1/11/13

Elzbieta Matynia - Khám phá ra Dân chủ Ngôn hành

Khám phá ra Dân chủ Ngôn hành

Elzbieta Matynia
New School for Social Research, New York City, August 2009


Người dịch : Nguyễn Quang A

Thực sự, 1989 đã không chỉ xảy ra trong năm 1989. Trong khi thế kỷ thứ hai mươi đã không bắt đầu cho đến 1914, và thế kỷ thứ hai mươi mốt đã không bắt đầu cho đến tháng Chín 2001, thì 1989 đã thực sự bắt đầu ít nhất một chục năm trước. Nhưng bị thôi miên bởi cảnh lễ hội (carnival) bắt mắt xảy ra trên đỉnh bức tường Berlin, hầu hết thế giới đã không nhận ra rằng cái đã có vẻ như sự sụp đổ đột ngột của chế độ cộng sản đã không là một phép màu cũng đã chẳng là thành tựu của các cường quốc nước ngoài. …đã không nhận ra rằng chính công việc từ từ, bền bỉ, và đầy sáng tạo của các công dân mở ra không gian công cộng và thiết lập các định chế và các quá trình dân chủ mới đã là cái dẫn đến sự dỡ bỏ bức tường đó.
Cũng đã quyến rũ như những hình ảnh về những người quai búa liên hồi [để phá bức tường], hay về đám đông yên bình tập hợp về đêm trên Quảng trường Wenceslas, hình ảnh đó đã che mờ, đã đơn giản hóa, và đã làm cho lạc lối. Như bạn sẽ thấy trong chốc lát, tôi là người cuối cùng đi đánh giá thấp sức mạnh của các hành động tượng trưng, nhưng tôi muốn tranh luận rằng chúng thể hiện sức mạnh thực chỉ nếu chúng có gốc rễ trong những sáng kiến xã hội và có cơ sở vững chắc trong hiểu biết địa phương … chỉ nếu chúng bày tỏ trí tưởng tượng nội và được biểu diễn bởi các diễn viên địa phương.
Việc kéo đổ tượng Saddam Hussein trong năm 2003 với sự giúp đỡ của công binh Quân đội Hoa Kỳ và những xe bọc thép Mỹ đã không mang lại những kết quả mong muốn, vì hành động ấy đã không được tưởng tượng ra cũng đã chẳng được khởi xướng bởi những người địa phương.
Tôi e rằng các bài học từ sự sụp đổ của chế độ cộng sản đã không được học, và rằng các cơ hội đã bị bỏ qua để nuôi dưỡng dân chủ thông qua các phương tiện và phương pháp được thai nghén ở địa phương.
Cái đã thoát khỏi sự chú ý khi đó đã là một địa điểm hoàn toàn mới cho loại suy ngẫm về dân chủ và dân chủ hóa mà có vẻ – dưới các điều kiện hôm nay – đã đạt đến một sự bế tắc. Khái niệm, mà tôi gọi là “dân chủ ngôn hành – performative democracy,” và chiều kích của dân chủ mà nó thâu tóm, vì chúng đã không được diễn đạt một cách mạch lạc cũng chẳng thậm chí nhận thức được một cách dễ dàng, đã bị bỏ qua bởi các nhà khoa học xã hội và như thế cũng bởi các nhà hoạch định chính sách, một tình huống mà có thể dẫn đến những đường lối chỉ đạo chính sách không chính xác, và thường đến những quyết định chính sách tai hại.
Trong những bình luận sau đây, tôi muốn chú tâm vào dân chủ ngôn hành, sự ban hành dân chủ đầy cảm hứng bản xứ bởi các công dân mà tôi tin có thể giúp chúng ta hiểu việc xây dựng một chính thể dân chủ vững chãi không chỉ ở Ba Lan. Thế mà, tôi phải nói thêm, khái niệm mà tôi chợt nghĩ ra khi tôi bắt đầu ngó tới những sự thực hành khác nhau tại Ba Lan trước và sau 1989.
Tôi không có thời gian ở đây để mời bạn xem xét lại chiều hơi khó nắm bắt này của dân chủ với tất cả tính nhân văn của nó, kịch tính của nó, các thời khắc gây cảm hứng tuyệt vời của nó, tinh thần ngẫu hứng của nó, và các giải pháp đầy sáng tạo của nó. Tôi phải ngắn gọn ở đây, thế nhưng tôi hy vọng thuyết phục được bạn rằng đã có một phổ rộng của những sáng kiến ngôn hành – văn hóa, xã hội, và chính trị – mà đã tạo thuận lợi cho sự biến đổi một môi trường chuyên quyền thành một môi trường dân chủ. Và tôi hy vọng thuyết phục bạn rằng dân chủ ngôn hành – một chiều của dân chủ mà đã nổi lên một cách có thể cảm nhận được ở Ba Lan trong các năm 1980, nhưng cũng đã có thể quan sát được ở Tây ban Nha trong các năm 1970, và ở Nam Phi trong các năm 1990 – phải có được vị trí chính đáng của nó trong tư duy của chúng ta về dân chủ hôm nay.
Ba chế độ “độc đoán khi đó” đã rất khác nhau, cũng như lịch sử tương ứng của chúng và các chiến lược mà toàn thể công dân đã chống lại chúng. Cái chúng có chung đã là, các công dân của chúng đã thách thức và đã làm thay đổi một cách hòa bình các chế độ áp bức, đã tháo dỡ những cấu trúc quyền lực hết sức tập trung, và đã khởi động các quá trình dân chủ hóa. Bám rễ sâu vào các vị trí xã hội-văn hóa riêng biệt và đa dạng, dân chủ ngôn hành như thế không phải là một mô hình lý thuyết, một lý tưởng chính trị, cũng chẳng là một hệ thống cai quản đã được thử thách, mà là một quá trình được quy định về mặt địa phương của việc ban hành dân chủ trong các khung cảnh khác nhau về mặt chính trị. Và mặc dù nó có một dãy các hình thức và được biểu lộ thông qua những cách diễn đạt khác nhau, khi nó xuất hiện dưới các điều kiện của sự cai trị độc đoán, nó thường phản ánh ý thức cơ bản của các diễn viên của nó về các lý tưởng dân chủ, và lòng tin của họ rằng quả thực có những chỗ – “các nước bình thường” – nơi các quyền dân sự được tôn trọng, và nơi dân chủ thực sự được thi hành và thực hành. Và người ta không được gạt bỏ sức mạnh của hình ảnh về một nước bình thường cho những người như vậy.
Giữa những người đã giúp tôi trong suy nghĩ về dự án này đã là J. L. Austin với các bài giảng ngôn ngữ học của ông, và hai triết gia về đối thoại và giải phóng những người đã trải nghiệm những thời kỳ đen tối nhất – Hannah Arendt ở nước Đức Nazi, và Mikhail Bakhtin ở nước Nga Stalinist. Nhưng nền tảng cho hy vọng và một chiến lược ngôn hành định hướng dân chủ cho các xã hội Trung Âu đã được đặt vào các năm 1970 trong ba tiểu luận then chốt được viết bởi các tác giả từ khu vực này chỉ cách nhau vài năm: Hi vọng và Vô vọng (Hope and Hopelessness), bời một triết gia Ba Lan sống lưu vong, Leszek Kolakowski; Chủ nghĩa Tiến hóa Mới (The New Evolutionism), bởi một sử gia trẻ thất nghiệp từ Warsaw, Adam Michnik; và Quyền lực của người Không có Quyền lực (The Power of the Powerless), bởi nhà soạn kịch từ Prague mà các vở kịch của ông đã không được phép diễn ở đó, Vaclav Havel.i Chương trình của họ cho sự thay đổi đã từ bỏ con đường cách mạng mà đã được yêu mến bởi các nhà tư tưởng tiến bộ trong hơn một thế kỷ. Con đường phổ quát đó – sự lật đổ bằng bạo lực cấu trúc quyền lực – tuy tai hại, đã vẫn là một con đường hấp dẫn ở nhiều nơi trên thế giới, vì nó đã hứa hẹn một sự thay đổi nhanh chóng, căn bản, một sự tẩy rửa quá khứ, và một sự khởi đầu tươi mới. Điều đó đã không đúng tại Đông & Trung Âu, trong đó các cuộc cách mạng đã mang lại kinh nghiệm về các cuộc nội chiến, sự mất mạng sống, mất vốn văn hóa, và – đối với nhiều người – không chỉ một sự mất quá khứ mà cũng là sự mất tương lai.
Những sự hiểu thấu của ba “nhà hoạt động ngôn hành – performativist” của chúng ta tất cả đã có cơ sở vững chắc trong một tiêu chuẩn nội về phạm vi thẩm quyền văn hóa, được truyền thụ bởi các điều kiện, các vi lịch sử, và những kinh nghiệm chính trị địa phương. Phơi ra những mâu thuẫn của hệ thống hiện tồn ở mức ngôn ngữ – với các khế ước và lời hứa không được tôn trọng, những đàm luận công khai và che đậy – các tác giả bất đồng chính kiến này đã chứng tỏ rằng những mâu thuẫn đó có thể được khai thác mà không cần nhờ đến bạo lực trong cuộc đấu tranh của họ với chế độ.
Kolakowski, Michnik và Havel đã yêu cầu nhân dân đừng kỳ vọng vào những phép màu, những sự sửa chữa nhanh, sự giúp đỡ từ bên ngoài, hay bất kỳ sự tự-sửa chữa tự động nào của hệ thống độc đoán. Thay vào đó họ đã giải thích vì sao phải cần những thay đổi nhỏ, từ tý một. Những thay đổi nhỏ này đã có thể được thúc đẩy – họ lập luận – theo hai cách: bằng cách tiết lộ – cho công chúng càng đông càng tốt – những mâu thuẫn, những sự mập mờ, tính vô lý và những sự ngớ ngẩn bên trong bản thân hệ thống; và bằng cách phát huy các công cụ quyền con người được cung cấp bởi các thỏa ước quốc tế mà đã được ký rồi vào giữa những năm bảy mươi tại Helsinki bởi hầu hết các nhà nước Cộng sản. Khi sống với sự thật bị trấn áp – như Havel đã có thể diễn đạt – tính ngôn hành (performativity) bị trấn áp. Việc đọc cẩn thận ba nhà tư tưởng tiết lộ rằng các công cụ cho sự thay đổi được níu chặt trong các hành động nói công khai, bất luận chúng hóa ra là một buổi biểu diễn nhà hát, một thư ngỏ bởi một nhóm công dân như Hiến chương 77, một bài thơ được lan truyền bên ngoài sự kiểm duyệt của nhà nước, hay những đòi hỏi được viết trên giấy bồi và được trưng ra bởi các công nhân đình công tại cổng của xưởng đóng tàu Gdansk.
Thế ý tôi muốn nói gì với tính ngôn hành?
Khái niệm thường được ghép với một tập các bài giảng của J. L. Austin về ngôn ngữ, trong đó ông thảo luận các câu, không chỉ mô tả thực tế hay nói rõ các sự thực mà còn có năng lực diễn cái chúng thực sự nói.*
Trong trường hợp các xã hội sống dưới chế độ độc tài – các điều kiện cho tính ngôn hành xảy ra đầu tiên khi (ngôn) từ định hướng hành động, đã không được sử dụng từ lâu vượt quá lĩnh vực tư, khi nó lộ ra từ sự ẩn náu, chen qua những kẽ nứt ra công khai. Và khi lần đầu tiên được nghe thấy, nó xúi giục sự nổi lên của một lĩnh vực công không thể chối cãi được.
Đối với Hannah Arendt điều kiện mấu chốt cho việc tạo thành một lĩnh vực công là một “không gian của những sự xuất hiện,” tức là, bất kỳ khung cảnh công khai nào nơi người dân có thể đến với nhau và tương tác thông qua lời nói. Chỗ như vậy cho các cuộc tụ họp ban đầu của Đoàn kết đã được cung cấp bởi các nhà máy, các đại học, các nhà thờ, thậm chí các doanh nghiệp nhà nước. Chính ở đó mà cách nói vô danh, bâng quơ và “tổ chức” đã được thay thế bằng những tiếng nói cụ thể, cá nhân và riêng biệt. Những tiếng nói như vậy, hay các hành động nói, là ngược lại với bạo lực, “mà là để hành động mà không có lý lẽ và không có sự tính đến các hậu quả.”ii
Tiếng nói như vậy đã là tiếng nói của Nelson Mandela, mới được thả từ nhà tù, người mà sau vụ ám sát người bạn trẻ hơn của ông, Chris Hani, nhà lãnh đạo chống-apartheid nổi tiếng, đã nói với hàng ngàn người nổi khùng tại một sân vận động bóng đá, ngăn chặn bạo lực sắp xảy ra và cứu vớt các cuộc đàm phán về tháo dỡ chế độ apartheid. “Chúng ta là một dân tộc đang để tang. Nỗi đau và sự tức giận của chúng ta là thực. Thế nhưng chúng ta không được phép để mình bị khiêu khích bởi những người tìm cách không cho chúng ta chính quyền tự do mà Chris Hani đã hy sinh tính mạng vì”.iii
Tiếng nói như vậy đã là tiếng nói của Adam Michnik, nhà bất đồng chính kiến Ba Lan và tù nhân chính trị thường xuyên, khi ông đã ngăn chặn một đám đông giận dữ khỏi việc đốt một đồn cảnh sát trong đó một cặp cảnh sát khét tiếng vì sự tàn bạo của họ đã bị khóa ở bên trong. Với chỉ tên của ông – không phải khuôn mặt của ông – được nhiều người biết đến, ông đã nói, chiếm đoạt một từ có nghĩa xấu quen thuộc của Đảng: “Tôi tên là Adam Michnik, và tôi là ‘một phần tử chống xã hội chủ nghĩa’.” Đám đông đã trầm tĩnh lại hầu như ngay lập tức. Sự đối đầu với một chế độ, mà đang tìm kiếm bất kỳ cớ nào để đặt phong trào Đoàn kết ra ngoài vòng pháp luật, đã lần nữa được loại bỏ. Lời nói ngôn hành, chứa đầy ý thức chú ý đến trách nhiệm – một loại hy vọng biết bao!
Sự nổi lên của Đoàn Kết Ba Lan trong năm 1980, nghiệp đoàn lao động toàn quốc đó mà sự tồn tại hợp pháp của nó đã được thương lượng giữa các công nhân xưởng đóng tàu Gdansk và chính phủ Cộng sản ở Ba Lan, theo nhiều cách đã là một kiệt tác của dân chủ ngôn hành. Cái “tôi” tự được khám phá, cất tiếng nói một cách tự trị, các diễn viên-công dân của phong trào Đoàn kết, đã buộc nhà nước tiến hành đối thoại với họ.
Khi người thợ điện có ria mép người đã lãnh đạo cuộc đình công và rồi đã tiến hành các cuộc đàm phán, Lech Walesa, đã nói với đám đông tụ họp tại cổng xưởng đóng tàu sau khi ký các thỏa thuận, ông đã nói: “Chúng ta sẽ có nghiệp đoàn độc lập, tự quản của chúng ta; “Đoàn kết”, tờ báo riêng của chúng ta được xuất bản ở đây trong thời gian đình công, sẽ trở thành tờ báo của công đoàn chúng ta, và chúng ta sẽ có khả năng viết bất cứ gì chúng ta muốn mà không có kiểm duyệt; chúng ta có quyền để đình công …” Bài nói chuyện này, đã được quay phim và một bộ phim một tháng sau đã được phân phát khắp cả nước, đã trở thành một trong những thời điểm tượng trưng nhất về dân chủ ngôn hành của thế kỷ thứ 20.iv
Các thỏa thuận Gdansk đã là một kết quả kỳ lạ cho một cuộc đình công của công nhân, không giống bất kỳ kết quả trước nào của sự mặc cả tập thể. Những đòi hỏi đã ít về chính phủ làm các thứ cho người dân, hơn là về xóa bỏ những cản trở sao cho bản thân người dân có thể tự lo về các thứ, và chính phủ không được ngăn cản họ làm việc đó. Không gian được mở mới nhắm đến việc giải quyết các vấn đề, xác định các giải pháp, và thực hiện chúng, đã là lĩnh vực của hành động tích cực bởi các công dân riêng được giải phóng nhân danh lợi ích công.
Có lẽ trường hợp ngoạn mục nhất của tính ngôn hành đã là kịch tính lên đến tột độ của các cuộc đàm phán Bàn Tròn mà đã xảy ra vào mùa xuân 1989 ở Warsaw. Các cuộc đàm phán bàn tròn, mà đã khởi động sự biến đổi dân chủ của nhà nước một đảng của Ba Lan, đã bắt đầu vào tháng Hai và kết thúc vào tháng Tư năm 1989, vào lúc khi hệ thống cộng sản trong khu vực vẫn đã có vẻ – cho dù không còn vững chãi nữa – là chắc chắn không thể đảo ngược được. Tuy ít ngoạn mục và bắt mắt hơn các đám đông vui sướng quai búa tại bức tường Berlin nửa năm sau đó rất nhiều, chính bản thân các cuộc đàm phán này đã thực sự tạo thành sự kết thúc của chế độ chuyên quyền trong khu vực. Các cuộc đàm phán năm 1993 ở Kempton Park gần Johannesburg, mà đã mang lại sự kết thúc của chế độ apartheid ở Nam Phi, tuy kéo dài và kịch tính, cũng đã không tạo ra những hình ảnh gây choáng váng: chắc chắn đã không thể so sánh được chút nào với những hình ảnh một người, một phiếu đó được chụp từ trên cao về các hàng người quanh co xếp hàng chờ bỏ phiếu lần đầu tiên trong đời họ. Công việc thực của việc quai búa liên hồi để ra những thỏa thuận như vậy đơn giản là không thân thiện-với truyền thông đại chúng.
Ấy thế mà, dân chủ ngôn hành, rất giống carnival (ngày hội) như được nghiên cứu bởi Mikhail Bakhtin, là một hiện tượng nhất thời. Carnival là thời gian khi cái phi chính thức trở thành chính thức, khi các nhà lãnh đạo không ngờ được phát hiện ra và được chỉ định. Nó là một khoảng thời gian mà nuôi dưỡng năng lực hành động, và trao cho người dân các năng lực ngôn hành. Carnival tiết lộ sức mạnh tiềm tàng trong khi sức mạnh đang thịnh hành bị đình chỉ, nhưng carnival không kéo dài. Trong những trường hợp huy hoàng nhất nó tạo thành một nơi của kinh nghiệm cả vui lẫn mang tính lật đổ trong quảng trường công cộng mang tính ngày hội nơi sự sợ hãi và sự đau khổ, như Bakhtin đã có thể nói, được giảm đi. Lời nói và hành động không phải là các thuộc tính duy nhất của quyền tự do, như Arendt nói, mà là một nguồn chủ yếu của phẩm giá cá nhân và hy vọng xã hội, vì chúng góp phần vào ý thức của một chính thể mà trong đó nhân dân và những tiếng nói khác nhau của họ có ý nghĩa trong cả việc tạo ra và duy trì nó.
Trong khi dân chủ ngôn hành là khó để hoạt động hóa (operationalize), ta có thể quan sát các thí dụ về nó trong các tình huống và quá trình cụ thể liên quan đến các hình thức và các loại lời nói, được hiểu một cách rộng, mà tạo thành hành động công và gây ra sự thay đổi. Tôi phải nhấn mạnh rằng tôi thấy nó như một sự thực hành nảy sinh từ một ý thức mạnh mẽ về việc thực sự được sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm giá và các quyền và về hành động hướng tới nhau theo tinh thần anh em – ý thức đó mà được thâu tóm trong điều đầu tiên của Tuyên ngôn Phổ quát về các Quyền Con người. Đồng thời, nó là một chiều của sự thực hành dân chủ mà – tuy được thực hiện qua cách cư xử của những công dân biết điều – không trái với những xúc cảm, vì nó có thể đầy tinh thần ấm cúng một cách đáng ngạc nhiên, mà chắc chắn đã là trong trường hợp của những người Ba Lan trong năm 1980.
Với con mắt của nó để ý đến tính công cộng, đối thoại, và thỏa hiệp, dân chủ ngôn hành không phải là một lĩnh vực mà trong đó các nhóm thiển cận khai thác sự sợ hãi có thể cảm thấy thoải mái – hay nói chung những người chủ trương những dàn xếp hẹp hòi. Bất chấp kịch tính vốn có của nó, dân chủ ngôn hành có thể thực sự là một chiều vui sướng và khẳng định của người dính đến chính trị, thế nhưng là một chiều mà tự giới hạn những cảm xúc mạnh mẽ bằng cách nhất thiết định khung chúng trong những hình thức, loại, và quy ước đã được thỏa thuận.
Mặc dù không dễ được hoạt động hóa, cũng chẳng dễ thể chế hóa, nó để lại một di sản quan trọng: hệt như carnival, nó xảy ra, và khi nó xảy ra, nó giải phóng một sự sáng tạo công dân vững chãi, chuẩn bị các điều kiện cho những cái lưng cong để thẳng lên – và đây là một thành tựu có giá trị lâu bền. Tôi muốn tranh luận rằng chiều đặc biệt này của đời sống chính trị có thể xảy ra trong cả khung cảnh phi-dân chủ và khung cảnh dân chủ. Trong trường hợp trước, nó thường tạo thành các giai đoạn ban đầu của một dự án dân chủ; trong trường hợp sau, nó cung cấp những chiến lược để giữ cho dân chủ đầy khí lực, và giúp nó sống sót một mùa “chay” dân chủ.
Di sản của dân chủ ngôn hành bao gồm nhiều bài học, nhưng tôi muốn tập trung vào hai trong số chúng, vì tôi tin chúng nên được xem xét nghiêm túc bởi các nhà hoạch định chính sách thử giải quyết một thế giới ngày càng hung dữ mà gây nguy hiểm cho đời sống của các công dân và các cộng đồng. Các bài học tôi nghĩ đến là một bài học về xã hội dân sự và một bài học về cách mạng.

