1/1/14
MÂY TRẮNG - Trần Hồ Dũng : Thanh Tâm Tài Nhân Thi Tập Tự 青心 才 人 詩 集 序
MÂY TRẮNG - Trần Hồ Dũng : Thanh Tâm Tài Nhân Thi Tập Tự 青心 才 人 詩 集 序: Thanh Tâm Tài Nhân Thi Tập Tự 青心 才 人 詩 集 序 --- Kim sử duyên đề tặng phiến, 今使 緣 締 贈 扇, Liêu Dương bất quy thúc phụ chi tang; 遼陽 不 歸 叔...
MÂY TRẮNG - Trần Hồ Dũng : Kinh Tế Việt Nam Trong Thế Giới 2014
MÂY TRẮNG - Trần Hồ Dũng : Kinh Tế Việt Nam Trong Thế Giới 2014: Wednesday, January 1, 2014 Kinh Tế Việt Nam Trong Thế Giới 2014 Nguyễn Xuân Nghĩa & Vũ Hoàng, RFA Ngày ...
Kinh Tế Việt Nam Trong Thế Giới 2014
Wednesday, January 1, 2014
Kinh Tế Việt Nam Trong Thế Giới 2014
Nguyễn Xuân Nghĩa & Vũ Hoàng, RFA Ngày 140101
"Diễn đàn Kinh tế"
"Diễn đàn Kinh tế"
Cải cách sớm hơn Trung Quốc thì ra khỏi quỹ đạo Trung Quốc
Trong chương trình đầu tiên của năm 2014, Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu về vị trí kinh tế của Việt Nam đặt vào bối cảnh kinh tế toàn cầu. Bối cảnh ấy là gì? Đâu là những đổi thay so sánh với tình hình của những năm trước? Những đổi thay ấy có gì là thuận lợi hay lại tạo thêm vấn đề mới cho kinh tế Việt Nam? Xin kính mời quý thính giả theo dõi phần trao đổi của Vũ Hoàng với chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa....
Liều thuốc đổ bệnh
Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa trong buổi phát thanh đầu năm 2014 của mục Diễn đàn Kinh tế. Thưa ông, chúng tôi được biết là ông phụ trách tiết mục này từ năm đầu tiên hoạt động của ban Việt ngữ Đài Á Châu Tự Do, phát thanh vào ngày Tết Đinh Sửu năm 1997, với mục đích phân tích vấn đề kinh tế của Việt Nam trong bối cảnh kinh tế toàn cầu, nhất là Châu Á, với những kinh nghiệm mà Việt Nam có thể học được từ các quốc gia khác.
Trong buổi phát thanh đầu năm và với tinh thần vừa tổng kết tình hình đã qua vừa đưa ra những dự đoán cho năm tới, chúng tôi xin đề nghị ông phân tích cho thính giả của chúnh ta hoàn cảnh của kinh tế Việt Nam trong bối cảnh kinh tế thế giới. Xin ông trước hết nói về bối cảnh đó.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Năm 2014 đánh dấu bước ngoặt của kinh tế toàn cầu sau sáu năm khá đặc biệt kể từ nạn Tổng suy trầm năm 2008. Trong giai đoạn suy trầm chung của thế giới, nhiều biện pháp kích thích khá bất thường đã được đưa ra, đứng đầu là Hoa Kỳ và Trung Quốc. Bây giờ, các biện pháp sẽ lần lượt được thu hồi, nên những gì đã thấy trước đây sẽ không còn nữa và đấy là điều các nước, kể cả Việt Nam, nên tự chuẩn bị để tránh bị biến động bât ngờ.
Khi kinh tế suy trầm như một cơ thể bị suy yếu thì người ta có biện pháp kích thích như bơm thuốc bổ, nhưng nếu bơm quá nhiều và trong giai đoạn quá lâu thì đấy là liều thuốc đổ bệnh. Nguyễn-Xuân Nghĩa
- Về bối cảnh chung thì trong năm 2014, kinh tế toàn cầu ra khỏi suy trầm nhưng chưa tìm lại tốc độ tăng trưởng tốt đẹp thời trước năm 2007. Như Quỹ Tiền tệ Quốc tế dự báo đà tăng trưởng 2013 là gần 3% và qua năm 2014 là 3,6% thay vì hơn 5% như trước. Chi tiết đáng chú ý là định chế này đã sáu lần giảm thấp dự báo vì thực tế không được sáng sủa như họ đã tính. Điều ấy cho thấy người ta rất khó đoán một cách chính xác và vẫn nên chờ đợi nhiều bất trắc.
- Chuyện thứ hai về bối cảnh, khối công nghiệp hoá Âu-Mỹ-Nhật đã có chỉ dấu hồi phục dù chưa mạnh. Trong khối này, Hoa Kỳ dẫn đầu với đà tăng trưởng có thể mấp mé 3%. Ngược lại, các nền kinh tế đang lên không được khả quan như vậy, đứng đầu vẫn là Trung Quốc với đà gia tăng từ mức 7,8% bị đánh sụt xuống 7,3%. Trong khung cảnh đó, đà tăng trưởng của Việt Nam sẽ ở khoảng 5,4%, so với bình quân là hơn 7% trong những năm từ 1995 đến 2007 thì đấy là vấn đề.
Vũ Hoàng: Như ông vừa trình bày thì dù tình hình chưa thật tốt đẹp, hai nền kinh tế dẫn đầu vẫn lần lượt thu hồi các biện pháp kích thích, vì sao lại như vậy và ảnh hưởng của điều ấy là gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Như chúng ta có trình bày nhiều lần trên diễn đàn này, khi kinh tế suy trầm như một cơ thể bị suy yếu thì người ta có biện pháp kích thích như bơm thuốc bổ, nhưng nếu bơm quá nhiều và trong giai đoạn quá lâu thì đấy là liều thuốc đổ bệnh.
- Từ sáu năm qua, Mỹ tăng chi và đi vay để kích thích kinh tế khiến gánh nợ của quốc gia tăng từ 62% lên tới 100% của Tổng sản lượng GDP và gây khủng hoảng chính trị về bội chi ngân sách mà kỳ trước chúng ta nhắc tới như một rủi ro của Hoa Kỳ. Song song, Ngân hàng Trung ương Mỹ cũng cắt lãi suất tới số không và bơm ra một lượng tiền cao gấp ba so với sáu năm trước. Biện pháp bất thường, quá mạnh và kéo dài quá lâu có thể thổi lên bong bóng đầu tư nên sẽ phải được thận trọng thu hồi khi tình hình thất nghiệp có cải thiện.
Vũ Hoàng: Xin ông cho hỏi ngay một câu về nguy cơ đổ bệnh của biện pháp này là gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Lãi suất duy trì quá thấp và quá lâu dễ thổi lên bong bóng mà lại không khuyến khích tiết kiệm vì được tiền lời quá ít. Quan trọng hơn vậy, biện pháp bơm tiền có nâng lợi tức của các hộ gia đình tới 60% trong sáu năm qua mà kinh tế lại chẳng tăng nhiều như vậy và thất nghiệp chưa giảm. Điều ấy có nghĩa là người có tiền hoặc giới đầu tư thì lời lớn mà thành phần trung lưu và người nghèo vẫn chưa khá. Liều thuốc có thể đổ bệnh vì thổi lên bong bóng về kinh tế và gây bất công về xã hội. Một quốc gia thuộc loại dân chủ nhất, đang có một đảng lãnh đạo theo xu hướng xã hội mà lại gặp vấn đề này thì đấy cũng là điều nên suy ngẫm khi liên tưởng đến trường hợp Việt Nam.
Vũ Hoàng: Chúng ta bước qua trường hợp Trung Quốc mà ông đã nhiều lần nhắc tới. Xứ này đã kích thích kinh tế ra sao và đang gặp vấn đề gì mà phải giảm dần việc kích thích đó?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Trường hợp Trung Quốc lại còn tệ hơn thế vì đã chẳng có dân chủ mà chiến lược kinh tế của một đảng xưng danh xã hội chủ nghĩa còn đào sâu bất công xã hội trong khi gây thất quân bình trầm trọng trong cơ chế. Về biện pháp kích thích, Trung Quốc đã ào ạt bơm tiền vào kinh tế qua ngả tín dụng và lượng tiền lưu hành đã tăng thêm hơn 170%, là con số kinh hoàng nên dễ thổi lên lạm phát. Đó là nói về lượng, về phẩm thì những kênh bơm tiền lại không phân minh và khó kiểm kê rủi ro, bên trong là khối tín dụng của ngân hàng chui. Đa số khách nợ lại là doanh nghiệp nhà nước và công ty đầu tư của chính quyền địa phương. Vì vậy, kinh tế Trung Quốc bị nguy cơ khủng hoảng tài chính, đi cùng lạm phát và bể bóng đầu tư nên chính quyền Bắc Kinh đã có quyết định nâng lãi suất để giảm dần lượng tín dụng bơm ra. Chi tiết cần nhớ hơn cả là biện pháp kích thích lớn lao ấy không đóng góp gì cho đà tăng trưởng bền vững và từ năm nay trở đi, lãnh đạo còn phải chuyển hướng và điều chỉnh lại toàn bộ cơ chế.
