26/8/13

Việt Nam: các kịch bản thời sự sắp tới



Phạm Chí Dũng
Cập nhật: 14:22 GMT - thứ hai, 26 tháng 8, 2013

Một “triển vọng” đang ngày càng rõ dần là bối cảnh xã hội Việt Nam đang gần hoàn tất giai đoạn vận động thứ hai của nó, nếu lấy mốc từ thời điểm mở cửa kinh tế những năm 1990.


Trước đó, giai đoạn vận hành đầu tiên kéo dài từ năm 1975 đến hậu khủng hoảng giá - lương - tiền.
Nhưng cho tới giờ, ở Việt Nam hầu như chưa hình thành một lực lượng đối lập, chưa mang tính đối trọng đủ lớn đối với chính quyền để ít nhất có thể tác động nhằm điều chỉnh một số chính sách và hoạt động thực hành chính sách.
Những tiền đề đối trọng ở Việt Nam cho tới nay vẫn chỉ là phong trào phản biện xã hội đa dạng và đa tầng, thể hiện chủ yếu qua ý kiến chứ không phải bằng những hành động sâu xa hơn.
Ngoài nhóm “Kiến nghị 72” và vài nhóm blogger, đa phần còn lại là những cá nhân phân tán và hoạt động manh mún.
Tác động của hoạt động bất đồng chính kiến đối với chế độ chỉ có ý nghĩa như một xúc tác phụ.
Nếu không được tác động sâu sắc bởi hành động của lực lượng đối trọng, hoặc không có một số tác động vừa thuyết phục vừa áp lực về chính sách kinh tế, quân sự và chính trị, ngoại giao từ Mỹ và phương Tây, nền chính trị Việt Nam sẽ do chính nội bộ trong lòng nó quyết định.
Mọi chuyện ở Việt Nam đang diễn ra theo một quy luật: vô cảm quan chức tỷ lệ thuận với tham nhũng và quyền lợi của nhóm lợi ích.
Thời gian suy thoái kinh tế từ đầu năm 2011 đến nay đã cho thấy một hiện tượng xã hội rất đặc trưng: bất chấp sự phản ứng và tâm trạng phẫn uất của nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều nhóm lợi ích và chủ nghĩa thân hữu vẫn liên kết đầy se sắt, hòa quyện vào nhau với độ kết dính như thể bám víu vào sự tồn tại cuối cùng.
Người ta có thể nhìn ra rất nhiều minh chứng cho thái độ bất chấp đó từ những cú làm giá không tiền khoáng hậu của các nhóm đầu cơ bất động sản, chứng khoán và vàng, kể cả những nhóm lợi ích có quyền lợi can dự như điện lực và xăng dầu.
Song song với trào lưu lợi ích ấy, cũng có nhiều bằng chứng về hoạt động chạy chính sách vì đặc quyền đặc lợi cho “tư sản đỏ”.
Tác động ở tầm mức mạnh mẽ nhất của người dân và xã hội đối với thể chế cầm quyền ở Việt Nam nhiều khả năng sẽ được quyết định bằng việc có hay không mối cộng hưởng của một cuộc khủng hoảng kinh tế ở chính đất nước này.
Trong 2-3 năm nữa thôi, chính đảng cầm quyền ở Việt Nam sẽ có thể phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng kinh tế với hậu quả chưa có tiền lệ tính từ giai đoạn lạm phát tăng đến 600% vào những năm giá – lương – tiền 1985-1986.

Những kịch bản kinh tế - chính trị

Kịch bản 1: Trong trường hợp cuộc suy thoái kép hoặc khủng hoảng kinh tế thế giới chưa nổ ra vào những năm tới, và do vậy nền kinh tế Việt Nam vẫn có thể trì kéo tấm thân băng hoại rệu rã của nó, tình thế vẫn chưa diễn ra một sự thay đổi đủ lớn.
Những phản ứng tự phát của dân hiện không mang tính hệ thống và hình thành các liên kết sâu rộng và thường thể hiện bằng biểu tình, thậm chí bạo động cục bộ vẫn có thể bị chính quyền phong tỏa và đàn áp.
Tiếng nói của các nhóm trí thức dân chủ và kể cả những nhóm chính trị có mục tiêu đối kháng và triển khai bằng hành động sẽ chỉ đóng vai trò xúc tác mà không thể hiện tính dẫn dắt cho một phong trào đối lập nhằm thay đổi thể chế.
Kịch bản 2: Trong trường hợp xảy ra suy thoái hoặc khủng hoảng kinh tế thế giới, những lô cốt cuối cùng của nền kinh tế Việt Nam sẽ có thể bị tàn phá cùng nhiều hệ lụy trực tiếp.
Vốn đang nằm trong xu thế không chỉ suy thoái gần như toàn diện nội lực trong nước mà còn quá kém hiệu quả trong cơ chế xuất khẩu và chịu ảnh hưởng không nhỏ từ làn sóng thoái vốn đầu tư nước ngoài, Việt Nam sẽ nhanh chóng rơi vào tình thế bĩ cực không lối thoát. Một cuộc khủng hoảng toàn diện đối với nền kinh tế Việt Nam cũng từ đó mà khởi phát.
Cuộc khủng hoảng có thể như thế còn cần được tính thêm một yếu tố cộng hưởng rất “láng giềng”: Trung Quốc.
Tiếng nói của các nhóm trí thức dân chủ và kể cả những nhóm chính trị có mục tiêu đối kháng và triển khai bằng hành động sẽ chỉ đóng vai trò xúc tác
Nếu hệ lụy khủng hoảng kinh tế thế giới được bắt nguồn từ khủng hoảng của kinh tế Trung Quốc, Việt Nam sẽ phải chịu hiệu ứng kép: một do suy thoái kinh tế giai đoạn cuối, một do động loạn từ Trung Quốc.
Trong cả hai yếu tố hiệu ứng tác động đó, xã hội Việt Nam đều có thể rơi vào vòng bế tắc. Nền kinh tế vốn đã què quặt, cộng thêm nhân tố rối loạn xã hội, sẽ khiến cho chính thể cầm quyền hết sức khó khăn trong việc duy trì quyền lực của mình để kiểm soát xã hội.
Phản ứng của nông dân về đất đai, của công nhân về nạn thất nghiệp và điều kiện làm việc, của tiểu thương về buôn bán, của công chức và giới về hưu về an sinh xã hội… sẽ liên tiếp xảy ra với quy mô ngày càng rộng.
Phản ứng của người dân đối với nhân viên công quyền cũng sẽ diễn ra dày đặc và mang tính tự phát với tính đối đầu nhiều hơn, ban đầu tản mạn và tự phát, sau đó sẽ có xu hướng liên đới để hình thành những phong trào, kể cả tổ chức phản kháng, của nông dân, công nhân, trí thức và với cả một số tôn giáo như Công giáo, Phật giáo Hòa hảo thuần túy, Tin Lành.
Kịch bản về không gian phản ứng và phản kháng sẽ có thể bắt nguồn từ nông thôn miền Bắc với nông dân, thậm chí ngay tại Hà Nội với thành phần trí thức, sau đó lan rộng ra các khu vực khác của đất nước như miền Trung, Tây Nguyên và một số tỉnh ở miền Tây Nam Bộ.
Trong một số trường hợp phản ứng xã hội đặc biệt sâu sắc về nguyên nhân và tính chất, bạo động và có thể cả bạo loạn sẽ xảy ra.
Đó là chưa kể đến những hoạt động phản ứng riêng rẽ và có tổ chức chặt chẽ hơn nhiều của các tôn giáo có xu hướng ly khai với nhà nước, trong đó có một phần Công giáo, Tin lành, Phật giáo Việt Nam thống nhất và Phật giáo Hòa hảo thuần túy.
Gần như trái ngược với Kịch bản 1, xác suất suy thoái kép hoặc khủng hoảng của kinh tế Việt Nam trong Kịch bản 2 có thể lên đến ít nhất 70% trong những năm tới. Và dĩ nhiên, sự đổi khác chính trị cũng phải liền mạch và trực tiếp với các biến động kinh tế.

Lối thoát từ TPP?

Cuộc suy thoái hoặc khủng hoảng kinh tế thế giới, nếu xảy ra với xuất phát điểm từ Trung Quốc, có thể rơi vào thời gian hai năm 2016-2017. Đó cũng là thời gian chứng nghiệm những nỗ lực cuối cùng và mang tính quyết định cho sự tồn tại của đảng Cộng sản Việt Nam.
Cú hội nhập TPP có thể đem lại một lối thoát cho kinh tế và cả chính trị Việt Nam
Nếu không tự thay đổi, và hơn nữa phải cải cách một cách gấp rút theo hướng hạn chế quyền lợi của các nhóm lợi ích và nhóm thân hữu, đồng thời gia tăng mối quan tâm thực tế cho các tầng lớp dân sinh, trong đó đặc biệt là nông dân và công nhân, cũng như thực thi quyền tự do dân chủ về ngôn luận, báo chí và tôn giáo một cách đúng nghĩa…, đảng cầm quyền sẽ vấp phải một thử thách mà có thể xác quyết sự tồn vong của chính nó.
Một trong rất ít lối thoát để thoát khỏi vòng xoáy kinh tế - chính trị là TPP – Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương. Thế nhưng, điều quá rõ ràng là trong hiện tình, TPP chỉ có thể được sinh sôi ra từ lòng thành chính trị, tương ứng với các điều kiện về dân chủ và nhân quyền.
Cơ hội để “thoát Trung” cùng vô số nguy cơ về an ninh Biển Đông có thể được giải thoát bởi người Mỹ.
Nếu tận dụng cơ hội này, với điều kiện phải thể hiện được bản lĩnh của mình trong mối giao hòa với tâm cảm của đại đa số người dân trong nước và mục tiêu chiến lược địa chính trị của phương Tây, chính đảng cầm quyền sẽ có được cơ hội tránh thoát một phần ảnh hưởng của Bắc Kinh, trong khi nhận được sự hậu thuẫn của Washington và Cộng đồng châu Âu.
Cuộc khủng hoảng kinh tế tiềm tàng ở Việt Nam cũng do đó có thể sẽ được khuôn hẹp với những hậu quả không quá lớn.
Nếu thành công trong cơ chế “xoay trục” sang phương Tây, chính đảng cầm quyền ở Việt Nam dù có phải “trả giá” bằng một chế độ cởi mở hơn về dân chủ nhân quyền và chấp nhận sự tồn tại của một hình ảnh mang tính trang trí về một xã hội dân sự manh nha tại đất nước này, kể cả việc phải chấp nhận một lực lượng đối lập ôn hòa…, vẫn có thể duy trì được quyền lực một đảng chi phối và quyền lợi của giới lãnh đạo thêm một thời gian nào đó.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của ông Phạm Chí Dũng từ TP Hồ Chí Minh.

BBC

25/8/13

Huỳnh Phan - Ai sai lầm, lệch lạc: Lê Hiếu Đằng hay Linh Nghĩa?

Thứ hai, ngày 26 tháng tám năm 2013



Ai sai lầm, lệch lạc: Lê Hiếu Đằng hay Linh Nghĩa?

