“NGÀY TẬN THẾ” CỦA KI-TÔ GIÁO
(Christian Apocalypse)
Trần Chung Ngọc
ngày 26 tháng 5, 2008
“NGÀY TẬN THẾ” CỦA KI-TÔ GIÁO
(Christian Apocalypse)
Hay
Tín Đồ Ki-tô Việt Nam Có Được Chúa “Cứu Rỗi” Không?
Đó Là Câu Hỏi. Vậy Câu Trả Lời Là Gì?
1. Vài Lời Nói Đầu.
Tháng 7 năm 1999, trước những khám phá xác tín nhất của khoa vũ trụ học, và trước những hiểu biết của con người ngày nay về cấu trúc của trái đất, Giáo Hoàng John Paul II đã bắt buộc phải tuyên bố: "thiên đường không phải là một nơi trừu tượng mà cũng chẳng phải là một nơi cụ thể ở trên các tầng mây” (Heaven is neither an abstraction nor a physical place in the clouds), và “Hỏa ngục không phải là sự trừng phạt áp đặt từ bên ngoài bởi Thượng đế, mà là trạng thái hậu quả của những thái độ và hành động mà con người đã làm trong đời này” (Hell is not a punishment imposed externally by God, but the condition resulting from attitudes and actions which people adopt in this life). Như vậy là Giáo Hoàng đã bác bỏ phần giáo lý quan trọng nhất của giáo hội Ca-Tô: “người nào tin Chúa thì sẽ được Chúa cho lên thiên đường sống cuộc sống đời đời bên ngài, kẻ nào không tin sẽ bị Chúa phán xét đày vĩnh viễn xuống hỏa ngục ở trong lòng đất”. Củ cà-rốt thiên đường thường dùng để khuyến dụ những người nhẹ dạ cả tin, và cây gậy hỏa ngục để hù dọa những người yếu bóng vía, sau cùng đã không còn tác dụng gì đối với nhân loại trong thời đại văn minh tiến bộ ngày nay.
Dù vậy, không thiếu gì tín đồ Ki Tô Giáo ngày nay vẫn mơ tưởng đến “ngày tận thế” để Chúa Giê-su của họ có thể làm cho phần hồn của họ nhập với xác chết của họ, bất kể là họ đã chết từ bao giờ, ở đâu, chết trên giường hay tan xác ngoài mặt trận v..v.. và cho họ lên “thiên đường” ở trên các tầng mây, hưởng nhan thánh Chúa. Đó là tín ngưỡng, là quyền tin của mọi người, nhưng trong vấn đề học thuật, tôi tự hỏi: “Thực ra thì các tín đồ Việt Nam theo Ki-Tô-Giáo có được Chúa “cứu rỗi” hay không? Căn cứ vào đâu? Và thực ra thì những gì sẽ xẩy ra trong “ngày tận thế”? Chúng ta không có cách nào khác là tìm hiểu về “ngày tận thế” trong Thánh Kinh của Ki Tô Giáo. Thực ra thì chúng ta không cần tìm hiểu về “ngày tận thế” cũng có thể khẳng định là theo huyền thoại của dân Do Thái về Giê-su thì Giê-su xuống trần chỉ để cứu người Do Thái mà thôi. Trong Tân Ước, chính Giê-su đã khẳng định như vậy và còn coi người phi Do Thái là chó. Vậy thì, dựa theo Thánh Kinh thì những lời các “bề trên” dạy cho tín đồ Việt Nam về một sự “cứu rỗi” của Giê-su chỉ là những lời lừa dối để khuyến dụ những kẻ nhẹ dạ cả tin. Bài viết này nằm trong chủ trương giải hoặc, giúp con người bỏ đi những điều huyễn hoặc mà ngày nay không còn thích ứng với kiến thức của nhân loại.
Vậy chúng ta hãy tìm hiểu chút ít về “ngày tận thế” để có thể có một câu trả lời chính xác về câu hỏi: “Các tín đồ Ki Tô Giáo Việt Nam có được cứu rỗi trong ngày tận thế không?”
Trước thế kỷ 16, trước khi Martin Luther bắt đầu dịch Kinh Thánh [Kinh mà Ki Tô Giáo cho là do các thánh viết theo sự mạc khải của Thiên Chúa chứ không phải là Kinh về những điều thánh thiện] ra tiếng Đức và từ đó Kinh Thánh được dịch sang tiếng các nước khác, tín đồ Ca-tô không được phép đọc Kinh Thánh. Vi phạm có thể bị tịch thu tài sản hay xử tử hình. Tại sao vậy? Giáo hội Ca-tô giải thích là sợ tín đồ thấp kém đọc Kinh Thánh hiểu sai ý Chúa. Hiểu ý Chúa là độc quyền của giới giáo sĩ, từ giáo hoàng xuống tới linh mục [sự thực thì linh mục cũng chỉ nhắc lại những gì mà các “bề trên” muốn họ phải nhắc cho tín đồ ở dưới], tuy rằng “giáo hội dạy rằng”: “Thiên Chúa không thể hiểu được” (God is incomprehensible). Thật ra thì giáo hội sợ tín đồ thấy rõ những chuyện sai lầm và hoang đường trong Kinh Thánh, và những giáo lý ngụy tạo của giáo hội, đưa đến tình trạng giáo hội mất đi quyền lực trên đám tín đồ, và lẽ dĩ nhiên, thu hoạch giảm sút. Điều này đã xảy ra trong những nước Âu Mỹ văn minh tiến bộ. Linh mục, nữ tu, và giáo dân bỏ đạo hàng loạt. Các nhà thần học đã lên tiếng phê bình, chất vấn giáo hội về những tín lý như Đức Mẹ Thụ Thai Vô Nhiễm, Giáo hoàng không thể sai lầm, Chúa sống lại và bay lên trời, Tuyệt thông v..v.. đến độ Giám mục Tin Lành John Shelby Spong đòi phải dẹp bỏ vai trò cứu thế của Giê-su. [Xin đọc bài “Giê-su Như Là Đấng “Cứu Thế”: Một Vai Trò Cần Phải Dẹp Bỏ” trên trang nhà Giao Điểm trước đây].
Nhìn vào số tín đồ trong các nước kém mở mang ở Phi Châu, Nam Mỹ và Phi Luật Tân ở Á Châu, chiếm hơn 70% tổng số tín đồ Ca-tô hiện nay trên thế giới, chúng ta thấy ngay tại sao Ca-tô Giáo có đông tín đồ: Vì tuyệt đại đa số các tín đồ này thuộc những thành phần thấp kém nhất trong xã hội, ít học, kém hiểu biết, ngây thơ, ngờ nghệch. Số tín đồ này có thể trong nhà có cuốn Kinh Thánh nhưng chỉ dùng nó làm vật hứng bụi (dust collector), chưa bao giờ mở cuốn Kinh Thánh ra đọc vì có đọc cũng không hiểu, và, ngoài việc đã bị nhồi sọ từ nhỏ, chỉ được nghe giảng trong nhà thờ những đoạn chọn lọc ngoài toàn bộ vấn đề (out of context) thuộc loại mê tín dị đoan của các linh mục chuyên nghề mê hoặc các tín đồ vốn không có nhiều đầu óc. Cũng vì vậy mà nhiều chuyên gia về tôn giáo đã phân tích vấn đề Ki-tô Giáo và cho rằng Ki-tô Giáo, đặc biệt là Ca-tô Giáo Rô-ma, chỉ gồm có ba hạng người:
1). Tuyệt đại đa số tín đồ thuộc giai cấp cùng dân, thấp kém, ít hiểu biết. Đối với hạng người này, niềm tin vào lời hứa hẹn được Chúa làm cho sống lại, bất kể là đã chết từ bao giờ, cùng “Chúa” bay lên thiên đường, trong ngày phán xét là một sự an ủi lớn.
2). Giới giáo sĩ (từ giáo hoàng trở xuống) xảo quyệt lợi dụng sự ngờ nghệch và lòng mê tín của đám giáo dân thấp kém để tự tạo quyền lực, ăn trên ngồi trước (đưa ra những tín lý như rửa tội, xưng tội, tha tội, ban thánh thể [ăn thịt và uống máu Chúa], quyền tuyệt thông [excommunication] v..v...) , vơ vét của cải (gia tài của Vatican nay lên đến trên một ngàn tỷ đô-la, các giáo xứ ở Mỹ đã phải tiêu trên 2 tỷ đô-la để bồi thường cho các nạn nhân của trên 4000 linh mục loạn dâm).
3.) Những học giả, nhà thần học thuộc loại bất lương trí thức (intellectual dishonesty) theo như nhận định của Alfred Loisy, Giáo Sư tại Viện Đại Học của Ca-tô Giáo Rô-ma ở Pháp từ 1889 đến 1908. Alfred Loisy thấy khó có thể tin là những học giả hiểu biết (learned scholars), đặc biệt là những đồng nghiệp Ca Tô của ông (his Catholic colleagues), vẫn tiếp tục biện hộ cho những điều mê tín thuộc loại siêu nhiên. Chúng ta hãy đọc một đoạn ngắn của Loisy:
“Trong vấn đề siêu nhiên được hiểu như vậy (như viết trong Kinh Thánh) chúng ta không thể tin vào phần nào, vì lý do rõ ràng là nó không có thực, là nó đã bị tan ra từng mảnh nhỏ, những mảnh này chỉ được giữ lại với nhau cho đến ngày nay bởi sự ngu đần của đám người cả tin, và bởi sự chủ tâm mù quáng của những nhà thần học không chịu nhìn vào những gì ở ngay trước mắt; chúng ta cũng không tránh khỏi nghi ngờ là những nhà thần học này đôi khi đã dự vai trò có thể xếp họ vào loại những kẻ theo chủ nghĩa cơ hội, những chính trị gia biện giải cho Ki Tô Giáo, những chiến thuật gia lý giải Kinh Thánh, thay vì xếp họ vào hạng những người thực sự và chính mình tin vào thuyết siêu nhiên giả dối này, cái thuyết mà có vẻ như họ đã quyết định áp đặt nó như một gánh nặng trường tồn trên những đầu óc cả tin. Chúng tôi bảo cho họ biết, một lần dứt khoát, rằng những tham vọng của họ là phi lý và cho rằng Kinh Thánh và Giáo hoàng không sai lầm là một sự chống lại, mà họ không được phép, đối với kiến thức đúng.” 1
Nhận định của Alfred Loisy như trên có phải là để “bôi nhọ” Ki-tô Giáo hay không? Chắc chắn là không, vì chúng ta có thể chứng minh sự chính xác của những nhận định trên qua lịch sử của Giáo hội Ca-tô Rô-ma, qua những tín lý mà tuyệt đại đa số tín đồ vẫn còn tin trong thời đại ngày nay, và nhất là qua sự phân tích cuốn sách mang tên “Kinh Thánh” của Ki-tô Giáo.
Một trong những sự ngu dại của đám người cả tin, nhất là những người không phải là Do Thái, là tin vào ngày tận thế, thường được rao giảng trong các nhà thờ, hứa hẹn một sự “cứu rỗi” của Giê-su. Trong bài này tôi xin luận về điều “tiên tri” về “Ngày Tận Thế” của Ki-tô Giáo, viết trong sách “Khải Huyền” ở cuối Tân Ước, và chứng minh rằng sách này thuộc loại cực kỳ mê tín hoang đường còn sót lại trong thế giới văn minh tiến bộ ngày nay, và sách này đã từng gây bao khổ nạn cho nhân loại, kéo dài cho đến tận ngày nay..
ooooo ۩ ooooo
2. “Ngày Tận Thế” Của Ki-tô Giáo.
Niềm tin vào “Ngày Tận Thế” của Ki-tô Giáo nằm rải rác trong Cựu Ước, trong nửa cuốn sau của sách Daniel (nửa cuốn trước chỉ thích hợp với trẻ con trong những lớp học sáng chủ nhật ở nhà thờ) và trong sách Khải Huyền (Revelation) ở cuối Tân ước.
Sách Khải Huyền đã được Tổng Thống Hoa Kỳ Thomas Jefferson “khen tặng” một cách rất chính xác như sau: “Sách Khải Huyền là những lời nói dốt nát của một kẻ điên khùng” [President Thomas Jefferson referred to the Book of Revelation as “the ravings of a maniac”, West County Times, California, USA, Editor Steven Morris, 14 August, 1995].
Kẻ điên khùng dốt nát này là ai? Kinh Thánh viết rõ tên sách Khải Huyền: “The Revelation of Jesus Christ”, có nghĩa là “Lời khải thị của Giê-su Ki Tô”, và câu đầu trong sách Khải Huyền viết rõ: “Rev. 1: 1: The Revelation of Jesus Christ, which God gave Him to show to His servants – things which must soon take place, He made it known by sending his angel to his servant John....” [TCN tạm dịch: Lời khải thị, hay mạc khải, của Giê-su Ki-tô mà Chúa Cha đã ban cho ông ta để tỏ cho các tôi tớ của ông ta thấy những điều sắp phải xảy ra. Giê-su tỏ điều khải thị này (cho các tôi tớ) bằng cách sai thiên sứ của ông ta đến với kẻ tôi tớ của ông ta là John (Gio-an hay Giăng)...].
Chúng ta thấy, trong đạo Giê-su không có tín đồ mà chỉ toàn là tôi tớ rất hãnh diện được làm tôi tớ. Vậy theo tổng thống Jefferson và theo khẳng định ở đầu sách Khải Huyền thì Giê-su chính là kẻ dốt nát, điên khùng. Nếu Giê-su dốt nát điên khùng, thì chuyện những tôi tớ của ông ta, thí dụ như các linh mục, mục sư không phải là người Do Thái, cũng như các tín đồ hoặc tân tòng như Đỗ Mạnh Tri, Lê Anh Huy, Huỳnh Thiên Hồng, Nguyễn Huệ Nhật, Khuất Minh, Phan Như Ngọc, Trần Long v..v.. còn dốt nát điên khùng hơn ông ta không phải là chuyện lạ. Bởi vì Kinh Thánh viết rõ, Matthew 10:24, Giê-su phán: “Tôi tớ không hơn được chủ” (a servant is not above his master). Chúng ta nên hiểu, dốt nát điên khùng ở đây là nói về phương diện hiểu biết trí thức chứ không phải về vấn đề tín ngưỡng, một quyền căn bản của con người.
Khổ nạn của Ki-tô giáo là hầu hết tín đồ đều tin những điều John kể lại trong sách Khải Huyền chính là những lời khải thị của Giê-su, do đó không thể sai lầm. Nhưng họ lại không đọc sách Khải Huyền bằng một đầu óc phân tích để thấy rằng cuốn sách này chỉ thích hợp với những đầu óc thuộc thời bán khai, thời mà đầu óc của tuyệt đại đa số quần chúng chưa được mở mang, đầy mê tín dị đoan, sợ thần sợ thánh, cho nên họ chỉ tin vào vài điều hứa hẹn viển vông trong sách này mà các giới chăn chiên bịp bợm đã chọn lọc lấy ra để giảng cho họ. Họ chỉ cần có vậy, còn sự dốt nát điên khùng của Giê-su, hay của chính họ, thì họ chẳng bao giờ quan tâm đến hoặc không đủ khả năng để nhận ra.
Nhận định của Tổng Thống Thomas Jefferson như trên đúng hay sai? Muốn trả lời câu hỏi này, không gì bằng đi vào chính nội dung của sách Khải Huyền. Và đây chính là mục đích của tôi khi viết bài phân tích này.
Trước hết, chúng ta cần hiểu rõ thế nào là “khải thị” hay “mạc khải” (revelation). Trong Ki- tô Giáo, khải thị có nghĩa là “bật mí” hay “tiết lộ bí mật” (disclosure), những lời mà Chúa Cha trực tiếp tiết lộ với con người. Điều kiện cần và đủ để tin vào những lời “khải thị” này là trước hết chúng ta phải tin là đích thực có một God. Phiền một nỗi, trong mấy ngàn năm nay, không một nhà thần học nào có thể đưa ra một luận cứ có thể thuyết phục người đời là đích thực có một ông God, lẽ dĩ nhiên là God của Ki Tô Giáo. Nhưng chúng ta hãy bỏ qua việc thảo luận về sự hiện hữu hay không hiện hữu của God của Ki Tô Giáo, và tạm chấp nhận sách Khải Huyền chính là những lời mạc khải của Giê-su Ki-tô cho người tôi tớ John.
Về vấn đề “mạc khải”, trong cuốn Thời Đại Lý Trí, Thomas Paine có cho chúng ta biết thế nào là ý nghĩa đích thực của từ “mạc khải”, đại khái như sau. Mạc khải là lời “bật mí” trực tiếp của God (giả thử là có God) cho người nào đó. Nhưng đó chỉ là những lời “mạc khải” đối với cá nhân đó. Khi cá nhân đó tuyên bố đó là những lời “mạc khải” của God thì đối với chúng ta không còn là “mạc khải” nữa, vì cá nhân đó có thể mắc bệnh hoang tưởng, hay cố tình lừa dối, hay nói láo. Cho nên chúng ta không cần phải tin đó là những lời mạc khải của God, giả thử là có God. Trong cuốn Những Sai Lầm Của Môi-Se (The Mistakes of Moses), Robert G. Ingersoll, nhà tư tưởng tự do vĩ đại nhất của Mỹ vào cuối thế kỷ 19 đã viết:
“Người ta bảo tôi rằng cuốn sách đó (cuốn Kinh Thánh) là những lời mạc khải của God. Tôi cóc cần biết là nó có phải là được mạc khải hay không. Vấn đề là trong đó viết có đúng hay không. Nếu đúng thì không cần phải được mạc khải. Không có gì cần đến sự mạc khải trừ phi đó một sự giả tạo hay một sự sai lầm.” 2
Thật vậy, vì là giả tạo hoặc sai lầm, nên người ta đã lôi God ra làm con ngoáo ộp để dọa những kẻ đầu óc yếu kém với tâm cảnh luôn luôn ở trong tình trạng sợ hãi God, phải tin đó là những lời của God. Đã là của God thì không thể sai lầm, và không tin thì không được lên thiên đường. Đây là xảo thuật của giới giáo sĩ lừa dối đám tín đồ thấp kém, vì ngày nay đa số nghiên cứu của các học giả chuyên gia về tôn giáo, cộng với thực tế, đã chứng tỏ rằng sách Khải Huyền, nói về “Ngày Tận Thế”, là để cho những đầu óc thuộc loại Oxymoron tin, và cũng chính vì vậy mà trên thế gian này đã xẩy ra bao nhiêu thảm trạng bắt nguồn từ niềm tin nhảm nhí này, như tôi sẽ chứng minh qua vài tài liệu trong một phần sau.
“Ngày Tận Thế” là niềm tin đặc thù của truyền thống Do-Thái – Ki-tô (Judea-Christian tradition). Trong khi truyền thống Hi Lạp, Phật Giáo, Ấn Độ Giáo đều quan niệm sự vận hành của vạn pháp trong vũ trụ, kể cả vũ trụ, có tính cách tuần hoàn theo từng chu kỳ, thí dụ bốn mùa, hết năm cũ sang năm mới; sinh, tử, rồi lại tái sinh v..v.. thì Kinh Thánh Do-Thái – Ki-tô quan niệm vũ trụ theo đường thẳng: bắt đầu bằng một sự “sáng tạo” của Thiên Chúa và tận cùng bằng “Ngày Tận Thế”, đặc biệt chỉ áp dụng cho loài người trên trái đất. Nhưng ngày nay, trước những khám phá của khoa học về vũ trụ và con người, thuyết “sáng tạo” như được viết trong cuốn Kinh Thánh đã chứng tỏ đó chỉ là một sản phẩm dẫn xuất từ những sự mê tín trong thời bán khai (a product derived from primitive superstitions), cho nên “ngày tận thế” trở thành sự hoang tưởng dốt nát của một kẻ điên khùng, đúng như Tổng thống Thomas Jefferson đã nhận định. Thật vậy, từ chính Giê-su, và sau Giê-su, đã có biết bao các nhà tiên tri thuộc truyền thống Do-Thái – Ki- tô (kể cả Hối Giáo), tin vào Kinh Thánh, tiên đoán là ngày tận thế đã gần kề, nhưng tất cả đều trật lất. Chính Chúa đã trật thì tôi tớ của Chúa làm sao mà trúng cho được. Đọc những sách tiên đoán về ngày tận thế, chúng ta thấy có cả trăm vụ khác nhau. Tất cả các vụ này đều có một đặc tính chung: đó là tiên đoán bậy, trật lất. Tại sao? Vì tất cả đều dựa trên một niềm tin nhảm nhí, mù lòa tin bướng tin càn.
Trong bài này, hiển nhiên tôi không thể liệt kê ra hết những vụ tiên đoán này, mà chỉ có thể đưa ra vài trường hợp điển hình, bắt đầu bằng “Chúa” Giê-su, “vua của các vua”, “ánh sáng của ánh sáng” (sic).
Trước hết, đọc Kinh Thánh chúng ta thấy rõ là Giê-su tin rằng mình sẽ trở lại trần trong một tương lai rất gần để “bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết” theo như Kinh Tin Kính của các Tông Đồ mà các tín đồ Ki-tô Giáo đều phải tin. Ngày Giê-su trở lại trần báo hiệu ngày tận thế trong tương lai theo quan niệm của Ki-tô Giáo và được viết rõ trong sách Khải Huyền mà chúng ta sẽ bàn về sau. Những đoạn sau đây trích dẫn từ Kinh Thánh: Cựu Ước Và Tân ước, Hội Quốc Tế Xuất Bản, 1994; Holy Bible: The New King James Version, American Bible Society, New York, 1982; Holy Bible: New International Version, International Bible Society, Colorado Springs, 1984; có thể chứng minh cho điều nhận xét trên:
Matthew 16: 27-28: “Vì Ta (Con của người: Giê-su) sẽ trở lại với các thiên sứ trong vinh quang của Cha Ta để thưởng phạt mỗi người tùy theo việc họ làm. Chắc chắn là, Ta cho các con biết: một vài người đang đứng đây sẽ còn sống cho đến khi thấy Ta vào trong Vương quốc của Ta.”
Matthew 24: 34: “Chắc chắn là, Ta cho các con biết, thế hệ này chưa hề qua các biến cố ấy [về ngày trở lại của Giê-su] đã xảy ra rồi.”
Mark 9: 1: Chúa bảo các môn đệ: “Chắc chắn là, Ta cho các con biết, một vài người đang đứng đây sẽ còn sống khi nhìn thấy Nước Trời với uy quyền”
Mark 13: 30: “Chắc chắn là, thế hệ này chưa hề qua các biến cố ấy đã xảy ra rồi.”.
Luke 21: 27, 32: “Rồi nhân loại sẽ thấy ta giáng xuống trong mây trời với vinh quang và uy quyền to lớn.. Chắc chắn là, Ta cho các con biết, thế hệ này chưa hề qua các biến cố ấy đã xảy ra rồi.”
John 14: 3: “Và nếu Ta đi chuẩn bị chỗ ở cho các con, Ta sẽ trở lại đón các con về với ta; ta ở đâu các con cũng sẽ ở đấy”
Chúng ta thấy, trong cả 4 Phúc Âm: Matthew, Mark, Luke và John, Giê-su đều nói chắc chắn là ông ta sẽ trở lại trong một ngày rất gần, khi mà thế hệ của ông chưa qua, và vài đệ tử của ông còn sống. Nhưng điều chắc chắn của Giê-su thì lại chẳng chắc chút nào, vì điều này đã không hề xảy ra, chứng tỏ rằng Giê-su bị bệnh tâm thần, mắc bệnh chứng hoang tưởng (paranoia), vì bản thân có một lý lịch không mấy tốt đẹp (là đứa con hoang), và một tâm cảnh cuồng tín tôn giáo khi đọc và tuyệt đối tin những điều trong Cựu Ước, do đó sinh ra nhiều ảo giác và tự cho mình chính là “con duy nhất của God”, “có nhiệm vụ chuộc tội cho nhân loại”, “là đấng cứu thế”, “sẽ trở lại trần phán xét kẻ sống cũng như kẻ chết” v..v.. như nhiều nhà phân tâm học, điển hình là các Bác sĩ phân tâm Albert Schweitzer, George de Loosten, William Hirsch, và Binet-Sanglé, và Tiến sĩ Emil Rasmussen đã chứng minh. [Xin đọc cuốn Chúa Giê-su Là Ai? Giảng Dạy Những Gì? của Trần Chung Ngọc, Giao Điểm xuất bản, 2002, chương I).
Nói tóm lại, những lời hứa hẹn của Giê-su về ngày trở lại của ông ta chỉ là hứa hão, sai lầm. Nếu Giê-su sai lầm về điều này cũng như nhiều điều khác rải rác trong Tân Ước, thì có gì bảo đảm là những lời hứa hẹn khác của ông ta về vai trò cứu thế, về quyền phán xét người sống cũng như người chết v..v.. là đúng. Nếu chính những lời của Giê-su không có gì để đảm bảo là đúng, thì những gì mà các giáo hội Ki Tô Giáo giảng dạy về Giê-su chẳng qua chỉ là những luận điệu thần học để dụ dỗ con người vào vòng mê tín, một vũ khí để giới giáo sĩ ngự trị trên đám tín đồ thấp kém. Giáo điều Ca-Tô Giáo Rô-ma và Tin Lành đã chứng tỏ như vậy. Một số không nhỏ các Giáo hoàng, Hồng Y, Tổng Giám mục, Giám mục, Linh Mục Ca-tô, Mục sư Tin Lành phạm đủ thứ tội ác, kể cả giết người, loạn luân, loạn dâm v..v.. nhưng vẫn tự nhận là “đức thánh cha”, là đại diện của Giê-su, là “cha cũng như Chúa”, là “người có nhiệm vụ đi rao giảng Tin Lành (sic) của Chúa”, có quyền cho hay không cho tín đồ hiệp thông với Chúa, có quyền tha tội cho con chiên v..v.. Sau khi xưng thú 7 núi tội lỗi trước thế giới, Giáo hội Ca-tô Rô-ma vẫn tự nhận là công cụ duy nhất để đưa “cả thế giới” đến “cứu rỗi”. Chỉ tội nghiệp cho đám tín đồ thấp kém, nhẹ dạ cả tin, ngờ nghệch, tiếp tục tin vào quyền năng tự tạo của Giáo hội và vào một cái bánh vẽ trên trời.
Trước khi đi vào việc phân tích vài đoạn trong sách Khải Huyền, tôi xin tóm lược nội dung sách này với vài lời bàn ngắn. Sau khi đọc xong phần tóm lược này, nếu quý độc giả còn có can đảm và còn có hứng thú thì xin đọc tiếp, còn nếu sợ lãng phí thì giờ vô ích thì thôi. Riêng đối với tôi, đọc và phân tích Kinh Thánh là một điều thú vị, vì đó là những dịp để tôi cười thoải mái, do đó sức khỏe tăng cường để tiếp tục làm công việc mà tôi đang làm.
Ngoài cuốn King James Version, tôi còn có vài cuốn Kinh Thánh khác, trong số này có cuốn Holy Bible , New International Version, trong đó Tân Ước được in hai màu chữ: đen và đỏ. Những hàng chữ đỏ là đích thực của Giê-su nói. Còn những hàng chữ đen thì của người khác. Ở cuối cuốn Holy Bible này có những đoạn tóm tắt nội dung các sách trong Holy Bible và sau đây là tóm tắt Sách Khải Huyền, nguyên văn như sau:
“Sách Khải Huyền là loại sách duy nhất trong Tân ước. Đó là cuốn sách nói về ngày tận cùng của thế giới hiện nay và sự bắt đầu của “một thiên đường mới và một trái đất mới.” [Trái đất chỉ là một mảnh văng ra từ mặt trời và trải qua trên 4 tỷ năm mới có tình trạng ngày nay. Một trái đất mới mà không có một mặt trời mới là chuyện của những người thuộc thời bán khai] Sách Khải Huyền được viết bởi tông đồ John trong khi đang bị đi đày ở đảo Patmos. Khi John đang ở đó thì Giê-su [đã chết và táng xác trước đó ít ra là 30 năm] ban cho ông ta một viễn kiến về những gì sắp sửa xảy ra trong tương lai. John viết cuốn sách này để cho những tín đồ Ki Tô đang bị bạo hành tin tưởng rằng Thiên Chúa kiểm soát tất cả mọi sự xảy ra trên trái đất này. [Nếu vậy thì tại sao Thiên Chúa lại để cho những tín đồ của Thiên Chúa bị bạo hành? Ngoài ra, phải chăng tất cả những bệnh tật, những sự xấu ác, những sự tàn bạo v..v.. xảy ra trên trái đất này đều là “tác phẩm” của Thiên Chúa cả? Thực tế cho thấy Thiên Chúa chẳng kiểm soát được cái gì xảy ra trên trái đất này cả, nhất là kiểm soát được trang nhà Giao Điểm hay TCN đang viết bài này.] Viễn kiến [hay ảo tưởng?] của John chứng tỏ Giê-su là người nắm quyền ngự trị trên mọi người và trên mọi thứ trên trái đất - ngay cả những chính phủ mạnh của con người - [Thật vậy hay sao?? Thực tế cho thấy Giê-su chỉ có thể ngự trị trong những đầu óc thiếu oxy. Trong vụ án Nguyễn Văn Lý vừa qua, có một người đã đưa ra một nhận xét rất thú vị về cái gọi là “Chúa nắm quyền ngự trị ngay cả những chính phủ mạnh của con người” như sau: “Ông Marx đã bịt miệng Chúa” ] và ông ta sẽ phán xét và trừng phạt tất cả những gì xấu ác. Nó cũng cho các tín đồ Ki Tô một hình ảnh của thiên đường [mù, theo John Paul II], nơi mà chúng ta sẽ ở cùng Giê-su.” 3
Ai đọc đoạn trên mà không phì cười tôi cho là đã tu thiền đến trình độ cao cấp. Nhưng đoạn tóm tắt trên quá ngắn cho nên tôi xin tóm tắt sách Khải Huyền dài hơn để cho các bạn đọc có những trận cười thỏa thích cho khỏe người:
Mở đầu, ông John [các học giả phân tích Tân Ước cho rằng, trái với quan niệm thông thường, ông John này không phải là ông John, một trong 12 tông đồ đầu tiên của Giê-su, người viết Phúc Âm John, vì văn phong trong Phúc Âm John thì trong sáng và đúng văn phạm, còn văn phong trong sách Khải Huyền thì đầy những lỗi về văn phạm, dùng từ sai và đầy tính cách man rợ (full of gramatical errors, poor word choice, and general “barbarisms”), nhưng đây là vấn đề của các học giả, không phải của chúng ta] khẳng định đây chính là những lời Khải Thị của Giê-su ban cho ông ta và truyền cho ông ta ghi chép những điều “khải thị” của Giê-su và gửi cho 7 “hội thánh” ở vùng Tiểu Á (Minor Asia). Chúng ta hãy nghe “thánh John” kể lại, Khải Thị 1 : 10-16, và nên nhớ rằng thánh John khi đó đang...bị đi đày ở đảo Patmos:
“...Tôi được linh cảm và nghe có tiếng gọi sau lưng vang dội như tiếng kèn đồng (trumpet): Hãy ghi chép những điều con thấy và gửi cho 7 hội thánh tại..... [xin xem đoạn sau].
Quay lại xem ai vừa nói, tôi thấy 7 giá đèn bằng vàng. Giữa các giá đèn có ai giống như Chúa Giê-su [xin nhớ là Giê-su đã chết và táng xác trước đó ít ra là 30 năm], mặc áo dài, ngực thắt đai vàng. Tóc ngài trắng như lông chiên, như tuyết, mắt sáng như ngọn lửa, chân như đồng sáng loáng trong lò, tiếng nói vang ầm như thác đổ. Tay phải ngài cầm “7 ngôi sao”, “miệng có thanh gươm hai lưỡi sắc bén”, mặt sáng rực như mặt trời chói lọi giữa trưa...” [Đây có phải là hình ảnh của một Chúa nhân từ hay không hay đúng là hình ảnh của một Hung Thần? Và chúng ta nên nhớ: mặt trời chỉ là một ngôi sao nhỏ, đường kính chỉ vào khoảng “1 triệu 3 trăm 90 ngàn cây số” và nhiệt độ ngoài biên khoảng 6000 độ, và Chúa Giê-su của Ki Tô Giáo đã cầm trong tay một lúc 7 ngôi sao (chắc là bằng giấy của các em mẫu giáo trong các lớp học Kinh Thánh ở nhà thờ sáng chủ nhật vẽ)] và rồi Chúa đọc cho John chép 7 bức thư viết cho 7 hội thánh...
Chép xong, thánh John nhìn lên và thấy có một cánh cửa mở ra ở trên trời. [Tầm mắt của thánh John nhìn được bao xa trên trời??] Rồi thánh John nghe tiếng Giê-su gọi: “Lên đây, ta sẽ chỉ cho ngươi thấy những gì sắp phải xảy ra trên thế gian.” Lập tức, xuyên qua cánh cửa trên trời, thánh John thấy God ngồi trên ngai, [không thấy nói là thánh John “lên đây” bằng cách nào, và ngai đặt ở đâu, hay lơ lửng trên trời. Thượng đế, Chúa Giê-su và Thánh John tuyệt đối không biết rằng, trái đất thực sự đang di chuyển trong không gian với một vận tốc khoảng 100000 cây số/giờ và quay xung quanh trục Nam Bắc khoảng 1600 cây số/giờ] xung quanh có 24 trưởng lão mặc áo trắng ngồi trên 24 ngai khác. Gần nơi ngai giữa, chỗ God ngồi, có 4 sinh vật, có mắt phủ khắp trước và sau. 4 sinh vật này, một giống như con sư tử, một giống con bò đực, một giống như mặt người, và một giống như con chim ưng đang bay. Mỗi sinh vật này đều có 6 cái cánh, và khắp thân có mắt phủ, ngay cả dưới cánh. (each of the 4 living creatures had six wings and was covered with eyes all around, even under his wings). 4 sinh vật này ngày đêm ca tụng [không thấy nói ca tụng bằng thứ tiếng nào, Hebrew, Phú Lăng Sa, Ý Tà Lồ, hay tiếng Việt Bùi Chu Phát Diệm] không ngớt: “Thánh thay, thánh thay, thánh thay, Là God toàn năng, là đấng đã có, hiện có, và sẽ có.” (Day and night they never stop saying: Holy, holy, holy is the God Almighty, who was, and is, and is to come)...
Rồi thánh John thấy trên tay God có một cuộn giấy trên cả hai mặt đều có chữ viết, có 7 chỗ được gắn xi niêm phong. [Nếu thấy một cuộn giấy có chữ viết trên cả hai mặt thì cuộn giấy đó đã được mở ra rồi, vậy gắn xi niêm phong ở 7 chỗ nào? và niêm phong cái gì? 7 cái bao thơ gắn trên cuộn giấy?] Ai là người hay vật xứng đáng để mở những chỗ niêm phong gắn xi này. Một trưởng lão nói với John: “Chỉ có Chúa Giê-su: con sư tử của đại tộc Judah, chồi của David, đã chiến thắng (the lion of the tribe Judah, the Root of David, has triumphed) mới có thể mở được những niêm phong này.” Rồi thánh John thấy nơi ngai chính giữa, Chúa Giê-su hiện thân ra như một con chiên trông như đã bị giết, có 7 sừng và 7 mắt, là 7 thần linh của God phái xuống trần. (Then I saw a Lamb, looking as if it had been slain, standing in the center of the throne... He had seven horns and seven eyes, which are the seven spirits of God sent out into all the earth). [Tất cả các học giả ngày nay đều đồng ý ở một điểm: con Chiên ở đây chính là Giê-su đã bị đóng đinh trên thập giá (Scholars are in agreement that “a Lamb” refers to the crucified Christ), và đó chính là hình ảnh của một thiên chúa mà các tín đồ tôn thờ, và rất hãnh diện được làm tôi tớ của con chiên này] Rồi con chiên, tức Chúa Giê-su, bắt đầu mở từng chỗ niêm phong gắn xi một cho thánh John thấy những gì sẽ xảy ra trong “Ngày lịch sử con người dẹp tiệm” alias “Ngày Tận Thế”, alias “Ngày Chúa Trở Lại Trần Lần Thứ Hai” (Second Coming), alias “Ngày một số nhỏ, vô cùng nhỏ, các tín đồ của 12 bộ lạc Do Thái (tuyệt đối không có người Việt Nam trong số này) được lên thiên đường ở cùng Chúa, như được viết rõ trong sách Khải Huyền 7: 4-8, mà tôi sẽ trích dẫn trong một phần sau, nếu các bạn còn đủ can đảm và hứng thú đọc tiếp.
Đó là tóm tắt phần đầu của sách Khải Huyền. Nếu bạn nào không phát phì cười lắc đầu khi đọc đoạn tóm tắt trên thì chắc là trình độ thiền định của bạn đó đã khá cao rồi. Nếu bạn nào tin tất cả những điều trong đoạn tóm tắt trên thì trình độ làm tôi tớ Chúa của bạn đó phải cao đến mức tột đỉnh, cao đến độ không còn oxy trong óc, có nghĩa là đầu óc thuộc loại oxymoron.
Sau đây, chúng ta đi vào phần phân tích sách Khải Huyền, phân tích sơ sơ thôi, chứ phân tích kỹ thì là cả một chuyện lãng phí thời gian vô ích. Trước hết là đoạn mở đầu:
“Khải Huyền 1: 1: Lời khải thị của Giê-su Ki Tô mà Chúa Cha đã ban cho ông ta để tỏ cho các tôi tớ của ông ta thấy những điều sắp phải xảy ra. Để bày tỏ điều này, ông ta (Giê-su) sai thiên sứ của ông ta đến với tên tôi tớ John, ghi chép đầy đủ tất cả mọi điều thấy – nghĩa là, lời của Chúa Cha và ghi chép bởi Giê-su Ki Tô. Phúc cho ai đọc được những lời tiên tri này, và phúc cho những kẻ nào nghe được và tin những gì viết trong đó, vì thời điểm (Chúa trở lại) đã gần kề”
Do đó, thực ra những lời khải thị của Giê-su là vô giá trị. Tại sao? Vì phân tích câu đầu trong sách Khải Huyền, Rev. 1 : 1, chúng ta thấy rõ là những lời khải thị của Giê-su là do tên tôi tớ Giăng của Giê-su được một thiên sứ của Giê-su [nếu thực sự có một thiên sứ, nhưng, như được viết trong sách Khải Huyền, chính Giê-su đã khải thị cho John] viết lại những điều trong sách Khải Huyền. Nhưng vấn đề là, ai có thể biết rằng đây chính là những lời khải thị của God Cha ban cho God Con (Giê-su) ngoài Giê-su ra? Vậy đây chỉ là những lời Giê-su tự nhận là đã được God Cha ban cho, và tên tôi tớ John của Giê-su tin là thật và viết lại. Điều này không lấy gì làm lạ, vì ngay trong thời đại này, có nhiều kẻ tự nhận là “Con của God Cha” (Son of God) như David Koresh ở Waco, Texas, mà vẫn có nhiều người tin, huống chi là cách đây gần 2000 năm. Hơn nữa, có những giáo hoàng loạn luân, gian ác như trong quá khứ, hay xảo quyệt, đạo đức giả, vô đạo đức tôn giáo như John Paul II, Benedict XVI ngày nay, tự nhận là “đại diện của Ki Tô” (Vicar of Christ) trên trần, mà vẫn có người tin, cảm thấy hãnh diện được hôn chân, hôn nhẫn của ông ta, thì chuyện tin những chuyện John kể lại không phải là khó hiểu.
Ngay trong đoạn đầu này chúng ta đã thấy có vài vấn đề. Thứ nhất, căn cứ vào đâu và dựa vào quyền năng uy tín nào mà chúng ta phải tin đây là “Lời khải thị của Giê-su Ki Tô”? Phải chăng vì John viết nên chúng ta phải tin? Nếu John viết láo thì sao? Thứ nhì, nếu tin rằng đó là Chúa Cha đã ban cho Chúa Con thì thuyết Chúa Ba Ngôi cần phải vứt vào xọt rác. Tại sao? Vì có thể chăng, điều mà Chúa Cha biết nhưng Chúa Con lại không biết, mà Chúa Cha cần phải “khải thị” cho Chúa Con, rồi Chúa Con lại “khải thị” cho tôi tớ John?. Thứ ba, Giê-su đã chết ít nhất là 30 năm trước, và ngày nay không còn người nào có đầu óc còn tin vào chuyện Giê-su sống lại và bay lên trời rồi lại hiện thân ra trước một mình John. Mặt khác, những lời tiên tri trong đoạn trên đã chứng tỏ là láo khoét, vì không có điều nào đã được thực hiện. Và sau cùng, đọc những lời tiên tri của Chúa trong sách Khải Huyền và tin thì đó là điều bất hạnh chứ chẳng phải là phúc như sẽ được chứng minh trong một đoạn sau.
Bây giờ, chúng ta hãy tóm tắt rất sơ lược nội dung của 7 bức thư mà Giê-su truyền cho John phải ghi chép và gủi cho 7 “hội thánh” ở Tiểu Á. May quá khi đó chưa có “hội thánh” ở Việt Nam chứ nếu có thì Việt Nam đâu còn là Việt Nam. Trong mỗi thư, tôi chỉ trích ra những câu điển hình của Giê-su, bạn nào muốn đọc nguyên cả bức thư xin vào Tân Ước mà đọc.
1.- Bắt đầu bằng hội thánh Ephesus: “Ta khiển trách các con vì các con đã đánh mất tình yêu ban đầu khi mới theo Ta [có nghĩa là đã theo Ta, yêu Ta rồi lại bỏ Ta]; vậy các con phải ăn năn yêu Ta trở lại [Điều này hơi khó, vì ngày nay có cả triệu người bỏ đạo, không còn tin Giê-su nữa. Xin đọc bài về Sự Suy Thoái Của Ki Tô Giáo trên giaodiemonline]. Tuy nhiên các con còn có một điều đáng khen: các con ghét những việc hành trì của dân Nicolait, điều mà Ta cũng ghét (which I also hate).” [Trên nước Mỹ có nhan nhản những bảng quảng cáo “Jesus Loves You”, không có một bảng nào viết “Jesus Hates You” nếu you không theo Jesus. Tân ước viết rõ, Giê-su ghét nhiều thứ lắm, ghét cha ghét mẹ, ghét em trai, em gái ruột, và nhất là ghét thậm tệ những người không tin Giê-su, không muốn làm tôi tớ của Giê-su, đến độ luôn luôn thốt ra những lời nguyền rủa họ].
2.- Hội thánh Smyrna: “Ta biết nỗi gian khổ, sự nghèo thiếu của các con – nhưng thật ra các con giàu có” [Theo Giê-su thì giàu có là theo Giê-su và yêu Giê-su chứ không phải là giàu có về tiền bạc hay của cải] “Đừng sợ những nỗi gian khổ sắp đến...Hãy trung thành với Ta dù phải chết. Ta sẽ cho các con mũ miện của sự sống đời đời” [Không lạ gì, những người mù lòa tin bướng tin càn sẵn sàng chết để làm thánh tử đạo, do đó được sống đời đời trên thiên đường cùng với Giê-su].
3.- Hội thánh Pergamum: “Ta biết thành phố của các con là ngai của Satan. Tuy nhiên các con đã giữ vững đức tin, không chối bỏ danh Ta...” “Nhưng ta phải khiển trách các con vài điều: Trong các con có những người theo giáo phái Balaam, nó kéo dân Israel vào tội lỗi như ăn đồ cúng các thần tượng và phạm tội gian dâm. Trong các con cũng có những người theo giáo phái Nicolait. Vậy hãy thống hối. Nếu không Ta sẽ đến với các con một ngày gần và dùng thanh gươm ở miệng ta đánh nhau với chúng” [Câu trước mâu thuẫn với câu sau: đã giữ vững đức tin mà lại đi theo các giáo phái khác. Và nếu họ đi theo các giáo phái khác thì sao Giê-su không giết họ đi mà lại ngậm gươm đi đánh nhau với các giáo phái khác. Chẳng trách là trong 2 ngàn năm nay, Ki Tô Giáo đã thay Chúa ngậm gươm giáo đi diệt các giáo phái khác. Thời buổi này thì Giê-su phải xin ông Bush một quả bom nguyên tử, ngậm vào miệng để đi đánh nhau với hàng trăm giáo phái khác. Kinh Thánh tiếng Mỹ viết là “fight against”, Kinh Thánh tiếng Việt dịch là “đánh dẹp”. “Đánh nhau với” thì chưa biết bên nào thắng, nhưng “đánh dẹp” thì có nghĩa là thắng rồi. Thực tế cho thấy Giê-su đã thua và thua đậm vì trên thế gian ngày nay số người ăn đồ cúng thần tượng và gian dâm [trong đó có một số linh mục và tín đồ Việt Nam mới được phép thờ cúng tổ tiên] nhiều gấp không biết bao nhiêu lần số tín đồ “giữ vững đức tin”]
4.- Hội thánh Thyatira: “Đây là điều ta khiển trách: Các con đã dung túng cho người phụ nữ Jezebel, kẻ tự xưng là tiên tri , nhưng dạy dỗ và quyến rũ các tôi tớ của Ta phạm tội gian dâm và ăn của cúng thần tượng...Ta sẽ khiến nó chịu đau đớn cùng cực trên giường bệnh, cũng như những kẻ gian dâm với nó.. Ta sẽ đánh chết con cái nó (I will strike her children dead), và mọi hội thánh sẽ biết là Ta sẽ lục soát tâm trí (search hearts and minds) các con và sẽ thưởng phạt mỗi người tùy theo việc họ làm.. Với người nào chiến thắng (Satan) và làm theo ý Ta cho đến cùng, Ta sẽ cho nó uy quyền thống trị các nước – Nó sẽ cai trị những nước này bằng một cây gậy sắt và đập tan chúng (những kẻ không làm theo ý Ta) ra từng mảnh như là đập tan đồ gốm, cũng như ta đã nhận uy quyền thống trị từ Cha Ta... Ta cũng cho nó ngôi sao mai..” [Đây là tình yêu của “Chúa lòng lành vô cùng” đối với những người Chúa không ưa thích. Chúa giữ độc quyền gian dâm và lấy cô gái Mary Magdalene (Một Giáo hoàng trong thế kỷ 7 gì đó đã ra “Nghị Quyết” [giá trị tương đương với Nghị Quyết của Hạ Viện Mỹ về đạo luật Nhân Quyền cho Việt Nam] để hạ bệ Mary Magdalene làm sáng danh Chúa quyết định Mary Magdalene và cô gái điếm viết trong Tân ước là một, và mọi tín đồ bắt buộc phải tin theo Nghị Quyết này, ai không tin thì không được lên Thiên đường. Chỉ khác có một điều là các tín đồ nhắm mắt tin tất cả những “Nghị Quyết” của Giáo hoàng, còn Việt Nam thì vứt Nghị Quyết của Hạ Viện Mỹ vào Recycle Bin. Thuyết Giê-su lấy Mary Magdalene là một thuyết có nhiều bằng chứng, nhất là dựa trên Phúc Âm Thomas và Phúc Âm Mary Magdalene mới tìm thấy ở Ai Cập khoảng 50 năm trước, còn sót lại sau cuộc hủy diệt những chứng tích về đời sống thật của Giê-su, của giáo hội Ca-tô Rô-ma trong những thế kỷ đầu, theo như trong chương trình 20/20 của đài ABC tối ngày Thứ Tư 4 tháng 8, 2004, với đề tài: Jesus, Mary and Da Vinci,). Giê-su không muốn ai gian dâm với “gái điếm” trừ ông ta ra. Đoạn văn trên chứng tỏ Jezebel cũng là một cô gái điếm như Mary Magdalene và đã gian dâm với nhiều người. Nếu Chúa trừng phạt những người gian dâm với gái điếm thì các “hội thánh” Ca-tô, Tin-lành còn lại mấy người? Gian dâm với gái điếm hiển nhiên là nhẹ tội hơn tội loạn dâm của các linh mục đã bị truy tố trước tòa án nhân dân. Còn trước tòa án của Chúa thì các “Cha cũng như Chúa” loạn dâm này vẫn vô tội, vì họ tin Chúa nên tất cả các tội lỗi thế gian đều không có ảnh hưởng gì đến cuộc sống đời đời của họ với Chúa trên thiên đường. Bởi vậy nên trong lịch sử nhân loại, Ki Tô Giáo làm đủ thứ tội ác mà vẫn thản nhiên mong đến ngày tận thế để được Chúa bốc lên thiên đường]
5. Hội Thánh Sardis: Ta biết công việc của các con; các con nổi tiếng là sống, nhưng các con đã chết [vì không tin Ta]. Hãy thức tỉnh! Hãy củng cố những gì còn lại [một chút niềm tin] và chết đi, vì Ta thấy việc làm của các con không được hoàn toàn [phải tuyệt đối tuân phục Ta] dưới mắt Thượng đế.