■ Một Bài học về Xã hội Dân sự

Mặc dù không phải chỉ là một tên khác cho dân chủ trực tiếp, dân chủ ngôn hành quả thực có làm giảm khoảng cách giữa những đại biểu được bầu và nhân dân, và đưa bản thân người dân đến gần hơn với nhau, phát triển mạnh vì nó dựa trên sự thực hành phong phú của các cuộc gặp gỡ mặt đối mặt và những thảo luận không ngừng. Những việc này khởi động một quá trình học, hình thành các ý kiến, lập luận, đánh giá cao giá trị của sự thỏa hiệp, và điều này quả thực mang tính biến đổi đối với những người tham gia. Sự nổi lên – cho dù chậm chạp – của không gian công cộng – hay lúc ban đầu thậm chí một không gian nửa công cộng, là nền tảng cho xã hội dân sự – những chỗ nơi các công dân riêng hoạt động nhân danh lợi ích công.
Cái tôi gọi là dân chủ ngôn hành, khi đó, thâu tóm chỉ một chiều của dân chủ, và bản thân nó không “đủ tư cách” để thay thế cho dân chủ đại diện hoạt động tốt với các cơ chế và thủ tục được xác lập. Thế nhưng nó làm nổi bật kết cấu phong phú hơn của dân chủ tự do, và làm cho dễ hơn để thấy các triển vọng cho hành động dân chủ trong những thời khủng hoảng: làm sống lại tinh thần của chính thể dân chủ khi hệ thống đã trở nên bị yếu đi bởi sự tự mãn, chẳng hạn, hay chuẩn bị cơ sở cho một trật tự dân chủ để nổi lên ở nơi đã chẳng có gì trước đó.
Và khía cạnh vi-chính trị này của chính trị hiện đại, đặc biệt cốt yếu cho sự ra đời của nền dân chủ nhưng cũng quan trọng cho một nền dân chủ đã thiết lập để phát triển mạnh, phải không được bỏ qua bởi các nhà tư tưởng chính trị hay các nhà hoạch định chính sách, dù về mặt đối nội hay trong các chương trình nghị sự nước ngoài của họ.
Và còn quan trọng hơn – đặc biệt khi ta xem xét thế giới sau 11 tháng 9: sự chuyển đổi sang một nền dân chủ có ý nghĩa và lâu bền, chẳng bao giờ là một dự án dễ, có cơ hội tốt nhất để thành công nếu nó được khởi xướng và được sở hữu bởi người dân địa phương, và tính đến tiếng nói của họ, thấm đẫm lịch sử, văn hóa, và kinh tế tương ứng của họ. Tôi muốn nghĩ rằng đây không chỉ là một sự lựa chọn thay thế thực cho các xe tank và đạn, mà cũng là một loại lực lượng mà có thể giúp lấy lại phẩm giá đã mất của người dân và bản sắc của họ như các công dân.