Huỳnh Phan

25-08-2013

Trên báo Công an nhân Dân ngày 24/8/2013 có đăng bài ‘Nhiều sai lầm, lệch lạc trong bài viết trên giường bệnh của ông Lê Hiếu Đằng’ của tác giả Linh Nghĩa. Qua bài báo, không thấy tác giả vạch ra được chỗ sai lầm, lệch lạc thật sự nào trong bài viết của ông Lê HIếu Đằng mà chỉ thấy nhiều lệch lạc sai lầm của chính tác giả, xin được nêu những điểm chính như sau.

Ngay phần mở đầu bài viết tác giả đã cho thấy sự lệch lạc của mình khi cho rằng khi đọc phần đặt vấn đề của bài viết ông Lê Hiếu Đằng với câu ‘ …“tính sổ” với ĐCS VN và với bản thân cuộc đời của tôi, tư cách một đảng viên, một công dân ở những điểm cơ bản sau: một cách minh bạch, sòng phẳng để từ đây thanh thản dấn thân vô cuộc chiến mới’ thì ‘người đọc ngỡ ngàng rằng sắp có vụ thanh toán nhau của các băng nhóm tội phạm!’ Có lẽ do tác giả có kĩ năng đọc hiểu tiếng Việt quá kém hoặc là do bị ảnh hưởng của các chủ đề thường ngày trên các báo nhất ‘lề phải’, nhất là báo Công An, là ‘cướp, giết, hiếp’, một nét ‘ưu việt’ của xã hội ta, nên mới hiểu một câu trong ngữ cảnh về chuyện lớn lao của đời người ra chuyện hèn mọn, phi pháp. Một người với vốn tiếng Việt trung bình không ai lại hiểu như thế. Tiếp theo, tác giả lại chê bai bài viết là dài, kể lể, đọc sốt cả ruột… là những thứ thuộc về hình thức chẳng có liên quan gì tới việc sơ sót, lệch lạc về nội dung của nó. Rõ ràng hai điều này chỉ nhằm mục đích bêu rếu cá nhân hơn là phê phán nội dung bài viết nhưng có vẻ chỉ tác dụng ngược lại cho tác giả.

Bây giờ xin đi vào phần chính của bài viết nhưng chỉ xin điểm qua một số lập luận ‘mới’ của tác giả so với những bài đã đăng cùng chủ đề.

Trước nhất, khi đọc phần 1 của bài viết LHĐ tác giả đã ‘khái quát’ là ông LHĐ đã ‘phủ nhận mọi thành quả của cách mạng VN, đồng thời ca ngợi, [sic] chế độ cũ’. Tác giả không nêu ra được dẫn chứng nào cho việc ông LHĐ ‘phủ nhận mọi thành quả của cách mạng VN’, còn về ‘ca ngợi chế độ cũ’ tác giả dẫn chứng việc ông LHĐ nhắc lại vụ ông bị chính quyền cũ bắt giam nhưng vẫn cho ông ra đi thi. Ở đây ông Đằng chỉ nêu ra một việc có thật (có thể kiểm chứng được) từ kinh nghiệm của chính bản thân để cho thấy rằng chế độ hiện nay còn có điều chưa tốt so với chế độ cũ. Có lẽ theo quan niệm của tác giả, hễ là đã xem ai là ‘địch’ thì dù họ có ưu điểm, thế mạnh gì thì cũng không được phép nói ra và nếu nói ra sẽ là ca ngợi địch!

Thứ hai, để phản biện phần ‘đa nguyên, đa đảng’ tác giả nêu ra câu hỏi ‘Vì sao dưới chế độ kinh tế đa nguyên” thời Mỹ và tay sai ở miền Nam, người ta đã ra Đạo luật 10/59, “bắn bỏ tất cả bọn Cộng sản”, không cần xét xử?’ Hình như tác giả còn nhỏ tuổi nên không nắm được sự kiện hoặc thiếu tra cứu nên đã phạm sai sót khi viết điều này. Trước nhất, luật 10/59 được ra khi VNCH đã đặt trong tình trạng chiến tranh và thứ hai là luật này quy định việc lập ra các Toà án quân sự để xét xử nhanh ‘các tội ác chiến tranh chống lại Việt Nam Cộng Hòa’. Như vậy, đây là một luật trong thời chiến và người phạm tội có qua xét xử của Toà án [quân sự], dù có thể qua loa, chiếu lệ nhưng không phải không cần xét xử như tác giả viết sai. Và lưu ý rằng lúc đó ở miền Nam ‘bọn Cộng sản’ là một tổ chức có vũ trang, tuy chưa đủ sức thực hiện việc lật đổ chế độ VNCH nhưng cũng có các hoạt động ám sát, phá hoại mà theo quan điểm của nhà cầm quyền VNCH thì ít ra đó cũng là một tổ chức khủng bố, phiến loạn chứ không phải là một tổ chức chính trị đấu tranh qua nghị trường. Vì thế, người CS dĩ nhiên bị đặt ngoài vòng pháp luật, và do đó không thể coi là một đảng phái hợp pháp trong hệ thống đa đảng của VNCH như các đảng Đại Việt, VNQDĐ… Tác giả có lẽ quên rằng trong bất cứ chế độ nào, dù đa đảng hay không, việc lật đổ chính quyền bằng bạo lực đều không thể chấp nhận. Vì vậy, câu hỏi tác giả đưa ra như trên chẳng có giá trị gì trong phản bác mà lại cho thấy tác giả là người vừa kém hiểu biết vừa thiếu óc suy xét.

Ngoài ra, trong phần này tác giả cũng phê phán ông Đằng là ‘thách thức pháp luật và kêu gọi xóa bỏ chế độ hiện hữu, bao gồm cả vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.’ Để chứng minh cho luận điểm này tác giả đưa ra trích dẫn “[v]ậy tại sao chúng ta hàng trăm đảng viên không tuyên bố tập thể ra khỏi Đảng và thành lập một Đảng mới, chẳng hạn như Đảng Dân chủ xã hội… Tại sao tình hình đã chín mùi mà chúng ta không dám làm điều này vì chủ trương không đa nguyên đa đảng chỉ là chủ trương của Đảng, chứ chưa có một văn bản pháp lý nào cấm điều này? … Không thể rụt rè, cân nhắc gì nữa… Đây là cách chúng ta phá vỡ một mảng yếu nhất của một nhà nước độc tài toàn trị hiện nay.’’ Nếu không có vấn đề về đọc hiểu thì qua đoạn trích dẫn này (ngay cả khi tác giả đã cố ý gian lận bỏ bớt ý cũng rất quan trọng ‘[m]à nguyên tắc pháp lý là điều gì luật pháp không cấm chúng ta đều có quyền làm’) ai cũng có thể thấy ông Đằng chỉ đề xuất thành lập đảng mới dựa theo Hiến pháp và pháp luật hiện hành của chế độ (dù tính chất ‘của dân, do dân, vì dân’ của chế độ này còn phải xét lại). Chưa có văn bản pháp lí nào cấm thì người dân được phép làm, đó là nguyên tắc không có gì là thách thức ở đây. Và trong bài cũng hoàn toàn không thấy chỗ nào ông Đằng ‘kêu gọi xoá bỏ chế độ hiện hữu’. Về ‘kêu gọi xoá bỏ …. vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam’ cũng thế, ý ông Đằng trong bài chỉ muốn đảng CS phải phấn đấu cạnh tranh với các đảng phái khác, nếu có, để giành quyền lãnh đạo một cách chính danh chứ không phải tự nhân danh hay đúng ra mạo danh như hiện nay thôi (mấy bài phản biện trên báo QĐND, ND, ĐĐK vừa qua cũng chỉ nói lấy được chứ chẳng nêu ra được bằng chứng thuyết phục nào cho thấy nhân dân thừa nhận vai trò lãnh đạo này). Nhưng cũng lưu ý rằng với Hiến pháp và pháp luật hiện tại, ngay cả khi có đảng hay nhiều đảng mới ông Đằng cũng cho rằng đảng CSVN vẫn có khả năng lãnh đạo cho tới một tương lai không ngắn. Nếu vào một lúc nào đó đảng CS mất vai trò lãnh đạo chủ yếu chỉ là do tự đảng phấn đấu kém nên nhân dân không chọn lựa, chứ không ai lật đổ cả. Ngoài ra, tác giả cũng có nhắc nhở ông Đằng ‘pháp luật Việt Nam quy định rằng mọi tổ chức chính trị xã hội đều phải đăng ký, xin phép Nhà nước, kể cả các tôn giáo’. Có lẽ tác giả nên nhắc nhở điều này đối với đảng CS của tác giả trước. Đảng này chủ trương xây dựng một nhà nước pháp quyền nhưng đã và đang hoạt động theo mặc định như thời chiến tranh, chẳng theo khuôn khổ pháp lí nào cả và do đó cũng không có việc đăng kí. Thật ra, theo nghiên cứu của luật sư Trần Vũ Hải thì không có luật pháp hiện hành nào của VN có quy định việc thành lập đảng chính trị phải được sự cho phép hay công nhận từ nhà nước. Hơn nữa, qua bài ông Đằng cũng không có ý nào là không tuân thủ các quy định, luật lệ đang có của chế độ.

Thứ ba, để bác bỏ lời phê phán ông Đằng về thái độ của đảng CS và Chính phủ trong vấn đề biển Đông, tác giả lập luận ‘phải hiểu được Việt Nam cần có một chiến lược thông minh, kết hợp sức mạnh “cứng” với sức mạnh “mềm” mới có thể bảo vệ được lãnh hải của mình. Chẳng lẽ Việt Nam mua tàu ngầm Kilo, máy bay SU 30, tên lửa S.300 là trò chơi ảo trên mạng!’ Sức mạnh ‘cứng’, sức mạnh mềm là gì trong khi TQ bắt bớ, đánh đập ngư dân ta đánh cá ngay trong vùng biển truyền thống, đơn phương cấm bắt đánh bắt cá trong vùng biển thuộc chủ quyền VN, chiếm đóng, xây dựng phi pháp trên đảo của VN… mà chính phủ vẫn làm ngơ hay chỉ phản đối chiếu lệ, còn khi dân chúng thể hiện lòng yêu nước qua việc biểu tình ôn hoà lại bị đàn áp không thương tiếc. Đó có phải là ‘hèn với giặc, ác với dân’ không? Tàu ngầm, máy bay, tên lửa sẽ chẳng là gì khi nhân dân không đồng lòng cùng chính quyền chống giặc như lịch sử cho thấy, chưa kể việc mua sắm các trang bị này có thể chỉ là cách hợp pháp để cho các tay to, mặt lớn của đảng có dịp ‘phết phẩy’ kinh phí quốc phòng vào túi riêng.

