Buổi sáng sinh phần
Trần Vũ
Mưa vẫn còn rơi
lai rai khi Ðiềm vào tới nghĩa trang. Hai ven đường mồ mả mọc đìu hiu nằm
men sau dẫy tường thấp. Gió thổi bời rời, phe phẩy dăm ba hột mưa ảm đạm.
Chàng trả tiền cho người phu xe dặn ngồi đợi. Ðiềm còn đau râm ran trong
bụng, không đau xẻ ruột đứt gan và ói máu như lúc nằm viện, nhưng là cái
đau dai dẳng chậm rãi âm ỉ. Chàng cố dỗ dành viên mụt nhọt thâm sâu trong
dạ dày khi bước vào cổng. Bà cụ già ngồi bán nhang chào mời chàng với ham
răng nhuộm. Ðiềm mua lấy một bó đến thắp ở miếu thổ thần. Mùi nhang đốt,
hương đèn xông nghi ngút, khói cay bỏng mắt đột ngột đưa chàng vào hẳn thế
giới của người chết. Bó nhang chập một bén lửa cứ phựt lên làm Ðiềm phải
vẩy mấy lần trước khi lâm râm khấn rồi cắm vào bát sành. Vài ngọn gió lùa
tha theo nước mưa vào trong miếu làm chàng gây gây lạnh. Ðiềm lại thấy đau
nhói trong phủ tạng, chàng chờ cho khỏe lại rồi mới đi quanh quất giữa
những hàng mồ mả. Nghĩa trang hiu hắt, hoang vắng. Thế giới sau lưng con
người chỉ phơ phất mấy đường mưa chảy lăn ròng trên bia đá. Trời mưa ri ri
suốt cả một buổi làm bầu trời xám ngắt như đã ngã về chiều dù chỉ mới quá
trưa. Hai ba giọt nước luồn qua cổ áo khiến Ðiềm rùng mình ớn lạnh.
Chung quanh miếu
thổ thần mộ lập san sát nên Ðiềm chỉ nhìn lướt các kiểu bia xây. Nhiều tấm
bằng đá hoa chạm đẹp, nhiều tấm cẩn xà cừ, và những tấm đá thạch đơn giản
chỉ mài nhẵn. Những bia mộ làm Ðiềm xúc động. Những đôi mắt người chết
nhìn chàng u uất trên dòng chữ khắc mặc niệm. Vợ hiền lập mộ. Em và các
con thương nhớ anh hoài. Bố mẹ thương con vô cùng... Lác đác vài vòng
hoa cườm bằng nhựa lây lất trên đầu mộ chí, người ta quên đem về đã phai
nước sơn nhưng còn đọc được những chữ Thành kính phân ưu. Ðau xót chia
buồn. Thương tiếc tiễn đưa... Chàng buồn buồn đi rảo qua lối đi nhỏ,
tiếng cỏ tranh lay chạm lào xào như có ai than. Thân phận kiếp người quá
là mong manh. Sống gửi thác về, tro tàn bụi cát, hồn phách tiêu tán. Gió
thổi nâng đong đưa vài miếng tro nơi đống vàng mả ai đó vừa đi thăm mộ đốt
xong. Phiến tro bay trĩu trĩu theo mùi nhang đưa từ ngôi mả mới cắm. Ðiềm
đi sâu vào trong. Những người khuất mặt còn lưu trữ chút chân dung qua di
ảnh vẫn theo dõi chàng. Có người mất thật trẻ, hưởng dương hai mươi mốt
tuổi, kẻ thất lộc ngoài tám mươi. Ðiềm đi tới cuối nghĩa trang chỗ có bức
tường đổ xiêu trông qua mấy dãy nhà lợp tôn phía Tân Sơn Nhất. Mồ mả đan
kín không còn đất trống. Chàng phân vân nửa muốn trở ra sang khu nghĩa
trang bên kia đường, nửa muốn đi tiếp sâu vào hướng ngược lại con đường
dẫn ra miếu thổ thần. Ðiềm còn chần chừ thì nghe tiếng người gọi:
- Cậu kiếm mả ai?
Chàng giật mình quay lại, bắt gặp một cụ già đứng cách mấy hàng bia. Ông
cụ đi giày tây nhưng vận áo dài, chít khăn nhiễu và cắp ô đen. Trời gió
thổi hai vạt áo the rung rung.
- Thưa cháu kiếm
đất. Ðiềm trả lời.
- Cậu cũng người
Bắc à?
Ông cũ lại hỏi,
nét vui mừng mà phúc hậu.
- Dạ, cháu sinh
quán Hải Dương.
- Quý hóa quá! Tôi là Chương, người huyện Tiên Sơn tỉnh Hà Bắc, hân hạnh
biết cậu. Nhưng kiếm đất ở đây làm sao có, khu này họ xây choáng hết cả
rồi. Nếu cậu không vội, theo tôi sang đằng này họa may.
- Dạ, cám ơn cụ
chỉ đường.
Ông cụ phát tay, chỉ về hướng tượng Quan Âm xây ở đằng xa, ra dấu bảo Ðiềm
đi theo. Trời mưa lâm râm không nặng hạt nhưng ông cụ vẫn giăng ô, hai ống
quần lụa giặt trắng phau. Chàng để ý thấy đôi giày tây của cụ Chương còn
mới nguyên chưa mòn đế.
- Cậu kiếm đất
cho ai? Cụ Chương bỗng hỏi.
- Dạ, không dấu
gì cụ... cháu muốn mua sẵn một miếng đất cho mình.
Ðiềm hơi ngần ngại, nhưng rồi cái phong thái hồn nhiên của cụ Chương giúp
chàng nói thật. Chàng bỗng thấy mình khỏe hẳn sau khi nói ra mục đích đến
nghĩa trang.
- Ối giời! Còn
trẻ thế mà đã lo xa kia à? Xem như là chúng mình đồng bệnh tương lân rồi
nhé!
Cứ coi như ta đã là tri kỷ!
Cụ Chương bật cười lớn khoác vai chàng tương đắc. Ðiềm không hiểu gì khi
thấy ông cụ đưa tay làm loa gọi những người khác. Cụ Chương tươi cười:
- Lâu lâu mới gặp một người còn trẻ mà đã cẩn thận biết lo chốn yên nghĩ của
mình, chúng tôi quý lắm. Người xưa vẫn dạy cái phần mả bao giờ cũng là trọng,
mà tuổi trẻ đời nay họ chỉ ham sống. Thật bụng chỗ đồng hương với nhau, gặp
cậu tôi rất cảm kích, sẵn có vài người bạn đằng mả, nếu cậu cho phép xin
được giới thiệu.
Ðiềm còn đang chần chừ do dự không biết tính sao, thì đã thấy mấy người từ
dẫy mộ phía trong đi ra. Cụ Chương vừa kéo tay chàng vừa vẫy họ.
- Các ông lại đây! Có anh bạn trẻ này hợp với chúng mình lắm!
Người đàn ông đi đầu tuổi trạc ngoài năm mươi, tóc chải kiểu hai thập niên
trước, complet cà vạt ủi hồ thật thẳng. Trông ông ta như sắp đi dự đại tiệc.
Người đàn ông nói:
- Tôi là Thanh, chủ hãng cưa Phúc Lợi, rất vui được biết cậu.
- Không dám làm phiền bác, cháu là Ðiềm vừa quen với cụ đây.
Chàng bắt tay ông Thanh. Ba người đi sau cũng vừa tới. Một cô gái mặc áo
dài trắng tóc thề, một người lính trong bộ lễ phục sĩ quan Ðà Lạt và một
người thương phế binh áo ngụy trang bê bết bùn đất. Người thương binh cụt
chân, Ðiềm nhìn sững họ quên cả chào, lúc này mà còn mặc áo lính Cộng Hòa
thì phải cómáu mặt.
- Chào anh bạn! Tôi là Trình Văn Khánh! Người thương phế binh phác tay
chào Ðiềm theo cung cách quân đội cũ.
- Mừng anh ghé tham quan! Người sĩ quan võ bị vồn vã ôm hôn chàng, vừa vỗ
vỗ vào lưng thân ái. Không quen với kiểu chào này nên Ðiềm ngượng đỏ mặt.
Cô gái chỉ khẽ gật đầu nhìn chàng, không xưng tên, chỉ lẳng lặng đứng nép
một bên mả.
- Tôi tên Thìn, sinh đẻ ở phố Kim Mã, quận Ba Ðình châu thành Hà Nội, rất
hãnh diện được đón tiếp anh hôm nay!
Người sĩ quan Ðà Lạt bây giờ mới trịnh trọng tự giới thiệu. Chàng không
hiểu gì ngớ người ra nghe.
- Thôi bây giờ là người nhà rồi cả nhé, không cần khách sáo nữa. Nếu cậu
Ðiềm không bận thì ra ngôi mả uống với chúng tôi một ly, chả mấy hôm mới
có được chút rượu đế.
Ta đi nào!
Cụ Chương không chờ Ðiềm trả lời, thân mật nắm tay dẫn ra một chỗ mả tương
đối sạch sẽ trống trải. Ông cụ vừa đi vừa kể cho mấy người kia nghe ý định
tìm đất của chàng. Hai người lính bật cười ha hả còn ông Thanh thì khen ý
hay, chỉ có cô gái vẫn không nói gì chỉ lẳng lặng theo sau. Trưa nghĩa
trang gió buồn buồn đưa mưa qua những ngôi mộ vắng vẻ, có được vài người
cùng đi kiếm đất chung thì cũng bớt cô đơn, nghĩ vậy Ðiềm mạnh dạn bước
theo họ.
- Nhấm nháp qua loa rồi chúng tôi đưa cậu đi coi đất, trong này thì không
có chỗ nào mà chúng tôi không biết. Nhưng chọn đất là việc hệ trọng, cậu
không nên hấp tấp, con cháu mai sau nhờ cả vào đó.
Sáu người ngồi dưới một tàn cây nhạc ngựa, chung quanh cỏ lau, mồ mả im lắng
như tờ. Ðiềm trông thấy một hàng phượng nở hoa đỏ, giữa chiều mưa in hình
lên nền trời ướt nước của lối đi chính mãi tận đầu nghĩa trang. Cụ Chương
không biết lôi ở đâu mấy đĩa xôi gấc, loay hoay tháo bọc ny lông phủ mặt.
Ông thanh cũng rở mấy bánh oản, lớp giấy bóng kính xanh đỏ đủ màu. Thìn
rót nước trà ra tách, Khánh chuyển cho mỗi người một ly đế.
Cô gái ngồi im nhìn.
- Làm một ly anh bạn!
Khánh đưa ruợu đến chàng, vui vẻ.
- Ruợu trắng hơi nặng, nhưng trời lạnh uống vào nóng ran người, thích
thật! Cụ Chương gật gù khề khà.
Ðiềm cũng đưa ly lên môi nhấp, rượu đế rẻ tiền cay bỏng lưỡi lại nồng nặc
mùi nhang, chắc tro tàn rơi vào ly. Chàng cố chiêu ngụm rượu, lẽ ra Ðiềm
không được uống nhưng trước sau thêm vài tháng thì có khác gì đâu. Nghĩ
vậy Ðiềm nhắm mắt uống cạn ly, chất lỏng nóng như sôi sục trong dạ dày
Ðiềm. Chàng khà một tiếng lớn.
- Bạn chịu chơi lắm! Tôi phục bạn, ít người uống nổi thứ ruợu đế này!
Khánh ngồi xuống cạnh Ðiềm có vẻ thích thú, anh ta nói tiếp:
- Tôi là hạ sĩ quan nhảy dù, tiểu đoàn 11 của Nguyễn Ðình Bảo, bạn biết
chứ? Trận Charlie tôi bị vào đây.
Khánh đưa tay đập đập vào phần đùi còn sót, rồi nói không tải thương
được. Khánh nốc hết ly ruợu một hơi, rồi phác một cử chỉ nửa đáng tiếc mà
cũng bất cần.
- Sống khôn thác thiêng, sống hùng chết vinh, trúng đạn què chân, binh
chủng hào hùng thì phải bỏ mạng sa trường, poncho gói thây. Bạn đồng ý
không? Ai như thằng này!
Khánh nói một hơi trước khi đưa tay chỉ vào mặt Thìn.
- Cứ phát biểu linh tinh! Thế nào là sống hùng chết vinh? Ði lính thuê cho
đế quốc ấy à?
Thìn, người mặc áo sĩ quan Ðà Lạt, đeo kiếm và mang găng trắng như sắp đi
duyệt binh ngày quốc khánh, đang ngồi chồm hổm trên một ngôi mả bực bội
trả lời. Anh ta gỡ cái nón kết lưỡi trai trên đầu xuống cầm tay quạt.
- Rắm thối nhà anh! Cứ có tí ruợu đổ vào là chết vinh hơn sống nhục!
Thìn nói thêm câu nữa, trước khi xúc miệng òng ọc bằng trà. Chờ cho Thìn
nhổ toẹt bãi nước xuống đất rồi Khánh mới dằn mạnh ly.
