từ từ dừng bánh trước ga Gia Lâm. Mai mỉm cười, tưởng tượng trời đương mưa gió sấm sét bỗng tạnh bặt.
- Cô nghĩ gì thế?
Mai quay đầu lại. Lộc vẫn ngồi bên cạnh. Cái nụ cười của cô vẫn còn nở trên cặp môi thắm, khiến Lộc nhìn cô rồi cũng cười. (Khái Hưng/Nửa chừng xuân)
Hay:
Trương ký tên rồi nhúng tay vào chén nước trên bàn rỏ mấy giọt vào quãng giữa bức thư. Chàng lấy tay áo thấm qua cho nước làm hoen nhòe mấy chữ.
Trương không buồn đọc lại bức thư, tắt đèn nằm yên đợi giấc ngủ đến. Nhà bên cạnh hôm nay cũng tắt đèn sớm, chắc là không có khách. Một lúc sau lại có tếng hát rời rạc và buồn thiu:
Sân lai cách mấy nắng mưa, Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Buồn trong cửa bể chiều hôm…
Tiếng người chồng gắt:
- Hát buồn bỏ mẹ. Thôi im đi cho người ta ngủ.
Trương mỉm cười: tấn kịch nhỏ ấy đủ diễn hết cả nỗi buồn của đôi vợ chồng sa sút một đêm vắng khách, cũng đương nằm ngủ không được vì nhớ quê hương.
(Bướm trắng/Nhất Linh)
Đọc lại những đoạn văn khá bình thường này, gần 80 năm sau khi nó ra đời, ta cảm thấy gì? Quá cổ xưa? Quá lạc lõng? Quá TLVĐ? Không. Lâu rồi, đọc lại, tôi thấy lạ là cách diễn đạt vẫn mới mẻ, vẫn hiện đại và vẫn hao hao như ai đó mới sáng tác hiện nay. Chỉ trừ một số cây bút cách tân độc đáo (không ai có thể bắt chước được), cho đến bây giờ, theo thiển ý, văn chương Việt Nam vẫn còn chịu ảnh hưởng của TLVĐ, cách này hay cách khác.
Phiêu lưu theo cuộc chữ, như một kẻ đi xa, giang hồ phiêu bạt, sống với văn minh thị thành, với đèn đường, với quán rượu, với vũ trường…bây giờ trở về đọc lại Nhất Linh, Khái Hưng, Trần Tiêu, Thạch Lam, Hoàng Đạo tưởng như được về thăm căn nhà cũ, thăm cô láng giềng lúc tóc còn để chỏm, thăm ngôi đình đầu làng, thăm bến đò, cái ao, mảnh vườn xưa, tìm thấy những gì thân quen, đầm ấm ở đó.
Nhưng cũng như thân phận con người, trong cái “thời”, văn đã có ươm mầm mống cho sự “vượt thời”. Vượt thời mà cũng là “vô thời” (intemporel).
Hậu ngồi sát lại bên tôi, tôi nghe thấy hơi thở của cô rồn rập. Buổi sớm cô mặc cái áo lụa mỏng màu đỏ, càng tươi bên nước da trắng muốt của Hậu. Tôi đoán thấy cái thân hình mềm mại, hai cánh tay chắc rắn, đôi vú nhỏ và tròn. Người Hậu như thoảng ra một thứ hương thơm ngát và say sưa" (…) Hậu đưa tay nắm lấy tay tôi, lần lên vai rồi kéo tôi lại gần mình. Mái tóc chúng tôi vướng vào nhau, tôi thấy trước môi tôi cái miệng xinh thắm của nàng. Chúng tôi lặng lẽ ôm lấy nhau, say sưa trong cái hôn đầu tiên đắm đuối của linh hồn.