Thứ tư, trong nội dung chính cuối cùng tác giả tóm tắt phần cuối bài viết của ông Đằng ‘trong đoạn này, LHĐ kể về “bản lĩnh” của bản thân và những sai lầm khuyết điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong nhiều giai đoạn đã qua. Đồng thời chép lại những “khuôn mẫu” của thể chế “đa nguyên”, “tam quyền phân lập” đầy rẫy trên mạng ai cũng biết.’ Đây là một tóm tắt khá mập mờ, nhất là cách dùng từ ‘đồng thời’ khiến người đọc có thể hiểu tác giả ngầm chấp nhận những điều mà ông Đằng viết trong đoạn này, kể cả những sai lầm, khuyết điểm của đảng CSVN! Sau đó, tác giả dẫn “Con người khác con vật ở chỗ là có tự do. Tự do là thuộc tính của con người. Không có tự do thì con người chỉ là một đàn cừu (theo ngôn ngữ của Giáo sư Toán học Ngô Bảo Châu)…” và phán ‘[đ]áng tiếc LHĐ lại nhận thức về tự do của thời kỳ tiền sử – xin lỗi có thể nhận định này hơi quá đáng! Đặc trưng của con người, của loài người không chỉ ở, không chủ yếu ở cái gọi là “tự do” như LHĐ nói mà chính là ở ý thức về mối quan hệ cá nhân với tổ chức xã hội, với Tổ quốc, dân tộc và cộng đồng của mình.’ Đọc kĩ phần trích dẫn và đọc suốt đoạn này cũng như cả bài của ông Đằng, khó ai có thể hiểu được tác giả lấy từ chi tiết nào để phán ‘LHĐ lại nhận thức về tự do của thời kỳ tiền sử‘ hoặc ông Đằng không ý thức ‘về mối quan hệ cá nhân với tổ chức xã hội, với Tổ quốc, dân tộc và cộng đồng của mình’. Rõ ràng tác giả chỉ nói lấy được mà thôi.

Phải nói đây là một bài phản biện hết sức ‘củ chuối’ về nội dung. Về mặt hình thức, bài viết cũng không khá gì hơn. Tác giả và ban biên tập tập báo để những lỗi hết sức ngớ ngẩn và sơ đẳng về chính tả, dùng từ… chẳng hạn để/ không để dấu câu đúng chỗ, dùng từ ngọng ‘tựu chung’ thay vì từ đúng ‘tựu trung’, thậm chí lại dùng cả từ tiếng Anh từ ‘Mr’ thay vì ‘ông’ trong bài báo tiếng Việt này…

Có lẽ trước thực tế ‘bầy hầy‘ của chế độ hiện tại khó ai có thể đưa ra một phản biện logic, thuyết phục ngoài việc nguỵ biện hoặc nói lấy được nên các giáo sư, tiến sĩ lí luận của đảng dù ăn bổng lộc bao năm nay đã không dám mở miệng phản bác vì sợ ô danh hay lo có hệ luỵ tương lai. Vì thế, các báo lớn không có cách nào khác hơn là tìm những kẻ vô danh, tiểu tốt, ‘chịu đấm ăn xôi’, chẳng biết ‘trời cao đất dày’ là gì để làm chuyện phản biện ‘chữa cháy’ vượt quá khả năng của họ.
 

H.P.

(* Những chỗ nhấn mạnh trong cách trích dẫn là do người viết thêm vào) 
 
Source : BA SAM

nẻo vàng phai



nẻo vàng phai

    Cuồng Từ



    (tặng THD)


Ta bát ngát như rừng
 

chờ đêm xuống
 

Nhớ trăng tàn
 

mây khóc cuộc phù sinh
 

Dòng cổ sử
 

dậy hoàng hôn ngủ muộn
 

Những thu phai
 

còn đắm khúc vong tình

Hồn đã trót tương tư
 

ngày không nắng
 

Vẫn hoài mong xế bóng
 

những thu xưa
 

Thơ
 

và rượu
 

đưa ta về bến vắng
 

Một đêm ngồi
 

gội tóc nhớ vào mưa .
 

Đôi mắt lửa
 

cháy khung trời quá khứ
 

Chia phôi từ mây phủ mộng trùng lai
 

Chưa hiu hắt
 

sao môi đầy viễn xứ
 

Nụ hôn chiều đã tắt nẻo vàng phai




   Cuồng Từ 

   
                              

24/8/13

VƯƠNG-TRÍ-NHÀN - Chuyện văn nghệ Hà Nội nghe ở Moskva 1987


 

 
19-5
        Gặp nhau tại Yug-zapatnoe , Ng Khải điểm qua tình hình văn nghệ:
         -  Lão Nguyễn Đình Thi phen này mà mất việc đi Tây, thì cứ gọi là con mẹ Tuệ Minh nó bỏ ngay. Mà không hiểu sao, xứ mình sinh ra cái lão lẩm cẩm loại đó.
      Bây giờ cứ thấy mấy người đang đứng trò chuyện là lão ấy  nhảy xổ đến, lão ấy giảng cho mình về văn học, văn học nó phải như thế này, nó phải như thế kia. Làm như là không ai đọc cả ấy. Lúc nào cũng chê anh em bây giờ nó không biết gì. Vâng, các ông được Tây nó dạy cho tí tiếng Pháp, nhưng anh em bây giờ nó đã có tiếng Nga, chắc ai đã đọc hơn ai.

     Lại còn bố Nguyễn Tuân nữa. Bố ấy cứ tưởng bố ấy là một quyền lực, ai cũng phải sợ, loại như tôi bây giờ muốn làm gì phải đến chào, đến xin ý kiến. Tôi thử không đến, xem đã chết  ai chưa nào. Trông thấy ông ấy ở đâu, mình chỉ chào bác ạ một câu, rồi chuồn ngay, chả mặn mà gì.
    Có lần, mình đang đứng đấy, bố ấy lại vươn người qua mặt mình, để bắt tay người khác. Thì mình lùi ra để cụ ấy làm việc ấy cho tự nhiên, cần gì.
- Sao ông Tuân vừa rồi lại còn nói có vẻ thân ông Tố Hữu thế?
- Nói cho sang thôi, ra điều người ta xuống, mình vẫn nể. Cũng là một cách làm phách.
        

         - Loại như Nguyễn Văn Bổng thích ra làm lại báo Văn nghệ lắm! Nhưng tôi chả dại, chả dùng làm gì, đập mình đập mẩy cũng mặc.
          - Ấy, hồi trước mình rút lui cũng không được hay lắm, nên phen này phải tính kế rút từ sớm mới được.
     Nhớ hồi  làm bản đề dẫn hội nghị Đảng viên, một hôm họp ở Đảng Đoàn, ông Hoàng Trung Nho cứ bắt nọn rằng anh Nguyên Ngọc trong sáng lắm, không thể viết như thế này được. Tôi mới phải bảo ngay là các anh ngờ cho tôi chứ gì? Nhưng khôn ngoan như tôi đời nào viết thế, để các anh bắt vạ à?
     Anh Đức với Nguyên Ngọc giống hệt nhau nhưng chính vì vậy, Anh Đức không muốn Nguyên Ngọc ra phụ trách báo Văn nghệ. Thằng ấy mà ra, tính nó là hay thù vặt lắm, sẽ rất chuyên quyền, sẽ trị bọn Nam bộ chúng tôi cho mà xem. Tôi phải nói ngay là anh cứ để nguyên, tôi đến tôi bảo anh Nguyên Ngọc. Mà này, mỗi ngày một ít, Nguyên Ngọc nó cũng nghe ra đấy. Không ra mà làm bây giờ thì ở nhà làm gì.
    - Tội nhất bây giờ là anh Tố Lành nhà ta. Từ trong Sài Gòn ra, tôi với Anh Đức bàn nhau đến chơi ngay. Cũng là để an ủi người mà cũng là để cốt xem bề trên của mình khi thất bại thì thế nào. Quả thật, cho tôi viết về hình ảnh ông ta thì cũng ra cả cuộc cách mạng của mình. Nghĩa là người vẫn béo thế, nhưng ngơ ngác, ngớ ngẩn, đúng là một đống đổ nát. Lại còn hỏi tôi là báo Văn nghệ nó dùng bài của mình viết về anh Ba, nó có cắt cái gì đi không. Rồi ra về, lại còn khuyên mình viết cẩn thận, viết không cẩn thận bây giờ là cắt cổ.
    -- Từ hôm mới ra, tôi đã nghe ông Kim Lân kể ngay sau khi nghe tin ông Tố Hữu mất chức, mình đến chơi ngay. Ôi thôi, người anh em vừa trông thấy nhau từ xa, đã dàn dụa cả nước mắt
     Nhàn :
     -- Tôi ngờ, ông ấy còn làm thơ nữa
     --  Không, muốn làm được, phải bình thản lắm cơ. Thơ đâu phải chuyện muốn là được.
     Nhớ hồi lão còn khoẻ, có lần mình đến, lão vỗ vai mình một cái, mà sụn cả lưng. Bọn Việt kiều về, gặp lão xong, nhiều thằng nó kể rằng ông ấy cứ vuốt tay mình "yêu nước nhé" " yêu nước nhé",  dề dà như ma nói vậy.

     - Cấp trên thì có ông Lành, cấp dưới thì có ông Chí Trung. Thằng ấy cứ đâu có mặt trận thì nó phải đi bằng được. Vừa rồi lão sang C, bị thương vào tay. Đến nhà tôi chơi. Hàng xóm láng giềng nghe nói có người mới bị thương, không ai tin. Vì đối với người ta, chiến tranh đã lùi hẳn về xa rồi.
Thằng Châu nó bình luận: Đúng là người của chíến tranh, luôn luôn  muốn nộp mạng cho chiến tranh mà cái chết còn chưa nhận cho. Thật thằng này mà lại quay về sống bình thường với vợ con, thì không làm sao hiểu nổi.
    ( Hôm nọ Nguyễn Khoa Điềm kể một câu chuyện nghe được bên Nga: một nhân vật , từ chiến trường trở về, tối không nằm với vợ, mà lại  trải đệm ra nằm ở một góc nhà!)   
    
   - Ở VNQĐ bây giờ, một lũ đại tá ngồi lúc nào cũng bàn về tử vi. Ông Oánh cũng xem tử vi. Xem về tôi, rồi bảo thằng này còn lên to nữa. Còn xem chính hắn thì buồn lắm. "Số tôi là số thằng ăn mày ông ạ. Chỉ may có mấy ngôi sao văn học".
  
    Khải nói tiếp chuyện đổi mới bên nhà
    Hồi hội nghị Đảng viên, gớm, cả VNQĐ lúc nào cũng chong đèn. Nơi này nhận định Nguyễn Đình Thi cơ hội, nơi kia có ý kiến phải cảnh giác với lớp trẻ làm loạn, quay cờ v.v… Ông Nguyễn Chí Trung có lần bước ra ngoài sân, vỗ vỗ vào đầu:
   -    Trời ơi, sao tôi nhiều việc thế này.
     Làm như sẽ có một cuộc chiến đấu, mà một bên là ông Tố Hữu, một bên là ông Nguyên Ngọc, oai ra phết.
     Trong khi ấy, phía bên kia, các ông ấy chả động tĩnh gì, chỉ chờ đến ngày đến tháng là đét vào đít.
    - Lại nói về Tố Hữu. Ông ấy bảo mình. Này cậu có viết, cũng chỉ nói về tiểu thôi. Đừng viết về sư thúc, sư  bá, họ cứa cổ.
    Đối chiếu với những gì ông ta dạy mình từ trước tới nay, thấy ngược hẳn.
   - Loại người như tôi, thế hệ tôi, đáng nhẽ phải ra từ 10 nay rồi. Nhưng vì năm ấy bố Ngọc bố ấy loay hoay gỡ không ra, nên hỏng.
   Tôi nhìn việc mình làm, lại so sánh mình với cánh Anh Đức, Bằng Việt, thấy bao giờ mình cũng còn thừa một cái gì đấy.
     - Họ (lớp trẻ) nhìn mình bao giờ cũng như mình nhìn loại Nguyễn Đình Thi, tức là có gì đó văn hoa quá, không cần thiết.