Vậy, hãy nhớ những gì các con đã nhận và nghe: hãy tuân phục và ăn năn.
Tuy nhiên, có vài người trong số các con chưa làm hoen ố quần áo [vẫn còn tin Ta]. Họ sẽ đi cùng Ta, mặc quần áo trắng, vì họ thật xứng đáng.
6. Hội Thánh Philadelphia: Ta biết công việc của các con. Dù năng lực kém cỏi [đồng nghĩa với ngu si], các con đã vâng giữ lời Ta, không chối bỏ danh Ta. Ta đã mở rộng trước mặt các con một cánh cửa [thiên đường (mù)] chẳng ai có quyền đóng lại. Một số thuộc hạ của Satan mạo nhận là người Do Thái (có cuốn Tân Ước thay hai chữ Do Thái bằng Thượng đế] sẽ rơi mặt nạ. Ta sẽ khiến họ đến quỳ dưới chân các con và họ sẽ biết Ta yêu mến các con. Vì các con theo lệnh Ta chịu khổ nạn nên Ta sẽ bảo vệ các con trong kỳ đại nạn sắp xảy ra [ngày tận thế] trên thế giới để thử thách mọi ngời. Ta sẽ sớm đến! Hãy giữ vững điều con có [tin vào Ta] để không ai cướp mất mũ miện của các con [trên thiên đường, Giê-su sẽ đội mũ miện cho những nguời được chọn].
7. Hội Thánh Laodicea: Ta biết công việc của các con. Các con không lạnh cũng không nóng [không hoàn toàn bỏ Ta cũng không hoàn toàn tin Ta]. Ta muốn các con hoặc nóng hoặc lạnh thì hơn. Nhưng vì các con chỉ ấm, không nóng cũng không lạnh, nên Ta sẽ nhả các con ra khỏi miệng Ta. [Miệng của Giê-su quả thật là rộng].
Đọc những đoạn trên trong sách Khải Huyền, chúng ta thấy Giê-su là người như thế nào? Chẳng cần phải thông minh cho lắm cũng có thể nhận thấy cái “Ta” của Giê-su lớn như con bò, và từ cái “Ta” đó, ông ta muốn cho mọi người phải tin và tuân phục, làm tôi tớ cho ông ta, nếu không ông ta sẽ ghét bỏ và có những hành động trả thù khủng khiếp như được viết trong các phần sau của sách Khải Huyền. Phải có một đầu óc dốt nát và điên khùng, đúng như nhận định của Tổng Thống Thomas Jefferson, mới có thể thốt ra những lời huênh hoang vô trí như trên.
Như chúng ta đã biết ở một đoạn trên, thánh John nhìn qua một cánh cửa mở trên trời và thấy gần nơi ngai giữa, chỗ God ngồi, có 4 sinh vật, có mắt phủ khắp trước và sau. 4 sinh vật này, một giống như con sư tử, một giống con bò đực, một giống như mặt người, và một giống như con chim ưng đang bay. Mỗi sinh vật này đều có 6 cái cánh, và khắp thân có mắt phủ, ngay cả dưới cánh. Rồi thánh John thấy trên tay God có một cuộn giấy trên cả hai mặt đều có chữ viết, có 7 chỗ được gắn xi niêm phong mà chỉ có Giê-su mới mở được những chỗ niêm phong này. Bây giờ chúng ta hãy xem Giê-su, hiện thân là một con chiên 7 mắt, 7 sừng, mở 7 chỗ niêm phong này và “bật mí” cho thánh John thấy những gì? Những đoạn sau đây là từ Khải Huyền 6-11 nói về những hiện tượng nằm trong mỗi niêm phong và chúng ta đừng quên rằng những chỗ niêm phong này là ở trên một cuộn giấy:
Khải Huyền 6: Khi Chiên Con (Giê-su) mở niêm phong thứ nhất, tôi nghe một sinh vật ở trước ngai gọi như sấm: “Lại đây!”. Tôi thấy một con ngựa trắng (từ niêm phong trên cuộn giấy đi ra): người cưỡi ngựa tay cầm cung, được trao cho một vương miện. Người phóng ra như một kẻ chinh phục đến đâu cũng chinh phục (he rode out as a conqueror bent to conquest).
Khi Giê-su mở niêm phong thứ hai, tôi nghe sinh vật thứ hai gọi: “Lại đây!”. Một con ngựa đỏ phóng ra. Người cưỡi ngựa được trao cho quyền lấy đi hòa bình trên trái đất và làm cho con người giết nhau. (Its rider was given the power to take peace from the earth and make men slay each other). Hắn được ban cho một thanh gươm lớn.
Khi Giê-su mở niêm phong thứ ba, tôi nghe sinh vật thứ ba gọi: “Lại đây!”. Tôi thấy một con ngựa đen [tượng trưng cho nạn đói (famine)] đi ra. Người cưỡi ngựa tay cầm cái cân. Tôi nghe tiếng phát ra giữa bốn sinh vật [nghĩa là từ cái ngai của God]: Một đấu lúa mì giá một ngày lương; Ba đấu lúa mạch giá một ngày lương. [Không thấy nói đến gạo ở Á Châu] Không được làm hư dầu và rượu (A quart of wheat for a day’s wages, and three quarts of barley for a day’s wages, and do not damage the oil and the wine). [Nhiều học giả đã phê bình đoạn này là các gian thương áp dụng tối đa điều trên. Đầu cơ tích trữ thực phẩm, và khi có thiên tai, nạn đói thì đem ra bán với giá cắt cổ.]
Khi Giê-su mở niêm phong thứ tư, tôi nghe sinh vật thứ tư gọi: “Lại đây!”. Tôi thấy một con ngựa màu xám nhạt. Người cưỡi ngựa có tên là Tử Thần, có Âm phủ theo sát đằng sau [Âm Phủ có chân đi theo sát chân ngựa?]. Chúng (They= Tử Thần và Âm Phủ) được ban cho quyền thống trị một phần tư địa cầu để tàn sát loài người bằng gươm giáo, nạn đói, bệnh dịch và thú dữ. (They were given power over a fourth of the earth to kill by sword, famine and plague, and by the wild beasts of the earth)
Khi Giê-su mở niêm phong thứ năm, tôi thấy dưới bàn thờ có linh hồn [linh hồn là vật chất hay phi vật chất?] những người bị giềt vì đã công bố đạo Chúa và trung thành làm chứng cho Ngài. Họ kêu lớn: “Tới bao giờ, Chúa ơi, Ngài mới xét xử những người trên trái đất và trả thù nợ máu của chúng tôi?” (How long, Lord, until you judge the inhabitants of the earth and avenge our blood?) [Chúa hứa: cứ chờ cho đến khi hội họp đông đủ các “thánh tử đạo” trên thế giới, Chúa sẽ trả thù cho một thể]
Khi Giê-su mở niêm phong thứ sáu thì xảy ra một trận động đất lớn. Mặt trời tối đen, mặt trăng đỏ lòm như máu, các ngôi sao rụng xuống trái đất như sung rụng trong một trận cuồng phong. Bầu trời cuốn lại như một cuộn giấy, và mọi núi và đảo đều di chuyển ra khỏi chỗ....Mọi người trên trái đất đều trốn trong hang động, khe đá ... để tránh không thấy mặt của Đấng ngồi trên ngai và tránh sự phẫn nộ của Giê-su. Vì ngày phẫn nộ lớn của hai cha con Giê-su đã đến, ai có thể chống cự được? (Hide from the face of him who sits on the throne and from the wrath of the Lamb (Jesus). For the great day of their wrath has come, and who can stand?) [Lẽ dĩ nhiên là Chúa không hề biết đến kích thước của các ngôi sao là bao nhiêu. Ngôi sao nhỏ nhất trong vũ trụ cũng lớn hơn trái đất gấp bao nhiêu lần]
Khải Huyền 7: Sau đó tôi thấy bốn thiên sứ đứng ở bốn góc địa cầu [nguyên văn từ Kinh Thánh Việt Nam, quả địa cầu của Ki Tô Giáo có hình tứ giác, có bốn góc] cầm giữ gió bốn phương trên đất, khiến cho khắp đất, biển và cây cối đều bất động. Tôi lại thấy một thiên sứ khác đến từ phương Đông, cầm con dấu (seal) của Thượng đế hằng sống. Thiên sứ này lớn tiếng kêu gọi bốn thiên sứ (bốn người cưỡi ngựa ở trên) đã được Thương đế ban quyền cho làm hại đất và biển (who had been given power to harm the land and the sea): Đừng làm hại đất, biển và cây cối cho đến khi chúng ta đóng dấu ấn lên trán của những tôi tớ Chúa. Rồi tôi nghe thấy số người được đóng dấu ấn trên trán, tất cả là 144000 (một trăm bốn mươi bốn ngàn) thuộc 12 bộ lạc của Israel, mỗi bộ lạc là 12000 người.
[Lời bàn của TCN: Những người được đóng dấu ấn của Thương đế trên trán là những người được Chúa chọn để cho lên thiên đường của Chúa, vì Kinh Thánh viết rõ “Nhiều người được kêu gọi nhưng chỉ có ít người được chọn” và Chúa cũng đã phán, Matthew 7: 21-23: “Không phải người nào gọi Ta là Chúa cũng được vào nước trời... Trong ngày phán xét sẽ có nhiều người kêu nài: “Thưa Chúa, chúng tôi đã giới thiệu Chúa cho nhiều người, đã dùng danh Chúa để đuổi quỷ và làm nhiều phép lạ [như một linh mục mít ở Úc làm cho tượng bà Mary chảy dầu]. Nhưng ta sẽ đáp: “Ta không hề biết các ngươi! Hãy cút đi cho khuất mắt ta, vì các ngươi chỉ làm việc gian ác” [Có vẻ như các nhà truyền giáo hăng say đi truyền đạo cũng như các tín đồ Hi-tô cố gắng dụ người khác vào đạo chưa bao giờ đọc đến câu này]
Bịp bợm, dối trá, lợi dụng lòng mê tín của tín đồ để vơ vét của cải, tiền bạc, loạn dâm, đạo đức giả v..v.. có phải là việc gian ác hay không? Ngụy tạo phép lạ, tín lý, bí tích để tạo quyền lực thế tục cho giới giáo sĩ v..v.. có phải là việc gian ác hay không? Cưỡng bách cải đạo, giết người ngoại đạo, tra tấn, thiêu sống người lạc đạo v..v.. có phải là việc gian ác không? Ai trả lời không, xin lên tiếng. Các “hội thánh” Ki-tô, trong 2000 năm nay đã làm những gì? Có làm điều gì gian ác không? Và ai lên thiên đường? Ai xuống hỏa ngục?
Chúng ta để ý, Chúa chỉ chọn 144000 người trong 12 bộ lạc Do Thái, không thấy Chúa nói đến các bộ lạc Bùi Chu, Phát Diệm hay Hố Nai, Gia Kiệm, hay Bolsa, San Jose. Dân Do Thái là dân được Chúa chọn (chosen people) nhưng Chúa cũng chỉ chọn có 144000 người mà thôi. Đối với số người trên thế giới, chúng ta hãy làm một con tính nhỏ. Trong thời John viết sách Khải Huyền, dân số trên thế giới được ước tính là khoảng 200 triệu, ngày nay là khoảng 6.1 tỷ. Vậy tỷ lệ mà các tín đồ Ki-tô hi vọng được Chúa chọn ngày nay đã giảm từ 1 trên 1387 (thời John) xuống còn 1 trên 42300 (ngày nay). Việt Nam có khoảng 7 triệu tín đồ Ca-tô và Tin Lành, vậy trong 165 người Việt Ki-tô chỉ có 1 người được Chúa chọn, nếu Chúa chọn tất cả 144000 người được “cứu rỗi” đều là người Việt Nam. Hi vọng này có một xác suất gần bằng 0 (con số không) vì Chúa đã tỏ ra là rất ghét những người không phải là Do Thái, coi người không Do Thái như chó, như được viết trong Tân Ước, và như trên đã nói, không có một người mít nào được đóng dấu ấn của Thượng đế trên trán. [Không những thế, trong Khải Huyền 9: 4, Thiên Chúa còn ra lệnh cho những con quái vật châu chấu giống như những con chiến mã, có khả năng châm chích như bọ cạp, không được phá hại cây cỏ mà chỉ nhắm vào những người không có dấu ấn của Thượng đế đóng trên trán. (They were told not to harm the grass of the earth or any plant or tree, but only those people who did not have the seal of God on their forefronts)] Quý vị tín đồ Ki-tô Việt Nam, nhất là các tín đồ tân tòng Tin Lành như Nguyễn Huệ Nhật, Lê Anh Huy, Huỳnh Thiên Hồng v..v.., những người tuyệt đối tin vào Kinh Thánh là những lời mạc khải của Chúa nên không thể sai lầm, nghĩ sao về chuyện này. Quý vị có thấy rằng mình đã bị đám mục sư, linh mục lừa bịp quý vị bằng một cái bánh vẽ trên trời mà dù có thật quý vị cũng không bao giờ có thể được hưởng theo như những lời không thể sai lầm của Chúa trong sách Khải Huyền hay không? Muốn được lên thiên đường cùng Chúa, giả thử được Chúa chọn, và điều này không bao giờ có thể xảy ra đối với người Việt Nam như quý vị, quý vị cũng phải tranh nhau, rất có thể phải chém giết nhau, để dành một chỗ trên thiên đường. Quý vị có bao giờ nghĩ đến điều này hay không? Quý vị có bao nhiêu hi vọng được Chúa “cứu rỗi”, bốc cái xác chết đã rũa nát của quý vị (chắc chắn là ngày tận thế sẽ không xảy ra trong đời này của quý vị) lên thiên đường? Quý vị thử sờ lên trán mình xem có thấy dấu ấn của Thượng đế trên đó không? Hãy dùng đến đầu óc một chút đi, và hãy cất bỏ gánh nặng thiên chúa trên vai của quý vị (đề nghị của mục sư Harry Wilson), đúng ra là gánh nặng giáo hoàng Ca-tô hay gánh nặng Kinh Thánh Tin Lành]
Khải Huyền 8-11: Khi Giê-su mở niêm phong thứ bảy..tôi thấy 7 thiên sứ đứng trước mặt Thượng đế và được trao cho 7 chiếc kèn đồng (trumpets).
Thiên sứ thứ nhất thổi kèn, liền có mưa đá và lửa pha với máu đổ xuống mặt đất. Một phần ba đất bị thiêu đốt, một phần ba cây cối bị thiêu đốt, và mọi loài cỏ xanh đều bị thiêu đốt.
Thiên sứ thứ hai thổi kèn, liền có một vật giống như hòn núi lớn toàn bằng lửa bị ném xuống biển. Một phần ba biển biến thành máu. [1/3 nước biển biến thành máu, vậy 2/3 còn lại vẫn là nước biển, không hề bị hòa lẫn với máu?] Một phần ba sinh vật trong biển chết, và một phần ba tàu bè trên biển bị tiêu diệt.
Thiên sứ thứ ba thổi kèn, một ngôi sao lớn trên trời rơi xuống, ngôi sao ấy rơi vào một phần ba sông ngòi và suối nước. Tên ngôi sao đó là Ngải Đắng (Wormwood). Một phần ba nước hóa đắng. [1/3 nước đắng đứng riêng một mình trong sông ngòi, trong suối nước?] Nhiều người chết vì uống nước đắng ấy.
Thiên sứ thứ tư thổi kèn, một phần ba mặt trời, một phần ba mặt trăng, một phần ba các ngôi sao bị phá hủy, trở thành tối đen. Một phần ba ngày không có ánh sáng, cũng như một phần ba đêm không có ánh sáng. [Miễn phê bình]
Thiên sứ thứ năm thổi kèn, tôi thấy một vị sao rơi xuống mặt đất. Vị sao ấy được trao cho một chìa khóa của Vực Thẳm. [Vị sao đưa tay ra nhận chìa khóa?] Khi vị sao này mở Vực Thẳm ra [Vực Thẳm có cửa?], liền có khói bay ra che khuất làm cho mặt trời và bầu trời tối sầm. Từ đám khói bay xuống đất những con châu chấu. Chúng được ban cho nọc độc như những con bọ cạp ở dưới đất. Chúng được lệnh không được phá hại cây cỏ mà chỉ nhắm vào những người không có dấu ấn của Thượng đế đóng trên trán. Chúng không được quyền giết mà chỉ được tra tấn hành hạ những người này trong 5 tháng. Và sự đau đớn cùng cực của những người này giống như khi bị bọ cạp chích. Trong 5 tháng này, những người này muốn chết đi cho rồi mà không chết được. [They (the locusts) were not given power to kill them (those people who did not have the seal of God on their forefronts), but only to torture them for five months. And the agony they suffered was like that of the sting of a scorpion when it strikes a man. During those days men will seek death, but will not find it; they will long to die, but death will elude them.] [Chúa lòng lành của Ki Tô Giáo?]
Thiên sứ thứ sáu thổi kèn, tôi nghe từ những chiếc sừng của bàn thờ bằng vàng đặt trước ngai Chúa có tiếng nói ra: Hãy thả bốn thiên sứ bị trói giữ tại sông Euphrates. Và bốn thiên sứ, dược giữ ở đây để chuẩn bị sẵng sàng, đúng ngày giờ được thả ra để đi giết một phần ba nhân loại (to kill a third of mankind).
Thiên sứ thứ bảy thổi kèn, có những tiếng lớn vang ra trên trời:
Từ nay thế gian thuộc quyền Thiên Chúa và đấng Cứu Thế. Ngài sẽ cai trị mãi mãi... 24 trưởng lão quỳ xuống và ca: Chúa là đức Chúa Trời toàn năng, là đấng đã có, hiện có và sẽ có...Cơn thịnh nộ của Ngài đã đến: Giờ đã tới, là giờ phán xét kẻ chết, thưởng cho tôi tớ Chúa blah..blah...blah..
Sách Khải Huyền gồm có 22 chương. Tôi mới chỉ lướt qua một nửa, đến hết chương 11. Nếu người nào đọc những đoạn trên mà không cho đó là “tác phẩm” của một kẻ dốt nát điên khùng thì chính người đó là kẻ dốt nát điên khùng.
Quý độc giả có ai muốn đọc tiếp không? Tôi nghĩ rằng không nên mất thêm thì giờ để tiếp tục làm phiền đầu óc của quý vị bằng những chuyện nhảm nhí như trên ở trong sách Khải Huyền. Trong những phần sau, Thượng đế của Ki tô giáo còn “mạc khải” cho thánh John những chuyện hoang đường nhảm nhí như: Một con rồng lớn xuất hiện, đuôi rồng kéo theo một phần ba tinh tú trên trời quăng xuống đất; một người đàn bà mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội mũ miện kết bằng 12 tinh tú (ngôi sao), có thai (của ai?) kêu la quặn thắt vì sắp tới kỳ sinh nở blah..blah...blah.. Ngoài ra Thượng đế của Ki Tô Giáo còn giáng thêm nhiều tai họa đến cho nhân loại và mọi sinh vật, điển hình là trong chương 16: 1) Những người mang dấu 666 (dấu của Satan) trên người bị nổi ung nhọt độc địa ghê tởm; 2) Nước biển, sông ngòi, suối nước đều biến thành máu, mọi sinh vật trong đó đều chết hết; 3) Mặt trời được phép nung đốt người [lẽ dĩ nhiên là phải chừa ra những người có dấu của Thượng đế trên trán] v..v.. và Thượng đế được thiên sứ ca ngợi: “Chúa xét xử thật công minh, chân chính” (Khải Huyền 16: 7)...
Người nào cho rằng những chuyện trên không phải là những chuyện nhảm nhí của một kẻ dốt nát điên khùng, xin lên tiếng.
Đọc Kinh Thánh của Ki-tô-giáo, qua những chuyện Thượng đế hoặc đích thân, hoặc sai tôi tớ (Moses, David, Joshua v..v..), đi tàn sát con người hàng loạt (Mass destruction), hoặc sai thiên sứ giáng đủ mọi tai họa cho nhân loại, hoặc hiện thân làm Chúa Con nguyền rủa, đầy đọa những người không tin Chúa (hơn 4 tỷ người ngày nay) xuống hỏa ngục để bị thiêu đốt bởi ngọn lửa vĩnh hằng v..v.., tôi không biết dùng danh từ nào để mô tả Thiên Chúa (Cha cũng như Con) của Ki Tô Giáo cho chính xác. Rồi tôi chợt nghĩ đến bộ truyện Thiên Long Bát Bộ và Lục Mạch Thần Kiếm của Kim Dung mà tôi đã đọc ở Saigon cách đây trên 30 năm, trong đó có mô tả 4 nhân vật trong “Tứ Ác” theo thứ tự chữ “Ác”: 1) Đoàn Diên Khánh: Ác quán mãn doanh (Cái ác bao trùm khắp nơi); 2) Diệp Nhị Nương: Vô Ác Bất Tác (Không có gì ác mà không làm); 3) Ngạc Hải Thần: Hung Thần Ác Sát (Một hung thần giết người tàn ác); và 4) Vân Trung Hạc: Cùng Hung Cực Ác (Cực kỳ hung dữ và ác độc), và tôi nghĩ không có gì có thể thích hợp hơn để mô tả Thiên Chúa của Ki-tô giáo và cho cả Ki-tô-giáo, xét đến lịch sử Ki-tô giáo trong 2000 năm nay, bất kể là trong Kinh Thánh viết ở những chỗ khác là Thiên Chúa nhân từ như thế nào, thương yêu thế gian như thế nào. [Rất có thể Kim Dung đã phải đọc Kinh Thánh của Ki Tô Giáo mới có thể nghĩ ra những tên như vậy.] Và phải chăng vì vậy mà Giám mục Tin Lành John Shelby Spong đã phải than trong cuốn Rescuing The Bible From Fundamentalism, trang 24: “Cuốn Thánh Kinh đã làm cho tôi đối diện với quá nhiều vấn đề hơn là giá trị. Nó đưa đến cho tôi một Thiên Chúa mà tôi không thể kính trọng, đừng nói đến thờ phụng.” (A literal Bible presents me with far more problems than assets. It offers me a God I cannot respect, much less worship.) Phải, làm sao có thể kính trọng và thờ phụng một Thiên Chúa với những thuộc tính “Ác quán mãn doanh”, “Vô ác bất tác”, “Hung thần ác sát”’ và “Cùng hung cực ác”? Bất kể là người ta đã ca tụng Thiên Chúa của Ki-tô giáo như thế nào, hay trích dẫn vụn vặt Kinh Thánh như thế nào, đã kính trọng và thờ phụng Thiên Chúa như thế nào, tôi không thể không nói lên những ý nghĩ trung thực trong đầu khi tôi đọc và phân tích những đoạn trích dẫn ở trên từ Kinh Thánh, và không phải chỉ có vậy. Thật vậy, nhiều nhà phê bình Kinh Thánh đã cho chúng ta biết là, đọc những sách Xuất Hành, Lê-vi, Phục Truyền, Giô-suê, Thẩm-phán, Sa-mu-en, Dân số, A-mốt, Các Vua, Sử-ký, E-xơ-thê, Gióp, chỉ kể tên vài sách, thì sẽ thấy chỉ nguyên trong Cựu Ước, không dưới 1 triệu người bị chết dưới tay của Thượng đế (Neale Donald Walsch, The New Revelations, Atria Books, New York, 2002, p. 208: The Bible critiques tell us that a reading of the books of Exodus, Leviticus, Deuteronomy, Joshua, Judges, Samuel, Numbers, Amos, Kings, Chronicles, Esther, and Job, to name a few, will produce a toll of no less than one million people in Old Testament history alone who were smote by God’s hands)
Để kết thúc về sách Khải Huyền, tôi xin trích sau đây đoạn cuối của sách này: Khải Huyền 22: 18-21:
Tôi khuyến cáo mọi người đã nghe những lời tiên tri trong sách này. Người nào thêm thắt vào bất cứ điều gì, Thượng đế sẽ thêm cho họ những tai họa mô tả trong sách này. Người nào bớt đi bất cứ điều gì trong sách tiên tri này, Thượng đế sẽ bớt đi phần của họ trong cái cây của sự sống và trong thành thánh (Holy City = Jerusalem), như được mô tả trong sách này.
Người chứng nhận những lời tiên tri này (Giê-su) nói: “Phải, Ta sẽ đến ngay gần đây.”
Amen. Hãy tới. Chúa Giê-su.
Ân sủng của Chúa Giê-su ở cùng dân Chúa (dân Do Thái). Amen
(He who testifies these things says: “Yes, I am coming soon”
Amen. Come. Lord Jesus.
The grace of the Lord Jesus be with God’s people. Amen.)
Người Ki-tô đã chờ đợi cái “soon” của Giê-su đã hai ngàn năm nay rồi, nhưng Giê-su vẫn biệt tăm, dù đã sống lại và bay lên trời, ngồi trên tay phải của Chúa Cha. Tuy nhiên, các tín đồ Ki Tô rất kiên nhẫn. Họ vẫn tiếp tục chờ đợi ngày trở lại của Giê-su, năm này qua năm khác, đời này sang đời khác. Theo ước tính của các khoa học gia thì trái đất chỉ có thể tồn tại nhiều nhất là 5 tỷ năm nữa, khi đó mặt trời đã tiêu thụ hết nhiên liệu. Rất có thể, các tín đồ Ki Tô sẽ chuyển sang một hành tinh khác và tiếp tục chờ đợi ngày trở lại của một xác chết đã mục nát và không biết bây giờ ở đâu. Có nhiều công cuộc khảo cứu cho rằng Giê-su đã lấy cô gái điếm Mary Magdalene, sinh con đẻ cái, và xác chết của Giê-su hiện đang ở miền Nam nước Pháp [Theo chương trình 20/20 của đài ABC: Jesus, Mary and Da Vinci]
Đọc tới đây, có thể có người nghĩ: Những chuyện nhảm nhí trong sách Khải Huyền như trên thì làm sao mà có ai mà tin cho được. Không hẳn vậy. Từ xưa tới nay, có rất nhiều người tin vào những chuyện trong sách Khải Huyền. Không kể những tín đồ Ki-tô thấp kém mà còn có nhiều người thông thái trong Ki–tô giáo cũng tin và đã nhiều lần tính toán, dựa vào Kinh Thánh, tiên tri về ngày tận thế của Ki-tô giáo. Ngay trước năm 2000, Việt Nam ta cũng có ông Trương Tiến Đạt, cựu nghị sĩ VNCH, tiên đoán ngày tận thế sẽ tới vào năm 2000 trong Tiếng Loa Cảnh Báo. Từ xưa đến nay đã có hàng trăm vụ tiên đoán về ngày tận thế bằng tính toán. Tính đi, tính lại, tính tái, tính hồi, trật vẫn hoàn trật. Tại sao vậy? Có vài lý do chính.
Thứ nhất, tất cả những tính toán đều dựa vào Kinh Thánh, vào niềm tin rằng Thượng đế đã tạo ra vạn vật cách đây khoảng 6000 năm. Dưới con mắt của chúng ta, 6000 năm là một khoảng thời gian dài. Nhưng dưới con mắt của một nhà địa chất học (geologist) thì 6000 năm chưa bằng một cái chớp mắt so với tuổi của vũ trụ. Nếu ta biểu diễn tuổi của vũ trụ, khoảng 15 tỷ năm, thu gọn lại thành 1 năm, có khoảng 365 ngày (con số gần đúng nhất là 365 ngày, 5 giờ, 48 phút và 45.96768...giây), mỗi ngày có 24 giờ, mỗi giờ có 60 phút, và mỗi phút 60 giây, thì Thượng đế của Ki-tô giáo mới chỉ “sáng tạo ra trái đất phẳng và dẹt, có 4 góc” lúc 23 giờ 59 phút 48.3866 giây đêm ngày 31 tháng 12, và Giê-su sinh ra lúc 23 giờ 59 phút 56.7466... giây đêm ngày 31 tháng 12. Vì vậy mà mọi tính toán dựa theo Kinh Thánh đều bắt buộc phải sai. Khoan kể là trang nhà SAB (SkepticsAnnotatedBible) đã liệt kê khoảng gần 200 điều tiên tri láo trong Kinh Thánh.
Thứ nhì, một số tính toán của Ki-tô giáo về ngày tận thế sẽ xảy ra khoảng năm 2000 Tây Lịch đều dựa trên 4 khái niệm; 1) Thượng đế “sáng tạo” ra thế giới trong 6 ngày (Sáng Thế 1-2) và nghỉ ngày thứ bảy; 2) Mỗi ngày trong thời kỳ “sáng tạo” không phải là một ngày như chúng ta thường hiểu, mà tượng trưng cho 1000 năm vì cả Cựu Ước lẫn Tân Ước đều viết như vậy (Thi Thiên 90:4; 2 Peter 3:9); 3) [Khái niệm này bỏ qua chuyện “sáng tạo” trong đó Thượng đế tạo ra cây cỏ trước mặt trời một ngày, nhưng cây cỏ vẫn sống trong 1000 năm mà không cần đến ánh sáng mặt trời]. Chuyện “sáng tạo” nói lên thời gian tồn tại của thế giới, nghĩa là 6000 năm, sau đó là 1000 năm thuộc về Chúa; và 4) Thế giới được “sáng tạo” ra năm –4004 (4004 năm trước thời đại của Ki-tô bắt đầu.) Nhưng ngày nay, trước những khám phá của khoa học về vũ trụ và trước những bằng chứng về tuổi của các sinh vật hóa thạch mà không ai có thể phủ nhận, thuyết sáng tạo đã được ném vào Recycle Bin nên mọi tính toán dựa trên niềm tin vào Kinh Thánh bắt buộc cũng phải sai.
Thứ ba, mọi tính toán đều dựa theo lịch của một nhà toán học Ki-tô, Christopher Clavius, do giáo hoàng Gregory XIII bổ nhiệm để sửa lại lịch Julian (một năm có 365.25 ngày), đưa ra một hệ thống lịch mới cho sát với những hiện tượng thiên văn như Xuân phân, Hạ chí, Thu phân, Đông chí v..v.. Lịch này chỉ được sử dụng từ năm 1582, và trong năm này, vì phải tính toán lại, nên Clavius đã bỏ đi 10 ngày, từ 5 đến 14 tháng 10, nghĩa là trong năm 1582, ngày sau ngày 4 tháng 10 là ngày 15 tháng 10. Vậy về bản chất, lịch này đâu có gì đặc biệt, chẳng qua chỉ là dựa trên sự chuyển động của trái đất. Chưa kể là ở Á Đông, ngày nay người ta dùng lịch Tây cho thuận tiện, nhưng vẫn ăn Tết Ta, đón Giao Thừa, và gần đây, tôi vừa đi dự Lễ Vu Lan 2548 theo Phật Lịch. Do đó những tính toán theo lịch Tây chẳng có gì là đặc biệt, vì lịch này chẳng qua chỉ là một áp đặt độc đoán của Ki tô giáo, dựa trên một ngày sinh độc đoán của Giê-su. Nếu không có gì đặc biệt và không có tính phổ quát, thì mọi tính toán về ngày tận thế dựa theo lịch này tất nhiên phải sai.
Tưởng chúng ta cũng nên biết là trước Clavius, trong thế kỷ 6, còn có một giáo sĩ tên là Dionysius Exiguus, thường ghi các biến cố lịch sử theo ngày thành lập La Mã (AUC = Ab Urbe Condita). Ông ta ấn định ngày sinh của Giê-su là ngày 25 tháng 12, 753 AUC, và thời đại của Ki-tô (Christian Era) bắt đầu 1 tuần lễ sau đó, ngày 1 tháng 1, 754 AUC – ngày Giê-su làm lễ cắt bì, theo phong tục Do Thái, khi Giê-su sinh ra được 1 tuần lễ. Chỉ phiền có một điều là ngày nay, tuyệt đại đa số các học giả nghiên cứu Kinh Thánh đều không thể khẳng định được ngày sinh của Giê-su là ngày nào. Tân ước viết Giê-su sinh ra trong triều đại của Herod, không rõ năm nào. Nhưng người ta lại biết rõ, theo sử liệu, năm Herod chết: 750 AUC hay 4 năm trước thời đại Ki tô bắt đầu (4 BC). Kết luận: những chuyện viết về sự sinh ra của Giê-su trong triều đại Herod đều là có tính độc đoán, áp đặt, đoán mò, bịa đặt, không phù hợp với những sự kiện lịch sử.
Niềm tin vào ngày tận thế qua những tiên đoán láo của các nhà “tiên tri” đã gây ra nhiều ảnh hưởng trong xã hội. Thật vậy, nếu tin rằng chỉ còn có vài ngày, hay vài tuần lễ, vài tháng là đến ngày tận thế, thì con người đâu cần còn phải tuân theo luật lệ quốc gia, đâu cần làm việc v..v... Những chuyện này đã xảy ra trên nhiều nơi trên thế giới. Như trên đã nói, trong 2000 năm nay, có cả trăm sự tiên đoán về ngày tận thế, nhưng tất cả đều trật lất. Lại có những giáo sĩ Ki-tô, lợi dụng lòng mê tín của tín đồ, loan báo ngày tận thế sắp tới và khuyến dụ tín đồ trao hết của cải cho nhà thờ để được bảo đảm một chỗ trên thiên đường. Trong bài này tôi không thể kể ra hết những vụ tiên đoán về ngày tận thế, mà chỉ có thể nêu ra vài trường hợp điển hình.
Trước hết là Giám mục James Ussher (1581-1656) ở Ái Nhĩ Lan. Để phù hợp với sự sinh ra của Giê-su dưới triều đại Herod (chết năm –4 (4 năm Trước Tây Lịch)), James Usher tính ngược lại theo gia phả của Giê-su và xác định Thượng đế “sáng tạo” ra thế giới lúc 9 giờ sáng, ngày 23 tháng 10, năm –4004, đền Solomon được xây 3000 năm sau ngày sáng tạo, và Giê-su sinh ra 4000 năm sau ngày sáng tạo, và từ ngày Giê-su sinh ra đời đến ngày tận thế là đúng 2000 năm, nghĩa là ngày tận thế sẽ xảy ra vào ngày 23 tháng 10, năm 1997. Sau đó là 1000 năm mà thế giới là “vương quốc hòa bình” thuộc quyền thống trị của Chúa Giê-su.. Có ai nhớ rằng chúng ta đang ở trong năm 2004 không?
Trường hợp thứ hai là William Miller (1782-1849), Giáo Chủ Adventist (Hệ phái Cơ Đốc tin rằng ngày trở lại lần thứ hai của Giê-su đã gần tới, có người dịch là Cơ Đốc Phục Lâm) đã tính toán rất kỹ, dựa theo Kinh Thánh, để đưa ra ngày Giê-su trở lại. Tin rằng một ngày tiên tri (Ezek. 4:6) là một năm, ông ta đã dựa vào các lời tiên tri trong sách Daniel 9:24-27 nói là sau 70 tuần lễ, Giê-su sẽ trở lại trần để cứu dân Do Thái, và Daniel 8:14 nói về một thời kỳ là 2300 ngày thì trái đất sẽ thuộc về Chúa. 70 tuần lễ, hay 490 ngày, biểu thị một thời kỳ 490 năm bắt đầu từ năm 457 Trước Tây Lịch, năm Vua Artaxerxes ký nghị định tái thiết Jerusalem. 490 năm sau là năm 33/34, năm Giê-su bị đóng đinh trên thập giá. Vậy Giê-su “giáng sinh” đúng vào cuối thời kỳ 70 tuần lễ. Sau đó Miller cộng con số 2300 năm vào năm 457 Trước Tây Lịch, và tiên đoán là Giê-su sẽ trở lại trần lần thứ hai (Second Coming) vào năm 1843 (1843+457 = 2300). Ngày 1 tháng 1, 1843, William Miller tuyên bố xác định ngày Chúa tái lâm sẽ xảy ra trong khoảng từ 21 tháng 3 năm 1843 đến 21 tháng 3, 1844. Thông điệp của Miller là: “Giờ Chúa phán xét đã tới – Hãy sẵn sàng để hội diện với Chúa.” Ngày 21 tháng 3, 1843 qua. Chẳng có gì xảy ra nhưng những tín đồ cơ đốc theo Miller, khoảng vài trăm ngàn, vẫn kiên nhẫn chờ đợi. Trong khi đó, họ đi khắp nơi để đe dọa những người không tin vào ngày tận thế của Miller là sẽ lãnh những điều khủng khiếp như được viết trong Kinh Thánh. Đến ngày 21 tháng 3, 1844, tờ New York Herald loan tin có nhiều tín đồ cơ đốc theo Miller đã nhảy từ trên nóc nhà hoặc ngọn cây xuống, tin rằng sẽ được Chúa đón lên thiên đường. Giê-su không thấy đâu, chỉ thấy những người tin nhảm tin nhí này hoặc bị thương nặng, hoặc chết. [Richard Abanes, End Time Visions, Four Walls Eight Windows, New York, 1998, p. 224: Many Millerites had actually jumped from roofs and treetops in hopes of timing their leaps with Christ’s return. But Jesus did not return and those who jumped “were critically hurt, and some fell to their death”].
Ngày hôm sau, một tờ báo ở Boston đưa lên trang nhất hàng chữ lớn: “Sao vậy! – Chưa lên thiên đường hay sao? – Chúng tôi nghĩ các người đã lên thiên đường rồi! Sắp lên rồi có phải không? Vợ các người không lên thiên đường để bỏ lại các người bị thiêu đốt trong hỏa ngục, có phải không?” [Richard Abanes, Ibid., p. 225: What! Not gone up yet? – We thought you’d gone up! Aren’t you going up soon? – Wife didn’t go up and leave you behind to burn, did she?]
Từ tiên đoán láo này đến tiên đoán láo khác, hệ phái Adventist vẫn không nản chí. Samuel S. Snow, một người theo Miller đã tuyên bố là tìm ra sự sai trong tính toán của Miller. Theo sự tính toán của Snow thì Giê-su sẽ trở lại vào ngày 22 tháng 10, 1844 chứ không phải là ngày 21 tháng 3, 1844.
Đến ngày Chúa trở lại, 22 tháng 10, 1844, sự hồ hởi náo nhiệt lan tràn trong đám người theo hệ phái Aventist. Một người đeo đôi cánh của một con gà tây (turkey wings), leo lên ngọn cây và cầu nguyện Chúa sẽ bốc mình lên trên trời. Anh ta nhảy xuống và tin rằng mình sẽ bay lên trời cùng Chúa, nhưng rơi xuống đất và gẫy tay. Nhiều địa chủ giầu có trở nên nghèo khổ vì đã bán hết gia sản đất đai để cúng cho Miller xây một thánh đường tại Boston. Ở New Hampshire, nhiều nông dân từ chối không gặt hái hoa mùa bắp và khoai và không cho phép ai được gặt hái.
Ngày 22 tháng 10, 1844 tới nhưng Chúa vẫn biệt tăm. Ngày 22 tháng 10, 1844 đã đi vào lịch sử Hoa Kỳ như là Ngày Đại Thất Vọng, Tín đồ khóc sướt mướt suốt đêm (Abanes, Ibid., p. 226: October 22, 1844 went down in history as the “Great Disappointment” ...We wept, and wept, till the day down)
Trước ngày 21 tháng 3, 1843, Noah Webster [tác giả Tự Điển Webster] đã lên tiếng khuyến cáo Miller như sau nhưng vô hiệu:
Sự rao giảng [về ngày tận thế] của ông không ích lợi gì cho xã hội mà chỉ làm cho người ta rất khó chịu và bực mình. Nếu ông hi vọng rằng làm cho người ta sợ hãi để kéo người ta vào vòng tôn giáo thì ông đã lầm.
... Nếu sự rao giảng [về ngày tận thế] của ông làm cho con người thất vọng hay trở nên điên loạn, ông phải chịu trách nhiệm về những hậu quả. Tôi khuyên ông hãy từ bỏ sự rao giảng [về ngày tận thế]; ông chẳng làm điều gì hay ho, tốt đẹp, nhưng có thể ông đã gây ra phương hại lớn lao cho con người. 4
Những người bị ảnh hưởng bởi hệ phái Adventist sau này vẫn tiếp tục tin vào ngày tận thế đã gần kề, và lập ra các hệ phái Adventist khác như Second Adventist hay Seventh-day Adventist (Ellen G. White), tiên đoán ngày Chúa trở lại :1873/1874, rồi đến hệ phái Nhân Chứng Jehovah (Jehovah’s Witnesses = JW) “sáng lập” bởi Charles Taze Russell (1856-1916). Hệ phái Cơ Đốc Jehovah Witness này đã gây ra nhiều tác hại trong xã hội, trong đó có nạn nhân người Việt, vì những giáo lý và cấm điều bắt buộc quái gở của họ như: Cấm tín đồ không được tôn trọng những ngày lễ như Giáng Sinh, Tạ Ơn, Phục Sinh; không được tổ chức Ngày của Mẹ, Cha (Mother’s day, Father’s day), không được đi bỏ phiếu trong kỳ bầu cử, không được chào quốc kỳ, hát quốc ca, và nhất là không được truyền máu làm cho nhiều trẻ em và người lớn theo đạo JW chết, trong đó có một phụ nữ Việt Nam đã chết vì cái luật quái gở này. Hệ phái Cơ Đốc này đã tiên đoán ngày tận thế vào năm 1874, rồi sửa lại thành 1914, rồi 1925, 1940, 1941, 1975. Trước những sự tiên đoán láo như trên, vẫn có nhiều người tiếp tục tin vào cái đạo Cơ Đốc quái gở này. Nghe nói hệ phái JW ngày nay đã lan sang Việt Nam, nếu thật vậy thì là một điều bất hạnh cho những người dân ngu ngơ tin theo. Hi vọng Nhà Nước có biện pháp ngăn chận. Đây không phải là vấn đề vi phạm tự do tín ngưỡng mà là vấn đề giữ cho xã hội được lành mạnh.
Rồi gần đây. những thảm họa gây ra bởi mục sư Jim Jones ở Jonestown, Guyana, 1978 (hơn 900 người vừa tự sát vừa bị cưỡng ép uống thuốc độc chết); hoặc bởi Chúa Con (Son of God), lời David Koresh tự nhận ở Waco, Texas, 1993 (75 người, đàn ông, đàn bà, trẻ con chết thiêu khi hệ phái Branch Davidian của David Koresh tử thủ trong một trang trại); hoặc hệ phái Heaven’s Gate ở California, 1997 (39 người tự sát, tin rằng Chúa sẽ phái một phi thuyền (spaceship) xuống bốc lên thiên đường).. Tất cả đều chỉ vì tin vào sự cứu rỗi của Chúa ở trong Kinh Thánh, nói về ngày tận thế và được lên thiên đường ở cùng Chúa. Ki-tô giáo vẫn tự nhận là tôn giáo văn minh, tiến bộ nhất thế giới.
Khi Tin Lành lan sang Á Châu, đặc biệt là ở Nam Hàn, quan niệm về ngày tận thế của Ki-tô-giáo đã gây ra những tác hại trong xã hội như thế nào? Bắt chước các nhà tiên tri dỏm ở Âu Mỹ, Tin Lành (hay Tin Dữ) Nam Hàn cũng đưa ra những lời tiên tri bịp về ngày tận thế, tức ngày Giê-su trở lại trần lần thứ hai. Sau đây là một vụ mà báo chí Mỹ đã loan tin rộng rãi.