(…) Vừa xuống thuyền, Hậu đã ôm quàng lấy tôi, kê ðầu vào má tôi, ngập ngừng nói những lời ân ái. Tôi thấy tấm thân trẻ và dẻo dang của Hậu quấn lấy tôi như một giây leo. Chúng tôi hòa hơi thở với nhau, tóc nàng bỗng buông sõa trên người tôi, thoảng ra một thứ hương ngát dịu và đầm ấm. (Nắng trong vườn/Thạch Lam)
Mấy ai nghĩ đó là thứ văn phong đã được viết ra cách đây tám thập niên về trước, khi văn chương đương đại Việt Nam đang còn ở trong thời kỳ trứng nước. Nhận xét về cách viết của Thạch Lam, Khái Hưng phát biểu: "Ở Thạch Lam sự thành thật trở nên sự can đảm, đọc nhiều đoạn văn của Thạch Lam, tôi rùng rợn cả tâm hồn. Tôi xin thú thật rằng những điều nhận xét gay go về mình và những người sống chung quanh mình, tôi cũng thường có song vị tất đã dám viết ra. Tôi vẫn ước ao có cái can đảm ấy nhưng không sao có được cái can đảm mà tôi thấy ở Tolstoi, mà trong đám văn sĩ mới ở nước ta tôi thấy ở Thạch Lam. [19]
Và đây là một viễn kiến về văn chương tương lai trong tư tưởng của Khái Hưng qua phát biểu của nhân vật Nam với một cô gái tên Trinh trong “Đẹp”:
"Tôi định viết một quyển tiểu thuyết thực dầy, dầy ít ra là một nghìn trang chữ corps 8. Một quyển tiểu thuyết không có chuyện. Trong đó tôi sẽ ném vào từng nắm việc thường xảy ra hàng ngày, và từng nắm tư tưởng nhạt nhẽo và đậm đà, giả dối và thành thực, y như những việc làm, những lời nói ở cửa hàng bán đồ nấu. (…) Còn chuyện, nếu có chuyện, thì tôi cho nó đi như nó đi, nghĩa là nó muốn đi thế nào mặc nó, quí hồ nó đến được chỗ kết cục." (Nhân vật Nam trong “Đẹp, Phượng Giang xuất bản,1952, tr. 193)[20]
Nghe như Khái Hưng đang nói về một cuộc phiêu lưu nào của chữ trong việc đi tìm sự vật!
*
Xin được kết luận bài viết bằng một đoạn văn trích từ đoạn kết của “Đôi bạn” của Nhất Linh:
Tiếng nhạc ngựa ở đâu vẳng tới, giòn và vui trong sự yên tĩnh của buổi chiều. Trước mặt hai người, về phía bên kia cánh đồng, ánh đèn nhà ai mới thắp, yếu ớt trong sương trông như một nỗi nhớ xa xôi đang mờ dần…
Thế nào là “một nỗi nhớ xa xôi”? Và thế nào là “một nỗi nhớ xa xôi đang mờ dần…” Chắc không ai phải mất công trả lời một câu hỏi như thế. Tại sao? Tại vì nỗi nhớ đó là thứ nỗi nhớ của chữ, nỗi nhớ văn chương. Chữ, và cách xếp đặt chữ – văn phong – có khác biệt, có cá biệt, có thời tính, có cách tân kiểu này kiểu nọ, nhưng bản chất vẫn là vô thời.
Chữ là cái còn lại sau khi tất cả đều mất.
Với chúng ta, Nhất Linh, bây giờ, là một nỗi nhớ xa xôi. Rất xa xôi.
Hôm nay, ngày 7 tháng 7. Năm mươi năm rồi còn gì!