    Lão Thi kỳ vừa rồi, vẫn bị ngờ. Đến là khách mời của đại hội Đảng cũng không được. "Tâm không sáng lắm". Lê Đức Thọ bảo vậy.
   Lão Chế Lan Viên tuy thế, vẫn có những việc mà không ai thay thế nổi. Nghĩa là cần nói cái gì thì cứ thế dốc tuột cả ra. Gần đây, nhiều lần, lão chỉ vào những Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh. "Thế nào, các uỷ viên thư ký này, các anh nói đi chứ? Sao lại cứ để tôi nói cả ?"
    Ngày xưa lão từng nói trước buổi họp. Anh Tô Hoài gọi tôi ra “Thằng Nguyễn Đình Thi học trò rát lắm, cho nó thôi đi, tôi với anh cùng làm". Rồi lại đến anh Nguyễn Đình Thi bảo tôi "Thằng thợ thủ công Tô Hoài khôn như ranh, tôi không thể chịu được, tôi với anh cùng làm". Có đúng thế không nào?  Các anh có coi nhau ra gì không?
    Hai lão kia phải im.
    Tôi cũng đã từng bị hố với lão một trận. Tôi cũng tâm sự thành thật: “Làm việc với Nguyên Ngọc không phải dễ đâu, nó cũng độc đoán lắm, gia trưởng lắm.” Ông ấy cũng nói tuột ra giữa đám đông, có chết mình không chứ!
    Từ nay, mới rút kinh nghiệm. Cứ muốn nói gì với mọi người, chỉ cần rót vào tai Chế Lan Viên, thế là đến với hết thảy mọi người.
    Này, phải công nhận là chúng ta chán cái đám già lắm, nhưng cũng nên biết là nhờ họ, văn học cách mạng mới còn là văn học.
    Cứ lấy thế này mà so sánh thì biết. Lão Nguyên Ngọc vừa lên một cái là lùa anh em đi thực tế. Nguyễn Đình Thi thì không, bần cùng lắm mới tổ chức một chuyến làm phép.
   Cả Tố Hữu và Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Văn Bổng , Hoàng Trung Thông và Chế Lan Viên, họ đều có quyền tự hào là họ đã giữ văn học khỏi để cho các lão cán bộ chính trị biến văn học thành tuyên truyền. Có thể là họ lươn lẹo, có lúc hèn hạ đầu hàng, nhưng mỗi người một tí, người này chán có người kia, họ có tham gia vào việc giữ gìn đó.
   Thử nhìn lại, mấy chục năm nay thì thấy,  ngoài văn học có được cái gì đâu!

    Nguyễn Khải kể mấy hôm trước, Ng Văn Hạnh lệnh Từ Sơn gọi tôi lên, hình như có việc gì quan trọng lắm. Tôi mới nghĩ, khéo mình lại biến thành mật vụ của Đảng mất.
   -- Tôi phải hỏi thẳng với các anh, thế này là thế nào? Chả gì tôi cũng là một nhà văn danh tiếng. Có việc gì riêng, các anh phải đến với tôi. Còn như công việc chung ở đây đã có anh Nguyễn Đình Thi, anh Chính Hữu. Các anh có cần gọi thì gọi cả ba chúng tôi lên, hoặc nếu không thì gọi mình anh Thi lên mới đúng. Chứ tôi đang là Phó tổng thư ký, tôi không vượt mặt cấp trên của chúng tôi được. Còn nếu như các anh không dùng anh Thi nữa, đấy lại là chuyện khác!
   Hôm sau, ông Hạnh phải xuống, sượng sùng xin lỗi.

   - Lão Tô Hoài  nửa đùa nửa thật bảo mình mà làm chủ tịch, Khải mà làm tổng thư ký, chắc rất hay. Sẽ đúng là một hội Ba Giai -Tú Xuất. Nghĩa là chả có gì quan trọng cả. Chỉ chia những chuyến đi nước ngoài cho công bằng, thế là chả ai làm gì được cả.
     Nhàn:
    -- Nhưng mà có gì gọi là quyền lợi của người phụ trách  lão ấy sẽ qươ hết.

29-5
    Lại Nguyên Ân mới sang. Về không khí chung, Ân nói mấy ý:
   - Ông Khải không sấn sổ nhảy ra làm các việc, mà có vẻ từ từ, tuyên bố để anh Thi đấy, tuyên bố đưa Điềm ra v.v
    Làm thế chẳng qua là để giữ giá. Sau này, có bầu lão chức gì, thì cũng là do tài của lão, chứ không phải do cấp trên áp đặt.
    - Chính ra, cũng có phương án lập một Ban trù bị, bên cạnh Ban thư ký (ban trù bị đại hội, gồm Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, Nguyễn Kiên v.v..). Ban trù bị lo chung về Đại hội. Nhưng khi đưa ra hội nghị Ban chấp hành thì thấy không nên. Mà người cho ý kiến lập Ban trù bị nốc ao, đó là Bằng Việt.
    Trong buổi họp BCH, Bằng Việt bảo: 
     -- Tôi thấy ta hay tuỳ tiện lập ra những tổ chức vớ vẩn. Thế nay mai anh Nguyễn Khải lập ra tổ chức nào đấy, anh mời tôi, tôi không nhận thì sao. Tóm lại là không được.
     Thế là thôi.
    Ý Nhi giải thích Bằng Việt vẫn cay từ hồi đại hội trước. Nguyễn Khoa Điềm được vào Ban thư ký mà Bằng Việt không. Cho nên, hắn chẳng hưởng ứng gì cả .
     Tôi nghĩ: Có lẽ Bằng Việt  nghĩ  tự hắn mới thay đổi được tình hình chăng?


   Cuộc đấu tranh già trẻ, còn căng thẳng lắm.
   Ví dụ, vừa rồi có chuyện Hội đồng dịch. Ai sẽ làm? Cuối cùng là ông Nguyễn Xuân Sanh. Vì ông Sanh là ủy viên Ban chấp hành mà những người khác, không phải uỷ viên BCH.
   Phan Hồng Giang cáu lắm. Một lão Hữu Mai  bốn ngày nữa, ra khỏi Ban thư ký mà hôm nay, còn ngồi quyết định cái chuyện về hội đồng dịch, như thế nghĩa là thế nào?
    Tóm lại, không thể chơi tử tế với lớp già được!

     Còn chuyện đấu tranh cũ mới.
 Theo chữ của Nguyễn Khải ,“bọn TW” bây giờ ăn nói với nhau cứ như hàng tôm hàng cá. Hà Xuân Trường bảo báo Văn nghệ các anh phải cẩn thận. Các anh làm sao họ nói cho, họ kiện; mà họ đã kiện là chết, cóc có ai xử cho anh đâu!
   Tại hội nghị BCH, ông ta lại nói rằng chúng ta phải đề phòng, gần đây tình hình Hội, tình hình văn học, như có một luồng gió đen. Thế là Vũ Tú Nam phải đứng lên. "Tôi là bí thư Đảng uỷ ở đây, tôi không hề thấy có một luồng gió đen nào cả?”
  Ân kể: sau này, đến tai ông ông Linh, ông Linh tỏ ý không bằng lòng.

   Một ví dụ về sự tan nát của Hội Nhà văn - báo Văn nghệ:
    Ông Đào Vũ lung lay lắm rồi. Định đưa cánh Ngô Ngọc Bội lên, nhưng hỏng. Cánh Ngọc Trai, Võ Văn Trực chống lại. Nhiều tin đồn là Nguyên Ngọc sẽ về. Đào Vũ đi lên trên vận động chỗ bà Mai (vụ phó vụ báo chí ) để tại vị. Lúc đầu tưởng đã xong, ông Lê Xuân Đồng đã đồng ý. Nhưng ông Độ không chịu, Hội Nhà văn không chịu.
   Đúng lúc này, đẻ ra một tình hình mới. Báo Văn nghệ đề nghị tăng giá. Bưu điện họ không bằng lòng. Mà nếu bán theo giá cũ, thì mỗi số, báo Văn nghệ lỗ 1 triệu. Tháng lỗ 4 triệu. Thế là Đào Vũ làm đơn xin đình bản báo và  bỏ đi Sài Gòn.  Nguyên Ngọc có về, thì cũng là về trong hoàn cảnh rất khó.
     Về Tạp chí mới (Tác phẩm văn học ) ông Chính Hữu, bà Tú nhận định: Nguyễn Đình Thi thấy có thể mất tổng thư ký, nên  chạy về làm. Và ông Thi dựng ê kíp của mình, Hoàng Trung Thông, Thợ Rèn v.v..
    Bùi Bình Thi chỉ còn là người đi thu bài. Ngọc Tú không có quyền gì. Ông Thi bảo tôi ở nhà, tôi duyệt bài. Nếu tôi đi vắng, anh Thông, anh Kim Lân sẽ duyệt. Như vậy, lại khác rồi.
   Lại Nguyên Ân bình luận: Đây là một thứ tạp chí của các cựu chiến binh và trưởng lão, nó sẽ là tạp chí thương phế binh.

  Bài của tôi (VTN)  về Thời xa vắng gửi báo Văn nghệ, ông Đào Vũ không đăng, bảo chúng ta không trở lại vấn đề này nữa. Ở Tác phẩm văn học, ông Bùi Bình Thi cầm về xong cũng không đăng (chỉ giản đơn là nhắc nhiều đến Lê Lựu nhiều quá đã là không hay rồi!)
   Nhà xuất bản của tôi đang ra cuốn mới của Nguyễn Minh Châu.
   Ban đầu, ông Châu lo lên đại tá ở bộ đội, lại lo bộ đội đánh, nên phải tranh thủ đưa truyện viết về  bộ đội vào, và cuốn sách chỉ đề tên là Chiếc thuyền ngoài xa
    Bởi vậy lời giới thiệu của Lại Nguyên Ân không đăng được, cơ quan  giải thích rằng không có trang và Nguyễn Minh Châu sợ lôi thôi!
   Đến khi Nguyễn Minh Châu lên đại tá rồi, thì lại muốn đề là Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu và muốn dùng bài Ân - nhưng đã đưa bản thảo đi rồi.
     Ân  đưa sang báo Văn nghệ cũng không đăng.
   Tóm lại, tất cả tình hình văn học bây giờ đang loạn, và mọi sự cứ rối mù, cứ xoắn xuýt vào nhau
   Người nào cũng lo quyền lợi của mình. Lo việc trước mắt không xong còn lấy đâu mà lo làm những việc lâu dài. Không thể có đồng lòng nhất trí , cho nên chắc chả làm gì được.

