1/4/14

Năng Lượng: Mỹ Giúp Châu Âu Giảm Áp Lực Của Nga?


Tuesday, April 1, 2014

Năng Lượng: Mỹ Giúp Châu Âu Giảm Áp Lực Của Nga?


Nguyễn-Xuân Nghĩa & Thanh Hà 
Tạp Chí Kinh Tế RFI

Khí Đốt Mỹ Giải Tỏa Sức Ép Của Nga tại Âu Châu  
Quy trình sản xuất, biến chế và xuất cảng khi đốt của Hoa Kỳ




















Khủng hoảng Ukraina càng thúc đẩy Bruxelles dựa vào Mỹ để giảm mức độ lệ thuộc vào dầu khí của Nga? Tại thượng đỉnh Liên Hiệp Châu Âu với Hoa Kỳ ngày 26/06/2014, tổng thống Obama tuyên bố Washington sẵn sàng giúp đỡ châu Âu giải tỏa bớt áp lực của Matxcơva về vấn đề năng lượng. Nhờ những phương pháp khai thác mới, Mỹ đang trở thành nơi có trữ lượng dầu khí ‘tiềm năng’ nhất thế giới.


Năng lượng là một nhược điểm của châu Âu. Hiện tại Liên Hiệp Châu Âu nhập cảng đến hơn phân nửa năng lượng - chủ yếu là dầu hỏa và khí đốt - để đảm bảo nhu cầu tiêu thụ cho 28 thành viên trong khối. Theo thẩm định của Bruxelles nếu giữ nguyên tình trạng như hiện nay, đến năm 2035 Liên Hiệp Châu Âu sẽ lệ thuộc đến 80 % vào năng lượng của các nước ngoài khối.


Trong năm 2013, chỉ một mình nước Nga cung cấp đến 27 % khí đốt cho Liên Hiệp Châu Âu và 70 % trong số đó phải trung chuyển qua ngả Ukraina. Ngoài khí đốt, Nga còn là một nguồn cung cấp dầu hỏa và than đá quan trọng của châu Âu. Chính vì vậy mà Bruxelles đã không thể mạnh tay trừng phạt Matxcơva sau khi tổng thống Putin thôn tính Crimée.


Vào lúc châu Âu và Nga đang cơm không lành, canh không ngọt thì Washington đề nghị bán khí đốt của Mỹ cho châu Âu. Tổng thống Barack Obama nhân thượng đỉnh Âu Mỹ đã dùng lá bài năng lượng để vừa thúc đẩy tiến trình thành lập khu vực tự do mậu dịch với Bruxelles, vừa làm đối trọng với ảnh hưởng của Matxcơva trên Lục địa Già. Dự án này được Ngoại trưởng John Kerry và đại diện châu Âu, bà Catherine Ashton thảo luận thêm vào ngày 02/04/2014 tại Bruxelles.


Câu hỏi đặt ra là liệu khi nào thì khí đốt của Mỹ mới chảy tới châu Âu? Washington chấp nhận xuất khẩu đến bao nhiêu triệu mét khối cho Bruxelles hàng năm và trong thời gian là bao lâu? Đừng quên rằng Hoa Kỳ luôn coi các nguồn dự trữ của mình là yếu tố chiến lược để bảo đảm về an ninh năng lượng của bản thân nước Mỹ. Liệu rằng với dầu khí của Mỹ,Liên Hiệp Châu Âu giảm bớt mức độ lệ thuộc vào ông khổng lồ Nga hay không?



Năng lượng, lá bài mới của Mỹ?


Từ California, chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa lần lượt trả lời các câu hỏi trên nhưng trước hết ông nói qua về tiềm năng rất lớn của dầu hỏa và khí đốt Hoa Kỳ: Mỹ đang trở thành một ông khổng lồ về năng lượng nhờ kỹ thuật khai thác mới. 

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Từ mấy chục năm nay, nước Mỹ đã biết nhiều phương pháp khai thác năng lượng, chủ yếu là dầu thô và khí đốt, ngoài than đá là một lợi thế có sẵn. Nhưng họ không muốn thử nghiệm công nghệ mới vì quá tốn kém. Khi giá năng lượng trên thế giới tăng vọt và từ năm 2006, nước Mỹ dồn sức khai triển phương pháp mới và thật sự hoàn thành một cuộc cách mạng về công nghệ làm đảo lộn tất cả. 

- Kỹ thuật "fracing" ấy - đọc như "fracking" - gồm có đào sâu xuống các tầng địa chất trầm tích và xoay ngang để tìm đến mạch năng lượng bao quanh rồi bơm xuống với sức ép cực mạnh một dung dịch nước và hóa chất. Sức ép này mở bung cả dầu thô hay khí đốt bị nhốt trong đá và được hút lên làm năng lượng. Riêng về khí đốt thiên nhiên, Hoa Kỳ có công nghệ dùng áp suất mạnh để biến khí thành nước lỏng đựng trong bồn, gọi là LNG, liquefied natural gas, dễ di chuyển qua nơi khác để từ khí lỏng lại trở về trạng thái khí đốt có thể phân phối qua ống dẫn khí. 

- Kết quả của cách mạng kỹ thuật là Mỹ đã nâng sản lượng khí đốt của mình lên hàng vô địch với trữ lượng dự báo là hơn 900 ngàn tỷ thước khối, khả dĩ sử dụng cả trăm năm tới. Nhưng hậu quả là số cung gia tăng từ năm 2009 làm giảm giá khí đốt tại Mỹ. Khi ấy, Hoa Kỳ nghĩ tới việc xuất cảng trong điều kiện mà giá khí đốt tại Âu Châu và mọi nơi khác đều đắt hơn. 

- Trở ngại cho việc xuất cảng gồm có hai phần. Thứ nhất là hạn chế về chính sách vì Mỹ vẫn cấm bán năng lượng ‘ra bên ngoài’ để có an toàn năng lượng ‘bên trong’, lại còn muốn bảo vệ môi sinh nên kiểm soát chặt chẽ việc lập nhà máy LNG chế biến khí lỏng. Thứ hai là về kỹ thuật để đưa khí đốt từ Mỹ tới các thị trường khác. 

- Vấn đề kỹ thuật thật ra dễ giải quyết dù tốn kém và mất dăm ba năm mới hoàn thành. Vần đề chính sách mới nan giải vì nhiều ràng buộc chính trị bên trong nước Mỹ, thí dụ như các nhóm lợi ích hay doanh nghiệp chế biến, muốn hạn chế xuất cảng để mua nguyên liệu rẻ nhờ giảm giá. 

- Thế rồi khủng hoảng Ukraina và đối sách thiếu thống nhất của Âu Châu trước sức ép của Nga làm dư luận chính trị tại Mỹ thay đổi. Giải phóng khí đốt có thể góp phần giải phóng Châu Âu ra khỏi vòng kiềm tỏa của năng lượng Nga.

- Chúng ta thật ra đang ở giữa cuộc cách mạng cho nên tình hình thay đổi và mỗi năm người ta lại thấy tiềm năng của Mỹ thật ra cao hơn mọi dự đoán trước. Mỹ hiện có sản lượng và mức tiêu thụ khí đốt nhiều nhất thế giới, và trong vài năm tới thì có dư để bán ra ngoài với giá rẻ chỉ bằng một phần ba giá của thiên hạ. Mà dù có xuất cảng thì cũng không nâng giá nội địa quá mạnh và nếu giá tăng thì càng khuyến khích các doanh nghiệp khai thác thêm.


Khí đốt, lá bài lợi hại mới của Mỹ?


Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Hệ thống luật lệ Mỹ nhiêu khê vì áp lực của nhiều trung tâm quyền lợi. Thí dụ giới bảo vệ môi sinh đòi hạn chế nhà máy chế biến, doanh nghiệp chế biến muốn có nguyên liệu rẻ nên đòi hạn chế xuất cảng. Một cách cụ thể thì doanh nghiệp Mỹ muốn sản xuất để xuất khẩu phải vượt sáu ải, của Cơ quan Liên bang Kiểm soát Năng lượng, Bộ Năng lượng, Cơ quan Bảo vệ Môi sinh, Cơ quan Bảo vệ Thú hiếm, Cơ quan Bảo vệ An ninh Hàng hải, Bộ Vận tải, v.v.... Mà muốn bán khí đốt cho một quốc gia chưa ký Hiệp ước Tự do Mậu dịch FTA với Mỹ, trường hợp của vài nước Âu Châu, thì còn phải có giấy phép riêng của Bộ Năng lượng với lý do là việc xuất cảng này "phù hợp với quyền lợi của công chúng Mỹ."

- Ngày nay, nhờ hay vì sự ngang ngược của Tổng thống Vladimir Putin, chính trường Mỹ đang thay đổi quan niệm, với Lập pháp yêu cầu Hành pháp áp dụng thủ tục khẩn cấp cho xuất cảng khí đốt để vừa bảo vệ Ukraina vừa giải tỏa sức ép của Putin trên các nước Âu Châu.


RFI: Nếu Mỹ thay đổi chính sách thì sẽ bán khí đốt cho Âu Châu dưới hình thức nào và bao giờ thì bán được?


Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chúng ta mường tượng ra hai bước kỹ thuật là, thứ nhất, ép khí thành nước trong nhà máy khí lỏng để vận chuyển như dầu thô đến các thị trường khác. Rồi từ chất lỏng trở lại thành khí có thể phân phối qua ống dẫn khí ở nơi mua. Khi bán như vậy thì từ đầu ra ở bên Mỹ phải có giấy phép và đầu vào là nơi mua phải có đầu tư để lập nhà máy cải biến khí lỏng ra khí đốt. Việc mua bán bao hàm cả đầu tư tốn kém để lập nhà máy bên kia đại dương và mất từ ba đến năm năm. Do hoàn cảnh đặc biệt ngày nay, nếu thủ tục cho phép và hoàn thành có thể ngắn hơn thì cũng mất hai năm.