Trần Doãn Nho (7/2013)

[1] Georges-Louis Leclerc, Count de Buffon (1707 – 1788), Discours sur le style, xem ở:
http://pedagogie.ac-toulouse.fr/philosophie/textes/buffondiscourssurlestyle.htm
[2] Nhất Linh, Viết và đọc tiểu thuyết, NXB Đời Nay, Sài Gòn 1972; bản điện tử do trang mạng Talawas thực hiện. Xem ở:
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9297&rb=08
[3] Les ouvrages bien écrits seront les seuls qui passeront à la postérité: la quantité des connaissances, la singularité des faits, la nouveauté même des découvertes, ne sont pas de sûrs garants de l’immortalité: si les ouvrages qui les contiennent ne roulent que sur de petits objets, s’ils sont écrits sans goût, sans noblesse et sans génie, ils périront, parce que les connaissances, les faits et les découvertes s’enlèvent aisément, se transportent et gagnent même à être mises en oeuvre par des mains plus habiles. Ces choses sont hors de l’homme, le style est l’homme même. Phan Huy Đường dịch: “Chỉ những tác phẩm viết hay mới được lưu truyền hậu thế : lượng kiến thức, những sự kiện độc đáo và ngay cả những phát minh mới lạ đều không đảm bảo chắc chắn sự vĩnh cửu : nếu những tác phẩm lưu chứa chúng chỉ bàn chuyện nhỏ nhen, bị trình bày thiếu nhã nhặn, thanh cao, thiên tài, chúng sẽ tiêu vong, bởi vì kiến thức, sự kiện và phát minh đều có thể bị rút đi, chuyển đi nơi khác và có khi nên được những bàn tay khéo léo hơn sử dụng. Tất cả những thứ ấy ở ngoài con người, [trong khi đó] văn phong [của một con người] là chính nó.Phan Huy Đường, xem ở: http://vietsciences.free.fr/vietnam/bienkhao-binhluan/vankhonglanguoi.htm
[4] Nhất Linh, Viết và đọc tiểu thuyết, trang mạng Talawas.
[5] Thạch Lam, Theo dòng, vài ý nghĩa về văn chương, Nxb Đời Nay (1941). Có thể xem ở trang mạng “sách xưa”,
http://sachxua.thuvienso.info/threads/theo-dong-vai-y-nghi-ve-van-chuong-thach-lam-92-trang.503/#.UcdanfnIWOg
[6] Thạch Lam, tr. 26,27
[7] Thạch Lam, tr. 10
[8] Thạch Lam, tr. 32
[9] Thạch Lam, tr. 41
[10] Thạch Lam, tr. 8,9
[11] Nhất Linh, bài đã dẫn.
[12] Huỳnh Phan Anh, Đi tìm tác phẩm văn chương (tiểu luận phê bình), Đồng Tháp xuất bản, Sài Gòn, 1972,  tr 130, tr.130, tr.131, xem ở Việt Nam Thư Quán,
http://vnthuquan.org/%28S%28iik5ka45p2fnll45fcyd2j45%29%29/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nvn0n4n3n1n31n343tq83a3q3m3237n2n
[13] Phan Huy Đường, Văn không là người, http://vietsciences.free.fr/vietnam/bienkhao-binhluan/vankhonglanguoi.htm
[14] Xem Trần Doãn Nho, Hơi chữ, Da Màu, http://damau.org/archives/10057#comments
[15] Paul Ricoeur, La métaphore vive, tr. 51. Thực ra, Ricoeur dùng cụm từ “cuộc phiêu lưu của chữ” để chỉ hiện tượng ẩn dụ trong văn chương.
[16] C’est à l’audace de leurs fautes de grammaire que l’on reconnaît les grands écrivains.
[17] Un texte n’est pas le dévoilement d’une vérité, mais l’aventure d’une liberté. Alain Robbe-Grillet, Pour un nouveau roman, Collection “Critique”, Les Éditions de Minuit, 1963, tr. 9
[18] Thạch Lam, Theo dòng, vài ý nghĩa về văn chương, tr. 43
[19] Dẫn theo Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên. Xem ở Thụy Khuê, http://thuykhue.free.fr/stt/t/thlam01.html
[20] Bản điện tử:
http://tinhhuong.net/threads/dep-trong-tu-luc-van-doan-phuong-giang-1952-khai-hung-260-trang.11230/#.Udy92G2s_Xg

Trần Doãn Nho

Source : damau.org

6/8/13

Hoàng Ngọc Tuấn 'Tôi không phải là tác giả viết về tuổi thơ'