■ Một Bài học về Cách mạng

Khi thập niên đầu tiên của thế kỷ mới sắp kết thúc, chính trị của hy vọng và bất kỳ sự phát triển nào mà làm tăng hy vọng chính trị là mối quan tâm to lớn của tất cả chúng ta, vì chúng ta tìm kiếm những sự lựa chọn thay thế cho các giải pháp bạo lực và nỗi thất vọng. Các cuộc cách mạng có còn, như nhiều nhà tư tưởng quá khứ và hiện tại gợi ý, vẫn là “những sự ủy nhiệm” cho hy vọng? Nếu thế – loại cách mạng nào?
Chính trong năm 1989, một loại hoàn toàn mới của cách mạng đã nổi lên, bày tỏ hy vọng mà không có đổ máu. Không đổ máu như các cuộc cách mạng ở Trung và Đông Âu mà đã dẫn đến sự tháo dỡ các chế độ độc đoán, những cuộc cách mạng đó đã là các cuộc cách mạng “không căn bản,” chí ít từ lập trường của các nhà cách mạng và các nhà tư tưởng thế kỷ thứ 19, mà đối với họ Cách mạng Pháp năm 1789 đã là một tấm gương. Thế nhưng 200 năm sau đã chính loại cách mạng đó dẫn đến sự thay đổi hệ thống căn bản mà đã thu hút được trí tưởng tượng của người dân. “Nhung” hay mặt khác không căn bản, nó đã trở thành một nơi của hy vọng rõ ràng, một chỗ mà trong đó các từ có sức mạnh, mà trong đó ngôn ngữ có sức mạnh ngôn hành, nơi lời nói là hành động, và nơi các từ hành động. Các cuộc Đàm phán Bàn Tròn mà đã tạo thuận lợi cho sự biến đổi dân chủ của nhà nước độc đảng của Ba Lan đã bắt đầu vào tháng Hai và kết thúc vào tháng Tư năm 1989, vào lúc khi hệ thống cộng sản trong khu vực vẫn đã có vẻ – cho dù không còn cường tráng nữa – chắc chắn không thể thay đổi được. Mặc dù ít ngoạn mục hơn các đám đông vui sướng quai búa tại bức Tường Berlin một nửa năm sau đó rất nhiều, chính các cuộc đàm phán đó đã tạo thuận lợi cho sự sụp đổ của bức Tường đó.
Các cuộc cách mạng của năm 1989 đã thay thế bạo lực bằng các hành động của lời nói, hay ngôn hành, qua đó thân phận con người đã lấy lại được phẩm giá đầy đủ của nó, và đã nhận ra năng lực hành động của nó thông qua các công cụ khác với vũ khí. Cho nên ở đây là một sáng chế chính trị, và không phải một phép nghịch hợp: Để mang lại một sự thay đổi cơ bản, hãy thương lượng một cuộc cách mạng!
Và bây giờ tôi tin rằng sự tái chiếm ngôn ngữ bởi người dân, việc họ tự do sử dụng lời nói mới không bắt buộc, đã là chính tâm điểm của cái đã xảy ra ở Ba Lan trong 1980-81, và rồi lại lần nữa trong năm 1989. Nhưng trong sự vội vàng bởi những người quan sát bên ngoài để theo dõi lấy tin – các cuộc đình công phản đối, các cuộc tuần hành, các cuộc đàm phán, những sự di chuyển quân Soviet – thì chiều lời nói này của sự trải nghiệm đã đơn giản là quá tinh tế, quá cá nhân, quá vô hình, để được thâu tóm bởi báo chí, còn ít hơn nhiều bởi TV. Các phương tiện truyền thông bằng tiếng nước ngoài đặc biệt đã không là một phương tiện tốt cho việc chuyển tải hay thậm chí thấu hiểu các quá trình mà đã neo sâu đến vậy vào ngôn ngữ, lời nói, và các từ. Khi được dịch, tác động của tính tươi mới địa phương bị mất đi, và những sự khác biệt tinh tế nhưng quan trọng giữa cách sử dụng cũ và mới của ngôn ngữ đã vượt quá sự hiểu biết của các phóng viên và các nhà phân tích chính trị.
Đầu tiên và trước hết, giả thiết bắt buộc ở đây là tính ưu việt của các giải pháp bất bạo động dựa trên tiền đề rằng một nền dân chủ phát triển mạnh ngày nay phải là một dự án được nghĩ ra, được phát triển, và được thực thi một cách bản địa mà trong đó các từ, chứ không phải vũ khí, là quan trọng. Cụ thể hơn, mục tiêu là để xây dựng các địa điểm cho lĩnh vực công còn trứng nước và để từ từ nuôi dưỡng, duy trì, và mở rộng chúng. Đây là nơi mà vị của dân chủ được phát hiện ra, đây là nơi mà người dân khám phá ra các năng lực ngôn hành của riêng họ.

* J. L. Austin dùng performative trong các cụm từ câu performative, phát ngôn performative vân vân và performative được chuyển sang tiếng Việt là ngôn hành, thí dụ câu ngôn hành, phát ngôn ngôn hành. Ngôn hành (Vacika-samskara) cũng là một khái niệm cơ bản trong Phật giáo liên quan đến khẩu nghiệp. (Người dịch)
i Hope and Hopelessness của Leszek Kolakowski, được viết năm 1971 (Survey, 17, no.3 (summer) 1971), The New Evolutionism của Adam Michnik, được viết năm 1976 (bản tiếng Anh Letters From Prison, University of California Press, 1985), và The Power of the Powerless của Vaclav Havel, trong năm 1978 (bản tiếng Anh Living in Truth, Faber& Faber, London 1987).

ii Hannah Arendt, Reflections on Violence, Special Supplement: The New York Review of Books, Vol. 12, no 14, Feb, 27, 1969, p. 65

iii Nelson Mandela, Address to the Nation on the Assassination of Martin Thembisile (Chris) Hani, April 12 , 1993, www.anc.org.za/ancdocs/history/mandela/1993/

iv Bộ phim, Công nhân 80, đã được quay trong thời gian đình công bởi nhóm nhà làm phim thời sự Ba Lan, và đầu mùa thu đã được chiếu trong các rạp chiếu bóng.


NGUỒN : dịch giả gửi cho Diễn Đàn
                 ( www.diendan.org )

Phạm Đình Trọng - “Về với dân”

Nhà văn Phạm Đình Trọng vừa gửi tới Bauxite Việt Nam bài viết “Về với dân” và cho biết: đây là bài ông nhận “đặt hàng” của BVN ngay khi có tin Đại tướng Võ Nguyên Giáp từ trần (chiều 4/10/2013), nhưng vì một số lý do, hôm nay ông mới gửi đăng. Ngoài những nhận định cá nhân về con người và sự nghiệp của vị Tướng đã ra đi, nhà văn Phạm Đình Trọng, người từng có thời gian làm việc tại Ban Ký sự lịch sử quân sự, còn đề cập và phân tích về một vài nhân vật lịch sử hàng đầu có liên quan đến cuộc đời tướng Giáp. Tuy nhiên, từ đó, phần viết này lại mở ra những vấn đề rất lớn của lịch sử Việt Nam đương đại còn chưa được soi tỏ, đáng để tìm hiểu, mổ xẻ một cách khách quan, công bằng. Vì thế, mặc dù đã chính thức tuyên bố chấm dứt các bài viết về Đại tướng Võ Nguyên Giáp từ ngày 15/10/2013, hôm nay BVN xin giới thiệu bài “Về với dân” của nhà văn Phạm Đình Trọng như một ngoại lệ, tất nhiên, những gì nhà văn cung cấp được viết với bút pháp và quan điểm của ông.Bauxite Việt Nam

----------------------------------------------------------------------------------------------------