Tối ngày 28 tháng 10, 1992, tín đồ Tin Dữ Nam Hàn tụ tập trong nhà thờ Maranatha Mission ở trung tâm Los Angeles. Họ chờ đợi Chúa trở lại vào lúc 12 giờ đêm và bốc họ lên thiên đường. Ngoài cửa có người gác, không cho những người không phải là thành viên của nhà thờ vào trong nhà thờ. Họ giữ độc quyền được Chúa bốc lên thiên đường (Rapture). Nhưng Chúa không hề trở lại. 12 giờ đêm đã qua. Một số thân nhân của các thành viên đến nhà thờ, chờ đợi ở ngoài, hi vọng có thể an ủi những người thân của mình đang ở trong tình trạng tuyệt vọng vì Chúa đã không trở lại. Tại sao lại có hiện tượng cuồng tín như vậy? Vì những quảng cáo khắp nơi về ngày Chúa trở lại, mà nguyên một trang quảng cáo trên tờ USA Today ngày 20 tháng 10, 1991, như sau:
Chúa Bốc Lên Trời
28 Tháng 10, 1992
Giê-su Sẽ Tới Từ Trên Không
Rapture
October 28, 1992
Jesus Is Coming In The Air
Đây chỉ là một trong rất nhiều quảng cáo về ngày tận thế của phong trào Tin Dữ Nam Hàn Hyoo-go (tiếng Hàn có nghĩa là Rapture), có cả trăm ngàn tín đồ ở trong nước cũng như ở ngoại quốc. Một nhóm Hyoo-go tiên đoán là bắt đầu từ ngày 28 tháng 10, 1992, sẽ có 50 triệu người chết vì động đất, 50 triệu chết vì nhà cửa sụp đổ, 1 tỷ 4 người chết vì Đệ Tam Thế Chiến, và 1 tỷ 4 người chết vì những cuộc chiến giữa Chúa Giê-su và Satan (Armageddon).
Những tiên đoán như trên được đề xướng bởi mục sư Tin Dữ Nam Hàn Lee Jang Rim trong cuốn sách thuộc loại bán chạy nhất (bestseller): Đã Đến Gần Ngày Tận Thế (Getting Close to the End) trong đó ông ta hứa hẹn ngày 28 tháng 10, 1992 là ngày Tất Cả (All) tín đồ Ki-tô đều được bốc lên trời. [Hiển nhiên là ông mục sư Tin Dữ này không hề đọc Kinh Thánh].
Ngoài ra, những “mạc khải” của Thượng đế cho một đứa bé 12 tuổi tên là Bang-Ik Ha cũng được dùng để khẳng định ngày tận thế vào tháng 10, 1992. Theo điều tin nhảm nhí này thì God đã mạc khải những lời sau đây cho Bang-Ik Ha vào tháng 7, 1987: “Cũng nhu Ta đã sửa soạn để cho John The Baptist xuất hiện trước khi Giê-su giáng sinh xuống trần, ngày nay ta sửa soạn cho Bang-Ik Ha (12 tuổi)”. Một cuốn sách mỏng của Tin Dữ Taberah World Mission loan báo là Giê-su đã đích thân nói với đứa trẻ: “Ta sẽ tới trong tháng 10, 1992. Hãy sửa soạn! (Để nghênh đón Ta) [I will be there in October, 1992. Prepare!] Theo hệ phái Tin Dữ Hyoo-go thì chỉ những người nào theo hệ phái này mới được bốc lên trời, còn những người khác sẽ phải chịu sự khủng bố khủng khiếp của Satan trong 7 năm (7 years of tribulation). Người nào không được bốc lên trời phải chịu làm “thánh tử đạo” thì sau đó mới được lên thiên đường. Nếu không sẽ bị đầy đọa xuống hỏa ngục vĩnh viễn. (eternal damnation).
Tại nhà thờ Maranatha Mission ở Los Angeles, các thành viên của Hyoo-go chứng tỏ là họ đáng được bốc lên trời bằng cách lớn tiếng cầu nguyện mỗi đêm trước đêm tận thế. Họ cầu nguyện đến độ cổ khô, khạc ra máu và cho đó là để tẩy uế tội lỗi và là dấu hiệu để được “cứu rỗi” (a way of purging oneself of sin and a sign of salvation). Cho nên, người nào càng khạc ra máu nhiều bao nhiêu thì càng có nhiều may mắn để được bốc lên thiên đường.
Trong khi đó, ở Nam Hàn đã xảy ra những sự hỗn loạn trong xã hội. Ở thị trấn Wonju, một nhóm Hyoo-go cuồng tín đốt đồ đạc ngoài đường phố và chờ để được Chúa bốc lên trời. Ở Hán Thành (Seoul), 5000 người theo Hyoo-go bỏ việc. Nhiều người bán nhà, từ bỏ gia đình. Rất nhiều giới trẻ bỏ học, từ Đại học xuống tới Tiểu học. Nhiều phụ nữ mang thai đi phá thai để cho thân thể được nhẹ nhàng để Chúa dễ bốc lên thiên đường (Several pregnant women reportedly had abortions “so they would not be too heavy to be lifted to Heaven”), và ít nhất là có 4 người tự sát trước ngày 28 tháng 10.
Đến ngày tiên đoán tận thế, hàng ngàn tín đồ Hyoo-go tụ họp trong các nhà thờ Tin Dữ Nam Hàn trên thế giới để chờ sự vinh quang được Chúa bốc lên thiên đường. Chính quyền Nam Hàn phải sử dụng 1500 cảnh sát, các xe cứu hỏa và xe cứu thương túc trực xung quanh các nhà thờ lớn của Hyoo-go ở Hán Thành để ngăn chận tái diễn cảnh ở Jonestown.
15 phút sau giờ tận thế, Mục sư Chang Man-Ho lên bục giảng và nói: ”Chẳng có gì xảy ra. Thật đáng tiếc. Chúng ta hãy về nhà”. Tín đồ không những nồi giận mà còn vô cùng đau khổ. Nhiều người khóc nức nở (Many began weeping uncontrollably). Một số hành hung các mục sư đã nói láo với họ. Một thành viên than: “Chúa đã nói láo với chúng tôi” (God lied to us).
Đối với mục sư Tin Dữ 46 tuổi Lee Jang Rim, người đã khởi xướng chuyện Chúa trở lại, gây ra nhiều tai hại trong xã hội, thì ông ta bị tòa án Nam Hàn phạt 2 năm tù vì tội lừa dối tín đồ để vơ vét 4 triệu 4 đô-la và tàng trữ đô-la bất hợp pháp. Người ta còn khám phá ra rằng Lee Jang Rim đã đầu tư một phần lớn số tiền lừa được của tín đồ để mua công khố phiếu mà thời hạn được lãnh ra toàn phần (bond mature) là vào tháng 5, 1993, nghĩa là hơn 6 tháng sau ngày tận thế.
Chuyện “ngày tận thế” của Ki-tô giáo đến đây là tận. Tôi xin để cho quý độc giả tự mình suy nghĩ về ảnh hưởng của Kinh Thánh trên đầu óc đám dân thấp kém và về những thủ đoạn khai thác lòng mê tín và sự ngu dốt của đám tín đồ ở dưới của giới lãnh đạo Ki-tô.
ooooo ۩ ooooo
3. Vài Lời Cuối.
Tôi đã đặt một câu hỏi trong đầu đề của bài viết này: Tín đồ Ki-tô Việt Nam có được Chúa “cứu rỗi” không? Qua phần trình bày ở trên, tôi tin rằng các độc giả đã tìm ra câu trả lời. Riêng đối với tôi, câu trả lời là một tiếng quyết định: “Không” (An emphatic “NO”). Tại sao? Không phải vì tôi không tin như các Ki-tô hữu, cũng không phải vì tôi là người ngoại đạo nên cố ý phủ bác niềm tin của các Ki-tô hữu. Mà vì sự “cứu rỗi” của Giê-su, nhất là cho những người Việt Nam không đặt trên một căn bản nào, thần học cũng như khoa học, có thể thuyết phục được những người có đôi chút hiểu biết. Hiểu biết ở đây là tôi muốn nói hiểu biết về thực chất Kinh Thánh, về lịch sử Do Thái, về sự bành trướng Ki-tô giáo trên thế giới, về khoa học chứ không phải là hiểu biết đại cương về những bộ môn khác. Tôi không thể nào trình bầy ở đây những luận cứ để bảo vệ sự xác định của tôi vì nó quá dài. Để thay thế, tôi chỉ xin đặt cho các Ki-tô hữu hay Cơ đốc nhân hay dân Chúa vài câu hỏi để các bạn suy nghĩ. Trong một bài khác tôi sẽ đặt vấn đề này một cách rõ ràng và chi tiết hơn.
Các bạn có biết niềm tin về một đấng cứu thế thật ra chỉ là niềm tin của người Do Thái về một người anh hùng Do Thái xuất hiện để cứu dân tộc Do Thái ra khỏi những nghịch cảnh của một quốc gia ở trong vòng nô lệ?
Các bạn có bao giờ suy nghĩ về sự kiện dân Do Thái là dân được Thượng đế chọn nhưng lại không tin Con Một của Thượng đế, Giê-su, là đấng cứu thế mà chỉ coi Giê-su như một tiên tri giống như nhiều tiên tri khác trong Cựu Ước? Cũng vì vậy mà sau này, khi Ki-tô giáo nâng Giê-su lên hàng cứu thế cho cả nhân loại, đã cực kỳ thù ghét người Do Thái và vu cho người Do Thái cái tội “giết Chúa” [nếu Chúa có thể bị giết] và bạo hành người Do Thái trong nhiều thế kỷ với cao điểm là Hitler, một tín đồ Ca-tô, đã tàn sát 6 triệu người Do Thái trong Đệ Nhị Thế Chiến.
Các bạn có biết Cựu Ước chỉ là niềm tin của dân tộc Do Thái và Tân Ước chỉ là sự tiếp nối của Cựu Ước để hoàn thành những luật của Thượng đế trong Tân Ước như chính Giê-su đã khẳng định?
Các bạn có biết Kinh Thánh gồm Cựu Ước và Tân Ước được viết trong bối cảnh lịch sử của dân Do Thái cách đây ít nhất là gần 2000 năm (Tân Ước), khi mà sự hiểu biết của con người về nhân sinh, vũ trụ của những người viết Kinh Thánh còn ở trong thời kỳ bán khai, cho nên đã có quá nhiều sai lầm về thần học cũng như về khoa học?
Các bạn có biết là những người viết Kinh Thánh hoàn toàn không có một ý niệm nào về sự cấu tạo của vũ trụ và trái đất, cho rằng trái đất phẳng và dẹt, có 4 góc, do đó không thể biết là ở phía bên kia của trái đất còn có nhiều dân tộc khác, cho nên tên các nhân vật trong Kinh Thánh hoàn toàn là ở trong vùng Trung Đông, không hề có một tên nào ở Á Đông như tên Tàu hay tên Việt Nam?
Các bạn có biết rằng chính giáo hoàng John Paul II đã phủ nhận sự hiện hữu của một thiên đường ở trên các tầng mây, và đã thú nhận là con người có thể không do Thượng đế tạo ra một cách tức thời mà là do một quá trình tiến hóa lâu dài. Như vậy thuyết sáng tạo và thuyết về tội tổ tông chẳng qua chỉ là những huyền thoại của dân Do Thái. Không có sáng tạo, không có tội tổ tông, không có thiên đường, vậy thì ai cần ai chuộc tội, ai cần ai cứu rỗi? Chẳng có lẽ Chúa chết là để chuộc những tội ác như cướp của, giết người hay loạn dâm? Các bạn có đủ can đảm để chất vấn hay phản đối giáo hoàng về điều này không?
Các bạn có biết là các khoa học gia trong Ki-tô giáo, với những máy móc tối tân nhất, những kỹ thuật tinh vi nhất, bén nhạy nhất, được dùng để cố chứng minh là trong con người có một linh hồn độc lập, trường tồn, nhưng cho tới ngày nay đã hoàn toàn thất bại? Vậy trước khi có thể chứng minh sự hiện hữu của một linh hồn riêng biệt, khi chết sẽ được Chúa “cứu rỗi” cho lên thiên đường để chờ ngày đoàn tụ với xác chết Chúa làm cho sống lại, sự “cứu rỗi” của Chúa chỉ là một ảo tưởng vô vọng của những người tin Chúa?
Các bạn có biết, qua những nghiên cứu của các học giả, chuyên gia về Kinh Thánh ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki-tô, kể cả một số chức sắc trong Ki Tô Giáo, trong mấy trăm năm nay đã đồng thuận ở một điểm: Giê-su Thần Học và Giê-su Lịch Sử [con người thực của Giê-su] là hai nhân vật hoàn toàn khác nhau? Do đó tất cả những điều các bạn tin về Giê-su chỉ là Giê-su theo Thần học chứ không phải là Giê-su thực.
Các bạn có biết, theo như đoạn cuối trong sách Khải Huyền, thì Nước Trời chỉ là một Jerusalem mới của người Do Thái được đặt dưới quyền thống trị của Thiên Chúa?
Còn nhiêu câu hỏi nữa, nhưng tôi cho rằng như vậy cũng đã tạm đủ. các bạn hãy suy nghĩ và trả lời với tất cả sự lương thiện trí thức của mình.
--------------------------------------------------------------------------------
1 Alfred Loisy, The Origins of the New Testament, University Books, N.Y., 1962, pp.27-28: In the supernatural so understood we have here no part or lot, for the plain reason that it is untrue, that it crumbles to pieces, save so far as it is held together by the ignorance of the believing masses, and by the wilful blindness of the theologians who refuse to see what is before them; nor can the suspicion be avoided that these theologians sometimes play a part which ranges them with opportunists, apologetic politicians, exegetical strategists, rather with those who really and personally believe in the false supernaturalism, which they seem determined to impose as a perpetual burden on the religious mind. We beg to tell them, and to say it once for all, that their pretensions are preposterous and their assumption of infallibility an unpermitted revolt against exact knowledge.
2 Robert G. Ingersoll, The Mistakes of Moses: Now they say that this book (the Holy Bible) is inspired. I don’t care whether it is or not; the question is, Is it true? If it is true it doesn’t need to be inspired. Nothing needs inspiration except a falsehood or a mistake.
3 Holy Bible, New International Version: Revelation is the only book of this kind in the New Testament. It is a book about the end of this present world and the beginning of “a new heaven and a new earth.” The book of Revelation was written by the apostle John during his exile on the island of Patmos. While John was there, Jesus gave him a vision of what w ould happen in the near future. John wrote this book so Christians who were being persecuted would trust that God controls whatever happens here on earth. John’s vision shows that Jesus is the ruler over everyone and everything – even powerful human governments – and he will judge and punish whatever is evil. It also gives Christians a picture of heaven, where we will be with Jesus.
4 Richard Abanes, End-Time Visions, Four Walls Eight Windows, New York, 1998, p. 224: Your preaching can be of no use to society but it is a great annoyance. If you expect to frighten men and women into religion, you probably mistaken.
...If your praching drives people into despair or insanity, you are responsible for the consequences. I advise you to abandon your preaching; you are doing no good, but you may do a great deal of harm.
--------------------------------------------------------------------------------
Trang Trần Chung Ngọc
11/9/09
10/9/09
CHÍNH ĐẠO : NGÔ ĐÌNH DIỆM LÀ AI?
NGÔ ĐÌNH DIỆM LÀ AI?
Suốt nửa thế kỷ đầy xương máu, nhục nhằn, phẫn hận vừa qua, đã có những nỗ lực «phong thánh» cố Tổng thống Ngô Đình Diệm trong khối văn chương bình dân và tuyên truyền của miền Nam. Khối văn chương «cung văn » này, hẳn nhiên, hầu như hoàn toàn trái ngược với sự thực sử học. Thực sự Ngô Đình Diệm là ai? Chính Đạo đã trả lời câu hỏi ấy.
Chuyển Luân
Sơ lược tiểu sử
JEAN BAPTISTE NGÔ ĐÌNH DIỆM (1897-1963):
THỜI KỲ CHƯA NẮM QUYỀN, 1897-1954
Bài này là chương mở đầu Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng của Chính Đạo (Houston, TX: Văn Hóa, 2004), đã được bổ khuyết vài lỗi lầm khi sắp chữ và kỹ thuật. Những thắc mắc về hai tiếng ‘thánh chiến’ nếu có, sẽ được giải đáp khá rõ ràng qua những chi tiết trong bài.
Quí vị yêu sách, xin liên lạc: Hoàng Đỗ Vũ, Po Box 721049, Houston, Tx 77272-1049.
Ngày 25/4/1961, Tướng Edward G. Lansdale -người được coi như hiểu biết rất rõ Việt Nam Cộng Hòa [VNCH]-viết báo cáo lên Thứ trưởng Quốc phòng Roswell L. Gilpatric, Chủ tịch Ủy Ban Đặc Nhiệm Việt Nam (Presidential Task Force on Vietnam), về ‘No Din Zee'em’ (Ngô Đình Diệm) như sau: ‘Ông ta lùn, mập tròn. . . Nhiều người không chú ý đến cặp mắt đen hay liếc trộm [snapping] của ông ta mà chỉ chú ý đến cặp giò vừa đủ chạm mặt đất khi ngồi. Tuy nhiên, ông ta không cảm thấy ngượng ngùng về chuyện lùn, và có vẻ rất tự nhiên chung quanh những người Mỹ cao lớn. . .Ông ta tỏ vẻ ăn uống ngon lành (và thường có sở thích ăn ngon). Nụ cười của ông ta có vẻ e dè và bất thường. . . Diệm sinh ngày 3/1/1901. . . Năm 25 tuổi [1926], Diệm đã được cử làm quan đầu tỉnh. Nhưng sau ‘sáu tháng làm Thượng thư’ Diệm từ chức, trở thành ‘người hùng thực sự của người Việt.’ Từ đó, anh em Diệm ‘âm thầm chống cả Pháp lẫn Cộng Sản.’ Diệm là một người độc thân 60 tuổi, ‘đã cắt bỏ mối tình với người yêu đầu đời để dâng hiến cho tổ quốc.’(1)
Thực ra, Lansdale dường không muốn viết rõ, hoặc không biết nhiều về Diệm. Hầu hết chi tiết về hộ tịch Diệm cũng như thành tích chống Pháp của Diệm và gia đình Ngô Đình Khả, đều thiếu chính xác. Các học giả thế giới cũng chẳng bận tâm đến việc tu chỉnh lại tiểu sử người cầm đầu phe thua cuộc.(2) Đáng buồn hơn nữa, lịch sử Việt Nam, dưới mắt nhiều học giả thế giới, chỉ là một thứ câu chuyện thêm thắt vào [anecdotes] chính sách và sự can thiệp của các cường quốc như Mỹ, Nga, Trung Hoa, Pháp, Bri-tên, Nhật, v.v... Người Việt cũng có lý do riêng để không muốn thấy có một tiểu sử chính xác về Diệm, từ chính trị, tôn giáo, tới ý thức hệ. Nên chẳng ngạc nhiên khi khối văn chương hiện hữu về họ Ngô hay Đệ nhất VNCH tràn ngập những lời ‘cung văn’ hoặc ‘đào mộ’, bất chấp sự thực.
Bài viết này nhằm điền vào khoảng trống nói trên. Tư liệu chúng tôi sử dụng cơ bản là tập tiểu sử chính phủ Diệm do cơ quan an ninh Pháp thành lập vào tháng 7/1954, hiện vẫn còn chưa giải mật. Ngoài ra, còn nhiều tư liệu văn khố Pháp, Mỹ, Nga, Trung Hoa, cùng các tài liệu nguyên bản khác.
I. SƠ LƯỢC GIA THẾ:
Ngô Đình Diệm, ngoài tên ‘thánh’ Jean Baptiste [Gioan Bao-xi-ta], còn có bí danh Nguyễn Bá Chinh. Theo tài liệu văn khố Pháp, Diệm sinh ngày 27/7/1897 tại Đại Phong [Phuong] hay Đại Phong Lộc, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.(3) Cha là Ngô Đình Khả (1856-1914), một tín đồ Ki-tô tân tòng, xuất thân thông ngôn cho Pháp, sau đổi qua ngạch quan lại Việt, lên tới Đề đốc Kinh thành (1905-1907). ‘Mẹ’ là Phạm Thị Thân.
Anh em Diệm khá đông, gồm sáu trai, hai gái. Ngô đình Khôi, con vợ lớn, là anh cả. Diệm, theo lời đồn, đứng hàng em của Khôi, Ngô đình Thục, và anh Ngô Thị Hiệp (bà Cả Lễ; chồng là Nguyễn Văn Ấm, sinh ra Hồng y Nguyễn Văn Thuận), dù tuổi ‘chính thức’ Diệm lớn hơn Thục hơn hai tháng. Dưới Diệm có Ngô đình Nhu, Ngô đình Cẩn, Ngô đình Luyện, cùng một người em gái khác. Vì Khả chết khi Diệm còn nhỏ (17 tuổi khai sinh), Khôi quyền huynh thế phụ. Khôi chết, Thục có ảnh hưởng nhất trên Diệm, với cương vị một Giám mục.
Cha đỡ đầu của Diệm là Nguyễn Hữu Bài (1863-1935), nhạc phụ Khôi, một thủ hạ cũ của Khả, cũng một Thượng thư uy quyền và đầy mưu mô tại Huế từ 1907 tới 1933. Theo tài liệu Pháp, Bài đã nuôi dưỡng Diệm từ nhỏ. Bài cũng có ý định chọn Diệm làm con rể, nhưng vì lý do nào đó không thành. Con gái Bài sau đi tu dòng kín Carmel.(4)
Sau ngày lên cầm quyền ở miền Nam, Diệm bỗng đổi ngày sinh thành 3/1/1901. Chẳng hiểu tại sao có việc ‘thay đổi’ hộ tịch trên. Việc thay tên, đổi họ và ngày sinh tháng đẻ là việc thường xảy ra ở Việt Nam. Trước hết, vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, việc khai hộ tịch không được kiểm soát chặt chẽ. Các viên chức xã ấp tại thôn quê không đặt nặng sự chính xác về ngày sinh của trẻ em. Cha mẹ nhiều khi khai rút tuổi con cái để nhắm mục đích nào đó, như đi học hay khai sưu thuế. Hơn nữa, việc đổi từ ngày nhật (dương) lịch qua nguyệt (âm) lịch rất phức tạp, đôi khi cha mẹ dùng ngày tháng sinh nguyệt lịch làm ngày tháng nhật lịch, rồi dùng năm nhật lịch tương đương trong khai sinh. Thông thường, cha mẹ hay khai rút tuổi các con. Nhưng rất hiếm trường hợp cha mẹ khai con mình tăng thêm ba bốn tuổi, ngoại trừ có biệt lệ nào đó. Phải chăng Diệm rơi vào trường hợp đặc biệt này, vì nếu sinh năm 1901, Diệm không thể nào được tập ấm chức Cửu phẩm và làm việc tại Tân Thư Viện Huế năm 1917, khi mới 16 tuổi.(5)
Theo Luyện, em út trong gia đình họ Ngô, Diệm đã khai tăng bốn tuổi (tức từ 16 lên 20 tuổi) để có thể vào trường Hậu Bổ. Điều này khó tin, vì mãi tới năm 1918-1919, Diệm mới học trường Hậu bổ.(6) Luyện cũng là nhân chứng không đáng tin cậy. Thí dụ như khi được hỏi về vai trò chính trị của Luyện, Luyện nói được lệnh ‘đứng ngoài chính trị.’ Thực tế, từ thập niên 1940, Luyện đã hoạt động với các tổ chức thân Nhật, và trở thành đặc sứ của Diệm với Bảo Đại, trước khi nắm chức Đại sứ tại London. Luyện cũng tung ra những tin đồn về giao tình giữa Luyện và Bảo Đại, mà theo Bảo Đại không hề có.(7) Và, như đã lược nhắc, Diệm được tập ấm chức Cửu phẩm, làm việc tại Tân Thư Viện Huế từ năm 1917, trước khi vào trường Hậu Bổ.
Một ký giả ngoại quốc, Robert Sharplen, thì ghi rằng theo Diệm, khoảng năm 1915-1916, Diệm đã man khai hộ tịch để dự thi bằng tương đương tốt nghiệp trung học.(8) Chi tiết này hoàn toàn sai sự thực. Mãi tới giữa thập niên 1920, mới có những cuộc thi bằng Tú Tài I và II chương trình Pháp-Nam. Bằng cấp mà Diệm thi tương đương chỉ là bằng Trung học phổ thông đệ nhất cấp (Diplôme). Tài liệu thành văn cũng chứng minh rằng Diệm đã vào quan trường từ năm 1916 hoặc 1917, với chức Cửu phẩm tập ấm tại Tân Thư viện, mà không phải sau khi đã tốt nghiệp trường Luật Hà Nội năm 1921 như Diệm khoa trương hay Sharplen đã ghi sai. Thực tế, Diệm vào trường Hậu bổ từ niên khóa 1918-1919, và chỉ học tại Hà Nội một niên khóa 1920-1921.
Một động lực trong việc sửa đổi hộ tịch có lẽ là để hợp thức hóa vai ‘em’ của Diệm với Giám Mục Ngô đình Thục -Thục sinh ngày 6/10/1897 tại Phước Quả, Thừa Thiên, thua Diệm hơn hai tháng. Nhưng cũng có thể, và điều này cần được tra cứu thêm, Diệm không man khai hộ tịch, mà rất đơn giản là không cùng mẹ (Phạm Thị Thân) với anh chị em khác. Có lẽ vì muốn che đậy bí ẩn này, tiểu sử Khôi và Thục trong tập Vua chúa và người quí phái Đông Dương [Souverains et Notabilités] năm 1943 không ghi ngày sinh.(9)
Tài liệu văn khố Pháp cũng ghi Diệm sinh tại Đại Phong Lộc, Lệ Thủy, Quảng Bình, mà không phải Phước Quả, Thừa Thiên, giống như Thục, Nhu, Cẩn, Luyện, v.. v... Địa danh ‘Đại Phong Lộc’ từng được khai là nơi sinh của Khôi, anh cả trong gia đình, con Khả và người vợ lớn đã chết sớm, trước khi Khả lấy bà kế thất tên Thân.(10)
Rất ít chi tiết về học vấn Diệm được công bố. Có tin Diệm học trường Pellerin ở Huế, và tốt nghiệp Diplôme [Trung học đệ nhất cấp]. Diệm biết cả chữ Nho [Hán Việt]. Lại có tin Diệm học ở chủng viện, nhưng bỏ tu nửa chừng.(11) Bởi thế, nhiều tài liệu cho rằng Diệm thuộc loại ‘religious fanatic’ [cuồng đạo]. (Hy vọng các nhà nghiên cứu trong nước tìm thêm được những chi tiết này).
II. ‘BÁT CƠM’ BẢO HỘ PHÁP:
Trong nỗ lực biến hóa Ngô Đình Diệm thành một ‘lãnh tụ anh minh’ đủ sức đương đầu với Hồ Chí Minh -kiểu ‘ăn Ngô thì no, ăn Hồ thì đói’- cơ quan tuyên truyền Mỹ và Nam Việt Nam tô chuốt cho Diệm những bảng hiệu như ‘yêu nước, chống Pháp’, v.. v... ‘Yêu nước’ là một nhận xét khó lượng định, vì chỉ có mỗi cá nhân mới tự biết rõ mình yêu nước hay không. Có nhiều cách biểu lộ lòng yêu nước, nên khó thể sử dụng một hệ thống lượng giá cố định nào đó. Tấm huy chương nào cũng có mặt trái của nó. ‘Chống Pháp’ thì dễ lượng định hơn. Tinh thần chống Pháp của Diệm, hay họ Ngô, chỉ là những triển biến vào khoảng cuối đời, và động lực không hẳn do lòng yêu nước thuần túy, mà nặng về tôn giáo cùng quyền lợi bản thân và dòng họ. Thực ra, Diệm xuất thân từ một gia đình trung gian bản xứ Ki-tô, phục vụ Bảo hộ Pháp rất tận tụy. Khả, cha Diệm, từng lên tới chức chánh thông ngôn tòa Khâm sứ Huế dưới thời Pierre Rheinart des Essarts, rồi chuyển sang làm thương biện Viện Cơ Mật. Ngày 10/4/1892 Khả dịch công văn của triều Huế xin Toàn quyền Jean de Lanessan đừng gửi ra Huế những người như Petrus [Key], Nguyễn Trọng Tạo, Lê Duy Hinh, hay Diệp Văn Cương, v.. v... Khả cũng tham dự chiến dịch đánh phá phong trào kháng Pháp tại Hà Tĩnh-Quảng Bình của Ngự sử Phan Đình Phùng (1847-1895) trong hai năm 1895-1896, và được đặc cách lên Thái thường tự khanh (Chánh tam phẩm) năm 1896, sau khi hài cốt Ngự sử Phùng bị đốt thành tro, ném xuống sông Lam ‘theo [lối trừng phạt] truyền thống.’(12)
Sau một thời gian làm Phó Giám đốc trường Quốc Học Huế, đặc trách vấn đề nhà cửa, lương bổng và hành chính, Khả được giao chức Đề đốc kinh thành, lo việc bảo vệ và kiểm soát Thành Thái (1889-1907), cầm đầu một toán thân binh cạo răng trắng, hớt tóc ngắn, mang súng trường, nhưng nhiệm vụ chính yếu -nếu tin được báo cáo của Hiến binh Pháp- chỉ để giúp vua lùng sục và bắt cóc gái đẹp quanh kinh thành. Sau khi về hưu, Khả được hàm Thượng thư.(13)
Khôi, anh cả họ Ngô, bắt đầu ‘tham chánh’ năm 1910, sau khi tốt nghiệp trường Hậu bổ. Khoảng 6 năm đầu, Khôi làm tại văn phòng Bộ Công do cha vợ làm Thượng thư. Sau ngày tiếp tay cho Khải Định (1916-1925) lên ngôi, Bài được thăng lên Thượng thư Bộ Lại, và Khôi bắt đầu đi ngồi huyện, phủ, rồi lên tới Tuần vũ, Tổng đốc.
Diệm thì năm 1917 được tập ấm chức Cửu phẩm, làm việc tại Tân thư viện Huế (tức Musée Khải Định sau này), nơi đặt trụ sở Hội Bạn của Cố đô Huế, và có bài đăng báo Bulletin des Amis de Vieux Hué [Đô thành hiếu cổ]. Năm 1918-1919, Diệm bắt đầu vào trường Hậu bổ Huế. Người đỡ đầu có lẽ là Nguyễn Đình Hòe, một phụ tá cũ của Khả trong chiến dịch truy giết Ngự sử Phùng, lúc đó làm Giám đốc trường Hậu Bổ (năm 1921 giữ chức Tổng thư ký Viện Cơ Mật). Thời gian này, triều đình Huế đã bỏ lối thi Hương và thi Hội cũ, và trường Hậu bổ mở thêm một phân khoa ‘pháp chính’ [hành chính và luật] của trường Đại học Hà Nội. Học viên học tại Huế hai năm đầu, và năm thứ ba phải ra Hà Nội. Có lẽ Diệm được chuyển qua chương trình này.
Tốt nghiệp năm 1922, nhờ Thượng thư Bài, Diệm được bổ nhậm ngay. Năm 1929 [1926?], Diệm lên tới chức Tuần Vũ Bình Thuận (Phan Thiết). Được cấp trên đặc biệt chú ý vì thanh liêm và tinh thần diệt Cộng cao. Một số nhân chứng ghi nhận rằng Diệm, khi làm tri phủ Hoà Đa (Bình Thuận), đã dùng đèn cầy [nến] đốt hậu môn tù nhân CS để lấy khẩu cung.(14) Vì thế, theo Giám Mục Ngô đình Thục, Cộng Sản đã thuê một sát thủ ra tận Phan Rang mưu sát Diệm, nhưng Diệm chỉ bị thương.(15)
Tóm lại, từ Khả xuống Khôi, rồi Diệm, tinh thần phục vụ và lòng trung thành với Pháp khá vững chắc. Khôi từng nhờ Nhu nói với Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Paul Arnoux ngày 18/8/1944 tại Huế rằng Khôi ‘xin thề trên thập tự giá’ là lúc nào cũng coi Bảo hộ Pháp như ‘bát cơm’ [bol de riz] của họ Ngô. Khôi cũng thường nói với Diệm rằng sở dĩ người Pháp [Khâm sứ Emille Grandjean] không ưa vì ‘[họ Ngô] quá toàn vẹn,’ và ‘Phạm Quỳnh thì khôn khéo, nên được cả Pháp lẫn Nhật quảng cáo tài năng.’(16) Giám mục Ngô đình Thục, trong thư ngày 21/8/1944 gửi Toàn quyền Jean Decoux, tóm lược rõ ràng nhất công lao và lòng trung thành với Bảo hộ Pháp của họ Ngô cũng như cá nhân Diệm.
Dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp ‘yêu nước, chống Pháp’ của Diệm, là cuộc "đảo chính cung đình" ngày 2/5/1933. Ngày này, Toàn quyền Pierre Pasquier (12/1928-1/1934) và Quyền Khâm sứ Léon Thibaudeau (2/1933-7/1934) đột ngột bắt Bài và toàn bộ nội các về hưu. Việc này, theo báo Tiếng Dân, chấn động dư luận Huế. Bẽ bàng nhất cho Bài là ngay chính Bài cùng các Thượng thư không hề được báo trước. Và, khi Thibaudeau tuyên bố danh sách nội các mới, có Trần Thanh Đạt thông dịch qua tiếng Việt, một số người vẫn chưa kịp về đến kinh đô.
Nguyên Pasquier, với sự thỏa thuận của Albert Sarraut, quyết thực hiện một cuộc ‘đại cải cách’ ở An Nam, đánh bóng uy tín vua Nguyễn để làm giảm bớt và điều-kiện-hóa các phong trào quốc gia mới-như cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng năm 1930, và nhất là sự du nhập và phát triển của phong trào Cộng Sản từ giữa thập niên 1920, bùng nổ thành những cuộc bạo động, khủng bố tại các đồn điền miền Nam, cùng phong trào Sô Viết Nghệ Tĩnh trong hai năm 1930-1931. Pasquier và Thibaudeau đoạn tuyệt với nhóm hợp tác cựu trào (Nguyễn Hữu Bài, Ki-tô giáo). Nhóm này chủ trương đồng hóa và thống trị theo kế sách của Giám mục Paul Puginier và Louis Caspar-nhằm Ki-tô hóa các vua quan rồi khiến toàn thể dân Việt sẽ phải theo đạo, và vĩnh viễn trở thành ‘bạn của nước Pháp’. Từ thập niên 1890, nhóm hợp tác cựu trào trở thành một thứ kiêu binh của cái mà Phạm Quỳnh (1892-1945) cũng như Bảo Đại gọi là ‘một văn phòng phụ thuộc nho nhỏ của Tòa Khâm,’ tức triều đình Huế, lúc nào cũng mang công lao của khối giáo dân bản xứ trong việc thiết lập chế độ Bảo hộ ra áp lực Pháp. Ngựa mới của Pasquier là phe tân trào (tiêu biểu bằng Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác, Nguyễn Thái Bạt, Lê Dư, v.. v...). Phe này chủ trương hợp tác tinh thành, hay Pháp-Việt đề huề. Quan chức Pháp đã chọn phe tân trào, vì chủ trương hợp tác có nhiều triển vọng thành công trước sự lớn mạnh của các phong trào quốc gia mới. Trong khi đó, nhóm Quỳnh chấp nhận ‘tôn quân cũng là yêu nước,’ tạm ngưng lại đòi hỏi thể chế cộng hòa. Để làm giảm sự bi phẫn của nhóm cựu trào, Pasquier và Thibaudeau đặc cách Diệm-con nuôi của Bài [son fils putatif], cũng một trong hai Tuần vũ thanh liêm, chống Cộng nhiệt tình nhất-lên làm Thượng thư Bộ Lại.(17)
Một số mật báo viên ghi, và ngay chính Diệm man khai (ngày 24/12/1947 với Tổng lãnh sự Mỹ tại Hong Kong là George D. Hopper) rằng ‘Giệm’ được làm ‘quan đầu triều Bảo Đại.’(18) Thực ra, từ tháng 5/1933, Bộ Lại mất đi ảnh hưởng của những năm Bài được kiêm nhiệm chức Tổng lý [Chủ tịch Viện Cơ Mật], và chỉ ngang với các Bộ khác. Người có uy thế nhất là Phạm Quỳnh, Thượng thư Giáo dục kiêm Ngự tiền Tổng lý của Bảo Đại. Quỳnh không những chỉ chuyển lệnh của Toàn quyền và Khâm sứù Pháp cho Bảo Đại, mà còn đồng thời dịch, và thiết kế việc thực thi các lệnh trên, cùng báo cáo kết quả lên Khâm sứ.
Thibaudeau còn cử Diệm làm Tổng Thư ký Ủy ban Cải Cách, và yêu cầu Diệm làm tờ trình về kế hoạch canh tân Bộ Lại. Diệm, có lẽ do ảnh hưởng của Bài, đưa ra 2 điều kiện: Phải thống nhất Bắc và Trung Kỳ; tái bổ nhiệm một Tổng Trú sứ (Résident Général) cho Trung và Bắc Kỳ như đã qui định trong Hoà ước 6/6/1884; và, cho Viện Dân biểu quyền thảo luận.(19) Đề nghị này giống hệt kế hoạch của Bài: Muốn cải cách, việc đầu tiên phải hủy bỏ chức Thống sứ Hà Nội và Khâm sứ Huế (tức tái sát nhập Bắc Kỳ vào An Nam), sau đó cho An Nam ngân sách riêng. Nói cách khác, phải trở lại với Hiệp ước 6/6/1884-đòi hỏi mà Bài đã gieo xuống đầu óc thơ dại của Duy Tân từ năm 1915-1916, đưa đến việc vua bị truất phế rồi đầy qua Réunion cùng cựu hoàng Thành Thái (Bửu Lân) vào cuối năm 1916. Pasquier, dĩ nhiên, không chấp thuận. Ngày 9/7/1933, Diệm ra Quảng Trị ở với cha nuôi ít ngày. Trở lại Huế, ngày 12/7, Diệm nạp cho Thibaudeau một bản sao đơn từ chức đã trình lên Bảo Đại. Lý do Diệm nêu ra là cơ cấu tổ chức hiện tại không phù hợp với Hiệp ước 6/6/1884-Hiệp ước này qui định Pháp chỉ giữ một chế độ bảo hộ kiểm soát (protectorat de contrôle) mà không phải bảo hộ trực tiếp (protectorat direct).(20)
Thibaudeau gọi Bảo Đại từ Đà Lạt về Huế giải quyết. Bảo Đại bảo thẳng Diệm rằng không thể viện dẫn lý do chính trị để từ chức, vì đó là hành động phản nghịch. Diệm đành viết lại đơn từ chức khác ngày 18/7, nêu lý do muốn dành thì giờ cho việc tu hành. Lần này, Diệm được toại ý. Ngày 22/7, Thibaudeau đổi Thái Văn Toản qua thay Diệm nắm bộ Lại, và đưa Tôn Thất Quảng, Tổng đốc Thanh Hóa, mới lập công lớn trong việc đàn áp đẫm máu tại các tỉnh Bắc An Nam, lên nắm Bộ Công và Nghi Lễ thay Toản.(21)
Ngay sau ngày Bài bị cách chức, vài tờ báo Nam Kỳ công khai đả kích Pasquier. Theo một mật báo viên (Luật sư Lê Văn Kim), những bài đả kích trên từ Huế chuyển vào Sài Gòn. Tháng 12/1933, Diệm còn vào Sài Gòn gặp Nguyễn Phan Long, Lê Văn Kim, Jacques Lê Văn Đức v..v... bàn thảo kế hoạch trả thù Pasquier và Thibaudeau. Tiếp đó, tờ La Tribune indochinoise [Diễn đàn Đông Dương] và tờ La Lanterne ở Paris mở chiến dịch đòi thay Pasquier bằng cựu Toàn quyền Alexandre Varenne (7/1925-11/1927) và đưa cựu Khâm sứ Yves Châtel (6/1931-2/1933) trở lại Huế.
Biết được tin này, Pasquier truất hết chức tước của Bài, Diệm và Pierre Nguyễn Đệ, Bí thư riêng của Bảo Đại, thuộc một gia đình trung gian bản xứ Ki-tô nổi danh khác ở miền Bắc (Án sát Nguyễn Liên). Diệm còn bị trục xuất khỏi Huế, chỉ định cư trú tại Quảng Bình.(22)
May mắn cho Diệm, ngày 15/1/1934, Pasquier chết vì tai nạn máy bay trên không phận Paris. Năm sau, Bài chết tại Quảng Trị. Toàn quyền René Robin (7/1934-1/1937) và Khâm sứ Maurice Graffeuil (7/1934-5/1936, 4/1937-8/1941) phục hồi tước vị hàm [honoraire] cho Bài, Diệm và Đệ. Diệm được về Huế dạy trường Providence [Thiên hựu] do Linh mục Ngô đình Thục, �anh trai� Diệm, làm Giám học.(23)
III. HỢP TÁC VỚI NHẬT:
Thế chiến thứ hai (1939-1945) và việc Nhật xâm chiếm Đông Dương từ hai năm 1940-1941 khiến Diệm và họ Ngô, do tham vọng và ý muốn phục thù Pháp, đi tìm một bát cơm hay thiên mệnh ngoại cường khác. Họ Ngô bí mật yểm trợ Hoàng thân Cường Để và từ năm 1942, công khai hợp tác với Hiến binh Nhật (Kempeitai). Huân, con trai lớn của Khôi, làm thông ngôn cho Nhật. Trong khi đó, Ngô đình Nhu (1910-1963) che chở cho hai con Cường Để, Tráng Đinh và Tráng Liệt, tại văn khố Tòa Khâm sứ Huế. Những người thân Diệm cũng làm việc tại tòa Lãnh sự Nhật từ năm 1942. Đầu năm 1943, Y sĩ Trương Kế An, thủ lãnh Liên Đoàn Ái Quốc Việt Nam, gặp Diệm ở Hà Nội. Pierre Đệ, anh rể hụt của Ngô đình Nhu, cũng có mặt.(24)
Trong khi đó, Khôi cho Diệm dùng Dinh thự Tổng đốc Nam-Ngãi của mình để tiếp xúc với những cá nhân thân Nhật. Khôi còn che chở cho tín đồ Cao Đài (đang bị nghi ngờ thân Nhật, ủng hộ Cường Để) trong vùng cai trị. Mật thám Pháp cũng tìm thấy trong nhà một người cháu họ của Khôi ở Quảng Nam, Ngô Đình Dậu (?), tài liệu liên quan đến Việt Nam Phục Quốc Hội của Cường Để. Vì việc này, Khâm sứ Grandjean (6/1941-8/1944) chẳng những không hồi âm thư chúc mừng của Khôi, mà trong buổi gặp mặt trên đèo Hải Vân, còn bắt Khôi về hưu không được hàm Thượng thư. Tháng 1/1944, Grandjean còn cho lệnh Bảo Đại bí mật trục xuất Diệm khỏi Huế, chỉ định cư trú ở Quảng Bình. Anh em Diệm trút mọi hờn oán lên Quỳnh, đương kim Tổng lý [Tể tướng] triều đình.(25)
Mùa Hè 1944, Mật thám Pháp khám phá ra tổ chức Đại Việt Phục Hưng của Diệm, gồm khoảng 50 đảng viên tích cực, kể cả một số giáo sĩ; nằm ngay trong đội lính khố xanh (Garde indochinoise), cảnh sát, công chức, v..v... Một trong những lãnh tụ là Trần Văn Lý, Tuần vũ Hà Tĩnh.(26) Pháp bèn cho lệnh khám xét tư thất Diệm, nhưng Diệm đã sớm tẩu thoát.
Ngày 12/7, Trung úy Kuga Michio của Hiến binh Nhật bí mật đưa Diệm vào Đàø Nẵng, rồi đáp phi cơ vào Sài Gòn. Trong thời gian ở miền Nam, Diệm lui tới với Matsushita [Tùng Hạ] Mitsuhiro, Chủ công ty Dainan Koosi [Đại Nam hay Dainan Konsi], trưởng lưới tình báo dân sự của Nhật, cũng người tự nhận là bạn thân của Cường Để.(27)
Một tháng sau, ngày 12/8, Nguyễn Huy Tân, Cán sự Công chính ở Quảng Ngãi, một cán bộ của Diệm, khai rằng Nhật đã chọn Diệm làm Thủ tướng, trong một chế độ quân chủ lập hiến mà người làm vua không nhất thiết phải là Cường Đểå. Hai ngày sau, 14/8, Paul Arnoux, Giám đốc Cảnh Sát, được lệnh bí mật khai thác Ngô đình Nhu và Khôi ngay tại Huế. Ngày 18/8, Arnoux báo cáo rằng Ngô đình Nhu nhìn nhận việc làm tội lỗi của Diệm, nhưng Khôi không dính líu, xin ‘thề trên thập tự giá’ là chỉ muốn duy trì "bát cơm" Pháp.(28)
Ngày 20/8, vì tình hình Âu Châu đang rối loạn, phe ‘Pháp tự do’ của Charles de Gaulle đang tiến vào Paris, Decoux đồng ý với đề nghị của Arnoux là chỉ trừng trị những cán bộ hạng trung, tránh khiêu khích Nhật.