- Thật ra nhiều nước Âu Châu, kể cả Ukraina, có thấy mối nguy của áp lực Nga nên đã đa diện hoá nguồn cung cấp. Thí dụ là Pháp và Hà Lan lập dự án khí lỏng tại Dunkerque và Rotterdam với công xuất là 12 tỷ thước khối một năm, sẽ khởi sự hoạt động năm nay. Còn Ba Lan có dự án nhỏ hơn tại hải cảng Swinoujscie có thể hoàn thành năm nay với công xuất năm tỷ thước khối.

- Ukraina thì lệ thuộc vào khí đốt của Nga đến 60% của số tiêu thụ là 50 tỷ thước khối một năm. Từ năm 2013 xứ này ký hợp đồng với hai tập đoàn năng lượng là Shell và Chevron để khai thác khí đốt từ đá phiến của mình, với hy vọng sản xuất được từ năm đến 10 tỷ thước khối. Song song tổ hợp ExxonMobil của Mỹ cũng đang nghiên cứu việc khai thác khí đốt bên Tây ngạn của Hắc Hải để Ukraina có thêm từ năm tới 10 tỷ thước khối. Ngay trước mắt, Ukraina dự tính đảo ngược nguồn cung cấp, từ Tây sang Đông thay vì từ Nga, với ống dẫn khí qua xứ Slovakia. Trong nỗ lực đa năng hóa như vậy của Âu Châu, Hoa Kỳ có thể đóng góp về kỹ thuật và đầu tư chứ không chỉ qua việc bán khí đốt.


RFI: Nếu Mỹ giúp như vậy thì Liên Hiệp ChâuÂu có thể giảm được mức độ lệ thuộc vào khí đốt của Nga tới chừng nào?


Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Cho đến nay, ta chưa có giải đáp về mức hiệu quả là giảm bao nhiêu phần trăm vào khí đốt của Nga nhiều lý do, cả tiêu cực lẫn tích cực.

- Thứ nhất, vì yếu tố cục bộ, áp lực cản trở xuất cảng vẫn còn mạnh trong Chính quyền Obama. Thứ hai, việc đầu tư vào nhà máy ở nơi mua là Trung Âu hay Đông Âu thật ra tốn kém và ít lời hơn bán khí cho Đông Á nên nhiều doanh nghiệp Mỹ còn ngần ngại. 

- Thứ ba, các nước Âu Châu cũng có khu vực đá phiến đầy triển vọng, thí dụ như khi Pháp và Hoà Lan khởi động hai dự án năm nay thì Pháp hết cần khí đốt của Nga, hai nước có thể bảo đảm yêu cầu cho nước Bỉ và còn dư 22 tỷ thước khối để bán ra ngoài, tức là Âu Châu cũng từ giảm mức lệ thuộc vào khí của Nga. Thứ tư là ngay tại Âu Châu, nhiều quốc gia cũng e ngại môi sinh ô nhiễm nên chưa mạnh dạn chấp nhận công nghệ gạn đá phiến ra khí đốt, mặc dù vẫn dùng than đá còn ô nhiễm hơn!

- Ngoài ra, chưa nói đến xuất cảng thì Hoa Kỳ vẫn có thể góp sức giải tỏa khi phổ biến kỹ thuật khí đốt cho nhiều quốc gia, từ biển Baltic qua Ba Lan, Rumani xuống Hắc Hải nếu các nước này cải tổ thuế khóa để tiếp nhận đầu tư của Mỹ. Ngược lại, khi thấy Mỹ ra đòn, Nga có thể phản đòn và xuống giá để duy trì ưu thế cạnh tranh và thế lực chính trị. Khi ấy, ta thấy ra bài toán khác. Giá khí đốt của Nga thật ra rất đắt vì còn phải chở từ Tây Bá Lợi Á (Sibérie) tới Âu Châu. Và mỗi dự án khí đốt tại Âu Châu làm giảm số mua thí dụ như là 12 tỷ thước khối trong tổng số bán của Nga cho Âu Châu là 200 tỷ thước khối một năm là có thể làm Nga mất từ 5 đến 10 tỷ đô la. 

- Sau cùng, dù việc xuất cảng chỉ trở thành thực tế trong hai ba năm tới, việc Mỹ thông báo sẽ cho xuất cảng dầu thô và khí đốt cũng lập tức làm sụt giá trên thị trường quốc tế. Mà giá khí của Nga lại giàng vào giá dầu, nếu dầu thô sụt giá dưới mức 90 đô một thùng là Nga bị hụt ngân sách. Ông Poutin ngày nay còn hung hăng khi dầu thô còn trên trăm đồng một thùng, chứ nếu sụt tới 90 đồng là kinh tế và ngân sách Nga bị khủng hoảng như đã bị vào năm 2009.


RFI: Tình hình chung về khí đốt trích xuất từ đá phiến tại Mỹ là thế nào?


Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Trong mươi năm tới, Hoa Kỳ sẽ dẫn đầu thế giới về khí đốt và làm giảm giá năng lượng toàn cầu với lượng xuất cảng ngày càng cao hơn. Biến cố Ukraina sẽ đẩy mạnh chiều hướng ấy. Thứ hai, trong nội địa Hoa Kỳ, công nghệ mới cũng nâng cao hiệu suất tiêu thụ và giảm phí tổn về năng lượng, thí dụ dễ thấy là xe hơi ít hút xăng dầu và dùng khí đốt nhiều hơn, hay người ta dùng người máy tự động nhiều hơn. 

- Nói về kế toán, trong cơ cấu sản xuất, phí tổn nhiên liệu giảm mạnh khiến doanh nghiệp Mỹ có thế cạnh tranh rất cao và nhu cầu đầu tư ra ngoài để tìm nhân công rẻ sẽ không còn như trước, nên ta sẽ thấy "tư bản hồi hương". Sau cùng, vì lệ thuộc ít hơn vào năng lượng bên ngoài, như dầu thô Trung Đông, trong trường kỳ, nước Mỹ sẽ có đối sách khác về an ninh chiến lược. Trong khi ấy, Liên bang Nga vẫn chỉ thuộc loại chậm tiến có võ khí và còn tùy thuộc quá nhiều vào việc xuất cảng nguyên liệu và năng lượng.

RFI: Theo báo cáo gần đây nhất của Cơ quan Năng lượng Quốc tế đến năm 2018, Hoa Kỳ sẽ là nguồn cung cấp đến 1/5 khí đốt cho nhân loại. Đến năm 2025, nhập khẩu dầu thô vào nước Mỹ sẽ giảm xuống chỉ còn bốn triệu thùng một ngày thay vì 10 triệu như hiện nay. Trong chưa đầy một chục năm nữa, Hoa Kỳ sẽ thành nhà sản xuất dầu hỏa số một thế giới đứng trước cả Á Rập Xê Út và Nga. Dầu hỏa và khí đốt sẽ là hai lá chủ bài cho phép FWashington phác họa lại chính sách đối ngoại và sẽ làm thay đổi cục diện trên bàn cờ quốc tế.

Source : RFI . dainamax tribune

“Kịch bản Putin” cho chính khách Việt?

“Kịch bản Putin” cho chính khách Việt?

Cập nhật: 04:39 GMT - thứ ba, 1 tháng 4, 2014
Không ai có tiên định được tương lai chính trị Việt Nam sẽ biến động thế nào. Cũng không ai đoán định được số phận của các chính khách cao cấp Việt Nam sẽ kết thúc ra sao…
Chỉ đến khi chợt hình dung ở cuối dòng sông sẽ hiện ra một vực xoáy khủng khiếp, các chủ nhân ông mới cuống cuồng sục tìm một lối thoát đỡ va đập nhất từ con thuyền sắp đắm.

Cho đến một ngày, một trong những trang mạng bị xem là giả danh Thủ tướng Chính phủ Việt Nam - nguyentandung.org, bắt đầu seri bài về “Việt Nam có cần một nguyên thủ quốc gia như Putin?” và tiếp nối “Làm thế nào để Việt Nam có nhiều Putin?”.
“Kịch bản Putin” là một lối thoát hầu như đã được lượng định và lượng thứ.
Nhiều ngày trôi qua, vẫn không ai biết rõ trang mạng trên thực chất là do ai đạo diễn. Nhưng nói gì thì nói, cần ghi nhận một thành công nho nhỏ về sức hút công luận từ trang mạng này.
Khi mà tuyệt đại đa số báo chí quốc doanh chìm lắng trong cơn sầu muộn vô cùng tận của không ít chuyện không thể nói cùng quá nhiều việc không dám thưa thốt, vài ba tiếng chuông nguyện cầu cho cuộc chiến biên giới Việt - Trung năm 1979 trên trang nguyentandung.org hẳn làm các cựu chiến binh nguôi ngoai đôi chút về tâm trạng “người lính già đầu bạc, kể mãi chuyện Nguyên Phong”. Thậm chí trong một lần hiếm muộn, một đài quốc tế Việt ngữ còn phải đặt dấu hỏi về trang mạng vừa hoài niệm vừa đáng hoài nghi này.
"Chủ tịch nước kiêm tổng bí thư vốn là một phương án mà giới chính khách [Việt Nam] ngày càng nồng nàn, thậm chí tỏ rõ độ mẫn cảm đặc biệt với khung nhân sự này."
Cũng như những gì mà người ta đang hoài nghi về Vladimir Putin và đương kim thủ tướng chính phủ Việt Nam…

Nét tương đồng chính khách?