Phạm Đình Trọng
Nhà văn quân đội

1. TÔI KHÔNG HÁT ĐỒNG CA
Buổi tối cuối cùng ở Hà Nội trong chuyến đi chớp nhoáng, tôi nhận được phone của Ban Biên tập Bauxite Việt Nam báo tin đại tướng Võ Nguyên Giáp mất và đặt tôi viết bài. Có đôi điều làm tôi đắn đo không thể viết ngay và viết xong tôi cũng không muốn gửi ngay cho người đặt bài.
Dù Võ Nguyên Giáp không vướng vào những sai lầm chính trị, không tham gia trực tiếp vào những tội ác mà những người cộng sản đã gây cho dân tộc Việt Nam trong những vụ tàn sát đẫm máu như Cải cách ruộng đất, hãm hại tinh hoa, trí tuệ Việt Nam như vụ Nhân Văn Giai Phẩm, vụ Xét lại (1967), gây hận thù sâu sắc trong lòng dân tộc Việt Nam như khi đẩy một bộ phận dân tộc Việt Nam ở miền Nam vào những trại tập trung khắc nghiệt, dã man, nhưng Võ Nguyên Giáp vẫn là người có công rất lớn, có thể coi là công đầu, giúp Chủ nghĩa cộng sản chiến thắng và ngạo nghễ ngự trị trên đất nước Việt Nam.
Khi chủ nghĩa Cộng sản đã phơi bày những tội ác chống lại loài người, mang lại đau thương chết chóc thê thảm cho dân tộc Việt Nam, phá nát đạo lí, văn hóa Việt Nam, nhấn chìm dân tộc Việt Nam văn hiến lún sâu trong nghèo đói, lạc hậu, trong bạo lực mất tính người và gây hận thù, chia rẽ, li tán sâu sắc trong lòng dân tộc Việt Nam, khi những người Cộng sản lứa đàn em gần gũi của Võ Nguyên Giáp như Trần Độ, Nguyễn Hộ, Hoàng Minh Chính… đã thấy rõ bản chất của học thuyết Cộng sản, đã quyết liệt dấn thân vào cuộc chiến đấu đầy hi sinh mất mát để xóa bỏ cái ác trên đất nước Việt Nam thân yêu thì Võ Nguyên Giáp vẫn trung thành với Cộng sản, vẫn thành kính ngợi ca Đảng Cộng sản.
Khi những đồng đội, những bạn chiến đấu thân thiết, gần gũi nhất của Võ Nguyên Giáp như Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, Thiếu tướng Đặng Kim Giang, Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng, đại tá Lê Minh Nghĩa, Cục trưởng cục Tác chiến, đại tá Đỗ Đức Kiên, Cục trưởng cục Tình báo, đại tá Lê Trọng Nghĩa, Tổng biên tập báo Quân đội Nhân dân, thượng tá Hoàng Thế Dũng… bị cái ác Cộng sản vu cho tội xét lại và bị hãm hại đến thân tàn ma dại, khi Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Tổng Tham mưu trưởng, Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh khảng khái lên tiếng bảo vệ đồng đội, bảo vệ những người lính trung thực bị hãm hại và bình thản chấp nhận bị hạ quân hàm, bị mất các chức vụ và con người trung thực, nghĩa khí, lương thiện của Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh đã bộc lộ sáng chói, thì Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp im lặng giữ thân, giữ chức.
Viết về một người như vậy, dù người đó đã góp thêm ánh hào quang cho trang sử Việt Nam giữ nước, cũng không thể không đắn đo.
Từ khi Tướng Võ Nguyên Giáp nằm xuống liền có ngay một dàn đồng ca đông đảo hòa giọng ngợi ca vị Tướng chiến trận. Cả một ngôi đền lừng lững đã được dựng lên trong không gian tâm linh dân tộc và vị Tướng vừa nằm xuống trở thành vị Thánh trong ngôi đền râm ran tiếng tụng niệm. Tôi đánh giá cao công tích của Tướng Giáp trong cầm quân trận mạc nhưng tôi không phải là tín đồ rập đầu tụng niệm trong ngôi đền kia, tôi không thể góp giọng trong dàn đồng ca kia. Dàn đồng ca cả triệu người dù say sưa đến đâu cũng không thể ngân nga mãi. Tôi chờ sự yên tĩnh trở lại, chờ sự “thoát đồng” trở về đời thực để được nói đôi điều thường tình của một người phàm thế.
2. HAI VỊ TƯỚNG, HAI SỐ PHẬN
Tháng Hai, năm 1951, đại hội đổi tên Đảng Cộng sản Đông Dương thành Đảng Lao động Việt Nam. Ngoài chủ nghĩa Mác Lê nin, đại hội còn chính thức lấy tư tưởng Mao Trạch Đông làm nền tảng tư tưởng của Đảng Lao động Việt Nam, đại hội đẩy dân tộc Việt Nam yêu nước thương nòi vào cuộc đấu tranh giai cấp đẫm máu đánh vào chính dân tộc Việt Nam, gieo rắc hận thù giai cấp trong lòng dân tộc Việt Nam, bắn giết, tù đày chính nòi giống Việt Nam, hủy hoại tận gốc những giá trị văn hóa, đạo lí Việt Nam. Trước khi có đại hội Đảng tai họa này, cuộc kháng chiến chống Pháp chỉ đơn thuần là cuộc kháng chiến chống xâm lược, giành và giữ độc lập dân tộc, là sự nối tiếp sự nghiệp cứu nước của Nguyễn Thiện Thuật, Phan Đình Phùng, Đinh Công Tráng, Hoàng Hoa Thám…
Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ…”
Lời kêu gọi của vị thống soái cuộc kháng chiến đã nêu đúng bản chất khởi đầu của cuộc chiến tranh Đông Dương 1946 – 1954. Không còn con đường nào khác, buộc phải tiến hành cuộc kháng chiến giữ nước, cuộc kháng chiến chống Pháp là cuộc kháng chiến chính nghĩa, thuận đạo lí đã thu hút, tập hợp được sức mạnh cả dân tộc Việt Nam. Tài năng và khí phách Việt Nam được khai thác, phát huy cao nhất. Từ đó xuất hiện những người lính anh dũng vô song và những nhà cầm quân lỗi lạc. Trong hoàn cảnh lịch sử đó, trước đây Việt Nam đã có Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ, nay có Võ Nguyên Giáp và nhiều tướng tài khác.
Sau trận thắng lớn đầu tiên, thu đông năm 1947, đánh tan cuộc hành quân đầy tham vọng của quân viễn chinh Pháp nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến của Việt Nam, ngày 20. 1. 1948, Chính phủ Việt Nam kháng chiến liền quyết định phong tướng cho những nhà cầm quân vừa thắng trận, vừa để hoàn chỉnh về tổ chức của một Nhà nước có quân đội được tổ chức chính qui, hiện đại, vừa để ghi nhận sự lớn mạnh của quân đội kháng chiến. Mười một chỉ huy cấp cao của quân đội kháng chiến được phong tướng. Một đại tướng: Võ Nguyên Giáp. Một trung tướng: Nguyễn Bình. Chín thiếu tướng: Nguyễn Sơn, Hoàng Văn Thái, Lê Thiết Hùng, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm, Lê Hiến Mai, Văn Tiến Dũng, Trần Đại Nghĩa, Trần Tử Bình.
Trong mười một vị tướng trên, trung tướng Nguyễn Bình là người ra đi đầu tiên, ông mất năm 1951, khi mới 45 tuổi và đại tướng Võ Nguyên Giáp là người ra đi sau cùng. Cuộc đời binh nghiệp ngắn ngủi nhất trong mười một vị tướng nhưng trung tướng Nguyễn Bình cùng với đại tướng Võ Nguyên Giáp, người có cuộc đời binh nghiệp lâu dài nhất là hai vị tướng để lại dấu ấn sâu đậm nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam và để lại tình cảm sâu nặng nhất trong lòng người dân Việt Nam. Cũng vì dấu ấn sâu đậm hai vị tướng này để lại trong lịch sử và trong lòng dân, hai vị tướng còn để lại cả bí ẩn về tai nạn cuộc đời mà lịch sử còn phải soi rọi, khám phá.
Có công lao lớn với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Không một lần vướng sai lầm chính trị. Được Chủ soái Hồ Chí Minh tuyệt đối tin tưởng, gửi gắm. Được tướng sĩ trong toàn quân yêu quí coi là người anh cả của quân đội. Có sức mạnh của đội quân nhiều công trạng đứng phía sau. Với sức mạnh quân đội và ưu thế chính trị cá nhân đó, Võ Nguyên Giáp thừa sức thâu tóm quyền lực tuyệt đối trong tay nhưng ông không có mưu đồ quyền lực. Không tham vọng quyền lực nhưng ông lại là nạn nhân của những tham vọng quyền lực.
Sự lừng lẫy của vị tướng làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ, sự nổi tiếng của vị tướng đánh thắng đội quân hùng mạnh nhất thế giới làm cho thế giới chỉ biết có hai người khi nhắc đến cuộc chiến tranh Việt Nam là: “Hồ Chí Minh! Giáp! Giáp! Hồ Chí Minh! Giáp! Giáp!” (tiếng hô của người dân nhiều nước trên thế giới trong những cuộc mít tinh ủng hộ Việt Nam những năm bảy mươi, tám mươi, thế kỉ hai mươi). Vị tướng lừng lẫy trong lịch sử và trong thời đại đó đã làm cho người có quyền lực và háo danh, muốn để lại tên tuổi trong lịch sử chịu không nổi vì sợ bị lu mờ. Có quyền lực trong tay, họ liền dùng quyền lực xóa bỏ cả lịch sử, xóa bỏ tên tuổi tướng Giáp trong lịch sử. Suốt mấy chục năm trời tên tướng Giáp bị xóa khỏi trang sử Điện Biên Phủ. Họ ngụy tạo ra hồ sơ Võ Nguyên Giáp là con nuôi chánh mật thám Pháp, ngụy tạo ra vụ Sáu Sứ, một âm mưu đảo chính cung đình để ám sát con người chính trị Võ Nguyên Giáp.
Nhắc đến vụ việc cả hệ thống quyền lực ngang nhiên giết chết con người chính trị Võ Nguyên Giáp, tôi lại nhớ đến vụ phục kích giết chết con người thể xác trung tướng Nguyễn Bình.
Tên tuổi trung tướng Nguyễn Bình những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ cũng lừng lẫy như tên tuổi Võ Nguyên Giáp sau chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, sau 30.4.1975. Sau năm 1945, các tổ chức vũ trang của các giáo phái, của các tổ chức chính trị ở Nam Bộ nhiều như nấm. Nguyễn Bình đã tập hợp, thống nhất các tổ chức vũ trang này thành lực lượng kháng chiến chống Pháp và Nguyễn Bình trở thành vị tư lệnh đầy quyền uy của Bộ Tư lệnh Nam Bộ. Người dân Nam Bộ truyền miệng những câu chuyện về sự ngang tàng, nghĩa khí, về sự xuất quỉ nhập thần của tướng Nguyễn Bình và họ tham gia kháng chiến chống Pháp vì lòng yêu nước và vì thần tượng tướng Nguyễn Bình chứ họ không hề biết đến những người Cộng sản.
Người đứng đầu tổ chức Cộng sản ở Nam Bộ lúc đó chỉ là trưởng phòng dân quân không ai biết đến trong Bộ Tư lệnh Nam Bộ của Tướng lừng danh Nguyễn Bình. Con người đó sau này ra Hà Nội đứng đầu cả Đảng Lao động Việt Nam, con người luôn chứa chất trong lòng tham vọng lớn về quyền lực và nỗi đố kị, tị hiềm không phải chỉ với riêng tướng Giáp. Đội quân kháng chiến của tướng Nguyễn Bình đang lớn mạnh thì tướng Bình được triệu tập ra Việt Bắc. Và những họng súng ở một ổ phục kích đã chờ đón tướng Bình ngay trong chặng đường rừng đầu tiên. Lập tức ông phải nhận lấy cái chết âm thầm đầy bí ẩn trong rừng sâu trên đất Campuchia!
3. KHẮC KHOẢI XUÂN MẬU THÂN 1968
Sau năm 1975, học xong khóa I trường Viết Văn Nguyễn Du, tôi có hai năm làm việc ở Ban Kí Sự Lịch Sử Quân Sự thuộc Tổng Cục Chính Trị. Ban có nhiệm vụ hoàn thành bản thảo bộ kí sự lịch sử “Trận Đánh Ba Mươi Năm” gồm 5 tập. Từ 1945 đến 1975, ba mươi năm chiến tranh được chia ra làm năm giai đoạn, mỗi giai đoạn là một tập sách. Gần ba mươi nhà văn, nhà báo quân đội chia làm năm nhóm, mỗi nhóm hoàn thành một tập bản thảo. Tôi và nhà văn Đào Thắng được bổ sung về Ban ở giai đoạn cuối và làm tập năm do nhà văn, thượng tá Nam Hà làm trưởng nhóm. Gặp gỡ các tướng lĩnh, những người hoạch định các chiến dịch, những người chỉ huy những trận đánh. Đọc hồi kí của các tướng lĩnh quân đội miền Bắc, quân đội miền Nam, quân đội Mĩ. Sục vào các kho hồ sơ lưu trữ… Nguồn tư liệu gốc ngổn ngang đó cho chúng tôi hình dung đầy đủ và chính xác từng chiến dịch từ cơn cớ ban đầu, đến diễn biến ở bản doanh, diễn biến ở mặt trận và giá máu phải trả. Từ đó chúng tôi cũng nhận ra những góc khuất của chiến tranh, những góc khuất của lòng người. Người háo danh, háo quyền lực đã không tiếc máu xương của hàng triệu người lính và dân lành để thỏa mãn sự háo danh đó.
Đầu năm 1967, Bí thư trung ương cục miền Nam, đại tướng Nguyễn Chí Thanh mới từ mặt trận miền Nam trở ra Hà Nội đã cùng Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn hình thành ý tưởng Xuân Mậu Thân 1968 Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi quyết định và chỉ đạo Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu làm kế hoạch thực hiện.
Trong mười một ủy viên Bộ Chính trị, tướng Giáp là người duy nhất lên tiếng không đồng tình với ý tưởng Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa Xuân 1968. Theo ông sức mạnh chiến tranh của quân Mĩ, quân đồng minh ở Nam Việt Nam và quân đội Sài Gòn đang trên đỉnh cao với hơn nửa triệu quân Mĩ và quân đồng minh, gần một triệu quân Sài Gòn. Chưa đủ thời gian thấm đòn chiến tranh nhân dân của ta, hơn nửa triệu quân Mĩ với máy bay chuyển quân bay rợp trời, xe tăng dàn trận bò kín đất đang chủ động mở những cuộc hành quân lớn đánh vào vùng đất quân giải phóng kiểm soát. Lúc đối phương lực đang còn mạnh và thế đang lên mà dốc vốn vào tổng công kích trận cuối cùng chỉ cháy túi, kiệt vốn, tự sát. Căn cứ quân nước ngoài không đặt trong thành phố, thị xã. Đánh vào tất cả thành phố, thị xã, trung tâm hành chính đông dân là nhằm vào người dân. Đẩy mức độ ác liệt của chiến tranh lên cao ngay trong thành phố là mang chết chóc đến cho dân lành và dàn mỏng lực lượng ta ra phơi mình trên địa hình trống trải, lạc lõng trong đường phố bàn cờ nhằng nhịt sẽ bị tiêu diệt đến người lính cuối cùng, chỉ tự chuốc lấy thương vong lớn, không thể có chiến thắng quyết định.
Thời điểm này chỉ nên mở cuộc tập kích chiến lược: Bất ngờ đồng loạt đánh vào tất cả các căn cứ quân Sài Gòn, quân Mĩ và đồng minh trên toàn miền Nam, cùng với tiêu hao sinh lực là đánh mạnh vào tinh thần chiến đấu của đối phương, thúc đẩy phong trào phản chiến của nhân dân Mĩ đòi Chính phủ đưa con em họ về nước, tạo ra bước ngoặt về cục diện chiến tranh. Khi yếu tố bất ngờ không còn, sức mạnh của đội quân khổng lồ, sức mạnh của vũ khí, sức mạnh của công sự phía đối phương được phát huy thì ta phải thu quân bảo toàn lực lượng cho những chiến dịch đánh lớn và quyết định tiếp theo.
Lí giải đúng đắn đó của tướng Giáp chỉ là một ý kiến lẻ loi đã bị bỏ qua.