Trong khi đó, ngày 21/8, Ngô đình Thục -đã được thụ phong chức Giám mục Vĩnh Long từ năm 1938- viết thư xin Decoux nghĩ đến công lao hãn mã của cha mình với chính phủ Pháp trong việc ‘đánh dẹp phản loạn’ (tức những phong trào Văn Thân và Cần Vương kháng Pháp) khi xét xử Khôi và Diệm. Anh em họ Ngô, Ngô đình Thục nhấn mạnh, cũng đã nhiều lần dâng hiến thân tâm cho Bảo hộ Pháp, bất kể mạng sống. Chẳng hiểu vì công lao to lớn của Khả (đặc cách từ Thương biện Cơ Mật viện lên Thái thường tự khanh, năm 1896), vị thế Giám Mục của Ngô đình Thục, thành tích phục vụ Bảo hộ của anh em Diệm-Khôi, hay vì mối lo ngại cho sự an nguy chính bản thâân Decoux, Pháp không tiếp tục truy cứu việc này.(29)
Cuối năm 1944, đầu năm 1945, Diệm tá túc trong bệnh viện Chợ Quán, được trưng dụng làm trụ sở quân sự của Nhật, sau này đổi tên thành bệnh viện bài lao Hồng Bàng. Tại đây, Diệm cùng Y sĩ Nguyễn Xuân Chữ, Y sĩ Lê Toàn, Kỹ sư Vũ Văn An, Ký giả Vũ Đình Dy thành lập Ủy Ban Kiến Quốc, phò trợ Cường Để.(30)
Cuối năm 1944, khi chuẩn bị kế hoạch Mago để lật đổ chế độ thân Vichy Decoux, Hiến binh Nhật đã dự trù Diệm sẽ trở thành Thủ tướng. Tuy nhiên, tình hình ngày một đổi thay mau chóng. Tướng Tsuchihashi Yuitsu, Tân Tư lệnh Quân đoàn 38-lực lượng trách nhiệm phòng thủ Đông Dương chống lại cuộc đổ quân Đồng Minh-dồn mọi nỗ lực cho mục tiêu quân sự hơn chính trị. Bởi thế Tsuchihashi giữ Bảo Đại làm vua một nước Việt Nam ‘độc lập trong Khối thịnh vượng chung Đại Đông Á,’ chống việc đưa Cường Để về nước. Nhưng nước Việt Nam này trên thực tế chỉ bao gồm 12 tỉnh miền Trung, vì Nam Kỳ cũng như Bắc Kỳ được trù liệu sẽ trở thành hai trung tâm tử thủ chống lại sự đổ bộ của quân Đồøng Minh. Giám đốc Kempeitai yêu cầu phe Diệm-Chữ tham gia chính phủ độc lập tại Huế, nhưng cả hai đều từ chối.(31)
Tháng 3/1945, sau cuộc Hành quân Meigo (9-10/3/1945) loại bỏ Decoux, Bảo Đại hai lần nhờ Nhật mời Diệm làm Thủ tướng, nhưng không có hồi âm. Mãi sau này, Bảo Đại mới được Nhật thông báo rằng họ không muốn dùng Diệm.(32) Thay vào đó, tháng 4/1945, Trần Trọng Kim (1883-1952) được đưa từ Krung thêp về Huế làm Tổng lý nội các [Thủ tướng] ‘Đế quốc Việt Nam’ (4-8/1945).(33)
Thực ra, nhóm Diệm-Chữ đã bị phân tán ra khắp ba miền. Y sĩ Chữ về lại Nam Định, rồi Hà Nội, và cuối cùng trở thành Chủ tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Chính trị miền Bắc, thay Khâm sai Phan Kế Toại từ chức vào giữa tháng 8/1945. Diệm về lại Vĩnh Long, tá túc trong giáo phận của Giám mục Ngô đình Thục.(34)
IV. DIỆM & VIỆT MINH:
Mặc dù sau này Ngô Đình Diệm thường tuyên bố tại Việt Nam chỉ nổi danh thua Hồ Chí Minh [the best known figure after Ho Chi Minh], khoảng thời gian từ tháng 8/1945 tới đầu năm 1947 là một giai đoạn bí mật nhất đời Diệm.
Như chúng ta đã biết, ngày 19/8/1945, Việt Minh lên nắm chính quyền ở Hà Nội.(35) Ngày 25/8, Bảo Đại ra thông cáo thoái vị. Khôi và con trai trưởng là Huân bị Việt Minh bắt, rồi thủ tiêu ở vùng Phong Điền, Thừa Thiên.(36) Riêng Diệm và Ngô đình Thục đều có tin bị Việt Minh bắt. Ngô đình Thục, thực ra được tự do sống ở vùng Vĩnh Long, dưới sự che chở của Nguyễn Văn Nguyễn. Tháng 10/1945, Ngô đình Thục định ra Bắc, nhưng bị quân Bri-tên chặn bắt ở Biên Hòa, rồi đưa về lại giáo phận Vĩnh Long.
Phần Diệm, tông tích bất minh. Ngày 7/5/1953, trong buổi ăn trưa và thảo luận [lunch talk] về tình hình Đông Dương tại Tối Cao Pháp Viện Mỹ, Diệm tuyên bố từng bị Hồ "cô lập" trong một làng thiểu số năm 1946. Sau 6 tháng, Hồ yêu cầu Diệm tham gia chính phủ, nhưng Diệm trả lời rằng vì biết Hồ là CS, Diệm muốn được toàn quyền và thông báo mọi tin tức. Những người ủng hộ Diệm đòi Diệm phải được giao Bộ Nội Vụ và nắm ngành Cảnh Sát. Hồ do dự ít tuần, rồi cuối cùng từ chối.(37) Gần một thập niên sau, ngày 16/1/1962, Diệm còn lập lại chi tiết bị bắt giữ ở vùng thượng du Bắc Việt với các viên chức Mỹ tại Sài Gòn.(38)
Diệm còn tuyên bố với một ký giả Bri-tên rằng Diệm bị Việt Minh bắt vào tháng 9/1945, khi từ Sài Gòn ra Huế ngăn Bảo Đại đừng theo Hồ. Sau đó, bị giải lên thượng du gần biên giới Hoa-Việt, suýt chết vì bệnh sốt rét. Sáu tháng sau, HCM mang Diệm về Hà Nội, thuyết phục Diệm theo mình. Diệm không đồng ý, HCM bèn thả Diệm. Sau này, Hoàng Tùng cho rằng tha Diệm là một sai lầm.(39)
Việc Diệm bị Việt Minh bắt được nhiều nguồn tin khác xác nhận. Hạ tuần tháng 11/1945, Giám mục Ngô đình Thục khai với Pháp rằng Khôi và Diệm đã bị Việt Minh bắt và có thể đã bị xử bắn.(40) Ngày 28/12/1945, Tổng Giám mục Antonin Drapier cũng viết cho Trưởng đoàn Truyền giáo Hải ngoại Pháp ở Sài Gòn, rằng Diệm đã bị Việt Minh bắt.(41)
Một nguồn tin khác nữa ghi vào khoảng tháng 6/1946, khi Diệm đến ở nhà Linh mục Độä, chính xứ Tuy Hoà, cán bộ VM đã "khéo léo" mời được Diệm lên miền Thượng (Mọi). Người gia nhân thoát chạy ra Phát Diệm, xin Giám mục Lê Hữu Từ giúp, sợ bị giống như Khôi. Từ bèn cùng Linh mục Phạm Quang Hàm và Dân biểu Ngô Tử Ha vào Bắc bộ phủ xin Hồ tha Diệm. Chính Hồ cũng không biết việc này, và hứa sẽ can thiệp. Khoảng một tháng sau, Diệm về tới Hà Nội, Võ Nguyên Giáp cho gọi Ngô đình Nhu tới lĩnh về.(42)
Những chi tiết quanh việc Diệm bị Việt Minh bắt có nhiều nghi vấn:
1. Xét về ngày tháng Diệm bị bắt, có phần không ổn.
a. Karnow dẫn lời Diệm là Diệm bị bắt vào tháng 9/1945. Sáu tháng sau, được tự do. Vậy, tức vào khoảng tháng 3 hoặc tháng 4/1946. Tiểu sử Diệm, do Bộ Ngoại giao Mỹ soạn thảo ngày 18/4/1957 cũng ghi tương tự.
b. Ngày tháng mà Từ hoặc tác giả viết hồi ký cho Từ ghi là Diệm bị bắt đúng vào giai đoạn HCM đang ở Pháp, và mãi tới ngày 22/10/1946 Hồ mới về tới Hà Nội. Vậy Từ can thiệp vào dịp nào? (Diệm cũng không hề nhắc đến việc được Từ và Hạ can thiệp).
c. Ngay chính Diệm, ngày 7/5/1953, chỉ nói mơ hồ đã bị "cô lập" tại một làng thiểu số trong 6 tháng vào năm 1946.
2. Không ai rõ Diệm được tha vào ngày tháng nào, và cũng chẳng ai rõ hành tung Diệm từ lúc được tự do tới khi xuất hiện ở Hà Nội vào đầu năm 1947 trong bộ đồ tu hành.
3. Theo thư gửi Decoux đề ngày 21/8/1944, Ngô đình Thục nói Cộng Sản từng sai một tên giết mướn người Hoa ra Phan Rang mưu sát Diệm, nhưng Diệm chỉ bị thương. Nếu bắt được Diệm năm 1945 hoặc 1946, ngay tại miền Trung, cách nào Cộng Sản tha Diệm?
4. Anh em Diệm rất thành thạo trong thủ thuật tự đánh bóng tên tuổi họ Ngô (kiểu Diệm ‘làm Tể tướng cho Bảo Đại,’ Khả làm ‘thượng thư đầu triều Thành Thái,’ hay ‘đầy vua không Khả’). Thành tích ‘bị giam lỏng’ tại miền thượng du năm 1946, hay đòi Hồ Chí Minh cho nắm Bộ Nội vụ có thể chỉ để tăng vốn thêm cho việc rao bán lập trường chống Cộng hầu xin viện trợ Mỹ của Diệm. Hy vọng sẽ có dấu vết việc bị ‘cô lập’ này trong văn khố Đảng Cộng Sản Việt Nam hay Pháp.
Cho tới khi có tài liệu rõ ràng, có thểõ tin Diệm đã trốn trong nhà tu [Redemptoristes hay Dòng Cứu thế] ở Huế như tài liệu văn khố Pháp ghi nhận.
V. DIỆM & BẢO ĐẠI: ‘THÀNH PHẦN THỨ BA’
Đầu năm 1947, Diệm xuất hiện ở Hà Nội, ngụy trang như một tu sĩ dòng Cứu Thế. Được Pháp yêu cầu lập chính phủ chống Cộng, Diệm đưa ra một kế hoạch không thể chấp nhận được, tức thống nhất ba miền, có quân đội riêng và nhiều quyền tự trị hơn. Diệm còn gặp Tổng lãnh sự Mỹ Charles Reed tại Hà Nội. Trong thời gian ở Hà Nội, ngụ tại tu viện dòng Cứu Thế Canada ở Thái Hà ấp. Ngày 11/4/1947, Diệm trở lại Sài Gòn. Ngày 5/9/1947, lại trở ra Hà Nội.
A. ‘THÍ NGHIỆM’ BẢO ĐẠI:
Thời gian này, ‘thí nghiệm’ Bảo Đại bắt đầu thành hình. Thí nghiệm này nhằm ngụy trang cuộc tái xâm lăng Việt Nam mà chính phủ Charles de Gaulle đã phát động từ năm 1944-1945.(43)
Từ mùa Hè 1945, sau khi Nhật lật đổ chính phủ thân Vichy của Decoux, de Gaulle đã nỗ lực tìm một ‘chí sĩ quốc gia Việt Nam chân chính’ để cầm cờ dẫn Pháp trở lại Đông Dương. Ứng cử viên được nhiều người biết nhất là Hoàng tử Vĩnh San (1900-1945), tức cựu hoàng Duy Tân (1907-1916), đã bị truất phế và đầy qua Réunion năm 1916. Tai nạn phi cơ ngày 26/12/1945 khiến ‘lá bài bí mật’ của phe de Gaulle ‘tan biến như một giấc mơ đẹp.’ Hai ngày sau, 28/12, Tổng Giám mục Drapier, Khâm sứ Vatican, trình lên Cao ủy/Linh mục Georges Thierry d'Argenlieu (1945-1947) kế hoạch cho Bảo Đại lên ngôi như trước ngày 9/3; rồi lập Hoàng tử Bảo Long làm vua, Hoàng hậu Nam Phương nhiếp chính, với Diệm làm Thủ tướng.(44) Tuy nhiên, d'Argenlieu không đồng ý, và cũng không hài lòng việc Drapier xen lấn vào thế quyền.
Một số chính khách, lãnh tụ giáo phái Việt cũng xúc tiến thực hiện "giải pháp" Bảo Đại từ cuối năm 1945, đầu năm 1946. Người đầu tiên đưa ra ý kiến này là tân Giám Mục Lê Hữu Từ. Nhân dịp Bảo Đại về Phát Diệm dự lễ tấn phong của Từ, Từ hỏi Bảo Đại có mưu tính gì chăng; nhưng Bảo Đại không có phản ứng tích cực. Cựu Thủ tướng Kim và đảng viên trẻ Đại Việt, kể cả Đỗ Đình Đạo v.. v..., cũng tìm thấy ở Bảo Đại sự lãnh đạo, hoặc ít nữa sự chính thống [legality hay legitimacy] cần thiết, để chống Hồ.(45) Việt Nam Quốc Dân Đảng [VNQDĐ] và Trung Hoa Quốc Dân Đảng [THQDĐ] cũng ít nhiều tiếp tay Bảo Đại rời Hà Nội vào trung tuần tháng 3/1946.
Mãi tới sau cái chết của Nguyễn Văn Thinh ngày 10/11/1946 và sự khủng hoảng của thí nghiệm ‘Cộng Hoà Nam Kỳ tự trị’ -nhất là sau cuộc tấn công của Việt Minh tối 19/12/1946 trên khắp miền Bắc vĩ tuyến 16- vai trò Bảo Đại mới sáng giá hơn. Nước Pháp lúc này đứng trước một ngã ba đường. Một, tiếp tục thương thuyết với Việt Minh, hầu tìm một giải pháp chính trị. Nẻo đường khác, là đoạn tuyệt với chính phủ "ương ngạnh" [intransigence] của Hồ, đi tìm một "chí sĩ quốc gia" chấp nhận thoả hiệp với Pháp. Hầu hết các cấp lãnh đạo Pháp-từ Bộ trưởng Pháp quốc Hải ngoại Marius Moutet cho tới đặc sứ Philippe Leclerc de Hautecloque (1902-1947)-đều nghĩ rằng đã đến lúc đoạn tuyệt với Hồ. Léon Pignon, Cố vấn Chính trị của d'Argenlieu, ủng hộ Bảo Đại nồng nhiệt nhấtø. Do Pignon tiến cử, ngày 14/1/1947, d'Argenlieu báo cáo mật về kế hoạch tái sử dụng Bảo Đại.(46) Moutet không chấp thuận.(47) Thủ tướng Léon Blum (12/1946-1/1947) cũng không tán thành, nhưng chuyển kế hoạch này cho người kế vị là Paul Ramadier (1947). Dẫu vậy, d'Argenlieu vẫn gửi nhân viên Mật thám Cousseau qua Hong Kong để liên lạc với Bảo Đại vào khoảng đầu năm 1947.
Sự thành hình của chính phủ Ramadier ngày 21/1/1947, và quyết định thay d'Argenlieu bằng Dân biểu Emile Bollaert ngày 5/3/1947 mang lại một không khí mới. Viên chức Pháp nghĩ đến một chính phủ Liên bang Việt Nam, với ba chính phủ địa phương tại ba kỳ, và một chính phủ trung ương tượng trưng sự thống nhất lãnh thổ. Vấn đề đặt ra là ai sẽ cầm đầu chính phủ trung ương đó. Hồ Chí Minh và Bảo Đại trở thành hai tâm điểm của các cuộc thảo luận.
Một số chính khách Pháp nghĩ rằng phải nối lại thương thuyết với Hồ. Theo họ, dù Hồ và các thuộc hạ thân tín là Cộng Sản, đa số cấp lãnh đạo Việt Minh chỉ là những người yêu nước. Hơn nữa, Hồ và các thuộc hạ có khả năng nhất.(48) Một số khác chủ trương loại bỏ Hồ, thương thuyết với Bảo Đại. Theo họ, Bảo Đại có một số người theo ở Trung Kỳ; và được sự ủng hộ hoặc chấp thuận của nhiều nhân vật có uy tín tại Bắc cũng như Nam Kỳ.(49)
Ngày 1/4/1947 tân Cao Ủy Bollaert tới Sài Gòn với lệnh tái thiết lập những guồng máy cũ, nhưng đừng để lộ ra là Pháp muốn tái lập nền quân chủ.
Thời gian này, Bảo Đại sống ẩn dật tại Hong Kong. Rời Hà Nội qua Nam Kinh ngày 16/3/1946 trong phái đoàn viếng thăm thân hữu Trung Hoa, nhưng đến ngày trở về, Bảo Đại nhận được thư Hồ khuyên nên du lịch thêm một thời gian. Cựu hoàng bèn sang Hong Kong, sống tại đây với một vũ nữ, dưới một tên giả trong khách sạn Saint Francis Hotel. Mùa Thu 1946, Bảo Đại tuyên bố với một ký giả Pháp, Jacques Sallebert, là với cựu hoàng, "chính trị đã chết." Bảo Đại cũng bày tỏ lòng kính phục Chủ tịch Hồ, và tiết lộ rằng sự thoái vị của mình là chiều theo ý dân.(50)
Nhưng nhiều cá nhân và lãnh tụ các đảng phái chống Cộng vẫn tìm đến, lôi kéo Bảo Đại khỏi cảnh huống "về hưu" non ở tuổi 33. Trong số này có Nguyễn Tường Tam, Vũ Kim Thành, Trần Trọng Kim v.. v... Vào cuối năm 1946, đầu năm 1947, số người ủng hộ Bảo Đại được tăng cường thêm Hộ pháp của Cao Đài. Mới hồi hương vào tháng 8/1946 sau gần 5 năm lưu đầy, Phạm Công Tắc chủ trương hợp tác với Pháp để chống Cộng. Chính Tắc và Trần Quang Vinh, Tư lệnh lực lượng võ trang Cao Đài từ năm 1943, đã yểm trợ Y sĩ Lê Văn Hoạch lên cầm đầu chính phủ Nam Kỳ tự trị sau cái chết của Y sĩ Thinh ngày 10/11/1946, hầu loại bỏ Trần Văn Tỷ. Cuộc tổng tấn công ngày 19/12/1946 của Hồ giúp Tắc mạnh bạo hơn. Ngày 1/1/1947, nhân dịp Bộ trưởng Moutet đang tham quan Đông Dương, Tắc yêu cầu Moutet đưa Bảo Đại về nước; và hứa sẽ ủng hộ Bảo Đại.(51)
Nhưng các chính phủ tại Paris-với sự tham dự của Đảng Cộng Sản Pháp-chưa muốn đoạn tuyệt với Hồ. Vì nhiều lý do, viên chức Pháp khẳng định vẫn muốn thương thuyết, nhưng đặt thêm một điều kiện căn bản-đó là thảo luận trên thế mạnh, không để bạo lực chi phối, và sau khi đã vãn hồi trật tự. Ngày 20/12/1946, khi ra trước Quốc Hội điều trần, và tuyên bố sẽ qua Đông Dương tham quan, Moutet đã nhấn mạnh:
Nước Pháp muốn hoà bình, tôn trọng những nguyên tắc đã tuyên bố, nhưng không chịu khuất phục trước bạo lực. Chính sách của Pháp là bảo vệ quyền lợi nước Pháp và làm cho những quyền lợi ấy được tôn trọng.(52)
Dù chỉ là một bình phong cho việc tái chiếm miền Bắc bằng võ lực, hay phát xuất từ lòng chân thành, những điều kiện tiên quyết này mở ra một câu hỏi then chốt-đó là thương thuyết với ai? Thêm vào đó, là giới hạn của những nhượng bộ Pháp có thể chấp thuận. Mặc dù bản tuyên cáo ngày 24/3/1945 qui định �năm xứ Đông Dương� của chính phủ de Gaulle đã bị các biến cố ở Việt Nam biến thành dĩ vãng, đa số giới lãnh đạo Pháp vẫn nhấn mạnh ở điểm Đông Dương phải là một thành phần của Khối Liên Hiệp Pháp [L'Union Francaise]; không thể thống nhất ba miền Bắc, Trung, Nam vì miền Nam là một thuộc địa, tức một phần lãnh thổ bất khả phân của Pháp như phần dẫn nhập của Hiến Pháp 1946 đã qui định; và, chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa [VNDCCH] của Hồ chỉ là một trong những phe phái mà người Pháp có thể thương thuyết.
Ngày 23/12/1946, Dân biểu André Mutter của hạt l'Aube-người từng yêu cầu bắt Hồ tại Paris sau khi hội nghị Fontainebleau đổ vỡ-tuyên bố không thể đàm phán với chính phủ Hồ được nữa vì đó là "bọn phản bội" [traitres]. Mutter nhấn mạnh:
Chúng ta không thể coi Hồ Chí Minh như đại diện của một tiểu bang tự do [Etat libre]; đó là một kẻ sát nhân [assassin].(53)
Sau khi tham quan Đông Dương về, tảng lờ nhữõng lời kêu gọi tái thương thuyết của Hồ, ngày 18/3/1947, Moutet khẳng định không thể nói chuyện với Hồ nữa, vì Hồ không những chỉ coi việc ký Hiệp ước như một phương tiện tranh đấu; mà còn chủ trương bạo động.(54)
Mặc dù vẫn còn những người như Pierre Cot chưa dứt khoát-đề nghị đừng nên qui lỗi cho một phe nào-phe cực hữu ngày thêm mạnh. Ngày 13/4/1947, Paul Reynaud tuyên bố trước Quốc Hội Pháp:
Hồ Chí Minh là một tên tội phạm [un criminel] và không thể thương thuyết với hắn; hoặc hắn đã bị điều khiển [manoeuvré] và tự chứng tỏ thiếu khả năng để bắt chính quân đội của mình tuân lệnh, vậy thì, đó là kẻ thiếu khả năng và cũng chẳng nên thương thuyết với hắn nữa.(55)
Hôm sau, 14/4, Dân biểu Maurice Violette còn đi xa hơn, khẳng định: "Tinh thần quốc gia ở Việt Nam là phương tiện; cứu cánh là thực dân Liên Sô."(56)
Lời cáo buộc này khiến phe Cộng Sản Pháp, kể cả Marcel Cachin, cực lực phản đối. Ramadier phải công nhận cho tới thời điểm đó, Liên Sô hoàn toàn trung lập. Nhưng từ ngày này, dù công khai hay phía sau hậu trường, các viên chức Pháp, vì những lý do dễ hiểu, không ngừng tố cáo nguồn gốc Quốc Tế Cộng Sản [QTCS] của Hồ.(57)
Phe cổ võ cắt đứt thương thuyết với Hồ còn đưa ra thêm một lý do khác là từ ngày 19/12/1946, chưa ai gặp được Hồ. Sự biến dạng này khiến không thể không hoài nghi rằng Hồ đã chết; và, những phần tử quá khích như Võ Nguyên Giáp cùng Hạ Bá Cang (Quận thọt) đang chi phối Tổng bộ Việt Minh. Những văn thư ký tên Hồ gửi cho Pháp trong những tháng cuối năm 1946, đầu năm 1947-kể cả bản kiến nghị do Trần Ngọc Ranh trao cho Pháp tại Paris vào tháng 2/1947-bị coi là đã giả mạo chữ ký Hồ.(58)
Song song với chiến dịch hạ uy tín Hồ là việc tách rời Hồ khỏi khối đại đa số người Việt yêu nước. Ramadier, khi ra thuyết trình trước Quốc Hội vào tháng 2/1947, đã mở đầu cho khuynh hướng này. Tiếp đó, Moutet khẳng định Hiệp ước sơ bộ 6/3/1946 đã được ký kết với một chính phủ liên hiệp Việt Nam, mà không phải với cá nhân Hồ.
B. SỨ MỆNH CAO ỦY BOLLAERT:
Để đánh dấu sự thay đổi chính sách của mình, Ramadier quyết định thay Linh mục/Cao ủy d'Argenlieu vì d'Argenlieu bị chỉ trích là còn nặng đầu óc thực dân; và vì d'Argenlieu có những khó khăn trong việc liên hệ với những người mà ông ta phải làm việc chung. D'Argenlieu không chịu từ chức, muốn níu giữ Đông Dương chờ ngày de Gaulle-mới đột ngột từ chức ngày 24/12/1945-trở lại chính quyền. Ramadier chẳng còn cách nào khác hơn cách chức d'Argenlieu.
Bài diễn văn được coi như bản tuyên bố chiến tranh lạnh của Tổng thống Harry Truman (1945-1953) ngày 12/3/1947 và kế hoạch viện trợ tái thiết Tây Âu ít tháng sau của Ngoại trưởng George C. Marshall-được biết như ‘Kế hoạch Marshall’- khiến chính phủ Ramadier nghiêng về phía loại bỏ Hồ, ‘một cán bộ QTCS.’ Tuy nhiên, dự định của Paris nhằm biến hoá cuộc tái xâm lăng Việt Nam thành một điểm nổ của cuộc chiến tranh lạnh Tư Bản-Cộng Sản (1947-1991)-hầu xin được viện trợ Mỹ và thiết lập chính nghĩa mới -không đạt được tốc độ mong muốn. Oat-shinh-tân, dù không muốn thấy �một chế độ tay sai của Mat-scơ-va thống trị bán đảo Đông Dương,� và cũng không muốn bị mang tiếng ủng hộ Pháp tái thiết lập chế độ thuộc địa kiểu tiền chiến tại thuộc địa này, chỉ khuyên Pháp nên tìm ra một "chí sĩ quốc gia chân chính" lên cầm đầu cuộc chiến chống Cộng. Bởi thế, suốt năm 1947, Bollaert gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm một giải pháp cho Việt Nam.
Dẫu vậy, Bollaert đặt xuống những nền tảng cho việc thực thi thí nghiệm Bảo Đại. Giai đoạn đầu là những bước ngoại giao để loại bỏ Hồ.
Nguyên từ cuối tháng 12/1946, đầu tháng 1/1947, Hồ nhiều lần xin nối lại thương thuyết. Ngày 20/2/1947, ít tuần trước ngày Đại Hội Các Quốc Gia Á Châu tại New Dehli, Đài Việt Minh công bố một lá thư của Hồ gửi Ramadier và Moutet, kêu gọi thương thuyết. Việt Minh cũng nhờ đại diện Hồng Thập Tự Quốc Tế chuyển cho Lãnh sự Bri-tên một lá thư nghị hoà, nhưng viên chức Pháp ở Paris đều nói không nhận được. Mãi tới ngày 26/3, viên chức Ngoại giao Pháp mới nói với Đại sứ Mỹ Caffery là nhận được thư này, nhưng không ai dám khẳng quyết Hồ còn sống.(59)
Cũng ngày này, tân Bộ trưởng Ngoại giao Hoàng Minh Giám khẳng định muốn ‘độc lập trong Liên Hiệp Pháp.’ Ngày 18/4/1947, Giám nhờ Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế chuyển cho Miguel de Pereyra, tân Ủy viên Cộng Hoà Bắc Việt, một công hàm yêu cầu ngưng bắn tức khắc và nối lại thương thuyết.(60) Hôm sau, 19/4, Giám lại tuyên bố sẵn sàng điều đình, nhưng vì Pháp đòi Việt Minh phải nộp 50% khí giới, phóng thích tù binh Pháp, VM không chịu, vì như thế là đầu hàng.
Việt Minh còn cử Thứ trưởng Ngoại Giao Phạm Ngọc Thạch tới Bangkok và các nước Đông Nam Á để vận động. Thạch hai lần bí mật tiếp xúc Tùy viên Quân sự Toà Đại sứ Mỹ ở Bangkok, Trung tá William Law, trao cho Mỹ một số văn kiện, nhưng không đạt kết quả nào.(61)
Tháng 5/1947, Bollaert cử Paul Mus, cố vấn kinh tế, tìm cách liên lạc với Giám. Ngày 9/5, Mus gặp Giám ở Cầu Đuống, rồi được dẫn đi gặp Hồ ngay tại tỉnh lỵ Thái Nguyên. Tuy nhiên, khi nghe Mus đọc thuộc lòng các điều kiện của Bollaert-tức Việt Minh phải buông súng đầu hàng-Hồ chẳng có lựa chọn nào khác hơn từ chối.(62)
Bollaert cũng xúc tiến mạnh hơn việc thành lập các cơ cấu hành chính lâm thời tại các vùng chiếm đóng. Khởi đi từ Ủy Ban Chấp Chánh Lâm Thời [Comité administratif provisoire] ở Huế (12/4/1947) và Hội đồng An Dân Bắc Việt [Comité provisoire de gestion administrative et d'action sociale] ở Hà Nội (19/5/1947), các ủy ban hay hội đồng hàng tỉnh, hàng quận tiếp tục được thiết lập.
Trong hai tháng cuối Xuân, đầu Hạ 1947, Hồ lại mở chiến dịch kêu gọi thương thuyết. Ngày 19/6, Hồ tuyên bố muốn được độc lập trong Liên Hiệp Pháp. Một tháng sau, ngày 19/7, Hồ cải tổ chính phủ. Hai nhân vật "ôn hoà"-Hoàng Minh Giám và Tạ Quang Bửu, rất thân thiết với Võ Nguyên Giáp-lên nắm Bộ Ngoại Giao và Quốc Phòng. Chu Bá Phượng, một lãnh tụ VNQDĐ vẫn được "nắm" chức Cứu tế, Xã hội (dù trên thực tế đang bị giam lỏng). Nguyễn Văn Tố, Đặng Văn Hướng, Bồ Xuân Luật là ba Bộ trưởng không bộ nào. Vũ Đình Tụng, Bộ trưởng Cựu Chiến binh, và Ngô Tử Hạ, Thứ trưởng Cựu Chiến binh, đại biểu Giáo dân Ki-tô. Tôn Đức Thắng mất chức Bộ trưởng Nội Vụ; Giáp lên chức Tổng Tư lệnh Quân đội.(63)
Giới ngoại giao ghi nhận việc cải tổ chính phủ này như một nỗ lực của Hồ để nối lại thương thuyết. Tuy nhiên, khi trở lại Paris ngày 29/7, Mus tuyên bố khó thể có hoà bình vì cả hai bên đều không tin nhau. Thực ra, Bollaert vốn có ý định cắt đứt liên hệ với Hồ; và bí mật thương thuyết với Bảo Đại cùng các phe phái chống Cộng. Mus là một trong những đặc sứ, nhưng quan trọng nhất vẫn là Cousseau, nhân viên tình báo có nhiệm vụ kiểm soát và nuôi dưỡng Bảo Đại trong cảnh lưu vong. Nhưng ông vua cuối nhà Nguyễn, người được Đại diện Vatican ca ngợi như thân Pháp nhất tại Việt Nam, đã phần nào thay đổi.(64)
Bảo Đại, và nhất là những cộng sự viên buổi đầu như Kim, Thành, Diệm, Sâm mới trải qua một cơn sốt váng vất độc lập, thống nhất-và, phần nào vì mặc cảm-đòi hỏi Pháp nhân nhượng nhiều hơn những gì đã nhân nhượng với Hồ. Gặp Cousseau ở Hong Kong vào tháng 1/1947, chẳng hạn, Kim đưa ra 7 điều kiện để hợp tác: 1/ thống nhất 3 kỳ; 2/ tự trị; 3/ định rõ vị trí của VN trong Liên Hiệp Pháp; 4/ VN phải có quân đội; 5/ VN phải có cơ cấu tài chính; 6/ Pháp nên định một hạn kỳ trao trả độc lập cho VN; 7/ VN có đại biểu ngoại giao với các nước Á Đông và buôn bán với các nước khác.(65)
Tuy nhiên, người Pháp không chịu nhượng bộ ngay. Quá tự tin ở sức mạnh quân sự-ít nữa đủ sức đánh tan quân đội chính qui Việt Minh-ai nấy hy vọng chiến thắng không xa. Tình hình quân sự những tháng đầu năm 1947 phần nào thắp sáng ngọn lửa lạc quan. Ngày 17/2/1947, bộ đội Việt Minh rút khỏi Hà Nội. Gần một tháng sau, ngày 11/3, Pháp làm chủ tình hình Nam Định. Tại miền Trung, Pháp tái chiếm Hội An [Faifo] ngày 15/3, Quảng Nam ngày 16/3; rồi đổ bộ Đồng Hới ngày 27/3. Riêng Hòa Bình, ngày 15/4 Pháp làm chủ được tình thế. Bởi thế, Bollaert và cố vấn tìm cách kéo dài thời gian, chờ đợi kết quả chiến dịch mùa khô 1947-một chiến dịch mà Tướng lãnh Pháp tin tưởng sẽ bẻ gãy xương sống quân đội Việt Minh. Để chuẩn bị cho chiến dịch này, ngày 16/5 Bollaert cử Tướng Raoul Salan-một nhân vật quen thuộc với Đông Dương, từng tham gia cuộc thương thuyết với Trung Hoa và Hồ năm 1946-làm Tư lệnh miền Bắc. Viện binh Pháp cũng lục tục kéo tới, nhiều nhất là lính Lê-dương [Légions étrangères] gốc Đông Âu và lính da đen Phi Châu.
Bollaert cũng cho cải tổ những chính phủ "Tề" tại miền Bắc và miền Trung. Ngày 19/5/1947, Y sĩ Trương Đình Tri-nguyên Bộ trưởng Y tế trong chính phủ Liên Hiệp 2/3/1946 của Hồ-được cử làm Chủ tịch Hội Đồng An Dân Bắc Việt. Tại miền Trung, Trần Văn Lý cầm đầu Ủy ban Chấp Chính Lâm Thời Trung Kỳ. Nguyễn Khoa Toàn, Tỉnh trưởng Thừa Thiên từ năm 1946, nắm Hội đồng Thẩm nghị [Tư vấn] Trung Kỳ. Tại miền Nam, mặc dù coi chính phủ Lê Văn Hoạch là gánh nặng của mình, Bollaert biến hoá dần sản phẩm của nhóm Gaullist này. Ngày 19/5, Bollaert trả Dinh Thống Đốc cho Hoạch. Đồng thời, áp lực Hoạch cải tổ chính phủ và tách biệt dần khỏi khuynh hướng tự trị.
Trong năm 1947 cũng có nhiều nỗ lực kết hợp các đảng phái Việt Nam đang tập trung tại vùng "Tề." Ngày 17/2, Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhứt Toàn Quốc (Front d'Union Nationale du Viet-Nam, hay MTQGTNTQ) -hậu thân của Mặt Trận Thống Nhứt Toàn Dân-chính thức thành lập, qui tụ các đảng viên Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng, Việt Nam Quốc Gia Độc Lập Đảng, Việt Nam Quốc Gia Thanh Niên Đoàn, Cao Đài, Đoàn Thể Dân chúng, và Liên Đoàn Công Giáo.(66) Ngày 29/3, MTQGTNTQ ra Tuyên Cáo tại Hong Kong. Theo tuyên cáo này, mục tiêu của Mặt trận là thống nhất tất cả các tổ chức cách mạng, đảng phái chính trị, đoàn thể tôn giáo và xã hội để đấu tranh giành độc lập và thống nhất lãnh thổ, củng cố chế độ cộng hoà, dân chủ, hợp tác toàn diện với tất cả các quốc gia trên thế giới trên căn bản công bằng và tự do để vãn hồi trật tự thế giới. Về những biến cố ở Việt Nam, Mặt Trận khẳng định cuộc kháng chiến hơn một năm qua không phải là công trình của một đảng phái chính trị nào, mà là của toàn dân Việt. Mặt Trận cũng khẳng định chính phủ Hồ không còn được nhân dân tin tưởng và đã mất vị thế trong thế giới trong công cuộc tranh đấu dành độc lập. Bởi vậy, Mặt Trận ủng hộ cựu hoàng Bảo Đại Nguyễn Vĩnh Thụy để thành lập một chính phủ dân chủ thực sự.(67) Thế chống Cộng của các phe nhóm được tăng hơn nữa sau khi Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ (1917-1947) của đạo Hoà Hảo bị Việt Minh sát hại ngày 20/4/1947.
Tại miền Bắc, nhóm Đặng Vũ Lạc (1902-1948), Lê Thăng (1901-1987?), Đỗ Văn Năng (1915-1950) bắt đầu qui tụ các đảng viên Đại Việt và VNQDĐ, thành lập Đại Việt Quốc Dân Đảng hay Tân Đại Việt. Nhượng Tống Hoàng Phạm Trân cùng Ngô Thúc Địch và một số người khác tái tổ chức VNQDĐ.
Tại miền Trung, VNQDĐ và Đại Việt tái xây dựng tại vùng Tề. Tổ chức Đại Việt Phục Hưng của Diệm cũng hoạt động trở lại. Do Nguyễn Khoa Toàn đề xướng, Trần Văn Lý và Trần Thanh Đạt lập nên Việt Nam Quốc Gia Liên Hiệp làm cánh tay chính trị. Một nhân vật đang lên khác tại miền Trung là Phan Văn Giáo (1901-1963?). Giáo, một Dược sĩ Ki-tô gốc Ninh Hoà (Khánh Hòa) từng nổi danh là cây vợt tennis tên tuổi, bị Việt Minh bắt giữ vào tháng 8/1945 vì liên hệ với VNQDĐ, và lên án 6 năm khổ sai, tịch biên gia sản vào tháng 2/1946. Thoát ra Hà Nội tháng 11/1946, Giáo qua Hong Kong với Bảo Đại. Tháng 3/1947, được Bảo Đại ủy về nước vận động thành lập chế độ quân chủ lập hiến.
Tại miền Nam, các phe nhóm tự trị thay đổi lập trường, tuyên bố không chống đối việc thống nhất, miễn mỗi xứ vẫn có tự trị về kinh tế và chính trị. Những nhóm chống Cộng khác tổ chức biểu tình khắp nơi. Ngày 12/8, Huế biểu tình yêu cầu Bảo Đại về nước chấp chánh. Ngày 1/9 và rồi 14/9, biểu tình được tổ chức ở Sài Gòn.
Các viên chức vùng Tề khắp ba miền cũng tới tấp đi lại giữa Việt Nam và Hong Kong để "van xin" Bảo Đại đứng ra nhận trách nhiệm. Có những nỗ lực liên hiệp giữa Lê Văn Hoạch và MTQGTNTQ của Nguyễn Văn Sâm, sau khi Hộ Pháp Phạm công Tắc tuyên bố ủng hộ tổ chức này ngày 16/8. Điều kiện của Sâm là ghế Bộ trưởng Nội Vụ hoặc Quốc Phòng. Sau đó, MTQGTNTQ ủy Hoạch tiếp xúc Bảo Đại để cầm đầu phong trào quốc gia và thống nhất đất nước. Ngày 5/9, Bảo Đại tuyên bố muốn tiếp xúc với các lãnh tụ VN để bàn luận thời sự. Cùng ngày, dù không được mời, Sâm qua Hong Kong gặp Bảo Đại.
Ngày 9/9, Bảo Đại tiếp kiến 24 đại diện ba miền. Trong số những đại diện này có Nguyễn Văn Tâm, Bộ trưởng Quốc Phòng của chính phủ Hoạch. Bảo Đại tuyên bố sẽ đứng ra hoà giải các phe phái sau khi đã thương lượng với Pháp.(68)
Giới Ki-tô giáo cũng âm thầm yểm trợ thí nghiệm Bảo Đại. Từ đầu năm 1947, Giám mục Từ đã cho một số các chính khách chống Cộng vào ẩn náu tại Phát Diệm mà Hồ cho hưởng đặc ân tự trị. Vợ chồng Ngô đình Nhu và Trần Văn Chương cũng một thời tá túc tại đây, trước khi bí mật vào Nam, rồi cư ngụ ở Đà Lạt. Các chi nhánh Đại Việt Duy Dân, VNQDĐ và Đại Việt cũng bắt đầu được tái sinh. Trong khi đó, Từ mượn những chuyến thăm viếng giáo dân với danh nghĩa vận động kháng chiến chống Pháp để tuyên truyền Ngô đình Nhu cầu một cuộc thánh chiến chống Cộng. Tại giáo phận Vĩnh Long, Giám mục Ngô đình Thục cắt dần liên hệ với Việt Minh. Nhưng nhiệt tình chống Cộng hơn cả là các giáo mục tại vùng Bến Tre và Mỹ Tho. Họ công khai yểm trợ các đơn vị lưu động bảo vệ giáo xứ [UMDC] của Trung úy Jean Léon Leroy, thủ diễn vai trò ‘chính trị viên’ cho các binh sĩ thêu trước ngực hình thập tự giá. Tại các vùng Pháp mới tái lập kiểm soát như Kẻ Sặt (Hải Dương), Quảng Bình, Quảng Trị, Kontum, v.. v... nhiều đơn vị tự vệ của giáo dân Ki-tô cũng được tổ chức để chống Cộng. Pháp còn sử dụng các giáo sĩ Ki-tô để móc nối với những cộng đồng giáo dân tại các giáo phận Việt Minh kiểm soát. Khâm sứ Drapier không những ban phép lành cho phong trào thánh chiến này mà còn đẩy mạnh hơn vai trò Diệm và họ Ngô trong thí nghiệm Bảo Đại.(69)
Mặc dù có kẻ thù chung là Cộng Sản, các tổ chức chính trị và giáo phái không đạt được sự đoàn kết cần thiết. Màu sắc tôn giáo, địa phương chi phối nặng nề, khiến phần đông hữu danh vô thực. Nguy hiểm nhất là tệ nạn sứ quân.
Dĩ nhiên, phe Việt Minh không chịu bó tay. Đài phát thanh Việt Minh không ngừng đả kích những tên "Việt Gian" đang âm mưu lập nên một �chính phủ bù nhìn tay sai� chống lại chính phủ hợp pháp VNDCCH. Tại miền Nam, Nguyễn Bình (Nguyễn Phương Thảo) phát động chiến dịch khủng bố và ám sát. Đã có lúc, Việt Minh nghĩ đến việc gửi Phạm Khắc Hoè sang Hong Kong thuyết phục Bảo Đại. Và, khi công bố chính phủ đổi mới vào tháng 7/1947, Hồ vẫn liệt kê Bảo Đại như cố vấn tối cao.
Theo đúng kịch bản, ngày 10/9/1947, Bollaert đọc diễn văn lần thứ hai tại Hà Đông. Trong diễn văn này, Bollaert đưa ra khẩu hiệu mới là "Độc lập trong tương trợ [L'Indépendance dans l'interdépendance]." Mục đích chính không phải là hứa hẹn sẽ trao độc lập cho Việt Nam mà chỉ thỏa mãn đòi hỏi của người Việt bằng cách tạo một tiền lệ nhắc đến hai chữ "độc lập"-từ năm 1945, Pháp chưa hề nhắc đến hai chữ "quốc cấm" này, và chỉ có cặp Ramadier-Bollaert mới không sợ hãi chúng. Việc này sẽ chứng tỏ tinh thần "cấp tiến" của Paris.(70)
Những đề nghị của Bollaert cũng được cân nhắc sao cho Hồ không thể chấp nhận được; và như thế, tạo lý do chính đáng để phát động chiến dịch mùa khô 1947 sắp tới nhằm cắt đứt trục tiếp vận của Việt Minh từ Hoa Nam, tiêu diệt lực lượng võ trang Việt Minh, và bắt sống Hồ cùng những cán bộ lãnh đạo.(71)
Diễn văn của Bollaert cũng mở cửa cho Bảo Đại. Mặc dù chẳng trọng vọng gì cựu hoàng, Pháp miễn cưỡng chấp nhận cho Bảo Đại về nước cầm đầu một chính phủ thống nhất chống Cộng. Bollaert hy vọng rằng việc đả bại Việt Minh sẽ khiến Bảo Đại bớt cứng rắn trong những điều kiện hợp tác.(72)
Ngày 18/9-tức 4 ngày sau cuộc biểu tình rầm rộ ở Sài Gòn mời Bảo Đại về nước-Bảo Đại ra tuyên cáo chấp nhận sự ủy thác của quốc dân và sẵn sàng thương thuyết. Ngày 20/9, cựu hoàng nói sẵn sàng gặp đại diện Pháp ở Hong Kong hay Đông Dương. Theo Giám đốc Mật Thám Đông Dương, Perrier, nói với Lãnh sự Mỹ tại Sài Gòn ngày 22/9, Bảo Đại đã đồng ý thương thuyết, nhưng tạm trì hoãn để khỏi mang tiếng do Pháp dựng lên. Pháp chẳng kỳ vọng gì ở Bảo Đại, chỉ mong Bảo Đại sẽ có một số người ủng hộ. Sợ rằng Bảo Đại khó lôi kéo số lớn người quốc gia trong hàng ngũ Hồ. Vậy mà Bảo Đại đòi hỏi độc lập rộng rãi hơn những gì Bollaert đã hứa.(73)
Ngày 29/9/1947, Hoạch từ chức. Hai ngày sau, 1/10, Xuân-mới từ Pháp về ngày 15/9-được Hội Đồng Tư Vấn Nam kỳ ủy thác lập chính phủ lâm thời. Một tuần sau, Xuân công bố danh sách chính phủ Lâm thời Nam Phần.(74)
Đây là bước chủ yếu để trao quyền thống nhất lãnh thổ cho Bảo Đại.
C. CHIẾN DỊCH MÙA THU 1947 (LÉA-CEINTURE):
Ngày 7/10, Pháp mở chiến dịch "Léa" (10-11/1947) tấn công Việt Bắc. Léa là tên một ngọn đèo cao 1,362 mét trên đường số 3, giữa Nguyên Bình (Cao Bằng) và Bắc Kạn. Lực lượng mũi nhọn là các toán biệt kích Dù được thả xuống ngay tỉnh lỵ Bắc Kạn và thị trấn Chợ Mới, nhằm chộp bắt cơ quan đầu não của chính phủ Hồ. Tuy nhiên, Hồ đã sớm di tản đến một khu vực khác. Trường Chính Đặng Xuân Khu đang chủ tọa một buổi họp tại Bắc Kạn kịp thời trốn xuống hầm trú ẩn. Chỉ có Nguyễn Văn Tố, Bộ trưởng không bộ nào, bị bắt sống và tình nghi là chính Hồ. Ngoài ra, còn có phụ tá của Lê Văn Hiến, Bộ trưởng Tài chính, cùng một số nhân viên thứ hạng khác.
Ngày 7/10, Pháp cũng chiếm được Tong và Sơn La. Nhưng hai mũi chủ lực Pháp gồm một cánh thiết giáp có Bộ binh tùng thiết di chuyển từ Lạng Sơn lên Cao Bằng trên đường số 4, dưới quyền Trung tá Beaufré; và một đoàn giang hạm, mang theo hai tiểu đoàn Bộ binh, do Communal chỉ huy, từ Hà Nội ngược sông Hồng lên sông Lô, rồi sông Gầm. Hai cánh quân này sẽ như hai gọng kìm vây chặt an toàn khu Việt Minh, phá hủy đài phát thanh, các kho tàng, tiêu diệt chủ lực Việt Minh, và yểm trợ việc thiết lập các tiền đồn dài theo biên giới để cắt đứt đường tiếp vận của Việt Minh với Trung Hoa. Điểm hẹn là Đài Thị, đông bắc Chiêm Hoá 12 cây số.
Vì mực nước sông Hồng lên cao, hai ngày sau, cánh quân hỗn hợp thủy-bộ của Đại tá Commumal mới từ Hà Nội ngược sông Hồng lên sông Lô, hướng về Tuyên Quang.
Trong khi đó Nhảy Dù tiếp tục truy kích hàng ngũ lãnh đạo kháng chiến Việt Minh. Ngày 9/10, Tướng Salan thả thêm 300 quân Nhảy Dù ở phía Đông Nam Cao Bằng, tăng cường cho lực lượng cơ giới của Beaufré. Một chiếc Junker 52 bị bắn hạ. Đại tá Lambert, Tham Mưu Phó của Salan, cùng 10 sĩ quan tùy tùng bị tử nạn. Việt Minh tịch thu được toàn vẹn kế hoạch hành quân Lea, và 4 ngày sau chuyển về Bộ Tổng Tư lệnh của Võ Nguyên Giáp.