05.08.2013

bởi Nguyễn Mạnh Trinh



Ai mà chẳng có trong đời một mối tình. Dù lớn hay nhỏ, dù thành hay không, thì cũng là những giây phút trong đời chẳng thể nào quên. Nhất là với những người, lẫn lộn giữa thực và mộng, chập chờn giữa lãng mạn và thực tế, thì chữ tình yêu lại có vị trí của khói sương, và chữ hình như để biểu tỏ một sự thể gần cận mà mơ hồ. Hoàng Ngọc Tuấn, người dùng ngôn ngữ thi ca để dệt nên tình yêu, dùng mơ mộng để cấu tạo nên thực tại, tác giả phác họa những mối tình ngây thơ, của những chàng tuổi trẻ như chú gà trống ưỡn cổ gáy vang đi vào đời. Những tác phẩm như Hình như là tình yêu, Ở một nơi ai cũng quen nhau, Thơ Về Đường Sơn Cúc,… một thời là những quyển sách mà tuổi trẻ Sàigòn mến chuộng. Dù trong không khí chiến tranh, nhưng những ý tưởng ngây thơ, những tâm tình như sợi cỏ long lanh buổi sáng đã làm tuổi trẻ tươi đẹp hơn, những bản nhạc nồng thắm hơn và những vần thơ cũng rộn rã hơn.
 
Được biết ở trong nước, để tưởng niệm ngày giỗ của ông, nhà xuất bản Phương Nam ấn hành tuyển tập truyện ngắn Hình như là tình yêu. Ngày ra mắt sách cũng là một dịp để bạn bè và người ái mộ nhà văn tưởng niệm tụ họp coi như làm lễ giỗ khá long trọng. Ở hải ngoại thì cũng đã tái bản một tập truyện khác của ông: Ở một nơi ai cũng quen nhau.” 

Trước năm 1975, Hoàng Ngọc Tuấn nổi tiếng là nhà văn viết cho tuổi học trò ngây thơ hồn nhiên. Sau năm 1975, mặc dù ông vẫn còn sinh nhai bằng nghề viết nhưng không có tác phẩm nào tiếp theo được chú ý. Có người ví von, văn nghiệp của ông đã chết từ sau 1975. Viết về thể thao hay sưu tập những truyện cười, chắc không phải là công việc làm của một nhà văn đã có nhiều tác phẩm được hâm mộ. Với những bút hiệu gần như là vô danh: Huấn Toàn, Nhị Ngọc, Mây Biếc, Tú Ân, Ngọc Nhị, những bài đăng báo hoàn toàn chỉ là để mưu sinh và không có một chút âm vang nào.

Trong một bài viết tưởng niệm Hoàng Ngọc Tuấn, nhà văn Nguyễn Đạt cho tôi hình dung ra một cuộc sống đơn độc và buồn của một người cầm bút mà tôi nghĩ lúc còn trẻ ngây thơ yêu đời lắm.  Thú thực tôi không thân quen cũng như hiểu biết gì về anh nhiều, nên qua những điều mà anh viết tôi phỏng đoán vậy. Còn, đời sống mọi người sau 1975 thì cả nước đi xuống chứ chẳng riêng một mình ai. Ở Việt Nam, rất nhiều người cùng một lứa bên trời lận đận như thế lắm. Nhất là người cầm bút, sống trong một chế độ mà nhà văn gốc tích từ văn học miền Nam nếu được hoạt động cũng chỉ đóng vai cây kiểng và góp mặt khiêm nhường. Rồi tôi nghe anh bị bệnh nan y và hoàn cảnh rất đơn độc khó khăn.…

 Năm 1972,  trong cuộc phỏng vấn “Đi tìm các tác giả được ưa thích hiện nay” của tuần báo Khởi Hành, Hoàng Ngọc Tuấn là một tác giả được ghi tên nhiều lần đều đặn sau mỗi lần lấy ý kiến độc giả qua từng số báo. Sở dĩ có hiện tượng ấy bởi vì trong truyện Hoàng Ngọc Tuấn có nét lãng mạn của tình yêu thuở mới lớn và nhân vật của ông sinh động tự nhiên chứ không có những sinh hoạt giả cách thời thượng nhưng rỗng không mà các nhà văn tập tành hiện sinh tạo ra. Sự kiện Hoàng Ngọc Tuấn có nhiều fans ái mộ cũng là điều dễ hiểu.
     