Tháng 6 năm 1967, dưới sự chủ trì của Bí thư thứ nhất Lê Duẩn, hội nghị trung ương 14, khóa ba quyết định Tổng tiến công và Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân 1968. Chiều 5. 7. 1967, Bí thư Trung ương Cục miền Nam Nguyễn Chí Thanh được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời cơm trước hôm lên đường trở lại miền Nam triển khai chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968. Từ bữa cơm đạm bạc, thân tình ở ngôi nhà sàn trong phủ Chủ tịch trở về nhà riêng ở phố Lý Nam Đế, Bí thư Trung ương cục miền Nam rạo rực nghĩ đến chiến thắng trong tầm tay. Niềm tin chiến thắng Xuân Mậu Thân mạnh đến nỗi suốt đêm đó Bí thư Trung ương Cục miền Nam Nguyễn Chí Thanh âm thầm vui sướng đến mất ngủ. Quá phấn khích, rạng sáng ngày 6. 7. 1967, ông bị cơn nhồi máu cơ tim cướp đi mạng sống.
Còn Bí thư thứ nhất Lê Duẩn, đồng tác giả Tổng công kích Xuân Mậu Thân 1968, cũng có niềm tin vững chắc vào chiến thắng Xuân Mậu Thân 1968 đến mức ông đã trù liệu cả việc giành độc quyền chiến thắng, không cho những đối thủ chính trị được ghé tên, chia phần chiến thắng của ông bằng cách không để Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp có mặt ở trong nước trong suốt thời gian chuẩn bị và quá trình diễn ra chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968. Không có mặt ở trong nước là không can dự gì vào chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968. Chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968 chỉ hoàn toàn từ Lê Duẩn, do Lê Duẩn, của Lê Duẩn.
Từ 5. 9. 1967, Hồ Chí Minh cùng người thư kí riêng thân tín đã phải lẻ loi, âm thầm rời đất nước sang Bắc Kinh nghỉ ngơi theo “quyết định của Bộ Chính trị và hội đồng bác sĩ”! Gần bốn tháng sau, mãi đến 23. 12. 1967 Hồ Chí Minh mới được điện mời về để tham dự cuộc họp Bộ Chính trị ngày 28. 12. 1967 và để đọc lời chúc Tết Mậu Thân 1968 cho đài phát thanh Tiếng Nói Việt Nam ghi âm. Xong việc, ngày 2. 1. 1968 Hồ Chí Minh lại tất tả, lủi thủi lên máy bay sang Tàu.
Là Chủ tịch đảng, Chủ tịch nước, có quê hương đất nước, có mấy chục triệu thần dân sùng bái mà Tết Mậu Thân 1968 tuổi già Hồ Chí Minh phải đón Tết bằng bánh bao, cơm Tàu, trong cô đơn, trong trống vắng lạnh lẽo nơi đất khách quê người như một kẻ thất thế lưu vong, không người thân thích, không hoa đào mứt tết, không bánh chưng, dưa hành. Đối xử như vậy với đương nhiệm Chủ tịch đảng, đương nhiệm Chủ tịch nước lại đã ở tuổi 78, thật tệ bạc, tàn nhẫn và độc ác!
Lại nữa, với âm mưu gì mà bố trí để một người già gần 80 tuổi đi chuyến bay vào đêm đông giá rét? Rồi khi máy bay hạ cánh trong đêm thì người lái lâu năm thuộc đường băng liền phát hiện ra đèn sân bay lệch mười lăm độ, máy bay phải lượn đến vòng thứ hai vẫn không dám hạ cánh. Báo cho sân bay nhưng đèn dẫn đường hạ cánh vẫn không thay đổi. Nếu là người lái chưa thuộc đường băng cứ hạ cánh theo đèn dẫn thì máy bay đã trượt khỏi đường băng và nổ tung rồi. Nhờ người lái lão luyện thuộc đường băng như thuộc đường ngõ xóm nhà mình nên cho máy bay hạ cánh theo trí nhớ, nhờ thế máy bay mới an toàn, người đi chuyến bay đó là Hồ Chí Minh mới còn mạng sống.
Không biết trong toan tính giành độc quyền chiến thắng Xuân Mậu Thân 1968, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn có tính đến sự cố chuyến bay chở Hồ Chí Minh hạ cánh xuống sân bay Gia Lâm đêm 23. 12. 1967 không nhỉ? Một sự cố nghiêm trọng như vậy mà cho chìm xuồng lặng lẽ, không điều tra làm rõ cũng là điều rất không bình thường. Sự cố tày đình đó do sơ xuất của những người quản lí, khai thác sân bay gây ra, tất sẽ được tìm ra và truy cứu trách nhiệm đến nơi đến chốn. Không được điều tra làm rõ, chỉ có thể là sự cố được bí mật tạo dựng bởi quyền lực tối cao như từ trên trời rơi xuống, không ai dám đụng đến, không thể khui ra, thôi đành cho qua!
Trong những ngày Hồ Chí Minh sống khắc khoải cô đơn bên Tàu thì Võ Nguyên Giáp cũng phải ngậm ngùi sống ở trời Tây Hungari hiu quạnh.
Chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968 đã diễn ra đúng như những gì Võ Nguyện Giáp đã cảnh báo: Mang chết chóc đến dân lành và đội quân ở rừng đánh vào thành phố, ở lại giữ thành phố đã phải chịu tổn thất nặng nề nhất trong suốt cuộc chiến tranh ba mươi năm.
Hai bên tham chiến đã thỏa thuận ngừng chiến dịp Tết Nguyên đán để người dân được bình yên ăn tết. Bội ước thỏa thuận, đúng giao thừa Tết Mậu Thân, đêm 31. 1. 1968 lịch tây, đội quân ở rừng do Hà Nội chỉ huy, thực sự là đội quân miền Bắc, nổ súng đánh vào tất cả các thành phố, thị xã, thị trấn trên toàn miền Nam. Bị bất ngờ, quân miền Nam và đồng minh không kịp phản ứng, đành để mất nhiều khu vực trong các thành phố, thị xã cho đội quân miền Bắc làm chủ. Tình thế này dẫn đến hai hậu quả.
Một. Vùng thành phố, thị xã do quân miền Bắc làm chủ trở thành nơi chiến sự ác liệt nhất, nơi tập trung bom đạn của cả hai phía, nơi tắm máu dân lành. Thành phố Huế là nơi quân miền Bắc ở lại lâu nhất, 28 ngày, cũng là nơi tang thương nhất. Hơn 116 000 ngôi nhà bị tàn phá, trong đó 9 776 ngôi nhà bị san bằng, 3 776 dân lành bị bom đạn giao tranh giết chết. Đội quân từ rừng về coi những người dân làm việc trong bộ máy hành chính của chính quyền Sài Gòn hoặc liên quan đến chính quyền Sài Gòn đều là kẻ thù, là ác ôn phải loại bỏ. Chiến dịch diệt ác trừ gian nhằm vào dân thường cũng diễn ra khốc liệt nhất ở khắp các thành phố, thị xã.
Hai. Đội quân miền Bắc đánh vào thành phố chỉ nhờ yếu tố bất ngờ mà giành được thắng lợi ban đầu. Yếu tố bất ngờ không còn, đội quân đánh vào thành phố từ chủ động thành bị động, phải lấy thế yếu, thế bị động, thế cô lập, bị bao vây, chia cắt, phơi mình ra trên địa hình đường phố trống trải và lạ lẫm đương đầu với thế mạnh áp đảo của đội quân miền Nam. Cố giữ các thành phố, thị xã, những trung tâm hành chính để hòng dựng lên một chính quyền cách mạng thay thế chính quyền Sài Gòn nhưng càng cố giữ thành phố, thị xã thì các thành phố, thị xã miền Nam càng trở thành vực thẳm không đáy chôn vùi quân miền Bắc. Đơn vị sau thế chỗ đơn vị trước đã bị xóa sổ nhưng đơn vị thế chỗ càng về sau quân số càng ít ỏi! Nhiều đơn vị, cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, cả du kích bị xóa sổ nhiều lần! Nhiều đảng bộ, chi bộ hi sinh trắng không còn một đảng viên! Tết Mậu Thân 1968 là thảm họa người Việt giết người Việt với qui mô lớn nhất, quyết liệt nhất, mê say nhất, tàn bạo nhất và số người bị giết lớn nhất, phải tính tới con số hàng trăm ngàn mà bên bị tổn thất về người nặng nề nhất chính là đội quân dồn dập đánh vào các thành phố, thị xã miền Nam dưới sự đôn đốc từ Hà Nội do sự háo danh của người nhiều tham vọng quyền lực.
Lứa nhà văn quân đội chúng tôi hình thành trong cuộc chiến tranh Nam Bắc được Tổng cục Chính trị tập hợp về từ giữa năm 1976 đến mùa hè năm 1984 vẫn đang có mặt đông đủ ở Vân Hồ Ba, Hà Nội. Và Vân Hồ Ba Hà Nội trở thành địa chỉ thường xuyên lui tới của những người cầm bút đất kinh kì. Một buổi chiều muộn nhà văn Bùi Bình Thi phóng xe máy từ nhà sáng tác Quảng Bá, Hồ Tây đến Vân Hồ Ba hấp tấp kể với chúng tôi câu chuyện nhà văn vừa chứng kiến về người khởi xướng vụ tắm máu Tết Mậu Thân 1968 chạy trốn, chối bỏ trách nhiệm trước người dân, trước lịch sử.
Sau một ngày đóng cửa hì hục viết, trước bữa cơm chiều, các nhà văn đang ở trại sáng tác Quảng Bá thường sang phòng nhà văn quân đội, đại tá Xuân Thiều tán chuyện đợi nhà bếp mở cửa. Chiều nay vừa đủ mặt thì bỗng Tổng Bí thư Lê Duẩn cùng người bảo vệ xuất hiện ở cửa phòng. Từ đại hội lần thứ tư cuối năm 1976, Đảng Lao động Việt Nam đã đổi tên thành Đảng Cộng sản Việt Nam và chức Bí thư thứ nhất đổi thành Tổng Bí thư. Khu nhà nghỉ của cơ quan Trung ương Đảng Cộng sản bên Hồ Tây, cách nhà sáng tác của Hội Nhà văn dăm phút đi bộ. Tổng Bí thư Lê Duẩn đang nghỉ ở đó. Buổi chiều ông đi dạo và ghé vào nhà sáng tác của các nhà văn. Các nhà văn đều là đảng viên Cộng sản nhận ra Tổng Bí thư của mình liền nồng nhiệt đón tiếp. Tổng Bí thư vui vẻ hỏi tên từng nhà văn. Nghe nhà văn Xuân Thiều tự giới thiệu là đại tá, Tổng Bí thư tươi cười hỏi: Đại tá hỉ? Nhà văn đại tá hỉ? Tốt hỉ? Nghe nhà văn Bùi Bình Thi xưng tên, ông bảo: À, à, Thi lãnh đạo Hội Nhà văn hỉ? Nhà văn cao lớn Bùi Bình Thi có nước da ngăm ngăm đen, có khuôn mặt đầy đặn và hàng lông mày rậm giống nhà văn Nguyễn Đình Thi vội cải chính: Dạ, thưa bác, cháu là Bùi Bình Thi, không phải Tổng Thư kí Hội Nhà văn Việt Nam Nguyễn Đình Thi ạ!…
Trong không khí vui vẻ, nhà văn Xuân Thiều giãi bày: Thưa bác, tôi là Xuân Thiều, đại tá, nhà văn quân đội. Tôi đang viết tiểu thuyết về Huế trong tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Tôi thấy Tết Mậu Thân sáu tám ở Huế chết chóc nhiều quá, mất mát đau thương lớn quá. Bộ đội chết không còn người để chôn nhau. Dân chết cũng nhiều… Mới nghe có thế, Tổng Bí thư đã đứng bật dậy, đỏ mặt quát: Ngu! Ngu! Đại tá mà ngu! … rồi ông đùng đùng bước nhanh ra cửa như chạy trốn.
Thực chất của Tết Mậu Thân 1968 là vậy. Đến người chủ mưu khởi xướng ra chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968 cũng co cẳng chạy trốn khi nghe nhắc đến Mậu Thân 1968 thì hàng năm có nên tưng bừng kỉ niệm chiến thắng Xuân Mậu Thân 1968 không nhỉ? Chiến tranh đã qua lâu rồi. Cần thoát ra khỏi tuyên truyền tâm lí chiến, không thể coi chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968, người Việt giết người Việt với qui mô lớn nhất, người Việt bị giết chết nhiều nhất trong một chiến dịch, người Việt kề nòng súng vào tai người Việt bắn ngay trên đường phố là chiến thắng của bất kì phía nào, của bất kì ai.
Trở về với bản thể con người, trở về với cội nguồn dân tộc để nhận ra rằng Xuân Mậu Thăn 1968 là mùa xuân tang tóc của dân tộc Việt Nam, là trang đau buồn của lịch sử Việt Nam. Trang đau buồn đó cần ghi lên hàng đầu tên hai người. Một tên phải viết bằng mực đen và một tên viết bằng mực đỏ. Tên viết bằng mực đỏ là Võ Nguyên Giáp. Dù Võ Nguyên Giáp bị gạt ra bên lề chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968 nhưng tiếng nói của Võ Nguyên Giáp khi chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968 được soạn thảo, tiếng nói không đưa chiến tranh chết chóc vào nơi tập trung dân cư, không đẩy mức độ ác liệt của chiến tranh lên cao ngay trong thành phố, là tiếng nói của trái tim Con Người, tiếng nói của dòng máu đỏ Việt Nam.
4. ĐƯỜNG VỀ
Bị xóa tên khỏi trang sử Điện Biên Phủ mà ông đã viết lên. Bị đẩy vào vai bị can trong những vụ án chính trị giả tạo. Kẻ làm những việc đó để chặn con đường chấp chính của Võ Nguyên Giáp lại đã mở cho Võ Nguyên Giáp con đường trở về với dân. Đánh xong giặc Ân, Thánh Gióng lại lên làm vua, lại xa dân trong ăn chơi hưởng lạc, lại đối lập với dân trong bòn rút, bóc lột dân thì Thánh Gióng đâu có được dân thờ. Dân gian truyền miệng câu chuyện đánh xong giặc, Thánh Gióng cưỡi ngựa bay về Trời là dân gian đã đưa Thánh Gióng trở về với dân, mãi mãi ở trong lòng dân. Nhờ thế non nước Việt Nam đã có làng Phù Đổng nơi Thánh Gióng ra đời, lại có ngọn núi Sóc linh thiêng, nơi Thánh Gióng về Trời, nơi Thánh Gióng về sống trong lòng dân. Như làng Phù Đổng, như ngọn núi Sóc, Thánh Gióng sẽ còn mãi với non nước, với lịch sử, với dân tộc Việt Nam.
Không trở về Trời, Võ Nguyên Giáp trở về cuộc sống của người dân để nói tiếng nói của dân. Võ Nguyên Giáp lên tiếng ngăn chặn việc phá hội trường Ba Đình. Ba lần Võ Nguyên Giáp viết thư cho những người đang chấp chính đòi dừng dự án bô xít Tây Nguyên. Chẳng có chức tước, danh vị, hàm cấp nào cao quí bằng được trở về với dân. Vì thế mọi danh hiệu, mọi hàm cấp Anh hùng, Nguyên soái, Đại Nguyên soái chẳng còn có giá trị gì với Võ Nguyên Giáp. Không bay về Trời. Không vào chỗ dành riêng cho tầng lớp vua quan xa dân ở Mai Dịch, Võ Nguyên Giáp về với non nước Việt Nam, về với dân gian Việt Nam ở doi đất bình dị ven biển Vũng Chùa, Quảng Bình quê nhà.
Ra đời bởi học thuyết sai trái, nhà nước Cộng sản Việt Nam phải tồn tại bằng dối trá. Với Nhà nước Cộng sản Việt Nam dối trá đó, mỗi người dân ngay thẳng, lương thiện, chân chính đều phải mang một nỗi oan khiên.
Nỗi oan khiên bị cướp những giá trị tinh thần của con người văn hóa nhiều vô kể. Nỗi oan khiên của người dân bị cướp của cải vật chất càng nhiều gấp bội. Người có tài, có nhiều công lao đóng góp, có lòng dũng cảm và niềm say mê cống hiến thì bị gạt ra, trở về hòa lẫn vào dân gian. Tài năng đành mai một. Ý chí cống hiến cũng đành vất bỏ. Kẻ bất tài, hèn nhát, vô tích sự, không biết làm việc, chỉ có nỗi thèm khát, tham lam của con người sinh vật, chỉ chăm chăm kiếm chác, mưu cầu danh lợi cá nhân thì danh vị, chức tước đầy mình. Những kẻ như vậy ngày nay ở chỗ nào cũng nhan nhản và Hồ Xuân Mãn, Bí thư tỉnh ủy, Anh hùng lực lượng vũ trang, nhân vật gương mẫu, xuất sắc trong học tập đạo đức Hồ Chí Minh là một dẫn chứng. Cả một thể chế dối trá đã tạo nên nhan nhản những Hồ Xuân Mãn cũng đã tạo nên triệu triệu dân oan.
Cả một dân tộc oan khiên và mất mát đã mở rộng lòng đón Võ Nguyên Giáp về với dân như một dân oan vĩ đại trong lịch sử.
P. Đ. T.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
Source : BVN


