18/1/14

Việt Nam : Lễ tưởng niệm tử sĩ Hoàng Sa bị hủy vào giờ chót

Việt Nam : Lễ tưởng niệm tử sĩ Hoàng Sa bị hủy vào giờ chót

Lễ thắp nến ở Hà Nội để tri ân những người đã nằm xuống để bảo vệ Hoàng Sa (nguồn : danlambao)
Lễ thắp nến ở Hà Nội để tri ân những người đã nằm xuống để bảo vệ Hoàng Sa (nguồn : danlambao)

RFI   .    Thụy My
Lễ thắp nến tri ân các 74 chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã anh dũng chiến đấu với quân Trung Quốc xâm lược và hy sinh vì Tổ quốc trong trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974, lần đầu tiên sau 40 năm được tổ chức vào hôm nay 18/01/2014 tại Đà Nẵng, đã bị hủy vào phút chót với lý do « chuẩn bị chưa được chu đáo ».

Theo dự kiến, buổi lễ thắp nến tri ân « Hướng về Hoàng Sa » và chương trình ca nhạc « Hướng về biển đảo quê hương" diễn ra tối nay tại Công viên Biển Đông, thành phố Đà Nẵng. Tuy nhiên sự kiện lớn chưa từng có từ 40 năm qua đã bị hủy bỏ vào giờ chót.
Một số người được RFI Việt ngữ liên lạc nói rằng cho đến 20 giờ tối hôm qua, giờ Việt Nam, họ vẫn chưa được biết tin này. Trang web của huyện đảo Hoàng Sa hôm nay đăng thư cáo lỗi của Chủ tịch huyện Đặng Văn Ngữ, cho biết do « công tác chuẩn bị chưa được chu đáo », hai chương trình trên « không thể diễn ra theo kế hoạch ». Tuy nhiên ngay từ tối qua trên mạng xã hội, có những người được mời tham dự đã cho biết Đà Nẵng phải hủy do lệnh trên. Có thông tin là báo chí trong nước được Ban tuyên huấn trung ương chỉ thị ngưng đưa tin về Hoàng Sa.
Nhà báo Lê Đức Dục đã viết một bài thơ được lan truyền trên Facebook, xin trích :
« Xin tưởng niệm một chương trình tưởng niệm
Những ngọn nến sẽ tắt, không phải vì gió biển
Luồng hơi lạnh từ phương Bắc tràn đến

…Những ngọn nến dù sẽ tắt trên bãi biển
Nhưng làm sao thổi tắt
Ánh nến trong tim

“Ngày mai về lại Hoàng Sa”
Dù những ngọn nến đã bị thổi tắt không thương xót!
Anh và tôi và chúng ta vẫn cứ thắp lên
Một ngọn đèn vĩnh cửu trong tim
Nhắc Hoàng Sa xương thịt Tổ quốc mình
Còn đau trong tay giặc! »

Trả lời RFI Việt ngữ lúc tham dự buổi lễ tại Câu lạc bộ Phaolô Nguyễn Văn Bình ở Thành phố Hồ Chí Minh, cầu nguyện cho những người con của cả hai miền đã ngã xuống để bảo vệ biển đảo của Tổ quốc, nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc cho biết cảm tưởng :

Chuyên gia Đinh Kim Phúc - TP Hồ Chí Minh
 
18/01/2014
by Thụy My
 
 
Chuyên gia Đinh Kim Phúc Một điều đáng buồn mà tôi vừa được biết, là lễ thắp nến tri ân tất cả các đồng bào và chiến sĩ đã hy sinh để bảo vệ biển đảo của Tổ quốc đã bị hủy bỏ ở Đà Nẵng. Đây là một điều rất đáng tiếc, và là niềm đau buồn. Khẩu hiệu « Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam » mà từ lâu tất cả những công dân Việt đều phải nhắc tới đã bị xúc phạm. Và tôi cũng không biết vì lý do gì mà buổi lễ tri ân ở Đà Nẵng lại bị hủy bỏ.
Riêng Câu lạc bộ Phaolô Nguyễn Văn Bình từ lúc 16 giờ chiều nay đã làm một thánh lễ để tri ân tất cả đồng bào chiến sĩ của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa, cũng như của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã hy sinh vì sự nghiệp biển đảo của chúng ta. Một buổi thánh lễ, một buổi tưởng niệm mặc dù không to tát, dù không tập trung đông người, nhưng nói lên tình cảm của mỗi người công dân Việt Nam hiện nay - trước hiện tình đất nước, trước một phần mảnh đất của Tổ quốc đã bị bọn Trung Quốc xâm lược. Và cho đến hôm nay, âm mưu xâm lược của bọn chúng cũng không hề được từ bỏ.
RFI : Đã bốn mươi năm qua rồi, nếu không liên tục lên tiếng thì coi như từ bỏ chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa phải không ạ ?
Không, chưa bao giờ chính phủ Việt Nam cũng như nhân dân Việt Nam tuyên bố từ bỏ chủ quyền của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đã từ lâu, bằng cách này hoặc cách khác, chính quyền và nhân dân Việt Nam vẫn cương quyết nêu cao khẩu hiệu « Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam ».
Ngày hôm nay không lấy được thì hôm sau. Thế hệ này không lấy được thì thế hệ mai sau, vì đó là một phần máu thịt của Tổ quốc. Không bao giờ được từ bỏ, để cho những phần đất thiêng liêng bị rơi vào tay bọn xâm lược phương Bắc !
RFI : Đặc biệt hình như lần đầu tiên báo chí Việt Nam nhắc đến các binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa trong trận Hoàng Sa ?
Theo tôi thì lịch sử rất công bằng. Từ xưa tới giờ tôi đâu có nghe ai nói là phong Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung… là anh hùng dân tộc đâu. Tất cả những ai đã chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, đã hy sinh cho mảnh đất hình chữ S này, thì lịch sử và nhân dân muôn đời phải ghi công. Và những công trạng đó không có thế hệ nào được quên đi.
Không cần những buổi lễ hoàng tráng, cũng không cần những khẩu hiệu. Chỉ cần tấm lòng của mỗi người dân hướng về các chiến sĩ đã hy sinh bảo vệ Tổ quốc, thì đó là điều rất đáng trân trọng.
RFI : Chính dịp kỷ niệm 40 năm này là cơ hội để tiến hành nhiều hoạt động, không chỉ nhằm tái khẳng định chủ quyền mà còn có thể giáo dục tinh thần yêu nước nơi lớp trẻ sinh ra sau khi Hoàng Sa đã mất vào tay quân xâm lược ?
Chúng tôi thấy rằng, thứ nhất về mặt phổ biến những tài liệu khoa học để chứng minh chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như tố cáo kế hoạch xâm lược về phương Nam của Trung Quốc, đã từ lâu trên báo chí Việt Nam, trong các hội thảo quốc tế cũng như quốc nội đã trình bày rất rõ.
Và trong thời gian gần đây, trong dịp tưởng niệm 40 năm ngày Trung Quốc dùng vũ lực cưỡng chiếm Hoàng Sa của Việt Nam, báo chí Việt Nam đã có nhiều bài trên tất cả các lãnh vực. Về cuộc hải chiến Hoàng Sa rồi về âm mưu của Trung Quốc, về sự quyết tâm bảo vệ quê hương đất nước của đồng bào chiến sĩ cả nước.
Điều đó đã tạo ra dư luận rất tốt, để cho mọi người biết rõ tình hình đất nước hiện nay, cũng như giáo dục cho thế hệ trẻ biết được những âm mưu thủ đoạn của bá quyền Trung Quốc. Để mà giữ vững, nuôi dưỡng ý chí giành lại những phần đất thiêng liêng của đất nước đã rơi vào tay bọn xâm lược Trung Quốc.
RFI : Và một điểm mới nữa là có đề nghị đưa trận hải chiến Hoàng Sa vào sách giáo khoa ?
Theo tôi thì sách giáo khoa chỉ là một loại tư liệu phản ánh một thời kỳ lịch sử. Có lẽ là trước đây do những điều kiện quốc tế cũng như trong nước chưa đầy đủ để mà thể hiện bối cảnh lịch sử, những biến cố lịch sử để đưa vào giáo dục thế hệ trẻ. Thì tôi nghĩ ngày hôm nay, với đề nghị của Hội Sử học Việt Nam, cũng như nguyện vọng của đại đa số quần chúng nhân dân, sự kiện Hoàng Sa cũng như việc tháng 3/1988 Trung Quốc cưỡng chiếm một số đảo trên quần đảo Trường Sa của Việt Nam, sẽ được chính thức ghi vào sách giáo khoa, để giáo dục cho lớp trẻ.
RFI : Một điều đáng ngạc nhiên nữa cho đến hôm nay là đài truyền hình Đồng Nai chiếu lại cuốn phim Hải chiến Hoàng Sa, và sáng kiến của Quỹ Nghiên cứu Biển Đông cùng nhóm Biển Đông tại Pháp viết thư gởi Liên Hiệp Quốc cũng được một số tờ báo trong nước hỗ trợ ?
Tôi nghĩ chúng ta đừng nên phân biệt người trong nước hay ngoài nước, tư liệu của phía này hay phía kia. Tất cả những tài liệu, tất cả những hành động góp phần bảo vệ quê hương đất nước đều phải được trân trọng.
RFI : RFI Việt ngữ xin rẩt cảm ơn nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc ở Thành phố Hồ Chí Minh.