Viễn ảnh kinh tế năm 2014
Vũ Hoàng: Thưa ông, trong bối cảnh chung như vậy, tương lai rồi sẽ ra sao kể từ năm nay?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi thiển nghĩ rằng nếu kể từ năm 2008, người ta đã kích thích kinh tế trong sáu năm liền với lượng tiền rất lớn thì khi cần thu hồi, biện pháp đảo ngược sẽ khó hoàn tất êm thắm qua vài năm ngắn ngủi mà có thể kéo dài bảy tám năm, thậm chí cả chục năm. Đấy là lẽ thứ nhất để mình nhìn ra chuyện lâu dài. Trong ngắn hạn thì khi hai đầu máy kinh tế của thế giới cùng xiết lại lượng tiền đã bơm ra và nâng lãi suất thì các thị trường thế giới đều dễ bị biến động.
- Cụ thể là vì lãi suất quá rẻ tại Mỹ, tư bản từ thị trường Hoa Kỳ đã chảy qua nhiều xứ khác, kể cả Việt Nam, có khi là dưới dạng người ta gọi sai là "kiều hối". Khi lãi suất tăng bên Mỹ thì đô la lên giá và dòng tiền nóng chảy ngược về Mỹ nên vừa có tác dụng suy trầm sản xuất cho xứ khác, vừa gây rủi ro khủng hoảng về ngoại hối. Vì thế, viễn ảnh kinh tế năm 2014 của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, sẽ là mức tăng trưởng thấp hơn, bất trắc nhiều hơn.
Viễn ảnh kinh tế năm 2014 của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, sẽ là mức tăng trưởng thấp hơn, bất trắc nhiều hơn. Nguyễn-Xuân Nghĩa
- Sau cùng, dù ngần ngại đưa ra dự báo, tôi vẫn nghĩ là các nước đang phát triển tại Á Châu đều có chung một xu hướng là tích trữ vàng. Cho nên dù giá vàng thế giới có hạ từ năm 2012 làm nhiều mỏ vàng bị lỗ và đóng cửa, số cầu về vàng của các quốc gia này vẫn tăng. Từ năm 2014, vì Hoa Kỳ sẽ xiết tiền, các nước bị chấn động về ngoại hối và còn gặp nguy cơ lạm phát nên vàng vẫn là phương tiện tàng trữ tài sản được họ chiếu cố. Điều ấy có nghĩa là giá vàng sẽ tăng trong nhiều năm tới và tôi cho là tăng mạnh vì nhiều mỏ vàng đóng cửa đã làm giảm số cung.
Vũ Hoàng: Chúng ta trở lại chuyện Việt Nam trong bối cảnh dài kể từ năm 2014 trở đi. Thưa ông, Việt Nam nên chú ý đến những điều gì khi thế giới chung quanh đang xoay chuyển như vậy?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi xin được nhắc lại là trong giai đoạn lâu dài đó, kinh tế Trung Quốc sẽ không tìm lại đà
tăng trưởng 9-10% của quá khứ mà chỉ được 7% là mừng. Việt Nam cũng vậy, đà tăng trưởng trên 7% đã thấy từ 1995 đến năm 2007 sẽ không còn nữa, may lắm thì được 5%. Người ta có thể rút tỉa được những điều gì trong khung cảnh đó?
- Thứ nhất và như diễn đàn này của chúng ta nhiều lần trình bày, mọi quốc gia nghèo đói đều có cơ hội tăng trưởng cao nếu chuyển hướng kinh tế theo quy luật tự do hơn và nếu học hỏi được từ các quốc gia tiên tiến. Nhờ vậy, xứ nào cũng hy vọng vươn lên từ quá khứ lầm than và lầm lạc, nhưng chỉ được trong mươi mười lăm năm là cùng. Việt Nam đã có cơ hội đó kể từ năm 1995.
- Thứ hai, khi có cơ hội gọi là "cất cánh" như vậy, các nước đang lên phải nhìn vào phẩm chất của tăng trưởng và tạo điều kiện phát triển vững bền hơn, qua việc cải tổ cơ chế lạc hậu cũ. Đa số các nước đi sau lại không như vậy mà cứ tưởng đà tăng trưởng này sẽ kéo dài, vì vậy, dù mức sống người dân có cải thiện so với ngày trước, cả nước vẫn chưa vươn lên trình độ gọi là có lợi tức cao, như các nước tiên tiến khác. Họ rơi vào cái bẫy của lợi tức trung bình, chỉ là loại quốc gia trung bình. Việt Nam gặp tình trạng đó và nếu không rút tỉa bài học thì ở lại đó khá lâu.
Vũ Hoàng: Ông giải thích thế nào về hoàn cảnh này của Việt Nam?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Sau cả chục năm sai lầm với ảo tưởng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam chỉ đổi mới từ năm 1992 sau khi Liên Xô tan rã, đấy là điều đáng tiếc nếu so với các lân bang. Sau đó, Việt Nam hội nhập vào khối ASEAN và tái lập quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ từ năm 1995 và quả nhiên là bắt đầu cất cánh với tốc độ tăng trưởng hơn 7%. So với quá khứ của mình thì đấy là một thay đổi tốt đẹp hơn nhưng so với các nước Đông Á thì chưa là gì cả.
- Sau khi ký kết Hiệp định Thương mại với Mỹ vào năm 2001 rồi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới vào năm 2007, Việt Nam có nhiều cơ hội cải cách dứt khoát hơn trên cái trớn cao hơn, mà lại để hụt. Kết quả là một sự hồ hởi sảng vào năm 2008 với nhiều đợt khủng hoảng về giá cả và ngoại hối, khi thế giới lại bị Tổng suy trầm. Mãi đến năm 2011 Việt Nam mới chịu công nhận là phải sửa sai, nhưng việc tái cơ cấu ba lĩnh vực kinh tế được để ra từ hai năm qua vẫn tiến hành quá chậm, trong khi nền kinh tế lại tích lũy thêm nhiều vấn đề mới trong hệ thống ngân hàng và doanh nghiệp nhà nước và y như Trung Quốc, lại có tình trạng bất công cao hơn.
Vũ Hoàng: Câu hỏi cuối, ông tổng kết và dự đoán thế nào về tình hình năm 2014 này?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Đầu tiên, so với thế hệ lãnh đạo thời cách mạng thì lớp người lãnh đạo ngày nay không ác bằng mà lại giỏi kiếm tiền hơn. Đấy không là một lời khen hay một chuyện đáng mừng vì người dân xứng đáng có một tương lai khác. Trong giai đoạn sắp tới, tình trạng sa sút của Trung Quốc khi họ phải chuyển hướng có tạo ra cơ hội thuận tiện hơn cho Việt Nam, là điều ta sẽ tìm hiểu thêm trong những kỳ tới, với điều kiện là lãnh đạo kinh tế của Việt Nam phải cải cách nhanh hơn Trung Quốc. Cải cách như thế nào thì quốc tế đã nói tới và tôi nghĩ rằng giới cầm quyền cũng biết, nhưng mình cũng sẽ nhắc lại.
- Rốt cuộc, Việt Nam sẽ qua thời kỳ tăng trưởng thấp hơn trước, theo kiểu mình hay nói là "ăn ít no lâu". Đầu năm mới, tôi xin kính chúc là đảng ăn ít hơn, cho người dân được no lâu hơn.
Vũ Hoàng: Xin cám ơn ông Nghĩa về cuộc trao đổi này và xin hẹn tuần tới sẽ lần lượt tìm hiểu về những cơ hội và thách thức cho kinh tế Việt Nam.
Source : RFA , dainamax tribune
Luật bảo hiểm y tế mới của Mỹ bắt đầu có hiệu lực
RFI
Luật bảo hiểm y tế mới của Mỹ bắt đầu có hiệu lực
Trang web Bảo hiểm y tế Hoa Kỳ Healthcare.gov
REUTERS/Mike Segar/Files
Thụy My .01/01/2014 .
Đạo luật mới về bảo hiểm y tế được mệnh danh là « Obamacare » hôm nay 01/01/2014 bắt đầu có hiệu lực. Đây là cải cách hết sức quan trọng trong nhiệm kỳ của Tổng thống Barack Obama, tuy thành công hãy còn chưa đảm bảo.