Ngày 13/10, Nhảy Dù Pháp chiếm Bắc Kạn, Cao Bằng; 20/10, chiếm Yên Báy; 21/10, chiếm Chapa; và 30/10, chiếm Lào Kay.
Ngày 20/11/1947, Salan mở thêm chiến dịch Ceinture [Vòng Đai hay Thắt Lưng]. Đây là giai đoạn II của chiến dịch Việt Bắc. Chiến dịch này nhằm lùng bắt cho bằng được cơ quan đầu não của Việt Minh (tại khu vực núi đá Đình Cả) và phá nát căn cứ địa trong khu vực tứ giác Tuyên Quang-Thái Nguyên-Việt Trì-Phủ Lạng Thương. 9 tiểu đoàn từ Hải Dương tiến lên tảo thanh phía Đông, Đông Bắc và chính Bắc Hà Nội. Đồng thời lập thế cản để đón đường các đơn vị từ phía rút Bắc về.
Ngày 19/12/1947, Chiến dịch mùa Thu của Salan chấm dứt. Mặc dù có những thắng lợi đáng kể, Salan không đạt được mục tiêu chiến lược. 60,000 quân Pháp cùng giang hạm, không quân và thiết giáp chỉ có thể tịch thu và phá hủy một số kho tàng của Việt Minh cùng ba trạm phát tuyến. Mục tiêu chính, tức toàn bộ chính phủ Hồ, đều chạy thoát. Đài phát thanh Việt Minh tiếp tục hoạt động. Trong khi đó, những đợt phản công của Việt Minh gây tổn thất đáng kể cho lực lượng Nhảy Dù Pháp.(75)
Đáng sợ hơn nữa, từ ngày 12/10, Hồ ra lệnh "tiêu thổ kháng chiến." Làng mạc bị thiêu hủy. Đường xá, cầu cống bị phá hoại. Nền kinh tế quốc gia ngày một phá sản. Qua đầu năm 1948, tuyến giao thông từ Lào Kay tới Cao Bằng của Việt Minh trở lại tình trạng tự do như cũ.(76)
Tại miền Nam, việc điều quân Pháp ra Bắc tạo cơ hội cho Việt Minh tăng gia hoạt động. Mặc dù Việt Minh không tạo được chiến thắng lớn nào, những vụ phá hoại đồn bót, cầu cống, ám sát, thủ tiêu diễn ra khắp nơi. Hai vụ ám sát gây tiếng vang nhất là cái chết ngày 10/10/1947 của Nguyễn Văn Sâm (1898-1947) tại Sài Gòn và Trương Đình Tri ở Hà Nội.(77)
D. THỎA ƯỚC HẠ LONG 6-7/12/1947:
Như mũi tên đã rời khỏi giây cung, thí nghiệm Bảo Đại tiếp tục chu trình tiến hoá của nó. Báo chí Paris bắt đầu nhập cuộc. Ngày 18/11/1947, Le Monde đăng bài của André Blanchet, đề nghị trả độc lập cho một nước Việt Nam độc lập dưới quyền lãnh đạo của Bảo Đại. Các đoàn thể, tổ chức chống Cộng người Việt tiếp tục chuẩn bị đón Bảo Đại về nước. Quan trọng hơn, Bollaert quyết định gặp Bảo Đại để thương thuyết.
Ngày 6-7/12/1947, hai bên gặp nhau ở Hạ Long. Bollaert ký với Bảo Đại một tạm ước [protocol], theo đó, Bảo Đại sẽ trở lại Đông Dương thành lập chính phủ thống nhất ba miền. Việt Nam sẽ được trao trả độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp. Về ngoại giao, Pháp sẽ chịu trách nhiệm, nhưng sẽ đưa viên chức Việt vào ngạch ngoại giao. Về quốc phòng, Việt Nam có quân đội riêng, nhưng quân đội này phải hứa sẽ tham chiến trong khối LHP. Quan trọng nhất là mật ước Pháp sẽ ngưng thương thuyết với Hồ.(78)
Ngày 12/12, Bollaert về Pháp báo cáo. Ba ngày sau, 15/12, Paris tuyên bố sẽ cho Bollaert �toàn quyền hành động và thương thuyết cần thiết để tái lập hoà bình và tự do tại Việt Nam." Bản tuyên cáo này nhấn mạnh rằng vì Hồ đã bác bỏ đề nghị của Bollaert trong diễn văn ngày 10/9 tại Hà Đông, Pháp đã ngưng mọi nỗ lực thương thuyết với Việt Minh. Bốn ngày sau nữa, 19/12, Tướng Xuân qua Hong Kong yết kiến Bảo Đại. Ngày 23/12, chính phủ Pháp lại ra tuyên cáo là thể theo lời yêu cầu của Paul Coste-Floret, Bộ trưởng Pháp quốc Hải ngoại, Bollaert được phép xúc tiến việc thương thuyết với tất cả các phe phái ở Việt Nam.
Trong khi đó, chính phủ Truman bắt đầu lo ngại về sự sụp đổ của chế độ Tưởng Giới Thạch ở Trung Hoa lục địa. Tướng Marshall được gửi qua Trung Hoa, hy vọng tìm một giải pháp chính trị. Tuy nhiên, Mao Trạch Đông và Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã quyết định ngả theo Nga, công kích mãnh liệt chính sách Mỹ. Bầu không khí chiến tranh lạnh khiến Mỹ chú tâm hơn đến Đông Dương, trực tiếp ủng hộ cuộc tái xâm lăng Việt Nam của Pháp.
Ngày 29/12/1947, báo Life đăng bài �The Saddest War� [Cuộc chiến buồn thảm nhất] của William C. Bullitt, cựu Đại sứ Mỹ tại Pháp và Liên Sô, cổ võ việc trao trả độc lập cho Việt Nam theo kiểu Philippines; giao phó cho người Việt quốc gia chân chính [true nationalists] trách nhiệm lôi cuốn những phần tử quốc gia trong hàng ngũ Việt Minh và tập sự cai quản đất nước. Mặc dù không nhắc đến Bảo Đại, và cũng chỉ đăng hình Bollaert cùng Hồ, "phần tử quốc gia" mà Bullit nhắc đến được diễn giải như Bảo Đại. Thực ra, Bullitt chỉ đề nghị duy trì một chế độ chống Cộng thân hữu ở Đông Dương.(79)
Từ ngày 7/1/1948, Bollaert và Bảo Đại lại bắt đầu gặp nhau tại Geneva để thương thuyết về điều kiện hợp tác. Nhưng hai bên không đạt được kết quả nào. Một mặt, vì mặc cảm trước sự công kích, chửi rủa tục tằn của hệ thống tuyên truyền Việt Minh Cộng Sản, Bảo Đại nói không thỏa mãn với những điều thỏa thuận tại Hạ Long, và đòi nhiều nhượng bộ hơn. Mặt khác, Bảo Đại không tin tưởng Bollaert, và lo ngại mình đang trở thành con cờ của Pháp trong việc hoà đàm với Việt Minh. Bởi thế, thương thuyết tạm ngưng sau ngày 12/1.
Để trấn an Bảo Đại, ngày 29/1/1948 Pháp bắt giam Blokov Trần Ngọc Ranh, trưởng phái đoàn VM ở Paris. Hôm sau, 30/1, Bollaert tuyên bố là Pháp nhất định không thương thuyết với Việt Minh nữa. Nhờ vậy, hai bên lại bắt đầu nói chuyện ngay tại Paris từ 5 tới 10/2. Nhưng Bảo Đại vẫn còn do dự chưa muốn về nước. Sau khi ghé ngang Cannes, Bảo Đại qua Geneva, và tuyên bố sẽ về lại Hong Kong vào tháng 3/1948, đồng thời hủy bỏ cuộc họp dự trù ngày 13/2/1948 (tức mồng 4 Tết Mậu Tý).(80)
E. �KHO VŨ KHÍ CỦA THẾ GIỚI TỰ DO�:
Từ năm 1947, Diệm đã liên lạc với viên chức Mỹ, xin viện trợ. Đây chẳng phải là sáng kiến mới mẻ gì của họ Ngô. Hầu hết chính khách Việt đều nhận rõ vị thế siêu cường của Mỹ, nhưng không có đường giây móc nối như anh em họ Ngô. Ngay chính Hồ cũng đã hoạt động cho Sở tình báo chiến lược [OSS] Mỹ trong hai năm 1944-1945, và lực lượng võ trang đầu tiên của Việt Minh được OSS Mỹ trang bị và huấn luyện. Hồ còn được đặt cho bí danh Lucius. Điều khiến Mỹ e ngại, và cuối cùng theo đuổi chính sách �hands-off� [không nhúng tay] khi Pháp tái xâm lăng Việt Nam là thành tích hoạt động cho QTCS của Hồ. Việc Hồ quyết định giải tán Đảng CSĐD ngày 11/11/1945 vẫn chưa đủ thuyết phục các viên chức Mỹ-những người vẫn chủ trương chỉ có Âu Châu mới đáng chú tâm hàng đầu.(81) Dẫu vậy, trong hai năm 1945-1946, chính phủ Truman vẫn dành cho Hồ và Việt Minh đôi chút thiện cảm. Có lẽ nhờ sự can thiệp của Mỹ, Moutet đã đồng ý ký modus vivendi ngày 14/9/1946 cho Hồ an toàn trở lại Việt Nam vào hạ tuần tháng 10/1946. Hơn một tháng sau, dù biết rõ liên hệä giữa Hồ với QTCS, Bộ Ngoại Giao Mỹ vẫn chỉ thị cho đặc sứ Moffat tìm cách gặp Hồ để giải quyết sự khác biệt Việt-Pháp bằng đường lối ngoại giao.(82)
Sau khi Bollaert ký thông cáo chung Hạ Long (6-7/12/1947) với Bảo Đại, ngày 21/12, Diệm cùng Trần Văn Lý lên Hong Kong gặp cựu hoàng. Trước khi qua Geneva ngày 24/12, Bảo Đại ủy Diệm về nước tham khảo ý kiến các phe phái để thành lập chính phủ thống nhất. Diệm từ chối vì những nhượng bộ của Pháp quá ít. Ngày 26/12, Diệm trở lại Sài Gòn chờ đợi tình thế chuyển biến.
Điều ít ai biết là phía sau hậu trường, ngày 24/12/1947, Diệm bí mật gặp Tổng lãnh sự Mỹ tại Hong Kong là George D. Hopper, trình bày về nội tình VN và giải pháp Bảo Đại. Mục đích chính của �Giệm,� theo Hopper, là xin viện trợ Mỹ. Hopper chỉ ghi nhận mà không hứa hẹn gì.(83)
Tại Việt Nam, đa số các chính khách chống Cộng đã tạm thời thỏa mãn. Ngày 25/12, mặc dù không ưa Xuân, Hoạch thành lập Việt Nam Quốc Gia Liên Hiệp để ủng hộ "giải pháp Bảo Đại."(84)
Riêng Diệm, qua đường giây Giám mục Ngô đình Thục, tổ chức một nhóm thân Mỹ và chống Cộng. Tại miền Bắc, Diệm có những thân hữu cũ như Trần Trung Dung, Nguyễn Xuân Chữ, Nguyễn Đình Thuần, v.. v... Tại miền Trung, Trần Văn Lý thành lập Đảng Xã Hội Công Giáo. Tại miền Nam, Diệm được sự yểm trợ của Nguyễn Phước Hậu, Bertin, Nguyễn Bửu, Trần Tử Hoàng, v.. v....(85) Tuy nhiên, vai trò Diệm bị lu mờ dần trước những khuôn mặt được Pháp chọn lựa. Một trong những lý do là thành tích hợp tác với Nhật của Diệm
Chuyến viếng thăm Sài Gòn ngày 25/5/1948 của Hồng y Francis Spellman mở thêm đầu mối liên hệ với Mỹ cho anh em Diệm. TGM Sài Gòn, Cassaigne, mời Ngô đình Thục tham dự buổi tiếp đón Spellman.(86) Trong tháng 6/1948, Trần Văn Lý chính thức thành lập Đảng Xã Hội Công Giáo, do Ngô đình Thục bảo trợ. Diệm được coi như lãnh tụ tối cao của đảng này.(87) Tại Đà Lạt, Ngô đình Nhu cùng nhóm Linh mục Parrell tụ họp hạt nhân đầu tiên của chủ thuyết �Nhân vị.� Thuyết này dựa theo thuyết Personalisme [Nhân vị] của Emmanuel Mounier, đặt trên cơ bản thần quyền Ki-tô giáo.
F. CHÍNH PHỦ LÂM THỜI & THỎA ƯỚC HẠ LONG II (5/6/1948):
Trong khi đó, tại nội địa, các chuẩn bị cho Bảo Đại hồi hương vẫn tiếp tục. Ngày 27/1/1948, Cao Đài và Hoà Hảo ký hiệp ước tương trợ. Ngày 8/2, Việt Nam Quốc Gia Liên Hiệp [Rassemblement National Vietnamien] họp ở Huế.
Sau khi chính phủ Ramadier khẳng định vẫn tin cậy Bollaert trong việc thương thuyết với Bảo Đại, cuối tháng 2/1948, Diệm lại qua Hong Kong. Ngày 14/3, Bảo Đại về tới Hong Kong. Sau đó, tiếp kiến Chủ tịch các Hội Đồng An Dân Hà Nội và Hội Đồng Chấp Chánh Huế. Tướng Xuân và Lê Văn Hoạch cùng những người khác yêu cầu Bảo Đại xúc tiến nhanh hơn việc thương thảo. Xuân cũng đồng ý thống nhất 3 miền.
Đại diện Hoà Hảo-Dân Xã là Trần Văn Soái, Lê Văn Kính (tức Lương Văn Tường, Lương Trọng Tường hay Kinh Lý Tường), Phan Khắc Sửu và Nguyễn Hữu Đạt (?) qua Hong Kong gặp Bảo Đại từ ngày 19 tới 26/3/1948. Bởi thế, Bảo Đại sai Diệm về Sài Gòn báo cho Bollaert biết là "Nguyện vọng của dân Việt vượt quá những điều ký kết ở Hạ Long."(88)
Mặt khác, ngày 26/3, Bảo Đại viết thư cho đại diện những đoàn thể chính trị và tôn giáo, khẳng định chấp thuận việc thành lập chính phủ lâm thời trung ương để thương thuyết với Pháp. Cuối tháng 4/1948, Xuân qua Hồng Kông gặp Bảo Đại; được Bảo Đại chấp thuận cho lập chính phủ trung ương lâm thời. Đầu tháng 5/1948, Paris phê chuẩn việc Xuân làm Thủ tướng, và sẽ trực tiếp ký Hiệp ước với Bollaert, với sự "chứng kiến" của Bảo Đại.(89)
Ngày 15/5, Bảo Đại gửi thông điệp cho Xuân đứng ra thành lập Chính phủ trung ương lâm thời.(90) Năm ngày sau, 20/5, một nhóm 37 người, có cả Phạm Công Tắc, họp Đại hội tại Sài Gòn, ký quyết nghị "Vâng thánh ý" lập Chính phủ Trung ương lâm thời Việt Nam. Tại Đại hội này, các đại diện ra tuyên cáo: Việt Nam là một nước đồng minh mà không phải "liên hiệp" [associés]; VN có quyền gửi các lãnh sự ngoại giao; VN có những nhân viên ngoại giao ở hải ngoại; VN có thể được các nước ngoài nhìn nhận, mà như thế được tình trạng "dominion" như của Bri-tên.(91)
Ngày 21/5/1948, chính phủ Trung ương Lâm Thời thành hình. Hai ngày sau, 23/5, Nguyễn Văn Xuân ký Sắc lệnh số 1, thành lập "Chính phủ Trung ương lâm thời Việt Nam," do Xuân "chủ tọa."(92) Ngày này, Bollaert và Xuân trao đổi văn thư về việc thành lập chính phủ trên. Bốn ngày sau, 27/5, Xuân trình diện chính phủ lên Bảo Đại ở Hong Kong.(93) Ngày này, Robert Schumann "ghi nhận" sự thành lập chính phủ Xuân. Ngày 1/6/1948, Xuân công bố danh sách chính phủ. (94)
Ngày 3/6, khi Xuân ra trước Hội đồng Tư Vấn Nam Kỳ, yêu cầu được yểm trợ trước khi đi Hạ Long, Đảng Quốc Gia Độc Lập, mới thành lập, công kích Xuân là bán đứng Nam Kỳ. Dẫu vậy, ngày 5/6/1948, Bollaert và Xuân cùng các đại diện chính quyền ở ba miền (Nghiêm Xuân Thiện, Đặng Hữu Chí [Bắc], Phan Văn Giáo, Nguyễn Khoa Toàn, Đinh Xuân Quảng [Trung], và Trần Văn Hữu, Lê Văn Hoạch [Nam]) gặp nhau trên chiến hạm Duguay-Trouin, "dưới sự chứng kiến" của �đế � Bảo Đại. Sau đó ra Tuyên ngôn chung (Déclaration Commune) 3 điểm; theo đó, điều 1 xác định: "Nước Pháp long trọng nhìn nhận sự độc lập của nước Việt Nam. Từ rày về sau, việc tự do thực hiện nền thống nhất quốc gia tùy nơi nước Việt Nam. Về phần mình, nước Việt Nam tuyên bố chịu gia nhập vào Liên Hiệp Pháp với danh nghĩa một quốc gia đồng hội với nước Pháp."(95) Ngoài Tuyên Ngôn Chung nói trên, còn có một phụ bản mật, với nội dung tương tự như mật ước ngày 7/12/1947. Bảo Đại, Nguyễn Văn Xuân và Bollaert cũng ra ba tuyên cáo riêng lập lại những điều căn bản trên.(96) Ngay sau đó, Bảo Đại rời Hong Kong qua Paris.
Ít nữa thì Hiệp ước Hạ Long cũng mang lại vài tin vui. Điều khiến Pháp hài lòng nhất là ngày 17/6/1948, Bảy Viễn, thủ lãnh Bình Xuyên, mang quân về hợp tác với Bảo Đại. Ngày Chủ Nhật, 1/8/1948, Xuân bổ nhiệm Bảy Viễn làm Đại tá tạm thời, tùng sự dưới quyền Trần Văn Hữu.(97)
Để làm vui lòng giáo phái Hòa Hảo, Xuân cử Lê Công Bộ làm Thứ trưởng Nội vụ, và ngày 26/6/1948, phong Trần Văn Soái lên Thiếu tướng thực thụ.
G. �HIỆP ƯỚC� ELYSEE (8/3/1949):
Mặc dù đã ký Hiệp ước Hạ Long II, dư luận Pháp vẫn chưa muốn trao trả độc lập và thống nhất cho Việt Nam. Bollaert rất bất mãn, tuyên bố chỉ trở lại Việt Nam nếu Quốc Hội Pháp công nhận thỏa ước này. Ngoại trưởng Marshall nỗ lực can thiệp, nhưng cả hai chính phủ Robert Schumann và André Marie đều ngần ngại.(98)
Trong khi đó, Bảo Đại không chứng tỏ dấu hiệu nào sẽ về nước ngay. Có nhiều nguyên do. Trước hết là phản ứng dữ dội của phe Việt Minh Cộng Sản. Ngay trong ngày 7/6, Hồ đã gay gắt phản đối việc "bọn bù nhìn" [fantoche] ký kết hòa ước với bất cứ nước ngoài nào. Cơ quan tuyên truyền Việt Minh cũng phát động chiến dịch bôi nhọ từ Bảo Đại tới những người khác trong chính phủ Xuân. Việt Minh cũng gia tăng hành động khủng bố -kể cả chôn sống-để ngăn chặn phong trào về tề.(99) Xuân và các cộng sự viên cũng bị lên án tử hình.
Mặt khác, Bảo Đại vẫn nhấn mạnh đòi hỏi thống nhất lãnh thổ và độc lập thực sự.(100)
Quan trọng hơn cả là sự chống đối của thành phần bảo thủ Pháp. Theo một viên chức Mỹ, Phụ tá Tây Âu Vụ Bộ Ngoại Giao Mỹ, Wallner, chính phủ Schumann đang chuẩn bị ra điều trần về ngân sách quân sự và quĩ yểm trợ kinh tế trước khi QH tái nhóm ngày 15/7, nên có lẽ chẳng dám ném ra thỏi thuốc nổ Đông Dương. Trong khi đó tại QH các đảng Cộng Sản, Gaullist và PRL chắc chắn sẽ chống đối. Số dân biểu Xã Hội chống lại có lẽ không nhiều, mặc dù nghị quyết về vấn đề thương thuyết với HCM đã thông qua. Có lẽ Schumann sẽ không đưa vấn đề ra trước Quốc Hội, nhưng Bollaert thì nhất quyết đòi Quốc Hội thảo luận, hoặc sẽ từ chức. Wallner đề nghị Marshall nên cảnh giác chính phủ Schumann là Pháp đang đối diện hai con đường: chấp nhận ngay nguyên tắc Việt Nam độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp và thống nhất ba kỳ; hoặc, sẽ mất cả Đông Dương.(101)
Thêm vào đó, ngày 28/8/1948 chính phủ André Marie (26/7-28/8/1948) bị đổ. Ngày 11/9, Henri Queuille được cử lập chính phủ mới, với Schumann làm Ngoại trưởng, Ramadier nắm Quốc Phòng. Tháng 10/1948, Bollaert về nước. Ngày 20/10, Queuille cử Léon Pignon làm Cao Ủy Đông Dương.(102) Pignon vội xúc tiến ngay việc thương thuyết với Bảo Đại, vì lúc này áp lực của Liên Bang Mỹ ngày một mạnh.(103)
Những chiến thắng liên tiếp của Mao Trạch Đông tại lục địa khiến Pháp hối hả hơn trong việc thực hành thí nghiệm Bảo Đại. Ngày 22/1/1949, Tưởng Giới Thạch từ chức, rồi bay ra Đài Loan. (Lý Tôn Nhân lên thay). Đang điều đình với Bảo Đại, Chủ Nhật, 24/1/1949, Cao ủy Pignon phải hối hả bay về Đông Dương đối ứng tình thế mới. Đầu tháng 2/1949, Đảng CSTQ chiếm Bắc Kinh.
Biến cố này khiến thương thuyết Pháp-Bảo Đại vượt nhanh qua những trở ngại kỹ thuật. Ngày Thứ Tư, 17/2/1949, Bửu Lộc, Chánh văn phòng của Bảo Đại, từ Cannes về Paris. Buổi tối, Lộc cho Đại sứ Mỹ Caffery biết rằng Bảo Đại sẽ được Tổng thống Pháp Vincent Auriol mời lên Paris ký Hiệp ước vào tuần sau, và trở về Việt Nam bằng tàu chiến vào đầu tháng 4/1949.(104)
Ngày 25/2, chính phủ Pháp cho báo chí Paris công bố nội dung thỏa ước Pháp-Bảo Đại. Rồi, ngày 8/3/1949 Auriol trao đổi công hàm với Bảo Đại, theo đó "Pháp long trọng công nhận" một nước Việt Nam độc lập và dân chúng có quyền tự do quyết định sự thống nhất lãnh thổ của mình, theo tinh thần Hiệp ước Hạ Long, kèm theo một phụ bản các điều thỏa thuận với Pignon.(105)
Phía sau hậu trường, Bộ trưởng Hải ngoại Coste-Floret vận động Quốc Hội Pháp biểu quyết cấp thời một sắc luật thành lập một Hội đồng Lãnh thổ Nam kỳ (Assemblée Territoriale de Cochinchine, HĐLTNK), gồm 12 đại diện Pháp và 24 đại diện Việt, để quyết định số phận Nam Kỳ. Viên chức Pháp cũng giữ kín nội dung "Hiệp ước Elysée" tới ngày Bảo Đại về nước, dự trù vào 25/4/1949 để có một "kích xúc tâm lý" (choc psychologique).(106)
Ngay ngày Thứ Năm, 9/3, Quốc Hội Pháp bắt đầu thảo luận về Thỏa ước Elysée và nhất là vấn đề Nam Kỳ. Báo Franc-Tireur của Đảng Xã hội Gaullist đăng một lá thư đề ngày 17/1/1949 của Guy Mollet gửi Thủ tướng Queuille: Bác giải pháp Bảo Đại, và kêu gọi thương thuyết với Hồ. Theo dân biểu Jean Guillon, "Giải pháp quân sự không thể thắng; Bảo Đại chẳng có một chút uy thế nào ở Việt Nam. Việt Nam đứng sau lưng Hồ Chí Minh. Trước tiên phải thương thuyết với Hồ Chí Minh."(107)
Hôm sau, 10/3, nhiều dân biểu Cộng Sản và Gaullist tiếp tục phản đối. Dân biểu Guillon cho đó là "sự sao chép vụng về của Hiệp ước [sơ bộ] 6/3/1946, chỉ là một thứ hình thức (facade)." Việc làm của Coste-Floret, theo Guillon, "thiếp vàng lại một ông vua mất chức, được biết nhiều ở các sân golf tại Cannes hay những tay bồi rượu ở các hộp đêm hơn là trong lớp nông dân."(108)
Guillon cũng cho rằng chính phủ Pháp đã chịu áp lực của Mỹ, đề cập đến chuyến thăm Đông Dương của Bullit, cựu đại sứ Mỹ ở Paris, vào tháng 9/1948; rồi cảnh cáo rằng thanh niên Pháp đang bị giết để bảo vệ quyền lợi kinh tế của My.õ Theo Guillon: "Thực ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh không làm hài lòng ông Bullit, vì trong thời gian Nhật đầu hàng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từ chối những đề nghị do Tướng Gallagher nhân danh Washington đưa ra." Guillon cũng dẫn lời của Cuisinier, trên báo Revue socialiste [Tạp chí Xã hội] số tháng 7/1948, nhận định về Hồ:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã qui tụ được những người quốc gia không đảng phái cũng như một số đông những người Ki-tô giáo yêu nước. Chống lại ông ta chỉ có cựu quan lại, cựu công chức, vài trưởng giả giàu có-mà không phải tất cả họ-và những cá nhân, dưới chế độ Nhật cũng như Pháp, đã nghĩ đến sự gia tăng quyền lợi bản thân mà họ có thể rút ra từ phe này hay phe kia, dù không vì bất cứ phe nào, trước khi nghĩ đến tổ quốc hay việc bảo vệ một lập trường chính trị." (109)
Guillon còn dẫn lời cựu Thủ tướng Léon Blum, trên báo Le Populaire ngày 6/8/1947:
"Thưa vâng, người ta phải thương thuyết với những đại diện thực (authentiques) và xứng đáng (qualifiés) của dân chúng Việt Nam, bất kể họ là ai, bất kể chính kiến hay cá nhân nào. Vâng, Hồ Chí Minh chưa chết, dù ai có nói gì đi nữa, ông ta còn sống, đã tiếp kiến ông Paul Mus, đã gửi cho tôi một công hàm ít ngày trước, là đại diện chính thức và xứng đáng của dân chúng Việt Nam."(110)
Dẫu vậy, ngày Thứ Bảy, 11/3, Quốc Hội Pháp chấp thuận lập Hội đồng Lãnh thổ Nam Kỳ [HĐLTNK] với số phiếu 387/193. Dự thảo luật này chuyển lên Thượng viện (Conseil de la République) để biểu quyết ngày hôm sau. Ngày Chủ Nhật, 12/3, Thượng Viện Pháp, với số phiếu 185/97, chấp thuận dự luật thành lập HĐLTNK với vài sửa đổi. Sau đó, gửi trả lại Hạ Viện. Hạ Viện chấp thuận. Luật này được in trên Công báo [JOF] ngày 24/3/1949. Thủ tục này dựa theo Điều thứ 75 của Hiến pháp: Một phần lãnh thổ của Cộng Hoà Pháp hoặc Liên Hiệp Pháp có thể biến đổi, do Luật của Quốc Hội, sau khi đã tham khảo với Hội nghị địa phương và Hội đồng Liên Hiệp Pháp. Như thế, theo Điều 27 của Hiến pháp, không cần phải trưng cầu dân ý (referendum). Thứ Ba, 14/3/1949, Pháp ban hành Luật tổ chức HĐLTNK. Hội đồng gồm 16 Pháp (12 nghiệp đoàn, thương gia; 4 tự do) và 48 Việt (8 Sài Gòn, Chợ Lớn; 40 cho các tỉnh). Ngày 23/3, ban hành Nghị định áp dụng luật ngày 14/3/1949 tại Đông Dương. Ngày 10/4, HĐLTNK bầu xong, gồm 54 thành viên, 14 Pháp và 40 Việt. Ngày 24/4, HĐLTNK đồng ý tái nhập Nam Kỳ vào Việt Nam.(111) Ngày 24/4/1949, Bảo Đại lên đường về nước. Bốn ngày sau, 28/4, Bảo Đại từ Singapore về tới Sài Gòn, nhưng lên thẳng Đà Lạt.(112)
Mãi tới ngày 10/6/1949-sau khi Quốc Hội Pháp chấp thuận cho Nam Kỳ sát nhập vào Việt Nam (3/6/1949) và Tổng thống Auriol ban hành Luật công nhận Việt Nam thống nhất (4/6/1949), đồng thời báo chí Pháp công bố một thư Auriol gửi Bảo Đại khẳng định QH Pháp đã thông qua luật sát nhập Nam Kỳ vào Việt Nam; như thế "độc lập và thống nhất của Việt Nam, trong Liên Hiệp Pháp, đã trở thành sự thực" (6/6/1949)-Bảo Đại mới xuống Sài Gòn trao đổi văn kiện với Pignon và ra mắt quốc dân.
Trong thời gian chờ đợi, Bảo Đại vận động xin viện trợ Mỹ. Ngày 2/6, Đại sứ Bruce từ Paris điện báo rằng "Quốc trưởng" Bảo Đại muốn được Mỹ nhìn nhận trên thực tế (de facto recognition), được viện trợ kinh tế trực tiếp, và giúp vũ khí qua trung gian Pháp (50,000-60,000 súng). Cũng muốn Mỹ gửi đến những phái đoàn thiện chí, và nâng Toà Tổng lãnh sự lên hàng Phái bộ (Legation).(113)
Tuy nhiên, đa số chuyên viên Mỹ đều cho rằng Thỏa ước Elysée "quá ít, quá chậm" (too little, too late). Pháp cần rộng rãi hơn nữa trong việc diễn dịch và thi hành thỏa ước, vì giải pháp Bảo Đại chỉ có khoảng 50-50 thành công. Giám Đốc Tây Âu vụ, Douglas MacArthur II, khẳng định các quan điểm cho rằng Mỹ sẽ đổ viện trợ vào Đông Dương để ngăn chặn vùng này lọt vào tay CS, hay quân viện Mỹ sẽ giúp Pháp đạt một chiến thắng quân sự, hoàn toàn sai lầm và nguy hiểm.(114)
Bởi thế, mặc dù trong thông điệp chúc mừng Bộ Ngoại Giao Pháp về Hiệp ước 8/3/1949, Bộ Ngoại Giao Mỹ nhấn mạnh rằng "Dân tộc Việt Nam sẽ mắc phải một lầm lỗi tai hại nếu không ủng hộ chính phủ thành lập qua Hoà ước 8/3/1949," ngày 2/5, Ngoại trưởng Dean Acheson chỉ thị cho Tổng lãnh sự Abbott ở Sài Gòn: �Phải cố tránh gây sự hiểu lầm là Mỹ trên thực tế nhìn nhận chế độ Bảo Đại.�(115) Cho tới ngày 7/10/1949, sau khi Mao đã tuyên bố thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, chính phủ Mỹ vẫn cảm thấy chưa tiện công nhận chính phủ Bảo Đại.
Sự trì hoãn của Mỹ phản ảnh sự khác biệt sâu đậm giữa Pháp và Mỹ. Đông Dương, với Pháp, là quyền lợi chính trị, kinh tế và văn hóa. Với Mỹ, chiến lược chống Cộng là bản căn. Buổi nói chuyện ngày 13/4/1949 giữa W. Walton Butterworth, Giám đốc Viễn Đông vụ, và Charles S. Reed, Đông Nam Á vụ, với Jean Daridan, Cố vấn Toà Đại sứ Pháp, phần nào phản ảnh tâm ý các viên chức Mỹ. Khi Daridan đặt câu hỏi liệu Mỹ có yểm trợ Bảo Đại hay chăng nếu sau một thời gian kế hoạch Bảo Đại chứng tỏ có tiến bộ, Butterworth khẳng định chỉ muốn giúp những người chống Cộng.(116)
Ngày 10/5, Ngoại trưởng Acheson chỉ thị cho Tổng Lãnh sự Abbott: Mỹ mong muốn thí nghiệm Bảo Đại thành công vì chẳng có một lựa chọn nào khác hơn. Đang chờ cơ hội thuận tiện để công nhận Quốc Gia Việt Nam, cũng như cho viện trợ vũ khí và kinh tế. Tuy nhiên, muốn Pháp có những nhượng bộ cần thiết trước khi chiến thắng của Mao Trạch Đông tạo ảnh hưởng tại Đông Dương. Với những người quốc gia, nếu Pháp nhân nhượng những điều cần thiết, có thể thuyết phục họ rằng: 1/ mục đích yêu nước của họ có thể thực hiện được qua sự thoả thuận Pháp-Bảo Đại; 2/ chính phủ Bảo Đại đại diện đích thực cho Việt Nam vì có thể bao gồm cả những phần tử không Cộng Sản hiện đang ủng hộ chính phủ Hồ Chí Minh; 3/ Bảo Đại là giải pháp duy nhất bảo vệ Việt Nam trước những âm mưu xâm lấn (khuynh đảo) của Trung Cộng.
Cũng cần cảnh cáo Bảo Đại về sự nguy hiểm nếu mời Cộng Sản tham gia chính phủ. Mối quan tâm của Mỹ là liệu chính phủ Bảo Đại có thể tồn tại được hay chăng. Abbott không nên đi Đà Lạt tiếp xúc Bảo Đại, nhưng có thể tiếp xúc không chính thức với những người thân cận của Bảo Đại.(117)
Ngày 20/5/1949, Acheson còn chỉ thị Lãnh sự Hà Nội William Gibson giải thích thêm cho Xuân những điểm sau: Nhìn vào quá khứ của Hồ, không thể có kết luận nào hơn rằng Hồ là Cộng Sản, nếu (1) Hồ không tuyên bố cắt đứt liên hệ với Liên Sô và chủ thuyết Cộng Sản, và (2) tiếp tục được báo chí Cộng Sản ca ngợi cũng như ủng hộ. Hơn nữa, Mỹ không thấy khía cạnh quốc gia của Hồ qua lá cờ đỏ sao vàng. Vấn đề Hồ vừa là Cộng Sản, vừa là quốc gia không đáng lưu tâm (irrelevant). Tất cả những cán bộ Stalin ở các nước [cựu] thuộc địa đều là người quốc gia. Sau khi đã đạt được mục đích quốc gia (tức độc lập), mục tiêu kế tiếp sẽ là biến quốc gia thành phụ thuộc cho mục đích Cộng Sản, và tận diệt không những chỉ người chống đối, mà cả các phần tử bị nghi ngờ là không đúng đường lối.... Nếu mời Hồ và CS gia nhập chính phủ Bảo Đại, chỉ đình hoãn việc Việt Nam trở thành độc lập, hay một vệ tinh của Cộng Sản cho tới lúc thời cơ của những người quốc gia bị kém sút. Dĩ nhiên, trên lý thuyết, có thể thiết lập một chế độ Cộng Sản quốc gia như Yugoslavia [của Tito] tại bất cứ vùng nào ở xa vòng kiềm toả của Hồng quân Liên Sô. Nhưng Việt Nam đang trong vòng kiềm tỏa của Hồng quân Trung Hoa. Nếu Pháp đồng ý thực hiện Thỏa ước Elysée một cách cấp tiến, việc quan trọng nhất của Bảo Đại và Xuân là phải lôi kéo được sự ủng hộ của dân chúng. Như trong trường hợp Trung Hoa, nước Mỹ không "bỏ rơi" (wrote it off) chính phủ Thạch, mà chính những người quốc gia Trung Hoa yếu kém quá mức và không có ý chí tranh đấu.(118)
Chẳng hiểu có sự tiến cử của Reed hay chăng-lúc này Reed đã về Ban Viễn Đông vụ ở BNG Mỹ-dịp này đích thân Bộ trưởng Hải Ngoại Coste-Floret cố gắng thuyết phục Diệm lập chính phủ, nhưng không thành công. Diệm nêu lý do sợ giáo dân Ki-tô bị VM thảm sát.(119)
Ngày 1/7/1949, Bảo Đại ký sắc lệnh số 1-CP công bố danh sách chính phủ.(120) Ngày 12/7, Bảo Đại về Huế. Ngày 14/7, từ Huế, Bảo Đại hiệu triệu quốc dân. Hai ngày sau, 16/7, ra Hà Nội.
Ngày, 15/7/1949, Giáo hoàng Pius XII (1939-1958) ra lệnh "rút thông công" bất cứ ai có liên hệ với Cộng Sản. Thánh lệnh này phần nào giải tỏa mối lo ngại của Diệm, nhưng Diệm vẫn chưa chịu hợp tác với Bảo Đại. Trong khi đó, các cộng đồng Ki-tô ngày một nghiêng về phía Thế giới Tự Do, thắp hồng �cuộc thánh chiến chống Cộng Sản.
Ngày 21/9, Diệm về Huế, sống ở nhà Ngô Đình Cẩn (1911-1964), em trai áp út. Ngày 22/11-trong khi Hồng quân Trung Cộng đang tiến sát dần tới biên giới Việt-Hoa-Diệm rời Huế vào Sài Gòn, rồi Vĩnh Long, và Đàø Lạt (2/1950).
Tháng 3/1950, Giám mục Từ tại Phát Diệm sai Lê Quang Luật vào Nam yêu cầu Diệm đừng "chùm chăn" và "ngang bướng" nữa, cần yểm trợ Bảo Đại.(121) Ngày 9/4/1950, Tổng lãnh sự Mỹ Edmund Gullion, XLTV Đại sứ, báo cáo chính phủ Nguyễn Phan Long sắp đổ và Trần Văn Hữu có thể lên thay. Gullion nghĩ rằng Pháp hẳn muốn Diệm, nhưng Bảo Đại không đồng ý.
Giữa năm 1950, Diệm có ý định thành lập một lực lượng thứ ba, thân Mỹ, chống Pháp để lôi kéo những người bất mãn trong hàng ngũ Việt Minh. Cuối tháng 6/1950, tổ chức Phong Trào Quốc Gia Quá Khích ra đời ở Trung và Nam Việt, có liên hệ với Diệm.
H. HỒ NGẢ THEO CỘNG SẢN:
Từ năm 1947-1948, Hồ bắt đầu có liên lạc chặt chẽ với Trung Cộng. Một trung đoàn TC thuộc tỉnh Quảng Đông đã được Hồ cho phép hoạt động tại vùng Việt Bắc để tránh sự tận diệït của Tưởng Giới Thạch. Từ tháng 6 tới tháng 10/1949, một số đơn vị Việt Minh cũng tham dự vào chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn ở vùng ranh giới Vân Nam/Quảng Tây của Trung Cộng. Tuy nhiên, chỉ từ đầu năm 1950, Hồ mới công khai ngả theo phe Cộng Sản. Do sự khuyến khích của Bắc Kinh, ngày 15/1/1950, chính phủ Việt Nam DCCH của Hồ chính thức công nhận chế độ Mao Trạch Đông.
Từ thượng tuần tháng 1/1950, Hồ Chí Minh đi bộ 17 ngày đêm qua tới Nam Ninh (Quảng Tây), rồi được Lưu Thiếu Kỳ đón lên Bắc Kinh. Hồ cho biết mục đích của chuyến đi là xin viện trợ. Vì cả Mao Trạch Đông lẫn Chu Ân Lai đã qua Mat-scơ-va, ngày 3/2, Lưu Thiếu Kỳ dàn xếp cho HCM qua Nga. Tại Mat-scơ-va, HCM được gặp Stalin. Stalin hỏi Hồ về lý do giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương (chính thức từ ngày 11/11/1945), rồi chỉ thị cho Mao tiếp tay Đảng CSĐD. Đây là lần đầu tiên Hồ được gặp �người thép� Nga, dù đã chính thức hoạt động cho QTCS từ hơn phần tư thế kỷ trước.(122)
Để chuẩn bị cho chuyến viếng thăm Bắc Kinh, ngày 15/1/1950, đài phát thanh Việt Minh đã công bố nhìn nhận chính quyền Cộng Sản Trung Hoa, và yêu cầu các nước Cộng Sản mở quan hệ ngoại giao với chính phủ VNDCCH. Ba ngày sau, 18/1, Bắc Kinh nhìn nhận VNDCCH. Ngày 30/1 đến phiên Mat-scơ-va. Các nước Cộng Sản khác liên tục mở bang giao với chế độ Hồ.
Ngày 17/2/1950, Hồ tháp tùng phái đoàn Mao và Chu Ân Lai rời Mat-scơ-va. Sau đó, Hồ ở lại Bắc Kinh tiếp tục thảo luận về viện trợ. Lưu Thiếu Kỳ, Phó Chủ tịch Trung Cộng, đích thân điều động công tác �nghĩa vụ quốc tế� này. Hồ xin Bắc Kinh cung cấp chuyên viên quân sự để cố vấn và chỉ huy từ cấp Trung đoàn và Sư đoàn trở lên, nhưng Lưu Thiếu Kỳ chỉ đồng ý gửi cố vấn. Luo Guibo [La Quí Ba] được chọn làm Cố vấn trưởng chính trị; trong khi Wei Guoqing [Vi Quốc Thanh] cầm đầu phái đoàn cố vấn quân sự với nhân số khoảng 280 người. Trung Cộng cũng hứa giúp huấn luyện và trang bị vũ khí cho 6 đại đoàn (sư đoàn) Việt Minh. Các trung đoàn đầu tiên qua Vân Nam huấn luyện thuộc Đại đoàn Quân Tiên Phong (308) của Vương Thừa Vũ, và 312 của Lê [Trịnh] Trọng Tấn. Để bảo đảm cho việc tiếp vận từ Trung Cộng, Bắc Kinh giúp Hồ mở chiến dịch biên giới �Cao-Bắc-Lạng,� hay Lê Hồng Phong II (16/9-14/10/1950), nhằm tiêu diệt lực lượng đồn trú tại Lạng Sơn và Cao Bằng. Người thực sự chỉ huy trận này là Chen Geng [Trần Canh], Tư lệnh Quân Khu Vân Nam, do Hồ xin đích danh. Tướng Marcel Carpentier rúng động, phải cho lệnh triệt thoái tất cả những vị trí trú quân dài theo biên giới, chỉ giữ lại Tiên Yên-Móng Cáy.(123)
Từ ngày này, thế trận đã thay đổi hoàn toàn. Việt Minh bắt đầu chủ động chiến trường. Chính phủ Hồ được giao nhiệm vụ mới: Tiền đồn của Xã hội chủ nghĩa.(124)
Trong khối Tự Do, ngày 4/2/1950, Mỹ nhìn nhận chế độ Bảo Đại vì �Hồ đã để lộ bản chất thật sự Cộng Sản.� Rồi đến Bri-tên và một số nước khác. Từ ngày này Pháp tìm cách lôi kéo Mỹ và Bri-tên vào trận chiến chống Cộng ở Đông Dương. Đại sứ Donald Heath (1950-1954) của Mỹ thận trọng thêm vào mối đe dọa của Trung Cộng hai chữ �Nga Sô.� Việc Mỹ tham chiến ở Triều Tiên từ tháng 6/1950, và nhất là cuộc triệt thoái các tiền đồn biên giới Việt-Hoa, khiến cuộc chiến tranh lạnh Mỹ-Nga bắt đầu chi phối nội tình Việt Nam. Pháp bị đặt vào vị thế cực kỳ tế nhị. Một mặt, cần thành lập quân đội bản xứ để phụ giúp cho quân viễn chinh Pháp; và ngày càng tùy thuộc nhiều hơn vào viện trợ Mỹ. Mặt khác, giới thẩm quyền Mỹ không ngừng áp lực Pháp phải trao trả dần độc lập cho Việt Nam, và áp lực Mỹ gia tăng theo viện trợ.
Winston Churchill-người cực lực chống lại kế hoạch Quốc tế quản trị [International Trusteeship] Đông Dương của Tổng thống Franklin D. Roosevelt, và tác giả thuật ngữ �bức màn sắt� ở Âu châu-sau ngày lên nắm chức Thủ tướng Bri-tên lần thứ hai, cũng muốn dựng �bức màn tre� ở Đông Dương. Nhưng Churchill chỉ muốn góp ý mà không tán thành việc gửi quân tác chiến qua Đông Dương.(125)
VI. �LÊ GÓT NƠI QUÊ NGƯỜI�:
Trong bài hát �Suy Tôn Ngô Tổng Thống,� để tô hồng cho thành tích cách mạng của Diệm, nhà văn Thanh Nam viết: �Ai bao năm từng lê gót nơi quê người, cứu đất nước, v.. v...� Thực tế, cuộc hành trình ra ngoại quốc của Diệm chẳng có vẻ gì gian khổ. Trước hết, qua Mỹ, được gặp gỡ những nhân vật quyền thế; rồi qua Vatican gặp Giáo hoàng Pius XII; trở lại Mỹ, tu học ở các tu viện và diễn thuyết đó đây; và cuối cùng qua Belgium, vận động làm Thủ tướng.