Source : RFI

17/1/14

Nhớ về ngày Hoàng Sa 19/1

Nhớ về ngày Hoàng Sa 19/1

Cập nhật: 03:59 GMT - thứ bảy, 18 tháng 1, 2014

Người Việt ở hải ngoại biểu tình phản đối Trung Quốc chiếm Hoàng Sa năm 1974
Thắm thoát đã 40 năm rồi.

Thật sự tôi cũng không hiểu tại sao tôi lại xúc động đến như thế, bởi một người nghiên cứu lịch sử như tôi đã được rèn luyện tinh thần khách quan khoa học về những biến cố lịch sử mới có thể tiếp cận được sự thật lịch sử.
Tôi còn nhớ như in đúng ngày mùng Ba Tết, tôi đang chúc Tết ở nhà Giáo sư Nguyễn Đăng Thục, tác giả tác phẩm Tư Tưởng Việt Nam, nguyên Khoa trưởng Trường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, thì nghe Đài phát Thanh Sài Gòn đưa tin Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa, thú thật tôi thật sự xúc động.
Khi triệu tập một số người trong Ban biên tập thông qua ý kiến chuẩn bị một số Tập San Sử Địa đặc khảo về Hoàng Sa & Trường Sa thì cũng đã có người nêu ý kiến rằng Tập San Sử Địa phải giữ tính khách quan khoa học, đừng đưa vấn đề thời sự chính trị vào Tập san nghiên cứu, nhất là lại dưa ra một số báo nói về vấn đề thời sự chính trị như thế. Có người viện dẫn các báo, đài đang hàng ngày nêu lên trang báo tít lớn vấn đến thời sự “hải chiến Hoàng Sa”.
Tôi cũng liên tưởng ngay đến có lần một vị giáo sư dạy tôi về phương pháp sử học, tuy có khen nội dung các số tạp san đã xuất bản song đã phê bình lời lẽ thiếu khách quan trong Lá thư Tòa soạn mà chính tôi đã viết, mang tinh thân dân tộc, tinh thần yêu nước .
Tôi nghĩ vị giáo sư khả kính ấy rất có lý, nhất là trong không khí học thuật ở Miền Nam lúc bấy giờ, tính thần “ phi chính trị” rất cao, song tôi không trả lời vị giáo sư ấy mà chỉ ậm ừ cho phải phép. Thật sự lúc bấy giờ tôi đã không”lý luận lý trí” mà chỉ “lý luận con tim”. Con tim có lý của nó, vậy thôi !
Trong buổi họp Ban Biên tập, tôi chỉ lắng nghe và tôi tuyên bố tôi sẽ suy nghĩ để quyết định như các số chủ đề khác, Lúc bấy giờ tôi cũng biết một số người thân thiết với “ Mặt Trận” trong đó có nhà biên khảo Đông Tùng, tên thật là Nguyễn Tư Hồng gốc Nghệ An, đã bị bắt đầy ra Côn Đảo; năm 1963 khi Chính quyền TT Ngô Đình Diệm bị đổ, ông mới được thả. Chính ông đã nhiều lần thuyết phục tôi rằng hiện Tập San Sử Địa rất có uy tín về học thuật, các cơ quan nhà nước từ Phủ quốc Vụ Khanh đặc trách Văn Hóa, Bộ Ngoãi Giao, Bộ Thông Tin… đang nhập cuộc nghiên cứu về vấn đề Hoàng Sa, nếu Tập san ra số chủ đề không ra gì , sẽ mất uy tín.
Tôi cũng chỉ ậm ừ, không trả lời, song trong bụng tôi lại thấy tự ái dâng trào, tôi lại quyết làm để xem ai hơn ai. Và con tim tôi đã thắng lý trí, tôi đã âm thầm gửi thư riêng đến các học giả ở trong và ngoài nước. Thật không ngờ chỉ trong ba thàng, nội dung có thể tạm hoàn thành một số đặc khảo về Hoàng Sa& Trường Sa.
Song, lý trí của tôi lại buộc tôi suy nghĩ, tôi quyết định không ra ngay số đặc khảo để bị mang tiếng là tham gia vào thời sự chính trị, mà sẽ ấn hành vào dịp kỷ niệm một năm mất Hoàng Sa. Thế là được mọi người tán đồng , nhất là có thêm thời giờ để làm cẩn thận hơn, nhất là về tôi có 4 bài viết trong đó có bài tham gia với tên Hoàng Việt Sơn trong bài Thư mục chú giải của Nhóm các anh Nguyễn Văn Hường, Lâm Vĩnh Thế, Nguyễn Nhật Tấn, Trần thế Đức ( về chuyên môn phải để là thư tịch mới đúng).

Nhiều lần'rơi lệ'