- Ðù mẹ mày! Ðội đồ đi bộ từ Bắc vào Nam gia tài có mỗi đôi dép Bình Trị
Thiên, bây giờ đeo găng, mắc kiếm, mang anh dũng bội tinh Việt Nam Cộng
Hoà không biết xấu hổ! Giải phóng cái con mẹ mày!
Khánh chửi lại:
- Này, đừng có chạm vào thành quả đấu tranh của nhân dân Nam bộ! Việc tôi
mặc áo sĩ quan đeo quân hàm ngụy thì không phải do tôi muốn. Người ta lộn,
đem tôi về tắm rửa cho mặc áo lính ngụy đành chịu. Lúc đó ngoài Trung tình
hình găng quá, thân nhân của cái thằng lộn không ra nhận được, chờ lâu họ
phải hàn xì vì sợ xông mùi. Thật tình là như thế anh ạ!
Thìn quay lại phân bua với chàng. Ðiềm không hiểu họ muốn nói gì, chàng
cho là cả hai chóng say đâm ra dở hơi. Nhưng Khánh thì vẫn cứ hùng hổ:
-
Ðù mẹ! Cứ coi là mày bị cầm nhầm, nhưng đồ ăn của gia đình thằng bị lộn
vào cúng mày cứ xơi là thế nào? Còn giấu ăn riêng thì quân đội giải phóng
chúng mày tệ thật!
-
Ðói thì phải ăn! Chứ thân nhân có biết tôi ở đâu đâu mà thăm nuôi! Sự đời
nó có nhiều cái oái oăm, không biết thằng lộn bây giờ nằm đâu. Hôm ấy tắm
ở suối lên chậm một chút thì chưa chắc đến nỗi, mình lại bò lên trước các
đồng chí ấy, chưa kịp chòng cái áo thì bị biệt kích nó bắn. Ði không mang
theo được một món kỷ niệm. Tiếc hoài cái áo trấn thủ anh Ðiềm à. Cái áo tự
tay cô Miễn may lấy cho tôi có thêu cả tên họ chữ lót của hai đứa. Tiếc
quá. Bây giờ nước nhà thống nhất, người ta xum họp còn tôi không biết đến
khi nào mới gặp lại...
Thìn thở dài thườn thượt, nhìn đăm chiêu ra cổng nghĩa trang, nhưng lối ra
bị mấy hàng tranh cao che khuất. Ðiềm lạ lùng theo dõi cuộc cãi vã giữa
hai người lính, chàng ngờ ngợ một chuyện gì mà chưa dám tin vội. Ðiềm thấy
tay chân mình bủn rủn cả.
Từ nãy vẫn có vài người đàn bào đi tảo mộ ngang qua chỗ họ ngồi. Mỗi lần
Ðiềm đều để ý thấy mấy người đàn bàn chỉ nhìn một mình chàng. Mưa lâm râm
gần tạnh hẳn, mùi đất xông lên ngai ngái cả một khu mả đìu hiu thê thiết.
Ðiềm cứ ớn lạnh từng chập, chàng nhìn mấy người ngồi quanh thấy họ tự
nhiên như không. Chàng muốn bỏ đi mà không nhấc nổi chân. Ông Thanh bóc
một bánh oản mời chàng.
-
Cậu xơi miếng bánh! Còn hai anh kia thôi cho tôi can, nể mặt cậu Ðiềm với
chứ. Xin lỗi cậu Ðiềm nhé, ngày xưa họ đánh nhau chưa chán nên bây giờ cứ
gặp nhau là kiếm chuyện thù oán.
-
Này ông Thanh! Không có bọn lính tráng tụi này xả thân bảo vệ lãnh thổ cho
ông làm ăn để tụi nó vào đặt chất nổ khủng bố, thì có mười trại cưa Phúc
Lợi ông cũng không mở được. Ðừng khi dễ bọn này chứ!
Khánh quay sang cãi nhau với ông Thanh. Ông chủ hãng Phúc Lợi chưa kịp có
ý kiến thì Thìn đã chõ vào:
-
Bảo vệ lãnh thổ? Nghe thối!
-
Thôi thôi! Tôi đã bảo hai anh thôi là thôi. Câu Ðiềm đâu có vào đây nghe
hai anh cải nhau. Chuyện cũ qua rồi, tôi bây giờ cũng không còn điều khiển
trại cưa nữa. Cậu thấy tôi nói có phải không cậu Ðiềm? Họ hăng máu quá,
cái thời trẻ của tôi đâu có như vậy, lúc ấy tôi chỉ nghĩ làm sao học một
nghề kiếm ăn lương thiện có ích và hữu dụng, có vốn rồi mở một cơ xưởng để
của cho con cháu nhờ... Suốt cuộc đời tôi chỉ ước vọng có bấy nhiêu, thế
mà tôi không đạt được cậu Ðiềm à, khi đau bệnh gan không làm việc được nữa,
tôi để lại cho vợ con cả một cơ sở phồn thịnh. Vợ chồng thằng cả đưa nhau
trốn ra nước ngoài bị bắt, cơ xưởng máy móc ván gỗ họ tịch biên hết, mẹ
chúng nó vào đây than thở, nghe mà tôi cứ khóc ròng, bao nhiêu năm gầy
dựng chớp mắt đổ đi.
-
Chính sách nhà nước bao giờ cũng đúng đắn, để phường tư sản các anh lũng
đoạn thị trường cạnh tranh vô tổ chức ấy à!
Thìn lại chõ vào câu chuyện, không nể nang. Ðiềm tưởng ông Thanh sẽ trả lễ
ngay, nhưng không ngờ ông ta chỉ nhỏ nhẹ đáp.
-
Các anh cứ cho chúng tôi là giai cấp bóc lột, nhưng thật sự nếu không có
các cơ sở thương mãi của chúng tôi, những hãng xưởng thủ công nghiệp mà
các anh gọi là tư sản dân tộc, thì nhiều người dân mà các anh tự hào là
chiến đấu cho quyền lợi của họ không có công ăn việc làm đâu. Kinh tế nước
nhà cũng không phát triển vì thiếu vốn đầu tư. Xã hội nào, tầng lớp nào
cũng có kẻ xấu người tốt, đừng nên vơ đũa cả nắm thế. Tôi nói thế đúng
không cậu Ðiềm?
-
Dạ, cháu cũng nghĩ như bác.
Ðiềm trả lời, chàng bị hút vào các mẩu tranh luận của họ mà bấy lâu nằm
bệnh chàng ít khi được tham dự. Chàng ngờ ngợ họ không phải là người sống,
một lúc chàng đã ớn lạnh khắp cả người, nhưng rồi Ðiềm lại thấy họ bình
thường quá, thật quá, còn sống động hơn cả người thật. Có thể nào mấy
người này đang đóng kịch để trêu chàng. Nghĩ kỹ rồi Ðiềm thấy không đúng,
làm sao đóng kịch tài đến như thế. Nhưng nếu họ là ma thì Ðiềm lại thấy
không có gì để sợ. Trời còn sáng, người phu xe còn đợi chàng ngoài cổng.
Hơn nữa... chậm nhanh một vài tháng Ðiềm cũng vào nằm trong này. Làm bạn
với họ trong một vài tháng, hay làm bạn bây giờ thì cũng thế. Nghĩ vậy
chàng không còn thấy sợ.
Mấy người trong bọn chia nhau xôi gấc. Cũng loại xôi bán để cúng. Phẩm đỏ
loẹt gặp mưa dính nhớp nháp ra tay. Bận ăn, hai anh lính thôi cãi nhau,
ông Thanh cũng im lặng. Cụ Chương từ nãy không nói gì cứ lâu lâu nhìn
chàng tủm tỉm cười. Cô gái thì ngồi xõa tóc, lâu lâu thu vén những giấy
rác mấy người đàn ông bày bừa. Ðiềm thấy thiếu nữ trông mặn mòi, hai con
mắt đen láy, tóc óng ả như lụa. Chàng đang định bụng hỏi chuyện nàng thì
nghe tiếng xột xoạt ở mả bên. Tiếng cười con gái rúc rích. Tiếng vải quần
tuột mau. Giọng đứa con gái nũng nịu rinh rích.
-
Anh trả tiền em trước đi!
-
Thì xong rồi đưa, có mất đi đâu.
-
Thôi đưa tiền em liền đi, nghe!
-
Ừ, thì đưa. Bộ em hay bị quỵt lắm hả?
-
Cũng có bị, nhưng có tiền trước em mới phấn khởi!
-
Rồi đó. Bây giờ thì phu với cho ngon coi!
Giọng đàn ông cười hình hịch dâm đãng. Ðứa con gái vẫn cứ cười rúc rích.
Thấp thoáng sau mấy cành lau sau lưng mả Ðiềm trông rõ cái bụng trắng tươi
của đứa con gái làng chơi. Cánh tay nó lúc đưa lên níu cổ gã đàn ông, khi
buông để giữ vạt áo bà ba cho khỏi rớt xuống đùi làm vướng víu. Gã đàn ông
làm hùng hục như trâu kéo cày. Ðiềm chợt thấy Khánh và Thìn nhảy leo lên
nóc mộ chỗ cặp trai gái đang làm tình để nhìn. Thìn cười hô hố chỉ trỏ mỗi
khi gã đàn ông đổi kiểu, còn Khánh huýt sáo khi nghe đứa con gái rên ư ử.
Kỳ cục là họ đứng ngay trên mả ngay chỗ cặp trai gái đang chơi mà gã đàn
ông với đứa con gái vẫn tiếp tục làm tình. Bất chợt đứa con gái ngẩng đầu
ngước nhìn bốn phía, nó chợt thấy Ðiềm ngồi ở bên này.
-
Chết rồi có người!
Anh!
-
Ðâu? Ai?
-
Dậy đi anh! Mặc đồ vô! Ði!
Gã đàn ông cũng vừa trông thấy chàng, hắn hối hả kéo quần dắt đứa con gái
chạy đi. Khánh và Thìn cũng nhảy xuống đất chạy theo coi.
Ðứa con gái chòng được cái quần lãnh đen nhưng còn chưa kịp cài nút áo tất
tả chạy theo gã đàn ông. Ðứa con gái vừa chạy vừa nói léo nhéo:
-
Ðừng vô miểu thổ thần tội lắm anh! Qua bên kia kìa, mà coi như xong một
cối rồi nghe anh! Phải trả em thêm đó!
-
Xong cái gì!
Người ta chưa ra mà! Sao em chơi đểu vậy?
-
Chứ còn gì nữa, chẳng lẽ nảy giờ chùa sao!
Khánh và Thìn chạy đuổi theo sau cười nắc nẻ, nhưng cặp trai gái làm như
không thấy hai người lính vẫn léo nhéo vừa chạy vừa mặc cả. Trời tạnh mưa,
chút nắng muộn le lói soi khu nghĩa địa. Bốn người cùng chạy nhưng chỉ có
hai cái bóng của cặp trai gái phơi trên lối đi đất. Cả bốn xa dần và khuất
hẳn. Cụ Chương chờ cho tất cả trở lại yên tĩnh rồi mới lên tiếng.
-
Tội nghiệp! Hai anh lính vào trong này giữa lúc đời họ còn sôi động quá.
Còn dở dang tuổi trẻ nên họ ham vui, đôi lúc hiếu thắng, có lúc lại bất
mãn tất cả. Tôi hiểu họ còn vướng nhiều bụi trần chưa dứt được, nên hay
theo khuyên bảo nói chuyện với họ. Cái phần số không do mình định đoạt,
cũng không do thượng đế đâu, do ở cái tiền kiếp lúc trước ăn ở thế nào kiếp
này chịu vậy. Thượng đế không có bất công với ai, không có quýt làm cam chịu,
mà ai làm người nấy nhận. Tôi ở trong này trên hai mươi năm rồi, gặp đủ hạng
người, đủ khắp các thành phần nên tôi hiểu rõ con người ta lắm. Con người
ta nhiều lúc đáng thương mà nhiều lúc cũng đáng ghét. Không biết ông bạn
Thanh với cậu Ðiềm và cô Thủy nghĩ thế nào, nhưng tôi thì thấy con người
ta là nạn nhân của chính mình mà lại thường đổ tội cho trời cao không có mắt.
-
Thưa, cháu muốn hỏi cụ một điều không biết có nên chăng?
Ðiềm ngắt lời cụ Chương. Tự nhiên anh cảm thấy mến cái thần thái ung dung
tự tại, phong cách chấp nhận cuộc đời, kiếp người ngay cả sau khi chết của
ông cụ.
-
Cậu cứ hỏi không việc gì mà ngại.
-
Cụ vừa bảo nằm ở đây trên hai mươi năm, sao vong hồn không được siêu thoát?