VÌ SAO ĐỒNG QUI SINH RA XUNG ĐỘT: CÀNG TRỞ NÊN GIỐNG NHAU, TRUNG QUỐC VÀ MỸ LẠI CÀNG XA NHAU

VÌ SAO ĐỒNG QUI SINH RA XUNG ĐỘT: CÀNG TRỞ NÊN GIỐNG NHAU, TRUNG QUỐC VÀ MỸ LẠI CÀNG XA NHAU

Tháng 11 1, 2013
Mark Leonard
Trần Ngọc Cư dịch
pro&contra – Từ nhiều năm nay, mọi động thái đối ngoại của Hà Nội đều được dư luận đánh giá như những dấu hiệu hoặc là tiếp tục thân – thậm chí phụ thuộc – Bắc Kinh, hoặc là đang bắt đầu xích lại gần Washington, theo nghĩa hai khả năng đối lập. Trong bài viết sau đây, nhà nghiên cứu chính trị quốc tế Mark Leonard chỉ ra rằng Trung Quốc và Mỹ ngày càng trở nên giống nhau và hệ quả của điều đó trong trật tự thế giới hiện tại và sắp tới.
______________
Nhiều người lo ngại rằng trong một tương lai không xa, thế giới sẽ bị chia ra nhiều mảng vì hố sâu ngăn cách giữa Trung Quốc và Mỹ ngày càng nới rộng. Họ nêu lên câu hỏi, vì sao một chế độ độc tài cộng sản và một chế độ dân chủ tư bản có thể bắc một chiếc cầu để khắc phục khoảng cách giữa hai bên? Nhưng đã đến lúc ta nên từ bỏ cái tư duy cho rằng hai nước này đến từ những hành tinh khác nhau và những căng thẳng giữa chúng là sản phẩm của những dị biệt giữa hai quốc gia. Trên thực tế, cho đến tương đối gần đây, Trung Quốc và Mỹ khá hòa hợp với nhau – chính vì những lợi ích và thuộc tính của hai nước khác nhau. Ngày nay, chính những tương đồng ngày càng gia tăng, chứ không phải những dị biệt, đang đẩy hai nước cách xa nhau.
Quan hệ Mỹ-Trung hoàn toàn tương phản với quan hệ giữa Mỹ và Liên Xô, nước sau cùng đã thách thức quyền lực Mỹ. Trong Chiến tranh Lạnh, khi địa chính trị trước hết là một cuộc xung đột ý thức hệ, sự tiếp xúc ngày càng gia tăng và tính đồng qui ngày càng phát triển giữa hai xã hội phân cách nhau đã nuôi dưỡng được chính sách hoà hoãn.
Nhưng sự phụ thuộc lẫn nhau trên bình diện quốc tế trong thời đương đại đã đảo ngược tiến trình tương tác đó. Ngày nay, các nước cạnh tranh nhau vì địa vị quốc tế thì nhiều, mà vì ý thức hệ thì ít. Do đó, những dị biệt giữa các đại cường thường dẫn đến sự bổ túc cho nhau và hợp tác với nhau, trong khi sự tương đồng thường là nguyên nhân xung đột. Trong khi tái quân bình nền kinh tế và rà soát lại chính sách đối ngoại của mình, Bắc Kinh và Washington ngày một đối đầu về những lợi ích chung. Và hình như Sigmund Freud đã tiên đoán được trường hợp này: Trung Quốc và Mỹ càng trở nên giống nhau, thì hai nước lại càng ít thích nhau. Freud gọi hiện tượng này là “nỗi ám ảnh về những dị biệt tiểu tiết”: đó là xu thế tập trung vào những dị biệt rất nhỏ giữa những người vốn dĩ giống nhau để biện minh cho những tình cảm xung khắc của họ. Hẳn nhiên, hai nước này không hoàn toàn giống nhau. Nhưng hố sâu chia rẽ hai nước một thế hệ trước đây đã thu hẹp lại, và khi càng giống nhau thì càng dễ trở nên xung đột.
Vào thời điểm Tổng thống Mỹ Obama lên cầm quyền năm 2009, ông hi vọng đưa Trung Quốc vào các cơ chế toàn cầu và khuyến khích nước này đồng hóa lợi ích của mình với việc duy trì hệ thống quốc tế do phương Tây lãnh đạo sau Thế chiến. Nhưng chỉ gần năm năm sau, theo một quan chức Mỹ nắm vững tư duy Tổng thống Mỹ mà tôi có dịp trao đổi vào đầu năm nay, thái độ của Obama đối với Trung Quốc được mô tả chính xác nhất là “thất vọng”. Theo quan chức này, Obama thấy rằng phía Trung Quốc đã bác bỏ nỗ lực của ông trong việc tạo dựng một dạng “G-2” không chính thức trong chuyến viếng thăm Trung Quốc đầu tiên của ông, tháng Mười Một 2009, và những bất đồng giữa Bắc Kinh và Washington về thay đổi khí hậu, về những vấn đề trên biển và an ninh mạng đã khiến Obama tin rằng Trung Quốc là một vấn nạn hơn là một đối tác.
Về phần mình, lãnh đạo Trung Quốc không muốn đề cao một trật tự quốc tế do phương Tây lãnh đạo, một trật tự mà họ không đóng vai trò tạo dựng. Đó là lý do tại sao, trong thời gian trước cuộc họp với Obama tháng Sáu vừa qua tại Khu nhà nghỉ Sunnylands tại California, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã thúc đẩy thiết lập một “loại quan hệ đại cường mới” – một cách nói được mã hóa để người Trung Quốc nhắn nhủ người Mỹ phải tôn trọng Trung Quốc như một quốc gia ngang hàng với Mỹ, phải đáp ứng những đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc, và phải dự kiến Trung Quốc xác định lợi ích của mình chứ không hậu thuẫn những nghị trình quốc tế do phương Tây lãnh đạo. Trong khi hai cường quốc lớn nhất toàn cầu chiều chuộng chứng thần kinh của mình, phần còn lại của thế giới đâm ra lo lắng. Trong một loạt vấn đề kinh tế và địa chính trị quan trọng, Bắc Kinh và Washington ngày càng ra sức qua mặt nhau hơn là đầu tư vào những định chế chung. Điều này sẽ có hiệu ứng sâu xa trên thế giới. Mặc dù mậu dịch toàn cầu sẽ bành trướng và các định chế toàn cầu sẽ còn tồn tại, nhưng chính trị quốc tế sẽ không bị khống chế bởi các quốc gia giàu mạnh hay các tổ chức quốc tế mà bởi những cụm quốc gia xích lại gần nhau vì có lịch sử và mức độ giàu có giống nhau, và tin tưởng rằng lợi ích quốc gia của chúng bổ túc cho nhau. Những nhóm quốc gia thực tiễn và có phần tùy nghi này sẽ tìm cách phát triển thế mạnh của chúng từ trong nhóm ra ngoài, và sự tương tác giữa chúng với nhau sẽ làm lu mờ đội hình của cái trật tự tự do đa phương và thống nhất mà Mỹ và đồng minh đã cố gắng xây dựng từ khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt.
KẾT THÚC THỰC THỂ CHIMERICA
Trong gần hai thập kỷ qua, Trung Quốc và Mỹ đã tận hưởng một quan hệ cộng sinh gần như tuyệt hảo. Tiền tiết kiệm của Trung Quốc nuôi sức tiêu thụ của Mỹ. Các công ty Trung Quốc chế tạo những sản phẩm do các công ty hậu công nghiệp Mỹ thiết kế và bảo dưỡng. Và chính sách đối ngoại hướng nội của Trung Quốc trên cơ bản không làm lung lay vai trò bá quyền của Mỹ. Nhà sử học Niall Ferguson và nhà kinh tế Moritz Schularick cho rằng hai nước đã quyện chặt vào nhau đến nỗi họ bắt đầu gọi chúng như một thực thể riêng: “Chimerica” [China + America, ND].
Nếu quả thật từng có một Chimerica thì nó tồn tại nhờ cái thực tế là: mặc dù triết lý cai trị của hai quốc gia khác nhau sâu sắc, nhưng chúng chỉ khác nhau theo cung cách cái ổ khóa và cái chìa khóa khác nhau. Trung Quốc được điều hành theo “đồng thuận Đặng Tiểu Bình”, mang tên của nhà lãnh đạo Trung Quốc đã lùi về phía sau vào những năm 1990, nhưng viễn kiến của ông vẫn tiếp tục dẫn đường cho nước này nhiều năm nữa. Mục đích trước tiên của Đặng là duy trì ổn định quốc nội và quốc tế bằng cách tránh xa một nghị trình đầy tham vọng trong chính sách đối ngoại và, thay vào đó, chỉ tập trung vào tăng trưởng kinh tế thông qua xuất khẩu và đầu tư nước ngoài. Trong khi đó, tín lý cai trị của Mỹ trong thập niên 1990 dựa vào một chính sách đối ngoại theo chủ nghĩa can thiệp nhằm bảo vệ một trật tự thế giới do Mỹ lãnh đạo, một trật tự đặt cơ sở trên tự do mậu dịch ở nước ngoài và tăng trưởng kinh tế trong nước nhờ sức mạnh tín dụng. Hai viễn kiến này không có gì giống nhau, nhưng chúng cũng ít khi đối đầu xung đột; thật ra, chúng thường bổ túc cho nhau. Hẳn nhiên, trong giai đoạn này, Bắc Kinh và Trung Quốc vẫn cạnh tranh với nhau. Nhưng vì hai nước xuất phát từ những mức quyền lực rất chênh lệch, cuộc đọ sức trở thành bất đối xứng đến nỗi ít gây ra cọ xát. Vả lại, hai cường quốc này thường theo đuổi những mục đích hoàn toàn khác nhau và dựa vào những phương tiện rất khác nhau. Tại châu Á, Mỹ tập trung vào việc duy trì vai trò siêu cường quân sự của mình và chống lại bất cứ sáng kiến kinh tế nào mà Mỹ không nắm quyền hoạch định – thậm chí cả khi chúng được đưa ra bởi một đồng minh như Nhật Bản là nước đã đề nghị thành lập một quỹ tiền tệ châu Á trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997-98, một ý tưởng bị Washington bác bỏ. Trái lại, vào thời điểm đó, Trung Quốc đã tìm cách trấn an các nước láng giềng về “cuộc trỗi dậy hòa bình” của mình bằng cách hậu thuẫn việc hội nhập đa phương trong khu vực và hứa hẹn các nước này một phần thưởng kinh tế trong cuộc trỗi dậy của Trung Quốc thông qua các hợp đồng thương mại. Ở bên ngoài châu Á, lúc bấy giờ Bắc Kinh và Washington cũng tránh giẫm đạp lên chân nhau: Mỹ dành ưu tiên cao nhất cho mối quan hệ với các nước dân chủ tiên tiến khác và các nước giàu năng lượng tại Trung Đông, còn Trung Quốc thì dồn các nỗ lực ngoại giao của mình vào việc tìm kiếm cơ hội tại châu Phi và châu Mỹ La tinh, những vùng mà Mỹ đã rút lui.
HOÁN CHUYỂN VỊ TRÍ
Cuộc khủng hoảng tài chính 2008 đã kết thúc kỷ nguyên Chimerica. Thức tỉnh vì nhận ra sự yếu kém của mình trước các lỗi hệ thống đã đưa đến cuộc khủng hoảng, Bắc Kinh và Washington cương quyết tái quân bình quan hệ kinh tế với nhau, một quan hệ mà cả hai nước đều nhận thấy đã trở nên thiếu lành mạnh. Nhưng trong khi rà soát lại chính sách đối nội và đối ngoại của mình để tìm cách thích nghi với nền kinh tế toàn cầu đột nhiên trở nên yếu kém, cả hai nước bắt đầu phản ánh lẫn nhau trong những cung cách có khả năng thúc đẩy tính cạnh tranh hơn là tính bổ túc.
Trong lãnh vực kinh tế, Trung Quốc đang tìm cách giảm bớt sự lệ thuộc lâu dài vào hàng xuất khẩu và đang cố gắng kích thích mức tiêu thụ trong nước và phát triển một nền kinh tế dịch vụ nội địa. Trong khi đó, Mỹ đang nâng đỡ khu vực chế tạo hàng hóa của mình, một phần bằng chủ trương hạ giá đồng Mỹ kim thông qua việc gia tăng nguồn tiền cho các ngân hàng [quantitative easing] và bằng việc trợ cấp khu vực chế tạo xe hơi, và khuyến khích tăng trưởng kinh tế do xuất khẩu chủ đạo thông qua một loạt hợp đồng thương mại mới với các nước giàu, gồm Nhật Bản và các quốc gia trong khối Liên Âu.