"Bất cứ ai vô cảm với Hoàng Sa, Trường Sa đều có tội với Tổ tông và Dân tộc"
Ngày 20 tháng 1 năm 1975, kỷ niệm 1 năm thất thủ chứ không phải kỷ niệm Chiến thắng ngày 19/1, khi Trung Quốc dùng võ lực chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, với tính cách Trưởng Ban tổ chức, tôi phát biểu giới thiệu GS Trần Xuân Quế, đại diện 5 vị Quốc lão chủ tọa ( trong đó có Nhà thơ yêu nước Á Nam Trần Tuấn Khải) phát biểu khai mạc Triển lãm Sử liệu minh chứng chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và ấn hành Tập Sa Sử Địa số 29, đặc khào về Hoàng Sa& Trường Sa tại Thư Viện Quốc Gia, tôi quá xúc động khiến mọi người ôm nhau khóc ròng như Nhật Báo Sóng Thần hồi ấy đã đưa tin.
Cũng từ đó, không biết bao lần, tôi cứ nghẹn ngào rơi lệ khi có ai nhắc đến ngày 19/1.
Ngay ngày 16/8/ 2012 khi tôi tham gia hội thảo tại Đại Học Harvard về Biển Đông do Hội Sinh viên Việt Nam tại Vùng Boston mở rộng tổ chức, khi nghe một vị nữ tiến sĩ Việt Nam hỏi các diễn giả về sự kiện Hoàng Sa ngày 19/1, tôi đã xúc động mà trả lời rằng câu hỏi của bạn đã làm nhói trái tim tôi và sau tôi được đọc một bài viết của một bạn trẻ với bài “ Một Tiến sĩ sử học đã rơi lệ trên đất nước Mỹ”. Bạn trẻ sinh viên du học ấy cũng nói rất cảm cảm động và tự thấy xấu hổ chưa làm được gì cho Đất nước.
Ngày 21/12/ 2014 vừa qua khi tôi nói chuyện về Chủ quyền Việt Nam tại Hoàng Sa & Trường Sa qua Hồ sơ tư liệu bằng tiếng Anh hơn 500 trang đã được hoàn chỉnh mà chưa có phương tiện phổ biến trên thế giới tại Đại học Melbourne ( Úc ), ngay khi tôi mở đầu buổi nói chuyện rằng vừa rồi xem Đoạn Video clips về Hải chiến Hoàng Sa do Đài Đồng Nai ở trong nước vừa mới phát, tôi lại liên tưởng đến câu chuyện kể trong một bàn ăn sau buổi nói chuyện về Hoàng Sa của Hội Kinh Tế Biển TP.HCM tổ chức, một sĩ quan hải quân có thuật lại rằng sau ngày Trung Quốc chiếm Hoàng Sa, có tổ chức một buổi liên hoan chào mừng “ Chiến Thắng Tây Sa”, đã mời Đoàn hải quân VNDCCH lúc đó đang có mặt ở Hải Nam.
Đoàn có đánh điện về cấp trên rằng sẽ không tham dự. Cấp trên hỏi sao lại không tham dự thì Đoàn trả lời “không muốn vỗ tay”. Nhắc đến người Việt Nam bất cứ chính kiến nào cũng như thế, tôi lại nghẹn ngào rơi lệ. Cuối buổi nói chuyện một nữ du học sinh ờ Úc cũng lên phát biểu nhận xét về không khí vừa sôi nổi vừa quá khích gay gắt của một số cử tọa và đã ôm lấy tôi mà khóc.
Và không hiểu tại sao ngay giờ này đây, viết đến đây nước mắt tôi cũng đang dàn dụa nghẹn ngào!
Rôi nghĩ nước mắt nghẹn ngào cho sự kiện ngày 19/1, ngày Hoàng Sa biết đâu sẽ làm cho người Việt Nam ở trong và ngoài nước , nhất là các bạn trẻ sẽ bừng tỉnh rằng suốt thế kỷ XX Việt Nam là nạn nhân của Thời cuộc quốc tế!

'Con tim của công dân Việt Nam'

Tàu chiến của Hải quân Việt Nam Cộng hòa về đến Đà Nẵng
Có lẽ lý lẽ con tim của một người công dân Việt Nam như tôi đã được tôi trình bày vào Ngày 18 tháng 1 năm 2003, khi tôi bảo vệ Luận án tiến sĩ:” Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa & Trường Sa, tôi đã phổ biến một bản văn bản:”Thử đặt Vấn đề Hoàng Sa dưới góc độ học thuật”, tôi kêu gọi các nhà nghiên cứu trên thế giới nhất là những nhà nghiên cứu, giới học thuật ở Trung Quốc cùng chia xẻ với tôi nguyện vọng đi tìm sự thật lịch sử.
Tôi cũng kêu gọi giới trẻ Việt Nam học suốt đời, góp phần phát triển giáo dục đại học Việt Nam ngày càng chất lượng cao hầu xây dựng cho đất nước một nền kính tế tri thức phát triển trong thế kỷ XXI.Tôi cũng kêu gọi mọi người Việt Nam yêu nước ở trong và ngoài nước không phân biệt chính kiến, sắc tộc, tôn giáo, địa phương hãy quên và bỏ qua những hận thù trong quá khứ, hãy hướng về tương lai.
Kế thừa truyền thống lấy chữ Tâm làm đầu mà năm 1992 khi làm phim Thăng Long Hà Nội Xưa, tôi cùng GS Trần Quốc Vượng đã khấn trước Đền thờ An Dương Vương ở Cổ Loa rằng “xin Đức Vua phù hộ cho sự hòa giải, hòa hợp dân tộc thực sự”. Tôi cũng nhắc qua một món nợ khác mà tôi phải trả là đem âm nhạc dân tộc, đem hát thơ vào trường học để gíao dục cho các thế hệ trẻ vừa để giữ hồn dân tộc, tạo lòng tự hào dân tộc, bỏ đi những xấu xí của người Việt Nam để mở ra một kỷ nguyên mới cho Việt Nam hùng cường.
Nhân ngày kỷ niệm 40 năm Trận hải chiến Hoàng Sa 19/1, ngày Hoàng Sa của người Việt Nam bất cứ ở đâu, tôi xin thắp nén hương dâng lên các liệt sĩ đã bỏ mình trong trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19/1/1974 và cũng xin nhắc lại lời nói không bao giờ quên trong nói chuyện cùng với nhà cựu ngoại giao Dương Danh Dy tại trường Đại Học Ngoại Thương tại Hà Nội năm 2011, khi tôi nói bất cứ ai làm cho Đất nước suy hèn đều có tội với Tổ tông và Dân tộc thì một nữ sinh viên đã phát biểu rằng “vậy thì bất cứ ai vô cảm với Hoàng Sa, Trường Sa đều có tội với Tổ tông và Dân tộc”.
Source : BBC

Nhật-Hoa Trong Năm Giáp Ngọ


Friday, January 17, 2014

Nhật-Hoa Trong Năm Giáp Ngọ

Võ Thành Văn - Việt Báo Xuân Giáp Ngọ 2014 


Trung Quốc mộng lại gặp khắc tinh Giáp Ngọ!   


* Ê chề: Trận chiến Nhật-Hoa năm Giáp Ngọ 1894 *

  
Từ quốc hiệu, Trung Quốc vẫn tự xưng là trung tâm thế giới với giấc mơ làm bá chủ thiên hạ. Chủ tịch mới lên của Trung Quốc là Tập Cận Bình đang hâm nóng giấc mơ đó, gọi là "Trung Quốc mộng". 

Người tỉnh táo thường biết mộng hay đi với mị, mà "mị" cũng có nghĩa là phỉnh phờ, phỉnh gạt người dân được gọi là "mị dân". Nhưng, mị còn có nghĩa là... ma quỷ. Chả vậy mà sức mê hoặc của ma quỷ mới được gọi là "mị lực'"! Những gì đang xảy ra cho thấy lãnh đạo Trung Quốc cố dùng mị lực để trước thì lấy lòng người dân, sau thì phỉnh gạt thiên hạ và gồm thâu Đông Á về một mối.

Khốn nỗi, vừa ra tới ngõ Điếu Ngư đã thấy tấm bảng Tiêm Các của Nhật, gọi là Senkaku...

Nhật Bản thì khác.

Nằm ngoài rìa của cõi thiên hạ, ở vùng cực Đông của biển Đông, Nhật chỉ có thể kiêu hãnh là thấy mặt trời mọc trước thiên hạ. Họ tự xưng là con cháu Thái Dương Thần Nữ. Nhìn lá quốc kỳ có một vầng dương đỏ ối thì ai cũng hiểu chuyện ấy.

Nhưng người Trung Quốc giàu trí nhớ lại khó quên cái thời mà vầng ô lại toả ra 16 tia sáng. Đó quốc kỳ Nhật Bản thời Đế quốc. Lá cờ ghê rợn trong tâm tư của nhiều người hiện vẫn hiên ngang phất phới. Đó là quân kỳ của nước Nhật kể từ năm 1954. Hải quân Nhật vẫn giữ đủ 16 tia, một lá cờ "toàn phương vị". Lục quân thì chỉ cần bát phương tám hướng mà thôi!

Nhưng vì sao đầu Xuân lại nói chuyện cờ quạt lùng tùng xoè như vậy?

Chỉ vì năm nay là năm Giáp Ngọ!