A. QUA MỸ XIN VIỆN TRỢ:
Ngày 18/6/1950, Giám mục Ngô đình Thục gặp XLTV Đại sứ Gullion tại Sài Gòn, xin giấy nhập cảnh Mỹ trên đường qua Roma dự năm Thánh cho mình và Diệm. Tháng 7/1950, có tin Diệm nhiều lần bị Việt Minh đe dọa đến tính mạng. Ngày 15/7, Diệm về Huế thăm mẹ bị đau nặng. Ngày 2/8, Diệm trở lại Sài Gòn sau khi ghé ngang Đàø Nẵng. Ngày 14/8, Diệm cùng Ngô đình Thục rời Sài Gòn trên tàu La Marseillaise. Gặp Cường Đểå ở Nhật, bàn việc thành lập một chính phủ chống Cộng.(126)
Ngày 2/9, Diệm và Ngô đình Thục tới Mỹ. Hơn hai tuần sau, ngày 21/9, William S. B. Lacy, Trưởng Nha Philippines và Đông Nam Á, tiếp Diệm và Ngô đình Thục. Ngô đình Thục tuyên bố phải lập một quân đội quốc gia, lấy giáo dân Ki-tô làm hạt nhân để không sợ đào ngũ mang súng hàng VM. Lacy nhận xét rằng Ngô đình Thục mới là phát ngôn chính, trong khi Diệm chỉ tán thưởng ý kiến Ngô đình Thục.(127)
Ngày 15/10, Diệm và Ngô đình Thục rời Mỹ qua Paris. Sau đó, xuống Roma, rồi trở lại Paris vào trung tuần tháng 11/1950. Ngày 8/12/1950, Ngô đình Thục rời Âu Châu trở lại Việt Nam. Cuối tháng đó, Diệm, qua trung gian Bửu Kĩnh, Nghị viên Hội Đồng Liên Hiệp Pháp, gửi cho Bảo Đại một thư riêng, đề nghị một chương trình hoạt động.(128) Sau đó Diệm lại sang Mỹ. Ngày 15/1/1951, Diệm khai với nhân viên Bộ Ngoại Giao Mỹ là mới từ Paris qua được khoảng một tháng để nghiên cứu về giáo lý và cơ cấu chính quyền Mỹ. Nói thêm là đã cho Bảo Đại biết sẵn sàng làm Thủ Tướng với một số điều kiện.(129)
Trong thời gian ở Mỹ, nhờ sự che chở của Francis Spellman, Hồng Y Giám đốc Tuyên úy Ki-tô Roma trong quân đội Mỹ, Diệm tá túc tại Tu viện Maryknoll, thuộc tỉnh Lakewood, tiểu bang New Jersey. Có dịp làm quen với Thẩm phán Tối cao Pháp viện William O. Douglas, nhiều Thượng Nghị sĩ, Dân biểu như Mike Mansfield (Montana), John F. Kennedy (Massachusetts), Walter Judd, v.. v... Diễn thuyết tại nhiều nơi. Từ ngày này, Diệm trở thành một lá bài �chí sĩ quốc gia chống Cộng� trừ bị của Mỹ. Diệm cũng thường tuyên bố mình là nhân vật được biết nhiều nhất tại Việt Nam, chỉ thua có Hồ Chí Minh.(130)
Đại sứ Heath nhiều hơn một lần tiến cử Diệm trong các cuộc khủng hoảng chính phủ, nhưng cả Bảo Đại lẫn Pháp chỉ muốn những người đáng tin cậy như Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm, v.. v... Ngày 12/5/1952, chẳng hạn, Heath đề nghị cho Bảo Đại nắm chức Thủ tướng, và mời những người có khả năng như Nguyễn Hữu Trí hay Ngô Đình Diệm vào nội các, với chức vụ Phó Thủ Tướng; Pháp ra tuyên ngôn về một chính sách "tiến hoá" (evolutionary statement) đối với nền độc lập của Việt Nam; sửa đổi một số điều khoản lỗi thời trong Hiệp định 8/3/1949 và Hiệp ước Pau; đẩy mạnh hơn việc thiết lập QĐVN.(131) Khoảng một năm sau, ngày 28/4/1953, Heath nhận xét rằng Bảo Đại thông minh và hữu dụng như biểu hiệu đoàn kết Bắc-Nam, nhưng không có khả năng cỡ Churchill và đại loại; Tâm nhiệt tình và hữu hiệu, nhưng không đủ khả năng đoàn kết toàn quốc vì tính tình và lập trường thân Pháp; chỉ còn lại hai ứng cử viên Diệm và Trí. Hiện tại, Diệm không được vì cứng cổ [intransigence], chống Pháp, không được Bảo Đại ưa, và không ưa Bảo Đại. Chỉ còn lại Trí xứng đáng nhất.(132)
B. QUA ÂU CHÂU:
Sau khi Joseph Laniel (6/1953-6/1954) đồng ý trả độc lập hoàn toàn cho Việt Nam ngày 3/7/1953,(133) họ Ngô ráo riết vận động lên cầm quyền. Tại Việt Nam, Ngô đình Thục và Ngô đình Nhu mở rộng hoạt động với các tổ chức tôn giáo và chính trị. Ngô đình Nhu hợp tác với Lê Văn �Bảy� Viễn, Phạm Công Tắc, v.. v... mưu toan thành lập một liên minh chính trị vào cuối năm 1953. Đầu năm 1954, Ngô đình Thục, Ngô đình Nhu cùng nhóm Tinh Thần của Y sĩ Trần Văn Đỗ và Liên Đoàn Thanh Lao Công của Trần Quốc Bửu lập ra tổ chức tiền thân của Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng, tức Cần Lao.(134)
Diệm cũng từ Mỹ sang Belgium lo tiếp xúc Bảo Đại, mới từ Việt Nam qua Pháp chữa bệnh sán gan. Ngày 14/5, Bảo Đại gọi Diệm qua Paris, và Diệm đồng ý hợp tác. Hai ngày sau, Bảo Đại cử em trai Diệm, Ngô Đình Luyện, làm �đặc phái viên� tại Hội nghị Geneva để bí mật tiếp xúc với Mỹ. Ngày 24/5, khi được nhân viên Tòa Đại sứ Mỹ ở Paris tiếp kiến, Diệm tiết lộ đã được Bảo Đại ủy quyền về Việt Nam nghiên cứu việc thành lập một chính phủ mới. Diệm dự định rời Pháp ngày 26/5, nhưng sau đó hủy bỏ.
Sau cuộc gặp gỡ này, Mỹ chấp thuận Diệm, không vì Diệm là nhân vật lý tưởng, mà vì những người tiền nhiệm quá kém cỏi, và Diệm có hậu thuẫn của một số giáo mục Ki-tô. Tuy nhiên, Ngoại trưởng Dulles vẫn còn chủ trương khuyến khích Pháp tiếp tục hiện diện ở Đông Dương, nên chưa thuận yểm trợ trực tiếp cho QGVN như Bảo Đại và Diệm yêu cầu. Phần Bảo Đại cũng được một nhóm cực hữu Pháp áp lực đưa Diệm lên thay Bửu Lộc. Nhưng cái giá Diệm đòi hỏi khá cao: Toàn quyền về dân sự và quân sự. Trước ám ảnh đại họa Pháp sẽ cắt nửa nước cho Việt Minh, và tổng tuyển cử trong một thời gian ngắn để giải quyết thể chế chính trị tương lai, Bảo Đại đành nhân nhượng-chỉ bắt Diệm phải quì gối, thề trước thập tự giá là tuyệt đối trung thành, và duy trì ngôi báu nhà Nguyễn.
Cuối cùng, ngày 16/6/1954, giữa lúc chính phủ Laniel đã từ chức và Pierre Mandès-France có nhiều triển vọng lên làm Thủ tướng, Bảo Đại bổ nhiệm Diệm làm Thủ tướng toàn quyền. Ngày 25/6/1954, Diệm cùng một đoàn tùy tùng nhỏ lên đường về nước.
Phụ chú: Jean Baptiste Ngô Đình Diệm:
1. Department of Defense, US-Vietnam Relations, 1945-1967, 12 books, (Washington, DC: GOP, 1971), Bk 11, tr. 36-41.
2. Xem, chẳng hạn, Bernard B. Fall, The Two Vietnams: A Political and Military Analysis (New York: Praeger, 1965), tr. 235ff. Fall ghi nhận Khả là �Thượïng thư Bộ Lễ� sau khi từ chức đã cắt mọi liên lạc �với những kẻ xâm lăng đáng ghét,� �ủng hộ Phan Bội Châu,� và truyền xuống cho các con như Khôi và Diệm một tinh thần quốc gia nồng nhiệt;� Ibid., tr. 235. Fall, một học giả gốc Pháp viết khá nhiều về Việt Nam và chết tại Việt Nam, nhận định: �Sự kiện Bảo Đại là người kế thừa của các hoàng đế yếu ớt trong việc chống lại Pháp cũng có thể gây ra sự khinh thường ông ta trong Diệm� [The fact that Bao Dai was the descendant of emperors who had been weak in their resistance to the French may also account for Diem's contempt for him]; Ibid., tr. 475n3. Một lời võ đoán dễ hiểu trong thập niên 1950-1960. Thực ra, từ thời Đồng Khánh (1885-1889), các vua nhà Nguyễn do Khâm sứ và Toàn quyền Pháp lập nên, và chỉ còn công dụng của �một vòng hoa,� để hợp thức hóa chế độ �Bảo hộ� Pháp. Quan lại thì được tuyển từ giới trung gian bản xứ mà đa số là giáo dân Ki-tô hay cựu bồi bếp của viên chức, sĩ quan Pháp. Thành phần �tân trào� này hiểu rất rõ vị thế �làm kiểng� của các vua Nguyễn. Ngoài ra, Khả còn có liên hệ thân thiết với phòng Thành Thái (1889-1907), và từng nuôi tham vọng biến Thành Thái thành một vua theo Ki-tô giáo đầu tiên. Sự khinh thường phòng Khải Định (1916-1925) và cá nhân Bảo Đại (1926-1945) là điều dễ hiểu. Xem Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối nhà Nguyễn, 1883-1945, 3 tập (Houston: Văn Hóa, 1999-2000). [Sẽ dẫn: Các vua cuối] Ngoài ra, Diệm không ưa Bảo Đại vì đã hai lần ký Dụ đầy Diệm ra Quảng Bình. Xem chú 18 infra.
3. Direction des Services Franc¼ais de Securité en Indochine [DSFSI], �M. Jean Baptiste Ngo Dinh Diem, dit Nguyen Ba Chinh;� SHAT (Vincennes), Indochine, [10H 4195]. Tài liệu này hiện vẫn chưa giải mật. Xem phóng ảnh trong Nguyên Vũ, Paris Xuân 96 (Houston: Văn Hóa, 1997), tr. 165. Những chi tiết không có phụ chú trong bài này đều trích dẫn từ tài liệu trên. Xem thêm Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu [VNNB], tập III: Nhân vật chí, tái bản có bổ sung (Houston: Văn Hóa, 1997), tr. 262. Sẽ dẫn: Nhân vật chí, 1997.
4. Theo Lansdale, Diệm �đã cắt bỏ mối tình với người yêu đầu đời để dâng hiến cho tổ quốc� nên 60 tuổi vẫn còn độc thân. Xem chú 1 supra. Nhưng nhiều người đương thời, như Tướng Trần Văn Đôn André, cho rằng Diệm thiếu khả năng tình dục. Theo một nhân chứng, sáng ngày 2/11/1963, một số sĩ quan trẻ tại Bộ Tổng Tham Mưu đã tò mò kiểm chứng xem cơ thể Diệm có gì khác thường hay chăng. Phỏng vấn Tiến sĩ VĐĐ tại Houston, Texas (1996-2003).
5. Xem Ngô Đình Diệm, �L'Encrier de S. M. Tu-Duc: Traduction des Inscriptions [Nghiên mực của vua Tự Đức: Bản dịch những chữ khắc];� Bulletin des Amis du Vieux Hue [BAVH], Bộ IV, số 3 (Tháng 7-9/1917), tr. 209.
6. Phỏng vấn ngày 2/11/1985 tại Paris; Ngô Đình Diệm, �L'Ambassade de Phan Thanh Gian (1863-1864);� BAVH, Bộ VI, Số 1bis và 2 (Avril-Juin 1919), tr. 161. Ở đầu bài, Diệm tự giới thiệu là �học sinh trường Hậu bổ,� và bài này đã được đọc tại các buổi họp ngày 27/8 và 3/12/1918, và 4/3/1919. Ibid. Tác giả đa tạ ông Nguyễn Đắc Xuân đã cung cấp phóng ảnh bài viết này. Diệm chỉ dịch một phần tập tâu của Phan Thanh Giản và Phạm Phú Thứù, dưới sự hướng dẫn của Nguyễn Đình Hòe. Phần còn lại (thiếu đoạn đi sứ Espania) do Trần Công Tạn dịch; BAVH (1921), tr. 147-187.
7. Xem báo cáo về cuộc đàm thoại ngày 28/4/1955 giữa Bảo Đại với William Gibson, Đệ nhất thư ký Tòa Đại sứ Mỹ; FRUS, 1955-1957, I:332-336; Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu [VNNB], 1939-1975, tập I-C: 1955-1963 (Houston, TX: Văn Hóa, 2002), tr. 54-55.
8. Nguyên văn: �A year after his decision to give up becoming a priest. Diem falsified his age and took competitive examinations for the equivalent of a highschool diploma;� Robert Sharplen, The Lost Revolution (New York: Harper & Row, 1966), pp. 106-107.
9. Xem tiểu sử Ngô đình Thục trong CAOM (Aix), GGI, CP 125; Chính Đạo, Nhân vật chí, 1997:312; Idem., Cuộc thánh chiến chống Cộng (Houston: Văn Hóa, 2004), tr. 464-465. Tại Việt Nam, tưởng cũng nên ghi nhận, có tục lấy tên �mẹ già,� tức vợ chính thức, để khai sinh cho các con ngoại hôn hoặc thê thiếp.
10. Xem Chính Đạo, VNNB, Tập I-C: 1955-1963, tr. 110.
11. Theo Bernard Fall, niềm tin tôn giáo của Diệm là một loại hiếu chiến tàn bạo của một Quan tòa Dị giáo [ruthless militancy of the Grand Inquisitor]. Khi một người Pháp nói �tín ngưỡng chung của chúng ta,� Diệm thản nhiên trả lời: �Tôi tự cho tôi là một tín đồ Ki-tô Spain [Tây Ban Nha],� tức cuồng đạo hơn là hòa hoãn theo kiểu Ki-tô Pháp; Two Vietnams, 1965:236.
12. Xem Chính Đạo, Hồ Chí Minh (1892-1969), Con người & Huyền thoại, 3 tập (Houston: Văn Hóa, 1993-1997), tập I:161-162; Phụ bản 5, trong Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, 1883-1945, tập II:602-604. Trần Trọng Kim, trong Việt Nam Sử Lược, đã dẫn lời �một đại quan về hưu� để bài bác chi tiết trộn tro than Ngự sử Phùng bắn xuống sông Lam. �Đại quan về hưu� dấu tên này chắc không thể biết rõ sự việc bằng Khâm sứ Huế, người viết báo cáo vào tháng 2/1896, hay báo cáo của chính Nguyễn Thân. Đó là chưa nói đến thói quen chối tội của các tội nhân chiến tranh [war criminals], hoặc âm mưu ngụy tạo lịch sử để bảo vệ cho thượng cấp và đồng đạo (kiểu �Việt Cộng ném lựu đạn trước đài phát thanh Huế tối ngày 8/5/1963,� �nhân viên an ninh Mỹ ném mìn plastic tối 8/5/1963,� �toàn dân Việt Nam ghi ơn Ngô Tổng thống�). Đáng tiếc vì không được huấn luyện về phương pháp nghiên cứu và viết sử, lại không có tư liệu, Trần Trọng Kim khiến tập phổ thông lược sử của ông chứa nhiều dữ kiện và nhận định lầm lạc.
13. Có tài liệu cho rằng Khả là Chưởng giáo đầu tiên của trường Quốc Học; E. Le Bris, �Le Quoc Hoc;� BAVH (1916), số 1, tr. 80. Đây có lẽ dựa theo Dụ năm 1896 của Thành Thái, nhưng Toàn quyền Pháp không chấp thuận. Giám đốc trường này là một người Pháp. Về chức �Thượng thư bộ Lễ� của Khả, chúng tôi chưa thấy một tài liệu nào. Nhưng trong bài �Une ascension sur l'écran du roi: Poésie de S. M. Tu Duc, traduite par Ngô Đình Khả, Ministre honoraire; BAVH, số 2 (4-6/1916), tr. 223-227-bản dịch một bài thơ nói về chuyến du ngoạn của vua Tự Đức-Ngô Đình Khả chỉ ghi �hàm Thượng thư,� khác xa với chức Thượng thư thực sự, nói chi �Thượng thư đầu triều.� Trần Lục, hay cha Sáu [Père Six] ở Phát Diệm, một tay chân tín cẩn của Giám mục Puginier, cũng được thưởng hàm Thượng thư và Bắc đẩu Bội tinh.
14. Lời chứng của Nguyễn Thi, trong Trần Văn Giàu, Miền Nam giữ vững thành đồng (Hà Nội: NXB Khoa Học, 1964), tập I, tr. 36; Nguyệt Đàm và Thần Phong, Chín năm máu lửa dưới chế độ gia đình trị Ngô Đình Diệm (Sài Gòn: 1964), tr. 18. Theo hai tác giả này, nhân chứng là Cử nhân Nguyễn Trác, cựu Nghị viên trưởng An Nam. Xem thêm, Bùi Ngô đình Nhung, Thối nát (Sài Gòn: 1969); Hoàng Trọng Miên, Đệ nhất phu nhân (Los Alamitos, CA: 1989), I:128-129.
15. Nguyên văn: �Các anh em tôi cũng liên tục dâng hiến mạng sống họ cho nước Pháp trong dịp Cộng Sản nổi loạn. Diệm, em tôi, đã ngã xuống vì những viên đạn súng lục của một người Tàu Chợ Lớn, được gửi tới Phan Rang, nơi Diệm hăng say ngăn chặn sự xâm nhập của các cán bộ Cộng Sản từ Nam Kỳ� [Mes frères, eux mêmes ont exposé leur vie continuellement pour la France lors de la révolte communiste. Mon cadet Diệm a failli tomber sous les coups de révolver d'un chinois de Cholon, envoyé à cet effet à Phan Rang, où Diệm défendait énergétiquement l'entrée de l'Annam aux émissaires communistes envoyées de la Cochinchine]. Thư Ngô Đình Ngô đình Thục gửi Decoux ngày 21/8/1944; CAOM (Aix), PA 14, carton 2. Thư này do tác giả công bố lần đầu tiên trong Luận án Tiến sĩ tại Đại học Wisconsin-Madison năm 1984, rồi trên báo Lên Đường (Houston) năm 1989; in lại trong Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu [VNNB], 1939-1975, tập I-A: 1939-1946, tr. 200. Vài cá nhân đặt nghi vấn là Pháp ngụy tạo tài liệu trên. Nghi vấn này do sự thiếu hiểu biết về phương pháp bảo quản tài liệu văn khố. Hơn nữa thủ bút và chữ ký của Ngô Đình Ngô đình Thục khó thể giả mạo. Tưởng cũng nên ghi thêm rằng một vài cá nhân (như Lê Trọng Văn, Bùi Kha) đã tự động tẩy xóa bút phê của Decoux cũng như ghi chú của nhân viên văn phòng Toàn quyền và dấu cùng chữ ký thị thực của Văn khố Aix-en Provence Pháp, in vào sách họ.
16. Nguyên văn: �Franc¼ais ne veulent pas de nous, parce que nous sommes trop entiers, à fortiori Japonais qui préfèraient souplesse PHAM QUYNH dont ils vantent talent.� Báo cáo số 1806, A,B,C,D ngày 18/8/1944, Surete gửi DirSurGe; CAOM (Aix), 14 PA, c.2, d.19; trích đăng trong Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, III:856.
17. �Ngôi sao� thứ hai của Pasquier là Bùi Bằng Đoàn (1890-1955), từ Tuần phủ lên chứùc Thượng thư Bộ Hình. Ngày 6/5/1933, năm tân Thượng thư mới có mặt đầy đủ tại Huế nhân dịp gắn huy chương cho Bài và 4 ngườøi khác. Ngày 17/5, Thibaudeau chủ tọa phiên họp Hội đồng Nội các đầu tiên. Mười ngày sau, 27/5, tân Nội các họp dưới sự chủ tọa của Bảo Đại và Pasquier. Xem Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, tập III:793, 1111-1129 (Phụ bản bài tường thuật trên báo Nam Phong số 184 (5/1933). Đoàn sau này hợp tác với Hồ Chí Minh.
18. Theo Tổng Lãnh sự Hong kong, Diệm tuyên bố là bạn lâu đời của Bảo Đại, đã phục vụ như �Tể tướng� những năm cũ, và hai gia đình có liên hệ gần gũi [Ngo Dinh Giem [Diem] claimed that he was an old friend of Bao Dai, had served as his Prime Minister in former years, and that their families enjoyed close relations�]; CĐ 450, 30/12/1947, Hongkong gửi BNG; FRUS, 1947, VI:153. Việc tự đánh bóng để �bán mình� [sell yourself] cho Mỹ này không được tài liệu văn khố Pháp chứng minh. Thực tế, Diệm, như đã lược nhắc, chỉ được đặc cách lên hàng Thượng thư Bộ Lại, mà phận sự và quyền lợi đồng đều với bốn bộ khác, và năm 1935, chỉ được Bảo Đại cho lại chức Thượng thư hàm. Xem chú 21 infra.
19. Báo cáo ngày 10/5/1933, Pasquier gửi Colonies; CAOM [Aix], INF, c.366/d.2905; trích in trong Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, tập III:785-809, 1111-1145. Xem Phụ bản báo Tiếng Dân trong sách này.
20. Báo cáo số 303-A.P., 22/7/1933, Gougal gửi Colonies; CAOM (Aix), INF, c.366/d.2905; Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, III:804-806.
21. Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, III:806-807. Gần ba chục năm sau, Diệm lại tuyên bố với một viên chức Mỹ rằng sở dĩ Diệm từ chức, ngoài tinh thần chống thực dân, còn vì không đồng ý với chính sách �chống Cộng� của Pháp. Theo Diệm, Cộng Sản là sản phẩm của các chính phủ tả phái Pháp. Xem Memorandum of a Conversation, Saigon, Jan 16, 1962; FRUS, 1961-1963, II:41-42. Nội dung buổi nói chuyện này chứng tỏ Diệm, dù tự nhận đã nghiên cứu về Cộng Sản từ năm 1922 qua các tài liệu Switzerland [Thụy Sĩ], chẳng biết gì vai trò của địa bàn Trung Hoa cùng hoạt động của DALBURO Liên Sô Nga ở Vladivostok, Thượng Hải hay Hong Kong. Ngoài ra, Diệm có vẻ �rất linh động và sáng tạo� trong việc diễn giải thành tích dĩ vãng của mình. Năm 1963, Đại sứ Henry Cabot Lodge đi đến kết luận, không hẳn đã chủ quan, rằng Diệm và họ Ngô thuộc loại �dối trá và tội phạm� (liars and criminals); Ibid., IV:tài liệu 69 (deception, IV:127),77 (medival view of life; IV:143), 221.
22. CAOM (Aix), INF, c.366/d.2905; Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, III:808.
23. Năm 1934, Ngô đình Thục cũng tìm cách đả kích Bảo Đại bằng cách áp dụng �giáo luật� vào đám cưới của Bảo Đại với Nam Phương hoàng hậu (tức bắt Bảo Đại phải �rửa tội� trước khi làm đám cưới). Pháp giải quyết bằng cách cho một linh mục Pháp cử hành lễ cưới trong bí mật.
24. Note số 2995-SP/C, Huế, 4/4/43; CAOM (Aix), 14 PA, c.1. Ít tháng sau, do sự dàn xếp của Thân Thị Nam Trân (1905-1986), vợ Luật sư Trần Văn Chương (1898-1986), Ngô đình Nhu khiến gia đình Nguyễn Liên phải hủy bỏ cuộc đính hôn để Ngô đình Nhu kết hôn với Lệ Xuân, con gái thứ hai của Nam Trân và Chương, thua Ngô đình Nhu tới 14 tuổi.
25. Mối hiềm khích, nếu không phải hận thù, giữa họ Ngô và Phạm Quỳnh, là điều bất cứ giới chức quan lại nào ở Huế đều rõ. Các viên chức Pháp quyết định không ngả theo phe nào, theo đúng chủ trương chia để trị. Theo an ninh Pháp, �những phần tử trong họ Ngô, đặc biệt là Khôi, nuôi dưỡng lòng hận thù ngày một sâu đậm đối với Phạm Quỳnh người đã thụ hưởng nhiều lợi lộc nhất trong 'cuộc đảo chính ngày 2/5/1933.' Từ một nhà báo, Quỳnh đã trở thành Thượng thư Bộ Quốc Dân Giáo Dục, rồi thăng lên chức Tổng lý khá nhanh, nắm giữ tước cao nhất của hệ thống quan lại (Tứ trụ triều đình) năm 1944. Từ từ theo sự thăng tiến về danh vọng của Phạm Quỳnh, hận thù giữa họ Ngô với Phạm Quỳnh càng gia tăng . . . .;� �M. Jean Baptiste Ngo Dinh Diem, dit Nguyen Ba Chinh,� tr. 2; SHAT (Vincennes), 10H 4195. Xem thêm chi tiết trong Vũ Ngự Chiêu, �Social and Cultural Change in Vietnam Between 1940 and 1946,� Ph.D. dissertation, December 1984, University of Wisconsin-Madison, Part I, chapters 3, 4 & 6. Báo Tiếng Dân trong tháng 5/1933 cũng có bài xa gần nhắc nhủ �những người được cái của người khác đừng nên vội mừng� (có lẽ ám chỉ Phạm Quỳnh) và kết luận rằng mọi việc đều do Pháp chủ xướng. Huỳnh Thúc Kháng, tưởng nên nhấn mạnh, cùng chủ trương �thờ người Pháp làm bậc thầy để cầu tiến bộ� như Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác, v.. v...
26. CAOM (Aix), GGI, 7F 29, tr. 56.
27. Matsushita [Tùng Hạ] đã tới Đông Dương từ thập niên 1920. Năm 1938, bị trục xuất; nhưng trở lại Sài Gòn từ năm 1941. Matsushita thường tuyên bố là bạn thân và đại diện của Cường Để.
28. Xem chú 13 supra. Anh em Diệm, thường rất thích �thề trên thập tự giá� nhưng ít khi giữ những lời thề này, kể cả lời thề �trung thành� với Bảo Đại trước khi về làm Thủ tướng toàn quyền dân và quân sự vào tháng 6/1954. Xem infra.
29. Thời gian này, Decoux như ngồi trên đống lửa. Một mặt, phe Gaullist tăng gia hoạt động �kháng Nhật,� và Paris hoàn toàn im lặng trước nỗ lực xin qui phục của Decous. Mặt khác, Decoux đang đối diện mối hiểm họa sẽ bị Nhật tước đoạt quyền lực. Xem Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, III: 858-862.
30. Nguyễn Xuân Chữ, Hồi ký Nguyễn Xuân Chữ (Houston: Văn Hóa, 1996), tr. 243-249.
31. Chữ, 1996:247-248.
32. Bảo Đại, Le Dragon d'Annam (Paris: Plon, 1980), tr. 106. Mùa Thu 1945, Giám mục Ngô đình Thục cho rằng sở dĩ Diệm không nhận lời vì thấy chế độ do Nhật lập nên khó tồn tại lâu dài; hơn nữa quanh Bảo Đại có những thành phần tả phái và franc-mac¼on [tam điểm]. CAOM (Aix), GGI, CP 125. Lời chứng này khó tin cậy. Mục đích của Ngô đình Thục là biện minh cho sự hợp tác với Nhật của Diệm, một tội ác chiến tranh ở thời điểm này. Và có thể Ngô đình Thục cũng không biết đến, hoặc tảng lờ quyết định của Tsuchihashi hay lời tuyên bố sẽ tống giam Cường Để vào Côn đảo nếu Hoàng thân về nước. Nhân viên an ninh Pháp, năm 1954, cho rằng Diệm từ chối lời mời lập chính phủ vì Nhật không chịu cho thống nhất ba miền Bắc, Trung, Nam; SHAT (Vincennes), 10H 4195. Theo ký giả Sharplen, �Diem refused, not because he objected to the Japanese but because he did not feel he would be able to establish a free government-among other things, the southernmost area of Cochin China was initially be exlcuded from it. Furthermore, he now saw the handwriting on the wall and did not want to put himself in the position of being declared a collaborator when the war was over. He returned to Saigon and waited;� 1966:110.
33. Xem Vũ Ngự Chiêu, The Other Side of the 1945 Vietnamese Revolution: The Empire of Vietnam (4-8/1945) / Phía bên kia cuộc cách mạng 1945: Đế Quốc Việt Nam (4-8/1945) (Houston: Văn Hóa, 1996). Bản Anh ngữ tập sách nhỏ này, trích ra từ luận án năm 1984, đã in trong Journal of Asian Studies vào tháng 2/1986.
34. Vào cuối tháng 7, đầu tháng 8/1945, có những vận động đón Cường Để hồi hương làm Cơ Mật viện trưởng cho Bảo Đại, nhưng Cường Để không về nước được vì chiến tranh chấm dứt đột ngột vào giữa tháng 8/1945.
35. Chủ tịch Ủy Ban Chính Trị Bắc Bộ đã bị bó buộc trao chính quyền cho nhóm Nguyễn Khang-Nguyễn Quyết ngày 19/12/1945. Xem Chữ 1996:284-290. Tài liệu CS Việt Nam cho rằng đây là một cuộc �cách mạng,� nhưng chưa phải là �cách mạng vô sản.� Xem những bài viết trên Cờ Giải Phóng (Hà Nội) từ tháng 8 tới tháng 11/1945.
36. Cùng bị sát hại với cha con Khôi là Phạm Quỳnh.
37. FRUS, 1952-1954, XIII:554.
38. FRUS, 1961-1963, II:42.
39. Stanley Karnow, Vietnam: A History (New York: Viking Press, 1983), tr. 216-217.
40. CAOM (Aix), GGI, CP 125; Nhân vật chí, 1997:313.
41. Vẫn theo Drapier, Ngô đình Nhu, lúc ấy ở Hà Nội, không dám ra khỏi nhà vì sợ bị bắt cóc. Tại Huế cũng có tin Ngô đình Thục bị Việt Minh bắt; CAOM (Aix), GGI, CP 125.
42. Giám mục Lê Hữu Từ & Phát Diệm, 1945-1954 , tr. 117.
43. Trước đây, thường có cuộc tranh cãi về hai chữ �giải pháp� [solution] và �thí nghiệm� [experiment]. Biến cố lịch sử cho thấy lá bài Bảo Đại không giải quyết được Ngô đình Nhu cầu chính trị của phe chống Cộng, tức tiêu diệt chế độ Hồ Chí Minh, nên không thể gọi là một �giải pháp.� Nó vẫn nằm trong phạm trù một �thí nghiệm.� Về cuộc tái xâm lăng của Pháp, xem Vũ Ngự Chiêu, �Social and Cultural Change,� Part III: �The Brutality of World Politics� (1984); Georges Thierry d'Argenlieu, Chronique d'Indochine (Paris: 1985); Général de Gaulle et l'Indochine (1982).
44. Nguyên văn: �À mon avis, il serait avantageux pour le calme de rétablir le Roi comme chef régulier avant le 9 mars.� Ngày 28/12/1945, trong một lá thư gửi một giáo sĩ Pháp, Drapier cho rằng gia đình Bảo Đại là "gia đình thân Pháp bậc nhất trong dân chúng Việt Nam (la plus francophile de tous les annamites); CAOM (Aix), CP 125.
45. Trần Trọng Kim, Kiến Văn Lục: Một Cơn Gió Bụi (Sài Gòn: 1969), tr. 134ff. Sẽ dẫn: MCGB, 1969.
46. D'Argenlieu, Chronique, 1985:385-92.
47. Nguyên văn công điện số 2464/CI/142, ngày 23/1/1947, như sau: "Ne suis pas d'accord. Ne rien décider avant que nouveau gouvernement ait formé directives;" d'Argenlieu, Chronique, 1985:387.
48. Số người chủ trương thương thuyết với Hồ chỉ có Đảng Cộng Sản Pháp và một số cá nhân như Léon Blum. Ngày 31/12/1946, trong phần trích dịch những dư luận báo chí ở Paris, báo L'Humanité đăng lại lời bình luận của báo Le Parisien libéré [Người Paris Giải Phóng]: �Sẽ là một sự điên rồ khó tha thứ khi mưu toan đặt lên một chính phủ bù nhìn nào đó sẵn sàng hợp tác với chúng ta, nhưng không có nền tảng dân chúng. Một sự điên rồ mà trong tương lai sẽ rất đắt giá cho chúng ta.� (Nguyên văn: Ce serait une impardonable folie que de susciter pour pouvoir comme partenaire, un quelconque gouvernement fantoche prêt à la collaboration avec nous, mais sans fondement populaire. Une folie qui dans l'avenir nous couterait fort cher).
49. Cầm đầu nhóm này là phe Gaullist. Xem infra.
50. Nguyên văn: "Chính trị với tôi đã hết. Dân tộc tôi đã muốn dân chủ: tôi không có gì chống lại điều đó, bởi vì ngay từ đầu tôi đã cộng tác với chính phủ mới.... Tôi rất kính trọng Chủ tịch Hồ Chí Minh" [La politique est pour moi une chose morte. Mon peuple a voulu une démocratie: je n'y ai fait aucune opposition, puisque j'ai même accepté, au début, de collaborer avec le nouveau gouvernement.... J'ai beaucoup d'estime pour le Président Ho Chi Minh....]; Combat (Paris), 15/10/1946; PA 28, Carton 7, d. 164; trích đăng trong Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, III:995-996.
51. SHAT (Vincennes), 10H 643.
52. AAN, 1946 [Séance du 20 décembre 1946]:196.
53. AAN, 1946, [2è Séance du 23/12/1946]:321.
54. AAN, 1947:882-883.
55. AAN, 1947:835.
56. AAN, 1947: 856, col 2.
57. Những tài liệu văn khố Nga và Trung Cộng mới giải mật cho biết Hồ chỉ chính thức nối lại liên hệ với Liên Sô Nga từ tháng 2/1950. Nhưng Stalin giao cho Bắc Kinh cai quản Đông Dương. Theo một viên chức Trung Cộng, tối 16/2/1950, Stalin từ chối lời đề nghị của Hồ là Liên Sô và VNDCCH ký Hiệp ước hữu nghị giống như Nga mới ký với Trung Cộng.
58. Blokov Ranh (1909-1952?), em trai Trần Phú (1904-1931), Tổng thư ký đầu tiên của Đảng CSĐD, từng theo học Đại học Phương Đông [KUTV] Mat-scơ-va và một thời gian là �bạn đồng hành� của Nguyễn Thị Vịnh (Minh Khai) (1910-1941) ở Trung Hoa; CAOM (Aix), SPCE, carton 367. Năm 1947, Ranh bị Pháp bắt giữ cùng Bourov Dương Bạch Mai (1904-1964), nhưng phải trả tự do vì áp lực của Đảng Xã Hội và báo Figaro; AAN, 1947, 833; Ibid., 1949, II:1509. Năm 1949 qua Tiệp Khắc, sau bị khai trừ khỏi Đảng CSĐD, khi tái lập Đảng Lao Động Việt Nam năm 1951 (cùng Lê Hy); Hoàng Văn Hoan, Giọt nước trong biển cả (Bắc Kinh: 1987), tr. 319-321.
59. CĐ số 1313, 27/3/1947, Caffery gửi BNG; FRUS, 1947, VI:81-82.
60. CĐ số 154, 7/5/1947, O'Sullivan gửi BNG; FRUS, 1947, VIII:94-95. De Pereyra, tưởng nên thêm, chủ trương thí nghiệm Bảo Đại. Nhưng từ năm 1950, de Pereyra hết hy vọng ở thí nghiệm chống Cộng này.
61. CĐ 289, 17/4/1947, Bangkok gửi BNG; FRUS, 1947, VI:87-88; CĐ 361, 7/5/1947, Bangkok gửi BNG; Ibid., VI:92-93.
62. CĐ 145, 7/5/1947, Bangkok gửi BNG; FRUS, 1947, VI:93-94.
63. Thành phần chính phủ thứ tư của VNDCCH như sau: Chủ tịch: Hồ Chí Minh; Cố vấn: Vĩnh Thụy; Ngoại Giao: Hoàng Minh Giám; Quốc phòng: Tạ Quang Bửu; Tài chính: Lê Văn Hiến; Tư pháp: Vũ Đình Hoè; Kinh tế: Phan Anh; Canh Nông: Ngô Tấn Nhơn(?); Y tế: Hoàng Tích Tri; Lao động: Nguyễn Văn Tạo; Cứu tế, Xã hội: Chu Bá Phượng (?); Giáo dục: Nguyễn Văn Huyên; Cựu chiến binh: Vũ Đình Tụng (Y sĩ, Ki-tô); Trong hàng Thứ trưởng, có: Trần Duy Hưng (Nội vụ), Trần Văn Bính (Tài chính), Trần Công Tường (Tư Pháp), Nghiêm Xuân Yêm (Canh Nông), Tôn Thất Tùng (Y tế), Nguyễn Khánh Toàn (Giáo dục), Ngô Tử Hạ (Cựu chiến binh); Cù Huy Cận (Thứ trưởng Kinh tế Nhà nước).
64. Ngày 28/12/1945, trong thư gửi một giáo sĩ Pháp, Tổng Giám Mục Drapier cho rằng gia đình Bảo Đại là "gia đình thân Pháp bậc nhất trong dân chúng Việt Nam (la plus francophile de tous les annamites), và theo ý ông ta, nên cho Bảo Đại lên ngôi như trước ngày 9/3 (À mon avis, il serait avantageux pour le calme de rétablir le Roi comme chef régulier avant le 9 mars); CAOM (Aix), CP 125.
65. Ngày 2/2, Kim xuống tàu thủy từ Hong Kong về Việt Nam. Tới Sài Gòn, Kim tạm trú trong nhà Luật sư Trịnh Đình Thảo, cựu Thượng thư Tư pháp trong chính phủ Kim (4-8/1945). Pignon và nhiều người khác, gồm cả cựu Khâm sai miền Nam Nguyễn Văn Sâm, hay tới thăm viếng. Nhưng chỉ hơn một tháng sau, d'Argenlieu bị Dân biểu Bollaert thay thế. Tân Cố vấn chính trị Michel chỉ ghé thăm Kim một lần ngày 8/5/1947, rồi từ đó biệt tín. Nhóm Quảng và Đán cũng xa lánh dần Kim, làm việc cho những "sứ giả" mới của Bảo Đại như Phan Văn Giáo và Trần Văn Quế; Trần Trọng Kim 1969:161-169,171-174,178. Theo Phạm Khắc Hoè, ngày 8/2/1947, Phan Huy Đán và Đinh Xuân Quảng đưa Hoè tới gặp Trần Trọng Kim và Nguyễn Văn Sâm ở nhà Trịnh Đình Thảo; Phạm Khắc Hoè 1987, tr. 312-4.
66. CAOM (Aix), INF, c.138-139, d. 1245.
67. Ibid; FRUS, 1947, VI:133.
68. SHAT [Vincennes], 10H 643.
69. Ibid., 10H 252?. Xem thêm Quang Toản & Nguyễn Hoài, Những hoạt động của bọn phẩn động đội lốt Thiên chúa giáo trong thời kỳ kháng chiến (1945-1954) (Hà Nội: NXB Khoa Học, 1965), Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu, 1945-1975, tập II-A: Các tổ chức tôn giáo (đang in).
70. FRUS, 1947, VIII:133-134.
71. FRUS, 1947, VIII:138-139.
72 . FRUS, 1947, VIII:140-141.
73. FRUS, 1947, VI:139-40.
74. Chính phủ Nguyễn Văn Xuân ngày 8/10/1947 gồm có: Thủ tướng: Xuân; Phó Thủ tướng: Trần Văn Hữu; Bộ trưởng [BT] Tư pháp: Nguyễn Khắc Vệ; BT Công chính: Nguyễn Văn Tÿ; BT Canh Nông: Trần Thiện Vàng; BT Thông tin: Nguyễn Phú Khai; Thứ trưởng Thông tin: Trần Văn Ân.
75. Vào cuối chiến dịch Léa, hơn 1,000 lính Pháp tử trận, và khoảng 3,000 người bị thương. Võ Nguyên Giáp ghi rằng VM chỉ chết 260, 168 bị thương; Chiến đấu trong vòng vây, 3rd rev. ed (Hanoi: QDND, 2001), tr. 170 [138-180]; Lịch sử, 1986:169-70.
76. Am Consul, Hanoi, to State Dept, 9 Feb 1948, 851G.00/2-948, RG 59; Ronald H. Spector, United States Army in Vietnam, Advice and Support: The Early Years, 1941-1960 (Washington, DC: Center for Military History, United States Army, 1983), tr. 90.
77. Từ Hong Kong trở về, ngày 17/9, Sâm nhân danh MTQGTNTQ gửi thư cho TT Truman, yêu cầu can thiệp vào Đông Dương; FRUS, 1947, VI:142-143. Sâm cũng quyết định xuất bản báo Quần Chúng tại Sài Gòn để có cơ quan ngôn luận trong tay. Cái chết của Sâm đã được cảnh cáo từ trước-Ngày 23/6/1947, báo L'Echo du Viet-Nam [Dư Luận] của Nguyễn Phan Long loan tin Sâm đã bị Tòa án Mặt trận Quân Khu VII của Nguyễn Bình cho lệnh bắt giải ra xét xử về tội vi phạm lệnh giải tán MTQGTNTQ.
78. CD 5398 ngày 16/12/1947, Caffery gửi BNG; FRUS, 1947, VI:151.
79. William C. Bullitt, �The Saddest War� [Cuộc chiến buồn thảm nhất]; Life (29/12/1947); FRUS, 1947, VI:110.
80. CAOM (Aix), INF, Carton 154.
81. Văn khố Nga và Trung Cộng chưa công bố hết tài liệu về những cuộc gặp gỡ giữa Hồ và Stalin trong tháng 2/1950, nhất là lý do biện minh cho việc giải tán Đảng Cộng Sản ngày 5/11/1945.
82. CĐ số 305, 5/12/1946, Acheson gửi Moffat; FRUS 1946, VIII:67-69; Department of Defense, US-Vietnam Relations, 1945-1947 (Washington, DC: GPO, 1971), Bk 8, tr. 85-86.
83. Ngày 18/12/1947, Tổng Lãnh sự Charles Reed đã từ Sài-gòn điện trước cho Hopper rằng có thể �Giệm� [Diệm] sẽ ghé thăm; FRUS, 1947, VI:152-155.
84. CAOM (Aix), 7F 27.
85. Theo tin tình báo Pháp, ngày 8/2/1848, Diệm đồng ý với lập trường của VNQGLH: Độc lập - thống nhất. Năm Lửa Trần Văn Soái cùng lập trường, và tỏ ý quí trọng Diệm. Ngày 11/2/1948, Tiết [Thiet], một người thân cận Diệm và Ngô đình Nhu, từ chức Giám đốc báo Thống Nhất ở Huế, về Quảng Nam làm Giám đốc trị sự công ty bảo hiểm Le Secours. Lý do chính là không đồng ý với Trần Văn Lý. Ngày 12/2/1948, Diệm cử Đông đi Hà Tiên, Sa Đéc, Cần Thơ, Vĩnh Long gặp một số linh mục kháng chiến cùng đại diện Cao Đài, Hoà Hảo để vận động cho Bảo Đại. Theo Đông, phần lớn giáo dân trong vùng Việt Minh ủng hộ kháng chiến; nhưng sẽ ngả theo Bảo Đại nếu được độc lập, thống nhất. Cũng định gửi một số sách báo vào vùng Việt Minh, như cuốn Tôi Muốn Tự Do. Ngô đình Nhu sẽ lên đường qua Pháp chừng hai tháng. Dự trù gặp Bảo Đại, và xuống Roma; SHAT (Vincennes),10H 4201.
86. Tháp tùng Spellman có Fulton G. Green. Thời Sự (Hà Nội), 7/3/1949.
87. CAOM (Aix), Indochine, 7F 29, tr. 57.
88. Nguyên văn: �Les aspirations du peuple vietnamien dépassaient les termes de l'accord d'Halong [12/1947]." SHAT (Vincennes), 10H 4138.
89. Ngày 12/5/1948, Đại sứ Mỹ Caffery điện báo về Washington là Vụ trưởng Á Châu Bộ Ngoại Giao Pháp tiết lộ rằng Paris đã cho phép Bollaert chấp thuận việc thành lập một chình phủ lâm thời với Xuân làm Thủ tướng. Tuy nhiên, chính phủ này phải đặt ở Hà Nội hay Huế. Việc thương thuyết giữa Bollaert và Xuân sẽ dựa trên căn bản Hiệp ước Hạ Long ngày 7/12/1947. Bảo Đại sẽ ký tên vào Hiệp ước mới (5/6/1948) giữa Bollaert và Xuân.
90. Công báo Việt Nam [CBVN], I:1 (4/6/1948), tr. 4.
91. SHAT [Vincennes], 10H 642.
92. Công báo Nam phần Việt Nam, 3:22 [31/5/1948]:359; CBVN, I:1 [4/6/1948]:7. Cùng ngày, Xuân ban hành Nghị định thứ 2, công bố tổ chức và chức quyền của chính phủ này; SHAT (Vincennes), 10H 642.