-
Trả lời cho cậu tôi cũng không biết nói thế nào, chuyện ấy ngoài thẩm quyền
của chúng tôi, nhưng thời buổi nhiễu nhương của chúng mình bây giờ hồn âm
khó mà siêu linh tịnh độ. Lũ chúng tôi ở đây không có ai được lên cõi niết
bàn, mà đều chờ vào vòng luân hồi, chậm hay mau thì tùy thuộc vào ân đức của
mình khi sống để lại. Lúc còn sinh tiền tôi không thấy mình có làm điều gì
xấu, nhưng biết đâu! Có chuyện mình không cho là xấu mà nó vẫn cứ xấu, mà
mình không nghĩ ra thôi. Nhưng cứ chờ mãi rồi mình đâm ra tin mình đã làm
chuyện xấu, đành phải thay đổi cách nhìn chấp nhận ở đây vậy. Ở riết lại
thấy trong này cũng vui vui cậu Ðiềm à. Chẳng hạn cái cảnh giang hồ vừa rồi,
cái thời tôi còn ở vùng quê mình ngoài Bắc làm sao có. Lúc ấy trai gái gặp
nhau thì chỉ hát quan họ. Cậu biết quả đồi Lim không? Chùa Lim, xã Lim bên
cạnh sông Tiêu Tương, làng tôi là cái nôi quan họ cổ truyền đấy!
-
Lúc di cư cháu chỉ trên mười tuổi nên bây giờ không nhớ gì, thưa cụ.
-
Ối giời ơi! Hát quan họ thì mê lắm lắm! Âm điệu của nó du dương tỏa khắp cả
người mình. Cái giọng con gái Bắc Ninh mới chết!
Cụ Chương nói rồi liền cất giọng hát:
Em là con gái Bắc Ninh
Em nghiêng vành nón mái đình nghiêng theo
Tòa sen Phật muốn
lặng thinh
Nghe em ca bỗng
thấy mình trần gian
Quê em sóng, nhịp,
gió, đàn
Nắng thêu nên
nhạc, trăng vờn nên thơ
Tiêu Tương dấu cũ
con đò
Xuống sông nỗi
nhớ, ngóng hờ nỗi thương...
-
Mấy chục năm rồi mà tôi vẫn không quên mấy câu hát ấy, nó như ăn vào hồn
mình. Trần Linh Quý làm bài hát ấy nổi tiếng cả vùng Bắc Ninh.
-
Cậu Ðiềm rảnh rang thì vào đây nghe cụ Chương hát quan họ, kể chuyện hội
Lim thú lắm.
Ông Thanh nói với chàng.
-
Cụ Chương còn biết nhiều thắng cảnh miền Bắc, những đêm trăng bọn trẻ
chúng em thường tụ tập nghe cụ kể chuyện đi chùa Hương, chùa Keo, viếng
đền Kiếp Bạc, hồ Ba Bể thích lắm. Hôm nào không bận bịu anh Ðiềm ghé chơi
nhé!
Cô gái tên Thủy nãy giờ mới lên tiếng. Ðiềm trông nàng duyên dáng quá. Ðột
nhiên chàng thấy vui vui, buổi trưa lúc vào nghĩa địa tìm cho mình miếng
đất sinh phần, chàng đâu nghĩ có cuộc gặp gỡ kỳ lạ này. Nói chuyện miên
man, bâng quơ giữa kiếp người, cõi sống, cõi âm, làng quê đất tổ ngoài Bắc,
cãi lộn quốc cộng giữa hai người lính, kinh tế tư bản cá thể, kinh tế Mác
xít quốc doanh, Ðiềm nhận thấy cõi âm cũng khác không bao xa với cõi người
sống. Ðời sống vẫn tiếp tục, kéo dài dù chỉ là những hệ lụy đem theo. Vài
tháng nữa vào đây nằm, chàng không đánh mất gì nhiều, vẫn tiếp tục sống dù
chỉ còn là linh hồn vấn vưởng. Nghĩ thế Ðiềm thấy chàng thật sảng khoái,
không còn sợ hãi buồn chán cho số phần mình chẳng may ngắn ngủi.
-
Thế nào tôi cũng trở lại thăm cô với bác và cụ.
Ðiềm trả lời cô gái. Chàng tiếp:
-
Chắc cũng chẳng còn bao lâu thì tôi vào ở luôn, nếu may mắn tìm được miếng
đất.
-
Thế thì còn gì bằng. Ấy chết! Em nói bậy quá! ý em muốn nói là chắc bác và
cụ đây đã có cảm tình với anh cũng mong gặp lại thường.
Thủy nói lỡ vội chữa, nàng cười xin lỗi câu nói gỡ khi nãy. Lúc cười, Thủy
có hai lúm đồng tiền nho nhỏ và chiếc răng khểnh mà Ðiềm thấy có duyên lạ.
-
Thôi, mình cũng sửa soạn đi tìm đất cho cậu Ðiềm đi bác Thanh nhỉ?
-
Ừ, mình đi kẻo muộn để cậu ấy còn về cho kịp, chiều hôm ở đây cũng ngại.
Ông Thanh đứng lên theo cụ Chương. Thủy cũng đứng dậy thu vén chỗ ngồi lần
chót, nàng không quên liếc nhìn chàng và cứ cười tủm tỉm.
-
Mình đi phía đằng này, tôi chắc còn một vài khoanh trống. Tôi không rành
khoa địa lý nên khong biết đất tốt xấu thế nào, để tùy cậu định đoạt không
dám ép. Mà cậu đã có đi xem ở chỗ nào khác chưa?
-
Thưa cụ chưa. Trước khi vào đây cháu có định lên xem nghĩa trang Gò Vấp
nữa đã rồi mới quyết định, nhưng bây giờ được biết cụ, bác Thanh và cô đây
thì cháu nghĩ cũng là do ý trời xếp đặt, nếu được một miếng đất đủ nằm thì
cháu mua ngay không lên Gò Vấp đâu. Trăm sự nhờ cụ và bác Thanh cho.
-
Thôi được rồi, nếu cậu tha thiết như thế thì tôi chỉ cho một miếng đất còn
chừa, đúng ra thì họ đã đặt cọc nhưng mình có thể mua lại. Cậu đi xem rồi
trở ra thành phố thương lượng với người ta. Mà này, sau này nằm có bị kiến
với trùn, mối nhiều quá thì đừng có mắng vốn tôi đấy nhé!
Cụ Chương cười thật đôn hậu. Hai người đi trước, Thủy và ông Thanh đi sau.
Cụ Chương ghé tai chàng nói nhỏ:
-
Cô ấy ngoan lắm, con nhà đàng hoàng, tính tình hiền lành, lần đầu tiên tôi
thấy cô ấy vui vẻ dạn dĩ với một người đàn ông là cậu đó. Nếu duyên định
cô cậu gặp nhau dưới này cũng hay.
Ðiềm cười theo, chưa dám thổ lộ nhiều, chỉ mới lần đầu, biết Thủy xem
chàng ở vai vị nào. Ðiềm thấy có nhiều đứa trẻ ở đâu chạy chơi trong khu
nghĩa trang. Có đứa tụ nhau đánh đáo, bắn bi, có đứa chơi ô quan, và có
một đứa chạy ngang khoanh tay chào cụ Chương. Chàng biết chúng là ma,
nhưng có cảm tưởng chúng mới vừa ngủ trưa dậy ra sân chơi. Trông chúng
cũng hồn nhiên không khác mấy những đứa trẻ trong trường học, chỉ có điều
đứa nào cũng mặc đồ mới. Ðiềm đi xem đất và bằng lòng lắm. Khoanh đất mát
mẻ, có bóng cây, không bị mộ nào lấn. Ðất cứng không sợ bị xụp, chỉ xa lối
vào nghĩa trang nhưng được cái ở gần chỗ Thủy nằm. Nghĩ mai mốt có thể qua
lại chỗ Thủy, chàng đã vừa ý.
Ðiềm ra về sau khi cụ Chương cho chàng địa chỉ của người chủ đất. Lúc bước
ra cổng, Ðiềm thấy bà già bán nhang đang ngủ gật. Người phu xe trông thấy
chàng ngồi bật dậy, rời lòng xích lô dẩy nẩy:
-
Bắt đợi cả buổi như vầy ông phải tăng tiền cho tôi!
-
Anh cầm lấy tất.
Ðiềm móc túi còn bao nhiêu tiền trao hết cho người phu xe. Trình giấy cho
người bộ đội gác cổng ngoài rồi chàng bảo người phu đánh xe lên Phú Nhuận.
Rời Bắc Việt Nghĩa Trang, trên đường Chi Lăng Ðiềm lại phân vân nửa muốn
về nhà báo tin mừng cho mẹ, nửa ngập ngừng nhớ cái không khí đưa đám ở nhà
mình từ khi bác sĩ bảo bó tay. Suy nghĩ một chốc rồi chàng đổi ý, quay gọi
người phu xe chở chàng đến thẳng cái địa chỉ cụ Chương vừa cho.
*
Ðiềm trở vào nghĩa trang tuần sau, nắng nóng chói chang trên mấy ngôi mộ,
chứ không mưa lai rai ướt mặt người chết như hôm đầu. Cả khu mả thiêm
thiếp giấc trưa, yên lặng không bóng người. Chàng cũng vào khấn nơi miếu
thổ thần, rồi đi rảo tìm khoanh đất trống đã hẹn với người chủ cũ tiù nữa
đến xem lại và ký giấy thỏa thuận. Trưa nắng chang chang trên mấy lùm cỏ
lau gai sắc, không có bóng mây chỉ có mỗi một chiếc bóng của Ðiềm duy nhất
vởn qua vởn lại tìm lối đi. Cỏ mọc che kín nhiều chỗ mả rậm rạp, chàng
loay hoay bưng đồ cúng vạch lau lách. Quần hai ba vòng Ðiềm vẫn chưa tìm
ra chỗ đất cụ Chương đã giắt chàng tới, Những kiểu mả lập bảo tháp, long
đình, xây uynh thành giông giống nhau nên chàng không nhớ đã có đi qua hay
không. Ðiềm đi tìm một hồi thì mệt, mồ hôi rũ ra ướt đẫm sống lưng, cơn
đau bụng lại trổi lên hành hạ. Chàng ngồi vật xuống ven con đường đất thở
dốc, dạ dày như có ai lấy kim chích đau xon xót. Ðiềm cố cất tiếng gọi cụ
Chương ra đón mình, nhưng tiếng kêu của chàng chạm những thành bia đá dội
đi vang vang không có người trả lời. Ðiềm vuốt mồ hôi chảy ướt cả cổ áo,
rút khăn tay đắp lên đầu che nắng, rồi lại gọi ba bốn lượt. Cụ Chương
ơi! Cụ Chương ơi! Có cháu đến tìm! Khánh ơi... Bác Thanh ơi!
Cháu mang quà vào!
Ðiềm nghe tiếng chàng vọng vang dội trở về lặp lại như có ai đùa. Chàng đứng
lên dáo dác tìm rồi lại ngồi xuống thất vọng. Khu mả vắng vẻ quá, mộ lập
chùng chùng biết đường nào mà tìm. Chàng tự trách mình hôm nọ đã không nhớ
kỹ lối đi, lại để quên ở nhà tờ giấy người chủ đất ghi lô thứ tự. Ðiềm
đành ngồi đợi, lâu lâu chàng ngước mặt nhìn bắt gặp một vài nụ cười hóm hỉnh
trên bia đá.
Có cái am chúng sinh gần đó. Ðiềm chợt nảy ra một ý. Chàng tháo giỏ đồ
cúng, bày cau chè, xôi vịt với rượu bánh ra trước am. Ðiềm đốt ba nén
hương khấn vái những âm hồn đi hoang. Không có gió, khói nhang bay đè trên
mặt đất, di di buồn buồn lượn lờ theo bóng nắng. Chàng gấp giấy báo lại
làm quạt, mấy luồng hơi gió làm Ðiềm dễ chịu, như đẩy được chút nắng ra xa.
Làn gió cũng đẩy khói hương đi bốn phía.
-
Này anh bạn! Sao đem đồ cúng ở đây!
Ðiềm giật mình quay về phía có tiếng nói, thấy Trình Văn Khánh đang nhảy
lò cò với chiếc chân cụt, mặt hớt hơ hớt hải:
-
Dẹp đi! Trời ơi! Ðây là am chúng sinh, bạn cúng như vậy cô hồn các đảng tụi
nó ùa tới ăn sao cho đủ!
-
Phải đấy! Cất ngay đi, khẩn trương lên!
Chạy sau Khánh là Thìn, vẫn tươm tất trong bộ lễ phục sĩ quan Ðà Lạt. Cây
kiếm mãn khóa Võ Bị, Thìn đeo bên hông chạm vào chân kêu lanh kanh.
-
Cụ Chương có ra không? Chàng hỏi họ, vừa thương vừa tức cười.
-
Có, ra liền bây giờ nhưng ông cụ đi chậm lắm. Phụ tôi khuân ra đằng mả cô
Thủy, có bấy nhiêu mà chia cho cả nghĩa địa thì mỗi người chỉ được một hột
xôi!
Khánh quơ quào mấy đĩa đồ cúng, trong lúc Thìn nhanh tay tắt nhang, nhặt
chai ruợu. Ðã có dăm mười bóng người từ mấy ngôi mả xa ùn ùn kéo ra, mặt
mũi ai trông cũng phấn chấn!
-
Phát chẩn chúng mày ơi!
-
Chẩn cái củ thìu biu! Không có hộ khẩu thì không được quyền nhận!