Đúng 120 năm trước, cũng vào một năm Giáp Ngọ, Nhật cho các đấng con trời phủ phục xuống đất trong trận chiến Nhật-Hoa năm 1894. Ngẫu nhiên sao, Thủ tướng Nhật ngày nay là một tay Giáp Ngọ, sinh vào năm 1954 khi lá quốc kỳ tỏa sáng từ thời Minh Trị đến 1945 lại được hồi phục - trở thành quân kỳ của Nhật Bản cũng kể từ năm 1954.

Lịch sử tái diễn chăng? Nghi quá....


***


Chiến hạm Nhật thời nay với lá cờ thời xưa


Khác với người Hoa hay người Mỹ, từ trong tiềm thức, dân Nhật vẫn tin vào cái phận bi hùng của mình.

Bi thảm vì họ sống trên một quần đảo hẻo lánh ngoài cõi hoang của Châu Á, lãnh thổ có bốn đảo lớn, và 6.800 đảo nhỏ, bốn bề là biển cả với sóng thần lâu lâu lại đổ lên đầu. Bên trong là núi lửa và những mạch địa chất của động đất. Địa chấn và sóng thần thường phối hợp tàn phá, lần mới nhất là vụ thiên tai Tohoku ở vùng Đông Bắc vào Tháng Ba năm 2011. Trước đó có trận động đất Kobe 1996....

Trên lãnh thổ ấy, diện tích có thể canh tác chỉ được 12%, tại ba bình nguyên lớn, lại chia cắt bởi núi rừng và nhiều con sông ngắn, ít thuận lợi cho vận chuyển. Là một quần đảo, nước Nhật thật ra chỉ có một số ốc đảo khả dĩ sống được giữa núi và nước. Mà sống khá chật vật vì thiếu tài nguyên thiên nhiên. Giữa các ốc đảo và biển cả, dân Nhật phải dùng thuyền bè và tự nhiên phải giỏi về nghề nước.

Được trời cho mảnh đất hẩm hiu này, họ tin rằng phải là siêu nhân thì mới tồn tại được. Dân Tầu có thể cho rằng mình là cái rốn của vũ trụ, là trung tâm văn hóa của thế giới. Hay dân Mỹ thường nghĩ là ai ai cũng muốn thành người Mỹ. Dân Nhật lại nói ngược: phải anh hùng lắm thì mới là người Nhật được.

Vì vậy, rau cháo có nhau, họ chia sẻ tinh thần liên đới hợp quần trong một xã hội khá thuần chủng và cho rằng việc bảo vệ lãnh thổ thống nhất là ưu tiên sinh tử. Đấy là chuyện bên trong.


***


Nhìn ra ngoài, nước Nhật nằm khá xa ngoài biển lạnh. 


Nơi gần với Á Châu nhất là 190 cây số ở phía Nam của lãnh thổ, giữa đảo Kyushu và mỏm cực Nam của bán đảo Triều Tiên. Trung Quốc thì ở xa hơn, cách đó 800 cây số ngoài biển, với nhiều đảo nhỏ như mấy tảng đá trên mặt nước, có thể bước qua. Một trong các hòn đảo ấy là Đài Loan. Tạiùng cực Bắc của Nhật, đảo Hokkaido thì gần với đảo Sakhalin của Nga, cách nhau là biển Okhotsk. Mà lãnh thổ Nga trên cõi hoang vu không người của Tây Ba Lợi Á cũng chẳng thể là bàn đạp cho dân Nga La Tư đi vào Nhật được.

Từ chuyện cờ quạt sang địa dư và tâm lý, dân Nhật chú ý đến, theo thứ tự ưu tiên, bán đảo Triều Tiên, Đài Loan, chuỗi quần đảo Kurils ở cực Bắc bị Liên Xô chiếm đóng khi Nhật vừa bị bom nguyên tử của Mỹ vào năm 1945, mà ngày nay Liên bang Nga chưa chịu trả. Muốn bảo vệ lãnh thổ thì phải kiểm soát được các hành lang này ở ngoài biển. Là phải làm chủ được vùng biển, ở phía Tây Thái Bình Dương.

Trong lịch sử, Nhật Bản đã hai lần bị tấn công, vào các năm 1274 và 1281 thời Nguyên Mông, từ bán đảo Triều Tiên và qua biển. Nhưng Trung Quốc đại bại và chỉ để lại ý nghĩa quyết tử trong chữ Thần Phong, kamikaze! (Nước Đại Việt thì chẳng có thần phong bảo vệ nhưng đã ba lần dập tắt ảo vọng bách chiến bách thắng của quân Mông Cổ, đấy là chuyện đáng nhớ khác).

Sống trên hải đảo, người Nhật có hai khuynh hướng trái ngược, nhưng đổi ý mà ít khi báo trước: báu gươm rút ra hay tra vào thì cũng đột ngột như tiếng sét. Hay một trận động đất!

Khuynh hướng thứ nhất là đóng cửa với bên ngoài để bảo vệ bản sắc bên trong, như từ thế kỷ thứ chín đến thể kỷ 12, hoặc từ đầu thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ 19 khi bị Phó Đề đốc Matthew Perry của Hải quân Mỹ gõ cửa bằng đại bác làm rung chuyển Mạc phủ Đức Xuyên (dòng Tokugawa).

Khuynh hướng thứ hai là bung ra ngoài để học hỏi và bắt chước mọi tinh hoa thế giới, là chuyện xảy ra giữa thế kỷ thứ sáu để du nhập Phật giáo và Khổng giáo từ Trung Hoa, hay trong thế kỷ 16 để học hỏi kỹ thuật của Hoà Lan và Bồ Đào Nha. Lần mở cửa dữ dội nhất chính là sau năm năm 1853, khi bị pháo hạm Mỹ uy hiếp.

Thời ấy Trung Quốc đang bị liệt cường sâu xé, Nhật cũng bế quan toả cảng để thủ thân. Nhưng Hoa Kỳ đòi mở cửa buôn bán nên nước Nhật phải chọn: có đóng cửa như nhà Đại Thanh thì vẫn là thuộc địa, chi bằng mở ra để canh tân đất nước. Cuộc Cách mạng thời Minh Trị từ năm 1868 không chỉ là việc duy tân mà còn là chọn lựa mới, từ hướng nội sang hướng ngoại.

Con cháu Thái Dương Thần nữ bèn bước ra ngoài, nhưng dụng võ hơn dụng văn. Trong cõi bi hùng hai ngả, họ lấy hùng hơn là bi.


***
Samurai Nhật và võ sĩ Đại Thanh, trong tranh hý họa của tờ Punch thời Giáp Ngọ 1894


Chuyện Giáp Ngọ là khi người Nhật rút gươm khỏi vỏ thì thế giới rùng mình.

Từ thời Minh Trị, Nhật Bản cho sứ giả và sinh viên đi học khắp nơi. Hàng hải của Anh, khoa học của Đức, hay kinh doanh và chính trị của Mỹ, v.v... họ đều học và hành rất nhanh. Nhưng họ canh tân không với ý chí là để khỏi bị thống trị mà để tranh đua với Tây phương. Những gì các nước Tây phương làm được, tại Ấn Độ hay Trung Quốc, Đông Dương, Nam Dương, thì Nhật cũng sẽ làm. Trước hết là ở các khu vực ngoại vi của lãnh thổ.

Vì vậy, Đài Loan được chiếu cố vào năm 1874 để mở rộng vùng trái độn cho quần đảo Ruykyu, (chư đảo Lưu Cầu), bên trong có cả mấy hòn đảo Senkaku bé xíu ngày nay. Sau đó, đến lượt Triều Tiên được chiếu cố: triều đình Cao Ly phải mở cửa làm ăn với Nhật! Trong gần hai chục năm, mâu thuẫn cứ tích lũy dần trên bán đảo, cho đến khi Cao Ly có loạn giữa hai ngả úp mở và hai phe thân Tầu và thân Nhật, thì Nhật Bản rút gươm.

Vì Cao Ly được Mãn Thanh coi là chư hầu và gửi quân vào dẹp loạn, nên trận chiến Nhật-Hoa chính thức bùng nổ, vào ngày một Tháng Tám năm 1894, là mùng một Tháng Bảy Giáp Ngọ! 