18-7
   Tế Hanh bữa nọ kể về Tố Hữu nhà bây giờ vắng vẻ lắm. Ông thư ký ngồi ngáp, bảo là không có việc gì.
   Ngày trước, Tế Hanh muốn đến gặp không được. Hàng rào công việc của Tố Hữu đã ngăn cách tất cả. Lúc nào cũng có điện thoại. Bây giờ ông Tố Hữu phóng ô tô đi các nơi, đến gặp Lưu Trọng Lư, Tế Hanh. Và ông đòi đăng từng bài báo nhỏ, ở báo Văn nghệ. Nghe nói trong Sài Gòn, nó còn cắt cả bài của ông ta nữa, khi thấy có chuyện lướng vướng nào đó (chuyện bạn thơ gì đấy).
   Năm nay 1987, là kỷ niệm 50 năm tuổi đảng và tuổi thơ của Tố Hữu. Đề nghị NXB Văn học làm cho một tuyển 50 bài, sau lại thay bằng một tuyển 100 bài. Không hiểu NXB Văn học có chịu không. Mọi khi, còn chưa có ý định, nó đã bảo ông làm rồi…
  Báo Thể Thao & Văn hóa một số giữa năm có đăng kỷ niệm về  Nazim Hikmet và mấy bản dịch mới của Tố Hữu. Cũng chẳng ra sao cả.

    Tế Hanh hé ra một việc lớn khác: Nghe nói, phen này, phe ông Thi rất muốn trì hoãn đại hội nhà văn, vì sợ sẽ bị lật nhào.

29-9
   Lê Lựu kể:
   Trong một bài viết về tình hình văn học ( có cái ý “sống bây giờ đáng ngại nhất lại là đồng chí đồng đội mình“), người đại tá mà tôi nói ở đây, chính là Tố Hữu.
Chẳng phải, tại hội nghị đảng viên, ông Tố Hữu đã sầm mặt lại, khi nghe nói đến các tiêu cực. Thế mà bây giờ, ông ta nói với ông Khải đầy giọng kích động. Khải hiểu ngay:"Lão lại muốn mình làm tên lính tiên phong trong mọi việc mà". Đáng sợ.

  Lê Lựu nói tiếp:
  - Ông Khải cư xử có mấy cái tài. Thứ nhất là đưa được Ngọc ra làm Tổng biên tập báo Văn nghệ. Tại hội nghị ban thư ký, Nguyễn Khải nói như thế này: “Bạn với anh Ngọc thì tôi không bạn được. Đấy các anh xem, tôi với anh Ngọc có chơi với nhau được lâu bao giờ đâu. Nhưng làm tổng biên tập, thì lúc này, không ai bằng Nguyên Ngọc.”
  Thứ hai là đưa Hữu Mai ra khỏi Ban thư ký. Vì việc này có xong, thì việc trên mới lọt được. Bây giờ, ông Nguyễn Khải ấy cứ phất phơ như thế mới hay, làm không làm nhiều mà bỏ cũng không bỏ hẳn. Ai muốn bình luận thế nào thì bình luận. Nhưng việc chính, đừng hòng qua khỏi mắt hắn.
   
   
8-11
     Chuyện do Trần Đình Sử kể:
    Vừa rồi (7/10) cuộc họp của ông Linh với giới văn nghệ sĩ (100 người tiêu biểu). Giới phê bình chỉ có Nguyễn Đăng Mạnh được mời. Ông Mạnh nói nhiều, trong đó có cái ý sau này mọi người hay trích dẫn "Đảng không thèm nghe ai, chỉ giảng giải, coi khinh văn nghệ sĩ v.v…"
    Cuộc họp đó, không báo nào thèm nói tới, kỳ lạ thế. Nguyên Ngọc phải chạy đi hỏi, rồi cho đăng bài tường thuật, do chính Nguyên Ngọc viết (báo Văn nghệ chỉ có mình Nguyên Ngọc được mời họp).
     Từ Sơn trên Ban văn hóa văn nghệ tự thân đến báo Nhân Dân đề nghị đăng tin. Có những người như Hoàng Trung Thông, không được mời đến dự họp, tức lắm, đứng ở ngoài chửi ầm lên "Tại sao lại làm cái lối ấy?”
    Nguyễn Đình Thi có nói một câu (được Nguyên Ngọc đưa lên báo), đại ý nói có mở rộng dân chủ cũng nên mở vừa vừa thôi, kẻo rất phiền. Câu ấy đăng lên, ông Thi đâm hố, đi đâu cũng phải thanh minh (chính Nguyễn Đình Thi, trong những kỳ họp ở Hội nhà văn mấy hôm sau  cũng không nhắc gì đến buổi họp với ông Linh cả).

    Sau buổi họp với giới văn nghệ, có việc Bộ Chính trị thông qua một nghị quyết về văn nghệ. Toàn Bộ Chính trị dự và tán thành. Cả ba ông cố vấn dự cũng tán thành. Ông Trường Chinh thêm vài điểm, ông Lê Đức Thọ nói dài nhất, hơn một tiếng đồng hồ, có cái ý nói rằng chính ông ta cũng thấy thế này từ lâu rồi, nhưng Hà Xuân Trường không làm được, giờ Trần Độ mới làm được. Rồi gì gì nữa. Thế là ông Phạm Văn Đồng vặc, chúng tôi biết cả rồi, thôi anh đừng giảng nữa. Rồi ông Phạm Văn Đồng lại nói một lúc nữa, chả ai hiểu ông muốn nói gì, nhưng hình như không được ưng lắm (thì vị trí độc tôn của ông ấy trước đây mất rồi còn gì!).
     Về phản ứng của giới thủ cựu trước khi có nghị quyết, đi đâu Phan Cự Đệ cũng bảo ông Linh đang là phe thiểu số, đừng tưởng ai cũng nghĩ thế cả đâu. Có thấy người ta để Tổng bí thư ký không. Đấy là họ bắt Nguyễn Văn Linh chịu trách nhiệm.

    Liên quan đến phê bình một chút là chuyện sau đây. Một lần, tại hội nghị giới phê bình trẻ, ông Đệ cho  Phạm Xuân Nguyên lên phát biểu, đá ông Mạnh mấy câu (bài viết về phê bình ở báo Văn nghệ), đá Lại Nguyên Ân mấy câu (bài trên báo QĐND), đá Trần Đình Sử ( cuốn Thi pháp thơ Tố Hữu). Xong, lại xoay ra hỏi:
  - Tôi nói thế này, có làm mếch lòng mấy vị cố vấn báo Văn nghệ.
   Rồi doạ gửi bài cho báo.
  Dĩ nhiên Sử Ân không nói gì. Tình hình căng tới mức ông Khải định dàn hoà, cho Đức Đệ  gặp Mạnh Ân nhưng Mạnh  Ân… không chịu.
    Mạnh đang thời đắc ý của mình. Vũ Trọng Phụng tuyển tập đã được in ra. Mạnh còn tự hào, hôm gặp ông Linh ở Nhà hát lớn, Mạnh ngồi ăn phở ngay trước mặt ông Linh.

   … Cuộc đời cũng chả phải là đáng vui đâu. Cái mới, không do ta mang lại, mà là do cấp trên mang lại.
     Nghe nói, Hội nhà văn+ Hội văn nghệ Hà Nội có một cuộc gặp mặt, nhân ý kiến về báo chí của ông Linh. Một số phát biểu rất hăng. Vũ Bão nói rằng sẽ đi kiện Hoàng Tùng về chuyện phê bình Sắp cưới  trước đây, bảo như thế là vu khống về chính trị (tội cũng nặng như cưỡng dâm trẻ con), không khí cứ loạn xì ngầu cả lên. Nguyễn Khải phải nhận sự việc đã  ra ngoài ý muốn của ông ấy.
   Nguyễn Khải chỉ bình luận thêm một khía cạnh về việc phục hồi hôm nay:
  - In lại tác phẩm lại là cái đáng sợ nhất. Nếu bảo Trần Dần in lại Người ngưới lớp lớp thì chính ông ta cũng bảo đừng, đừng làm thế.

21/8/2013
 
 
Source : Blog VƯƠNG-TRÍ-NHÀN




 

Viên Linh - NGUYỄN XUÂN HOÀNG, từ THƠ đến “VĂN”

 
 
24.08.2013


NxHoang-and-Van-Magazine
 
Lời Nói ÐầuDa màu ) : 
Bài viết dưới đây: “Nguyễn Xuân Hoàng, từ Thơ đến “Văn” – chữ “Văn” trong ngoặc kép, vừa là văn chương, vừa là tên Tạp chí Văn mà Nguyễn Xuân Hoàng làm Thư ký Tòa soạn khi ở Việt Nam từ 1972 tới 1974, và làm chủ nhiệm khi tờ báo tục bản ở Hoa Kỳ. Bài này mở đầu chủ đề đặc biệt của Tạp chí Khởi Hành số đôi 187-188, tháng 5 và 6, năm 2012. Tạp chí Khởi Hành do nhà thơ Viên Linh làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, xuất bản từ 1996 tại California, ra hàng tháng, hiện đã ra tới số 201, chủ đề Quang Dũng, tháng 7.2013. Hiện diện tại Hải ngoại 17 năm qua, Khởi Hành hiện nay là tờ tạp chí văn học ra hàng tháng duy nhất xuất bản từ Thế kỷ XX còn tồn tại và tới tháng 11.2013, sẽ bước qua năm thứ 18. Với chủ trương bảo tồn Văn hóa Văn học Truyền thống, đặc biệt là Văn học Miền Nam 1954-1975, Khởi Hành đã qui tự hầu hết những cây bút nổi tiếng của Miền Nam từ đó đến nay. Thư ký Tòa soạn của tờ báo là cây bút nữ Nguyễn Tà Cúc. Bài về Nguyễn Xuân Hoàng mở đầu cho loạt bài “Chân Dung Văn Học Việt Nam: mỗi nhà văn một tạp chí” của Khởi Hành dự trù sẽ gồm 9 bài, nhưng do suy nghĩ thêm, và do độc giả đề nghị, sẽ phải thêm hai ba bài nữa. Loạt bài này chủ yếu viết về những nhà văn mà sự nghiệp gắn liền với một tờ báo, như đã loan tin từ lúc đầu:

1. NGUYỄN XUÂN HOÀNG (tạp chí Văn, từ 1972-hải ngoại),
2. NGUIỄN NGU Í (tạp chí Bách Khoa),
3. NGUYÊN SA (tạp chí Hiện Ðại)
4. TUỆ SỸ (tạp chí Tư Tưởng-Vạn Hạnh)
5. NGUYỄN MẠNH CÔN (tạp chí Chỉ Ðạo)
6. MAI THẢO (tạp chí Sáng Tạo)
7. NGUYỄN KHẮC HOẠCH (tạp chí Thế Kỷ 20)
8. MẶC ÐỖ (tạp chí Phổ Thông Hà Nội, Quan Ðiểm)
9. VIÊN LINH (tạp chí Thời Tập-Khởi Hành) [...]
(Sau này do suy nghĩ thêm, và do độc giả đề nghị, danh sách đã ghi thêm:)
10. NGUYỄN VỸ (tạp chí Phổ Thông)
11. TRẦN PHONG GIAO (tạp chí Văn, nguyên thủy 1964-1972, số 1-210)
12. THẾ NGUYÊN (tạp chí Trình bày –bày không viết hoa-, Ðất Nước).
13. TAM ÍCH (tạp chí Nhân Loại, nhà văn Miền Nam)
Nhận định của nhà thơ Viên Linh là khác với những nước có tình thế ổn định lâu dài, nền văn học của họ trụ vào sách vở đã xuất bản; Việt Nam luôn luôn xáo trộn, phân ly, văn học trụ vào các tạp chí, nền văn học tạp chí đóng vai trò tiên phong và nòng cốt, sau mới đến xuất bản và sách vở. Ông nói rằng cứ nhìn vào các tạp chí ghi ở trên, người ta thấy được từng nhóm với các tên tuổi và khuynh hướng khác biệt. Ðiều này đã được ông viết ra nhiều lần, kể từ năm 1976, trong tập biên khảo được viết do học bổng The Ford Foundation tài trợ: “Những Khuynh Hướng Trong Văn Học Miền Nam, 1954-1975” (chưa xuất bản). Vì thế, viết về chân dung, hành trạng các nhà văn nói trên, cũng phải viết về những tạp chí do họ chủ trương, thực hiện. Tâm tư của họ ở trong các tạp chí họ làm, nhiều phần là đậm nét hơn trong các tác phẩm của họ, tác phẩm là viết lại, thêm bớt, vị nghệ thuật nhiều hơn là tạp chí, viết ngay, nói ý mình, bám sát sinh hoạt thời thế xung quanh. Bài dưới đây về Nguyễn Xuân Hoàng cho thấy vài nét về nhận định ấy.