Mỗi chính khách đều có một con đường và một thân phận. Nhưng nếu cần, lịch sử có thể được cải biên cho những con đường ấy giao thoa với nhau, còn các thân phận lại mang tính giao đồng và thậm chí còn có nét nhân văn.
Nếu một nhà sử học không tiếng tăm từng tô thắm điểm chung lớn lao giữa Nguyễn Tấn Dũng và Putin - một người từng là thứ trưởng Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an), người kia có nguồn gốc xuất thân từ Cơ quan an ninh quốc gia KGB; có thể hiểu trong tương lai không thật quá xa xôi, nhân vật được coi là quyền lực nhất Việt Nam hiện nay sẽ không còn quá cần thiết phải đứng đầu chính phủ nữa, mà vai trò của ông sẽ bằng cả vị trí hiện thời của hai ông Nguyễn Phú Trọng và Trương Tấn Sang gộp lại.
Chủ tịch nước kiêm tổng bí thư vốn là một phương án mà giới chính khách ngày càng nồng nàn, thậm chí tỏ rõ độ mẫn cảm đặc biệt với khung nhân sự này.
Chưa cần biết vai trò tương lai đó có quy tập được quyền lực gần như tuyệt đối như Tập Cận Bình ở Trung Quốc hay không, nhưng vẫn có hy vọng rằng dù ai trong số các chính khách hiện thời vươn tới chân trời “nhất thể hóa”, họ đều có cơ hội để thực hiện giấc mơ trở thành một Vladimir Putin thứ hai.
Vậy Vladimir Putin là ai? Ivan Hung bạo hay Tư bản dã man?
15 năm ròng rã kể từ khi thay thế vai trò của Boris Yeltsin, sức mạnh giấu kín trong con người Putin đã đưa nước Nga trở lại vị thế một cường quốc. Sẽ chẳng phải hoài nghi nếu thuật lại câu chuyện Putin thuộc hàng hiếm hoi trong giới tổng thống trên thế giới bắn chết hổ, và là nhân vật duy nhất có đặc quyền khuấy đảo chính trường nước Nga.
Chắc chắn đó là hình ảnh mà giới chính khách kém bản lĩnh hơn nhiều ở Việt Nam phải nhất tâm mê mẩn. Dù rằng nếu chấp nhận đi theo “thuyết Putin”, chính giới Việt Nam sẽ đồng thời phải thừa nhận trạng thái đa nguyên chính trị và thể chế đa đảng, kể cả đảng đối lập.
Xét cho cùng, hệ lụy đó có hề gì một khi những người hậu bối của chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam vẫn đút gọn nền kinh tế vào túi mình, còn các tập đoàn kinh tế nhà nước chẳng cần phải lo nghĩ đến chuyện dẹp bỏ thế độc quyền muôn thuở, và nạn tham nhũng không những không cần bị triệt tiêu mà còn được hiểu như một động lực làm hài hòa tính chính danh của chế độ.
"Rõ ràng có một sự khác biệt hết sức quá quắt giữa một nước Nga đang lao đi với gia tốc ngày càng nhanh trên cỗ xe độc tôn với hiện tình chia rẽ dẫn đến tương lai cát cứ ở Việt Nam."
Nước Nga thời hậu Liên Xô đã là như vậy và vẫn đang là như vậy, nơi mà có thể đến hơn một nửa số người Nga tạm hài lòng với những gì Putin đang làm, kể cả việc ông vừa định đoạt một cách thô bạo vào số phận của khu vực Crimea mà rất có thể bị giới sử học so sánh với Ivan Hung bạo.
Nhưng hầu như ngược lại, chẳng có ai trong số chính khách Việt hiện thời đủ tầm và tâm để quy tụ đủ 10% dân chúng ủng hộ mình, nếu họ chấp nhận một cuộc trưng cầu dân ý mở rộng đến tận những vùng mà học sinh phải bắt chuột ăn thay cơm, những đứa trẻ lang lang không mảnh áo trong trời giá buốt, hoặc những cô giáo phải chui vào túi nylon để vượt suối…
Rõ ràng có một sự khác biệt hết sức quá quắt giữa một nước Nga đang lao đi với gia tốc ngày càng nhanh trên cỗ xe độc tôn với hiện tình chia rẽ dẫn đến tương lai cát cứ ở Việt Nam.
Không thể có được một Ivan Hung bạo và thậm chí cũng không có nổi một Ivan Đại đế để tái thiết đất nước, từ vài chục năm qua các tầng lớp cách mạng lão thành, cựu chiến binh, một phần lớp trẻ và một nhúm công dân còn rực cháy tâm nguyện đối với dân tộc luôn cầu nguyện giấc mơ cháy bỏng để Việt Nam có được một bàn tay sắt của Putin nhằm vãn hồi trật tự xã hội và đạo đức Khổng Tử.
Nhưng có vẻ điều quá quắt không kém lại đang gấp gáp: người ta tự đánh bóng cho nhau đặc biệt quá đáng. Đồng ý là nước có thể nâng thuyền, nhưng không ai biết được khi nào nước sẽ lật thuyền. Con thuyền chính trị Việt Nam, với nhiều chỗ vá víu đầy tham vọng vào thời kỳ mà tính dã man của chủ nghĩa tư bản đã khỏa lấp hầu hết những ưu việt của “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, vẫn đang cố vượt qua thác ghềnh trong ít ỏi vọng tưởng còn lại.
Để có thể gia tăng hy vọng, cách duy nhất là người ta cần phải tìm ra “người cầm lái vĩ đại”.

Ai là “người cầm lái vĩ đại”?

Những trang tin không chính thức và chưa bao giờ được coi là chính thống như nguyentandung.org đã vừa đề cập đến hai nhân vật Chủ tịch nước và Thủ tướng Chính phủ nhưng lại không buồn nhắc đến dù chỉ hình bóng của Tổng bí thư và Chủ tịch quốc hội, và càng biến mất hình hài của Bí thư thành ủy Hà Nội - nhân vật đang có ít nhiều triển vọng cho chức vụ cao nhất trong Đảng vào Đại hội 12 năm 2016.
Ít nhất, hai trong số “tứ trụ triều đình” đã có thể đang bị quên lãng. Và cũng ít nhất, một trong hai nhân vật còn lại cũng chỉ được nêu ra như một thủ pháp “làm vì” cho một tương lai bị lãng quên đối với cá nhân ông ta.
Người còn lại, ẩn số cuối cùng và có vẻ được cố ý xem là đáp số duy nhất cho phương trình chính trị tương lai của Việt Nam, nghiễm nhiên đang mở ra gương mặt mang tính “cải cách thể chế” lộ liễu nhất, cho dù tất cả mới chỉ thể hiện trên phương diện ngôn từ.
Song cứ cho là chính khách cuối cùng ấy - người có cùng xuất xứ “an ninh” như Vladimir Putin - đang được tô vẽ bởi một thế lực truyền thông ẩn hiện nào đó và có thể trở thành nhân vật “nắm chắc ngọn cờ dân chủ” như thông điệp đầu năm 2014 của ông ta phác họa, thì liệu cái gì sẽ chứng thực cho điều được xem là “lòng thành chính trị” của chính khách này?
Chứng thực cực kỳ đơn giản là sau ba tháng, bản thông điệp đầu năm 2014 của ông Nguyễn Tấn Dũng vẫn chưa được thành thực bởi bất kỳ hành động thành thật nào, trong khi các nhóm kinh tế độc quyền xăng dầu, điện và sữa vẫn mặc sức đẩy bão giá trên đầu dân chúng.
Chưa từng tồn tại trong từ điển bách khoa Việt Nam, nhưng “Thành tâm chính trị” lại là một khái niệm nhân văn từng được cộng đồng quốc tế ghi nhận nơi con người Thein Sein - vị tướng thoát thân từ chế độ quân phiệt mà đã khiến đất nước Myanmar chuyển mình kỳ diệu kể từ năm 2011.
"Thông điệp đầu năm 2014 của ông Nguyễn Tấn Dũng vẫn chưa được thành thực bởi bất kỳ hành động thành thật nào, trong khi các nhóm kinh tế độc quyền xăng dầu, điện và sữa vẫn mặc sức đẩy bão giá trên đầu dân chúng. "
Thả tù chính trị và mở cửa cho các đảng phái đối lập - ít nhất những cử chỉ đó cũng khiến hình ảnh Thein Sein được tôn tạo trên bức tranh nhân quyền, khiến dĩ vãng đàn áp của lề thói quân phiệt dần chìm vào quá khứ.
Nhưng Việt Nam lại luôn là một bài học đáng quên của độ trễ không chỉ về kinh tế mà cả với những xảo thuật tủn mủn nhất về chính trị. Dù luôn được mô tả như “người cầm lái vĩ đại”, nhưng không một lãnh đạo nào bên khối chính phủ có đủ đức hạnh và trí tuệ để trở thành lãnh tụ sáng suốt đưa nền kinh tế thoát khỏi bóng đêm suy thoái. Rất đồng pha, những lãnh đạo tư tưởng cũng không hề khá hơn khi làm cho cảm xúc của người dân về một “nhà tù lớn” ngày càng minh bạch hơn lúc nào hết.
Tất cả những hệ lụy chất chồng và còn chưa lao đến đáy như thế đang khiến cho học thuyết kinh tế - chính trị ở Việt Nam rơi nhanh xuống hố sâu phá sản chỉ trong ít năm nữa.
Chỉ đến lúc này, khi tất cả đã dợm chân vào vực xoáy khủng hoảng và sự tồn vong của thể chế một đảng bị đe dọa cực kỳ nghiêm trọng, giới chính khách đặc trưng bởi tinh thần bảo thủ và vun vén cá nhân ở Việt Nam mới buộc phải liên tưởng đến một kịch bản mà trước đó họ hoàn toàn không nghĩ đến: kịch bản Thein Sein.

Putin, Thein Sein hay lưu vong?