Trận Xích Bích mới: Trung Quốc tự đánh chìm nhiều chiến hạm của mình để chặn đường tiến của Hải quân Nhật vào sông Trường Giang (Dương Tử)


Hải quân Trung Quốc vào thời Đại Thanh không thể là đối thủ của Nhật, Lục quân cũng vậy. Quân Nhật thừa thắng, từ Triều Tiên vượt sông Áp Lục đánh tới Mãn Châu, đất thang mộc của nhà Mãn Thanh. Ở ngoài biển thì chiếm luôn quần đảo Bành Hồ nằm giữa Đài Loan và Trung Quốc và vượt sóng Trường Giang tiến sâu vào Hoa lục.   

Ngày 17 Tháng Tư năm 1895, Trung Quốc đầu hàng qua "Hòa ước" Shimonoseki, xin công nhận nền độc lập của Cao Ly, nhượng cho Nhật nào Bán đảo Liêu Đông, nào Đài Loan và các đảo Bành Hồ, lẫn quyền buôn bán trên sông Dương Tử và tại nhiều thương cảng, kèm theo tiền... bồi thường chiến tranh. Sau này, tính tổng cộng thì trị giá 36 triệu lượng bạc, tương đương với 13 ngàn 600 tấn.

Dù Thanh triều phải ký hòa ước xin hàng, nhiều quan chức vẫn còn tử thủ tại Đài Loan và tuyên bố thành lập Đài Loan Dân Chủ Quốc (Republic of Formose). Chiến sự chỉ kết thúc váo Tháng Mười khi Đô đốc Monotori Kabayama đưa quân vào dẹp. "Tổng thống" Đài Loan phải giả làm cu li trốn vào một tầu buôn của Anh để bỏ chạy vào lục địa.

Chi tiết lý thú – mà đau lòng – là ông Tổng thống này chính là Lưu Vĩnh Phúc. Đấy là viên thủ lãnh Giặc cờ đen năm xưa đã được triều Tự Đức mời vào chống Pháp và đạt thành tích giết chết hai tư lệnh viễn chinh của Tây tại Ô Cầu Giấy của Hà Nội, là Đại úy Hải quân Francis Garnier năm 1873 và Đại tá Hải quân Henri Rivière vào năm 1883. Chi tiết ấy khiến ta nghĩ đến chuyện duy tân hụt, và nỗi buồn của những người xin triều đình cải cách, như Nguyễn Trường Tộ hay Nguyễn Lộ trạch....

Lưu Vĩnh Phúc, thủ lãnh giặc Cờ Đen tại Việt Nam thời 1873-83, Tổng thống thứ hai của "Đài Loan Dân Quốc" thời 1895. Bị quân Nhật rượt đuổi trong trận Chiến tranh Hoa Nhật mà thoát chết khi giả làm cu li trốn trong một thương thuyền của Anh. Thương thuyền bị Hải quân Nhật Bản chặn lại khám xét mà nhờ nằm dưới đáy tầu, họ Lưu vẫn thoát vì người Nhật không biết mặt! Về sau, Lưu chết già bên Tầu, nhưng vẫn có tượng có tên ở thành phố cổ Đài Nam của "Republic of Formosa" trước khi Đài Loan rơi vào tay Nhật Bản từ 1895 đến 1945....




***



Khốn nỗi, có một xứ ở xa đã nhân cuộc chiến Nhật-Hoa năm Ngọ mà nhảy vào ăn có. Đó là nước Nga.

Cùng Pháp và Đức, Nga gây áp lực để Nhật lấy thêm tiền bồi thường nhưng trả lại Bán đảo Liêu Đông (miền Nam tỉnh Liêu Ninh ngày nay) hầu Nhật không kiểm soát được hải cảng Lữ Thuận Khẩu (Port Arthur). Đế quốc Nga cũng muốn dây máu ăn phần tại Triều Tiên và Trung Quốc, đòi thuê Bán đảo Liêu Đông và mở mang cảng Lữ Thuận.

Họ gây hiềm khích với xứ Phù Tang mà chưa biết sợ.

Nhật Bản ghim lấy trong lòng, ký hiệp ước với Đế quốc Anh để bớt một đối thủ trên biển Thái Bình. Rồi 10 năm sau trận chiến Giáp Ngọ với nhà Mãn Thanh, nước Nhật lại rút gươm lần nữa, vào năm Giáp Thìn 1904. Lưỡi gươm sắc như nước chém Đế quốc Nga tựa ánh chớp. Chiến tranh Nhật-Nga bùng nổ.

Quân Nga đại bại, hai phần ba hạm đội viễn chinh phơi lườn tại eo Tsushima nằm giữa Nhật Bản và Triều Tiên. Sau này, giới quân sử đánh giá trận hải chiến Tsushima là quan trọng và có ảnh hưởng nhất sau trận Trafalgar tại Âu Châu trước đó 100 năm, khi Hải quân Anh đánh bại Liên quân Pháp và Tây Ban Nha dưới sự lãnh đạo của Napoléon.

Ngẫu nhiên sao, Tsushima có nghĩa là Đối Mã. Cũng lại chuyện.... ngựa!

May ra chỉ còn người Nga là nhớ, rằng trong trận chiến Nhật-Nga, duy nhất có một chiến hạm Nga thoát tay Thủy thần là nhờ trốn vào vịnh Cam Ranh của Việt Nam. Mối duyên tri ngộ của Liên Xô với Cam Ranh bắt đầu từ đó! Cũng từ đó, Nhật Bản rất thuộc địa hình địa vật của Cam Ranh, trước khi Hoa Kỳ biết tới cảng sâu này.

Chiến hạm Nga bốc cháy tại Eo biển Đối Mã


Kết cuộc cùng thì ngày năm Tháng Chín 1905, Nga ký hòa ước Portsmouth với Nhật, xin rút khỏi Mãn Châu và công nhận Triều Tiên là thuộc quỹ đạo Nhật Bản. Nhưng Portsmouth là một hải cảng.... Hoa Kỳ tại New Hampshire – vì sao lạ vậy?

Hoà ước Mortsmouth giữa Nga và Nhật qua trung gian của Tổng thống Mỹ Theodore Roosevelt


Chỉ vì Tổng thống Theodore Roosevelt của Mỹ đứng ra dàn xếp đôi bên, và lãnh Giải Nobel Hoà Bình.

Người ta kể lại rằng trong vụ này, ông Roosevelt gửi một phái đoàn gồm có con gái là Alice Roosevelt và Tổng trưởng Chiến tranh (sau là Tổng thống William Howard Taft) qua thăm Nhật Bản trong một con thuyền du lịch có cái tên cũng khá tiền định là Manchuria. Mãn Châu!

Dường như đấy là dịp Roosevelt hiện đại hóa "Chủ thuyết Monroe" của trăm năm về trước cho trăm năm về sau: y như Tây Bán cầu, Thái Bình dương cũng là vùng ảnh hưởng của Hoa Kỳ. Và Nhật Bản có vóc dáng lãnh đạo tương tự nước Mỹ, nhưng sự lớn mạnh của Nhật lại có ích cho quyền lợi Hoa Kỳ! Chẳng biết rằng giả thuyết này đúng hay sai, mà rất hiện đại...

Vẫn chưa hết, vóc dáng lãnh đạo, hay Đế quốc, của Nhật Bản được minh chứng thêm một lần nữa, trên đầu Trung Quốc. Sau chiến tranh Nhật-Hoa năm 1894 rồi Nhật-Nga năm 1904, Nhật kiểm soát bán đảo Triều Tiên kể từ 1910 và từ đó vào chiếm Mãn Châu năm 1937. Nhật-Hoa Chiến tranh bùng nổ lần thứ nhì, lần này là giữa Nhật Bản với Trung Hoa Dân Quốc, và kéo dài đến 1941.