1. Trong cuộc sống, đọc thơ văn sách báo của cổ nhân là điều tất phải có đối với kẻ từng có dịp ngồi trên ghế nhà trường; và chiêm nghiệm thanh sắc đương thời cũng là điều hẳn sẽ tới với kẻ biết nghe biết nhìn giữa cuộc hành trình. Chưa kể có kẻ đã kín đáo thổ lộ với bà tiên hiện ra trong giấc mộng ba điều ước của cuộc đời, mà không hề nghi ngờ rằng bà tiên đó đôi khi là một mụ phù thủy hóa trang, mụ sẽ nhân đó bày ra một lộ trình trắc trở cho kẻ mơ mòng. Không còn nhớ lúc niên thiếu kẻ viết bài này đã ước ao gì, nhưng cô bạn học lớp nhất trường làng – không phải là cô thôn nữ cùng quê, mà là dân Hà Nội tản cư về trú ngụ ở chùa Ðồng Văn – trong lúc nghe sáo diều vi vu vẳng lại từ con đê cuối thôn, đã vạch ngực áo tôi ra, đập nhẹ bàn tay trắng muốt lên ngực tôi, và chỉ bảo cho tôi làm ngược lại trên ngực nàng, nói rằng “về thể chất, mình cũng xứng đôi lắm;” tôi đã ngây thơ hỏi lại: “thể chất” là gì?
Khi nàng đứng trên mặt bàn lớp học, ở trên ngọn đồi đình làng, nhún nhảy xòe chiếc váy hoa ra, hát và múa theo bài “One Day” của Johanne Strauss [qua lời Việt của Phạm Duy], và dạy tôi hát theo; nàng nói: “Gia đình Xuân sẽ về Hà Nội. Sau này anh nhớ lên Hà Nội cho sớm. Em dạy mình hát, mình sẽ cùng nhau thành danh ca nức tiếng Hà thành;” tôi cho là không cần, nên nói rằng: “Chỉ cần Xuân hát cho anh nghe là được rồi.”
Nàng tiên ấy còn dạy tôi một điều thứ ba nữa, sau hai điều về thể chất và danh vọng, ấy là tiền tài. Nay nhớ lại, dường như lần nào nàng cũng lừ mắt lộ vẻ gì đó như chán nản, khiến sau này nghĩ đến, có lẽ vì thế mà đến ngày nàng theo gia đình “dinh tê” [rentrer] về thủ đô, vào khoảng năm 1949, nàng không thèm từ biệt tôi chăng? Nhưng không hẳn thế, vì nàng vẫn nhét vào túi quần soóc của tôi một chiếc khăn mùi soa thêu thùa trắng tinh, và một bánh xà phòng “Dove” mãi khi đi Mỹ tôi mới thấy lại, hẳn là có điều gì đầy hứa hẹn chứ? Chị tôi khi thấy hai kỷ vật “của cái con bé ranh Hà Nội tản cư,” đã cười rằng: “Ðó là quà của con ông Quan thuế bắt hàng lậu có khác, chứ ý tứ gì!” làm tôi tức lắm. Xuân đẹp và chân thành. Xuân không thể là người như chị tôi phán, hay như cái anh giáo sư Triết học nọ sau này phán: “Người ta nói sắc đẹp vốn là bạn đồng hành của dối trá và phản bội.” (1)
2. Năm 1959, trong một lúc sa xảy với nghề báo, tôi theo bạn lên dạy học tư ở Ban Mê Thuột. Rời Sài Gòn tạm một thời gian, sách vở đồ đạc nặng gửi lại nhà một đồng nghiệp, thình lình một hôm nhà giáo dạy cùng trường Bạch Ðằng đưa cho tôi xem tờ Tạp chí Hiện Ðại. Trên cùng một trang báo có bài thơ Phượng Liên của tôi đăng dưới bài Mang Mang của Hoang Vu. Tôi không gửi thơ cho Hiện Ðại, mà do người bạn nơi tôi để lại đồ đạc sách vở, đã lấy bài thơ tôi viết cho em Phượng Liên ở Huế, cũng là bạn chung, và là bạn thư từ với tôi, đưa cho Nguyên Sa. Như Võ Phiến nhớ đúng khi anh viết đã đọc thơ phiếm của Thần Ðăng (Ðinh Hùng) và thơ tôi trên nhật báo Ngôn Luận (giai đoạn 1954). (2) Tới năm 1960 tôi đã có vài chục bài thơ đăng trên các tạp chí Văn Nghệ, Sáng Tạo, Thế Kỷ 20, Gió Mới, nhưng Nguyên Sa viết như đây là những cây bút lần đầu xuất hiện, mặc dù anh có thòng một câu kiểu búa lớn: “Có phải nỗi buồn tập hợp trên mắt những người trẻ tuổi ấy phảng phất niềm đau của thế kỷ bây giờ?” (3) Tôi đã leo lên lầu cao ốc Mai Loan nơi đặt tòa soạn tạp chí Hiện Ðại để chất vấn, vì không ai chọn thơ của người đã có thơ in từ sáu năm trước, với một anh in thơ lần đầu, nhưng chỉ gặp Thái Thủy, trị sự tòa soạn, trong khi tôi chỉ muốn gặp Nguyên Sa, chủ nhiệm.
Hoang Vu chính là Nguyễn Xuân Hoàng. Và thơ Nguyễn Xuân Hoàng hay không thua gì văn Nguyễn Xuân Hoàng; (khác với trường hợp Mai Thảo: thơ Mai Thảo hay hơn và thật hơn văn Mai Thảo.) (4)
Tôi sao lục bài thơ ấy nguyên văn như sau, chỉ chú thích thêm tên của thi sĩ:
MANG MANG

 
từ xa phố chợ đến giờ
 
chân quen bỏ lệ gõ bờ lộ quen
 
hoang vu chín đến độ thèm
lạnh tàn nhẫn rót vào đêm lên đường
mùa sương phố núi mù sương
nhịp buồn hút gió hồn nương sao rừng
 
chuyện linh hồn với bản thân
 
bàn tay thượng đế mộ phần chiêm bao

đồi thông xanh tóc nghẹn ngào
 
ngập ngừng lạnh xuống từ bao lâu rồi
 
còn tôi, còn chỉ mình tôi
 
mây bay đầu núi kéo trời lên xa
 
bàn tay thoáng nổi da gà       
 thẳm sâu lòng đất nhà ga luân hồi

HOANG VU (tức Nguyễn Xuân Hoàng)


NXH-MangMang-tho
Bản chép tay “Mang Mang”
do độc giả Luna gửi tặng chuyên đề NXH

Bài thơ không viết hoa ở đầu câu, không dấu chấm xuống dòng, từ ngữ hay thi ngữ, đậm đặc nét thơ của giai đoạn ’60: “linh hồn, thượng đế, luân hồi, bản thân, mây kéo trời lên xa và mộ phần chiêm bao, lạnh tàn nhẫn…”. Tiếc thay cái tên Hoang Vu không xuất hiện nữa, vì nếu Nguyễn Xuân Hoàng còn làm thơ, bàu trời thi ca Việt Nam sẽ thêm một vì sao sáng.
Bài này cũng như bài Phượng Liên của tôi nằm cùng một trang báo, mà hai tác giả của hai bài thơ trước sau có chung những khó khăn tương tự, những rắc rối tan tác thì đúng hơn, đều rất bi thương. Nguyên Sa vơ vào hai tên trên cùng một trang báo, như sự tình cờ run rủi hai toa tàu xuôi ngược ráp tạm nơi một sân ga xép. Hoàng đậu tú tài xong, thi tuyển thành công vào Quốc Gia Hành Chánh, song bỏ. Ðang học Y khoa – vì bà mẹ muốn con trai thành bác sĩ — thì nhận lời thách đố của bạn học Hà Thúc Nhơn, — viên bác sĩ quân y ở Nha Trang sau này chống tham nhũng bằng súng đạn và chết vì súng đạn — chơi trò nghịch ngợm lỗ mãng của con trai thời mới lớn, nên một mặt thắng cuộc thách đố, (Hà Thúc Nhơn thua, sẽ phải trả tiền đãi bạn học ăn phở cả tháng), song Hoàng phải rời Y khoa vì trò dại dột. Cuối cùng anh đi học Sư Phạm, ra làm giáo sư Triết, một nghề anh từng xác định: “Giáo dục không phải ngành thích hợp của tôi. Từ tiểu học, qua trung học, lên đại học, các ông thày bà cô nhìn tôi như môt đối tượng để trút lên đó những bực dọc của cuộc đời khốn nạn của họ. Tôi là tấm bia để họ bắn vào đó những mũi tên mặc cảm.” (5)