Làm thế nào để một chế độ và trên hết là giới cầm quyền trong chế độ đó thoát khỏi đòn roi hồi tố và quyết tâm trả thù của đám đông dân chúng bừng bừng phẫn nộ từ áp bức lâu năm? Làm thế nào để không cần đến động tác lưu vong và tẩu tán tài sản, giới chính khách và các nhóm lợi ích bên cạnh họ vẫn giữ được phần nào quyền lực và đất đai nhà cửa cùng các tài khoản ngân hàng ngay trên mảnh đất Việt Nam khốn khó trăm bề?
Kịch bản Thein Sein có lẽ vẫn còn là một phương án tương đối xa vời ngay vào thời điểm những tháng đầu năm 2014, ít nhất trong não trạng khá thiển cận và bị che mờ bởi các nguồn lợi cận kề của lớp chính khách thời nay.
Kịch bản Thein Sein vẫn là phương án xa vời
Đối với họ, hình dung từ ngày càng rõ nét hơn là con đường mà nước Nga đã trải qua cùng hình tượng thủ lĩnh hội tụ uy quyền gần như tuyệt đối là Putin. Đối lập mà không có đối trọng - đó chính là điều mà Putin và đảng “Nước Nga thống nhất” bên cạnh ông đã cố gắng, bằng nhiều thủ pháp và cả thủ đoạn, kéo mòn cho đến ngày hôm nay.
Với những chính khách Việt Nam đang lẫn lộn về phương pháp luận trong thế “đu dây”, chắc chắn đó sẽ là một kịch bản tốt ưu dành cho đảng cầm quyền, dù có phải trả một cái giá nhỏ nhoi khi phải cho phép hình thành những đảng phái đối lập một cách hợp pháp, trong khi không mấy nặng lòng về tâm thế phải chia sẻ quyền lực với nhân dân.
“Kịch bản Putin” cũng bởi thế rất có thể sẽ chiếm vị trí then chốt trong não trạng của không chỉ một mà một số chính khách đầy tham vọng lẫn tham quyền cố vị.
Chỉ có điều, hoàn cảnh nước Nga và con người Putin quá khác với tình cảnh và thực chất bản lĩnh của giới chính khách Việt Nam. Ngẫu nhiên, giới quan sát và người dân Việt Nam lại dần hiểu ra một chi tiết cốt tử: giới chính khách ở đất nước này đang túc trực bên số phận nhau bằng một tinh thần không mấy tương thân tương ái.
Thời gian đang chạy đua với Đại hội 12 của Đảng sẽ diễn ra trong năm 2016.
Với cuộc chơi được ăn cả ngã về không trong vài năm tới, sẽ chẳng có bất cứ cơ hội hoặc kịch bản nào cho bất kỳ chính khách nào nếu họ không tự gấp rút biểu hiện một lòng thành chính trị và thực tâm cải cách tối thiểu nào đó trước dân chúng, và tất nhiên sự trưng bày ấy phải được phô diễn trước đoàn diễu hành mang biểu ngữ không hẳn tung hô của chính giới phương Tây.
Bài phản ánh văn phong và quan điểm riêng của tác giả, một nhà báo tự do sống tại TP Hồ Chí Minh.
Source : BBC

31/3/14

MH370 : Malaysia có thể bị mất quyền kiểm soát trên cuộc điều tra

MH370 : Malaysia có thể bị mất quyền kiểm soát trên cuộc điều tra

Phi hành gia trên máy bay Úc Orion Air Force AP-3C xem bản đồ bay của chuyến MH370 Malaysia Airlines tại khu vực phía nam Ấn Độ Dương
Phi hành gia trên máy bay Úc Orion Air Force AP-3C xem bản đồ bay của chuyến MH370 Malaysia Airlines tại khu vực phía nam Ấn Độ Dương
REUTERS/Michael Martina

Trọng Nghĩa
Một chiếc Boeing của Mỹ bị rơi trên vùng biển quốc tế với đa số hành khách là người Trung Quốc, một chiến dịch tìm kiếm huy động phương tiện của khoảng 20 quốc gia, xác phi cơ đến nay vẫn biệt tăm… Tất cả các yếu tố trên đây gộp lại cho thấy là cuộc điều tra về chiếc máy bay bị mất tích của hãng Malaysia Airlines sẽ gặp nhiều khó khăn. Một trong những hệ quả là Malaysia, trên nguyên tắc phải là nước chỉ đạo công cuộc điều tra, có nguy cơ bị mất quyền chủ đạo trên cuộc điều tra.

Trả lời phỏng vấn của hãng tin Pháp AFP vào hôm nay, 27/03/2014, ông Gerry Soejatman, một chuyên gia độc lập về hàng không, đã lưu ý : « Chúng ta đang phải đối mặt với một thảm họa hàng không phức tạp hơn nhiều so những vụ đã được ghi nhận từ trước đến nay, và Malaysia sẽ không kham nổi trách nhiệm nếu họ quyết định tiến hành điều tra một mình ».
Được đăng ký tại Malaysia, chiếc phi cơ Boeing 777 chở 227 hành khách và 12 thành viên phi hành đoàn, theo chính quyền Malaysia, đã rơi xuống vùng biển quốc tế phia nam Ấn Độ Dương. Theo luật lệ quốc tế, cuộc điều tra về tai nạn này thuộc thẩm quyền của Kuala Lumpur.
Thế nhưng, thực tế cho thấy là quốc gia Đông Nam Á này không đủ năng lực chuyên môn và phương tiện thích hợp để tiến hành cuộc điều tra từ đầu đến cuối, do vậy, khả năng Malaysia phải khoán một phần công việc cho nước khác là điều không thể tránh khỏi.
Hiện nay, có một số quốc gia hay định chế được cho là sẽ đóng một vai trò quan trọng trong cuộc điều tra. Trước hết là Úc, sẽ chiếm lĩnh vị trí hàng đầu vì lẽ rất đơn giản : Úc là nước gần nơi máy bay bị nạn nhất, trong lúc địa bàn tìm kiếm lại ở xa tít ngoài khơi. Công việc điều phối công cuộc tìm kiếm do đó phải được thực hiện từ thành phố Perth ở vùng Tây Úc, và các mảnh vỡ của chiếc phi cơ bị nạn, một khi được vớt, sẽ được chuyển về nơi này.
Có một vai trò quan trọng không kém là Cơ quan An toàn Giao thông Vận tải Mỹ NTSB, và Cơ quan Điều tra Tai nạn Hàng không Anh Quốc AAIB. Sự can dự của hai cơ quan chuyên môn này vào công cuộc điều tra là tất yếu vì chiếc phi cơ bị nạn do Tập đoàn Boeing của Mỹ sản xuất, và được trang bị động cơ của tập đoàn Anh Rolls-Royce.
Còn một nước khác là Trung Quốc, từ đầu đến nay, luôn luôn lớn tiếng chỉ trích các khuyết điểm của Malaysia trong việc điều tra, cũng đòi được trực tiếp tham gia. Yêu cầu của Bắc Kinh cũng có phần hợp lý vì có đến 153 công dân Trung Quốc, tức là 2/3 số hành khách – đi trên chiếc máy bay bị mất tích.
Đối với chuyên gia Soejatman, vấn đề đặt ra cho Malaysia là nước này rốt cuộc có thể bị biến thành khán giả đứng nhìn các nước khác tiến hành cuộc điều tra.
Đây sẽ là một điều nhức nhối cho Malaysia, vốn nổi tiếng là một nước có tinh thần dân tộc rất cao. Theo ông Soetatman, đòi hỏi của Trung Quốc có thể là điều miễn cưỡng nhất đối với Malaysia vì lẽ quan hệ song phương đã căng thẳng hẳn lên từ lúc xẩy ra vụ chiếc phi cơ bị mất tích. Bên cạnh đó, bang giao hai bên còn hàm chứa những căng thẳng tiềm tàng liên quan đến tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông, với việc hai lần Trung Quốc cho tàu chiến đến khiêu khích Malaysia tại khu vực bãi James Shoal đang tranh chấp giữa hai bên.
Một trong những nhược điểm của Malaysia, theo AFP, là tính chất thiếu minh bạch của chính quyền nước này trong việc quản lý các vấn đề công cộng. Kuala Lumpur bị tố cáo là cố tình bơm tiền để cứu hãng hàng không quốc gia Malaysia Airlines khỏi cảnh phá sản, do đó khó tránh khỏi bị mang tiếng là thiên vị trong cuộc điều tra về chuyến bay MH370.
Ngay cả kết luận của Malaysia là chiếc phi cơ đã bị rơi xuống Ấn Độ Dương sau khi cạn kiệt nhiên liệu cũng bị hoài nghi vì chưa có bằng chứng cụ thể nào.