Thìn rút kiếm võ bị chống nhau với mấy người tha phương cầu thực. Ðiềm bị
Khánh lôi bắn đi, chạy như ma đuổi.
-
Lần sau anh bạn đừng có dại như vậy nữa nhé! Có hảo tâm cúng ai thì cúng một
người đó thôi, nhân đạo chung chung như vầy vô bổ lắm!
Khánh lôi chàng phăng phăng băng qua mấy dẫy mả liền. Thìn ở đằng sau múa
máy đường kiếm rồi cũng chạy theo.
-
Các cậu ơi! Chúng nó đeo mình găng quá!
-
Quẳng cho họ mấy cái bánh! Khánh hét.
Thìn vừa chạy vừa ném ra sau mấy phong bánh đậu và buồng cau Ðiềm mua lúc
sáng, chỉ giữ lại chai rượu đế Hiệp Hòa với cây thuốc lá. Ðám cô hồn giành
nhau mấy thứ rơi rớt trên đất quên cả đuổi.
*
-
Các anh làm gì mà la toáng lên thế? Lại đánh nhau nữa à?
Thủy từ sau mồ của nàng bước ra hỏi. Ðiềm để ý thấy nàng hôm nay bới tóc,
xăn tay áo, để lộ cái cườm tay nhỏ đeo hai chiếc vòng ngọc thạch và một ngấn
cổ ngó sen. Hai má lúm đồng tiền vẫn duyên dáng như hôm nọ, còn có phần
xinh hơn.
-
Anh bạn Ðiềm đến dâng cau chạm ngõ cô em mà bị chúng nó lột rồi!
Khánh cười hềnh hệch đắc chí với câu pha trò của mình.
-
Nói tầm bậy nào! Thủy nhìn chàng đỏ mặt, không quên liếc một cái sắc lẻm về
phía Khánh.
Bốn người bày mấy món còn đem theo được trên mả Thủy.
-
Xem nào, còn một con vịt luộc, hai đĩa xôi, cây thuốc và chai rượu, tốt
chán! Chỉ mất có buồng cau, năm phong bánh với nải chuối để quên trong am.
Cứ xem như thắng lợi vẻ vang!
Thìn khoái trá đếm đi đếm lại mấy món đồ cúng, trịnh trọng rót ruợu ra ly
bày sẵn. Khánh vội vã mồi thuốc rít từng hơi, ếm sâu vào phổi rồi mới từ từ
thở ra bằng lỗ mũi:
-
Phê quá!
Người hạ sĩ quan Cộng Hòa tiểu đoàn 11 Dù ngồi tựa tấm bia của ngôi mả bên
cạnh lim dim mắt. Thủy từ lúc nãy đến giờ vẫn đứng nhìn chàng ngượng ngùng,
lên tiếng hỏi bâng quơ:
-
Anh Ðiềm thết tiệc chuyện gì vậy?
-
Hôm nay tôi ký giấy mua đất nên muốn ăn mừng với Thủy, cụ Chương, bác
Thanh và hai anh Khánh, Thìn.
-
Cứ coi như anh bạn đãi tân gia!
Khánh lại mở mắt pha trò.
-
Vậy là nhập hội tương tế với bọn mình rồi nhá!
Thìn vui vẻ cởi mở. Thủy cuời ngặt nghẽo với mấy câu đùa của hai người
lính.
-
Anh đã nhất quyết vào với chúng em?
Một lúc nàng chậm rãi hỏi.
-
Tôi đã quyết định từ hôm đầu gặp cô.
Ðiềm nhìn nàng khi trả lời, chàng đọc thấy sự bối rối mà sung sướng ẩn
trong đôi mắt Thủy đen láy. Chàng muốn nói đã yêu Thủy ngay hôm đầu nhưng
không dám.
-
Sao cụ Chương với bác Thanh lâu đến?
Thủy lảng chuyện, không dám ngó chàng nữa.
-
Chúng tôi đây!
Bốn người quay ra, thấy cụ Chương và ông Thanh đang đi tới. Khánh cằn nhằn:
-
Chờ hai cụ cắp ô tới thì con người ta đói rã ruột!
-
Anh em chúng tôi phải chiến đấu căng lắm mới bảo vệ được thành quả của
nhân dân lao động là mấy món ăn này do anh Ðiềm đem vào.
Thìn kể công.
-
Chúng tôi biết! Xin lỗi các bạn trẻ vậy. Nào ta dùng cỗ đi chứ, chắc cậu
Ðiềm có mấy lời ngỏ đầu?
-
Dạ, thật ra cũng không có gì trọng đại, hôm nay cháu mua được cái sinh phần
cho mình hẹn với người ta đến ký giấy lát nữa, được như vậy cũng là do cụ,
bác Thanh, hai anh Khánh, Thìn và Thủy đây giúp đỡ, nên cháu muốn báo tin
vui cho tất cả, nhân thể có ít xôi rượu mời mọi người đánh chén.
Mọi người vỗ tay khi Ðiềm dứt lời, chàng cảm động thấy mọi người đều thành
thật chia vui với mình. Họ ngồi bệt xuống đất, Thủy chặt vịt, ông Thanh bới
xôi, Khánh và Thìn rót rượu tiếp mọi người. Cụ Chương châm điếu thuốc hỏi
chàng:
-
Ðã sắm cỗ hậu quan quách gì chưa?
-
Dạ chưa, nhưng chắc cũng phải đi mua nay mai. Ðiềm đáp.
-
Ừ, liệu trước vẫn hay hơn, mua loại gỗ vàng tâm thì mới không sợ bị mục nước
sau này.
-
Sợ thời buổi khó khăn lúc này không tìm được thứ gỗ quý đó.
Ông Thanh vừa nhằn xương vịt nói. Cụ Chương gật gù đồng ý, bảo thôi thì gỗ
lim cũng được.
-
Anh đã chọn kiểu mộ chưa, anh Ðiềm?
Thủy hỏi thêm.
Chàng còn đương suy nghĩ, Khánh đã ồn ào:
-
Mộ lập cho ngon thì phải xây ít ra cũng giống mồ cụ Chương với ông Thanh.
Có bình phong, sân bái đường, hồ nước, hương án, thành mộ trồng hoa giấy,
hoa dâm bụt, bên ngoài xây viên thành có cổng uốn. Người sống đi qua nhìn
mới dễ nễ!
-
Trong Nam các anh cứ quen thói tư sản! Xây cho đẹp vào chỉ tốn tiền của
thân nhân mình chứ ích gì. Ngoài Bắc lúc tôi lên đường cứu quốc năm 73,
người ta chỉ đắp đất hình nấm, không có xây gạch xây gung như trong này.
Thìn, tương phản trong bộ lễ phục võ bị, vừa nhồm nhoàm ăn vừa phát biểu.
-
Bị bắt lính thì nói bị bắt lính, lên đường cứu quốc! Nghe không giống ai!
Khánh ực một hơi cạn ly rượu, rót thêm rồi lại ực. Mặt người thương phế
binh đã đỏ gay. Thìn bị nói móc, cũng buông cái chân vịt, tợp một ngụm
rượu.
-
Ừ, không giống ai mà chúng tôi chiến thắng các anh lẫy lừng!
-
Ðù mẹ! Chó táp phải ruồi! Bộ đội anh hùng, chỉ đạo đứng đắn, thi đua lập
chiến công... tới Xuân Lộc chết như rạ!
-
Ừ, chết đấy, nhưng ngụy quân ngụy quyền thì bị bắt sống cả bầy!
Thìn hất mặt thách thức. Khánh toan chồm lên phang chai rượu Hiệp Hòa vào
đầu Thìn nhưng ông Thanh đã kịp thời can họ.
-
Thôi thôi cho tôi xin, lại cãi nhau nữa. Cứ lần nào có rượu vào là các anh
lại đánh nhau. Hai anh thoi nhau vì rượu chứ có phải vì chính nghĩa của
hai bên đâu! Hôm nay là ngày vui của cậu Ðiềm, người ta làm tiệc đãi thì
phải biết giữ tư cách một chút chứ. Các anh làm sao mang tiếng người chết
chúng mình, không khéo cậu Ðiềm đổi ý không mua sinh phần ở đây nữa.
Ông Thanh bắt họ mỗi người ra ngồi một góc. Như hôm nọ, cụ Chương không
nói gì chỉ tủm tỉm cười. Ông Thanh chiêu ngụm rượu rồi mới lên tiếng nói
về cách thức xây mộ.
-
Lập mộ có nhiều kiểu, Bảo Châu, Bảo Tháp, Trúc Cách, Long Ðình, đó là
những kiểu đắt tiền xưa chỉ có triều thần hoàng tộc hay các nhà quyền quý
mới được xây. Sau này trong Nam ai có tiền, muốn xây sao thì làm. Nhưng
những kiểu mộ đó đòi hỏi đất rộng, ít ra cũng rộng bằng cái âm phần của
tôi hay của cụ Chương. Chỗ đất của cậu mua thì hơi chật, không làm được
sân bái đường đâu. Tôi đề nghị cậu xây kiểu trúc cách tam cấp, có bình
phong với một ao nước nhỏ trước mặt là đủ đẹp. Cậu Ðiềm thấy thế nào? Còn
hoa giấy, hoa dâm bụt thì tùy người nhà mình giồng, nhưng cũng chỉ được ít
lâu rồi héo cả thôi mà.
-
Dạ, cám ơn bác đã chí tình chỉ bảo, nhưng đời sống bây giờ đắt đỏ quá,
cháu không rõ gia đình có đủ tiền lập mộ khang trang như lúc trước hay
không? Cháu đã định bụng xây kiểu mộ liếp thường, đơn giản mà cũng tươm
tất.
Ðiềm nói với ông Thanh. Cụ Chương nghe thế thì chen vào câu chuyện.
-
Ừ, cậu Ðiềm nói cũng đúng, tôi thấy từ sau bảy mươi nhăm mấy người vào đây
mồ mả ai cũng xoàng xoàng, hẳn là vật liệu bây giờ đắt kinh lắm. Thôi thì
cậu cứ xây theo khả năng của mình. Nhưng nếu vẫn thích tối tối ngồi sân
bái đường, trông sao uống chè, ngắm hoa, ngắm trăng soi hồ nước thì lại
đằng tôi và ông bạn Thanh. Cửa mả chúng tôi lúc nào cũng mở rộng đón cậu.
-
Cám ơn cụ đã có lòng xem cháu như con cái.
-
Nhưng tôi chắc anh bạn đây thích ngắm sao đêm với cô em Thủy hơn là với cụ!
-
Thích mê đi chứ lị!
Khánh và Thìn đã thôi cãi nhau, mỗi người một câu đùa làm người thiếu nữ
đỏ bừng mặt.
-
Cấm hai anh không được nhắc đến em nữa! Sàm sỡ vừa vừa chứ!
Mọi người bật cười ròn. Cụ Chương trịnh trọng nâng ly mời:
-
Nào, ta nâng ly chúc mừng cậu Ðiềm sắp xây kim tĩnh.
-
Mừng anh bạn!
-
Mừng anh!
*
Tàn tiệc, cụ Chương và ông Thanh cáo từ đi ngả lưng. Khánh và Thìn rủ nhau
đi rình mấy cảnh bán tình của những ả giang hồ làm ăn trong nghĩa địa. Chỉ
còn lại một mình chàng và Thủy. Thủy dợm đứng lên đi dọn dẹp, nhưng Ðiềm
kéo nàng ngồi xuống.
-
Thư thả, lát nữa anh phụ Thủy một tay.
Thủy nhìn chàng do dự, rồi ngồi xuống kế bên không nói gì. Ðiềm nhìn cánh
tay nắng ôm ngang khu mả, lấp lánh trên những bia đá như có dát vàng. Yên
tịnh quá, không có tiếng trẻ nít đùa giỡn như hôm nào. Có lẽ chúng đang
ngủ trưa. Thế giới trong nghĩa trang im vắng khác hẳn cái cuộc đời trần
tục xô bồ ở ngoài thành phố, chỉ cách nhau có con đường lộ. Ðiềm phân vân
tự hỏi, không hiểu Thủy có hay biết những thay đổi biến động kinh khủng
của xã hội người sống? Chàng thầm mong là nàng không hay biết gì hết, vẫn
giữ trong đầu những hình ảnh vui tươi của miền Nam trước đây. Ðiềm nhìn
tấm bia khắc trên mộ nàng. Phạm Thị Thu Thủy, hưởng dương mười bảy tuổi,
thương con lập mộ. Dưới tấm hình nàng là hai câu thơ của bố mẹ Thủy thương
tiếc con: Nụ cười đã tắt trên môi thắm, hình bóng con yêu đã khuất mờ.
Chàng thấy thương cô gái đang ngồi cạnh mình, nàng đã ở trong này mười mấy
năm rồi, một thân, một mình cô độc lẻ loi. Trông Thủy không khác trong
hình bao nhiêu, có lẽ âm hồn nàng giữ lại hình ảnh của thể phách lúc chết.
-
Có thật anh quyết định mua sinh phần vì em?
Thủy bất ngờ hỏi, hơi cúi mặt không nhìn chàng. Ðiềm gật đầu.