Nhà văn Võ Phiến đã nhận xét về tác phẩm Hoàng Ngọc Tuấn:

Những nhân vật ấy và nghệ phẩm ấy như đều nhìn chúng ta, nhoẻn cười một cái cười tinh quái và thông minh. Và như vậy là bởi vì kẻ tác thành nên chúng, Anh Hoàng Ngọc Tuấn, là một người vui vẻ. Anh vừa ngông, lại vừa nghịch, vừa thơ, lại vừa trẻ, cho nên anh quyến rũ vô tả.”
…”
Thế mà, theo như Nguyễn Đạt, những ngày cuối của tác giả Hình như là tình yêu sao vắng nụ cười đến thế. Ở lại Sài Gòn, chịu qua bao nhiêu sự thay đổi, mỗi ngày thêm mệt mỏi, nặng nề vác trên vai những khó khăn chồng chất của một thời thế hỗn loạn.  Và rốt cuộc cũng chỉ là cuộc trở về mà ai cũng phải có một lần trong đời.…

Tuần báo Tuổi Ngọc của nhà văn Duyên Anh trước 1975 đã có bài phỏng vấn nhan đề “Hoàng Ngọc Tuấn và Một Buổi Chiều”.  Tác giả thổ lộ: “Văn chương không phải là một nghề nghiệp hiểu theo nghĩa thông thường. Văn chọn tôi chứ tôi không chọn được, khi ta làm một cái nghề gì đó, nghề nghiệp ấy đòi hỏi một thời khóa biểu, một giờ giấc, một số lương bổng nhất định, một số giờ nghỉ ngơi cuối tuần như thứ Bảy Chủ nhật chẳng hạn. Tôi viết văn thì không như thế. Ngày nào cũng rong chơi như một ngày Chủ nhật và ngày nào cũng bận rộn làm việc như một ngày thứ Hai. Đêm là ngày, ngày cũng là đêm. Đời của một kẻ sáng tác không có mùa hè hoàn toàn rảnh rang mà là suốt năm tràn đầy mùa xuân thôi thúc hứng khởi. Nhưng nếu nói một cách đơn giản hơn thì tôi theo đuổi chuyện văn chương vì đó là một sinh hoạt có ý nghĩa nhất trong đời sống theo ý kiến riêng của tôi. Sau nữa tôi không biết làm việc khác được ngoài sự viết…””
 
Nói về truyện ngắn đầu tay Buổi Chiều Hạ Lan: “Khoảng 67 hay 68 gì đó. Sau hai năm học ở đại học và bắt đầu thấy rằng những chữ mình viết ra coi có có vẻ thích thú hơn là những chữ trong cours. Lúc đó tôi chẳng có công việc gì làm cả. Buổi sáng đang đói và thèm cà phê mà không có tiền và chẳng đi đâu được. Tôi ngồi lại một mình trong căn phòng của hội đoàn CPS (khu Khám Lớn Cũ)… Hiện tại thì trống rỗng, nhạt nhẽo, kỷ niệm thì ngọt ngào hào hứng… Thế là tôi bắt đầu viết. Và tôi đã viết chỉ trong một buổi sáng để xong Buổi Chiều Hạ Lan. Hỏi thời gian bao lâu để nghĩ về  thì câu trả lời là: “ Đêm hôm trước. Đêm tối, ánh sáng, cô đơn, và, viết, thế là có Buổi Chiều Hạ Lan.” “

Nghĩ về những người phê bình văn học: “Họ thường kết luận là chờ đợi và tin tưởng ở những tác phẩm mới hơn của tôi. Tôi mong họ giữ mãi niềm tin đó vì đó cũng là niềm tin  mạnh mẽ của tôi. Bây giờ chỉ còn việc biến niềm tin thành hành động.”…”
    ” 
Được biết anh thích đọc Saroyan, mến Salinger, phục Dostoievsky, nhưng chẳng mê ai cả,  và khi bị hỏi có bị ảnh hưởng nào không thì tác giả Cô Bé Treo Mùng trả lời: “Tôi không biết. Người đọc sẽ dễ thấy hơn tôi. Nhưng tôi sẽ rất sung sướng nếu được ảnh hưởng ít nhiều của tinh hoa nhân loại. Sáng tác thì dĩ nhiên trong cô độc nhưng con người sáng tác nào cũng phải sống với cuộc đời nhận lấy những dấu vết của cuộc đời và thụ hưởng gia tài nghệ thuật chung của con người.””
   