Các nỗ lực sản xuất hàng hóa giá trị cao của Trung Quốc và những toan tính tái công nghiệp hóa của Mỹ sẽ dẫn đến tình trạng là hai nước sẽ cạnh tranh trực tiếp hơn, khi nước này tiến gần đến phương thức sản xuất và tiêu thụ truyền thống của nước kia. Chẳng hạn, Trung Quốc không còn muốn cung cấp các linh kiện rẻ tiền bên trong chiếc iPhone chỉ để đứng nhìn những lợi nhuận lớn nhất dồn vào tay một công ty Mỹ. Thay vào đó, Trung Quốc đang khuyến khích các công ty Trung Quốc nên theo gương Huawei, một công ty đặt trụ sở tại Quảng Đông đã cực kỳ thành công trong việc bán ra các điện thoại thông minh bắt chước chiếc iPhone, mà lợi nhuận của công ty này vẫn nằm trong nước. Tuy nhiên, trong quan hệ của mỗi nước với phần còn lại của thế giới, cả hai cường quốc đang trở nên giống nhau một cách rất ngoạn mục – trong một số trường hợp gần như đang hoán chuyển vai trò truyền thống của nhau. Trung Quốc đang phấn đấu để điều hành ảnh hưởng toàn cầu đang lên của mình. Giới tinh hoa trong chính sách đối ngoại của đất nước này đang lao vào một cuộc tái tư duy rộng lớn về chiến lược Trung Quốc; họ chất vấn mọi tín điều trong đường lối “ẩn mình để chờ thời cơ” của thời đại Đặng Tiểu Bình, gồm cả truyền thống tránh can thiệp vào nội bộ nước khác của Trung Quốc. Tiến trình này được thúc đẩy bởi cuộc chiến do NATO lãnh đạo năm 2011 nhằm lật đổ nhà lãnh đạo Libya Muammar al-Qaddafi, khi Trung Quốc kinh ngạc nhận ra rằng nhiều nước đang phát triển đã ủng hộ việc can thiệp của quốc tế. Sức ép đòi hỏi Trung Quốc phải có một chính sách đối ngoại ít thụ động hơn phát xuất từ các công ty Trung Quốc muốn được che chở tại những thị trường nguy hiểm ở nước ngoài; từ một đội ngũ trí thức theo chủ nghĩa toàn cầu chủ trương rằng trong một thế giới mà Trung Quốc hiện diện tại nhiều điểm nóng, Bắc Kinh phải từ bỏ sự dè dặt của mình để chấp nhận các hoạt động quốc tế; và từ những người hoạch định chính sách Trung Quốc hiếu chiến tin tưởng rằng Trung Quốc cần phải quyết đoán hơn trong việc bảo vệ lợi ích của mình ở nước ngoài. Thậm chí nếu những tranh luận này có thắng thế đi nữa, Trung Quốc sẽ không vội tung ra những cuộc can thiệp vì lý do nhân đạo theo kiểu Mỹ nhưng những người làm chính sách Trung Quốc sẽ bớt rụt rè hơn trong việc can thiệp vào nội bộ của nước khác. Như Diêm Học Thông (Yan Xuetong), Viện trưởng Viện Bang giao Quốc tế Hiện đại tại Đại học Thanh Hoa, đã nói với tôi, “Khi Trung Quốc mạnh bằng Mỹ, chúng tôi sẽ có một đường lối đối với vấn đề chủ quyền giống hệt như Mỹ.”
Và khi đề cập đến chính trị khu vực, những trí thức diều hâu như Diêm đang bày tỏ những hoài nghi về việc Trung Quốc có nên đặt lợi ích kinh tế cao hơn những mục tiêu chính trị hay không. Sự chuyển biến tư duy này có thể giải thích quyết định của chính phủ Trung Quốc năm 2010 trong việc tạm thời ngưng xuất khẩu khoáng sản đất hiếm sang Nhật Bản và quyết định của Trung Quốc hai năm sau đó trong việc giới hạn nhập khẩu trái cây từ Philippines trong thời gian hai nước xung đột về các đảo trong Biển Hoa Nam [Biển Đông Việt Nam – N.D.]. Những động thái này diễn ra song song với việc chính quyền có vẻ dung túng những cuộc biểu tình đôi khi bạo động được tổ chức bởi các phần tử dân tộc chủ nghĩa Trung Quốc nhằm chống lại các công ty Nhật Bản đang hoạt động tại Trung Quốc, dù sự bất ổn đó đã khiến một số công ty này phải dời sang Việt Nam.
Trong một chuyển biến nhiều kịch tính hơn, giới hàn lâm Trung Quốc cũng đang tranh luận là liệu nước họ có nên xét lại việc chống đối các liên minh thường trực không. Năm ngoái, Diêm và các trí thức diều hâu khác công khai đề nghị rằng Trung Quốc nên phát triển các hình thức gần như liên minh với khoảng trên một chục nước, gồm các cộng hòa Trung Á, Miến Điện, Bắc Triều Tiên, Pakistan, Nga, và Sri Lanka, cấp cho họ những đảm bảo an ninh và, đối với những nước nhỏ trên danh sách này, có lẽ cả sự che chở của chiếc dù hạt nhân Trung Quốc. Những động thái này không phải là điều mà nguyên Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Robert Zoellick nghĩ tới vào năm 2005 khi ông kêu gọi Trung Quốc nên trở thành một “thành viên có trách nhiệm” trong trật tự toàn cầu.
Tiếp sức cho tính quyết đoán quốc tế ngày một gia tăng của Trung Quốc là sự phát triển một hệ thống chính trị trong nước ngày càng tham gia bàn việc nước, trong đó nhiều trường phái khác nhau thi đua tranh luận vấn đề và cũng là nơi Internet và nhất là các phương tiện truyền thông xã hội đã tạo ra một công luận sinh động hơn trước nhiều. Trong quá khứ, các nhà làm chính sách phương Tây thường lên án Trung Quốc đã dùng thủ đoạn để nuôi dưỡng hận thù dân tộc rồi lấy cớ là hành động của mình bị hạn chế vì sự phẫn nộ của người dân. Nhưng ngày nay, tiếng trống thúc quân của chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc có vẻ chân thật hơn là ngụy tạo. Trong Chiến tranh Lạnh, các nhà phân tích phương Tây cho rằng Đảng Cộng sản là xấu và xã hội dân sự là tốt. Nhưng ngày nay, Đảng Cộng sản có xu thế thúc đẩy một sự tự chế ở nước ngoài, trong khi người dân Trung Quốc bình thường lại đòi hỏi Đảng phải có hành động cứng rắn hơn.
Trong khi Trung Quốc cân nhắc phải làm thế nào để nới rộng ảnh hưởng quốc tế và những cam kết của mình, thì Mỹ đang ra sức hòa giải cái tham vọng siêu cường quốc tế của mình với tâm trạng thấm mệt chiến tranh của người dân và những đe dọa về nợ nần quốc gia. Obama đã tìm cách phát triển một mô hình lãnh đạo ít tốn kém: một phiên bản kiểu Mỹ của đường lối Đặng Tiểu Bình, với sự khác biệt là trong khi Đặng cố gắng che giấu sự giàu có đang gia tăng của Trung Quốc, thì Obama lại tìm cách che giấu sự thiếu hụt nguồn lực ngày càng trầm trọng của Mỹ. Trên thực tế, đường lối này của Mỹ gồm: trừng phạt các nước thù nghịch như Iran và Bắc Triều Tiên bằng biện pháp kinh tế,  truy kích khủng bố bằng máy bay không người lái, tránh đơn phương can thiệp ở nước ngoài mà có xu thế “lãnh đạo từ đằng sau”, và thiết lập những quan hệ thực tiễn với các quốc gia hùng mạnh như Nga. Từ góc nhìn của Trung Quốc, dấu hiệu có vẻ báo nguy nhất đối với Trung Quốc là chiến lược “xoay trục” về châu Á của Mỹ có vẻ như mô phỏng theo chính sách ngoại giao đa phương và chiến lược thương mại của Bắc Kinh. Thật vậy, như một nhà chiến lược của Lầu Năm góc đã nói với tôi gần đây, “Thay vì chơi cờ tướng, chúng tôi đang chơi cờ vây”, một loại cờ bàn cổ đại của Trung Quốc. Nhưng thậm chí khi Trung Quốc và Mỹ phát triển những đường lối khác nhau để bành trướng ảnh hưởng, cả hai đều bám lấy một hình thức của chủ nghĩa biệt lệ [exceptionalism]. Cả hai đều tin rằng mình khỏi phải tuân theo một số yếu tố nhất định của luật pháp quốc tế và mình được định mệnh giao phó một vai trò khống chế khu vực tại châu Á. Tuy nhiên, cả hai nước đều khó có thể hòa hợp cái xác tín ấy với cảm giác mà mỗi bên đều có, rằng trong một thế giới ngày càng phụ thuộc vào nhau này mình đã bị nước kia chơi trội. Người Mỹ than phiền về mất công ăn việc làm, còn người Trung Quốc thì than phiền về việc đã mất đi những số tiền dành dụm bằng mồ hôi nước mắt. Washington than phiền rằng Bắc Kinh không chơi theo luật, còn Bắc Kinh thì phản bác rằng những luật này đều do phương Tây bày ra để kềm hãm các nước khác. Khi căng thẳng gia tăng, nhiều khía cạnh của quan hệ Mỹ-Trung mà đã có thời cả hai bên cho là cơ hội lại có vẻ đang ngày càng là những mối đe dọa.
HAI BÊN TÌM ĐƯỜNG TRÁNH NHAU
Trong ba thập kỷ qua, Trung Quốc đã tự do hóa nền kinh tế của mình, tạo ra một giai cấp trung lưu lên đến hàng trăm triệu người, và chứng kiến sự ra đời một công luận đích thực [a genuine public sphere] trong số hơn 500 triệu người dân Trung Quốc sử dụng Internet. Trung Quốc đã được đón mời vào các định chế quốc tế như Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và G-20 và được nhiều Tổng thống Mỹ liên tiếp đối xử bằng những tuyên bố công khai bày tỏ sự kính trọng. Nhiều nhân vật tại Washington từng hi vọng rằng những chuyển biến này sẽ đi liền với việc Trung Quốc gia tăng hậu thuẫn đối với hệ thống quốc tế do phương Tây lãnh đạo. Nhưng họ đã thất vọng vì thấy Trung Quốc không đáp ứng theo mong muốn của mình.
Thật vậy, thay vì bị những định chế toàn cầu chuyển hóa, Trung Quốc theo đuổi chính sách ngoại giao đa phương rất tinh vi, làm thay đổi trật tự toàn cầu. Ở G-20, Trung Quốc đứng cùng phe với các nước chủ nợ, như Đức, một nước mà Trung Quốc đã liên minh năm 2010 khi người Đức chống lại một gói kích thích kinh tế toàn cầu do Mỹ đề xuất. Washington cũng thất vọng vì Bắc Kinh đã góp phần kết liễu Vòng đàm phán Doha về thương mại thế giới, bằng cách giữ thái độ bất động vào thời điểm các cuộc đàm phán có dấu hiệu lâm nguy. Tại LHQ, Trung Quốc đã đẩy lùi sự phát triển các qui phạm bảo vệ tự do: trong thời gian 1997-98, các quốc gia khác bỏ phiếu theo Washington về những vấn đề nhân quyền tại Đại hội đồng là 80% số lần; trái lại, vào năm đó, các nước “bỏ phiếu theo” Bắc Kinh về các vấn đề này là 40%. Vào năm 2009-2010, những con số này gần như bị đảo ngược: khoảng 40% bỏ phiếu theo Mỹ và gần 70% theo Trung Quốc trên các vấn đề nhân quyền. Sự thay đổi lập trường này một phần là do Trung Quốc giành được hậu thuẫn của các nước đang phát triển bằng cách cho vay nhẹ lãi, trực tiếp đầu tư, và hứa hẹn bảo vệ những nước này trong trường hợp Hội đồng Bảo an LHQ đưa ra những nghị quyết trừng phạt họ.