-
Tôi không hiểu vì sao, nhưng thấy mình có cảm tình nhiều với Thủy.
Chàng do dự rồi nắm lấy bàn tay nhỏ trắng ngó sen, mấy ngón tay thuôn bum
búp như những đọt măng non. Thủy để yên không phản đối, hai người không
nói tiếng nào nữa, nhưng họ xúc động lắm. Mãi Thủy mới dám ngửng mặt. Nàng
bắt gặp khuôn mặt Ðiềm ở sát mình, nghiêng nghiêng cúi xuống gần ở ngang
tầm môi.
-
Có phải anh săp hôn em?
Nàng đỡ khuôn mặt Ðiềm, hơi hốt hoảng. Chàng lại khẽ gật đầu.
-
Âm dương chạm nhau không tốt đâu, bây giờ anh còn xác phàm.
-
Chẳng bao lâu nữa là anh vào đây rồi, tốt hay không tốt thì cũng như nhau.
Ðiềm nói và nâng cằm nàng. Thủy nhìn sâu trong mắt chàng thật lâu, Ðiềm
đọc được trên khuôn mặt nàng tất cả băn khoăn lo lắng chen lẫn tình yêu
bối rối. Nhưng rồi nàng nhắm nghiền mắt, ngửa mặt chờ đợi. Ðiềm cúi xuống
đặt nụ hôn khẽ vào giữa đôi môi thơm thơm hồng. Cảm giác lạnh khô và nhạt
nhạt. Người Thủy mềm nhũn đi, đôi tay cũng lạnh mát níu lấy vai chàng.
Ðiềm thấy nàng lẩy bẩy run rẩy đánh rơi một chiếc guốc xuống đất. Chàng
cũng đê mê sung sướng, người con gái hiền quá, ngoan quá, đẹp quá, ngấn cổ
thơm ngọc lan thoang thoảng. Chàng hôn tiếp không muốn rời...
-
Ê! Anh làm cái gì vậy? Tôi tìm anh từ nãy!
Chàng và Thủy lật đật buông nhau ra. Người đàn ông mặc áo ôm vạt bầu, cỗ
lưỡi mèo đứng nhìn chàng chăm chăm. Người chủ miếng đất trố mắt nhìn mấy
đĩa đồ cúng lây lất trên mặt đất, rồi lại ngó chàng, hiển nhiên là ông ta
không trông thấy cô gái.
-
Một mình anh ăn hết chừng này à?
-
Buổi sáng quên ăn sáng, nên hôm nay tôi đói quá!
Ðiềm lúng túng, không biết phải giải thích làm sao. Người đàn ông ngó vỏ
chai rượu Hiệp Hòa mà Khánh vất chỏng trơ trên đất.
Ông ta hất mặt.
-
Uống nguyên lít đế thế này, không ung thư dạ dày cũng uổng! Nhưng sao lại
ăn toàn đồ cúng không thế?
Người đàn ông nhìn quanh quất mấy ngôi mả bên cạnh như có ý nghi ngờ chàng
lấy trộm thức ăn. Gã lấy chân đá mấy cái xương vịt rồi nói:
-
Thôi đi xem đất nào, tôi còn phải về áp phe. Như vậy là anh đã thỏa thuận
giá cả với vợ tôi?
-
Bà ấy bảo tôi thương lượng với anh.
-
Không thương lượng gì ráo, tôi có giá của tôi, anh không mua thì thôi. Tôi
không thích mặc cả.
Gã đàn ông đi xăm xăm về khoảng đất trống còn chừa nằm cách mộ Thủy hai dẫy.
Ðiềm cùng bước với nàng theo sau người đàn ông. Ông ta mặc quần gin Mỹ, có
thêu nhãn hiệu Levis, đôi dép sabot đế cao, đồng hồ vàng Oméga và tấm lắc
bự lủng lẳng ở cườm tay. Gã đàn ông tỏ ra là dân làm áp phe chuyên nghiệp.
Thủy đi theo Ðiềm, chốc chốc lại nhìn chàng lo lắng. Ðiềm chỉ biết ra dấu
trấn an nàng và đối đáp cầm chừng với gã đàn ông. Ðến chỗ ngôi đất, gã móc
trong túi một sợi dây thước đo nói giọng chắc nịch.
-
Hai thước ngang, hai thước dọc, vuông vức như vầy mới vừa đẹp. Năm bảy
mươi tư tôi mua ngôi đất này ngót hai trăm năm chục ngàn tiền cũ, bây giờ
thì giá lên gấp trăm. Giá thị trường sao thì tôi để anh vậy, không bớt,
không tăng giá!
Ðiềm biết chàng gặp phải tay buôn chợ trời thứ thiệt. Sau bao kỳ đánh tư sản,
truy quét tàn dư, dẹp chợ trời mà gã vẫn ung dung sinh sống, phát phì mỡ
màng như vậy, tay này hẳn phải có bản lãnh hơn người. Và hiện giờ hắn đang
nắm đàng chuôi, chàng là người cần đất, hắn không cần bán, trừ phi giá hời.
Gã đàn ông nhăn mặt nhìn đám tranh mọc rậm rạp kín mít ngôi đất.
-
Tiên sư chúng nó, trả bao nhiêu tiền cũng không bao giờ chịu cắt cỏ. Tiền
niên liễm hàng năm mình đóng cho hội không biết chúng vứt đi đằng nào! Cỏ
xanh um thế này thì có ỉa vào đấy cũng không ai thấy!
Gã đàn ông lấy chân đạp cỏ, càu nhàu, nhưng rồi như nghĩ ra chuyện gì có lợi,
ngoảnh ngay mặt lại nhìn Ðiềm vênh váo:
-
Người ta nói khi nào cỏ quanh mả khô héo chết hết, hay đất nứt thành đường
thì con cháu phải cải táng. Cỏ chỗ này xanh tươi tức là đất tốt có sinh
khí, xem này có nứt chỗ nào đâu! Lẽ ra tôi phải tăng giá, tìm được đất tốt
không phải dễ, anh may mà không biết!
-
Tôi ứng tiền trước cho anh một nửa, khi nao tôi qua đời người nhà sẽ trả nốt
phần còn lại, anh bằng lòng không?
Ðiềm lên tiếng, chàng biết trận chiến mặc cả bắt đầu.
-
Không đưa trước đưa sau gì ráo, biết chừng nào anh mới chết!
Gã đàn ông quay phắt lại, rõ ràng là phản ứng của gã trở nên quyết liệt gấp
bội khi đụng tới tiền.
-
Tôi chỉ còn sống nữa năm sáu tháng, anh không phải chờ lâu.
-
Anh chết tuần sau mặc xác anh, tôi bán đất tiền trao cháo múc, sống nhờ
bát cơm, chết nhờ đất cát, anh chết anh cần đất, tôi sống tôi cần tiền.
Không mua thây kệ anh, tôi không vội bán.
-
Ðược, tôi bằng lòng trả ngay bằng bạc mặt, nhưng anh phải bớt cho tôi một
phần ba cái giá mà vợ anh đã nói với tôi. Cái giá đó anh đã nhân gấp đôi
giá thị trường.
-
Bớt? Trong tự điển Việt Nam quốc âm tự vị của tôi không có chữ này! Anh muốn
mua đất rẻ thì đến mấy chỗ họ đào kinh thủy lợi mà mua, đất ở đó người ta
xúc cho không, đổ đi không hết!
Gã đàn ông như bức tường thép, không tài nào lay chuyển. Thủy nhìn chàng
lo ngại, Ðiềm thấy mình đã hơi quá vội vui mừng khi làm tiệc đãi mọi người
lức nãy. Chàng không dễ dàng mua được miếng đất mà không bị cứa cổ.
-
Tôi tên là Thế, mua đất xây kim tĩnh cho mình nhưng mấy năm nay bận quá
chưa có thì giờ làm. Bây giờ tôi có giấy bảo lãnh của ông anh ruột không cần
nữa, tôi đi Pháp nay mai, nhưng nếu anh không đủ tiền trả thì tôi để lại
cho người khác. Người chết bây giờ không thiếu!
Gã đàn ông tên Thế, tự giới thiệu rồi rút dây thước ra đo đạc. Ðiềm không
hiểu tại sao gã chỉ mua đất để sẵn cho mình mà không mua cho vợ. Gã đàn
ông vừa đo đất vừa nói như rao hàng.
-
Dài hai thước đúng, không thiếu một phân. Tôi nói đâu có sai, tính ra rẻ
chán, chỉ có mấy chục đồng một mi li mét!
Gã lại cắm cúi đo đạc chiều ngang, đến chân ngôi mả mới xây bên cạnh gã chợt
đứng dựng lên la bải hải:
-
Thôi chết tôi rồi! Tiên nhân cái thằng nào xây lấn qua đất của mình ba
mươi cen ti mét! Sư cha nhà nó! Quân ăn cướp!
Gã Thế lồng lên, chồm người nhìn xuống ngôi mả còn tương đối mới. Gã đọc lẩm
nhẩm tên họ người chết, nhìn vào tấm bia trừng trừng như đang đối diện người
lấy cắp đất của gã.
-
Nguyễn Văn Nhâm... sinh 1761, một ngàn bảy trăm sáu mốt...! Chắc là khắc
nhầm! Ðồ đểu nhà nó, không biết dạy con cháu, xây lấn qua đất người khác!
Gã đàn ông văng tục, vừa chưởi thề vò đầu bức tai, vừa đá vào hông mả mấy
cái. Giận quá mất khôn gã đập luôn hai cái bình bông để trên mộ. Ðiềm chụp
vội ngay cơ hội.
-
Thiếu ba mươi phân đất, như vậy anh phải bớt cho tôi một phần ba giá.
-
Cái gì? Tôi bán đưa đủ giấy tờ cho anh, anh lên mà kiện với công an quận,
không thì cho người tới cào bố mả nó lên. Ðất này của mình, mình có quyền
đào xới!
Chàng nhận ra gã đàn ông đã dùng chữ “đất của mình”. Ðiềm lắc đầu.
-
Tôi không biết, việc kiện tụng là việc của anh, chỉ có một mét bảy ngang
và hai mét dọc, anh không thể đòi giá cao được. Chật thế này, ai nằm cho vừa!
-
Tôi gần đi Pháp, không muốn giấy tờ lôi thôi, nếu anh không muốn kiện thì
thôi, nhưng tôi không thể bớt được.
-
Tùy anh, tưởng đất rộng tôi mua, ai ngờ đất hẹp thì thôi, tôi lên nghĩa
trang Gò Vấp vậy.
Ðiềm nhún vai. Mặt gã đàn ông đỏ gay, mồ hôi chảy nhớt trên mặt. Gã thở
phì phò mặt nhăn như táo bón.
-
Thôi được, tôi bớt anh một phần ba giá.
-
Bây giờ không phải một phần ba nữa mà là phân nửa!
Ðiềm thản nhiên, như việc xuống giá thật bình thường. Gã Thế hét lên:
-
Anh bảo sao? Một nửa giá thôi ấy à? Anh cút đi tôi không cần bán nữa!
-
Anh có ông bà cụ thân sinh cũng chôn trong này phải không?
Chàng từ tốn hỏi, trong lúc gã Thế biến sắc.
-
Ai nói với anh?
-
Vợ anh có nói với tôi là cả gia tộc anh chôn trong này. Anh nghĩ sao nếu
tôi nói với thân nhân của cụ Nguyễn Văn Nhâm nằm đây rằng anh đã đá vào
sườn ông cụ và đập bể hai lọ hoa. Anh nghĩ họ sẽ phản ứng như thế nào, nếu
tôi chỉ mả của ông bà thân sinh ra anh? Dĩ nhiên là tôi sẽ nói luôn là anh
muốn chạy tiền công an cào mả ông cụ lên chắc họ không hài lòng đâu!
-
Anh, anh... dám làm điều đó?
Gã Thế lặng người nhìn Ðiềm, mồ hôi chảy võng trên mặt. Gã hung hãn bao
nhiêu khi mới vào, lúc này xanh mướt hiền lành chẳng khác một kẻ buôn chui
bị bắt.
-
Dĩ nhiên là tôi không làm chuyện thất đức đó rồi, nếu anh chịu để cho tôi
phân nửa cái giá chỗ đất này.
Ðiềm đưa tay chỉ chỗ mấy lùm cỏ um tùm. Chàng biết gã Thê đã giao động lắm
và mình đã thắng cuộc mặc cả. Buổi chiều ôm nắng qua vòm nghĩa trang. Gió
thổi hiu hiu những lọn tóc Thủy bay bay nhè nhẹ đong đưa. Nàng nhìn Ðiềm
mỉm cười ranh mãnh, đan năm ngón tay nhỏ vào tay chàng. Bầu trời vẫn xanh
biếc không gợn mây, nhưng nghĩa trang đã mất đi cái âm u rờn rợn lạnh lẽo,
thê lương của nơi cúng tế. Bên cạnh người yêu, Ðiềm có cảm tưởng chàng
đang đứng trong một khu an phúc, nơi cuộc đời tàn bạo là gã con buôn kia
đã chịu thua. Chàng xiết tay Thủy tin tưởng. Nàng gật đầu khuyến khích.