93. CBVN, I:1 [4/6/48]:4.
94. Chủ tịch Hội đồng Tổng trưởng, kiêm Tổng trưởng Quốc Phòng: Nguyễn Văn Xuân. QVK, Phó Chủ tịch, Tổng trấn Nam Phần: Trần Văn Hữu. QVK, Tổng trấn Trung phần: Phan Văn Giáo. QVK, Tổng trấn Bắc phần: Nghiêm Xuân Thiện. QVK, Tùng Bộ Quốc Phòng: Trần Quang Vinh. Lễ nghi, Quốc Gia Giáo dục: Nguyễn Khoa Toàn. Nội vụ: Nguyễn Hữu Trí [không nhận] Tư pháp: Nguyễn Khắc Vệ. Tài chánh/Kinh tế Quốc gia: Nguyễn Trung Vinh. Công tác & Kế hoạch: Nguyễn Văn Ty. Thông tin, Báo chí & Tuyên truyền: Phan Huy Đán, Y sĩ [sau đổi tên thành Phan Quang Đán] Canh Nông: Trần Thiện Vàng. Y tế: Đặng Hữu Chí, Y sĩ. Thứ trưởng tùng Dinh Chủ tịch: Đinh Xuân Quảng. Thứ trưởng tùng Bộ Quốc gia Giáo dục: Hà Xuân Tế (CBVN, I:1, [4/6/1948]:15-6). Vì Nguyễn Hữu Trí từ chối Bộ Nội vụ, chức này do Xuân kiêm nhiệm. Ngày 25/9/1948, Trí được cử làm đại diện VN tại Paris, với Vũ Quí Mão làm "Đặc vụ viên." "Chỉ dụ" ngày 9/6/1948 bổ nhiệm Đỗ Quang Giai làm Thứ trưởng Nội vụ; và Ngô Quốc Còn, Thứ trưởng Lao Động & Hoạt động xã hội (CBVN, I:2 [18/6/1948]:23-4). Qua ngày 28/6/1948, Lê Công Bộ làm Thứ trưởng Nội An (CBVN, I:3[31/7/1948]:35). Ngày 2/6/1948, Xuân ký sắc lệnh thứ ba, ban hành "Pháp qui tạm thời" (Statut Provisoire) của nước Việt Nam. Cờ vàng, 3 sọc đỏ. Quốc ca: Thanh niên hành khúc [nhưng không nhắc tên tác giả Lưu Hữu Phước. (Ngày 7/6/1948, Xuân ký sắc lệnh hủy bỏ pháp qui tạm thời này. Một tuần sau, ngày 14/6, Xuân ký Sắc lệnh liên quan đến các tổ chức công quyền tạm thời. Việt Nam chia làm ba 3 miền, thủ đô là Hà-nội. Quốc kỳ là cờ vàng (chiều dọc bằng 2/3 chiều dài), giữa có 3 sọc đỏ (dày bằng 1/15 chiều dọc của lá cờ và cũng cách nhau chừng ấy). Quốc ca: Thanh niên hành khúc. Theo Nguyễn Văn Tâm, Tâm là tác giả lá cờ vàng 3 sọc đỏ và chọn bài hát của Lưu Hữu Phước làm quốc ca. Theo Nguyễn Khánh, lá cờ vàng ba sọc đỏ là biến thể của lá cờ nền vàng ba sọc xanh của Cộng Hòa Nam Kỳø.
95. Nguyên bản tiếng Pháp như sau: �La France reconnait solennement l'indépendance du Vietnam auquel il appartient de réaliser librement son unité. De son côté, le Vietnam proclame son adhésion à l'õUnion Franc¼aise en qualité d'Etat associé à la France. L'indépendence du Vietnam n'a d'autres limites que celles que lui impose son appartenance à l'õUnion Franc¼aise.� CBVN, I:2 [18/6/48]:18; CAOM (Aix), Amiraux, 50062. Ngoài ra, 2/Việt Nam bảo đảm tôn trọng những quyền lợi của công dân Pháp, tôn trọng các nguyên tắc dân chủ, và dành ưu tiên cho các cố vấn và chuyên viên kỹ thuật Pháp trong việc tổ chức nội bộ cùng kinh tế; 3/ sau khi thiết lập một chính phủ lâm thời, các đại diện Việt Nam và Pháp sẽ ký những thỏa ước về văn hoá, chính trị, quân sự, kinh tế, tài chính và kỹ thuật.
96. FRUS, 1948, VI:25. Ngày 6/6/1948, tại Hà-Nội, Báo L'Entente, cùng hầu hết các báo chí loan tin về �Hiệp ước� (Accords) Hạ Long. Theo các báo này, Bảo Đại đã ký hiệp ước với Bollaert, dưới sự chúng kiến của Nguyễn Văn Xuân. Theo Phó Lãnh sự Mỹ Edwin C. Rendall tại Hà-nội, cả ba người cùng ký, và Bảo Đại dùng thêm hai chữ �S.M.� (Sa Majesté) trước tên mình (FRUS, 1948, VI:24). Hôm sau, 7/6, Hồ phản đối việc "bọn bù nhìn" (fantoche) ký kết hòa ước với bất cứ nước ngoài nào. Ngày 9/6/1948, Tổng Lãnh sự Abbott gặp Xuân và Hữu. Theo Xuân cần đạt hoà ước gấp, nếu muốn có cơ hội thành công. Việc thương thuyết sẽ tiếp tục ở cả Pháp và Việt Nam, do "Siêu Đại sứ" Bảo Đại thực hiện. Có thể Bảo Đại sẽ hồi hương, nếu đó là kết quả của một cuộc trưng cầu dân ý. (Tướng Pierre Boyer de Latour du Moulin, Tư lệnh Quân Pháp ở miền Nam thì cho rằng Bảo Đại sẽ hồi hương trong một thời gian ngắn). Xuân không mấy tin tưởng vào việc chiêu hồi những người Quốc Gia trong hàng ngũ Việt Minh. Việt Minh đang áp dụng những thủ đoạn hung bạo-kể cả chôn sống-để ngăn chặn phong trào về tề; FRUS, 1948, VI:25-6). Ngày 9/6/1948 này, Ferdinand Baeyens, Giám đốc Á Châu vụ Pháp, thông báo Đại sứ Bruce: Chính phủ Pháp rất bi quan về chính phủ Xuân. Bảo Đại không ưa Xuân, chỉ giữ Xuân cho tới lúc "tường đã khô." Bộ Ngoại Giao và Hải ngoại Pháp đều muốn thay Xuân, chẳng hạn như Diệm; FRUS, 1948, VII:24-25.
97. Nghị định ngày 23/8/1948; CBVN, I:8 (4/9/1948):102. Bảy Viễn đặt bản doanh ở số 31, rue de Canton, Chợ Lớn
98. Ngày 3/7/1948, Ngoại trưởng Marshall điện cho Woodruff Wallner, Phụ tá Vụ trưởng Tây Âu, đang có mặt tại Paris:
1. Mặc dù vấn đề thống nhất ba kỳ của Việt Nam cần Quốc Hội Pháp phê chuẩn, nhưng Thủ tướng Robert Schuman cần công khai yểm trợ chữ ký của Bollaert;
2. Liệu chính phủ Schuman có gặp trở ngại khi đưa ra Quốc Hội biểu quyết việc thống nhất ba kỳ?
3. Mặc dù Schuman không dám đưa vấn đề ra trước Quốc Hội, nhưng có lẽ cần những lãnh đạo cao cấp nhất-Schuman, Bidault, và Coste-Floret-cùng ra sức;
4. Vấn đề sát nhập Nam Kỳ chỉ khó khăn trong hiện tại? Nếu thế, lúc nào thuận lợi?
5. Cần có những nhượng bộ nào để chứng tỏ thành khẩn khởi đầu?
Cuộc chiến ở Việt Nam đã kéo dài gần ba năm, và Pháp khó đạt một chiến thắng quân sự. Cuộc chiến này làm suy yếu nền kinh tế của Pháp và liên hệ của phương Tây với các sắc dân phương Đông. Quan điểm của Bộ Ngoại Giao Mỹ là sự tiếp tục cuộc biểu diễn những hình nộm mà Pháp đã sản xuất suốt hai năm qua chỉ giúp HCM mạnh hơn, và bảo đảm việc xuất hiện một quốc gia do Cộng Sản thống trị, ngả theo phe Liên Sô. Để tránh điều này, điều quan trọng hơn cả là phải cho cái gọi là chính phủ trung ương hiện nay, hoặc bất cứ một chính phủ chống Cộng nào, một cơ hội thành công bằng những nhân nhượng có thể quyến rũ đại đa số những thành phần không Cộng Sản; FRUS, 1948, VI:30.
Ngày 9/7/1948, Bollaert nói đang đòi Quốc Hội phải phê chuẩn Hiệp ước Hạ Long, như một điều kiện để trở lại Đông Dương. Bollaert đã yêu cầu chính phủ Schuman và Quốc Hội phải có hành động trước cuối tháng 7/1948, và hy vọng sẽ thuyết phục được Schuman đệ trình trước Quốc Hội toàn bộ hồ sơ. Tại Quốc Hội, Bollaert cũng tin rằng sẽ thắng lợi với một đa số vừa phải, để phê chuẩn thỏa ước Hạ-long cũng như chính sách của Bollaert tại Đông Dương. Quyết nghị của Quốc Hội cũng đương nhiên hủy bỏ Hiệp ước 1862 [đúng hơn, hiệp ước 1874], theo đó Nam Kỳ được cắt nhượng cho Pháp. Tuy nhiên, việc sát nhập Nam Kỳ trở lại với lãnh thổ Việt Nam cần một cuộc trưng cầu dân ý; nhưng trong hoàn cảnh hiện tại không dễ tổ chức trưng cầu dân ý. Về những thỏa ước kỹ thuật, Bollaert cho rằng có thể bắt đầu thảo luận từ mùa Thu 1948, không cần sự chấp thuận của Quốc Hội. Thứ Hai, 19/7/1948: Bollaert khẳng định QH phải phê chuẩn Hiệp ước Hạ Long. Không đồng ý với đề nghị "chấp nhận ngầm" mà Coste-Floret đưa ra ngày 17/7/1948. Bollaert cũng lo ngại Bảo Đại mải mê vui hưởng lạc thú ở Âu Châu, không muốn trở lại Đông Dương, và yêu cầu Mỹ can thiệp; FRUS, 1948, VI:34-35.
Thứ Hai, 19/7/1948: Thủ tướng Schuman xin từ chức. Thứ Tư, 21/7/1948: André Marie được cử làm Thủ Tướng. Thứ Hai, 26/7/1948: Chính phủ Marie nhiệm chức. Schuman, cựu Thủ tướng, nắm Bộ Ngoại giao. 5/8/1948: Đại sứ Caffery báo cáo: Bollaert không chịu trở lại Đông Dương nếu Quốc Hội không thảo luận về vấn đề thỏa ước Hạ-long. 19/8/1948: Thủ tướng Marie tuyên bố ủng hộ Tuyên Ngôn Chung Hạ Long. Tuy nhiên, chưa có một quyết định chính thức nào của Quốc Hội Pháp. ï Bollaert muốn được phê chuẩn chính thức như một hiệp ước, và trở thành Hiến chương của nền bang giao Pháp-Việt (Charte des rapports franco-vietnamiens).
99. FRUS, 1948, VI:25-26.
100. FRUS, 1948, VII:42. Ngày 9/7/1948, Bollaert ăn trưa với Bảo Đại. Khi Bollaert hỏi về việc hồi hương, Bảo Đại nói là còn tùy hoàn cảnh. Bảo Đại muốn đạt được càng nhiều nhượng bộ của Pháp càng tốt; FRUS, 1948, VI:32-33.
101. FRUS, 1948, VI:32-33. Ngày 14/7, Marshall chấp thuận đề nghị của Wallner, chỉ thị cho Đại sứ Caffery tiếp xúc chính phủ Truman. Ngày 15/7, Caffery thông báo đã hoàn tất nhiệm vụ, nhưng nhân viên Bộ Ngoại Giao Pháp cho biết vấn đề cực kỳ khó khăn; Ibid., tr. 33-34. Nhưng năm ngày sau, 19/7, chính phủ Schuman bị đổ.
102. CAOM (Aix), INF, c. 154/1354.
103. Ngày Chủ Nhật, 17/1/1949, Lovett, XLTV Ngoại trưởng Mỹ, gửi công điện cho Đại sứ tại Pháp: Mỹ muốn thấy Pháp đi đến thỏa thuận với Bảo Đại hay bất cứ một "nhóm quốc gia chân chính" nào khác có khả năng lôi kéo đa số dân chúng, và không thể cam kết yểm trợ một chính phủ không vận động được dân chúng ủng hộ, sẽ biến thành một chính phủ bù nhìn, tách biệt khỏi dân chúng, và sự hiện hữu chỉ dựa vào binh lực Pháp. Caffery sẽ được thông báo về hành động phối hợp Mỹ, Bri-tên và Pháp để chống Cộng Sản sau khi nhận được báo cáo của Bri-tên; FRUS, 1949, VII:5. Ngày Thứ Tư, 20/1/1949, Đại sứ Caffery điện báo là Pignon cho biết đã đạt được các điểm căn bản. Hai bên đồng ý rằng cần Quốc Hội Pháp phê chuẩn việc thống nhất Nam Kỳ trước khi chính thức công bố các điểm thỏa thuận để bảo đảm rằng dân chúng sẽ chấp nhận giải pháp Bảo Đại. Vấn đề chủ quyền gồm 2 lãnh vực: Ngoại giao và nội bộ. Về nội bộ, việc bàn giao cơ cấu hành chính có thể thực hiện bất cứ lúc nào, nhưng về tư pháp, cần sắc luật của Quốc Hội. Chính phủ Pháp đang nghiên cứu thời điểm cho Bảo Đại hồi hương, và chuẩn bị hồ sơ chuyển qua Quốc Hội. Quốc Hội sẽ bàn thảo về việc này trước ngày bầu cử hàng tổng (canton) ngày 15/3/1949. Nếu chính phủ thay đổi lập trường, hay Quốc Hội không phê chuẩn, Pignon sẽ từ chức; FRUS, 1949, VII:6.
104. FRUS, 1949, VII:7.
105. FRUS, 1949, VII:10. Thư ngày 8/3/1949 của Auriol gửi Bảo Đại gồm 7 mục chính: Việt Nam thống nhất (Unité du Vietnam); Vấn đề ngoại giao (Question diplomatique); Vấn đề quân sự (Question militaire): Việt Nam sẽ có một quân đội riêng để duy trì trật tự, an ninh nội địa và bảo vệ đế quốc (la défense de l'Empire). Trong trường hợp tự vệ, có thể được các lực lượng Liên Hiệp Pháp yểm trợ (appuyé par les forces de l'Union francaise). Quân đội VN cũng tham dự vào cuộc bảo vệ biên cương của toàn Khối Liên Hiệp Pháp; Vấn đề chủ quyền trong nước (Souveraineté interne); Vấn đề tư pháp; Vấn đề văn hóa; Vấn đề kinh tế và tài chính (CP 290).
106. AAN, 1949:1545-6. Phụ bản các điều thỏa thuận chỉ công bố vào ngày 18/6/1949.
107. Nguyên văn: �La solution militaire n'est pas obtenue; Bao Dai ne jouit d'aucune autorité au Viet Nam. Le Viet Nam est derrière Ho Chi Minh. Il faut traiter en premier lieu avec Ho Chi Minh; AAN, 1949:1521.
108. AAN, 1949:1522-1523.
109. AAN, 1949:1523, col 3.
110. AAN, 1949:1523, col 3.
111. CAOM (Aix), PA 19, Carton 4/68; AAN, 1949:1590, col1; FRUS, 1949, VII:11.
112. SHAT (Vincennes), Indochine, 10H 642.
113. FRUS, 1949, VII:35-36.
114. FRUS, 1949, VII:27,31.
115. FRUS, 1949, VII: 21-22, 38-45.
116. FRUS, 1949, VII:19-20.
117. FRUS, 1949, VII:24-25; Pentagon Papers, Gravel, I:63.
118. FRUS, 1949, VII:29-30.
119. Irving 1975:69. Ngày Thứ Hai, 6/3/1949, tình báo Pháp báo cáo: Việt Minh triệu tập một buổi họp các cấp chỉ huy quân sự cấp trung đoàn tại Đồng-Tháp-Mười, hoạch định kế hoạch tấn công trả đũa việc Bảo Đại hồi hương, tức vào dịp không trăng từ 22 tới 28 tháng 3 (CP 208). Thứ Tư, 8/3/1949, Việt Minh thành lập Đặc khu Sài-gòn/ Chợ-lớn, gồm các tỉnh Gia-định, Chợ-lớn, và khu Đông-thành cũ (?).Quyết định này do Nguyễn Bình, Lê Duẩn và Phạm Ngọc Thuần ký. Ban chỉ huy của Đặc khu: Chủ tịch: Tô Ký, Phó Tư lệnh Khu 7; Phụ tá: Nguyễn Văn Công, Phó Chủ tịch, Ủy viên quân sự đặc khu Sài-gòn / Chợ-lớn; Bí thư: Ta Ngô đình Nhut Tu (?), Thanh tra chính trị và công an Đông Nam Bộ; Chủ tịch UBHC Sài-gòn/ Chợ-lớn; Chính ủy: Xung, Trưởng phòng chính trị Khu 7. Khu 7 cũ tiếp tục hiện hữu. Bộ Chỉ huy gồm có: Chỉ huy trưởng, Huỳnh Văn Nghệ; Phụ tá: Nguyễn Van Dung; Chính ủy: Nguyễn Văn Tri. (CP 208) Ngày 26/4/1950, nhân cuộc biểu tình chào mừng Bảo Đại hồi hương tổ chức linh đình tại Hà-nội, Việt Minh ném một quả lựu đạn, khiến một em bé tử thương. Theo Lãnh sự Gibson, Pháp kiều bắt đầu bán các cơ sở kinh doanh, chuẩn bị hồi hương; FRUS, 1949, VII:21.
120. Thủ Tướng: " Đức" Bảo Đại, Quốc trưởng. Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng: Trung tướng Nguyễn Văn Xuân. Tổng trưởng Ngoại Giao: Nguyễn Phan Long; Tư Pháp: Nguyễn Khắc Vệä; Quốc Gia Kinh tế và Kế hoạch: Trần Văn Văn. Bộ trưởng Phủ Thủ tướng kiêm Nội vụ: Vũ Ngọc Trản; BT Tài chánh: Dương Tấn Tài; BT Ngoại Giao: Lê Thăng; BT Quốc Phòng: Trần Quang Vinh; BT Thương Mại & Kỹ nghệ: Hoàng Cung; BT Canh Nông, Xã hội, Lao động: Phan Khắc Sửu; BT Công tác, Giao thông & Kiến thiết: Trần Văn Của; BT Quốc Gia Giáo dục: Phan Huy Quát; BT Thanh niên: Nguyễn Tôn Hoàn; BT Y tế: Nguyễn Hữu Phiếm; BT Thông tin: Trần Văn Tuyên. TTK Chính phủ: Đặng Trinh Kỳ; CBVN, II:2 [13/8/1949]:14. Ngày 3/7/1949, Bảo Đại ký sắc lệnh 4-CP, bổ nhiệm Nguyễn Hữu Trí làm Thủ hiến Bắc Việt; Phan Văn Giáo, Thủ hiến Trung Việt, và Trần Văn Hữu, Thủ hiến Nam Việt; CBVN, II:1 [6/8/1949]:6.
121. Ngày 24/3/1950, Luật tiết lộ với cơ quan tình báo Pháp (SEHAN) rằng Diệm không thân cận được với Bảo Đại vì bản tính Ngô đình Nhu nhược (faible) và thiếu cương quyết (indécis) của Bảo Đại. Nếu lên nắm quyền, Diệm sẽ chống Cộng thẳng tay, mà muốn thế cần có sự tín nhiệm và yểm trợ tuyệt đối của Bảo Đại. Điều này chắc không có. Ngoài ra, lập trường chính trị của Diệm cũng khác biệt. Thứ nhất Diệm muốn biết chắc thể chế độ chính trị của Việt Nam sẽ được tương tự như India trong Liên Hiệp Bri-tên. Nhưng sự bảo đảm chắc chắn này không được chứng tỏ qua thực tế, như việc bàn giao chủ quyền, hay qua sự tiến hoá của các khuynh hướng chính trị tại Pháp. Luật thêm rằng tại miền Bắc, Diệm chẳng có bao nhiêu người ủng hộ, ngoại trừ phe Ki-tô chịu ảnh hưởng Phát-diệm. Tại Hà-nội, theo Luật, có thể có Trần Văn Lai, Trần Trung Dung và Nguyễn Xuân Chữ. SHAT (Vincennes), Indochine, 10H 1039.
122. Một trong những biên khảo xuất sắc về liên hệ giữa QTCS với Đảng CSĐD do học giả Anatoli Sokolov thực hiện. Ấn bản Việt ngữ của tác phẩm này, theo Sokolov, không được chính xác. Một số phụ chú đã bị cắt bỏ. Tác phẩm Ho Chi Minh: The Missing Years, 1924-1941 (2003) của Quinn-Judge và tuyển tập Lê Hồng Phong (Hà Nội: 2002) cũng chứa đựng nhiều tài liệu Nga giá trị. Xem thêm những công bố của học giả Việt trong Tạp chí Lịch Sử Đảng (1999-2000).
123. Hầu hết các chi tiết trên đã được công bố từ thập niên 1950. Tuy nhiên, ngày tháng và chi tiết mới được tài liệu văn khố Trung Cộng xác tín từ thập niên 1990. Một trong những tác phẩm nên đọc: Qiang Zhai, China & The Vietnam Wars, 1950-1975 (Chapel Hill: Univ. of North Carolina Press, 2000), tr. 15-20. Xem thêm Võ Nguyên Giáp, Đường tới Điện Biên Phủ (Hà Nội: NXBQĐND, 2001), tr. 10-16.
124. Đại tướng Giáp, trong tập hồi ký Điện Biên Phủ (1994) và trong các ấn bản mới của hồi ký (2001) đã đủ can đảm và sự lương thiện trí thức để ghi nhận sự thực lịch sử cay đắng này.
125. Ngày 21/6/1954, Churchill viết thư cho Eisenhower, đề nghị thành lập một chiến tuyến chống Cộng trong vùng Thái Bình Dương [�establishing a firm front against Communism in the Pacific sphere]. Churchill cũng tán thành việc thành lập một Liên Phòng Đông Nam Á, giống như Liên Phòng Bắc Đại Tây Dương tại vùng Đại Tây Dương và Âu châu [We should certainly have a SEATO, corresponding to NATO in the Atlantic and European sphere]. Churchill nhấn mạnh: �In no foreseeable circumstances, except possibly a local rescue, could British troops be used in Indochina, and if we were asked our opinion we should advise against United States local intervention except for rescue;� FRUS, 1952-1954, XIII:1728-1729.
126. Sau đó, có tin đồn Cường Đểå về Bangkok, được một cán bộ CS tên Quy hết sức chiều đãi. Tuy nhiên, hiện chưa có tài liệu nào minh chứng việc này.
127. FRUS, 1950, VI:884-886. Tối ngày 25/10/1950, Acheson điện cho Heath về việc thành lập QĐGVN. Theo Acheson, viên chức Pháp nghĩ rằng có thể đưa các lực lượng giáo phái vào, tổng số chừng 75,000 người. Ngô đình Thục, Chi và Diệm cũng muốn biến lực lượng Ki-tô Giáo thành một phần quân đội; Ibid., VI:909-10. Ý kiến của Ngô đình Thục, thực ra, chẳng có gì mới lạ. Từ năm 1947, quan tướng Pháp đã khéo léo sử dụng các sứ quân tôn giáo, và ngay cả băng đảng, để ngăn chặn Việt Minh. Các Đơn Vị Lưu Động Bảo Vệ Ki-tô Giáo của Leroy [UMDC] hoạt động không xa giáo phận của Ngô đình Thục. Tháng 7/1950, Bộ Chỉ Huy UMDC rời về tỉnh lÿ Bến-tre. Trung tá Leroy được làm Tỉnh trưởng tỉnh này [cho tới ngày 25/11/1952; SHAT (Vincennes), 10H 643.
128. Ngày Thứ Tư, 24/1/1951, XLTV Đại sứ Mỹ Gullion báo cáo là Bảo Đại đã nhận được thư của Diệm. Nhưng Bảo Đại không ưa Diệm vì Diệm từng nhiều lần từ chối hợp tác. Phần anh em Diệm và Ngô đình Thục chủ trương giải pháp lập Bảo Long lên ngôi, với Nam Phương và Cường Để làm Nhiếp Chính; FRUS, 1951, VI:359-61.
129. FRUS, 1951, VI:348.
130. Ngày 21/6/1954, Diệm nói với Đại sứ Heath: �I am best known figure in Vietnam after Ho Chi Minh;� FRUS, 1952-1954, XIII:1727. Khi đại ngôn điều này, Diệm quên mất Bảo Đại, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Tường Tam, v.. v... Phê bình về lời hợm hĩnh của Diệm, một viên chức ngoại giao Mỹ nhận xét Diệm là �nhân vật thứ hai, cách rất xa, Hồ Chí Minh.�
131. FRUS, 1952-1954, I:134-41.
132. FRUS, 1952-1954, I:522-523.
133. Thương thuyết bắt đầu từ ngày 8/3/1954. Ngày 4/6/1954 [28/4/1954], Laniel và Nguyễn Trung Vinh ký thoả hiệp "kiện toàn [perfection] nền độc lập của Việt Nam." Hiệp ước này chỉ được �paraphé� [ký tắt]; SHAT (Vinvennes), 1K 233, d. 40.
134. Xem chi tiết về tổ chức này trong Chính Đạo, VNNB, Tập I-C: 1955-1963 (Houston: Văn Hóa, 2000) & Tập II-B: Các tổ chức chính trị (Houston: Văn Hóa, đang in). Xem thêm Phạm Văn Liễu, Trả Ta Sông Núi, I:333-342. Nên lưu ý, trong Chính Cương của Cần Lao, không hề đề cập đến thuyết �sáng tạo� hay �tạo hóa� mà đôi lần đề cập đến thuyết �tiến hóa.� Điều này chứng tỏ Ngô đình Nhu có thể là một tín đồ Ki-tô, nhưng �chống Giáo sĩ� [anti-clerical] như Ngô đình Nhu thú nhận với Phái đoàn điều tra LHQ vào ngày 28/10/1963; UNGA, Agenda Item 77, Doc. A/5630, 7/12/1963.
Bài trong tháng
Ba bé Ngoan về
Bin Laden Lá phiếu cuối cùng
Bush hay Kerry?
Bush: bốn năm dài trước mặt
Chuyến về của Thầy Nhất Hạnh
Chùa vào đời Lê
Cổ vật VIỆT NAM ở Đức
Dấu ấn công trình KH thời Lê
George, Thượng đế đây!
Huyền thoại phố phường
Hội thảo chuyên đề KANT
Kinh MILINDA vấn đạo
Kinh Phật khắc gỗ
Kinh đô cổ 500 năm
Kỷ lục Việt Nam
Laurel Kendall
Linh tinh chuyện thế sự
Mộ cổ văn hoá Hạ Long
Ngô Đình Diệm là ai?
Người đẹp cụt đầu
Nhận xét về vụ treo cờ
Những cơn mơ tình cờ
Nói chuyện với VNCH Foundation
Năm Tượng Vua Trần
Pauline ơi!
Phong trào Da vàng ca
Quan niệm thơ Xuân Diệu_Chế Lan Viên
Thích Trí Quang_Cách mạng 1.11
Truy tìm Ung thư Vú
Truyện ngắn: Sân nhà
Tuổi thơ
Tàn một cuộc chơi
Tên gọi của Thăng Long
Văn học dịch miền Nam 55-75
Vĩnh biệt một giấc mơ
Copyright Chuyển Luân 2005
Designed by HT MEDSOFT
CHUYỂN LUÂN ONLINE
Suốt nửa thế kỷ đầy xương máu, nhục nhằn, phẫn hận vừa qua, đã có những nỗ lực «phong thánh» cố Tổng thống Ngô Đình Diệm trong khối văn chương bình dân và tuyên truyền của miền Nam. Khối văn chương «cung văn » này, hẳn nhiên, hầu như hoàn toàn trái ngược với sự thực sử học. Thực sự Ngô Đình Diệm là ai? Chính Đạo đã trả lời câu hỏi ấy.
Chuyển Luân
Sơ lược tiểu sử
JEAN BAPTISTE NGÔ ĐÌNH DIỆM (1897-1963):
THỜI KỲ CHƯA NẮM QUYỀN, 1897-1954
Bài này là chương mở đầu Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng của Chính Đạo (Houston, TX: Văn Hóa, 2004), đã được bổ khuyết vài lỗi lầm khi sắp chữ và kỹ thuật. Những thắc mắc về hai tiếng ‘thánh chiến’ nếu có, sẽ được giải đáp khá rõ ràng qua những chi tiết trong bài.
Quí vị yêu sách, xin liên lạc: Hoàng Đỗ Vũ, Po Box 721049, Houston, Tx 77272-1049.
Ngày 25/4/1961, Tướng Edward G. Lansdale -người được coi như hiểu biết rất rõ Việt Nam Cộng Hòa [VNCH]-viết báo cáo lên Thứ trưởng Quốc phòng Roswell L. Gilpatric, Chủ tịch Ủy Ban Đặc Nhiệm Việt Nam (Presidential Task Force on Vietnam), về ‘No Din Zee'em’ (Ngô Đình Diệm) như sau: ‘Ông ta lùn, mập tròn. . . Nhiều người không chú ý đến cặp mắt đen hay liếc trộm [snapping] của ông ta mà chỉ chú ý đến cặp giò vừa đủ chạm mặt đất khi ngồi. Tuy nhiên, ông ta không cảm thấy ngượng ngùng về chuyện lùn, và có vẻ rất tự nhiên chung quanh những người Mỹ cao lớn. . .Ông ta tỏ vẻ ăn uống ngon lành (và thường có sở thích ăn ngon). Nụ cười của ông ta có vẻ e dè và bất thường. . . Diệm sinh ngày 3/1/1901. . . Năm 25 tuổi [1926], Diệm đã được cử làm quan đầu tỉnh. Nhưng sau ‘sáu tháng làm Thượng thư’ Diệm từ chức, trở thành ‘người hùng thực sự của người Việt.’ Từ đó, anh em Diệm ‘âm thầm chống cả Pháp lẫn Cộng Sản.’ Diệm là một người độc thân 60 tuổi, ‘đã cắt bỏ mối tình với người yêu đầu đời để dâng hiến cho tổ quốc.’(1)
Thực ra, Lansdale dường không muốn viết rõ, hoặc không biết nhiều về Diệm. Hầu hết chi tiết về hộ tịch Diệm cũng như thành tích chống Pháp của Diệm và gia đình Ngô Đình Khả, đều thiếu chính xác. Các học giả thế giới cũng chẳng bận tâm đến việc tu chỉnh lại tiểu sử người cầm đầu phe thua cuộc.(2) Đáng buồn hơn nữa, lịch sử Việt Nam, dưới mắt nhiều học giả thế giới, chỉ là một thứ câu chuyện thêm thắt vào [anecdotes] chính sách và sự can thiệp của các cường quốc như Mỹ, Nga, Trung Hoa, Pháp, Bri-tên, Nhật, v.v... Người Việt cũng có lý do riêng để không muốn thấy có một tiểu sử chính xác về Diệm, từ chính trị, tôn giáo, tới ý thức hệ. Nên chẳng ngạc nhiên khi khối văn chương hiện hữu về họ Ngô hay Đệ nhất VNCH tràn ngập những lời ‘cung văn’ hoặc ‘đào mộ’, bất chấp sự thực.
Bài viết này nhằm điền vào khoảng trống nói trên. Tư liệu chúng tôi sử dụng cơ bản là tập tiểu sử chính phủ Diệm do cơ quan an ninh Pháp thành lập vào tháng 7/1954, hiện vẫn còn chưa giải mật. Ngoài ra, còn nhiều tư liệu văn khố Pháp, Mỹ, Nga, Trung Hoa, cùng các tài liệu nguyên bản khác.
I. SƠ LƯỢC GIA THẾ:
Ngô Đình Diệm, ngoài tên ‘thánh’ Jean Baptiste [Gioan Bao-xi-ta], còn có bí danh Nguyễn Bá Chinh. Theo tài liệu văn khố Pháp, Diệm sinh ngày 27/7/1897 tại Đại Phong [Phuong] hay Đại Phong Lộc, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.(3) Cha là Ngô Đình Khả (1856-1914), một tín đồ Ki-tô tân tòng, xuất thân thông ngôn cho Pháp, sau đổi qua ngạch quan lại Việt, lên tới Đề đốc Kinh thành (1905-1907). ‘Mẹ’ là Phạm Thị Thân.
Anh em Diệm khá đông, gồm sáu trai, hai gái. Ngô đình Khôi, con vợ lớn, là anh cả. Diệm, theo lời đồn, đứng hàng em của Khôi, Ngô đình Thục, và anh Ngô Thị Hiệp (bà Cả Lễ; chồng là Nguyễn Văn Ấm, sinh ra Hồng y Nguyễn Văn Thuận), dù tuổi ‘chính thức’ Diệm lớn hơn Thục hơn hai tháng. Dưới Diệm có Ngô đình Nhu, Ngô đình Cẩn, Ngô đình Luyện, cùng một người em gái khác. Vì Khả chết khi Diệm còn nhỏ (17 tuổi khai sinh), Khôi quyền huynh thế phụ. Khôi chết, Thục có ảnh hưởng nhất trên Diệm, với cương vị một Giám mục.
Cha đỡ đầu của Diệm là Nguyễn Hữu Bài (1863-1935), nhạc phụ Khôi, một thủ hạ cũ của Khả, cũng một Thượng thư uy quyền và đầy mưu mô tại Huế từ 1907 tới 1933. Theo tài liệu Pháp, Bài đã nuôi dưỡng Diệm từ nhỏ. Bài cũng có ý định chọn Diệm làm con rể, nhưng vì lý do nào đó không thành. Con gái Bài sau đi tu dòng kín Carmel.(4)
Sau ngày lên cầm quyền ở miền Nam, Diệm bỗng đổi ngày sinh thành 3/1/1901. Chẳng hiểu tại sao có việc ‘thay đổi’ hộ tịch trên. Việc thay tên, đổi họ và ngày sinh tháng đẻ là việc thường xảy ra ở Việt Nam. Trước hết, vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, việc khai hộ tịch không được kiểm soát chặt chẽ. Các viên chức xã ấp tại thôn quê không đặt nặng sự chính xác về ngày sinh của trẻ em. Cha mẹ nhiều khi khai rút tuổi con cái để nhắm mục đích nào đó, như đi học hay khai sưu thuế. Hơn nữa, việc đổi từ ngày nhật (dương) lịch qua nguyệt (âm) lịch rất phức tạp, đôi khi cha mẹ dùng ngày tháng sinh nguyệt lịch làm ngày tháng nhật lịch, rồi dùng năm nhật lịch tương đương trong khai sinh. Thông thường, cha mẹ hay khai rút tuổi các con. Nhưng rất hiếm trường hợp cha mẹ khai con mình tăng thêm ba bốn tuổi, ngoại trừ có biệt lệ nào đó. Phải chăng Diệm rơi vào trường hợp đặc biệt này, vì nếu sinh năm 1901, Diệm không thể nào được tập ấm chức Cửu phẩm và làm việc tại Tân Thư Viện Huế năm 1917, khi mới 16 tuổi.(5)
Theo Luyện, em út trong gia đình họ Ngô, Diệm đã khai tăng bốn tuổi (tức từ 16 lên 20 tuổi) để có thể vào trường Hậu Bổ. Điều này khó tin, vì mãi tới năm 1918-1919, Diệm mới học trường Hậu bổ.(6) Luyện cũng là nhân chứng không đáng tin cậy. Thí dụ như khi được hỏi về vai trò chính trị của Luyện, Luyện nói được lệnh ‘đứng ngoài chính trị.’ Thực tế, từ thập niên 1940, Luyện đã hoạt động với các tổ chức thân Nhật, và trở thành đặc sứ của Diệm với Bảo Đại, trước khi nắm chức Đại sứ tại London. Luyện cũng tung ra những tin đồn về giao tình giữa Luyện và Bảo Đại, mà theo Bảo Đại không hề có.(7) Và, như đã lược nhắc, Diệm được tập ấm chức Cửu phẩm, làm việc tại Tân Thư Viện Huế từ năm 1917, trước khi vào trường Hậu Bổ.
Một ký giả ngoại quốc, Robert Sharplen, thì ghi rằng theo Diệm, khoảng năm 1915-1916, Diệm đã man khai hộ tịch để dự thi bằng tương đương tốt nghiệp trung học.(8) Chi tiết này hoàn toàn sai sự thực. Mãi tới giữa thập niên 1920, mới có những cuộc thi bằng Tú Tài I và II chương trình Pháp-Nam. Bằng cấp mà Diệm thi tương đương chỉ là bằng Trung học phổ thông đệ nhất cấp (Diplôme). Tài liệu thành văn cũng chứng minh rằng Diệm đã vào quan trường từ năm 1916 hoặc 1917, với chức Cửu phẩm tập ấm tại Tân Thư viện, mà không phải sau khi đã tốt nghiệp trường Luật Hà Nội năm 1921 như Diệm khoa trương hay Sharplen đã ghi sai. Thực tế, Diệm vào trường Hậu bổ từ niên khóa 1918-1919, và chỉ học tại Hà Nội một niên khóa 1920-1921.
Một động lực trong việc sửa đổi hộ tịch có lẽ là để hợp thức hóa vai ‘em’ của Diệm với Giám Mục Ngô đình Thục -Thục sinh ngày 6/10/1897 tại Phước Quả, Thừa Thiên, thua Diệm hơn hai tháng. Nhưng cũng có thể, và điều này cần được tra cứu thêm, Diệm không man khai hộ tịch, mà rất đơn giản là không cùng mẹ (Phạm Thị Thân) với anh chị em khác. Có lẽ vì muốn che đậy bí ẩn này, tiểu sử Khôi và Thục trong tập Vua chúa và người quí phái Đông Dương [Souverains et Notabilités] năm 1943 không ghi ngày sinh.(9)
Tài liệu văn khố Pháp cũng ghi Diệm sinh tại Đại Phong Lộc, Lệ Thủy, Quảng Bình, mà không phải Phước Quả, Thừa Thiên, giống như Thục, Nhu, Cẩn, Luyện, v.. v... Địa danh ‘Đại Phong Lộc’ từng được khai là nơi sinh của Khôi, anh cả trong gia đình, con Khả và người vợ lớn đã chết sớm, trước khi Khả lấy bà kế thất tên Thân.(10)
Rất ít chi tiết về học vấn Diệm được công bố. Có tin Diệm học trường Pellerin ở Huế, và tốt nghiệp Diplôme [Trung học đệ nhất cấp]. Diệm biết cả chữ Nho [Hán Việt]. Lại có tin Diệm học ở chủng viện, nhưng bỏ tu nửa chừng.(11) Bởi thế, nhiều tài liệu cho rằng Diệm thuộc loại ‘religious fanatic’ [cuồng đạo]. (Hy vọng các nhà nghiên cứu trong nước tìm thêm được những chi tiết này).
II. ‘BÁT CƠM’ BẢO HỘ PHÁP:
Trong nỗ lực biến hóa Ngô Đình Diệm thành một ‘lãnh tụ anh minh’ đủ sức đương đầu với Hồ Chí Minh -kiểu ‘ăn Ngô thì no, ăn Hồ thì đói’- cơ quan tuyên truyền Mỹ và Nam Việt Nam tô chuốt cho Diệm những bảng hiệu như ‘yêu nước, chống Pháp’, v.. v... ‘Yêu nước’ là một nhận xét khó lượng định, vì chỉ có mỗi cá nhân mới tự biết rõ mình yêu nước hay không. Có nhiều cách biểu lộ lòng yêu nước, nên khó thể sử dụng một hệ thống lượng giá cố định nào đó. Tấm huy chương nào cũng có mặt trái của nó. ‘Chống Pháp’ thì dễ lượng định hơn. Tinh thần chống Pháp của Diệm, hay họ Ngô, chỉ là những triển biến vào khoảng cuối đời, và động lực không hẳn do lòng yêu nước thuần túy, mà nặng về tôn giáo cùng quyền lợi bản thân và dòng họ. Thực ra, Diệm xuất thân từ một gia đình trung gian bản xứ Ki-tô, phục vụ Bảo hộ Pháp rất tận tụy. Khả, cha Diệm, từng lên tới chức chánh thông ngôn tòa Khâm sứ Huế dưới thời Pierre Rheinart des Essarts, rồi chuyển sang làm thương biện Viện Cơ Mật. Ngày 10/4/1892 Khả dịch công văn của triều Huế xin Toàn quyền Jean de Lanessan đừng gửi ra Huế những người như Petrus [Key], Nguyễn Trọng Tạo, Lê Duy Hinh, hay Diệp Văn Cương, v.. v... Khả cũng tham dự chiến dịch đánh phá phong trào kháng Pháp tại Hà Tĩnh-Quảng Bình của Ngự sử Phan Đình Phùng (1847-1895) trong hai năm 1895-1896, và được đặc cách lên Thái thường tự khanh (Chánh tam phẩm) năm 1896, sau khi hài cốt Ngự sử Phùng bị đốt thành tro, ném xuống sông Lam ‘theo [lối trừng phạt] truyền thống.’(12)
Sau một thời gian làm Phó Giám đốc trường Quốc Học Huế, đặc trách vấn đề nhà cửa, lương bổng và hành chính, Khả được giao chức Đề đốc kinh thành, lo việc bảo vệ và kiểm soát Thành Thái (1889-1907), cầm đầu một toán thân binh cạo răng trắng, hớt tóc ngắn, mang súng trường, nhưng nhiệm vụ chính yếu -nếu tin được báo cáo của Hiến binh Pháp- chỉ để giúp vua lùng sục và bắt cóc gái đẹp quanh kinh thành. Sau khi về hưu, Khả được hàm Thượng thư.(13)
Khôi, anh cả họ Ngô, bắt đầu ‘tham chánh’ năm 1910, sau khi tốt nghiệp trường Hậu bổ. Khoảng 6 năm đầu, Khôi làm tại văn phòng Bộ Công do cha vợ làm Thượng thư. Sau ngày tiếp tay cho Khải Định (1916-1925) lên ngôi, Bài được thăng lên Thượng thư Bộ Lại, và Khôi bắt đầu đi ngồi huyện, phủ, rồi lên tới Tuần vũ, Tổng đốc.
Diệm thì năm 1917 được tập ấm chức Cửu phẩm, làm việc tại Tân thư viện Huế (tức Musée Khải Định sau này), nơi đặt trụ sở Hội Bạn của Cố đô Huế, và có bài đăng báo Bulletin des Amis de Vieux Hué [Đô thành hiếu cổ]. Năm 1918-1919, Diệm bắt đầu vào trường Hậu bổ Huế. Người đỡ đầu có lẽ là Nguyễn Đình Hòe, một phụ tá cũ của Khả trong chiến dịch truy giết Ngự sử Phùng, lúc đó làm Giám đốc trường Hậu Bổ (năm 1921 giữ chức Tổng thư ký Viện Cơ Mật). Thời gian này, triều đình Huế đã bỏ lối thi Hương và thi Hội cũ, và trường Hậu bổ mở thêm một phân khoa ‘pháp chính’ [hành chính và luật] của trường Đại học Hà Nội. Học viên học tại Huế hai năm đầu, và năm thứ ba phải ra Hà Nội. Có lẽ Diệm được chuyển qua chương trình này.
Tốt nghiệp năm 1922, nhờ Thượng thư Bài, Diệm được bổ nhậm ngay. Năm 1929 [1926?], Diệm lên tới chức Tuần Vũ Bình Thuận (Phan Thiết). Được cấp trên đặc biệt chú ý vì thanh liêm và tinh thần diệt Cộng cao. Một số nhân chứng ghi nhận rằng Diệm, khi làm tri phủ Hoà Đa (Bình Thuận), đã dùng đèn cầy [nến] đốt hậu môn tù nhân CS để lấy khẩu cung.(14) Vì thế, theo Giám Mục Ngô đình Thục, Cộng Sản đã thuê một sát thủ ra tận Phan Rang mưu sát Diệm, nhưng Diệm chỉ bị thương.(15)
Tóm lại, từ Khả xuống Khôi, rồi Diệm, tinh thần phục vụ và lòng trung thành với Pháp khá vững chắc. Khôi từng nhờ Nhu nói với Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Paul Arnoux ngày 18/8/1944 tại Huế rằng Khôi ‘xin thề trên thập tự giá’ là lúc nào cũng coi Bảo hộ Pháp như ‘bát cơm’ [bol de riz] của họ Ngô. Khôi cũng thường nói với Diệm rằng sở dĩ người Pháp [Khâm sứ Emille Grandjean] không ưa vì ‘[họ Ngô] quá toàn vẹn,’ và ‘Phạm Quỳnh thì khôn khéo, nên được cả Pháp lẫn Nhật quảng cáo tài năng.’(16) Giám mục Ngô đình Thục, trong thư ngày 21/8/1944 gửi Toàn quyền Jean Decoux, tóm lược rõ ràng nhất công lao và lòng trung thành với Bảo hộ Pháp của họ Ngô cũng như cá nhân Diệm.
Dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp ‘yêu nước, chống Pháp’ của Diệm, là cuộc "đảo chính cung đình" ngày 2/5/1933. Ngày này, Toàn quyền Pierre Pasquier (12/1928-1/1934) và Quyền Khâm sứ Léon Thibaudeau (2/1933-7/1934) đột ngột bắt Bài và toàn bộ nội các về hưu. Việc này, theo báo Tiếng Dân, chấn động dư luận Huế. Bẽ bàng nhất cho Bài là ngay chính Bài cùng các Thượng thư không hề được báo trước. Và, khi Thibaudeau tuyên bố danh sách nội các mới, có Trần Thanh Đạt thông dịch qua tiếng Việt, một số người vẫn chưa kịp về đến kinh đô.
Nguyên Pasquier, với sự thỏa thuận của Albert Sarraut, quyết thực hiện một cuộc ‘đại cải cách’ ở An Nam, đánh bóng uy tín vua Nguyễn để làm giảm bớt và điều-kiện-hóa các phong trào quốc gia mới-như cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng năm 1930, và nhất là sự du nhập và phát triển của phong trào Cộng Sản từ giữa thập niên 1920, bùng nổ thành những cuộc bạo động, khủng bố tại các đồn điền miền Nam, cùng phong trào Sô Viết Nghệ Tĩnh trong hai năm 1930-1931. Pasquier và Thibaudeau đoạn tuyệt với nhóm hợp tác cựu trào (Nguyễn Hữu Bài, Ki-tô giáo). Nhóm này chủ trương đồng hóa và thống trị theo kế sách của Giám mục Paul Puginier và Louis Caspar-nhằm Ki-tô hóa các vua quan rồi khiến toàn thể dân Việt sẽ phải theo đạo, và vĩnh viễn trở thành ‘bạn của nước Pháp’. Từ thập niên 1890, nhóm hợp tác cựu trào trở thành một thứ kiêu binh của cái mà Phạm Quỳnh (1892-1945) cũng như Bảo Đại gọi là ‘một văn phòng phụ thuộc nho nhỏ của Tòa Khâm,’ tức triều đình Huế, lúc nào cũng mang công lao của khối giáo dân bản xứ trong việc thiết lập chế độ Bảo hộ ra áp lực Pháp. Ngựa mới của Pasquier là phe tân trào (tiêu biểu bằng Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác, Nguyễn Thái Bạt, Lê Dư, v.. v...). Phe này chủ trương hợp tác tinh thành, hay Pháp-Việt đề huề. Quan chức Pháp đã chọn phe tân trào, vì chủ trương hợp tác có nhiều triển vọng thành công trước sự lớn mạnh của các phong trào quốc gia mới. Trong khi đó, nhóm Quỳnh chấp nhận ‘tôn quân cũng là yêu nước,’ tạm ngưng lại đòi hỏi thể chế cộng hòa. Để làm giảm sự bi phẫn của nhóm cựu trào, Pasquier và Thibaudeau đặc cách Diệm-con nuôi của Bài [son fils putatif], cũng một trong hai Tuần vũ thanh liêm, chống Cộng nhiệt tình nhất-lên làm Thượng thư Bộ Lại.(17)
Một số mật báo viên ghi, và ngay chính Diệm man khai (ngày 24/12/1947 với Tổng lãnh sự Mỹ tại Hong Kong là George D. Hopper) rằng ‘Giệm’ được làm ‘quan đầu triều Bảo Đại.’(18) Thực ra, từ tháng 5/1933, Bộ Lại mất đi ảnh hưởng của những năm Bài được kiêm nhiệm chức Tổng lý [Chủ tịch Viện Cơ Mật], và chỉ ngang với các Bộ khác. Người có uy thế nhất là Phạm Quỳnh, Thượng thư Giáo dục kiêm Ngự tiền Tổng lý của Bảo Đại. Quỳnh không những chỉ chuyển lệnh của Toàn quyền và Khâm sứù Pháp cho Bảo Đại, mà còn đồng thời dịch, và thiết kế việc thực thi các lệnh trên, cùng báo cáo kết quả lên Khâm sứ.