Source  :  RFI

29/3/14

Trật tự thế giới mới

Tháng 3 30, 2014
The Economist
Trật tự thế giới mới 
Phan Trinh dịch
Theo pro&contra
Trật tự thế giới hậu Xô-viết hẳn là không hoàn hảo, nhưng thứ trật tự Vladimir Putin đang muốn áp đặt rõ là tệ hơn nhiều.
Tuần rồi, Vladimir Putin bảo Quốc hội Nga rằng: “Trong tâm tư người dân, Krym mãi là một phần không thể tách rời Nga.” Và thế là Putin đã sáp nhập bán đảo Krym vào Nga với tốc độ và cách làm hiệu quả đến chóng mặt, với sự hậu thuẫn của đa số áp đảo qua trưng cầu dân ý. Putin gọi đó là thắng lợi của trật tự, của chính danh, và là một đòn đau đánh vào bàn tay thập thò can thiệp từ phương Tây.
Nhưng, coi vậy mà không phải vậy, Putin không đại diện cho trật tự mà đại diện cho bất ổn và đấu đá. Việc đầu tiên Putin làm để đặt nền móng cho trật tự mới là vẽ lại đường biên giới dựa trên những lý lẽ tuỳ tiện, những lý lẽ rất dễ bị lợi dụng để thổi bùng ngọn lửa tranh chấp lãnh thổ tại hàng chục nơi khác trên thế giới. Thêm nữa, dù hầu hết người Krym muốn theo Nga, cuộc trưng cầu dân ý vừa rồi cũng chỉ là một trò hề. Hành xử của Nga gần đây thường được dư luận gán cho một cách phiến diện rằng đó là khởi đầu cho một cuộc chiến tranh lạnh mới giữa Nga và Mỹ. Thực ra, hành xử đó đặt ra một đe doạ rộng lớn hơn, và là đe doạ cho bất cứ quốc gia nào ở bất cứ đâu, vì Putin vừa ngang nhiên lái xe tăng, cán bừa rồi ngồi chồm hổm trên trật tự thế giới hiện có.
Đất mẹ xiết vào lòng
Chính sách đối ngoại thường đi theo chu kỳ. Chế độ Xô-viết sụp đổ mở đường cho một thập niên thống trị vô đối của Mỹ và sự khẳng định rình rang những giá trị Mỹ. Nhưng thế giới “duy ngã độc tôn” này, được thổi phồng lên bằng sự ngạo mạn vô lối của George Bush, đã phải hụt hơi ngạt thở trong khói bụi từ cuộc chiến Iraq. Từ đó, Barack Obama đã tìm cách đưa ra một đường lối đa phương hơn, có người có ta hơn, xây dựng trên niềm tin rằng Mỹ có thể đứng chung chiến tuyến với các nước khác để đương đầu với những vấn nạn chung và để cùng nhau cô lập kẻ ác. Đường lối này thất bại thảm hại tại Syria, nhưng vẫn có dấu hiệu cho thấy hiệu quả khi áp dụng tại Iran. Tuy ảnh hưởng đã giảm nhưng phải nói rằng chính uy thế của Mỹ đã giúp cho đường hàng hải thế giới vẫn còn thông thoáng, các biên giới còn được tôn trọng và luật pháp quốc tế hầu hết được tuân thủ. Xét ở mức độ đó thì trật tự hậu Xô-viết rõ là có ý nghĩa của nó.
Nhưng Putin đang phá huỷ trật tự này. Ông cố khoác cho việc sáp nhập Krym chiếc áo luật pháp quốc tế, chẳng hạn như lập luận rằng việc loại bỏ chính quyền ở Kiev vừa qua khiến ông không còn bị trói buộc bởi thoả ước đảm bảo sự vẹn toàn lãnh thổ Ukraine, một thoả ước Nga đã ký năm 1994 khi Ukraine từ bỏ vũ khí hạt nhân. Nhưng luật pháp quốc tế chỉ có nghĩa khi chính quyền đến sau thực thi những quyền hạn và trách nhiệm được chính quyền trước trao lại. Chưa hết, Putin còn viện dẫn nguyên lý rằng phải bảo vệ “đồng bào” mình – tức tất cả những ai ông tự tiện gọi là người Nga – bất chấp họ đang ở đâu. Chưa hết, chứng cớ một đường miệng lưỡi một nẻo, Putin còn chối bay chối biến rằng binh lính mang quân phục không phù hiệu nắm quyền kiểm soát tại Krym không phải là lính Nga. Sự kết hợp quái gở của hai vế, một bảo vệ và một dối trá, quả là thứ công thức phù thủy dễ dùng để can thiệp vào bất cứ quốc gia nào có sắc dân thiểu số cư ngụ, không cứ là người Nga.
Khi rêu rao những chuyện ngụy tạo trắng trợn về bọn phát xít ở Ukraine đe doạ Krym, Putin đã xem thường nguyên tắc rằng: sự can thiệp ở nước ngoài chỉ nên dùng như biện pháp cuối cùng trong trường hợp có đại họa. Putin biện minh bằng cách viện dẫn vụ NATO đánh bom Kosovo năm 1999 như tiền lệ. Nhưng cần biết rằng vụ NATO can thiệp vào Kosovo chỉ diễn ra sau khi có bạo động dữ dội và Liên Hiệp Quốc đã phải bó tay sau bao nhiêu nỗ lực bất thành – và bất thành cũng vì Nga cản trở. Ngay cả trong trường hợp này, Kosovo cũng không như Krym bị sáp nhập lập tức, Kosovo chín năm sau đó mới ly khai.
Trật tự mới kiểu Putin, tóm lại, được xây dựng trên chính sách thôn tính phục thù, sự trắng trợn xem thường sự thật, và việc bẻ cong luật pháp cho vừa vặn với những gì kẻ nắm quyền lực mong muốn. Trật tự kiểu đó có cũng như không.
Buồn thay, quá ít người hiểu điều này. Rất nhiều quốc gia bực bội với vị thế kẻ cả của Mỹ và với Châu Âu thích lên lớp dạy đời. Nhưng rồi họ sẽ thấy trật tự mới kiểu Putin còn tệ hại hơn nhiều. Các quốc gia nhỏ chỉ có thể phát triển tốt trong hệ thống luật lệ công khai minh bạch dù chưa hoàn hảo. Nếu giờ đây nguyên lý mạnh được yếu thua lên ngôi thì họ sẽ có rất nhiều điều phải sợ, nhất là khi phải đối phó với một cường quốc khu vực hay gây hấn bắt nạt. Trong khi đó, các quốc gia lớn hơn, đặc biệt là các cường quốc đang lên trong thế giới mới, tuy có ít nguy cơ bị bắt nạt, nhưng không phải vì thế mà một thế giới vô chính phủ trong đó không ai tin ai sẽ không có tác động xấu với họ. Vì nếu ý nghĩa của các thỏa ước quốc tế bị chà đạp, thì Ấn Độ chẳng hạn sẽ rất dễ bị cuốn vào cuộc xung đột vũ trang với Trung Quốc vì vùng đất tranh chấp Arunachal Pradesh hoặc Ladakh. Cũng vậy, nếu việc đơn phương ly khai được chấp nhận dễ dàng, thì Thổ Nhĩ Kỳ chẳng hạn sẽ rất khó thuyết phục sắc dân Kurds trong nước mình rằng tương lai của họ sẽ tốt hơn khi họ chung tay xây dựng hòa bình. Tương tự, Ai Cập và Ả Rập Saudi cũng muốn tham vọng khu vực của Iran bị kiềm chế, chứ không phải được thổi bùng lên nhờ nguyên lý cho rằng người ngoài có thể can thiệp để cứu giúp sắc dân thiểu số Hồi giáo Shia sống khắp vùng Trung Đông.
Ngay Trung Quốc cũng cần nghĩ lại. Về mặt chiến thuật, có thể nói Krym đã đưa Trung Quốc vào tình thế khó ăn khó nói. Vì một tiền lệ về ly khai sẽ là lời nguyền rủa đen đủi, trong khi Trung Quốc hiện có Tây Tạng đang muốn ly khai; ngược lại, nguyên lý thống nhất đất nước lại là bất khả xâm phạm, trong khi Trung Quốc hiện có Đài Loan chưa thể thống nhất. Tuy vậy, về mặt chiến lược, quyền lợi của Trung Quốc rất rõ ràng. Nhiều thập niên qua, Trung Quốc tìm cách trỗi dậy trong hòa bình và lặng lẽ, tránh né một cuộc xung đột như nước Đức hung hăng đã kích hoạt chống lại nước Anh vào thế kỷ 19 để cuối cùng kết thúc trong chiến tranh. Nhưng, hoà bình trong thế giới của Putin lại là điều khó thành, vì bất cứ thứ gì cũng có thể trở thành cái cớ để động thủ, và bất cứ sự gây hấn tưởng tượng nào cũng có thể dẫn đến một màn phản công.
Hành động trước hay trả giá sau
Đối với Obama, đây là giờ phút quyết định: Obama phải thực sự lãnh đạo, thay vì chỉ hợp tác. Nhưng Krym không chỉ là việc của Mỹ, mà còn là của cả thế giới. Với những tai họa nhãn tiền, phản ứng của các nước đến nay nói chung đều yếu và manh mún. Trung Quốc và Ấn Độ hầu như chỉ đứng bên lề. Phương Tây thì áp đặt cấm vận visa và phong tỏa tài sản của một số phần tử Nga. Nhưng những phần tử bị nhắm tới thì lại coi đó là huy hiệu của danh dự.
Ít nhất, việc trừng phạt cũng cần bắt đầu cứng rắn hơn, vượt ngoài dự kiến hơn. Phong tỏa tài sản có thể tác động mạnh, vì như vụ cấm vận Iran trước đây cho thấy, giới tài chánh quốc tế rất sợ dính líu tới guồng máy luật lệ của Mỹ. Cũng vậy, các quan tham của Putin sẽ la lối ầm lên nếu nước Anh không cho London nhận đồng tiền có liên hệ với chế độ tại Nga. Pháp nên hoãn việc bán vũ khí cho Nga; và trong trường hợp phía đông Ukraine là nạn nhân kế tiếp của Nga, thì nước Đức nên sẵn sàng cấm vận xăng dầu và khí đốt Nga. Cần lên kế hoạch ngay bây giờ để giảm mức lệ thuộc của Châu Âu vào nguồn cung cấp năng lượng từ Nga và để NATO mạnh hơn.
Trong ngắn hạn, Ukraine cần nhiều tiền để cứu vãn kinh tế khỏi sụp đổ, và cần nhiều cải cách dài hạn với giúp đỡ của IMF, cùng những tư vấn từ nước ngoài mà Ukraine có thể chấp nhận được. Để đi bước đầu tiên theo hướng này, Mỹ cần lập tức thanh toán các khoản nợ cho IMF, khoản thanh toán đã bị Quốc hội ngăn chặn nhiều tháng nay.
Tuy nhiên, dù cho phương Tây có sẵn sàng dùng những biện pháp cứng rắn chống Putin chăng nữa thì những cường quốc đang trỗi dậy vẫn có thể không mấy hứng thú trong việc lên án Putin. Nhưng, thay vì im hơi lặng tiếng trước vụ sáp nhập phi pháp Krym, những cường quốc đang trỗi dậy kia rất nên suy nghĩ xem họ đang muốn sống trong một trật tự thế giới như thế nào. Họ muốn một trật tự trong đó hầu hết các quốc gia tôn trọng những thỏa ước quốc tế và biên giới đã vạch? Hay là họ thích một trật tự trong đó cam kết bị bẻ cong, biên giới bị xâm phạm và thỏa ước cứ thích là xé?
Nguồn: “The new world order”, The Economist, số ra ngày 22/3/2014

Bản tiếng Việt © 2014 Phan Trinh & pro&contra

Đối Phó Với Liên Bang Nga


Đối Phó Với Liên Bang Nga



Nguyễn-Xuân NghĩaViệt Báo Ngày 140328

Sau Vụ Ukraine, Hoa Kỳ Có Thể Làm Những Gì?