Đạo luật này được thông qua vào năm 2010, cấm các công ty bảo hiểm kể từ hôm nay không được ấn định nhiều mức phí khác nhau theo tiền sử bệnh hay phái tính, cấm từ chối nhận bảo hiểm đối với những bệnh nhân mà chi phí điều trị quá tốn kém, hay quy định mức trần thanh toán hàng năm. Thể thức này cho đến hôm qua đã khiến một số bệnh nhân bị những căn bệnh trầm kha có thể tán gia bại sản.
Đổi lại, luật bắt buộc tất cả những người định cư tại Hoa Kỳ dù là công dân Mỹ hay người ngoại quốc, đều phải mua bảo hiểm ; nếu không sẽ bị phạt 95 đô la và đến năm 2016 tiền phạt sẽ tăng lên 695 đô la. Lý lẽ về mặt kinh tế khá đơn giản : nếu tất cả mọi người đều mua bảo hiểm, thì phí mà những người có sức khỏe tốt phải trả sẽ bù đắp qua cho những bệnh nhân tốn kém.
Một điểm mới nữa của cải cách là đã xác định những chi phí mà công ty bảo hiểm mặc nhiên phải thanh toán. Từ nay tất cả các gói bảo hiểm đều phải gồm cả phí điều trị tại bệnh viện nhất là cấp cứu ; và các điều trị dự phòng như xét nghiệm tiểu đường, ung thư, tiêm chủng hoặc ngừa thai đều phải được thanh toán toàn bộ.
Bộ trưởng Y tế Hoa Kỳ Kathleen Sebelius tuyên bố : « Luật mới sẽ thay đổi hoàn toàn hệ thống y tế của chúng ta. Từ nay, việc là phụ nữ sẽ không bị đánh đồng với việc có một tiền sử bệnh tật ». Từ trước đến nay, phí bảo hiểm đối với nữ luôn cao hơn nam.
Tại Hoa Kỳ hiện nay, chỉ có những người nghèo nhất và người trên 65 tuổi mới được hưởng hệ thống bảo hiểm xã hội. Đối với khoảng 150 triệu người Mỹ đóng bảo hiểm thông qua cơ quan làm việc, thì không có gì thay đổi. Nhưng còn 25 triệu người tự mua bảo hiểm tư không được hưởng giá rẻ như mua tập thể, và những người không có bảo hiểm, thì hồi tháng 10 chính phủ đã lập các trang web để họ có thể tham khảo, chọn mua bảo hiểm tư, có thể được trợ giá. Trang web liên bang Healthcare.gov được sử dụng tại 36 tiểu bang, 14 tiểu bang còn lại tự lập trang mạng riêng.
Chính phủ đề ra mục tiêu từ nay đến cuối tháng Ba có 7 triệu người đăng ký. Đến nay đã có 2,1 triệu người tham gia qua các trang mạng trên – một con số khá thấp so với dự kiến, nhưng tăng khá nhanh so với hai tháng 10 và 11 vì bị trục trặc về vi tính. Thêm vào đó là 3,9 triệu người được hưởng chế độ an sinh xã hội Medicaid dành cho người nghèo.
Nhưng chính quyền chưa thể nói được có bao nhiêu trong số 6 triệu người này trước đây không có bảo hiểm, một con số căn bản có thể làm nên thành công của cải cách. Tổng cộng có 50 triệu người tại Mỹ hiện không hề có bảo hiểm y tế. Không thể biết được sẽ có bao nhiêu thanh niên đăng ký mua – điều kiện cần thiết để hệ thống mới có thể cân bằng thu chi. Tony Carrk thuộc Center for American Progress, người ủng hộ cải cách, nhấn mạnh họ có thể đợi đến hạn chót là ngày 31/3 để đăng ký.
Các đối thủ phe Cộng hòa của ông Obama kịch liệt phản đối việc cải cách bảo hiểm y tế, dẫn đến tăng chi phí cho một số gia đình giàu có, và đây là một trong những chủ đề tranh cử Quốc hội của họ tháng 11/2014 tới.
Những ngày đầu tiên của năm 2014 có thể có một số lộn xộn tại các phòng mạch và bệnh viện, vì một số người chưa nhận được thẻ bảo hiểm y tế, và hệ thống vi tính chưa sẵn sàng hoạt động. Ông Phil Schiliro, cố vấn của Nhà Trắng nhìn nhận : « Chúng tôi còn phải nỗ lực rất cao để mọi việc được suôn sẻ trong những ngày tới ».
RFI
Đổi lại, luật bắt buộc tất cả những người định cư tại Hoa Kỳ dù là công dân Mỹ hay người ngoại quốc, đều phải mua bảo hiểm ; nếu không sẽ bị phạt 95 đô la và đến năm 2016 tiền phạt sẽ tăng lên 695 đô la. Lý lẽ về mặt kinh tế khá đơn giản : nếu tất cả mọi người đều mua bảo hiểm, thì phí mà những người có sức khỏe tốt phải trả sẽ bù đắp qua cho những bệnh nhân tốn kém.
Một điểm mới nữa của cải cách là đã xác định những chi phí mà công ty bảo hiểm mặc nhiên phải thanh toán. Từ nay tất cả các gói bảo hiểm đều phải gồm cả phí điều trị tại bệnh viện nhất là cấp cứu ; và các điều trị dự phòng như xét nghiệm tiểu đường, ung thư, tiêm chủng hoặc ngừa thai đều phải được thanh toán toàn bộ.
Bộ trưởng Y tế Hoa Kỳ Kathleen Sebelius tuyên bố : « Luật mới sẽ thay đổi hoàn toàn hệ thống y tế của chúng ta. Từ nay, việc là phụ nữ sẽ không bị đánh đồng với việc có một tiền sử bệnh tật ». Từ trước đến nay, phí bảo hiểm đối với nữ luôn cao hơn nam.
Tại Hoa Kỳ hiện nay, chỉ có những người nghèo nhất và người trên 65 tuổi mới được hưởng hệ thống bảo hiểm xã hội. Đối với khoảng 150 triệu người Mỹ đóng bảo hiểm thông qua cơ quan làm việc, thì không có gì thay đổi. Nhưng còn 25 triệu người tự mua bảo hiểm tư không được hưởng giá rẻ như mua tập thể, và những người không có bảo hiểm, thì hồi tháng 10 chính phủ đã lập các trang web để họ có thể tham khảo, chọn mua bảo hiểm tư, có thể được trợ giá. Trang web liên bang Healthcare.gov được sử dụng tại 36 tiểu bang, 14 tiểu bang còn lại tự lập trang mạng riêng.
Chính phủ đề ra mục tiêu từ nay đến cuối tháng Ba có 7 triệu người đăng ký. Đến nay đã có 2,1 triệu người tham gia qua các trang mạng trên – một con số khá thấp so với dự kiến, nhưng tăng khá nhanh so với hai tháng 10 và 11 vì bị trục trặc về vi tính. Thêm vào đó là 3,9 triệu người được hưởng chế độ an sinh xã hội Medicaid dành cho người nghèo.
Nhưng chính quyền chưa thể nói được có bao nhiêu trong số 6 triệu người này trước đây không có bảo hiểm, một con số căn bản có thể làm nên thành công của cải cách. Tổng cộng có 50 triệu người tại Mỹ hiện không hề có bảo hiểm y tế. Không thể biết được sẽ có bao nhiêu thanh niên đăng ký mua – điều kiện cần thiết để hệ thống mới có thể cân bằng thu chi. Tony Carrk thuộc Center for American Progress, người ủng hộ cải cách, nhấn mạnh họ có thể đợi đến hạn chót là ngày 31/3 để đăng ký.
Các đối thủ phe Cộng hòa của ông Obama kịch liệt phản đối việc cải cách bảo hiểm y tế, dẫn đến tăng chi phí cho một số gia đình giàu có, và đây là một trong những chủ đề tranh cử Quốc hội của họ tháng 11/2014 tới.
Những ngày đầu tiên của năm 2014 có thể có một số lộn xộn tại các phòng mạch và bệnh viện, vì một số người chưa nhận được thẻ bảo hiểm y tế, và hệ thống vi tính chưa sẵn sàng hoạt động. Ông Phil Schiliro, cố vấn của Nhà Trắng nhìn nhận : « Chúng tôi còn phải nỗ lực rất cao để mọi việc được suôn sẻ trong những ngày tới ».
RFI
31/12/13
Nữ hoàng truyện ngắn Alice Munro
Nữ hoàng truyện ngắn Alice Munro
Nhà văn Canada Alice Munro giành giải Nobel Văn học 2013. Ảnh chụp trong một sự kiện tại Toronto, Canada 2007.