Mấy chục năm sau, có một người ái mộ Hoàng Ngọc Tuấn, tác giả Songcon viết bài tưởng niệm và gián tiếp trả lời khi cho rằng trong truyện ngắn đầu tay Buổi Chiều Hạ Lan  Hoàng Ngọc Tuấn chịu ảnh hưởng rất nặng của J.D. Sallinger của The Catcher in the Rye. Nhân vật Holden Caufield có phảng phất bóng dáng trong truyện Hoàng Ngọc Tuấn.
  
Trong tuần báo Mây Hồng số ra mắt năm 1972 ở Sài Gòn thời trước, Hoàng Ngọc Tuấn đã trả lời những câu hỏi phỏng vấn một cách thực thà. Như: Là một tác giả thường viết về tuổi thơ xin anh cho biết vì nguyên do nào mà anh đã chọn đề tài này? Anh viết: “Trước hết tôi thấy tôi không phải là một tác giả viết về tuổi thơ. Có lẽ độc giả thấy những nhân vật trong truyện tôi có một vài người nhỏ tuổi nên tưởng thế. Ngay cả một cuốn sách mới đây của tôi Thư về đường Sơn Cúc tuy bé tí xíu như hạt tiêu nhưng cũng không phải là một chuyện về tuổi thơ. Khi sáng tác tôi ít phân biệt về tuổi thơ hay tuổi già. Một thời nào tôi đã sống qua tôi thường viết về nó. Do đó dĩ nhiên là có một vài truyện tuổi thơ của tôi. Một đề tài nằm mãi trong tôi, tự dưng có ngày phải nhảy ra đời để thành một chuyện. Tôi không chọn lựa đề tài.”

Nếu đọc lại Thư về đường Sơn Cúc, tôi có một cảm giác khá kinh ngạc. Đây là văn viết bằng thơ hay thơ dùng văn để diễn tả một câu chuyện tình? Một trao đổi bằng thư giữa hai người mang tên Bạn Lớn và Bạn Nhỏ? Những cuộc đối thoại, có nhiều khi như là độc thoại, để diễn tả lại cảm giác mong manh của tâm tình bứt đi sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu” khởi đầu cho chuyến viễn du tình ái? Ai là một xao động theo nghĩa của chữ  “Hình như”?

Tôi đã bắt chước như nhà văn Nguyễn Đình Toàn trong đoạn trích dẫn, giở những trang sách, đọc những câu văn xuôi mà óng ả mượt mà như thơ của Hoàng Ngọc Tuấn trong “ Thư về đường Sơn Cúc:

“... căn nhà của em ở trên một con đường xác xơ ven biển, nhà không có số và gió đã thổi mất tấm bảng chỉ đường. Nhưng có hề gì đâu tôi sẽ gửi cho em về địa chỉ mới Con đường Sơn Cúc vì mỗi ngày em đều đi qua đó.
Ông có biết một loài hoa ấy không?
Cả nhà gọi nó là cây cúc rừng
Chỉ có mình em gọi là hoa Sơn Cúc.
Hoa vàng óng ả.
Hoa vàng mật ngọt.
Vàng rực rỡ cả một lối mòn
Được gọi là Đường Sơn Cúc của em.
Tôi thấp thoáng trông hình bóng em chao mờ giữa một rừng hoa thắm. Mỗi sớm mai từ nhà đến trường, với cặp sách giáo khoa trên tay mà hồn đã bay lãng đãng đến tận cuối chân trời nào một mình em lững thững không hề nôn nóng vội vàng nhớ đến tiếng chuông reo vào lớp.””