 * Barack Obama nhắm mắt trước bức danh họa "Gác Đêm" của Rembrandt * 


Sau khi đã thôn tính bán đảo Crimea, Tổng thống Vladimir Putin còn ỡm ờ dàn trận, trong nghĩa bóng lẫn nghĩa đen, để gây áp lực với Ukraine và mở rộng ảnh hưởng tại vùng biên vực giữa Liên bang Nga và Âu Châu. Với khả năng quân sự hiện nay, Liên bang Nga của Putin có thể dễ dàng xắn vào khu vực Đông Nam của lãnh thổ Ukraine, nhưng sẽ bị tiêu hao lực lượng khi chiếm đóng. Vì vậy, giả thuyết quân sự ấy có xác suất không cao.
 
Nhưng Putin vẫn có thể nghĩ đến nhiều cách khuynh đảo khác, vào nội tình Ukraine lẫn các quốc gia lân cận...

Gặp hoàn cảnh đó, là quốc gia lãnh đạo khối Tây phương, Hoa Kỳ có thể làm gì?

***
 
Dư luận Hoa Kỳ hiện còn tranh luận về sự ứng phó của Chính quyền Barack Obama sau năm năm quá tin vào Putin để cùng giải quyết nhiều vấn đề của thế giới (chuyện "reset" dớ dẩn và lới hứa "linh động" dại dột). Nếu nhìn xa hơn viễn cảnh của Obama, dù sao cũng sẽ về hưu sau năm 2016, người ta có thể nghĩ đến một hướng đối phó khác.

Trước hết, chuyện Crimea là "sự đã rồi". 

Số phận của Ukraine và 10 quốc gia vùng biên vực mà Putin muốn khuynh đảo để làm vùng trái độn cho Liên bang Nga mới là đáng kể. Đó là, từ Bắc xuống Nam, ba nước Cộng hòa Baltic (Estonia, Latvia, Lithuania), sáu nước Đông Âu là Ba Lan, Cộng hoà Tiệp, Slovakia, Hung, Romania và Bulgaria, qua đến Georgia nằm giữa Hắc hải và Biển Caspian. 

Với Crimea, lý luận đúng sai về pháp lý chỉ có tính cách ngoại giao và chính trị, tức là cần thiết mà không làm thay đổi được cục diện ít ra trong nhiều thập niên. Với các nước còn lại, ở khu vực chiến lược của Âu Châu, thì Hoa Kỳ và các nước Âu Châu phải suy nghĩ lại về đối sách. Suy nghĩ để chủ động đối phó, và tuyệt nhiên từ bỏ thái độ hiện nay là "chỉ phản ứng theo mỗi bước đi của Putin".

Việc chủ động đối phó phải khởi sự từ nỗ lực rà soát lại chiến lược phát triển - cả an ninh lẫn kinh tế - của Liên hiệp Âu châu, với sự hợp tác cũng an ninh và kinh tế của Hoa Kỳ. 

Vì Liên Âu chủ hòa và chỉ mong phát triển kinh tế, kể cả qua hợp tác với Liên bang Nga, Hoa Kỳ luôn luôn bị động khi có chuyện xảy ra tại Âu Châu. Nhưng khi phải quyết định thì lại gặp sự bất nhất của các nước Âu Châu với nhau. Hoàn cảnh đó tạo cơ hội cho Putin gây ly gián trong quan hệ Âu-Mỹ.

Từ việc rà soát chiến lược và quan hệ Âu-Mỹ-Nga, Hoa Kỳ cần nhìn lại và khẳng định vai trò của Minh ước NATO. 

Kết quả sẽ phải dẫn tới việc cụ thể là thực hiện hệ thống phòng thủ chiến lược BMD (phi đạn chống hỏa tiễn đạn đạo) tại Đông Âu và Trung Âu. Nghĩa là xúc tiến dự án đã được Hoa Kỳ thời George W. Bush đề nghị cho Ba Lan và Tiệp mà lại bị Obama hủy bỏ. Cũng trong hệ thống bảo vệ của NATO, Hoa Kỳ sẽ tăng cường sự hiện diện, dù chỉ tượng trưng, tại khu vực Baltic. Điều này đã có thể bắt đầu.

Song song là nỗ lực vận động bốn nước trong "Nhóm Visegrad" là Ba Lan, Hung, Tiệp và Slovakia có lập trường thống nhất hơn trước mối nguy của Liên bang Nga. Nhóm này được lập ra từ năm 1991 cho nhu cầu phối hợp giữa các nước từng là nạn nhân của Đế quốc Nga và Liên bang Xô viết, để ứng phó với Liên bang Nga. Nhưng sau đó, nội tình lại thiếu thống nhất cũng vì quan hệ kinh tế với nước Nga, thí dụ như quan điểm ôn hòa của Tiệp và Hung trong vụ Ukraine - chỉ vì lý do kinh tế. Xứ nào cũng muốn bênh Ukraine mà lại sợ bị thiệt về kinh tế.

Tiếp theo, Hoa Kỳ phải là quốc gia thực sự lãnh đạo khi vận động toàn khối Âu Châu cùng thống nhất đối sách và nếu được NATO bảo vệ thì các nước Âu Châu cũng phải góp phần tối thiểu để giữ vững tấm khiên này.

Riêng với Liên bang Nga, Hoa Kỳ cần có lập trường cương quyết hơn, với lời hăm dọa là sẽ hủy bỏ hai hiệp ước New START và INF (võ khí hạch tâm tầm trung, Intermediate-Range Nuclear Force). Trong một kỳ khác, chúng ta sẽ trở lại hồ sơ này, được thành hình từ thời Barack Obama và có lợi cho Nga hơn cho Mỹ. Nếu đặt lại vấn đề về START và INF, Hoa Kỳ chẳng tốn kém gì hơn nhưng thực tế mở ra cuộc thi đua võ trang sẽ làm Liên bang Nga hụt hơi.

Ra khỏi lãnh vực an ninh chiến lược, một lãnh vực an ninh khác cũng phải được Liên Âu thực hiện, với sự hỗ trợ, thực tế là lãnh đạo của Hoa Kỳ. Đó là an ninh kinh tế. Chính vì quá lệ thuộc về kinh tế với Liên bang Nga (năng lượng và đầu tư), Liên Âu đã trao cho Putin sợi dây xiết cổ. 

Hoa Kỳ có thể tháo gỡ sợi dây đó bằng cách giúp Liên Âu tìm ra nguồn năng lượng thay thế, kể cả khí đốt của Hoa Kỳ, từ nay phải được phép xuất cảng. Đồng thời, Hoa Kỳ phải khuyến khích Âu Châu vượt nỗi lo về môi sinh mà phát triển kỹ thuật khai thác dầu và khí từ đá phiến (fracking). Muốn như vậy, lãnh đạo nước Mỹ cũng phải thay đổi chiến lược năng lượng của mình, từ khai thác, bảo vệ môi sinh, sản xuất đến xuất cảng, và tận dụng sức mạnh của dầu, khí và cả than đá. 

Một quốc gia triệt để hỗ trợ Ukraine và sát cánh với Âu Châu và Hoa Kỳ là Canada. Xứ này sẽ sốt sắng hơn khi nước Mỹ tăng cường hợp tác và phát triển kỹ thuật fracking. Trong kho võ khí năng lượng để phá vòng kiềm toả của Nga, nước Mỹ không thể quên năng lượng Canada, cho tới nay vẫn bị kẹt ở ngoài biên giới Hoa Kỳ với dự án Keystone XL chưa được thông qua vì áp lực của các nhóm bảo vệ môi sinh trong hệ thống chính trị Obama.

Ngoài năng lượng và trong kinh tế, Hoa Kỳ còn có một định chế quốc tế thuộc vòng ảnh hưởng của mình vì nước Mỹ góp tiền nhiều nhất, chính là Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF. 

Định chế này có quy cách viện trợ theo bài bản cổ điển, với điều kiện máy móc và lý tưởng khiến quốc gia cầu viện dễ bị khủng hoảng chính trị nếu phải áp dụng. Thí dụ như phải chấm dứt chế độ trợ giá xăng dầu để giảm bội cho và chóng quân bình ngân sách. Hoa Kỳ có thể can thiệp để tránh tình trạng "giải phẫu không thuốc mê" như vậy. 

Putin muốn gây áp lực mọi mặt để chính quyền lâm thời của Ukraine tại Kyiv có thể sụp đổ vì những lý do kinh tế, xã hội và chính trị. Nhưng thật ra, liều thuốc đắng của IMF có thể khiến con bệnh Ukraine bị đột quỵ trước khi Putin ra tay. Cho nên, việc IMF đồng ý viện trợ cấp cứu 18 tỷ đô la cho Ukraine cần được tiến hành theo tinh thần khác: không hành hạ xứ này vì những di hại của chế độ Viktor Yanukovych mà theo đà phục hồi sẽ từng bước cải thiện cơ chế kinh tế Ukraine cho tự do và lành mạnh hơn.