Được sự hỗ trợ của Đức, Liên Xô và cả Hoa Kỳ, Trung Quốc vẫn không thắng nổi, cho đến khi một Tổng thống Roosevelt khác của Mỹ đề ra một chánh sách khác: phong toả dầu khí nếu Nhật không rút khỏi các vùng chiếm đóng. Tối hậu thư của Hoa Kỳ là án tử hình kinh tế vì khi đó Mỹ cung cấp đến 80% nhu cầu dầu hỏa cho Nhật.

Kết quả là vụ Trân Châu cảng Pearl Harbor. Ngày bảy Tháng 12 năm 1941, Hải quân Nhật bất thần tấn công căn cứ Thái Bình dương của Mỹ. Từ đó, Chiến tranh Hoa-Nhật đổi ra Nhật-Mỹ chiến tranh, hòa chung vào Đệ nhị Thế chiến và chỉ kết thúc khi Nhật lãnh hai trái bom nguyên tử của Mỹ vào năm 1945. Chẳng lỡ cơ hội, Nhật Bản vừa đầu hàng Hoa Kỳ thì Liên Xô chiếm luôn bốn hòn đảo cực Bắc của Nhật.

Rồi bán đảo Triều Tiên lại là thời sự khi Liên Xô và Trung Quốc, lần này dưới chế độ Cộng sản, theo nhau yểm trợ Bắc Hàn Cộng sản tấn công Nam Hàn làm Chiến tranh Cao Ly bùng nổ năm 1950. Đến 1953 thì đôi bên mới tạm ngưng bắn ở vĩ tuyến 38. Bị Hoa Kỳ và Nam Hàn chặn đường tại bán đảo Triều Tiên, Trung Quốc mới dồn lực lượng xuống yểm trợ Cộng sản Bắc Việt, với kết quả là vụ Điện Biên Phủ 1954 và Hiệp định Genève năm Giáp Ngọ!....

Chiến hạm và tầu vận tải Nhật Bản bị Hoa Kỳ đánh đắm trên sông Sàigòn vào đầu năm 1945


***


Khi nhớ lại mọi chuyện từ Giáp Ngọ 1894 đến Giáp Ngọ 1954, người ta thấy là trong nửa thế kỷ Nhật Bản lần lượt đụng độ với Triều Tiên, Trung Quốc, Nga, Hoa Kỳ và cả Pháp ở tại Việt Nam, chưa kể các nước gọi là nhược tiểu trong vùng Đông Nam Á. Trong cái chất bi hùng thì quả là có cả tính hung!

Đến khi bị Hoa Kỳ khuất phục năm 1945, Nhật mới từ võ mà đổi qua văn, cũng là một kiểu Võ Thành Văn!

Mọi nền văn hoá đều phát triển qua học hỏi và bắt chước rồi tiêu hóa những gì học được của người. Nhưng khi du nhập tư tưởng và kỹ thuật ngoại lai thì ai cũng sợ bị đồng hóa. Nhờ  địa dư cách trở, khi mở ra để học thiên hạ, dân Nhật không có nỗi sợ đó. Họ đã học thật nhanh từ Anh, Pháp, Đức, Mỹ để Nhật hóa kiến thức của các nền văn minh tiên tiến hơn và trực tiếp cạnh tranh với Tây phương.

Nhưng nhu cầu sinh tử là có đủ tài nguyên cho phát triển khiến chế độ lãnh đạo cuộc canh tân của Nhật lại ngả theo phương thức quân sự, dùng võ hơn văn.

Bước đầu là thống nhất chính quyền bên trong rồi thì kiểm soát mọi ngả tiến vào lãnh thổ, từ Triều Tiên, Đài Loan đến đảo Sakhalin hay quần đảo Kurils ở vùng cực Bắc. Kế tiếp là chiếm đóng nhằm bảo đảm nguồn cung cấp tài nguyên, hàng hóa và nhân công ở vòng ngoài, từ Tây Bá Lợi Á đến Mãn Châu, Trung Quốc và Đông Nam Á. Chủ thuyết Đại Đông Á của chế độ quân phiệt có hình thức là Á châu xây dựng thịnh vượng cho người Á mà khỏi cần đến Tây phương. Nhưng nội dung là bành trướng sự lãnh đạo của Nhật trên toàn vùng Đông Á.

Thế rồi, khi đã bị Hoa Kỳ khuất phục và giải giới vào năm 1946, Nhật Bản cũng lại xoay rất nhanh, từ trọng võ sang trọng thương. Chủ thuyết Yoshida, tên của Thủ tướng Shigeru Yoshida lên cầm quyền từ năm 1946, đề xướng việc phát triển trong hòa bình, với sự bảo vệ an ninh và yểm trợ kinh tế của Hoa Kỳ.

Khi đó, vào thời Chiến tranh lạnh giữa hai khối - và Chiến tranh nóng trên bán đảo Triều Tiên - Hoa Kỳ muốn có một nước Nhật phú cường và dân chủ tại Đông Á trước mối nguy của nước Nga và Trung Hoa theo cộng sản.

Nhờ vậy, Nhật Bản tái thiết nhanh và tăng trưởng mạnh, trong có 10 năm từ 1960 đến 1970 đã nhân sản lượng gấp đôi, y như Trung Quốc sau này, nhưng từ một cấp cao hơn. Nước Nhật thực hiện được những gì đã từng mong muốn và đòi chinh phục bằng quân sự. Thay vì đổ quân, họ đổ tiền đầu tư vào Nam Hàn, Đài Loan, Hong Kong, Đông Nam Á và cả Trung Quốc sau khi Đặng Tiểu Bình cải cách và bang giao với Hoa Kỳ. Nhật trở thành chủ đầu tư và chủ nợ số một của Đông Á và thành công đến độ cạnh tranh với Hoa Kỳ, làm người Mỹ lo sợ ngày bị vượt mặt!

Nhưng sự đời oái oăm.

Khi Liên Xô bắt đầu tan rã và Chiến tranh lạnh tàn lụi thì cũng là lúc Nhật bị khủng hoảng. Điểm lật là từ năm Canh Ngọ 1990, là lúc bong bóng đầu tư tan vỡ, mở đầu cho 10 năm khốn khó. Hoa Kỳ hết cần Nhật Bản và có đòi hỏi cao hơn về ngoại thương và hối đoái, trong khi nhu cầu về an ninh cũng được duyệt lại. Nhật Bản phải lo lấy thân, về cả an ninh lẫn kinh tế, vì đấy cũng là lúc Trung Quốc vươn lên.

Chúng ta trở lại chuyện ngày nay, cũng vào một năm Giáp Ngọ...


***

Nhật Bản mất một thập niên khủng hoảng cho đến năm 2000, tiếp theo là một thập niên suy thoái, khi dân số lại lão hóa quá nhanh. Việc cải cách cứ bị đình trệ trì hoãn mãi, cho đến năm nay mới có dấu hiệu chuyển biến.

Nhìn ra ngoài, mối lo ngàn đời của Nhật là bán đảo Triều Tiên lại trở thành hiện đại, với Bắc Hàn cứ tung hứng hỏa tiễn qua lãnh thổ Nhật Bản. Mối nguy từ Liên Xô nay đã tụ vào Bắc Hàn. Đằng sau là Trung Quốc đã tưởng mình hùng cường, đòi kiểm soát luồng giao lưu ngoài biển và còn tranh chấp về chủ quyền trên biển đảo. Rồi muốn khống chế các hành lang cung cấp đến 90% nguyên nhiên vật liệu cho kinh tế Nhật....

Nhưng nếu nhớ lại kinh nghiệm lịch sử và kiến thức khoa học của dân Nhật, sự thể có khi lại khác.


Chiến hạm Nhật Bản vào thời hiện đại; tầu dầu hay hàng không mẫu hạm đây?