Ðiềm trông thấy thấp thoáng bóng của Khánh và Thìn đứng ngoài rình nghe.
Ðiềm mạnh dạn lên tiếng:
-
Anh suy nghĩ lẹ lên chứ! Chiều rồi tôi còn phải đi, nói tôi một tiếng anh
có bằng lòng hay không? Bớt phân nửa giá, anh vẫn còn lời mà!
Trần Vũ
7-1991
|
17/9/13
Buổi sáng sinh phần
16/9/13
Trần Vũ - Gia Phả
Gia Phả
I
Tôi đi ở cho tộc Trần từ lâu
lắm. Từ cuối đời Lý. Lúc Trần Thị chỉ vừa cắt nhau. Ðêm tháo thai, sống cảnh
sinh nở đầu đời nên tâm hồn tôi ngập kinh hãi. Máu từ cửa mình vợ Trần Lý
chảy xối, bắn phun tung tóe như bát canh rau dền rơi vãi trên đất. Thứ
canh đỏ thẫm, lợn cợn những nhau, thịt, chất nhờn. Trần Thị giẫy, vùng,
đôi tay chới với cào cấu vươn tới trong động tác nắm tìm sự sống. Ðã biết
đi vào đời là đi vào khổ đau, nhưng tôi cũng không ngờ khổ đau to lớn tàn
phá đến rách bươm cửa mình vợ Trần Lý. Mỗi cái quẫy mình là mỗi một vũng
máu, trào ra, trào cho đến đầy thau. Máu bê bết chẳng khác một pháp trường.
Cánh tay mụ đỡ đưa cao lắm.
Cánh tay lằn những sợi gân oan nghiệt. Miểng chai cắm lùi trong than hồng
đỏ rực. Loại miểng chai sắc cạnh, bén nhọn chỉ dùng cho mỗi thứ công việc
đành đoạn là cắt cổ người, hoặc nhẹ nhàng lắm: thọc huyết heo. Vợ Trần Lý
co rúm như con lợn lôi ra sân bếp. Tôi nhắm mắt, đã hiểu mình sẽ không bao
giờ lớn. Trần Thị mất mẹ ở hành động cưỡng ép chối bỏ tình mẫu tử đó. Cuống
rốn nắm trong tay mụ đỡ hiểu được số mệnh, vùng vẫy, cựa quậy, tháo thân,
cuống rốn như con rắn nước liều lĩnh kháng cự trước lúc bị chặt đầu. Miểng
chai xắn xuống, xắn xuống, cứa mãi, thịt rách, gân đứt, máu phụt, vợ Trần
Lý căng, đạp, thét la oằn oại gào trong mất mát. Trần Thị bật khóc, tiếng
khóc đầu tiên vỡ òa khi cuống nhau nối mình vừa đứt. Máu tiếp tục phun. Nước
mắt tôi chảy cho Trần Thị: Vào đời giữa máu me hung bạo.
II
Tôi về ở cho tộc Trần, như thế,
từ sau đêm máu me ấy. Tộc Trần là một tộc lớn, ngự trị khắp phủ Xuân Trường.
Hiếm ai ngờ một dòng họ còn sót lại từ thời Bắc Tống, kéo xuống lập nghiệp
phương Nam khởi đi từ nghề đánh cá nhỏ mọn, sau một trăm năm lại hùng mạnh
chừng ấy. Ở cho một gia tộc quyền thế, song công việc của tôi cực nhàn nhã.
Ngày ngày theo chân Trần Thị, lẫm chẫm quanh vùng Hải Ấp, rồi lớn dần chạy
nhảy bên bờ sông Thao. Trần Thị lớn vụt lên như lẵm lúa bát ngát mênh mông
của tộc Trần. Sức sống của con sông Thao cuồn cuộn chảy buông mênh mang về
Phú Thọ, cũng chở mang sắc đẹp của Trần Thị. Mỗi dòng sông ở đầu thế kỷ 13
mang một vẻ đẹp riêng, nhưng sông Thao mang vẻ đẹp của đất nước.
Nhưng nếu tôi không bao giờ lớn, ở lại mãi mãi cái đêm sinh nở tàn bạo,
thì Trần Thị trổ vươn như nhành lúa bắn mình đẹp đẽ. Nhành lúa đẹp tựa một
ánh chớp sánh bừng rực rỡ, ửng hồng giữa bầu trời tối tăm tàn tạ cuối triều
Lý. Chưa ý thức, song Trần Thị thường nắm tay tôi nhìn đăm ra khoảng sân
sau, khoảng sân huyễn hoặc, lót đá vân lọt thỏm giữa lòng nhà lưa thưa nắng.
Những tia nắng kỳ ảo lấp lánh lăn quăn khắp bức tường loang loáng vẽ nghìn
tia ngũ sắc ngời ngời óng ả phản quang không ngớt trên mặt vại nước. Trần
Thị kéo tay tôi ngồi xuống. Chúng tôi ngồi sát nhau tưởng chừng có thể nhập
làm một, như thể tôi với Trần Thị chỉ là một - một người con gái nhiều giờ
liền ngắm bức tường say mê. Nắng nung những ước vọng thầm kín trong tôi,
còn khoảng tường vạch lên trước mắt Trần Thị vị trí của tộc Trần. Có lẽ
trưa đó, Trần Thị cũng bắt đầu nhận biết vai trò của mình trước lịch sử
khi đối diện khoảng tường soi nắng ấy. Nắng soi như chưa bao giờ được soi
xuống từ mảnh ngói vỡ vàng chóe, lập lòe, rũ màu sắc, buông thả từng đường,
từng mảng, từng cánh tay ôm choàng ngang bức tường rêu cũ kỹ xanh ố mờ thời
gian. Cả bức tường vụt sống. Cả thời gian cũng vụt trỗi mình quẩy cuồng
sáng lóa trong khóe mắt Trần Thị. Tiếng nước rỏ xuống sân nghe váng âm hắt
dội giữa trưa vắng tịch mịch, chợt vang vang thành bước chân của những tên
khổng lồ đuổi bắt thời gian. Thời gian của thời đại hay của định mệnh ? Gã
khổng lồ mang thân xác tên tuổi tộc Trần - tôi rùng mình nhớ tới Thủ Ðộ -
Trần Thị cũng rùng mình lúc tôi cởi cúc, tuột áo, bắt đầu múc nước từ bồn
chứa xối cho Trần Thị tắm. Những ngón tay tôi xoa nắn, những ngón tay Trần
Thị nắm lại. Mặt đất nở hoa. Không khí thơm sữa. Trần Thị khép hờ mắt, chỉ
còn thân xác hiến dâng trọn vẹn. Tôi đuối vào giữa ngực Trần Thị, ngỡ mình
sẽ hưởng những dòng máu chảy ấm bên trong, sẽ ôm lấy vào lòng thịt da run
rẩy, sẽ ấp ủ thân thể trắng trong mềm nõn. Dưới trần mái âm u không tiếng
động, ngón tay tôi ngẩn ngơ mê mẩn, những ngón tay Trần Thị chậm lắm níu
chặt, kéo giữ bàn tay tôi ở lại, thúc hối nhịp nhàng nhịp nhàng từng khắc
từng khoảnh khắc van lơn nài kéo. Tôi mê man xoa nắn, mân mê âu yếm. Trần
Thị khép mở đùi rồi thõng hai tay ngửa mặt buông cho thể xác tận hưởng
chút thiên nhiên mỏng manh đang lọt vào tòa nhà. Từng đốm sắc xanh mờ tối,
nhảy múa lung linh như có lân tinh, tôi hôn tới đâu đốm sáng bốc thành ngọn
lửa phụt cháy. Tôi nuốt lửa cuồn cuộn trên ngực Trần Thị nghe vang vang tiếng
nước chảy róc rách, nhưng không chỉ có tiếng nuớc mà bất chợt tiếng đập
cánh của bầy quạ đen thất thanh ầm ĩ trên mái vùng bay. Trần Thị giật mình
bấu lấy tay tôi thảng thốt:
-
Chị Ðào!
Thị sợ!
Mình mẫy ướt đẫm, tôi cũng sợ.
Nhưng không phải nỗi sợ hãi vu vơ của cánh quạ đen tuyền đập phần phật
quýnh quáng âm động giữa không gian vắng. Nhưng là nỗi sợ hãi sâu chín hun
hút từ thịt da trắng ngần trong trẻo của Trần Thị như có nạm ngọc. Mỗi một
hột nước là một hạt trân châu óng ánh không bao giờ tắt. Cánh tay tôi cứng
sững không dám vươn tới, không bao giờ chạm vào được thân Trần Thị lõa thể
đứng tắm giữa sân. Qua mí mắt Trần Thị tôi đã hiểu: Bức tường choáng ngợp.
Rõ ràng Trần Thị không thuộc về tôi, nhưng thuộc về khoảng tường xây đắp
hơn một trăm năm của tộc Trần. Bức tường đối diện, sừng sững, ngạo mạn đầy
uy quyền đời đời không bao giờ sụp đổ. Cả tiếng nước rỉ, võng âm như bước
chân của gã khổng lồ man dại chạy sấm sẩn sầm sầm cũng trở nên đe dọa... Nắng
nghiêng dần, bức tường lùi vào bóng tối, tới lúc những giọt nắng cuối cùng
từ trong gáo nhiễu bay thánh thót chạm đất, vỡ toang trên nền đá ẩm, thì
hai chúng tôi mới bừng tỉnh. Khoảng tường cuốn hút kỳ lạ. Bở tường ủ ê hâm
hấp. Bàn tay tôi trơ trẽn, buông vội tiếc rẻ vuông ngực trần mơn mởn, đầu
vú nhọn nhú lên xuôi mềm mại tròn trĩnh trắng muốt thắt hẹp ở hông rồi lại
nở vung ôm chặt lấy đáy thân Trần Thị. Trần Thị cắn môi nhìn tôi bẽn lẽn,
một tiếng trống chùa vang xa nhắc nhở...
Tắm xong, tôi lấy xiêm áo cho
Trần Thị thay. Vải lụa tím ngà thêu những nụ thủy tiên thôi còn e ấp,
nhưng bắt đầu nở. Trần Thị xỏ ống tay áo, khép vạt, chéo áo lập lòe bâng
quơ rộn ràng đàn bướm vàng rực. Trần Thị xoay mình ngắm, vạt áo xòe rộng ở
gót chân, trong gương váy áo phập phồng phơi múa giống chiếc đuôi của loài
công làm đẹp cho cơ ngơi tộc Trần. Tôi không khỏi ngăn mình liên tưởng Trần
Thị cũng là một con công, song không phải một loài công nuôi, mà là thứ
công để thịt. Chẳng phải ngẫu nhiên mà có câu tục ngữ: nem công, chả
phượng. Trên đất nước này, loài vật đẹp đẽ nhất, cũng chỉ phục vụ cho
một mục đích phàm phu nhất.
Chúng tôi bước ra gian thờ. Trần Thị nhắc tôi khép cửa. Căn buồng đóng lại,
chỉ còn hương thơm thoang thoảng theo dấu chân Trần Thị. Công việc của tôi
ngoài nuôi nấng Trần Thị, còn được giao trọng trách chăm sóc bàn thờ. Thứ
trọng trách mà tộc Trần chỉ giao cho kẻ bất lực, không có khả năng chống
đối, lật đổ tham vọng. Mỗi ngày tôi với Trần Thị quẩn quanh, chữa lại một
cành vạn thọ cắm không ngay, treo thêm những vòng nhang xoắn, đốt cho khói
hương không bao giờ đứt. Bột nhang vàng lấm tấm, tàn nhang cong oằn, tôi
quét dọn tro than không ngừng rơi xuống. Trần Thị hay phụ tôi xếp những
trái vải đỏ mọng, xoay những quả cam Bố Hạ phơi mặt vàng óng, rồi lau khắp
lượt những mặt người quá cố. Chân dung Trần Kính vẽ bằng than chì như hãy
còn sống, nhìn thèm muốn từ bắp chân Trần Thị lên quá đùi. Con ruột Trần
Kính là Trần Hấp, cha đẻ của Trần Lý cũng nhìn Trần Thị như thôi miên. Cặp
mắt hấp háy của bức vẽ truyền thần tôi lau tới đâu sáng quắc tới đó, muốn
hớp hồn, níu kéo từ cổ tay trắng mịn của Trần Thị lục lọi mân mê cho đến
tận bờ ngực con gái mềm vun. Tia mắt sờ soạng rờ rẫm. Tia mắt dâm dật ruột
thịt. Trần Thị hốt hoảng đánh rơi mâm ngũ quả, những trái hồng quân lăn
trên đất chạy trốn. Tôi cũng hốt hoảng bởi hiểu trong cái nhìn ham muốn
thèm khát của Trần Hấp đầy dẫy những đòi hỏi chiếm hữu. Trần Thị tung chạy
ra cửa, vụt đứng sững ngay lại: Tiếng vó ngựa dồn dập dã man phóng nước
kiệu trên con đường đất đỏ bụi mù dẫn đến gian nhà thờ. Tim tôi cũng đập
mạnh đứt quãng, cái con người hung hãn nắm vận mệnh tộc Trần đã đến. Yêu
Trần Thị nhưng tôi bất lực, thứ bất lực của kẻ ở theo hầu một triều đại.