REUTERS/Mike Cassese/Files
31/12/2013
Trong cuộc trả lời phỏng vấn dành cho ban Việt Ngữ RFI, nhà văn Nguyễn Đức Tường từ bang Quebec cho biết thêm về vị trí của « Nữ hoàng truyện ngắn, Alice Munro » trên văn đàn Canada, về văn phong của bà và nhất là vì sao Alice Munro, sau hơn một nửa thế kỷ cầm bút, mỗi tác phẩm của bà đều rất được chờ đợi. Bà được mệnh danh là một Tchekkov của Canada. Nhà văn Nguyễn Đức Tường nguyên là giáo sư Toán và Vật Lý tại Mỹ và Canada, nhưng đã đã có nhiều duyên nợ với văn chương. Ông từng là ban tập viên của tạp chí Thế Kỷ XIX.
Ấp ủ giấc mơ viết văn từ bé, truyện ngắn đầu tay « The Dimensions of a Shadow – Kích thước của một chiếc bóng » của bà được xuất bản năm 1950. Nhưng phải đợi đến cuối thập niên 1960 Alice Munro mới được độc giả biêt đến một cách rộng rãi qua Dance of the Happy Shades – Vũ điệu của những chiếc bóng hạnh phúc ».
Những năm gần đây, chiếu cao nhất trên văn đàn Canada được giành cho hai nhà văn nữ nặng ký : Magaret Atwood và Alice Munro. Hàng năm, cứ đến “mùa” Nobel là các tổ chức truyền thông Canada lại thi nhau tiên đoán ai sẽ được giải Nobel văn học.
Ở một góc đài là Magaret, già nửa thế kỷ trong nghề cầm bút với trên 50 cuốn sách/truyện đã xuất bản và mỗi lần ra mắt sách là một sự kiện – event. Góc bên kia là Alice, bà Hoàng truyện ngắn, cũng già nửa thế kỷ trong nghề cầm bút nhưng có vẻ nhẹ ký hơn, chỉ mới có 14 tập truyện đã xuất bản nhưng xuất hiện thường xuyên trên những tạp chí như The New Yorker, The Atlantic Monthly, The Paris Review... và được nhà văn Mỹ Jonathan Franzen ca tụnghết mình trên The New York Times nhân dịp tập truyện Runaway của bà được giải Giller 2004 lần thứ nhì, một giải văn học có hạng của Canada, kêu gọi đồng bào nên đọc Munro.
Điều này có lẽ rất quan trọng vì 10 năm trước, năm 1994, Munro xuất bản Open Secrets, bà được đề nghị cho giải thưởng văn học uy tín nhất của Canada lần thứ 5, Giải Toàn quyền Canada (Governor General's Award). Nhân dịp này, tạp chí The Paris Review cũng đã gửi hai phóng viên đến nhà bà ở Clinton để phỏng vấn cho một bài viết về Nghệ thuật Hư cấu.
Lần này khác, ngày 10/10/2013, Viện Hàn lâm Thụy Điển thông báo Giải thưởng Văn học 2013 được trao về tay một nhà văn của Canada, Alice Munro, “bậc thầy của truyện ngắn hiện đại”! Đây là lần đầu tiên giải văn học này vinh danh một nhà văn chỉ viết truyện ngắn.
Alice Munro là nhà văn nữ thứ 13 và là người phụ nữ Canada đầu tiên đã đoạt giải Nobel Văn học. Đúng ra, năm 1976 Saul Bellow, một tác giả sinh đẻ ở Lachine (Quebec), cũng đã đoạt giải Nobel, nhưng vì năm lên 9 tuổi, Bellow theo gia đình sang Chicago rồi sau đó lấy quốc tịch Hoa Kỳ, nên trước Alice Munro, Canada vẫn chưa có ai được trao giải Nobel.
Alice Munro, tên thật là Alice Ann Laidlaw, sinh ngày 10/07/1931 tại Wingham, một thị trấn nhỏ miền tây-nam Ontario, Canada. Năm 1949, cô được học bổng hai năm tại Đại học Western Ontario, chuyên về tiếng Anh và báo chí. Trong thời gian này cô cũng đồng thời phải làm đủ mọi thứ nghề: hầu bàn, hái thuốc lá hay phụ việc thư viện, để phụ thêm học bổng.
Năm 1951, cô rời đại học để kết hôn với James Munro, một sinh viên cùng trường. Họ dọn nhà đi Vancouver, British Columbia, nơi James có việc làm với Eaton, một nhà hàng bách hóa lớn. Năm 1963, hai vợ chồng chuyển đến Victoria, mở tiệm sách Munro's Books. Ngày nay vẫn còn hoạt động. Họ có bốn cô con gái, nhưng một người đã qua đời sớm.
Alice và James ly dị vào năm 1972. Năm 1973 Munro trở lại Đại học Western Ontario, bây giờ với tư cách một nhà văn nội trú. Năm 1976, Alice kết hôn với Gerald Fremlin, một bạn cũ thời còn là sinh viên. Hai vợ chồng dọn về Clinton, cách nhà thời thơ ấu của bà ở Wingham chừng nửa giờ lái xe và ở đây, Fremlin đã qua đời năm 2013 ở tuổi 88.
« Dance of the Happy Shades » khúc quanh định mệnh
Munro có ý định viết văn từ năm 12 tuổi, nhưng xuất bản tương đối muộn. Gần đây người ta phát hiện truyện ngắn đầu tiên, Kích thước của một Chiếc Bóng, (The Dimensions of a Shadow), xuất bản năm 1950, đăng trong tạp chí đại học Folio, được tái bản năm 2011 trong tạp chí Her Royal Majesty số 12. Đây là lần đầu tiên Munro ở tuổi mười tám được phổ biến rộng rãi. Kích thước của một Chiếc Bóng kể truyện một cô giáo mới nhậm chức trong thị trấn, cô đơn đi bộ về nhà vào ngày cuối cùng của niên học, một mình với trí tưởng tượng và nỗi sợ hãi của mình. Giọng văn đượm chút irony như thể báo hiệu những gì sẽ đến trong tương lai.
Năm 1968, ở tuổi 37, Alice Munro xuất bản tập truyện đầu tay, Dance of the Happy Shades – Vũ điệu của những chiếc bóng hạnh phúc. Với tác phẩm này Munro đoạt Giải Toàn quyền Canada, giải thưởng văn học hàng năm quan trọng nhất; bà sẽ còn đoạt giải này thêm hai lần nữa.
Dance of the Happy Shades cũng là tên một truyện ngắn trong tập truyện, lấy từ tiêu đề của bản dịch tiếng Anh của ba-lê/nhạc kịch Orpheus & Eurydice của Glück khi được trình diễn tại London lần đầu tiên. Vì liên hệ thần thoại này, chữ Shade ở đây cũng có thể chỉ một bóng ma, một cõi u minh nào đó – the Realm of the Shades.
Trong thần thoại Hy Lạp, đây là một chuyện tình rất thương tâm; Orpheus là một thi nhạc sĩ, tiếng nhạc của anh quyến rũ được thú hoang hay sỏi đá. Orpheus đi cứu vợ, Eurydice, từ thế giới bên kia; Hades, vua của cõi U Minh nhỏ lệ trước lời ca của Orpheus và cho Eurydice về dương thế, nhưng vì Orpheus phạm một lời nguyền nên vợ chết một lần nữa. Buồn bã trở về, Orpheus chết dưới bàn tay của kẻ thù không bị cảm hóa bởi âm nhạc thần thánh của mình, đầu anh ta trôi ra biển vẫn không ngừng ca hát. Trong vở nhạc kịch, Orpheus đau khổ, định tự tử, nhưng thần Tình yêu ngăn cản, cứu sống vợ để cho cả hai vợ chồng cùng về dương thế,happy ending.
Vũ điệu của những chiếc bóng hạnh phúc kể chuyện một bà giáo già độc thân và buổi độc tấu dương cầm hàng năm của học trò của bà. Học trò của bà gồm ít nhất hai thế hệ, cô bé kể truyện và mẹ của cô. Bà giáo ngày càng già, đời sống vật chất của bà ngày càng eo hẹp, chỉ có buổi độc tấu dương cầm là cố định, được sửa soạn với cùng một quan tâm vô tận và do đấy, vào buổi chiều tháng Sáu nóng bức này, trở nên có vẻ như không bao giờ ngừng cho những bà mẹ phải đi kèm con. Bà giáo già hoàn toàn vô tư trước cảnh những bà mẹ ngồi bồn chồn, chịu trận chờ cho đến hết. Nhưng lần này khác, khi tưởng như đã xong thì đột nhiên xuất hiện một đám trẻ con cùng có một chút gì khác lạ, khiếm khuyết, chừng mươi đứa, cũng là học trò của bà. Tài nghệ dương cầm của chúng trung bình như mọi trẻ khác cho đến khi bà giới thiệu đứa trẻ cuối cùng, một cô bé tóc bạch kim. Cô ngồi trước dương cầm, vụng về, đầu hơi cúi xuống rồi tiếng nhạc của cô bắt đầu lơ lửng trong không gian, bay qua cửa sổ ra ngoài đường phố mùa hè hừng hực nóng. Mọi người đã quen với những buổi biểu diễn dương cầm như thế này nhưng không ai chờ đợi được nghe âm nhạc. Có lẽ đến tận lúc cuối cùng của cuộc đời, bà đã tìm được một người để dậy nhạc.