Sau cùng, quan trọng và cấp bách nhất, Hoa Kỳ phải cương quyết bày tỏ tinh thần liên đới và sát cánh với dân chúng Ukraine. Đây là lúc nước Mỹ cần chứng tỏ rằng mình là một đồng minh khả tín, một quốc gia có khả năng lãnh đạo và đáng tin. Thông điệp này có giá trị cho cả Âu Châu và toàn thế giới. 

Tuần qua, việc hai đảng Dân Chủ và Cộng Hoà đánh nhau về ngân sách liên quan tới chính sách của Hoa Kỳ với IMF là một thông điệp bi hài. Nhìn rộng ra ngoài thì sự suy nhược về đối ngoại của nước Mỹ trong năm năm qua là một cám dỗ lớn cho Putin. Cho nên, việc điều chỉnh lại để cả khối Tây phương có một chiến lược đối phó tích cực và toàn diện hơn trong những năm tới sẽ phải bắt đầu từ nước Mỹ. 

Danh mục những điều cần làm ngay được tóm lược ở trên có thể là một lộ trình chuyển hướng....


Soure : dainamax tribune 

'Luân chuyển cán bộ, ai thắng cuộc?'

'Luân chuyển cán bộ, ai thắng cuộc?'

BBC      Cập nhật: 14:08 GMT - thứ bảy, 29 tháng 3, 2014
Ông Nguyễn Thanh Nghị
Ông Nguyễn Thanh Nghị, con trai Thủ tướng Dũng, làm Phó Bí thư Tỉnh ủy Kiên Giang.
Sau một quyết định luân chuyển, 44 vụ trưởng, thứ trưởng... bỗng trở thành phó tỉnh(1).
Nhiều người trong đó sau Đại hội sẽ lại ra Hà Nội làm Bộ trưởng, vào Trung ương.

Chỗ trống
"Luân chuyển cán bộ" là một giải pháp được Hội nghị Trung ương Ba, khóa VIII (6-1997), đặt ra. Nhưng phải tới Hội nghị Trung ương Sáu (lần 2), khóa VIII (1998), mới bắt đầu được Tổng bí thư Lê Khả Phiêu áp dụng.
Nếu những nỗ lực đưa tuổi về hưu lên 65 không thành công, Đại hội sắp tới hứa hẹn sẽ có rất nhiều "chỗ trống". Tuổi để không "tái ứng cử" của ủy viên Trung ương hiện là 60, tức là những người sinh từ năm 1956 trở về trước sẽ phải ra đi. Có tới 81/154 ủy viên trung ương (không tính Ban bí thư, Bộ chính trị) có năm sinh từ 1951-1956. Trong số này có 11 bộ trưởng, 15 bí thư tỉnh ủy và hai vị chủ tịch 2 thành phố Hà Nội, Sài Gòn.
Hy vọng không phải hoàn toàn tắt hết cho 15 vị ủy viên Trung ương sinh năm 1956. Nhưng cũng phải nhớ là ở Đại hội XI chỉ có 4 vị sinh năm 1951 (tương đương 1956 ở đại hội XII) lọt vào Trung ương: Phó chủ tịch Nước Nguyễn Thị Doan, Phó chủ tịch Quốc hội Huỳnh Ngọc Sơn, Ủy viên Thường vụ Quốc hội Đào Trọng Thi, Bộ trưởng Giàng Seo Phử. Năm 2011, cũng có ba vị bộ trưởng khác "cố đấm" nhưng không "ăn được xôi": Lê Doãn Hợp (1951), Trần Đình Đàn (1951), Phạm Khôi Nguyên (1950).
"Nếu Đại hội XII tổ chức vào đầu năm 2016, ông Trương Tấn Sang có thể chạm vào giới hạn tuổi tác (ông sinh ngày 21-1-1949) nhưng lại có lợi thế là mới giữ chức Chủ tịch Nước một nhiệm kỳ. Ông Nguyễn Tấn Dũng đang còn mấy tháng tuổi (ông sinh 17-11-1949) nhưng chỉ có một con đường "đi lên" vì đã có hai nhiệm kỳ Thủ tướng "
Tuổi về hưu của ủy viên Bộ chính trị là 65. Có ít nhất 4 ủy viên Bộ chính trị chắc chắn sẽ bị vấn đề tuổi tác loại ra khỏi danh sách nhân sự Đại hội 12: Nguyễn Phú Trọng (1944), Nguyễn Sinh Hùng (1946), Ngô Văn Dụ và Tô Huy Rứa (cùng sinh năm 1947). Cũng có không nhiều cơ hội cho: Lê Hồng Anh (12-11-1949), Phùng Quang Thanh (2-2-1949), Phạm Quang Nghị (2-9-1949) và Lê Thanh Hải (20-2-1950).
Hai ủy viên Bộ chính trị, Phạm Gia Khiêm (6-8-1944) và Hồ Đức Việt (13-8-1947), đã bị đánh rớt tại Đại hội XI. Chỉ có một tiền lệ là trường hợp của Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng, ông được tái cử để đưa lên ghế Chủ tịch Quốc hội khi chỉ còn vài ngày là 65 tuổi (18-1-1946).
Quy định tuổi tác và giới hạn hai nhiệm kỳ cũng có tác dụng tích cực trong một nền chính trị cả nể như Việt Nam. Ông Phạm Văn Đồng từng làm Thủ tướng từ năm 1955 đến 1987. Hồ Chí Minh, Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn đều giữ chức cho đến "hơi thở cuối cùng". Trước Đại hội VIII, Đỗ Mười đã 79 tuổi nhưng vẫn còn "bám trụ".

Bộ Tứ

Từ sau Đại hội IX, tuổi không tái ứng cử của "bộ tứ" được quy định là 67. Đại hội XI diễn ra vào tháng Giêng 2011, khi Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng vẫn còn 3 tháng... để trở thành Tổng bí thư (ông Trọng sinh ngày 14-4-1944).
Nếu Đại hội XII tổ chức vào đầu năm 2016, Ông Trương Tấn Sang có thể chạm vào giới hạn tuổi tác (ông sinh ngày 21-1-1949) nhưng lại có lợi thế là mới giữ chức Chủ tịch Nước một nhiệm kỳ. Ông Nguyễn Tấn Dũng đang còn mấy tháng tuổi (ông sinh 17-11-1949) nhưng chỉ có một con đường "đi lên" vì đã có hai nhiệm kỳ Thủ tướng (2).
Lãnh đạo Việt Nam
Dàn lãnh đạo Việt Nam được cử ở Đại hội Đảng trước có người ngấp nghé tuổi nghỉ hưu.
Tất cả các "Hồng y" đều muốn trở thành "Giáo hoàng" nhưng ai cũng phải giữ bề ngoài đạo mạo. Ai cũng cần người thay họ nói ra "tham vọng" đó (bằng cách đề cử trong những hội nghị trung ương cuối nhiệm kỳ). Trước Đại hội XI, cho dù uy tín của Nông Đức Mạnh thế nào, lời giới thiệu người kế vị của ông vẫn vô cùng quan trọng. Năm 2011, nếu không được Nông Đức Mạnh giới thiệu, Nguyễn Phú Trọng có thể chỉ là một ông già 67 tuổi về hưu.
Đề cử người kế vị của ông Nguyễn Phú Trọng chắc chắn vẫn có trọng lượng nhưng cách vận hành Bộ chính trị và Ban chấp hành Trung ương giờ đây đã phức tạp hơn. Nó chịu chi phối rất nhiều của vấn đề "thế - lực".
Nguyễn Tấn Dũng là ủy viên dự khuyết từ tháng 12-1986. Trong khi tháng 1-1994 Nguyễn Phú Trọng mới được đặc cách vào Trung ương. Tuy vào Bộ chính trị gần như trong cùng một thời gian, mãi tới năm 2006 Trương Tấn Sang và Nguyễn Phú Trọng mới có một vị trí có quyền lực ở tầm quốc gia. Trong khi từ năm 1996, Nguyễn Tấn Dũng đã được đưa vào nhóm năm người quyền lực nhất (Thường vụ Bộ chính trị) và lần lượt giữ những chức vụ mà các quyết định có thể "quy ra thóc", chi phối tới mọi ngóc ngách của hệ thống chính trị: Phó thủ tướng thường trực (1997); Thủ tướng (2006).
Người thắng cuộc là người có nhiều phiếu hơn. Người có nhiều phiếu hơn không hẳn vì uy tín lớn hơn mà còn có thể là người có nhiều "gót chân A-Sin" để sau khi bầu lên "đàn em" dễ dàng trục lợi.
Thành phần bỏ phiếu trong Đại hội không bị chi phối một cách trực tiếp bởi nguyên tắc lợi ích như trong Bộ chính trị, Trung ương, nhưng đại biểu lại thường là những người "phục tùng". Cho dù xác suất rất thấp, Đại hội vẫn có thể tạo ra bất ngờ nếu như các đại biểu hiểu là lá phiếu của họ có thể chỉ tập trung đặc quyền, đặc lợi cho một số người nhân danh "tập trung dân chủ".

Tại Sao Luân Chuyển?