III
Tôi theo dạy chữ thánh hiền cho Thủ Ðộ từ tấm bé. Thứ chữ dùng làm đạo.
Thứ đạo của người quân tử. Nhưng với Ðộ, không có thứ đạo nào hơn sức mạnh.
Học hết Tam Tự Kinh, Ðộ không xem tôi như thầy nữa, nhưng coi như một thứ
quân hầu đi theo sai việc. Ðộ sớm phát triển cơ thể. Bắp tay nở nang, bả
vai đồ sộ. Phóng đao, đâm giáo, dùng đoản côn, tráng đinh khắp làng Tức
Mặc không ai hơn Ðộ. Sự phát triển của cơ thể chỉ đưa đến gia tăng tính
dục. Ðộ mạnh về đường sinh lý, những chiều đi tập võ về, Ðộ thường cởi
trần trùng trục, đứng trần truồng khoe thân trước đám thôn nữ. Ai không
muốn xem, Ðộ cho tiền bắt xem. Ai bỏ chạy, Ðộ rượt theo đánh. Chữ Thánh
Hiền lúc đó chỉ còn là một mớ hình dáng tạp nham làm bẩn óc Ðộ. Có lần
điểm mặt Trần Lý, Ðộ nói không nể nang:
- Ở đời không mưu, không đạt việc lớn!
Trần Lý cúi gầm mặt. Bản chất yếu đuối, trí não không hơn một kẻ đánh cá,
Trần Lý không sao trấn áp, tranh được với trí xảo của Ðộ. Năm Kỷ Tỵ 1209,
Ðộ mười lăm tuổi, mang sức vóc của loài vượn trắng. Trưa quất ngựa theo Ðộ
đến gian nhà thờ của tộc Trần, tâm thần tôi đầy ray rứt của nhà nho bất
lực với chữ nghĩa thả mặc dây cương cho môn sinh tìm tội lỗi.
Chiều đó, bầu trời bẩn lắm. Có nắng, nhưng cũng nhiều mây, thứ mây đen tối
bao phủ trên nền trời đất nước. Ðộ thúc ngựa như điên, như dại. Nắng ruổi
theo sau hớt hãi. Nhưng nếu nắng cuối triều Lý không đủ ấm, thì khi soi
xuống mình Ðộ lại biến chất. Lúc vó ngựa của Ðộ rầm rập dẫm vào trong sân
thì mặt trời đã trở nên cực hung hãn, mặt trời như có đúc vàng đặc cứng
chật căng trên da mặt Ðộ phừng phừng lửa giận. Ðộ thắng ngựa, buộc chặt
trước rào. Cả một gian nhà thờ vụt kinh hãi cung kính phủ phục đợi Ðộ. Ðôi
mắt Trần Kính sợ sệt trốn tránh. Cặp mắt Trần Hấp nhợt nhạt nhìn lảng vu
vơ. Cả một dẫy chân dung cúi gầm mặt không dám ngẩng lên. Anh ruột Trần
Thị là Trần Tự Khánh trông thấy Ðộ cũng vội vã bỏ trốn. Ở đời không mưu
không đạt việc lớn. Song Ðộ không chỉ mưu mà còn có cả sức lực. Tất cả kẻ
sống và kẻ chết trong gia tộc Trần đều biết. Ðộ đá bật cửa, giật mạnh tấm
màn gấm che ngoài. Nắng xộc vào hung tợn hơn lũ ăn cướp soi trắng thịt da
Trần Thị tái ngắt sợ hãi. Trần Thị luống cuống hỏi:
- Cậu Ðộ tới tìm tôi?
- Không tìm chị thì tìm ai? Tìm chó à?
Ðộ gầm. Giọng nói như tên bắn.
- Phải thằng Sam trốn giặc Quách Bốc về đây hỏi cưới chị?
- Tôi không biết!
Trần Thị co rúm mình lùi vào góc nhà. Ðộ sấn tới, vóc vạc không thua con
dã nhân đeo cung kiếm. Sử quan triều sau, với lối chép sử biên niên cổ lỗ,
không ai tả được đôi mắt Ðộ. Ðôi mắt của kẻ nhất quyết nắm chức Ðiện Tiền
Chỉ Huy Sứ năm mười lăm tuổi. Trần Thị kinh hãi lùi dần, lùi dần, cho tới
khi bị Ðộ chụp lấp cằm bóp mạnh:
- Có phải chị nhận lời vì thằng Sam là hoàng thái tử ? Có phải?
- Cậu buông tôi ra!
- Có phải?
Ðộ tát Trần Thị một bạt tai ngã sấp. Máu ứa ra ngoài môi. Trần Thị bưng
mặt, Ðộ đến siết cổ, Trần Thị cố dẫy, búi tóc xổ tung, những sợi tóc đen
nhánh đổ vung vãi xuống phần ức trắng. Ðộ xé toạc ngực áo lột trần xuống
tới lưng. Trần Thị gào la khóc lóc thở hổn hển.
- Tôi lạy cậu!
Trần Thị van lơn nhưng Ðộ không nghe, không ai có thể kềm chế đuợc Ðộ. Tôi
run rẩy đứng chết trân sau cột nhà, không gian đặc quánh nỗi sợ sệt tê
điếng, đã hiểu mình không sao giúp gì được cho Trần Thị, đã hiểu chữ Thánh
Hiền chỉ là mớ chữ vô dụng. Số phần Trần Thị chỉ có thể do Trần Thị quyết
định, nhưng Ðộ đã nắm lấy tóc kéo lôi đi. Trần Thị giẫy dụa, mười ngón tay
bấu sướt trên nền đất cốt trì kéo mà không được. Ðộ ném Trần Thị ngã ngồi,
rồi từ từ cỡi giáp. Hai bắp vai Ðộ lồi ra đen đỏ màu đồng. Nắng dát vàng
khắp lưng bóng lưỡng, Ðộ đứng xoay lưng nên tôi chỉ trông thấy được những
bắp cơ rắn rỏi chạy dọc từ cần cổ xuống gót chân Ðộ trần truồng thô lỗ.
Trần Thị tái mặt. Ðôi mắt của Ðộ dâm dật bệnh hoạn, nhưng cũng đầy thỏa
mãn, Ðộ từ từ quay lại nhìn tôi hỏi:
- Chữ gì?
- Bẩm, chữ nhân.
Tôi lắp bắp. Ðộ phá ra cười, tiếng cười lồng lộng xuyên xoáy trên nóc nhà,
rồi dội hắt xuống. Tiếng cười như có khảm gai. Không phải là Nhân mà là
Dục, không phải Dục mà là Trí, không phải Trí nhưng là Dũng. Nhân, Trí,
Dũng, Dục, Ðộ có đủ. Lấy thằng Sam là Trí, ăn ở với hắn là Dục, giết hắn
là Dũng. Ðộ tiếp tục cười khùng khục đứng dạng chân, vươn tay phơi mình
nhìn sững Trần Thị trong tư thế nham nhở. Trần Thị nhắm mắt úp mặt vào
lòng bàn tay nức nở. Ðộ bỗng lầm lì cúi nhặt thanh mã nằm rơi trên nền đất.
Tiếng cười im bặt.
- Tộc Lý là con ngựa này!
Ðộ chỉ con ngựa ô buộc ngoài máng. Tay chân tôi lạnh ngắt, người rã ra
trong cơn sợ hãi, tôi đã hiểu Ðộ sắp làm gì. Ðộ lại nắm tóc kéo lôi Trần
Thị lê lết trên mặt đất bắt nhìn quang cảnh. Hai cánh tay Ðộ hươi cao lắm,
gân guốc, mạnh mẽ. Bản dao sáng lóa, suốt đời chưa bao giờ tôi trông thấy
một thanh mã rùng rợn như thế, đôi mắt của Trần Thị mở căng khiếp đảm, đôi
mắt của Ðộ hung bạo, đôi cánh tay vung lên rồi quất xuống bằng tất cả sức
lực. Tiếng ngựa rống chói tai. Tiếng vó sắt đập tung như trống nện. Cần cổ
con ngựa ô ngập lún bản đao vùng lên, từ chỗ vết thương thịt da máu me đổ
trào ra như thác, máu ngập máng, máu lênh láng bắn phun lên nền đất. Tiếng
rống khủng khiếp của con vật kêu thất thanh, cố giật ra khỏi rào buộc. Ðộ
đã chém tiếp, thân thể trần truồng của Ðộ cũng vấy máu chém xối xả liền
tay không ngừng nghỉ, mã tấu hươi lên rồi lại bổ xuống, máu tung như sóng,
lớp lớp trào trào. Bản thép sáng lòe lòe sắc lạnh. Hình ảnh một kẻ trần
truồng chém đầu ngựa trông kinh hãi. Chất thép rờn rợn. Hai chân trước của
con vật đã khuỵu xuống, khoảng lưng đen nhẵn lềnh máu. Những móng ngựa
nhồi xuống mặt đất chỉ còn là những vẫy vùng tuyệt vọng, thứ co thắt của
ruột gan đứt đoạn. Máu ộc ra ở miệng, đôi mắt con vật đứng tròng nhìn
trừng trừng lên nền trời bát ngát. Mình ngựa đã xụm xuống, Ðộ xắn lấy đầu
giơ cao. Những ngón tay tôi thâm tím đi vì sợ. Cặp mắt con vật, chính là
cặp mắt của Lý Huệ Tông sau này ở chùa Chân Giáo.
Ðộ bước trở lên thềm, người tắm máu, dáng dấp của tên khổng lồ cuồn cuộn
thịt gân. Xét theo sách tướng, Ðộ có thiên mệnh, nhưng thần sắc lại nửa
rắn, nửa rồng. Không làm vua mà lại coi vua. Ðộ nhìn Trần Thị say mê, vẻ
say mê hung bạo.
- Chị yêu tôi không?
Ðộ cúi xuống, hôn vào giữa đôi môi run rẩy của Trần Thị, một bàn tay sờ
soạng phần ức trắng, mân mê nơi đầu vú. Rồi bàn tay trườn xuống bụng, Trần
Thị thót người, co rút mình mẩy. Nhưng cử chỉ đối kháng chót cùng đó chỉ
làm Ðộ giận dữ:
- Trao thân cho tôi là trao thân cho đất nước. Hiến thân cho tôi là hiến
thân cho tộc Trần! Cớ chi phải sợ? Hay chị muốn như con ngựa này?
Ðộ quát.
Buổi chiều đó, tộc Trần khởi nghiệp trên thân xác Trần Thị.
IV
U Ðào đi ở cho dòng họ tôi, từ lâu lắm. Mỗi sáng u thường hay quẩn quơ
trước bàn thờ, chữa lại hương án, rót nước, châm trà, rồi lau khắp lượt
những mặt người quá vãng, từ tổ phụ, cố nội, bà, cho đến chú tôi mà ánh
mắt cứ một ngày một nhạt phai trên bức vẽ. Không có ai trên bức vẽ mà u
không biết. Từ cố có chiếc bình điếu bằng ngà khi làm đến chức Thái Sư có
người dâng cây gậy bằng vàng lúc chết chôn theo, đến ông tôi từng đăng
quang ở điện Thiên An, khi ông khuất chính u là người tự tay khâm liệm.
Còn bà tôi theo lời u kể, chạy tản cư giặc Nguyên từ kinh sư về tới phủ
Thiên Trường dọc đường trúng tên mà mất. Phút lâm chung bà không ngớt kêu
tên cố. Tại sao lại kêu tên cố mà không là ông? U Ðào không bao giờ giải
thích cho tôi rõ.
U Ðào như thế, đã ở với từng ấy người của họ Trần. Bây giờ trong bức vẽ
nhìn ra, không biết họ có còn trông thấy u? Từ thuở tấm bé, tôi đã trông
thấy chiếc bóng của u vật vờ, dật dờ, làm như u đã ở cho tộc Trần suốt
nhiều kỷ. Không rõ từ khi nào, nhưng chiếc bóng của u đã ăn sâu lắm, chạm
khảm vào trong trí não tôi như thể u chính là sự hiện diện của gian nhà
thờ trong mỗi gia đình Việt, từ đời này qua đến đời khác, hết thế hệ này
xuyên suốt thế hệ khác, luôn luôn ở đó bất di bất dịch.