Dùng Vũ điệu của những chiếc bóng hạnh phúc làm tiêu đề của toàn tập truyện, chắc hẳn Munro không đơn thuần chỉ chọn cái tên bắt mắt để bán sách mà phải rất đắc ý với câu chuyện. Tôi đọc ở đâu đó, Munro nghiên cứu rất cẩn thận khi viết lách, liên hệ giữa thần thoại Hy Lạp và bà giáo dương cầm già tất không phải chuyện tình cờ. Và như vậy những ngụ ý, ẩn dụ, ám chỉ... có thể có, nằm đâu đó trong truyện; xin để độc giả, qua thẩm định cá nhân, mỗi người một cách vui thích làm cuộc thám hiểm cho riêng mình.
Alice Munro đã xuất bản tất cả 14 tập truyện; được Giải Toàn quyền Canada (Governor General's Award) 3 lần: Dance of the Happy Shades (1968), Who Do You Think You Are?(1978) và The Progress of Love (1986); Giải Giller 2 lần: The Love of a Good Woman (1998) và Runaway (2004). Năm 2009 Munro được Giải thưởng Quốc tế Man Booker (Man Booker International Prize) cho toàn bộ tác phẩm, rồi tất nhiên, năm 2013, Giải Nobel Văn học.
Văn phong chân thực, giản dị của Munro
Alice Munro được giải Nobel! Tất nhiên dân Canada vui mừng và hãnh diện, nhưng tình cảm này không nhất quán. Đã từ lâu, Alice Munro trở thành một tác giả tiếng tăm quốc tế về các hư cấu ngắn, không còn bắt buộc phải viết cho thị trường của các tác giả đang tìm cách đi lên ở trong nước. Đa số những độc giả truyện ngắn khám phá ra hư cấu của Munro lần đầu tiên trong các tạp chí bóng mượt của Hoa Kỳ như tờ The New Yorker và Atlantic Monthly. Nhà xuất bản của Munro là Random House, trụ sở ở Manhattan. Vì dân số Hoa Kỳ đông gấp mười lần dân số Canada tất nhiên số độc giả cũng đông, nhưng cốt lõi, Munro vẫn là một tác giảmiệt vườn Canada.
Có một thời tôi sống ở vùng hồ Huron, một trong năm Đại Hồ của Canada chụm lại với nhau, hồ bát ngát, gió thường tung sóng cao như biển. Một căn nhà gạch đỏ gọn ghẽ ở cuối đường, đánh dấu ranh giới của thị trấn, bên kia là cánh đồng chạy thoải xuống sông Maitland, có thể như Munro đã tả căn nhà thời thơ ấu, những cây ngô đã khô xào xạc trong cơn gió nhẹ, đây đó thêm mấy hàng cây phong. Lạ hơn là đôi khi giữa cánh đồng đột nhiên mọc lên một tiệm ăn rất sang, French cuisine; có một tiệm ở bên cạnh suối nước, có cả đập nước để sinh điện, điện còn thừa bán cho công ty điện lực Ontario. Tôi thường đi thử những tiệm ăn này mỗi cuối tuần, tôi hỏi mấy chốc họ vỡ nợ. Bạn đồng hành trả lời họ không trông đợi ở mình, họ chờ mấy fat cats có cottages ở dọc ven hồ.
Đó là xứ sở của Munro và cũng là sân chơi của những ông bự béo hay béo bự, phần lớn đến từ Toronto, hơn hai giờ lái xe; họ không là mẫu cho nhân vật của Munro. Mặc French cuisinehay Stratford Festival không xa, hàng năm trình diễn những vở kịch cổ điển hay đương đại, từ tháng Tư đến tháng Mười, thu hút khách thập phương, bầu không khí trong truyện ngắn của Munro luôn luôn là bầu không khí tỉnh lẻ nếu không nói miệt vườn.
Nhân vật của Munro là những người bình thường của vùng này, ở quanh Wingham, nơi Munro sinh ra và lớn lên hay Clinton, nơi bà sống sau này. Ở đây, khi ánh sáng và bóng tối bắt đầu trộn lẫn trên cánh đồng đã cầy lên chờ mùa đông sắp đến, có thể họ lén lút làm tình trong các ruộng ngô, hay là những con người hung dữ nóng nẩy chạy rượu lậu, cuộc sống và hy vọng có thể bị nghiền nát trong khoảnh khắc một cuộc đối thoại.
Văn phong của Munro chân thực, giản dị – như Wingham, nhưng rộn ràng với những cảm xúc chính xác, đã được giảm nhẹ đi. Dẫu vậy, nhiều khi hãy còn quá nhạy cảm cho một số người. Như truyện Giờ Chết (The Time of Death). Đến ba thế hệ của một gia đình hãy còn hằn học với Munro chỉ vì chuyện một ông chú của họ qua đời, bỏng nước sôi khi mới được 18 tháng, giống như đứa bé Benny trong truyện. Như đã nói ở trên, Munro rất thận trọng làm nghiên cứu. Trong thư khố của tuần báo địa phương, có đến hai trường hợp đứa bé bị chết bỏng nước sôi; câu chuyện xẩy ra năm 1877 đăng trên tờ Huron Expositor giống truyện của Munro một cách kỳ lạ. Tuy vậy, theo một sử gia địa phương, “Khi tôi đọc Alice Munro, tôi không thể đọc bà ta như những người khác, tôi nhìn thấy rất nhiều Wingham ở trong đó, mặc dù tôi biết đó là truyện hư cấu.”
Gần đây Alice Munro nói có ý định viết tiểu luận và đã viết một vài bài, tôi có đọc một bài bà viết nhưng bây giờ không nhớ ở đâu; còn lại tất cả các tác phẩm của bà đều là truyện ngắn, vậy thì câu trả lời dễ, gọn và an toàn nhất là Alice Munro được giải Nobel là vì bà là một “bậc thầy của truyện ngắn hiện đại”. Tôi cũng có thể nói một cách rất lương thiện là đó cũng là quan điểm của tôi.
Munro viết về đời sống thôn dã vùng hạt Huron cùng những người sống trong vùng: chính mình, kinh nghiệm của mình khi lớn lên, rồi gia đình và những người chung quanh. Thật sự, toàn là những người bình thường, không có gì đặc sắc, sinh hoạt đời thường lặp đi lặp lại, tẻ nhạt. Nhưng viết về con người bình thường trong hoàn cảnh bình thường, sống đời sống bình thường không bao giờ dễ; chỉ dưới ngòi bút thần diệu của một nhà văn bực thầy ta mới có thể thấy được những con người, hoàn cảnh hay đời sống đó không những có thể tin được mà còn sống động một cách thần kỳ.
Đọc đi đọc lại vài truyện nhiều lần, tôi nhận thấy truyện của Munro mở ra từ từ dễ dàng nhưng cấu trúc hết sức tinh tế và chính xác, một cử chỉ nhỏ bất ngờ của nhân vật thường làm thay đổi sắc thái của cả câu chuyện. Munro kể lúc ban đầu viết truyện ngắn chỉ là tạm thời, sửa soạn cho truyện dài về sau. Rồi bà viết truyện dài, nhưng không bao giờ vừa ý nên lại cắt ra thành những truyện ngắn. Nhưng những truyện ngắn chừng mươi, mười lăm trang này chi tiết cô đọng như những truyện dài 200 trang. Theo biên tập viên của bà ở The New Yorker, “Truyện ngắn của Munro dường như rất đầy đủ, có tất cả các tính chất của một cuốn tiểu thuyết.” Và thêm, “Bạn cắt một câu tưởng như thừa ở đầu truyện để rồi về sau nhận ra câu đó là cần thiết.”
Người đi sau phải học người đi trước, nếu không ta sẽ tiếp tục phát minh lại cái bánh xe và văn minh của nhân loại sẽ đứng yên một chỗ; Munro tất nhiên phải học những nhà văn đi trước nhưng văn phong của Munro có nét vẻ riêng của Munro. Có người nói Munro là “Chekhov của chúng tôi.” Nhưng tại sao phải như vậy? Tại sao Munro không thể chỉ đơn thuần là Munro?
“Boys and Girls” và thân phận
Một truyện của Munro mà tôi đặc biệt ưa thích là Trai và Gái (Boys and Girls). Văn viết uyển chuyển. Tâm lý sâu sắc. Diễn biến tế nhị.