Bị Hoa Kỳ giải giới từ năm 1945, Nhật không được phép có quân đội mà chỉ có lực lượng phòng thủ gọi là Self Defense Force để bảo vệ trật tự bên trong. Lá quốc kỳ oai hùng năm xưa bị thu về làm quân kỳ cho lực lượng này. Đến khi Chiến tranh lạnh chấm dứt từ năm 1991, lực lượng phòng vệ đó lặng lẽ thoát xác thành lực lượng quân sự. Và dù cho kinh tế suy thoái, Nhật Bản vẫn có ngân sách quốc phòng đứng hạng thứ ba thế giới, chỉ sau Hoa Kỳ và Trung Quốc.

Quốc phòng của Nhật không chỉ có lượng mà là phẩm, với kinh nghiệm tác chiến rất dày và trình độ kỹ thuật rất cao, kể cả về hải quân lẫn không quân và khoa học không gian hay hỏa tiễn. Bắc Hàn càng hung hăng, Nhật Bản càng có lý do cải tiến về quân sự, biến văn thành võ. Mối quan hệ lâu đời với hệ thống quân sự Hoa Kỳ là một lợi thế, sức mạnh kỹ thuật dân sự trong thời bình là một ưu thế khác cho thời chiến. Thương thuyền hay tầu dầu có thể sớm thành chiến hạm, vệ tinh không gian thì cải tiến thành trạm thám báo, siêu kỹ thuật điện tử được đưa vào không quân, với đủ loại võ khí "không người lái".

Y như kinh nghiệm lịch sử, chuyện Triều Tiên chỉ là duyên cớ, cái nhân sâu xa chính là Trung Quốc, với tham vọng hải dương của Bắc Kinh, nay muốn là đại cường hải dương. Quan trọng nhất, sự bành trướng của Trung Quốc đã chạm vào cái nọc bi hùng của dân Nhật, và khơi dậy chủ nghĩa ái quốc. Đã có một thời, chủ nghĩa đó nhắm vào mục tiêu dân giàu. Ngày nay, mục tiêu sẽ là nước mạnh. Sau trận thiên tai năm 2011, 90% dân Nhật đã coi quân đội là định chế đáng tin cậy nhất và lần đầu tiên từ Thế chiến II, thanh niên Nhật đã gọi nhau tòng quân nhập ngũ rất đông, với sự ủng hộ của xã hội.

Nhật Bản đã có một quân đội đúng nghĩa, từng gửi chiến hạm và binh lính đi ngăn ngừa hải tặc từ Ấn Độ dương qua tới Đông Phi, hoặc yểm trợ xứ khác diệt trừ khủng bố, hay cứu giúp nạn nhân thiên tai bão lụt. Việc tu chỉnh hiến pháp để hợp thức hóa quân đội này chỉ là thủ tục hình thức. Chứ nội dung thì đã được bình thường hóa vì thái độ hung hăng của Trung Quốc.


Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe với các lãnh tụ ASEAN tại Thượng đỉnh ASEAN năm 2013, kỷ niệm 40 năm hợp tác với Nhật Bản


Nếu có lân bang thấy vậy mà lo, như trường hợp Nam Hàn, thì cũng có nhiều láng giềng lại lấy đó làm mừng, như trường hợp Đài Loan, Phi Luật Tân, Nam Dương hay cả Việt Nam. Những nỗ lực đầu tư và hợp tác của Nhật Bản từ 40 năm nay với Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á đang được hâm nóng: người dân Á Châu tự hỏi mối nguy về an ninh sẽ là Trung Quốc hay Nhật Bản? Họ sẽ có câu trả lời trong năm Giáp Ngọ này.

Và nhớ lại những năm Giáp Ngọ về trước, "Trung Quốc mộng" của Tập Cận Bình quả là mộng mị!


Hình ảnh kỷ niệm 40 năm hợp tác giữa Nhật Bản và Hiệp hội ASEAN, cô bé Việt Nam vẫn cài trâm trên tóc như đôi đũa.

____________________________


Xin giới thiệu một bài về thời cuộc và lịch sử trên trang 14 Việt Báo Xuân Giáp Ngọ 2014 vừa phát hành ngày 140112

Source : dainamax tribune . Việt Báo Xuân Giáp Ngọ 2014 

Ai Là Tác Giả Bài Thơ “Tưởng Niệm Hoàng Sa”?


Ai Là Tác Giả Bài Thơ “Tưởng Niệm Hoàng Sa”?


Anh ruột tôi là 1 liệt sĩ hy sinh trên chiến hạm HQ 10, Nhật Tảo. Mấy chục năm nay tôi đã đọc biết bao nhiêu bài thơ, đoạn văn viết để tri ân các liệt sĩ anh hùng. Có một bài thơ thật đặc biệt với tôi vì nó được viết bởi 1 người miền bắc (khuyết danh) năm 1974. Theo đặc san Quảng Đà phát hành ở thủ đô Hoa thịnh Đốn, Hoa Kỳ, năm 2005 (Trang 84), bài thơ này đã được gửi từ miền bắc Việt Nam sang Pháp rồi từ đó chuyển về miền nam Việt Nam năm 1974 sau trận Hoảng Sa. Tôi đọc bài thơ này không biết bao nhiêu lần không chán… Lời thơ thật cảm động, sẻ chia và cũng đầy hùng khí. Vì tình hình chính trị năm 1974 Tác giả đã không thể để tên của mình. Hy vọng bây giờ với internet, chúng ta có thể tìm ra danh tánh của vị tác giả bài thơ này (Vũ Nam Nhuận ở Virginia, Mỹ)
                      

TƯỞNG NIỆM HOÀNG SA

Xin kể thêm tôi: thành 19 triệu một người
Trái tim tôi đập về trong đó
Dòng máu xa nguồn bỗng giận sôi
Hoàng Sa, Hoàng Sa
Cái tên nghe buồn từ thuở ban sơ
Đối với tôi đã là da thịt
Dẫu chỉ là một mảnh san hô
Lại đau chăng vết buốt tự ngàn xưa
Trong sử cũ còn hằn dấu ngựa
Từ thảo nguyên xa
Từ biển ải lửa
Khói tràn về đen thẫm những ước mơ
Đếm bao người vợ đợi chờ
Em ơi, trên từng trang sử nhỏ
Xin kể thêm tôi, thành 19 triệu một người
Thành viên gạch hồng tươi
Làm bức tường thành, ngăn triền sóng dữ
Giữ không cho rơi một giọt mật nào
Mỗi giọt ra đi chính mỗi giọt máu đào, bao đời cha ông nhỏ xuống
Người bạn hải quân miền nam ơi
Trên đảo mù sương hôm đó có tay anh cầm súng
Từ những hạm tàu rẽ sóng đại dương
Tôi thấy pháo anh giương nòng sừng sựng
Cuộc chiến đấu kết thúc dù bị thảm
Bài ca anh hùng vẫn vọng trời cao
Xin cho thơ tôi góp phát súng chào
Vĩnh biệt tuần dương chìm giữa sóng
Đáy biển âm thầm ngàn năm lạnh cóng
Vẫn mặn nồng lòng tổ quốc ta
Một thi sĩ miền Bắc khuyết danh (1974 )

Source : Blog Osin

16/1/14

Ngôi Đền Tĩnh Quốc Thần Xã


Friday, January 17, 2014

Ngôi Đền Tĩnh Quốc Thần Xã


Nguyễn-Xuân Nghĩa - Việt Báo Ngày 140116

Từ tội phạm chiến tranh đến anh hùng liệt sĩ Nhật Bản....


* Hai chàng BC của hài kịch Đông Á - BC là động từ *


Ngày 26 Tháng 12 vừa qua, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe lại gây tranh luận khi chính thức thăm viếng ngôi đền Tĩnh Quốc Thần Xã Yasukuni với tư cách Thủ tướng. Trong năm 2013, ông đã viếng ngôi đền khi chưa nhậm chức Thủ tướng nên chỉ gây chú ý mà thôi. Lần này thì khác. 