Trước sự thất vọng của phương Tây, các học giả Trung Quốc, như nhà sử học vai vế Thì Ân Hoành (Shi Yinhong), tranh luận rằng phương Tây không nên quá bận tâm về việc “thúc đẩy Trung Quốc hội nhập vào trật tự tự do của phương Tây”, mà thay vào đó nên điều chỉnh cái trật tự ấy “để đáp ứng nguyện vọng của Trung Quốc”, như Thì đã nói với tôi gần đây. Sự điều chỉnh này sẽ đòi hỏi một sự tái phân phối rộng lớn ảnh hưởng chính thức trong các định chế tài chính và an ninh toàn cầu, theo đó quyền lực được phân phối cho các quốc gia thành viên sẽ không tùy thuộc vào các khái niệm được định sẵn từ trước là ai sẽ có quyền cai quản, mà tùy thuộc vào “sức mạnh đích thực mà mỗi nước có được và sự đóng góp mà mỗi nước đã thể hiện”, như Thì lý giải. Trên thực tế, Thì tranh luận, Mỹ sẽ phải chấp nhận một thế cân bằng quân sự với Trung Quốc (chí ít ở phía đông Đài Loan), việc thống nhất bằng đường lối hòa bình của Trung Quốc và Đài Loan theo điều kiện của Bắc Kinh, và một khoảng “không gian chiến lược” nhỏ hẹp nhưng quan trọng đối với Trung Quốc ở tây Thái Bình Dương. Hơn thế nữa, hệ thống liên minh của Mỹ cần phải “giảm bớt tập trung vào quân sự và giảm bớt việc lấy Trung Quốc làm mục tiêu”.
Nhưng cho dù giới tinh hoa Trung Quốc có muốn gì đi nữa, phương Tây vẫn chưa sẵn sàng điều chỉnh trật tự thế giới hiện hữu để đáp ứng nguyện vọng của Trung Quốc. Và thay vì chấp nhận những nhượng bộ cần thiết cho một G-2 hay sự bế tắc của nguyên trạng, các cường quốc phương Tây đang tránh đối đầu trực tiếp với Bắc Kinh trong khi theo đuổi những quan hệ và những chính sách nhằm hạn chế khả năng của Trung Quốc trong việc uốn nắn hệ thống quốc tế theo ý mình.
Trong những năm gần đây, chẳng hạn, một nhóm quốc gia có lợi tức cao do Mỹ lãnh đạo và gồm cả Australia, Canada, Malaysia, và Singapore đã bắt đầu đàm phán để thông qua Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương, một thương ước cố ý loại trừ Trung Quốc và nhấn mạnh những tiêu chuẩn khắt khe đối với các doanh nghiệp nhà nước, với quyền lợi công nhân, với các biện pháp bảo vệ môi trường, và quyền sở hữu trí tuệ. Nếu cuối cùng Nhật Bản cũng gia nhập, các thành viên của TPP sẽ chiếm đến 40% GDP toàn cầu. Thậm chí còn tham vọng hơn cả TPP là những cuộc đàm phán được khởi động gần đây về Hiệp định Đối tác Đầu tư xuyên Đại Tây Dương, một kế hoạch đã được bàn bạc từ lâu nhằm tạo ra một hiệp ước tự do mậu dịch giữa EU và Mỹ, một hiệp ước sẽ cho các nước phương Tây những lợi thế đáng kể trong bất cứ một cuộc đàm phán thương mại nào sau này với Trung Quốc. Mục tiêu của những hiệp ước mới này không phải là để đẩy Trung Quốc ra khỏi nền mậu dịch quốc tế, mà để soạn ra các qui định không có sự tham gia của Trung Quốc để rồi sau này buộc Trung Quốc phải chấp nhận chúng. Phương Tây cũng đang có những nỗ lực song song trong lãnh vực an ninh. Mỹ đang cố gắng sử dụng chiến lược xoay trục hướng về châu Á để củng cố những quan hệ lâu đời với nhiều nước chung quanh Trung Quốc nhằm gây cản trở cho tham vọng bá quyền quân sự của Trung Quốc ở khu vực tây Thái Bình Dương. Trong các nỗ lực can thiệp quốc tế, phương Tây đang gia tăng “việc tìm kiếm diễn đàn” [forum shopping]: hợp tác với những tổ chức khu vực, như Liên đoàn Á rập và Liên hiệp châu Phi, và dựa vào những liên minh không chính thức, như Nhóm Bạn của Syria [Friends of Syria], bất cứ khi nào chính sách ngoại giao tại LHQ bị bế tắc. Trong khi đó, Trung Quốc cũng hoạt động ráo riết không kém để qua mặt phương Tây. Trung Quốc đã thành lập các định chế an ninh của chính mình, như Tổ chức Hợp tác Thượng Hải, và đã ký kết các thoả ước mậu dịch đơn phương và đa phương với nhiều nước khắp thế giới. Trung Quốc cũng thường xuyên tổ chức các hội nghị thượng đỉnh với các đối tác BRICS và đang cố gắng thành lập một ngân hàng phát triển BRICS với tiềm năng nắm giữ một danh mục cho vay lớn gấp ba lần danh mục cho vay của Ngân hàng Thế giới. [BRICS: viết tắt của Brazil, Russia, India, China, South Africa, ND]
CHỦ NGHĨA TƯƠNG ĐỒNG ĐA PHƯƠNG
Đứng giữa các trật tự thế giới do Mỹ và Trung Quốc dẫn đầu là các cơ chế toàn cầu như Hội đồng Bảo an LHQ, Nhóm G-20, Quĩ Tiền tệ Quốc tế, và Ngân hàng Thế giới. Nhưng chúng thường gặp phải bế tắc do các bất đồng giữa những nước thành viên. Do đó, thay vì buộc các cường quốc mới nổi [emerging powers] phải thích nghi với các định chế phương Tây, hi vọng lớn nhất có thể có được từ những định chế này là chúng sẽ là nơi để các đại cường thảo luận những vấn đề đặc biệt bức thiết: chẳng hạn, cuộc tan chảy tài chính toàn cầu 2008 hay sự ngoan cố của Bắc Triều Tiên về vấn đề hạt nhân. Sự yếu kém và vô bổ của những định chế này có thể trở nên ngày một tồi tệ, vì đáng lẽ phải hợp tác để cải tổ những diễn đàn chung đã có sẵn, các cường quốc phương Tây lại cố gắng xây dựng “một thế giới phi-Trung Quốc” trong khi Trung Quốc và các nước đối tác cố gắng tạo ra cái mà một số nhà phân tích gọi là “một thế giới phi-Tây phương.” Chẳng hạn, Hiệp định Đối tác Thương mại và Đầu tư xuyên Đại Tây Dương có thể ảnh hưởng [tiêu cực] đối với WTO. Như chuyên gia kinh tế Bỉ André Sapir đã lý giải, nếu các nước chiếm gần một nửa GDP toàn cầu thành lập hệ thống giải quyết tranh chấp riêng, tách khỏi WTO, thì cái WTO một thời kiêu hãnh này “sẽ giống như một tổ chức khác có trụ sở tại Geneva, Tổ chức Lao động Quốc tế, một nơi có mặt tiền xinh đẹp trên hồ Léman mà hằng năm các vị bộ trưởng đến đọc những bài diễn văn hay ho nhưng chẳng bao giờ lấy những quyết định quan trọng.”
Thay vì coi những cơ chế đa phương toàn cầu là tối cần, các nước sẽ dựa nhiều hơn nữa vào các mạng lưới mới thành lập giữa các quốc gia có cùng mức độ thịnh vượng. Xin tạm gọi hiện tượng này là “chủ nghĩa tương đồng đa phương” [similateralism]. Một trong những hậu quả của hiện tượng này sẽ là một hình thái lưỡng cực mới và lạ thường, bên ngoài có vẻ giống Chiến tranh Lạnh chứ không còn giống như thế giới của hai thập niên qua. Những khác biệt này sẽ bao gồm một nước Mỹ mất dần thanh thế, một đối thủ khôn ngoan hơn (và thành công hơn) ngang hàng với Washington, và các nước phi liên kết hùng mạnh hơn trước. Nhưng những động lực của chính trị toàn cầu trên cơ bản cũng sẽ khác với những động lực chi phối thế giới trong năm thập kỷ sau Thế chiến II.
Một, khác với Chiến tranh Lạnh, bản chất của cuộc đua này chủ yếu sẽ là địa kinh tế [geoeconomic] hơn là địa chính trị [geopolitical], do hậu quả của những tốn kém ngày một gia tăng của việc duy trì sức mạnh quân sự.
Hai, sự cạnh tranh Mỹ-Trung có đặc tính là: hai cường quốc đã lệ thuộc vào nhau ở mức độ cao, vì sự xâm nhập lẫn nhau giữa hai nền kinh tế là rất sâu đậm. Tuy nhiên, các nhà làm chính sách của hai nước lại coi sự lệ thuộc lẫn nhau này là một mối nguy cần phải giảm bớt và quản lý, chứ không coi đó là một công thức để xây dựng những quan hệ nồng ấm. Mỹ cần Trung Quốc tiếp tục mua trái phiếu chính phủ của Mỹ, và các bang của Mỹ đang cạnh tranh ráo riết để thu hút đầu tư Trung Quốc. Nhưng Washington cũng lo lắng về sự quá lệ thuộc vào vốn Trung Quốc và lo sợ gián điệp mạng Trung Quốc. Mặt khác, Trung Quốc cần tìm một nơi an toàn để cất giữ những lượng tiền dự trữ của mình và cần đến công nghệ Mỹ để xây dựng một xã hội tri thức. Nhưng Bắc Kinh tức giận vì cho rằng chính sách gia tăng nguồn cung tiền [quantitative easing] của Cục dự trữ Liên bang Mỹ đang làm tiêu tán đống tiền của Trung Quốc và nghi ngờ rằng Washington đang hoạt động để thúc đẩy việc thay đổi thể chế tại Trung Quốc.
Ba, mặc dù nhiều nước phi liên kết cuối cùng phải chọn một chiến tuyến trong Chiến tranh Lạnh, nhưng trong những thập niên tới, những nước phi liên kết có thể khai thác sự hiện hữu của những khối quyền lực linh động hơn, không đòi hỏi nếu theo phe này phải loại bỏ phe kia. Hậu quả sẽ là một trật tự thế giới lang chạ [a promiscuous world ordwer] trong đó các nước có thể ký kết các hiệp định với cả Trung Quốc lẫn Mỹ.
Sau cùng, Bắc Kinh và Washington sẽ kình chống nhau vì địa vị toàn cầu chứ không phải vì ý thức hệ. Cho đến nay Trung Quốc vẫn còn quá yếu và ở vào thế thủ, chưa đủ sức để đưa ra một phương án thay thế cho cái trật tự thế giới tự do do Mỹ lãnh đạo, nhưng tình hình này sắp thay đổi. Trung Quốc và Mỹ sẽ sử dụng cùng một thứ từ ngữ trong việc lý giải những động lực của mình như: “trật tự,” “tính chính đáng,” “tăng trưởng kinh tế,” và “trách nhiệm.” Nhưng, như người ta thường nói, hai nước này sẽ bị chia cách bởi cùng một ngôn ngữ.
MARK LEONARD là Đồng sáng lập viên kiêm Giám đốc Hội đồng Quan hệ Đối ngoại châu Âu và là Nhà nghiên cứu Chính sách công trong chương trình Bosch tại Học viện Xuyên Đại Tây dương. Ông là tác giả của hai cuốn sách gây tiếng vang và được dịch ra gần 20 thứ tiếng là Why Europe Will Run the 21st Century (2005) và What Does China Think? (2008).
Bản tiếng Việt © 2013 Trần Ngọc Cư & pro&contra