Cúc rừng? Sơn Cúc? Cùng là tên của một loài hoa dại mà sao chữ Sơn Cúc lại mở ra một không gian nào mới, nào lạ, của những cuộc sống nào mơ hồ của những người nam và nữ xôn xao với tâm tình nửa ngỏ nửa e ấp trao nhau. Thơ, tản văn, hay là bất cứ thể loại nào, cũng chỉ là một, là ngôn ngữ mật ngọt đậm đà của giây phút xôn xao đầu tiên của thời mới lớn, mà Hoàng Ngọc Tuấn đã viết bằng cái tâm trong veo của mình.

Trả lời câu hỏi: Qua các truyện ngắn của anh, tuổi thơ thường hiện lên những hình ảnh thơ mộng, tuổi thơ của anh có êm đềm như thế không? Hoàng Ngọc Tuấn thổ lộ: “Hơn thế nữa là đằng khác. Tôi tiếc chưa có thì giờ và tâm hồn bình yên để làm sống lại những ngày xưa êm đẹp đó. Thuở nhỏ, tôi theo gia đình đổi chỗ ở hoài, từ tỉnh này qua tỉnh khác, mỗi năm học một trường. Huế, Qui Nhơn, Ban Mê Thuột, v.v. Trường Bà Sơ, trường Thầy Dòng (La San), trường Thầy Chùa (Bồ Đề), trường tư, trường công... đủ cả. Hồi đó tôi yêu thương rất nhiều điều, và tôi mừng mà thấy đến nay tôi vẫn chưa thay đổi.”…”
 “

  
Sáng nay, mới ngủ dậy, nằm lơ mơ trên giường nghe chim rân ran ngoài hiên, cầm những cuốn sách của Hoàng Ngọc Tuấn, tôi nghĩ mình phải viết bài tưởng niệm này khác hơn.  Mình phải viết về cái mình nghĩ đối với tác giả hơn là trích dẫn những điều tác giả đã nói về mình và tác phẩm mình qua những bài phỏng vấn. Dù tôi không có cái may là bạn với anh như những anh Nguyễn Đạt, Ngô Vương Toại, Hoàng Xuân Sơn... hay có chung thời sinh hoạt ở những phong trào sinh viên học sinh thuở nào. Thế mà, trong bài viết hiếm ý nghĩ chủ quan của mình. Không biết có phải là nghĩ về anh một cách gián tiếp không có gì hơn là qua những thổ lộ những tâm sự để mường tượng lại vóc dáng văn chương của anh vào một thời mà có lẽ chắc anh cũng ngầm hãnh diện về những thành quả của mình.  Cầu chúc linh hồn anh sẽ rong chơi và không vướng bận gì với những trăn trở cuối đời trong cõi tạm này.

Hoàng Ngọc Tuấn mất ngày  9 tháng 7 năm 2005 ở bệnh viện Chợ Rẫy vì bệnh ung thư thực quản. Ông suốt đời độc thân mặc dù những nhân vật của ông yêu nhau thật lãng mạn. Sau năm 1975, đời sống của ông thật nhiều khó khăn. Những năm của thập niên 1990, ông là một ký giả thể thao và sau thì sống bằng những khoản nhuận bút hiếm hoi về những bài lượm lặt kiến thức rất vụn vặt đăng trên báo. Cái chết của ông cô đơn âm thầm  cho mãi đến 10 ngày sau mới có báo Tuổi Trẻ đăng một cách trễ tràng mẫu tin nhỏ là nhà văn Hoàng Ngọc Tuấn đã từ trần cách nay hơn một tuần.

Trước 1975, Hoàng Ngọc Tuấn là một tác giả được giới trẻ rất ái mộ. Một cây bút về sau  của những năm của thập niên 1990, 2000 là Nguyễn Nhật Ánh cũng có lối viết ảnh hưởng khá sâu đậm từ Hoàng Ngọc Tuấn.[NMT]


Source : VOA

Link :