Ðây là lời nói thật của Nguyễn Xuân Hoàng, kẻ đã cùng tôi “Ði thật xa với …” trên báo Văn.* Nhìn Hoàng tôi biết con người của bạn không phải con người của khuôn thước, vâng dạ, mòn sáo, lễ phép vì xã giao, vì một nghề nghiệp phải gương mẫu, có kẻ ra đường thấy ai cũng cúi đầu nhũn nhặn chào hỏi, mà miệng thì lầm bầm bài bác người ta. Tôi từng phải đi dạy học tư một thời gian, không phải giam thân vào nghề mô phạm như chàng thi sĩ Hoang Vu, nhưng tôi cũng không thích nghề dạy học, nghề nghiệp sau này của các bạn cùng lớp với tôi thời Trung học: các giáo sư Nguyễn Nhật Duật, Hà Mai Phương, và của hầu hết các bạn văn nghệ cùng thời: Huỳnh Phan Anh, Ðặng Phùng Quân, Nguyễn Ðông Ngạc, Nguyễn Văn Sâm, Cao Thoại Châu, Nguyễn Ðịnh, v.v… vì nhiều lý do.
Một trong những lý do “nhãn tiền” là thù lao quá ít ỏi. Không thể sống quá kham khổ, gò bó, hệ lụy: kham khổ về vật chất cũng như kham khổ về thời gian; gò bó hệ lụy về giao tế cũng như về phương cách sống. Người nghệ sĩ sáng tạo mà theo nghề dạy học thì khó thành công, dễ mang tiếng, vì cung cách nghệ sĩ là tự do diễn đạt, tự do phát biểu, … Tôi thật sự không nhìn thấy ở thi sĩ Hoang Vu, hay ở nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, một nhà giáo khuôn mẫu. Như tôi cũng thật sự không bao giờ nhìn thấy ở các bạn nhà giáo của tôi một phong cách duy nhiên tự do phóng khoáng cởi mở thành thật hồn hậu khôn ngoan thân hữu phục thiện giản dị tinh tế như ở Nguyễn Xuân Hoàng. Làm gì lại có một nhà giáo hiếm hoi như thế, mà chỉ có một nhà văn như thế đi làm nhà giáo mà thôi.
Thuở còn niên thiếu chắc hẳn Nguyễn Xuân Hoàng đã nói ra ba điều ước với một mụ phù thủy mà chàng ta ngỡ là nàng tiên, nên mụ liền thiết kế cho chàng một mê cung, một nẻo đường chông gai trắc trở, gài tác giả Người Ði Trên Mây vào đáy tầng địa đạo, Bụi và Rác, châm chọc Orphee đa tình và chất phác ngứa cổ quay lui, khiến cho Eurydice thân tâm hóa đá (+), tếch nẻo tây phương, hành hạ người cha thương con yêu dấu ngàn trùng xa cách, trừng phạt tấm lòng hồn hậu phải đeo mặt nạ vô tâm vô tình và bạc bẽo. Không, người đời cứ ngỡ Phan An Tống Ngọc khôi ngô kỳ vĩ thì hẳn đương nhiên hạnh phúc trong chốn tình trường, có biết đâu họ cũng tâm tư nhàu nát, mắt lệ nhiều khi, đêm đêm một mình một bóng chờ đợi người Bích Câu mái tóc bạch kim, hay xuân hạ thu đông cũng nhiều lần nương tai nghe tiếng mãn gào trên mái bỏng?
Bài thơ “Mang mang” của Hoang Vu mở đường văn chương cho họ Nguyễn năm 1960, thì bài “Phượng Liên” khiến trung niên thi sĩ Bùi Giáng lù lù hiện ra, ôm lấy tôi, ồn ào nói:
“Ông đừng làm thơ tự do nữa nhá, chỉ làm thơ lục bát thôi nhá! Lần đầu tiên thơ lục bát Việt Nam đem tên người yêu vào trong thơ một cách bề thế nghiêm trang số dách là ông đấy nhá. Huy Cận hắn đọc lục bát của ông là hắn sẽ đi tìm ông đấy.”** Từ đó mà tôi có thêm một người bạn thơ, và không chỉ có một hành lang vây sầu, mà hành lang nào cũng vây sầu cả. Sau này một cô gái Huế cười như nắc nẻ, cho tôi biết Phượng Liên là ai… Dù thế nào, nàng cũng đã ở Chín Suối rồi.
3. Tháng trước Khởi Hành dọn tòa soạn, kéo dài nhiều ngày, mỗi ngày ít nhất là một chuyến xe pick up sách vở chở đi, mang về địa điểm mới, chở vào kho, và vất vào thùng rác. Ông già chở sách báo mỗi chiều sau phận sự, lại chở đi một xe giấy báo sách vở đã xé bìa, đem bán. Chúng tôi nói rằng ngoài thù lao nhất định mỗi ngày, sách vở giấy báo cũ đem bán cân ông được quyền giữ lấy. Ông cho biết đã bán 6 xu một pound giấy, và mỗi ngày kiếm được thêm 20 đồng, có ngày tệ nhất được 15 đồng. Tôi đã cho đi hầu hếtû các tập san lưu giữ mấy chục năm nay: Văn Học, Văn, Hợp Lưu, vì cuối cùng, không định viết gì về báo chí văn học hải ngoại nữa, mà sẽ chỉ viết về Văn học Miền Nam 1954-1975 mà thôi. Tôi cũng đã cho đi khoảng gần trăm số báo Văn Học và tuần báo Văn nghệ của Hà Nội, mà hồi đặt mua từ nhà phát hành ở New York, phải trả 5mk một tờ báo có gáy vuông (Văn Học, Nghiên Cứu Lịch Sử, Khảo Cổ Học), và 3mk cho một tờ báo đóng gáy yên ngựa: (Tuần báo Văn nghệ của Hội Nhà Văn, …)
Trong thị trường xuất bản hải ngoại, các tạp chí văn chương hữu ích hơn các thi phẩm, truyện dài truyện ngắn, vì chính ở đó là công trình tập thể của từng nhóm, tâm tư trao đổi của tuổi trẻ lưu vong, và dấu tích làm báo tập thể của tờ báo; — chẳng hạn tờ Văn Học sẽ cho thấy đó là tờ báo của nhiều ông chủ nhiệm kiêm chủ bút nhất; năm trước có ông chủ nhiệm Võ Phiến thì năm sau có ông chủ nhiệm Nguyễn Mộng Giác; ông nào có tiền in báo thì lên làm chủ nhiệm một thời gian, hết tiền thì đi ra và lại có ông C ông D lên làm chủ nhiệm kế tục. Thành ra Văn Học là tờ báo có tới 5, 6 chủ nhiệm, ông nào có gan thì làm chủ nhiệm lâu hơn, ông nào có con là bác sĩ luật sư thì tờ báo dày hơn là ông độc thân, v.v…
Tờ Văn thì khác, ở trong nước đầu tiên thì Trần Phong Giao làm Thư ký Tòa Soạn, tới giai đoạn sau thì trước là Nguyễn Xuân Hoàng làm Thư ký Tòa Soạn, sau chót lại là Mai Thảo; ra hải ngoại thì đổi lại, Mai Thảo ra đi, để tờ báo lại cho Nguyễn Xuân Hoàng tiếp tục, cả hai kiên thủ thành trì được tổng cộng trên 250 số, công lao khá lớn. Nguyễn Xuân Hoàng làm tờ Văn từ tháng 12.1996, vất vả hơn Mai Thảo hồi ‘80, vì người trước được đàn em hỗ trợ, lấy cho rất nhiều quảng cáo, nếu chỉ tính 100 mk một trang, tờ Văn của tác giả “Cùng đi một đường” lấy quảng cáo một số có thể in ba số báo cho ba tháng, còn tờ Văn của tác giả “Người đi trên mây” ít quảng cáo hơn nhiều, nên khó khăn gấp bội.
Cuối năm 1996 Mai Thảo không có ý định trao lại báo Văn cho Nguyễn Xuân Hoàng, mà đã ngỏ ý giao cho người khác, song người này vốn luôn luôn thất bại khi làm báo, nên ý định của Mai Thảo thay đổi vào phút chót. Mai Thảo nói với tôi như thế khi anh còn ở trong chung cư độc thân Christian Home trên đường Bolsa, khoảng tháng 9 năm 1996.
Ðời làm báo của Nguyễn Xuân Hoàng không chỉ qua tờ Văn, mà còn trên 10 năm làm báo cho công ty Người Việt, và khoảng 5 năm làm tờ Việt Mercury ở San Jose. Và hiện nay còn đang làm tờ Việt Tribune cho bà Trương Gia Vy, cũng ở thành phố Bắc Cali đó. Trong khi đó hàng tuần anh còn viết bài cho cái blog do anh phụ trách trên diễn đàn của đài Tiếng nói Hoa Kỳ. Chủ nhiệm báo Văn là ông Nguyễn Ðình Vượng rất ưu ái nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, song một hôm vì tôi tới báo Văn gạ chuyện mà ông gọi anh và tôi là hai gã playboys. Lúc ấy có mặt Mai Thảo, chắc Hoàng còn nhớ.
Vốn là cuối tháng 4 đầu tháng 5.1969, nơi trang 80 trong số Văn chủ đề tưởng niệm Y Uyên mới gục ngã trên trận địa gần đồi Nora Phan Thiết, Thư ký Tòa soạn Trần Phong Giao đã sơ ý phát biểu một lời xúc phạm tới phụ nữ Huế.
Trần Phong Giao đã – lạ thay, – quá tự tin ở sự phán đoán của mình khi khuyên một nhà văn trẻ đừng lấy gái Huế “…ái tình […] thì được, còn cái mục xây dựng thì đừng, ấy là dựa theo kinh nghiệm bản thân cũng là đúc kết kinh nghiệm của một vài anh em có vợ Huế khác […]…”(6) Hai nhà văn nữ gốc Huế là Túy Hồng, Nhã Ca đã gửi lá thư cho trang Văn học Nghệ thuật Nhật báo Tiền Tuyến, do Thanh Tâm Tuyền phụ trách, một lá thư ngỏ kể tội Trần Phong Giao khinh nhờn xứ Huế, “cào xước quê hương xứ Huế” và tuyên bố chấm dứt cộng tác với báo Văn.
Thời gian ấy tôi nhận lời mời của Ðại tá Anh Việt Trần Văn Trọng, chủ tịch Hội Văn Nghệ Sĩ Quân Ðội, làm Thư ký Tòa soạn Tuần báo Khởi Hành mới được 3 tuần, nhưng từ 1966 tới lúc ấy vẫn đang là Thư ký Tòa Soạn Nhật báo Tiền Tuyến của Tổng cục Chiến Tranh Chính trị. Khi kiểm soát bài vở tôi khựng lại ở trang Văn nghệ, rồi đề nghị với Thanh Tâm Tuyền: Ðể cho có hiệu quả, thư của các nữ sĩ này phải đăng lên Khởi Hành, là báo Văn học Nghệ thuật. Tôi trả nhuận bút lá thư 500 đồng, nhờ anh gửi cho hai bà ấy.
Từ Cục Tâm Lý Chiến trên đường Hồng Thập Tự, tôi chạy ra Khởi Hành trên đường Phạm Ngũ Lão, đục bỏ một bài đã đổ khuôn chì, cho xắp chữ thay thế bằng lá thư của hai nữ sĩ. Thư đề “Kính gửi Anh Trần Phong Giao, TKTS báo Văn” nhưng tôi đã đặt lại tựa, in chữ lớn ngoài bìa báo: “Túy Hồng, Nhã Ca lên tiếng về một nhận định của báo Văn đối với gái Huế.”
Hôm sau báo phát hành, đó là Khởi Hành số 3, ra ngày 15.5.1969, và bài in nơi trang 2, chạy qua trang 3. Vào Tiền Tuyến Thanh Tâm Tuyền đưa trả tôi 500 và đòi lại lá thư, tôi đưa anh tờ Khởi Hành còn thơm mùi mực in, nói anh quên hôm nay là Thứ 5 rồi à? Báo đã phát hành sáng nay rồi. Thanh Tâm Tuyền có vẻ hối tiếc: “Tôi quên là tôi cũng viết báo Văn, ông Vượng (chủ nhiệm báo Văn) rất quí tôi, lẽ ra tôi không nên đưa cho bạn lá thư đó. Nhưng mà làm báo như bạn… mới là làm báo!”
Bài báo trên Khởi Hành gây chấn động dư luận cả nước, làn sóng phản đối báo Văn lan rộng, mấy ông bà dân biểu (trong có Kiều Mộng Thu địa hạt Huế) họp báo tại Quốc Hội kết tội và đòi báo Văn phải xin lỗi phụ nữ Huế.
Ít lâu sau từ Khởi Hành tôi qua báo Văn, cả hai tờ báo cùng tọa lạc trên đường Phạm Ngũ Lão, để xem phản ứng của anh em báo Văn ra sao. Không thấy Trần Phong Giao, chỉ thấy ông chủ nhiệm Nguyễn Ðình Vượng, Mai Thảo và bạn Nguyễn Xuân Hoàng.
Thấy tôi, ông Vượng cà khịa ngay: “Thư người ta gửi cho Trần Phong Giao, phản đối hắn chứ có gửi cho báo Văn đâu mà anh viết là gửi cho báo Văn?” “Ðành là thế, nhưng mà tội là của Trần Phong Giao, còn trách nhiệm là của báo Văn chứ?” “Mẹ, anh đánh anh em, anh đánh tôi. Chờ đó.” Ông lầm bầm nói với Mai Thảo ngồi viết ở cái bàn bên cạnh, nhưng cũng có ý để tôi nghe thấy: “Tôi mà đi giày săng-đá, tôi đá nó rồi.” Tôi nghe, trả lời: “Thì tôi vẫn ở đây mà.”
Mai Thảo tuy vẫn cắm cúi viết, nhưng khuôn mặt tươi rói, rồi cười rung cả hai vai. Tôi biết ý nghĩa phản ứng ấy của Mai Thảo. Năm 1965 Mai Thảo là chủ nhiệm Tuần báo Nghệ Thuật, tôi là tthư ký tòa soạn, làm việc nhiều năm bên nhau. Chúng tôi vốn biết ông Nguyễn Ðình Vượng xưa kia đi lính, đeo lon Thượng sĩ trong Quân đội Liên hiệp Pháp, đương nhiên ông quen đi giày đinh. Nguyễn Xuân Hoàng và tôi nhìn nhau cười vui vẻ, coi như chuyện phải thế thôi. Ông Nguyễn Ðình Vượng nói với Mai Thảo, mà như nói với cả Hoàng và tôi: “Mẹ, coi hai tên Thư ký Tòa Soạn hai tờ báo văn nghệ kìa! Trông như playboys với nhau. Thế thì văn nghệ khá làm sao được. Hừ…” Tôi nghe đúng như thế, dù mãi 1972 Hoàng mới chính thức làm Thư ký Tòa soạn báo Văn.
Chuyện văn nghệ xảy ra như thế là thường, sau này quan hệ giữa chúng tôi vẫn tốt đẹp. Trước đó ba năm ông Vượng đã xuất bản Thị Trấn Miền Ðông cho tôi, các năm sau còn xuất bản ba cuốn nữa cho tôi: Mã Lộ (1970), Một Mùa Mê Hoặc, Tình Nước Mặn 1973). Trần Phong Giao còn kể với tôi nhà văn nào đã tới bảo ông Vượng sau khi số Văn “đặc biệt về Thơ” lại phỏng vấn tôi dài đến 17 trang, sao (vẫn nhà văn này, vừa ra mắt sách ở Quận Cam) nhà xuất bản Nguyễn Ðình Vượng lại xuất bản Một Mùa Mê Hoặc cho tôi làm gì!
Sau đó ít lâu có xáo trộn trong báo Văn, Trần Phong Giao bị nghỉ việc, Nguyễn Xuân Hoàng thay thế. Rồi chẳng bao lâu Mai Thảo thay thế Nguyễn Xuân Hoàng. Báo Văn xuống dốc, có thể vì độc giả vẫn hâm mộ Trần Phong Giao, không chấp nhận việc anh bị sa thải một cách quá công khai, tàn nhẫn, sau hơn mười năm gây dựng tờ tạp chí từ chỗ bắt đầu, số không, tới khi nó trở thành tờ báo văn chương bán chạy nhất, thì người “có công hãn mã”phải bước ra đường.
Năm 1973 tôi mời Trần Phong Giao làm Tổng thư ký Tòa soạn cho tờ tạp chí Thời Tập của tôi, ngay lúc ra mắt đã rất đông đảo độc giả dài hạn. Chuyện rất giản dị là ngay số 1 bài vở của Thời Tập ký tên những người sau đây: Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Nguyễn Hiến Lê, Mặc Ðỗ, Nguyễn Sỹ Tế, Vũ Thành An, Trần Tuấn Kiết, Cung Trầm Tưởng, Võ Phiến, Túy Hồng, Nguyễn Ðức Sơn, Thanh Tâm Tuyền.
Nhưng Trần Phong Giao từ chối, chỉ nhận cộng tác thường xuyên bằng cách giữ mục “Giải đáp Thắc mắc Văn học” (ký tên Thư Trung), là mục ăn khách nhất của báo Văn, và tiếp tục trên Thời Tập cho tới tháng Tư 1975. Anh còn viết một bài rất giá trị và cần thiết cho những ai muốn trở thành chủ nhiệm hay Thư ký Tòa soạn một tờ tạp chí văn chương. (7) Sau này tôi mới biết Trần Phong Giao đã vĩnh viễn rời báo Văn, xung quanh chuyện mua một ngôi nhà, anh gặp khó khăn về tài chánh mà ông chủ nhiệm lại không giúp. Nguyễn Xuân Hoàng chính thức làm Thư ký Tòa Soạn báo Văn từ 1972, nhưng chỉ khoảng một năm, Mai Thảo thay thế Hoàng, làm báo Văn cho tới 1975. Làm thơ, viết văn, làm báo, là làm tất cả những gì bấp bênh, vô định. Giai đoạn làm báo của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng vui ít buồn nhiều, nhất là thời kỳ làm báo ở Little Saigon, từ Người Việt tới Thế Kỷ 21. Chính anh viết:
“Tôi và con đường Moran của Quận Cam dính vào nhau gần 12 năm trước khi chia tay. Mười hai năm, tôi đã sống và thở với nó. Mùa nắng mùa mưa. mùa nước mắt và mùa hạnh phúc. Sống giữa những bản tin, sống giữa những ngày dài, sống giữa những đêm đen. Con đường Moran như con đường Phạm Ngũ Lão Sài gòn, nó là dòng sông chảy mãi trong tôi như ở quê tôi, con sông chảy dưới chân cầu Hà Ra ngó lên một đỉnh tháp…” (8)
“Những bản in phải bỏ dấu bằng tay trước khi lay-out [trình bày], và những buổi tối dán từng trang trên bản vỗ để mỗi đêm trên đường trở về trời đã mịt đen, đói và lạnh. Và sao mà cô đơn.
“Mười hai năm là thời gian dài gấp rưỡi thời gian tôi đã ở lại Việt Nam sau Tháng Tư 75, và gần gấp ba thời gian tôi ở San Jose làm việc cho một tờ báo mới. … Nó đã ghi vào nhật ký tôi những trang tràn ngập niềm vui sau ngày rời trại tị nạn Bataan, Phi Luật Tân, và không ít những trang ướt nhòe những vết mực đen. Hình như đời sống con người được đo bằng khốn khó hơn là đo bằng những phút giây hạnh phúc. Phải rồi, chiều dày của nhân cách nào mà chẳng tính bằng sự mất mát hơn là sự thu nhập…
“Nó nuôi tôi và hủy diệt tôi nó cho tôi tình bạn, tình yêu nhưng nó cũng cho tôi nỗi bất hạnh và sự phản bội. …
“… và tôi khám phá ra cái ánh sáng của nó: con đường Phạm Ngũ Lão ngày xưa đang thở trong tôi.” (9)
Những trang viết trên chỉ là sơ khởi cho một chương của cuốn Hồi Ký, tôi viết trước ra nhân lấy tiêu điểm từ một bài thơ ít ai biết của Nguyễn Xuân Hoàng. Tặng bạn.
[Những đoạn dự thảo trong Hồi ký 60 Năm Làm Thơ Viết Văn Làm Báo, 5.2012.ª