"Luân chuyển", theo Nghị quyết Trung ương Ba, là để "giúp cán bộ trẻ có triển vọng, cán bộ trong quy hoạch được rèn luyện trong thực tiễn". Nhưng, tại sao một ông phó chánh án Toà án Nhân dân Tối cao lại phải "rèn luyện" bằng cách về tỉnh làm phó bí thư; một ông Viện trưởng Viện Nghiên cứu Châu Phi lại phải cần "thực tiễn" ở ủy ban nhân dân một tỉnh?
"Xuôi chèo mát mái thì đến hẹn họ mới đi cho. Đó là thời gian "nín thở qua sông" chứ không phải là "rèn luyện"
Ban Tổ chức Trung ương có bao giờ hỏi ông Nguyễn Văn Giàu, hai năm cách ly với chuyên môn ở Ninh Thuận (2004-2006) có giúp được gì cho ông khi làm Thống đốc. Bí thư tỉnh ủy là một nhà chính trị địa phương trong khi Thống đốc ngân hàng làm công việc của một nhà kỹ trị. Ban Tổ chức cũng có bao giờ hỏi ông Nguyễn Hòa Bình (luân chuyển về Quảng Ngãi 2010-2011), kinh nghiệm làm Bí thư có giúp gì để một ông tướng công an trở thành Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao. Đứng đầu "viện công tố" mà học được cái lắt léo của "chính trị gia" thì liệu có còn "độc lập, chỉ tuân theo pháp luật".
Cũng có những cán bộ được quy hoạch để làm chính trị khi về địa phương, bị đặt trước thách thức phải tự "tìm chỗ trống có cơ cấu" như Thứ trưởng Trần Thế Ngọc (trước đương kim Bí thư Trần Thị Kim Cúc ở Tiền Giang hồi năm 2010); Phải phản công tự vệ như phó ban Tư tưởng Văn hóa Phạm Quang Nghị khi về làm Bí thư Hà Nam (1998-2001). "Đấu đá nội bộ" cũng có tác dụng trui rèn bản lĩnh nhưng không phải là con đường nhất định để trở thành chính trị gia.
Không thể coi luân chuyển là "thử thách" khi đó chỉ là quy trình một cán bộ được Ban bí thư xếp sẵn ghế rồi "ẵm" về địa phương. Chỉ có rất ít trường hợp thất bại như Vũ Trọng Kim (Quảng Trị 2001-2005). Luân chuyển chỉ là cơ hội để các bên cài đặt nhân sự của mình vào những vị trí có cơ cấu. Cả khách lẫn chủ đều biết chịu đựng nhau. Xuôi chèo mát mái thì đến hẹn họ mới đi cho. Đó là thời gian "nín thở qua sông" chứ không phải là "rèn luyện".
Cho dù Đảng kiểm soát tuyệt đối về công tác cán bộ nhưng không có nghĩa là cán bộ của Đảng thì có thể ngồi bất cứ chỗ nào. Có những bí thư tỉnh ủy có thể làm bộ trưởng. Nhưng không có nghĩa ai có "hàm bộ trưởng" là có thể phiên ngang. Chính trị địa phương không giống như chính trị quốc gia và điều quan trọng hơn, viên chức hành chánh, viên chức chính trị và chính khách là những vị trí không thể luân qua, chuyển lại.

Hành Chánh Chuyên Nghiệp

Ông Nguyễn Xuân Anh (trái)
Ông Nguyễn Xuân Anh (trái) được bổ nhiệm ở địa bàn mà bố ông được cho có tầm ảnh hưởng.
Cho dù độc đảng hay đa đảng một quốc gia muốn ổn định đều cần phải thiết lập được một nền hành chánh công vụ chuyên nghiệp và độc lập. Các viên chức hành chánh, nếu muốn vẫn có thể "học tập đạo đức Hồ Chí Minh" và chính trị Marx - Lenin, nhưng điều họ bắt buộc phải học là chỉ được làm những gì pháp luật cho làm, tuân thủ các chuẩn mực hành chánh một cách chính xác và không cần sáng kiến.
Bộ máy hành chánh có thể hình thành từ trong các bộ, ngành, từ tỉnh, quận, huyện và phường xã. Đứng đầu các bộ máy hành chánh ở tất cả các cơ quan này là những người được đào tạo trong trường hành chánh. Họ là các chủ sự, các đốc sự và tham sự hành chánh. Họ có thể có hàm tương đương với thứ trưởng, phó tỉnh trưởng hay phó quận trưởng...
Các bộ trưởng, tỉnh trưởng có thể bị thay thế sau mỗi nhiệm kỳ, nhưng người đứng đầu bộ máy hành chánh thì chuyên nghiệp. Khi nào có bộ trưởng, tỉnh trưởng mới tới, họ lại giúp tập huấn để các chính trị gia biết giới hạn, thủ tục khi ứng xử các quyền hành chánh.
Viên chức hành chánh là một "ngạch" có thể chọn qua thi tuyển.

Viên chức chính trị bổ nhiệm (political appointee)

"Nếu họ đưa "em út" hay đưa những kẻ "chạy chức, chạy quyền" vào thì có thể sẽ bị phát hiện trong quá trình điều trần. Nếu người mà họ bổ nhiệm không được phê chuẩn thì họ sẽ rất có thể mất uy tín, phải từ chức hoặc chịu thất cử trong nhiệm kỳ kế tiếp"
Đây là một lực lượng hết sức hùng hậu, trung ương có các bộ trưởng, các thẩm phán (bao gồm cả chánh án), công tố viên (kiểm sát viên - bao gồm cả viện trưởng viên kiểm sát)...; địa phương có các giám đốc sở... Họ được bổ nhiệm bởi những chính trị gia được quốc hội hoặc các cuộc tổng tuyển cử bầu lên như thủ tướng, chủ tịch nước, chủ tịch tỉnh... và thường phải được phê chuẩn của quốc hội hay hội đồng nhân dân các cấp.
Quyền lựa chọn nhân sự cho các vị trí này thuộc về các chính trị gia. Nếu họ đưa "em út" hay đưa những kẻ "chạy chức, chạy quyền" vào thì có thể sẽ bị phát hiện trong quá trình điều trần. Nếu người mà họ bổ nhiệm không được phê chuẩn thì họ sẽ rất có thể mất uy tín, phải từ chức hoặc chịu thất cử trong nhiệm kỳ kế tiếp.
Tuy quyền lựa chọn là của cá nhân nhưng để có sự hậu thuẫn chính trị các chính trị gia buộc phải lựa chọn nhân sự từ nhiều nguồn khác nhau. Thay vì dựa vào "kho dự trữ cán bộ" của Bộ chính trị, Ban bí thư, Thủ tướng sẽ lựa chọn các bộ trưởng trong hàng các chính trị gia hoặc trong các nhà kỹ trị, các nhà văn hóa lớn; Chủ tịch nước sẽ chọn các thẩm phán không phải từ những người được quy hoạch mà có thể từ các luật sư nổi tiếng, giỏi nghề nghiệp và liêm chính.

Chính Trị Gia

Công tác cán bộ như hiện nay không thể làm xuất hiện chính trị gia cho dù vẫn có những chức danh được đặt vào thông qua bầu cử. Chính trị gia thực thụ phải là những người trưởng thành từ các hoạt động chính trị, xã hội... được công chúng biết đến và chọn lựa.
"Nếu đội ngũ kế cận chỉ gồm những người được cha chú "lôi từ trong túi áo ra" thì cho dù họ lên tới cấp nào cũng chỉ có thể hành xử như hàng thuộc hạ"
Nhà báo Huy Đức
Không phải tự nhiên, cho dù có học vấn cao hơn, phẩm chất chính trị gia của lãnh đạo càng ngày càng tụt xuống. Trước đây, các lãnh đạo địa phương được điều ra Trung ương thường nhờ thành tích "đổi mới" (như Võ Văn Kiệt, Đoàn Duy Thành, Nguyễn Văn Chính - Chín Cần...). Ngày nay, không ai biết thành tích ở địa phương của các bí thư tỉnh ủy được đưa lên là gì. Không có môi trường chính trị để những người trở thành lãnh đạo thực sự cao hơn các đồng chí của họ "một cái đầu", các nhà lãnh đạo đã chọn những kẻ kém mình "một cái đầu" cho dễ bảo.
Hiện tượng xuất hiện các nhà lãnh đạo dưới 40 tuổi có học vấn cao, được đào tạo ở Mỹ, ở Canada như Nguyễn Thanh Nghị (phó bí thư Kiên Giang), Nguyễn Xuân Anh (phó bí thư Đà Nẵng) lẽ ra phải được coi là tích cực. Nhưng họ lại đang trở thành đối tượng để dư luận "xì xào". Vấn đề là tại sao lại chỉ có hai vị ấy mà không phải là những người xuất sắc khác trong số hàng chục ngàn bạn trẻ vừa du học trở về.
Nếu không có một môi trường chính trị minh bạch thì những người tử tế rất khó có chỗ đứng trong giới cầm quyền. Nếu không có một môi trường tranh cử công khai thì người tài không thể xuất hiện và được thử thách. Nếu đội ngũ kế cận chỉ gồm những người được cha chú "lôi từ trong túi áo ra" thì cho dù họ lên tới cấp nào cũng chỉ có thể hành xử như hàng thuộc hạ.
(1) Trong 44 cán bộ được luân chuyển đợt này, có 2 ủy viên dự khuyết Trung ương, 19 thứ trưởng và tương đương; 25 cục trưởng, vụ trưởng và tương đương; 3 cán bộ nữ. Theo Quyết định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, 25 người giữ chức Phó Bí thư tỉnh ủy, thành ủy; 19 người giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố.
(2) Theo Nghị quyết Trung ương Ba, Khóa VIII: “Cán bộ đứng đầu từ cấp huyện, quận trở lên không giữ một chức vụ quá hai nhiệm kỳ”.
Bài viết gốc với tựa đề 'Luân Chuyển Cán Bộ và Nhân Sự Cho Đại Hội' đã được đăng tải trên trang Facebook cá nhân của nhà báo, blogger Osin Huy Đức tại địa 
chỉ https://www.facebook.com/Osinhuyduc?fref=ts

Theo BBC