“My father was a fox farmer.” Munro vào truyện, rõ ràng, chính xác, không những không che dấu nguồn gốc khiêm nhượng, miệt vườn của mình mà còn như có vẻ ngạo mạn, thách đố.
Alice Munro thường dùng cái thế giới mà bà biết rõ nhất, miền tây-nam Ontario, làm nền trong các tác phẩm. Trai và Gái là truyện xẩy ra ở vùng này trong đó Munro kể lại những năm thơ ấu của mình vào thời kỳ kinh tế suy thoái.
Một gia đình sống trong một trang trại nuôi cáo, gồm cha làm nghề nuôi cáo, mẹ nội trợ và hai chị em, cô chị 11 tuổi là người kể truyện. Truyện tả sự trưởng thành của hai chị em, nhất là cô chị, với tất cả những bối rối gai góc của nó. Hai chị em thường phụ giúp cha, thằng bé em lóng ngóng làm việc lặt vặt nơi chuồng cáo, còn cô là người quán xuyến hết mọi việc. Cô cảm thấy vai trò của mình trong trang trại được đảm bảo; cha cô có lần nói chuyện với khách, chỉ cô giới thiệu, “Tay đàn ông phụ việc tôi mới thuê,” khiến cô đỏ mặt vì vui sướng.
Như một bản nhạc gồm hai giọng chạy theo nhau, quyện lấy nhau. Hai cuộc đời triển khai theo nhịp sống của trang trại; phụ giúp cha trông nom, cho cáo ăn uống rồi giết cáo để lấy da. Cuộc đời tưởng như không có gì thay đổi, nhưng mùa đông này cô nhận ra rằng mẹ cô không muốn cô cả ngày lúi húi dưới chuồng cáo mà muốn cô giúp bà với việc trong nhà.
Một trong những nét nổi bật nhất của câu chuyện là sự tương phản gợi ra bởi ý tưởng “cậu bé” và “cô gái”, luôn luôn phản ảnh trong mọi khía cạnh của thế giới người kể truyện. Truyện tiếp tục kể chi tiết về thời gian trong cuộc sống của cô khi cô qua khỏi thời thơ ấu, bỏ lại đằng sau sự tự do, nhận ra rằng mình là một “cô gái” và cuối cùng, một phụ nữ. Đứa trẻ bắt đầu hiểu rõ phân loại xã hội đòi hỏi những tác động nghiêm trọng. Do đó trở thành một “cô gái” trên đường đến phái nữ là một thời gian đầy khó khăn cho nhân vật chính bởi vì cô quan niệm phụ nữ thuộc giai cấp thấp hơn (“đỏ mặt vì vui sướng” chỉ vì được bố gọi là tay đàn ông). Ban đầu, cô cố gắng chống lại nỗ lực của cha mẹ cố đào tạo cho cô những sở thích, thói quen, hành vi và công việc của một phụ nữ. Tuy nhiên, kháng cự này vô ích. Cô gái kết thúc câu chuyện rõ ràng là xã hội đã dành riêng một chỗ đứng cho cô, một cô gái; một cái gì đó làm cô lo sợ, ngại ngùng.
Mặc dù Munro không là người quan tâm đến nữ quyền một cách rõ ràng và thuyết phục, câu chuyện có thể được xem như một dụ ngôn, chứng minh hùng hồn công việc người phụ nữ cần làm để thay đổi vị trí xã hội của họ.
Cuộc đời trôi đi, cho đến một hôm cô biết cha cô có ý định giết một con ngựa để nuôi cáo; không suy tính trước, cô thả con ngựa. Và đây cũng là lần đầu tiên trong đời cô không vâng lời cha, không những không đóng cửa trang trại mà còn mở rộng cho ngựa chạy ra. Thằng bé em đi theo bố suốt buổi để đuổi bắt rồi giết ngựa, trở về, quần áo dính máu, nó đã nghiễm nhiên chiếm chỗ của cô; không những thế nó còn mách lẻo với bố là cô đã giúp cho ngựa chạy.
Cô không ngạc nhiên về việc bố bắt lại được con ngựa nhưng ngạc nhiên thấy ông không tức giận và không trừng phạt cô; như cam chịu, đôi chút cởi mở, ông nói, “Nó chỉ là một cô gái.” Ngạc nhiên hơn nữa là phản ứng của cô gái trước câu nói của bố: “Tôi không phản đối điều đó, ngay tự trong thâm tâm tôi. Có lẽ đó là sự thật.” Bữa cơm gia đình tối hôm đó là một bức tranh đẹp tuyệt vời.
“I didn’t protest that, even in my heart. Maybe it was true.” Chấm hết, một ngày không tốt mấy cho nữ quyền.
Source : RFI
Ấp ủ giấc mơ viết văn từ bé, truyện ngắn đầu tay « The Dimensions of a Shadow – Kích thước của một chiếc bóng » của bà được xuất bản năm 1950. Nhưng phải đợi đến cuối thập niên 1960 Alice Munro mới được độc giả biêt đến một cách rộng rãi qua Dance of the Happy Shades – Vũ điệu của những chiếc bóng hạnh phúc ».
Những năm gần đây, chiếu cao nhất trên văn đàn Canada được giành cho hai nhà văn nữ nặng ký : Magaret Atwood và Alice Munro. Hàng năm, cứ đến “mùa” Nobel là các tổ chức truyền thông Canada lại thi nhau tiên đoán ai sẽ được giải Nobel văn học.
Ở một góc đài là Magaret, già nửa thế kỷ trong nghề cầm bút với trên 50 cuốn sách/truyện đã xuất bản và mỗi lần ra mắt sách là một sự kiện – event. Góc bên kia là Alice, bà Hoàng truyện ngắn, cũng già nửa thế kỷ trong nghề cầm bút nhưng có vẻ nhẹ ký hơn, chỉ mới có 14 tập truyện đã xuất bản nhưng xuất hiện thường xuyên trên những tạp chí như The New Yorker, The Atlantic Monthly, The Paris Review... và được nhà văn Mỹ Jonathan Franzen ca tụnghết mình trên The New York Times nhân dịp tập truyện Runaway của bà được giải Giller 2004 lần thứ nhì, một giải văn học có hạng của Canada, kêu gọi đồng bào nên đọc Munro.
Điều này có lẽ rất quan trọng vì 10 năm trước, năm 1994, Munro xuất bản Open Secrets, bà được đề nghị cho giải thưởng văn học uy tín nhất của Canada lần thứ 5, Giải Toàn quyền Canada (Governor General's Award). Nhân dịp này, tạp chí The Paris Review cũng đã gửi hai phóng viên đến nhà bà ở Clinton để phỏng vấn cho một bài viết về Nghệ thuật Hư cấu.
Lần này khác, ngày 10/10/2013, Viện Hàn lâm Thụy Điển thông báo Giải thưởng Văn học 2013 được trao về tay một nhà văn của Canada, Alice Munro, “bậc thầy của truyện ngắn hiện đại”! Đây là lần đầu tiên giải văn học này vinh danh một nhà văn chỉ viết truyện ngắn.
Alice Munro là nhà văn nữ thứ 13 và là người phụ nữ Canada đầu tiên đã đoạt giải Nobel Văn học. Đúng ra, năm 1976 Saul Bellow, một tác giả sinh đẻ ở Lachine (Quebec), cũng đã đoạt giải Nobel, nhưng vì năm lên 9 tuổi, Bellow theo gia đình sang Chicago rồi sau đó lấy quốc tịch Hoa Kỳ, nên trước Alice Munro, Canada vẫn chưa có ai được trao giải Nobel.
Alice Munro, tên thật là Alice Ann Laidlaw, sinh ngày 10/07/1931 tại Wingham, một thị trấn nhỏ miền tây-nam Ontario, Canada. Năm 1949, cô được học bổng hai năm tại Đại học Western Ontario, chuyên về tiếng Anh và báo chí. Trong thời gian này cô cũng đồng thời phải làm đủ mọi thứ nghề: hầu bàn, hái thuốc lá hay phụ việc thư viện, để phụ thêm học bổng.
Năm 1951, cô rời đại học để kết hôn với James Munro, một sinh viên cùng trường. Họ dọn nhà đi Vancouver, British Columbia, nơi James có việc làm với Eaton, một nhà hàng bách hóa lớn. Năm 1963, hai vợ chồng chuyển đến Victoria, mở tiệm sách Munro's Books. Ngày nay vẫn còn hoạt động. Họ có bốn cô con gái, nhưng một người đã qua đời sớm.