Ngay lập tức, các chính quyền Trung Quốc và Nam Hàn đã phản đối hành động này. Sau đó tới lượt Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, rằng đó là một việc đáng tiếc. Phản ứng của Hoa Kỳ mới là việc đáng khen, về tài tráo trở. 

Cách tường thuật và bình luận của truyền thông quốc tế là điều đáng cười khác, về sự ngớ ngẩn....


***

Theo tín ngưỡng Thần Đạo, người Nhật đã dựng lên cả chục vạn ngôi đền lớn nhỏ để thờ phụng thần linh và anh hùng liệt sĩ của họ. Nổi tiếng nhất, đền Yasukuni là do Thiên hoàng Minh Trị lập ra từ năm 1869 để ghi ơn liệt sĩ, đầu tiên là từ cuộc Nội chiến Mậu Thìn năm 1868-1869 khi Thiên hoàng mở ra thời tập quyền để canh tân xứ sở (chuyện Minh Trị Duy Tân) sau nhiều thế kỷ phân tranh giữa các Tướng quân hay Lãnh chúa.

Dân tộc nào cũng có nơi ghi nhận công lao những người đã xả thân bảo vệ Tổ quốc. Chính đáng hay không là ở định nghĩa của chữ "bảo vệ", theo thế thủ hay thế công, giữ nước, dựng nước, hay thậm chí cướp nước của người khác!

Định nghĩa cho chính đáng thì có chính nghĩa. Đó là cái thuật của chính trị hay cái tài của sử gia.

Trải qua 110 năm sau đó, chẳng mấy ai dị nghị về ngôi đền Tĩnh Quốc dù Nhật Bản nhiều lần ra quân tấn công các nước, nào Trung Quốc, Triều Tiên, Đại Nga, và Hoa Kỳ trong các cuộc chiến 1894, 1904, 1910, 1937, 1941.... Sự việc chỉ trở thành vấn đề từ năm 1978, khi đến Thần Xã được phép đón nhận linh vị của 14 nhân vật quân chính từng bị Toà án Tội ác Chiến tranh tại Đông Kinh truy tố và xử tử về trách nhiệm trong Đệ nhị Thế chiến.

Toà án này là cho Hoa Kỳ lập ra ngay sau khi đánh bại nước Nhật và có 126 "chánh phạm" (Class-A) bị ra toà về Tội ác chống Hoà bình. Sau đó chỉ vài tháng, cũng vì lý do chính trị trong Bộ Tư lệnh của Tướng Douglas MacArthur (giữa các nhân vật thiên tả ngả theo xã hội chủ nghĩa và cánh hữu chống cộng trước mối nguy cộng sản sau Thế chiến II), số chánh phạm được giảm xuống còn 14 người.

Tức là có 112 nhân vật cao cấp có thế lực của Thiên hoàng bại trận được Hoa Kỳ mặc nhiên ân xá. Khét tiếng trong số này có Kodama Yoshio, ông trùm của tổ chức tội ác nhưng có biệt tài truy lùng cộng sản. Hay Shoriki Matsutaro, tài phiệt truyền thông và thể thao, chủ nhân nhật báo số một của Nhật là Yomiuri Shimbun và sáng lập viên hệ thống Nippon Television Network. Hay Sasakawa Ryoichi, một tài phiệt và lãnh tụ cực hữu có thể làm các đại gia Trung Quốc bị mặc cảm về tài nghệ đầu tư và ảnh hưởng chính trị tại các nước Á Phi sau này...

Nhưng lẫy lừng nhất trong số người thoát nạn, có Nobusuke Kishi, về sau là kiến trúc sư của chiến lược hợp tác Nhật-Mỹ để bảo vệ Đông Á trước đà bành trướng của Liên Xô và Trung Cộng. Sau hai lần làm Thủ tướng Nhật từ 1957 đến 1960 với ảnh hưởng toả rộng tại Đông Nam Á, ông Kishi là người nghiên cứu dự án đưa linh vị 14 "chánh phạm" vào ngôi đền Yasukuni từ năm 1978, được hợp thức hoá vào năm 1979. Ngoài ra, Kishi còn là anh ruột của Thủ tướng Eisaku Sato, người đã đoạt Giải Nobel Hoà Bình năm 1974, và là ông ngoại của đương kim Thủ tướng Shinzo Abe.


***

Thật ra, sự co giãn của nền công lý hậu chiến hay Tòa án về Tội ác Chiến tranh của Nhật là một công trình hỗn hợp Mỹ-Nhật. Về phía Hoa Kỳ, vì nhu cầu của nước Mỹ, đây là một nỗ lực lưỡng đảng, của cả Tổng thống lẫn Quốc hội Dân Chủ và Cộng Hoà.

Nhưng quan trọng hơn vậy, về phía Nhật Bản, vì nhu cầu hòa giải thì ngay từ năm 1952, với đa số áp đảo, kể cả từ đảng Xã Hội - trừ đảng Cộng Sản, dĩ nhiên - Quốc hội Nhật đã biểu quyết nhiều đạo luật ân xá tội phạm thời chiến. Qua năm 1958, và với sự đồng ý của các đồng minh, tức là của Hoa Kỳ, mọi tội phạm kể cả loại B (Tội ác trong Chiến tranh), hay C (Tội ác chống Nhân loại) đều được các Tòa án địa phương giảm án.

Chẳng những vậy, từ năm 1959, tên tuổi của họ cũng được đưa vào đền thần xã ở mọi nơi mà không ai thấy phiền hà.

Suy ngẫm theo dòng thời gian và từ dưới lên thì sáu năm sau khi bại trận bằng hai quả bom nguyên tử và bị một nước chiến trắng cai trị bằng Hiến pháp và luật pháp, từ năm 1952, dân Nhật đã tự hoà giải. Họ lặng lẽ giảm án các tội phạm loại thấp (B và C) do toà án của họ lập ra theo chỉ thị của nước chiến thắng. Trong số này, có những kẻ thừa hành, có người bị tố oan, tố lầm mà cũng có loại gian ác đã ngược đãi tù binh, v.v....

Nhưng qua thể thức dân chủ, mọi người đều đánh chữ đại xá để xây dựng lại tương lai.

Câu chuyện chỉ đáng bàn là ở cấp trọng phạm, loại A, do ảnh hưởng của quốc tế trong Toà án Trung ương tại thủ đô Tokyo. Quốc tế khi đó là Hoa Kỳ.

Trước đà bành trướng của Cộng sản, Hoa Kỳ đã sớm nghĩ đến chuyện đại xá ngay từ năm 1948. Sau đó 30 năm, người Nhật mới nói đến việc ghi ơn các liệt sĩ khi đưa linh vị 14 chánh phạm vào đền Tĩnh Quốc. Nhưng ngôi đền không chỉ có 14 tội phạm đã bị xử tử mà còn nhiều người đã hy sinh cho Tổ quốc của họ.


***

Thiên hoàng Hirohito của Nhật đã từng thăm viếng đền Tĩnh Quốc nhưng sau 1978 thì thôi. Tới nay thì bốn Thủ tướng Nhật đã cúi lạy trước đền là Yasuhoro Nakasone (Thủ tướng từ 1982 đến 1987), Ryutaro Hashimoto (từ 1996 đến 1998), Junichiro Koizumi (từ 2001 đến 2006) và Shinzo Abe (Thủ tướng trẻ nhất vào năm 2006 và tái đắc cử từ năm 2013). Mỗi người có thể vì một lý do tâm linh hay chính trị của riêng họ.

Nhưng khi các nhà bình luận Mỹ nói tới khuynh hướng ngày càng cực hữu của Thủ tướng Shinzo Abe, họ không hiểu gì về vai trò ngày xưa của Hoa Kỳ. Hay cố tình lờ đi phần đóng góp đáng kể của Trung Quốc ngày nay.

Quý độc giả muốn tìm hiểu thêm về phần đóng góp này thì xin đọc Giai phẩm Xuân Giáp Ngọ của Việt Báo!...
Source : Việt Báo . dainamax tribune