Dạo ấy, mỗi sáng, qua khe hở của hai tấm ván ghép rời, lập lòe soi đỏ một
tim đèn cầy thắp đêm ngày cạnh hương án, tôi đều trông thấy u Ðào nhặt
nhạnh từng cánh hoa tàn rụng rơi, vương vãi dưới gốc chân nhang. U quét
tước tro hương, xếp lại những quả na, bày biện thêm những quả xoài cống từ
đất Chiêm Thành vàng ửng màu cát. U không biết chữ, lại không có thì giờ
đi nghe giảng kinh, nên đối với u dọn dẹp bàn thờ là một hành động hướng
thượng. U rất chăm làm, ngày xưa Linh Từ Quốc Mẫu Trần Thị gọi u là sự tôi
luyện của thời gian. Thời gian phơi trên mấy ngón tay trắng trẻo trẻ trung
của u lúc vào ở cho tộc Trần, cần mẫn sắp xếp hai thếp nhang, đôi nến
trắng, một cho khám thờ Phật và một đặt trước bài vị gia tiên. Vẫn động
tác đó, nhưng thời gian đã bào mòn, ăn nhấm từng đầu ngón tay, khiến lớp
da nhão nhoẹt nhăn nheo như thứ da bị ngâm nước lâu ngày chỉ chực lột để
lộ xương. Nhưng hình như u không để ý mấy tới việc thịt da mình bị tàn
phá. U vẫn cẩn trọng quét dọn bàn thờ. Xong xuôi tươm tất đâu đó rồi u mới
lẳng lặng, lặng lẽ lên gác mời tôi:
- Mời Thiếu Ðế xuống lễ.
Chiếc bóng tôi đi trước, chiếc bóng u già cỗi theo sau. Trẻ thơ, song tôi
sớm có ý nghĩ: U Ðào chỉ là một chiếc bóng mờ câm sẵn sàng tan biến nhập
hẳn vào từng thớ gỗ, trộn lẫn cùng với mối mọt ở đà nhà mình. Chiếc bóng
im lìm không động đậy nơi bức vách. Nếu không phải gia tộc Trần thì cũng
là gia tộc khác. U sinh ra chỉ để đi ở, chấp nhận bất lực.
Tôi thắp nhang, van vái, rồi thỉnh một tiếng chuông rước thầy, cố, cùng
các nội tổ về.
Quay lại trong thấy u, tôi lại tự hỏi: Tại sao gia phả của dòng họ Trần
không thấy chép tên của u Ðào? Dù u đã ở với chúng tôi nhiều kỷ. Cả một
kiếp người, vậy mà u cũng chỉ giống giọt nước rỏ từ mái hiên điện xuống
chậu kiểng, giọt nước kêu đánh “tạch“ trên tàu lá rồi chảy xuống đất vô
tâm tích. Nếu nhìn từ toàn cảnh, tôi chính là cái chậu kiểng tiếp tục hứng
giọt nước nhỏ mọn ấy chảy từ thân u Ðào. Tôi, thái tử Ân - Trần Thiếu Ðế -
đứa trẻ được nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa, chăm sóc, chăm bón,
để mong nối dõi cơ nghiệp của tộc Trần.
Song năm Kỷ Mão 1399, triều Trần đã bạc nhược lắm. Thượng Hoàng Thuận Tông
bị Quý Ly chuyên quyền đầy ra ở Ngọc Thanh Quán huyện Ðông Triều tỉnh Hải
Dương. Tôi cũng phải rời cung Bảo Thanh về ở phủ Thiên Trường, mang danh
hiệu Thiếu Ðế mà không có quyền bính. Kẻ ăn, người ở trong nhà chỉ còn mỗi
u Ðào và bõ Phúc. Bõ Phúc cũng già lắm, lúc xưa là con của thầy đồ, được
nội tổ Trần Hấp rước về dạy chữ Hán cho cụ cố Thủ Ðộ. Thầy đồ qua đời, con
trai ở lại giúp việc rồi thành bõ. Lúc tôi bước chân ra sân, nắng rơi lác
đác trên những tờ giấy chép chữ Thánh Hiền. Bõ Phúc đang ngồi lom khom
phơi kinh sử, mặt bõ ngơ ngác, nói cười như mếu:
- Bẩm Thiếu Ðế ra sân chầu?
- Ðạo đã nát, chữ đã nhòe mực, bõ còn phơi làm chi?
Bõ nhướng mắt ngạc nhiên, những xấp kinh Luận Ngữ của Khổng Tử nhầu nát
trong tay bõ. Những tấm giấy đen đũi chép Ðạo Ðức Kinh của Lão Tử ố vàng,
thấm nước mềm ủng như bún. Bõ Phúc không hiểu tôi nói gì, lại cúi xuống
chăm chỉ xếp từng tờ một, ngay ngắn, thẳng hàng. Những ngón tay già héo
của bõ chậm chạp vuốt lại những trang Nam Hoa Kinh rồi bày trên mặt đá.
Một cơn gió thổi bất ngờ làm chữ nghĩa bay tán loạn, bõ Phúc hối hả tất tả
chạy đuổi theo cho tới lúc cả chiếc bóng bõ cùng những tờ giấymất hút. Sân
đá lạnh câm. Không chiêng, không trống, không cờ hiệu, không cả tiếng hát
của cung nga, tôi đứng trơ trọi một mình. Phủ Thiên Trường lúc xưa là nơi
khởi phát của tộc Trần, về sau là nơi các thượng hoàng sau khi truyền ngôi
cho thái tử về dưỡng lão. Chiếc nôi của triều đại mỗi ngày một cũ mục, suy
tàn. Tiếng gió lay lắt mấy tấm rèm cửa.
Mãi đến chiều bõ Phúc mới lượm hết chữ Thánh Hiền trở về. Mặt mũi bõ phờ
phạc, thở hổn hển. Trông bõ tội nghiệp. Tôi lại đứng xem bõ nhẫn nại phơi
kinh sử. Tôi muốn tìm người hiến kế, nhưng không có ai khác, đành hỏi bõ:
- Quý Ly muốn soán ngôi, tôi còn nhỏ dại, phải làm sao?
Bõ Phúc đang ngồi xổm, lấy đá lèn giấy, nghe tôi hỏi bỗng ngửng phắt lên
chỉ tay xuống ao quát:
- Ðầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo! Trận này không phá giặc
thề không trở lại khúc sông này nữa!
Vẻ mặt bõ Phúc đột ngột hùng dũng, quả quyết. Tiếng nói đanh thép của
người bõ già làm tôi muốn khóc, không ngờ những lúc lâm nguy của gia tộc
hãy còn người trung. Tôi ôm chầm lấy bõ Phúc, quỳ vội xuống đỡ bõ đứng
dậy. Tôi vái sống bõ Phúc hai vái:
- Trời ơi! Mệnh trời chưa hết mới xui bõ về đây, thiên mệnh nhà Trần chưa
hết, mai này về được kinh sư tôi nguyện không quên ơn cứu giúp! Vậy bõ có
kế chi?
Bõ Phúc cũng xúc động lắm, hai vai run run, đưa tay vấn lại khăn nhiễu.
Mặt bõ băn khoăn, hết quấn khăn lại vuốt vạt áo thâm, mãi mới ấp úng:
- Nhổ cỏ thì phải nhổ cả cái rễ nó đi!
Tôi sửng người chưa hiểu bõ Phúc muốn nói gì. Thấy bõ do dự, tôi gặng hỏi:
- Cỏ nào? Ở đâu?
Lúc ấy, tự nhiên mặt bõ Phúc mất hết thần khí, chỉ còn trơ lại thân xác
khô vắt của một kẻ già. Nhìn vào đôi mắt bõ trống rỗng, ngơ ngác, hai đồng
tử bạc phếch, lờ đờ, tôi chợt hiểu. Hai cha con bõ Phúc theo hầu nội tổ
Thái Sư Thủ Ðộ và họ Trần đã quá lâu, về già chẳng còn biết gì nữa; chỉ
lập lại những điều được rao truyền, nghe thấy. Tôi muốn giở cười, giở
khóc, đâm giận mình thiếu lý trí, kế giữ ngôi báu không ai hỏi kẻ ở đợ
trong nhà.
Lúc tôi quay trở vào trong, hàng liễu rũ đứng dưới sắc trời chiều chạng
vạng, vẩn vơ chiếc bóng của bõ Phúc hãy còn ngồi lom khom ngờ nghệch phơi
ủ chữ Thánh Hiền.
Ðêm đó, sau bữa cơm, tôi hỏi u Ðào:
- Tộc Trần chỉ còn mỗi mình tôi ư?
- Bẩm Thiếu Ðế còn đông lắm.
U mỉm cười, hàm răng nhuộm đen tuyền làm vẻ mặt u thêm trắng. U nói u
không bao giờ lớn, trước tôi không tin, bay giờ nhìn u đứng trong bóng
tôi, vóc vạc nhỏ nhắn, hai tay xuôi mềm, hai chân bé bỏng, sau lớp da nhăn
còn giữ dáng dấp thiếu nữ, tôi mới nhận ra u hãy còn rất trẻ. U bưng khay
trà, rót vào chung kính cẩn mời:
- Bẩm Thiếu Ðế ngự.
- U nói sao, tôi không hiểu. Ðông là những ai?
- Bẩm tất cả.
U lại nhìn tôi do dự. Có điều gì bí ẩn u muốn dấu. Tôi nắm tay u, u run se
sẽ, tôi cảm nhận rõ ràng mạch máu ấm giữa lòng tay u chảy mạnh. Có lẽ u
chưa bao giờ biết đàn ông.
- U còn thương tộc Trần thì dẫn tôi đi gặp.
Ðôi mắt u buồn lắm. Ðôi mắt u nhìn kỹ trong veo như đáy sông Thao, phảng
phất tia nhìn của Linh Từ Quốc Mẫu. Tôi ôm u vào lòng và u bật khóc. U Ðào
khóc nức nở, nước mắt u đầm đìa, những giọt nước mắt của bao nhiêu năm câm
nín, cam chịu, của nhẫn nhục cô đơn. U nuôi tôi từ tấm bé, nhưng chưa bao
giờ tôi thấy u khóc nhiều và thành thật như tối đó. Tôi biết u không thể
nói, nên u phải khóc. Tôi cũng khóc, vì gia phả tộc Trần xuống tới đời tôi
là hết. Quý Ly đã sai Phạm Khả Vĩnh đi giết thượng hoàng Thuận Tông, như
ngày xưa nội tổ Thủ Ðộ sai thắt cổ Lý Huệ Tông chồng Linh Từ Quốc Mẫu Trần
Thị ở chùa Chân Giáo. Vài hôm nữa chắc Quý Ly cũng cho người đến bắt ép
tôi uống độc dược tự tử. Tôi úp mặt vào ngực u thổn thức. Nhưng u Ðào đã
lặng lẽ lạnh lẽo gỡ tay. Những giọt nước mắt của u sao mau cạn? Tôi đâm
ngờ u không khóc cho tộc Trần.
- Bẩm Thiếu Ðế đã đến tuần.
U đốt đèn lồng dẫn tôi vào sân
trong. Khoảng sân lưa thưa gió, tối ám, nước rỉ hai bên vách tường lâu năm
bám ẩm rêu. Khói nhang từ lư hương với vàng mã đốt liên tục cay nồng nặc.
Bõ Phúc đứng đợi kéo ngai cho tôi ngồi. U Ðào đốt thêm nhang đèn vàng mã.
Tiếng nước nhiễu xuống vại nước nghe rõ mồn một. Cả một bức tường khổng lồ
soi ánh trăng sáng như một trụ tháp nhà dát bạc. Bức tường sừng sững vĩ
đại, bên trên khắc chi chít tên tuổi của những người trong tộc Trần, cùng
những chiến công lừng lẫy từ trận Tây Kết, đến Hàm Tử Quan, Vân Ðồn, Bạch
Ðằng, hội nghị Bình Than, Diên Hồng... Nghi tục của các vua Trần về ở phủ
Thiên Trường là mỗi tối phải mặc niệm trước bức tường đã ghi chép chiến
tích. Tôi cũng không thoát ra khỏi tập quán đó.
U Ðào với bõ Phúc xá lạy rồi bước ra.
Chỉ còn tôi với chiếc ngai và bức tường mỗi lúc một sáng lộng lẫy. Ban đầu
tôi tưởng là sáng trăng, song cứ mỗi lúc ánh sáng càng rực rỡ chiếu phát
như bức tường là cả một khối ngọc khi ửng đỏ lúc long lanh ngời ngời. Ánh
sáng huyễn hoặc thu hút đến độ tôi không sao rời mắt đi được. Người tôi mụ
đi, chả trách bao nhiêu đời vua Trần đều say mê chiêm ngưỡng bức tường.
Ánh sáng từ bức tường thấm vào người tôi tới đâu tê mê tới đó, máu như
thông chảy trong cơ thể, sảng khoái, rã rượi, ngọt lịm như say, toàn thân
tôi vẫn ngồi yên trong ngai mà như ân ái với nhiều cung nữ, với Chiêu
Thánh, với Thuận Thiên, với Linh Từ Quốc Mẫu, với cả u Ðào. Ánh sáng cứ
một lúc một mãnh liệt từng vòng từng vòng lớn mãi. Ánh sáng chỉ thoi thóp
tắt dần khi trời ửng sáng. Nhiều đêm, nhiều tháng sau, mỗi tối tôi đều đến
với bức tường. Cho đến lúc tinh khí kiệt quệ, tôi mới hiểu thứ ánh sáng
huyễn mộng đó đến từ hào quang của quá khứ.
Trần Vũ
6/1992 |
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)