Alice và James ly dị vào năm 1972. Năm 1973 Munro trở lại Đại học Western Ontario, bây giờ với tư cách một nhà văn nội trú. Năm 1976, Alice kết hôn với Gerald Fremlin, một bạn cũ thời còn là sinh viên. Hai vợ chồng dọn về Clinton, cách nhà thời thơ ấu của bà ở Wingham chừng nửa giờ lái xe và ở đây, Fremlin đã qua đời năm 2013 ở tuổi 88.
« Dance of the Happy Shades » khúc quanh định mệnh
Munro có ý định viết văn từ năm 12 tuổi, nhưng xuất bản tương đối muộn. Gần đây người ta phát hiện truyện ngắn đầu tiên, Kích thước của một Chiếc Bóng, (The Dimensions of a Shadow), xuất bản năm 1950, đăng trong tạp chí đại học Folio, được tái bản năm 2011 trong tạp chí Her Royal Majesty số 12. Đây là lần đầu tiên Munro ở tuổi mười tám được phổ biến rộng rãi. Kích thước của một Chiếc Bóng kể truyện một cô giáo mới nhậm chức trong thị trấn, cô đơn đi bộ về nhà vào ngày cuối cùng của niên học, một mình với trí tưởng tượng và nỗi sợ hãi của mình. Giọng văn đượm chút irony như thể báo hiệu những gì sẽ đến trong tương lai.
Năm 1968, ở tuổi 37, Alice Munro xuất bản tập truyện đầu tay, Dance of the Happy Shades – Vũ điệu của những chiếc bóng hạnh phúc. Với tác phẩm này Munro đoạt Giải Toàn quyền Canada, giải thưởng văn học hàng năm quan trọng nhất; bà sẽ còn đoạt giải này thêm hai lần nữa.
Dance of the Happy Shades cũng là tên một truyện ngắn trong tập truyện, lấy từ tiêu đề của bản dịch tiếng Anh của ba-lê/nhạc kịch Orpheus & Eurydice của Glück khi được trình diễn tại London lần đầu tiên. Vì liên hệ thần thoại này, chữ Shade ở đây cũng có thể chỉ một bóng ma, một cõi u minh nào đó – the Realm of the Shades.
Trong thần thoại Hy Lạp, đây là một chuyện tình rất thương tâm; Orpheus là một thi nhạc sĩ, tiếng nhạc của anh quyến rũ được thú hoang hay sỏi đá. Orpheus đi cứu vợ, Eurydice, từ thế giới bên kia; Hades, vua của cõi U Minh nhỏ lệ trước lời ca của Orpheus và cho Eurydice về dương thế, nhưng vì Orpheus phạm một lời nguyền nên vợ chết một lần nữa. Buồn bã trở về, Orpheus chết dưới bàn tay của kẻ thù không bị cảm hóa bởi âm nhạc thần thánh của mình, đầu anh ta trôi ra biển vẫn không ngừng ca hát. Trong vở nhạc kịch, Orpheus đau khổ, định tự tử, nhưng thần Tình yêu ngăn cản, cứu sống vợ để cho cả hai vợ chồng cùng về dương thế,happy ending.
Vũ điệu của những chiếc bóng hạnh phúc kể chuyện một bà giáo già độc thân và buổi độc tấu dương cầm hàng năm của học trò của bà. Học trò của bà gồm ít nhất hai thế hệ, cô bé kể truyện và mẹ của cô. Bà giáo ngày càng già, đời sống vật chất của bà ngày càng eo hẹp, chỉ có buổi độc tấu dương cầm là cố định, được sửa soạn với cùng một quan tâm vô tận và do đấy, vào buổi chiều tháng Sáu nóng bức này, trở nên có vẻ như không bao giờ ngừng cho những bà mẹ phải đi kèm con. Bà giáo già hoàn toàn vô tư trước cảnh những bà mẹ ngồi bồn chồn, chịu trận chờ cho đến hết. Nhưng lần này khác, khi tưởng như đã xong thì đột nhiên xuất hiện một đám trẻ con cùng có một chút gì khác lạ, khiếm khuyết, chừng mươi đứa, cũng là học trò của bà. Tài nghệ dương cầm của chúng trung bình như mọi trẻ khác cho đến khi bà giới thiệu đứa trẻ cuối cùng, một cô bé tóc bạch kim. Cô ngồi trước dương cầm, vụng về, đầu hơi cúi xuống rồi tiếng nhạc của cô bắt đầu lơ lửng trong không gian, bay qua cửa sổ ra ngoài đường phố mùa hè hừng hực nóng. Mọi người đã quen với những buổi biểu diễn dương cầm như thế này nhưng không ai chờ đợi được nghe âm nhạc. Có lẽ đến tận lúc cuối cùng của cuộc đời, bà đã tìm được một người để dậy nhạc.
Dùng Vũ điệu của những chiếc bóng hạnh phúc làm tiêu đề của toàn tập truyện, chắc hẳn Munro không đơn thuần chỉ chọn cái tên bắt mắt để bán sách mà phải rất đắc ý với câu chuyện. Tôi đọc ở đâu đó, Munro nghiên cứu rất cẩn thận khi viết lách, liên hệ giữa thần thoại Hy Lạp và bà giáo dương cầm già tất không phải chuyện tình cờ. Và như vậy những ngụ ý, ẩn dụ, ám chỉ... có thể có, nằm đâu đó trong truyện; xin để độc giả, qua thẩm định cá nhân, mỗi người một cách vui thích làm cuộc thám hiểm cho riêng mình.
Alice Munro đã xuất bản tất cả 14 tập truyện; được Giải Toàn quyền Canada (Governor General's Award) 3 lần: Dance of the Happy Shades (1968), Who Do You Think You Are?(1978) và The Progress of Love (1986); Giải Giller 2 lần: The Love of a Good Woman (1998) và Runaway (2004). Năm 2009 Munro được Giải thưởng Quốc tế Man Booker (Man Booker International Prize) cho toàn bộ tác phẩm, rồi tất nhiên, năm 2013, Giải Nobel Văn học.
Văn phong chân thực, giản dị của Munro
Alice Munro được giải Nobel! Tất nhiên dân Canada vui mừng và hãnh diện, nhưng tình cảm này không nhất quán. Đã từ lâu, Alice Munro trở thành một tác giả tiếng tăm quốc tế về các hư cấu ngắn, không còn bắt buộc phải viết cho thị trường của các tác giả đang tìm cách đi lên ở trong nước. Đa số những độc giả truyện ngắn khám phá ra hư cấu của Munro lần đầu tiên trong các tạp chí bóng mượt của Hoa Kỳ như tờ The New Yorker và Atlantic Monthly. Nhà xuất bản của Munro là Random House, trụ sở ở Manhattan. Vì dân số Hoa Kỳ đông gấp mười lần dân số Canada tất nhiên số độc giả cũng đông, nhưng cốt lõi, Munro vẫn là một tác giảmiệt vườn Canada.
Có một thời tôi sống ở vùng hồ Huron, một trong năm Đại Hồ của Canada chụm lại với nhau, hồ bát ngát, gió thường tung sóng cao như biển. Một căn nhà gạch đỏ gọn ghẽ ở cuối đường, đánh dấu ranh giới của thị trấn, bên kia là cánh đồng chạy thoải xuống sông Maitland, có thể như Munro đã tả căn nhà thời thơ ấu, những cây ngô đã khô xào xạc trong cơn gió nhẹ, đây đó thêm mấy hàng cây phong. Lạ hơn là đôi khi giữa cánh đồng đột nhiên mọc lên một tiệm ăn rất sang, French cuisine; có một tiệm ở bên cạnh suối nước, có cả đập nước để sinh điện, điện còn thừa bán cho công ty điện lực Ontario. Tôi thường đi thử những tiệm ăn này mỗi cuối tuần, tôi hỏi mấy chốc họ vỡ nợ. Bạn đồng hành trả lời họ không trông đợi ở mình, họ chờ mấy fat cats có cottages ở dọc ven hồ.
Đó là xứ sở của Munro và cũng là sân chơi của những ông bự béo hay béo bự, phần lớn đến từ Toronto, hơn hai giờ lái xe; họ không là mẫu cho nhân vật của Munro. Mặc French cuisinehay Stratford Festival không xa, hàng năm trình diễn những vở kịch cổ điển hay đương đại, từ tháng Tư đến tháng Mười, thu hút khách thập phương, bầu không khí trong truyện ngắn của Munro luôn luôn là bầu không khí tỉnh lẻ nếu không nói miệt vườn.
Nhân vật của Munro là những người bình thường của vùng này, ở quanh Wingham, nơi Munro sinh ra và lớn lên hay Clinton, nơi bà sống sau này. Ở đây, khi ánh sáng và bóng tối bắt đầu trộn lẫn trên cánh đồng đã cầy lên chờ mùa đông sắp đến, có thể họ lén lút làm tình trong các ruộng ngô, hay là những con người hung dữ nóng nẩy chạy rượu lậu, cuộc sống và hy vọng có thể bị nghiền nát trong khoảnh khắc một cuộc đối thoại.