CHÚ THÍCH
1. Nguyễn Xuân Hoàng, Người Ði Trên Mây, Người Việt 1987, trang 27.
2.Võ Phiến, Văn học Miền Nam, tổng quan, Văn Nghệ 1986, tr.180.
3. Nguyên Sa, tạp chí Hiện Ðại số 2, 5.1960, tr.102. [Cảm ơn thi sĩ Thành Tôn đã cho mượn tờ Hiện Ðại.]
4. Viên Linh, nói với Mai Thảo tại quán ăn của thân nhân thiếu tá Hùng Sùi ở San Jose, hôm ấy quanh bàn ăn có mặt nhiều văn nghệ sĩ, nếu tôi nhớ không lầm có Khánh Trường, Phan Thị Trọng Tuyến, …
5. Nguyễn Xuân Hoàng, Người Ði Trên Mây, 19.
*. Một mục của tờ L’Express Hoàng đã đề nghị với tôi, và chúng tôi đã đồng ý nói hết, nói thật, nói thẳng, trong bài “Ði thật xa với Viên Linh” của báo Văn chủ đề Thơ ở Việt Nam năm 1972.
+. Thần thoại Hy Lạp: Orpheus là một thi sĩ, con trai của Apollo và nữ thần Calliope, khi chàng hát thì không phải ai cũng mê say, mà muông thú cũng phải lắng nghe và cỏ cây, thậm chí mấy hòn đá, cũng phải rung đôïng. Vợ chàng là Eurydice, chết vì nọc rắn. Orpheus đau khổ xuống âm phủ tìm vợ, lấy cây đàn lyre (đàn dây của Hy Lạp) gẩy cho Thần chết Hades nghe. Dĩ nhiên, đến sắt cũng phải nhỏ lệ vì thơ nhạc Orpheus, nên y bằng lòng cho Eurydice theo chồng trở về dương thế, với một điều kiện: trên đường ra cửa ngục, cấm quay đầu nhìn lại. Hai vợ chồng được thả ra, Orpheus đi trước. Khi sắp bước qua ngưỡng cửa Dương thế, như mọi thi sĩ ở đời, Orpheus hoài nghi quay đầu nhìn lại, xem quả thật có vợ đi theo sau không? Eurydice liền hóa đá.
** Bài Phượng Liên kết bằng hai câu:
Thôi còn giấc ngủ canh thâu
Một hành lang rộng vây sầu Phượng Liên.

6. Túy Hồng-Nhã Ca, “Lên tiếng về một nhận định của báo Văn đối với gái Huế,” Khởi Hành số 3, 15.5.1969, tr.2-3 [Chúng tôi chỉ lược chữ lấy ý, không đăng nguyên văn có mấy chữ rất xúc phạm.]
7. Trần Phong Giao, “Ðộc giả và những người làm một tạp chí văn chương,” Thời Tập xuân Ất mão, 18+19, 1+2.1975, trang 75-80.
8. Nguyễn Xuân Hoàng, “Con đường mang tên Moran,” Viễn Ðông, 2004.
9. Như trên.ª

 Viên Linh

Source : damau.org