Văn phong của Munro chân thực, giản dị – như Wingham, nhưng rộn ràng với những cảm xúc chính xác, đã được giảm nhẹ đi. Dẫu vậy, nhiều khi hãy còn quá nhạy cảm cho một số người. Như truyện Giờ Chết (The Time of Death). Đến ba thế hệ của một gia đình hãy còn hằn học với Munro chỉ vì chuyện một ông chú của họ qua đời, bỏng nước sôi khi mới được 18 tháng, giống như đứa bé Benny trong truyện. Như đã nói ở trên, Munro rất thận trọng làm nghiên cứu. Trong thư khố của tuần báo địa phương, có đến hai trường hợp đứa bé bị chết bỏng nước sôi; câu chuyện xẩy ra năm 1877 đăng trên tờ Huron Expositor giống truyện của Munro một cách kỳ lạ. Tuy vậy, theo một sử gia địa phương, “Khi tôi đọc Alice Munro, tôi không thể đọc bà ta như những người khác, tôi nhìn thấy rất nhiều Wingham ở trong đó, mặc dù tôi biết đó là truyện hư cấu.”
Gần đây Alice Munro nói có ý định viết tiểu luận và đã viết một vài bài, tôi có đọc một bài bà viết nhưng bây giờ không nhớ ở đâu; còn lại tất cả các tác phẩm của bà đều là truyện ngắn, vậy thì câu trả lời dễ, gọn và an toàn nhất là Alice Munro được giải Nobel là vì bà là một “bậc thầy của truyện ngắn hiện đại”. Tôi cũng có thể nói một cách rất lương thiện là đó cũng là quan điểm của tôi.
Munro viết về đời sống thôn dã vùng hạt Huron cùng những người sống trong vùng: chính mình, kinh nghiệm của mình khi lớn lên, rồi gia đình và những người chung quanh. Thật sự, toàn là những người bình thường, không có gì đặc sắc, sinh hoạt đời thường lặp đi lặp lại, tẻ nhạt. Nhưng viết về con người bình thường trong hoàn cảnh bình thường, sống đời sống bình thường không bao giờ dễ; chỉ dưới ngòi bút thần diệu của một nhà văn bực thầy ta mới có thể thấy được những con người, hoàn cảnh hay đời sống đó không những có thể tin được mà còn sống động một cách thần kỳ.
Đọc đi đọc lại vài truyện nhiều lần, tôi nhận thấy truyện của Munro mở ra từ từ dễ dàng nhưng cấu trúc hết sức tinh tế và chính xác, một cử chỉ nhỏ bất ngờ của nhân vật thường làm thay đổi sắc thái của cả câu chuyện. Munro kể lúc ban đầu viết truyện ngắn chỉ là tạm thời, sửa soạn cho truyện dài về sau. Rồi bà viết truyện dài, nhưng không bao giờ vừa ý nên lại cắt ra thành những truyện ngắn. Nhưng những truyện ngắn chừng mươi, mười lăm trang này chi tiết cô đọng như những truyện dài 200 trang. Theo biên tập viên của bà ở The New Yorker, “Truyện ngắn của Munro dường như rất đầy đủ, có tất cả các tính chất của một cuốn tiểu thuyết.” Và thêm, “Bạn cắt một câu tưởng như thừa ở đầu truyện để rồi về sau nhận ra câu đó là cần thiết.”
Người đi sau phải học người đi trước, nếu không ta sẽ tiếp tục phát minh lại cái bánh xe và văn minh của nhân loại sẽ đứng yên một chỗ; Munro tất nhiên phải học những nhà văn đi trước nhưng văn phong của Munro có nét vẻ riêng của Munro. Có người nói Munro là “Chekhov của chúng tôi.” Nhưng tại sao phải như vậy? Tại sao Munro không thể chỉ đơn thuần là Munro?
“Boys and Girls” và thân phận
Một truyện của Munro mà tôi đặc biệt ưa thích là Trai và Gái (Boys and Girls). Văn viết uyển chuyển. Tâm lý sâu sắc. Diễn biến tế nhị.
“My father was a fox farmer.” Munro vào truyện, rõ ràng, chính xác, không những không che dấu nguồn gốc khiêm nhượng, miệt vườn của mình mà còn như có vẻ ngạo mạn, thách đố.
Alice Munro thường dùng cái thế giới mà bà biết rõ nhất, miền tây-nam Ontario, làm nền trong các tác phẩm. Trai và Gái là truyện xẩy ra ở vùng này trong đó Munro kể lại những năm thơ ấu của mình vào thời kỳ kinh tế suy thoái.
Một gia đình sống trong một trang trại nuôi cáo, gồm cha làm nghề nuôi cáo, mẹ nội trợ và hai chị em, cô chị 11 tuổi là người kể truyện. Truyện tả sự trưởng thành của hai chị em, nhất là cô chị, với tất cả những bối rối gai góc của nó. Hai chị em thường phụ giúp cha, thằng bé em lóng ngóng làm việc lặt vặt nơi chuồng cáo, còn cô là người quán xuyến hết mọi việc. Cô cảm thấy vai trò của mình trong trang trại được đảm bảo; cha cô có lần nói chuyện với khách, chỉ cô giới thiệu, “Tay đàn ông phụ việc tôi mới thuê,” khiến cô đỏ mặt vì vui sướng.
Như một bản nhạc gồm hai giọng chạy theo nhau, quyện lấy nhau. Hai cuộc đời triển khai theo nhịp sống của trang trại; phụ giúp cha trông nom, cho cáo ăn uống rồi giết cáo để lấy da. Cuộc đời tưởng như không có gì thay đổi, nhưng mùa đông này cô nhận ra rằng mẹ cô không muốn cô cả ngày lúi húi dưới chuồng cáo mà muốn cô giúp bà với việc trong nhà.
Một trong những nét nổi bật nhất của câu chuyện là sự tương phản gợi ra bởi ý tưởng “cậu bé” và “cô gái”, luôn luôn phản ảnh trong mọi khía cạnh của thế giới người kể truyện. Truyện tiếp tục kể chi tiết về thời gian trong cuộc sống của cô khi cô qua khỏi thời thơ ấu, bỏ lại đằng sau sự tự do, nhận ra rằng mình là một “cô gái” và cuối cùng, một phụ nữ. Đứa trẻ bắt đầu hiểu rõ phân loại xã hội đòi hỏi những tác động nghiêm trọng. Do đó trở thành một “cô gái” trên đường đến phái nữ là một thời gian đầy khó khăn cho nhân vật chính bởi vì cô quan niệm phụ nữ thuộc giai cấp thấp hơn (“đỏ mặt vì vui sướng” chỉ vì được bố gọi là tay đàn ông). Ban đầu, cô cố gắng chống lại nỗ lực của cha mẹ cố đào tạo cho cô những sở thích, thói quen, hành vi và công việc của một phụ nữ. Tuy nhiên, kháng cự này vô ích. Cô gái kết thúc câu chuyện rõ ràng là xã hội đã dành riêng một chỗ đứng cho cô, một cô gái; một cái gì đó làm cô lo sợ, ngại ngùng.
Mặc dù Munro không là người quan tâm đến nữ quyền một cách rõ ràng và thuyết phục, câu chuyện có thể được xem như một dụ ngôn, chứng minh hùng hồn công việc người phụ nữ cần làm để thay đổi vị trí xã hội của họ.
Cuộc đời trôi đi, cho đến một hôm cô biết cha cô có ý định giết một con ngựa để nuôi cáo; không suy tính trước, cô thả con ngựa. Và đây cũng là lần đầu tiên trong đời cô không vâng lời cha, không những không đóng cửa trang trại mà còn mở rộng cho ngựa chạy ra. Thằng bé em đi theo bố suốt buổi để đuổi bắt rồi giết ngựa, trở về, quần áo dính máu, nó đã nghiễm nhiên chiếm chỗ của cô; không những thế nó còn mách lẻo với bố là cô đã giúp cho ngựa chạy.
Cô không ngạc nhiên về việc bố bắt lại được con ngựa nhưng ngạc nhiên thấy ông không tức giận và không trừng phạt cô; như cam chịu, đôi chút cởi mở, ông nói, “Nó chỉ là một cô gái.” Ngạc nhiên hơn nữa là phản ứng của cô gái trước câu nói của bố: “Tôi không phản đối điều đó, ngay tự trong thâm tâm tôi. Có lẽ đó là sự thật.” Bữa cơm gia đình tối hôm đó là một bức tranh đẹp tuyệt vời.
“I didn’t protest that, even in my heart. Maybe it was true.” Chấm hết, một ngày không tốt mấy cho nữ quyền.
Source : RFI
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)