Thibaudeau còn cử Diệm làm Tổng Thư ký Ủy ban Cải Cách, và yêu cầu Diệm làm tờ trình về kế hoạch canh tân Bộ Lại. Diệm, có lẽ do ảnh hưởng của Bài, đưa ra 2 điều kiện: Phải thống nhất Bắc và Trung Kỳ; tái bổ nhiệm một Tổng Trú sứ (Résident Général) cho Trung và Bắc Kỳ như đã qui định trong Hoà ước 6/6/1884; và, cho Viện Dân biểu quyền thảo luận.(19) Đề nghị này giống hệt kế hoạch của Bài: Muốn cải cách, việc đầu tiên phải hủy bỏ chức Thống sứ Hà Nội và Khâm sứ Huế (tức tái sát nhập Bắc Kỳ vào An Nam), sau đó cho An Nam ngân sách riêng. Nói cách khác, phải trở lại với Hiệp ước 6/6/1884-đòi hỏi mà Bài đã gieo xuống đầu óc thơ dại của Duy Tân từ năm 1915-1916, đưa đến việc vua bị truất phế rồi đầy qua Réunion cùng cựu hoàng Thành Thái (Bửu Lân) vào cuối năm 1916. Pasquier, dĩ nhiên, không chấp thuận. Ngày 9/7/1933, Diệm ra Quảng Trị ở với cha nuôi ít ngày. Trở lại Huế, ngày 12/7, Diệm nạp cho Thibaudeau một bản sao đơn từ chức đã trình lên Bảo Đại. Lý do Diệm nêu ra là cơ cấu tổ chức hiện tại không phù hợp với Hiệp ước 6/6/1884-Hiệp ước này qui định Pháp chỉ giữ một chế độ bảo hộ kiểm soát (protectorat de contrôle) mà không phải bảo hộ trực tiếp (protectorat direct).(20)
Thibaudeau gọi Bảo Đại từ Đà Lạt về Huế giải quyết. Bảo Đại bảo thẳng Diệm rằng không thể viện dẫn lý do chính trị để từ chức, vì đó là hành động phản nghịch. Diệm đành viết lại đơn từ chức khác ngày 18/7, nêu lý do muốn dành thì giờ cho việc tu hành. Lần này, Diệm được toại ý. Ngày 22/7, Thibaudeau đổi Thái Văn Toản qua thay Diệm nắm bộ Lại, và đưa Tôn Thất Quảng, Tổng đốc Thanh Hóa, mới lập công lớn trong việc đàn áp đẫm máu tại các tỉnh Bắc An Nam, lên nắm Bộ Công và Nghi Lễ thay Toản.(21)
Ngay sau ngày Bài bị cách chức, vài tờ báo Nam Kỳ công khai đả kích Pasquier. Theo một mật báo viên (Luật sư Lê Văn Kim), những bài đả kích trên từ Huế chuyển vào Sài Gòn. Tháng 12/1933, Diệm còn vào Sài Gòn gặp Nguyễn Phan Long, Lê Văn Kim, Jacques Lê Văn Đức v..v... bàn thảo kế hoạch trả thù Pasquier và Thibaudeau. Tiếp đó, tờ La Tribune indochinoise [Diễn đàn Đông Dương] và tờ La Lanterne ở Paris mở chiến dịch đòi thay Pasquier bằng cựu Toàn quyền Alexandre Varenne (7/1925-11/1927) và đưa cựu Khâm sứ Yves Châtel (6/1931-2/1933) trở lại Huế.
Biết được tin này, Pasquier truất hết chức tước của Bài, Diệm và Pierre Nguyễn Đệ, Bí thư riêng của Bảo Đại, thuộc một gia đình trung gian bản xứ Ki-tô nổi danh khác ở miền Bắc (Án sát Nguyễn Liên). Diệm còn bị trục xuất khỏi Huế, chỉ định cư trú tại Quảng Bình.(22)
May mắn cho Diệm, ngày 15/1/1934, Pasquier chết vì tai nạn máy bay trên không phận Paris. Năm sau, Bài chết tại Quảng Trị. Toàn quyền René Robin (7/1934-1/1937) và Khâm sứ Maurice Graffeuil (7/1934-5/1936, 4/1937-8/1941) phục hồi tước vị hàm [honoraire] cho Bài, Diệm và Đệ. Diệm được về Huế dạy trường Providence [Thiên hựu] do Linh mục Ngô đình Thục, �anh trai� Diệm, làm Giám học.(23)
III. HỢP TÁC VỚI NHẬT:
Thế chiến thứ hai (1939-1945) và việc Nhật xâm chiếm Đông Dương từ hai năm 1940-1941 khiến Diệm và họ Ngô, do tham vọng và ý muốn phục thù Pháp, đi tìm một bát cơm hay thiên mệnh ngoại cường khác. Họ Ngô bí mật yểm trợ Hoàng thân Cường Để và từ năm 1942, công khai hợp tác với Hiến binh Nhật (Kempeitai). Huân, con trai lớn của Khôi, làm thông ngôn cho Nhật. Trong khi đó, Ngô đình Nhu (1910-1963) che chở cho hai con Cường Để, Tráng Đinh và Tráng Liệt, tại văn khố Tòa Khâm sứ Huế. Những người thân Diệm cũng làm việc tại tòa Lãnh sự Nhật từ năm 1942. Đầu năm 1943, Y sĩ Trương Kế An, thủ lãnh Liên Đoàn Ái Quốc Việt Nam, gặp Diệm ở Hà Nội. Pierre Đệ, anh rể hụt của Ngô đình Nhu, cũng có mặt.(24)
Trong khi đó, Khôi cho Diệm dùng Dinh thự Tổng đốc Nam-Ngãi của mình để tiếp xúc với những cá nhân thân Nhật. Khôi còn che chở cho tín đồ Cao Đài (đang bị nghi ngờ thân Nhật, ủng hộ Cường Để) trong vùng cai trị. Mật thám Pháp cũng tìm thấy trong nhà một người cháu họ của Khôi ở Quảng Nam, Ngô Đình Dậu (?), tài liệu liên quan đến Việt Nam Phục Quốc Hội của Cường Để. Vì việc này, Khâm sứ Grandjean (6/1941-8/1944) chẳng những không hồi âm thư chúc mừng của Khôi, mà trong buổi gặp mặt trên đèo Hải Vân, còn bắt Khôi về hưu không được hàm Thượng thư. Tháng 1/1944, Grandjean còn cho lệnh Bảo Đại bí mật trục xuất Diệm khỏi Huế, chỉ định cư trú ở Quảng Bình. Anh em Diệm trút mọi hờn oán lên Quỳnh, đương kim Tổng lý [Tể tướng] triều đình.(25)
Mùa Hè 1944, Mật thám Pháp khám phá ra tổ chức Đại Việt Phục Hưng của Diệm, gồm khoảng 50 đảng viên tích cực, kể cả một số giáo sĩ; nằm ngay trong đội lính khố xanh (Garde indochinoise), cảnh sát, công chức, v..v... Một trong những lãnh tụ là Trần Văn Lý, Tuần vũ Hà Tĩnh.(26) Pháp bèn cho lệnh khám xét tư thất Diệm, nhưng Diệm đã sớm tẩu thoát.
Ngày 12/7, Trung úy Kuga Michio của Hiến binh Nhật bí mật đưa Diệm vào Đàø Nẵng, rồi đáp phi cơ vào Sài Gòn. Trong thời gian ở miền Nam, Diệm lui tới với Matsushita [Tùng Hạ] Mitsuhiro, Chủ công ty Dainan Koosi [Đại Nam hay Dainan Konsi], trưởng lưới tình báo dân sự của Nhật, cũng người tự nhận là bạn thân của Cường Để.(27)
Một tháng sau, ngày 12/8, Nguyễn Huy Tân, Cán sự Công chính ở Quảng Ngãi, một cán bộ của Diệm, khai rằng Nhật đã chọn Diệm làm Thủ tướng, trong một chế độ quân chủ lập hiến mà người làm vua không nhất thiết phải là Cường Đểå. Hai ngày sau, 14/8, Paul Arnoux, Giám đốc Cảnh Sát, được lệnh bí mật khai thác Ngô đình Nhu và Khôi ngay tại Huế. Ngày 18/8, Arnoux báo cáo rằng Ngô đình Nhu nhìn nhận việc làm tội lỗi của Diệm, nhưng Khôi không dính líu, xin ‘thề trên thập tự giá’ là chỉ muốn duy trì "bát cơm" Pháp.(28)
Ngày 20/8, vì tình hình Âu Châu đang rối loạn, phe ‘Pháp tự do’ của Charles de Gaulle đang tiến vào Paris, Decoux đồng ý với đề nghị của Arnoux là chỉ trừng trị những cán bộ hạng trung, tránh khiêu khích Nhật.
Trong khi đó, ngày 21/8, Ngô đình Thục -đã được thụ phong chức Giám mục Vĩnh Long từ năm 1938- viết thư xin Decoux nghĩ đến công lao hãn mã của cha mình với chính phủ Pháp trong việc ‘đánh dẹp phản loạn’ (tức những phong trào Văn Thân và Cần Vương kháng Pháp) khi xét xử Khôi và Diệm. Anh em họ Ngô, Ngô đình Thục nhấn mạnh, cũng đã nhiều lần dâng hiến thân tâm cho Bảo hộ Pháp, bất kể mạng sống. Chẳng hiểu vì công lao to lớn của Khả (đặc cách từ Thương biện Cơ Mật viện lên Thái thường tự khanh, năm 1896), vị thế Giám Mục của Ngô đình Thục, thành tích phục vụ Bảo hộ của anh em Diệm-Khôi, hay vì mối lo ngại cho sự an nguy chính bản thâân Decoux, Pháp không tiếp tục truy cứu việc này.(29)
Cuối năm 1944, đầu năm 1945, Diệm tá túc trong bệnh viện Chợ Quán, được trưng dụng làm trụ sở quân sự của Nhật, sau này đổi tên thành bệnh viện bài lao Hồng Bàng. Tại đây, Diệm cùng Y sĩ Nguyễn Xuân Chữ, Y sĩ Lê Toàn, Kỹ sư Vũ Văn An, Ký giả Vũ Đình Dy thành lập Ủy Ban Kiến Quốc, phò trợ Cường Để.(30)
Cuối năm 1944, khi chuẩn bị kế hoạch Mago để lật đổ chế độ thân Vichy Decoux, Hiến binh Nhật đã dự trù Diệm sẽ trở thành Thủ tướng. Tuy nhiên, tình hình ngày một đổi thay mau chóng. Tướng Tsuchihashi Yuitsu, Tân Tư lệnh Quân đoàn 38-lực lượng trách nhiệm phòng thủ Đông Dương chống lại cuộc đổ quân Đồng Minh-dồn mọi nỗ lực cho mục tiêu quân sự hơn chính trị. Bởi thế Tsuchihashi giữ Bảo Đại làm vua một nước Việt Nam ‘độc lập trong Khối thịnh vượng chung Đại Đông Á,’ chống việc đưa Cường Để về nước. Nhưng nước Việt Nam này trên thực tế chỉ bao gồm 12 tỉnh miền Trung, vì Nam Kỳ cũng như Bắc Kỳ được trù liệu sẽ trở thành hai trung tâm tử thủ chống lại sự đổ bộ của quân Đồøng Minh. Giám đốc Kempeitai yêu cầu phe Diệm-Chữ tham gia chính phủ độc lập tại Huế, nhưng cả hai đều từ chối.(31)
Tháng 3/1945, sau cuộc Hành quân Meigo (9-10/3/1945) loại bỏ Decoux, Bảo Đại hai lần nhờ Nhật mời Diệm làm Thủ tướng, nhưng không có hồi âm. Mãi sau này, Bảo Đại mới được Nhật thông báo rằng họ không muốn dùng Diệm.(32) Thay vào đó, tháng 4/1945, Trần Trọng Kim (1883-1952) được đưa từ Krung thêp về Huế làm Tổng lý nội các [Thủ tướng] ‘Đế quốc Việt Nam’ (4-8/1945).(33)
Thực ra, nhóm Diệm-Chữ đã bị phân tán ra khắp ba miền. Y sĩ Chữ về lại Nam Định, rồi Hà Nội, và cuối cùng trở thành Chủ tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Chính trị miền Bắc, thay Khâm sai Phan Kế Toại từ chức vào giữa tháng 8/1945. Diệm về lại Vĩnh Long, tá túc trong giáo phận của Giám mục Ngô đình Thục.(34)
IV. DIỆM & VIỆT MINH:
Mặc dù sau này Ngô Đình Diệm thường tuyên bố tại Việt Nam chỉ nổi danh thua Hồ Chí Minh [the best known figure after Ho Chi Minh], khoảng thời gian từ tháng 8/1945 tới đầu năm 1947 là một giai đoạn bí mật nhất đời Diệm.
Như chúng ta đã biết, ngày 19/8/1945, Việt Minh lên nắm chính quyền ở Hà Nội.(35) Ngày 25/8, Bảo Đại ra thông cáo thoái vị. Khôi và con trai trưởng là Huân bị Việt Minh bắt, rồi thủ tiêu ở vùng Phong Điền, Thừa Thiên.(36) Riêng Diệm và Ngô đình Thục đều có tin bị Việt Minh bắt. Ngô đình Thục, thực ra được tự do sống ở vùng Vĩnh Long, dưới sự che chở của Nguyễn Văn Nguyễn. Tháng 10/1945, Ngô đình Thục định ra Bắc, nhưng bị quân Bri-tên chặn bắt ở Biên Hòa, rồi đưa về lại giáo phận Vĩnh Long.
Phần Diệm, tông tích bất minh. Ngày 7/5/1953, trong buổi ăn trưa và thảo luận [lunch talk] về tình hình Đông Dương tại Tối Cao Pháp Viện Mỹ, Diệm tuyên bố từng bị Hồ "cô lập" trong một làng thiểu số năm 1946. Sau 6 tháng, Hồ yêu cầu Diệm tham gia chính phủ, nhưng Diệm trả lời rằng vì biết Hồ là CS, Diệm muốn được toàn quyền và thông báo mọi tin tức. Những người ủng hộ Diệm đòi Diệm phải được giao Bộ Nội Vụ và nắm ngành Cảnh Sát. Hồ do dự ít tuần, rồi cuối cùng từ chối.(37) Gần một thập niên sau, ngày 16/1/1962, Diệm còn lập lại chi tiết bị bắt giữ ở vùng thượng du Bắc Việt với các viên chức Mỹ tại Sài Gòn.(38)
Diệm còn tuyên bố với một ký giả Bri-tên rằng Diệm bị Việt Minh bắt vào tháng 9/1945, khi từ Sài Gòn ra Huế ngăn Bảo Đại đừng theo Hồ. Sau đó, bị giải lên thượng du gần biên giới Hoa-Việt, suýt chết vì bệnh sốt rét. Sáu tháng sau, HCM mang Diệm về Hà Nội, thuyết phục Diệm theo mình. Diệm không đồng ý, HCM bèn thả Diệm. Sau này, Hoàng Tùng cho rằng tha Diệm là một sai lầm.(39)
Việc Diệm bị Việt Minh bắt được nhiều nguồn tin khác xác nhận. Hạ tuần tháng 11/1945, Giám mục Ngô đình Thục khai với Pháp rằng Khôi và Diệm đã bị Việt Minh bắt và có thể đã bị xử bắn.(40) Ngày 28/12/1945, Tổng Giám mục Antonin Drapier cũng viết cho Trưởng đoàn Truyền giáo Hải ngoại Pháp ở Sài Gòn, rằng Diệm đã bị Việt Minh bắt.(41)
Một nguồn tin khác nữa ghi vào khoảng tháng 6/1946, khi Diệm đến ở nhà Linh mục Độä, chính xứ Tuy Hoà, cán bộ VM đã "khéo léo" mời được Diệm lên miền Thượng (Mọi). Người gia nhân thoát chạy ra Phát Diệm, xin Giám mục Lê Hữu Từ giúp, sợ bị giống như Khôi. Từ bèn cùng Linh mục Phạm Quang Hàm và Dân biểu Ngô Tử Ha vào Bắc bộ phủ xin Hồ tha Diệm. Chính Hồ cũng không biết việc này, và hứa sẽ can thiệp. Khoảng một tháng sau, Diệm về tới Hà Nội, Võ Nguyên Giáp cho gọi Ngô đình Nhu tới lĩnh về.(42)
Những chi tiết quanh việc Diệm bị Việt Minh bắt có nhiều nghi vấn:
1. Xét về ngày tháng Diệm bị bắt, có phần không ổn.
a. Karnow dẫn lời Diệm là Diệm bị bắt vào tháng 9/1945. Sáu tháng sau, được tự do. Vậy, tức vào khoảng tháng 3 hoặc tháng 4/1946. Tiểu sử Diệm, do Bộ Ngoại giao Mỹ soạn thảo ngày 18/4/1957 cũng ghi tương tự.
b. Ngày tháng mà Từ hoặc tác giả viết hồi ký cho Từ ghi là Diệm bị bắt đúng vào giai đoạn HCM đang ở Pháp, và mãi tới ngày 22/10/1946 Hồ mới về tới Hà Nội. Vậy Từ can thiệp vào dịp nào? (Diệm cũng không hề nhắc đến việc được Từ và Hạ can thiệp).
c. Ngay chính Diệm, ngày 7/5/1953, chỉ nói mơ hồ đã bị "cô lập" tại một làng thiểu số trong 6 tháng vào năm 1946.
2. Không ai rõ Diệm được tha vào ngày tháng nào, và cũng chẳng ai rõ hành tung Diệm từ lúc được tự do tới khi xuất hiện ở Hà Nội vào đầu năm 1947 trong bộ đồ tu hành.
3. Theo thư gửi Decoux đề ngày 21/8/1944, Ngô đình Thục nói Cộng Sản từng sai một tên giết mướn người Hoa ra Phan Rang mưu sát Diệm, nhưng Diệm chỉ bị thương. Nếu bắt được Diệm năm 1945 hoặc 1946, ngay tại miền Trung, cách nào Cộng Sản tha Diệm?
4. Anh em Diệm rất thành thạo trong thủ thuật tự đánh bóng tên tuổi họ Ngô (kiểu Diệm ‘làm Tể tướng cho Bảo Đại,’ Khả làm ‘thượng thư đầu triều Thành Thái,’ hay ‘đầy vua không Khả’). Thành tích ‘bị giam lỏng’ tại miền thượng du năm 1946, hay đòi Hồ Chí Minh cho nắm Bộ Nội vụ có thể chỉ để tăng vốn thêm cho việc rao bán lập trường chống Cộng hầu xin viện trợ Mỹ của Diệm. Hy vọng sẽ có dấu vết việc bị ‘cô lập’ này trong văn khố Đảng Cộng Sản Việt Nam hay Pháp.
Cho tới khi có tài liệu rõ ràng, có thểõ tin Diệm đã trốn trong nhà tu [Redemptoristes hay Dòng Cứu thế] ở Huế như tài liệu văn khố Pháp ghi nhận.
V. DIỆM & BẢO ĐẠI: ‘THÀNH PHẦN THỨ BA’
Đầu năm 1947, Diệm xuất hiện ở Hà Nội, ngụy trang như một tu sĩ dòng Cứu Thế. Được Pháp yêu cầu lập chính phủ chống Cộng, Diệm đưa ra một kế hoạch không thể chấp nhận được, tức thống nhất ba miền, có quân đội riêng và nhiều quyền tự trị hơn. Diệm còn gặp Tổng lãnh sự Mỹ Charles Reed tại Hà Nội. Trong thời gian ở Hà Nội, ngụ tại tu viện dòng Cứu Thế Canada ở Thái Hà ấp. Ngày 11/4/1947, Diệm trở lại Sài Gòn. Ngày 5/9/1947, lại trở ra Hà Nội.
A. ‘THÍ NGHIỆM’ BẢO ĐẠI:
Thời gian này, ‘thí nghiệm’ Bảo Đại bắt đầu thành hình. Thí nghiệm này nhằm ngụy trang cuộc tái xâm lăng Việt Nam mà chính phủ Charles de Gaulle đã phát động từ năm 1944-1945.(43)
Từ mùa Hè 1945, sau khi Nhật lật đổ chính phủ thân Vichy của Decoux, de Gaulle đã nỗ lực tìm một ‘chí sĩ quốc gia Việt Nam chân chính’ để cầm cờ dẫn Pháp trở lại Đông Dương. Ứng cử viên được nhiều người biết nhất là Hoàng tử Vĩnh San (1900-1945), tức cựu hoàng Duy Tân (1907-1916), đã bị truất phế và đầy qua Réunion năm 1916. Tai nạn phi cơ ngày 26/12/1945 khiến ‘lá bài bí mật’ của phe de Gaulle ‘tan biến như một giấc mơ đẹp.’ Hai ngày sau, 28/12, Tổng Giám mục Drapier, Khâm sứ Vatican, trình lên Cao ủy/Linh mục Georges Thierry d'Argenlieu (1945-1947) kế hoạch cho Bảo Đại lên ngôi như trước ngày 9/3; rồi lập Hoàng tử Bảo Long làm vua, Hoàng hậu Nam Phương nhiếp chính, với Diệm làm Thủ tướng.(44) Tuy nhiên, d'Argenlieu không đồng ý, và cũng không hài lòng việc Drapier xen lấn vào thế quyền.
Một số chính khách, lãnh tụ giáo phái Việt cũng xúc tiến thực hiện "giải pháp" Bảo Đại từ cuối năm 1945, đầu năm 1946. Người đầu tiên đưa ra ý kiến này là tân Giám Mục Lê Hữu Từ. Nhân dịp Bảo Đại về Phát Diệm dự lễ tấn phong của Từ, Từ hỏi Bảo Đại có mưu tính gì chăng; nhưng Bảo Đại không có phản ứng tích cực. Cựu Thủ tướng Kim và đảng viên trẻ Đại Việt, kể cả Đỗ Đình Đạo v.. v..., cũng tìm thấy ở Bảo Đại sự lãnh đạo, hoặc ít nữa sự chính thống [legality hay legitimacy] cần thiết, để chống Hồ.(45) Việt Nam Quốc Dân Đảng [VNQDĐ] và Trung Hoa Quốc Dân Đảng [THQDĐ] cũng ít nhiều tiếp tay Bảo Đại rời Hà Nội vào trung tuần tháng 3/1946.
Mãi tới sau cái chết của Nguyễn Văn Thinh ngày 10/11/1946 và sự khủng hoảng của thí nghiệm ‘Cộng Hoà Nam Kỳ tự trị’ -nhất là sau cuộc tấn công của Việt Minh tối 19/12/1946 trên khắp miền Bắc vĩ tuyến 16- vai trò Bảo Đại mới sáng giá hơn. Nước Pháp lúc này đứng trước một ngã ba đường. Một, tiếp tục thương thuyết với Việt Minh, hầu tìm một giải pháp chính trị. Nẻo đường khác, là đoạn tuyệt với chính phủ "ương ngạnh" [intransigence] của Hồ, đi tìm một "chí sĩ quốc gia" chấp nhận thoả hiệp với Pháp. Hầu hết các cấp lãnh đạo Pháp-từ Bộ trưởng Pháp quốc Hải ngoại Marius Moutet cho tới đặc sứ Philippe Leclerc de Hautecloque (1902-1947)-đều nghĩ rằng đã đến lúc đoạn tuyệt với Hồ. Léon Pignon, Cố vấn Chính trị của d'Argenlieu, ủng hộ Bảo Đại nồng nhiệt nhấtø. Do Pignon tiến cử, ngày 14/1/1947, d'Argenlieu báo cáo mật về kế hoạch tái sử dụng Bảo Đại.(46) Moutet không chấp thuận.(47) Thủ tướng Léon Blum (12/1946-1/1947) cũng không tán thành, nhưng chuyển kế hoạch này cho người kế vị là Paul Ramadier (1947). Dẫu vậy, d'Argenlieu vẫn gửi nhân viên Mật thám Cousseau qua Hong Kong để liên lạc với Bảo Đại vào khoảng đầu năm 1947.
Sự thành hình của chính phủ Ramadier ngày 21/1/1947, và quyết định thay d'Argenlieu bằng Dân biểu Emile Bollaert ngày 5/3/1947 mang lại một không khí mới. Viên chức Pháp nghĩ đến một chính phủ Liên bang Việt Nam, với ba chính phủ địa phương tại ba kỳ, và một chính phủ trung ương tượng trưng sự thống nhất lãnh thổ. Vấn đề đặt ra là ai sẽ cầm đầu chính phủ trung ương đó. Hồ Chí Minh và Bảo Đại trở thành hai tâm điểm của các cuộc thảo luận.
Một số chính khách Pháp nghĩ rằng phải nối lại thương thuyết với Hồ. Theo họ, dù Hồ và các thuộc hạ thân tín là Cộng Sản, đa số cấp lãnh đạo Việt Minh chỉ là những người yêu nước. Hơn nữa, Hồ và các thuộc hạ có khả năng nhất.(48) Một số khác chủ trương loại bỏ Hồ, thương thuyết với Bảo Đại. Theo họ, Bảo Đại có một số người theo ở Trung Kỳ; và được sự ủng hộ hoặc chấp thuận của nhiều nhân vật có uy tín tại Bắc cũng như Nam Kỳ.(49)
Ngày 1/4/1947 tân Cao Ủy Bollaert tới Sài Gòn với lệnh tái thiết lập những guồng máy cũ, nhưng đừng để lộ ra là Pháp muốn tái lập nền quân chủ.
Thời gian này, Bảo Đại sống ẩn dật tại Hong Kong. Rời Hà Nội qua Nam Kinh ngày 16/3/1946 trong phái đoàn viếng thăm thân hữu Trung Hoa, nhưng đến ngày trở về, Bảo Đại nhận được thư Hồ khuyên nên du lịch thêm một thời gian. Cựu hoàng bèn sang Hong Kong, sống tại đây với một vũ nữ, dưới một tên giả trong khách sạn Saint Francis Hotel. Mùa Thu 1946, Bảo Đại tuyên bố với một ký giả Pháp, Jacques Sallebert, là với cựu hoàng, "chính trị đã chết." Bảo Đại cũng bày tỏ lòng kính phục Chủ tịch Hồ, và tiết lộ rằng sự thoái vị của mình là chiều theo ý dân.(50)
Nhưng nhiều cá nhân và lãnh tụ các đảng phái chống Cộng vẫn tìm đến, lôi kéo Bảo Đại khỏi cảnh huống "về hưu" non ở tuổi 33. Trong số này có Nguyễn Tường Tam, Vũ Kim Thành, Trần Trọng Kim v.. v... Vào cuối năm 1946, đầu năm 1947, số người ủng hộ Bảo Đại được tăng cường thêm Hộ pháp của Cao Đài. Mới hồi hương vào tháng 8/1946 sau gần 5 năm lưu đầy, Phạm Công Tắc chủ trương hợp tác với Pháp để chống Cộng. Chính Tắc và Trần Quang Vinh, Tư lệnh lực lượng võ trang Cao Đài từ năm 1943, đã yểm trợ Y sĩ Lê Văn Hoạch lên cầm đầu chính phủ Nam Kỳ tự trị sau cái chết của Y sĩ Thinh ngày 10/11/1946, hầu loại bỏ Trần Văn Tỷ. Cuộc tổng tấn công ngày 19/12/1946 của Hồ giúp Tắc mạnh bạo hơn. Ngày 1/1/1947, nhân dịp Bộ trưởng Moutet đang tham quan Đông Dương, Tắc yêu cầu Moutet đưa Bảo Đại về nước; và hứa sẽ ủng hộ Bảo Đại.(51)
Nhưng các chính phủ tại Paris-với sự tham dự của Đảng Cộng Sản Pháp-chưa muốn đoạn tuyệt với Hồ. Vì nhiều lý do, viên chức Pháp khẳng định vẫn muốn thương thuyết, nhưng đặt thêm một điều kiện căn bản-đó là thảo luận trên thế mạnh, không để bạo lực chi phối, và sau khi đã vãn hồi trật tự. Ngày 20/12/1946, khi ra trước Quốc Hội điều trần, và tuyên bố sẽ qua Đông Dương tham quan, Moutet đã nhấn mạnh:
Nước Pháp muốn hoà bình, tôn trọng những nguyên tắc đã tuyên bố, nhưng không chịu khuất phục trước bạo lực. Chính sách của Pháp là bảo vệ quyền lợi nước Pháp và làm cho những quyền lợi ấy được tôn trọng.(52)
Dù chỉ là một bình phong cho việc tái chiếm miền Bắc bằng võ lực, hay phát xuất từ lòng chân thành, những điều kiện tiên quyết này mở ra một câu hỏi then chốt-đó là thương thuyết với ai? Thêm vào đó, là giới hạn của những nhượng bộ Pháp có thể chấp thuận. Mặc dù bản tuyên cáo ngày 24/3/1945 qui định �năm xứ Đông Dương� của chính phủ de Gaulle đã bị các biến cố ở Việt Nam biến thành dĩ vãng, đa số giới lãnh đạo Pháp vẫn nhấn mạnh ở điểm Đông Dương phải là một thành phần của Khối Liên Hiệp Pháp [L'Union Francaise]; không thể thống nhất ba miền Bắc, Trung, Nam vì miền Nam là một thuộc địa, tức một phần lãnh thổ bất khả phân của Pháp như phần dẫn nhập của Hiến Pháp 1946 đã qui định; và, chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa [VNDCCH] của Hồ chỉ là một trong những phe phái mà người Pháp có thể thương thuyết.
Ngày 23/12/1946, Dân biểu André Mutter của hạt l'Aube-người từng yêu cầu bắt Hồ tại Paris sau khi hội nghị Fontainebleau đổ vỡ-tuyên bố không thể đàm phán với chính phủ Hồ được nữa vì đó là "bọn phản bội" [traitres]. Mutter nhấn mạnh:
Chúng ta không thể coi Hồ Chí Minh như đại diện của một tiểu bang tự do [Etat libre]; đó là một kẻ sát nhân [assassin].(53)
Sau khi tham quan Đông Dương về, tảng lờ nhữõng lời kêu gọi tái thương thuyết của Hồ, ngày 18/3/1947, Moutet khẳng định không thể nói chuyện với Hồ nữa, vì Hồ không những chỉ coi việc ký Hiệp ước như một phương tiện tranh đấu; mà còn chủ trương bạo động.(54)
Mặc dù vẫn còn những người như Pierre Cot chưa dứt khoát-đề nghị đừng nên qui lỗi cho một phe nào-phe cực hữu ngày thêm mạnh. Ngày 13/4/1947, Paul Reynaud tuyên bố trước Quốc Hội Pháp:
Hồ Chí Minh là một tên tội phạm [un criminel] và không thể thương thuyết với hắn; hoặc hắn đã bị điều khiển [manoeuvré] và tự chứng tỏ thiếu khả năng để bắt chính quân đội của mình tuân lệnh, vậy thì, đó là kẻ thiếu khả năng và cũng chẳng nên thương thuyết với hắn nữa.(55)
Hôm sau, 14/4, Dân biểu Maurice Violette còn đi xa hơn, khẳng định: "Tinh thần quốc gia ở Việt Nam là phương tiện; cứu cánh là thực dân Liên Sô."(56)
Lời cáo buộc này khiến phe Cộng Sản Pháp, kể cả Marcel Cachin, cực lực phản đối. Ramadier phải công nhận cho tới thời điểm đó, Liên Sô hoàn toàn trung lập. Nhưng từ ngày này, dù công khai hay phía sau hậu trường, các viên chức Pháp, vì những lý do dễ hiểu, không ngừng tố cáo nguồn gốc Quốc Tế Cộng Sản [QTCS] của Hồ.(57)
Phe cổ võ cắt đứt thương thuyết với Hồ còn đưa ra thêm một lý do khác là từ ngày 19/12/1946, chưa ai gặp được Hồ. Sự biến dạng này khiến không thể không hoài nghi rằng Hồ đã chết; và, những phần tử quá khích như Võ Nguyên Giáp cùng Hạ Bá Cang (Quận thọt) đang chi phối Tổng bộ Việt Minh. Những văn thư ký tên Hồ gửi cho Pháp trong những tháng cuối năm 1946, đầu năm 1947-kể cả bản kiến nghị do Trần Ngọc Ranh trao cho Pháp tại Paris vào tháng 2/1947-bị coi là đã giả mạo chữ ký Hồ.(58)
Song song với chiến dịch hạ uy tín Hồ là việc tách rời Hồ khỏi khối đại đa số người Việt yêu nước. Ramadier, khi ra thuyết trình trước Quốc Hội vào tháng 2/1947, đã mở đầu cho khuynh hướng này. Tiếp đó, Moutet khẳng định Hiệp ước sơ bộ 6/3/1946 đã được ký kết với một chính phủ liên hiệp Việt Nam, mà không phải với cá nhân Hồ.
B. SỨ MỆNH CAO ỦY BOLLAERT:
Để đánh dấu sự thay đổi chính sách của mình, Ramadier quyết định thay Linh mục/Cao ủy d'Argenlieu vì d'Argenlieu bị chỉ trích là còn nặng đầu óc thực dân; và vì d'Argenlieu có những khó khăn trong việc liên hệ với những người mà ông ta phải làm việc chung. D'Argenlieu không chịu từ chức, muốn níu giữ Đông Dương chờ ngày de Gaulle-mới đột ngột từ chức ngày 24/12/1945-trở lại chính quyền. Ramadier chẳng còn cách nào khác hơn cách chức d'Argenlieu.
Bài diễn văn được coi như bản tuyên bố chiến tranh lạnh của Tổng thống Harry Truman (1945-1953) ngày 12/3/1947 và kế hoạch viện trợ tái thiết Tây Âu ít tháng sau của Ngoại trưởng George C. Marshall-được biết như ‘Kế hoạch Marshall’- khiến chính phủ Ramadier nghiêng về phía loại bỏ Hồ, ‘một cán bộ QTCS.’ Tuy nhiên, dự định của Paris nhằm biến hoá cuộc tái xâm lăng Việt Nam thành một điểm nổ của cuộc chiến tranh lạnh Tư Bản-Cộng Sản (1947-1991)-hầu xin được viện trợ Mỹ và thiết lập chính nghĩa mới -không đạt được tốc độ mong muốn. Oat-shinh-tân, dù không muốn thấy �một chế độ tay sai của Mat-scơ-va thống trị bán đảo Đông Dương,� và cũng không muốn bị mang tiếng ủng hộ Pháp tái thiết lập chế độ thuộc địa kiểu tiền chiến tại thuộc địa này, chỉ khuyên Pháp nên tìm ra một "chí sĩ quốc gia chân chính" lên cầm đầu cuộc chiến chống Cộng. Bởi thế, suốt năm 1947, Bollaert gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm một giải pháp cho Việt Nam.
Dẫu vậy, Bollaert đặt xuống những nền tảng cho việc thực thi thí nghiệm Bảo Đại. Giai đoạn đầu là những bước ngoại giao để loại bỏ Hồ.
Nguyên từ cuối tháng 12/1946, đầu tháng 1/1947, Hồ nhiều lần xin nối lại thương thuyết. Ngày 20/2/1947, ít tuần trước ngày Đại Hội Các Quốc Gia Á Châu tại New Dehli, Đài Việt Minh công bố một lá thư của Hồ gửi Ramadier và Moutet, kêu gọi thương thuyết. Việt Minh cũng nhờ đại diện Hồng Thập Tự Quốc Tế chuyển cho Lãnh sự Bri-tên một lá thư nghị hoà, nhưng viên chức Pháp ở Paris đều nói không nhận được. Mãi tới ngày 26/3, viên chức Ngoại giao Pháp mới nói với Đại sứ Mỹ Caffery là nhận được thư này, nhưng không ai dám khẳng quyết Hồ còn sống.(59)
Cũng ngày này, tân Bộ trưởng Ngoại giao Hoàng Minh Giám khẳng định muốn ‘độc lập trong Liên Hiệp Pháp.’ Ngày 18/4/1947, Giám nhờ Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế chuyển cho Miguel de Pereyra, tân Ủy viên Cộng Hoà Bắc Việt, một công hàm yêu cầu ngưng bắn tức khắc và nối lại thương thuyết.(60) Hôm sau, 19/4, Giám lại tuyên bố sẵn sàng điều đình, nhưng vì Pháp đòi Việt Minh phải nộp 50% khí giới, phóng thích tù binh Pháp, VM không chịu, vì như thế là đầu hàng.
Việt Minh còn cử Thứ trưởng Ngoại Giao Phạm Ngọc Thạch tới Bangkok và các nước Đông Nam Á để vận động. Thạch hai lần bí mật tiếp xúc Tùy viên Quân sự Toà Đại sứ Mỹ ở Bangkok, Trung tá William Law, trao cho Mỹ một số văn kiện, nhưng không đạt kết quả nào.(61)
Tháng 5/1947, Bollaert cử Paul Mus, cố vấn kinh tế, tìm cách liên lạc với Giám. Ngày 9/5, Mus gặp Giám ở Cầu Đuống, rồi được dẫn đi gặp Hồ ngay tại tỉnh lỵ Thái Nguyên. Tuy nhiên, khi nghe Mus đọc thuộc lòng các điều kiện của Bollaert-tức Việt Minh phải buông súng đầu hàng-Hồ chẳng có lựa chọn nào khác hơn từ chối.(62)
Bollaert cũng xúc tiến mạnh hơn việc thành lập các cơ cấu hành chính lâm thời tại các vùng chiếm đóng. Khởi đi từ Ủy Ban Chấp Chánh Lâm Thời [Comité administratif provisoire] ở Huế (12/4/1947) và Hội đồng An Dân Bắc Việt [Comité provisoire de gestion administrative et d'action sociale] ở Hà Nội (19/5/1947), các ủy ban hay hội đồng hàng tỉnh, hàng quận tiếp tục được thiết lập.
Trong hai tháng cuối Xuân, đầu Hạ 1947, Hồ lại mở chiến dịch kêu gọi thương thuyết. Ngày 19/6, Hồ tuyên bố muốn được độc lập trong Liên Hiệp Pháp. Một tháng sau, ngày 19/7, Hồ cải tổ chính phủ. Hai nhân vật "ôn hoà"-Hoàng Minh Giám và Tạ Quang Bửu, rất thân thiết với Võ Nguyên Giáp-lên nắm Bộ Ngoại Giao và Quốc Phòng. Chu Bá Phượng, một lãnh tụ VNQDĐ vẫn được "nắm" chức Cứu tế, Xã hội (dù trên thực tế đang bị giam lỏng). Nguyễn Văn Tố, Đặng Văn Hướng, Bồ Xuân Luật là ba Bộ trưởng không bộ nào. Vũ Đình Tụng, Bộ trưởng Cựu Chiến binh, và Ngô Tử Hạ, Thứ trưởng Cựu Chiến binh, đại biểu Giáo dân Ki-tô. Tôn Đức Thắng mất chức Bộ trưởng Nội Vụ; Giáp lên chức Tổng Tư lệnh Quân đội.(63)
Giới ngoại giao ghi nhận việc cải tổ chính phủ này như một nỗ lực của Hồ để nối lại thương thuyết. Tuy nhiên, khi trở lại Paris ngày 29/7, Mus tuyên bố khó thể có hoà bình vì cả hai bên đều không tin nhau. Thực ra, Bollaert vốn có ý định cắt đứt liên hệ với Hồ; và bí mật thương thuyết với Bảo Đại cùng các phe phái chống Cộng. Mus là một trong những đặc sứ, nhưng quan trọng nhất vẫn là Cousseau, nhân viên tình báo có nhiệm vụ kiểm soát và nuôi dưỡng Bảo Đại trong cảnh lưu vong. Nhưng ông vua cuối nhà Nguyễn, người được Đại diện Vatican ca ngợi như thân Pháp nhất tại Việt Nam, đã phần nào thay đổi.(64)
Bảo Đại, và nhất là những cộng sự viên buổi đầu như Kim, Thành, Diệm, Sâm mới trải qua một cơn sốt váng vất độc lập, thống nhất-và, phần nào vì mặc cảm-đòi hỏi Pháp nhân nhượng nhiều hơn những gì đã nhân nhượng với Hồ. Gặp Cousseau ở Hong Kong vào tháng 1/1947, chẳng hạn, Kim đưa ra 7 điều kiện để hợp tác: 1/ thống nhất 3 kỳ; 2/ tự trị; 3/ định rõ vị trí của VN trong Liên Hiệp Pháp; 4/ VN phải có quân đội; 5/ VN phải có cơ cấu tài chính; 6/ Pháp nên định một hạn kỳ trao trả độc lập cho VN; 7/ VN có đại biểu ngoại giao với các nước Á Đông và buôn bán với các nước khác.(65)
Tuy nhiên, người Pháp không chịu nhượng bộ ngay. Quá tự tin ở sức mạnh quân sự-ít nữa đủ sức đánh tan quân đội chính qui Việt Minh-ai nấy hy vọng chiến thắng không xa. Tình hình quân sự những tháng đầu năm 1947 phần nào thắp sáng ngọn lửa lạc quan. Ngày 17/2/1947, bộ đội Việt Minh rút khỏi Hà Nội. Gần một tháng sau, ngày 11/3, Pháp làm chủ tình hình Nam Định. Tại miền Trung, Pháp tái chiếm Hội An [Faifo] ngày 15/3, Quảng Nam ngày 16/3; rồi đổ bộ Đồng Hới ngày 27/3. Riêng Hòa Bình, ngày 15/4 Pháp làm chủ được tình thế. Bởi thế, Bollaert và cố vấn tìm cách kéo dài thời gian, chờ đợi kết quả chiến dịch mùa khô 1947-một chiến dịch mà Tướng lãnh Pháp tin tưởng sẽ bẻ gãy xương sống quân đội Việt Minh. Để chuẩn bị cho chiến dịch này, ngày 16/5 Bollaert cử Tướng Raoul Salan-một nhân vật quen thuộc với Đông Dương, từng tham gia cuộc thương thuyết với Trung Hoa và Hồ năm 1946-làm Tư lệnh miền Bắc. Viện binh Pháp cũng lục tục kéo tới, nhiều nhất là lính Lê-dương [Légions étrangères] gốc Đông Âu và lính da đen Phi Châu.
Bollaert cũng cho cải tổ những chính phủ "Tề" tại miền Bắc và miền Trung. Ngày 19/5/1947, Y sĩ Trương Đình Tri-nguyên Bộ trưởng Y tế trong chính phủ Liên Hiệp 2/3/1946 của Hồ-được cử làm Chủ tịch Hội Đồng An Dân Bắc Việt. Tại miền Trung, Trần Văn Lý cầm đầu Ủy ban Chấp Chính Lâm Thời Trung Kỳ. Nguyễn Khoa Toàn, Tỉnh trưởng Thừa Thiên từ năm 1946, nắm Hội đồng Thẩm nghị [Tư vấn] Trung Kỳ. Tại miền Nam, mặc dù coi chính phủ Lê Văn Hoạch là gánh nặng của mình, Bollaert biến hoá dần sản phẩm của nhóm Gaullist này. Ngày 19/5, Bollaert trả Dinh Thống Đốc cho Hoạch. Đồng thời, áp lực Hoạch cải tổ chính phủ và tách biệt dần khỏi khuynh hướng tự trị.
Trong năm 1947 cũng có nhiều nỗ lực kết hợp các đảng phái Việt Nam đang tập trung tại vùng "Tề." Ngày 17/2, Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhứt Toàn Quốc (Front d'Union Nationale du Viet-Nam, hay MTQGTNTQ) -hậu thân của Mặt Trận Thống Nhứt Toàn Dân-chính thức thành lập, qui tụ các đảng viên Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng, Việt Nam Quốc Gia Độc Lập Đảng, Việt Nam Quốc Gia Thanh Niên Đoàn, Cao Đài, Đoàn Thể Dân chúng, và Liên Đoàn Công Giáo.(66) Ngày 29/3, MTQGTNTQ ra Tuyên Cáo tại Hong Kong. Theo tuyên cáo này, mục tiêu của Mặt trận là thống nhất tất cả các tổ chức cách mạng, đảng phái chính trị, đoàn thể tôn giáo và xã hội để đấu tranh giành độc lập và thống nhất lãnh thổ, củng cố chế độ cộng hoà, dân chủ, hợp tác toàn diện với tất cả các quốc gia trên thế giới trên căn bản công bằng và tự do để vãn hồi trật tự thế giới. Về những biến cố ở Việt Nam, Mặt Trận khẳng định cuộc kháng chiến hơn một năm qua không phải là công trình của một đảng phái chính trị nào, mà là của toàn dân Việt. Mặt Trận cũng khẳng định chính phủ Hồ không còn được nhân dân tin tưởng và đã mất vị thế trong thế giới trong công cuộc tranh đấu dành độc lập. Bởi vậy, Mặt Trận ủng hộ cựu hoàng Bảo Đại Nguyễn Vĩnh Thụy để thành lập một chính phủ dân chủ thực sự.(67) Thế chống Cộng của các phe nhóm được tăng hơn nữa sau khi Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ (1917-1947) của đạo Hoà Hảo bị Việt Minh sát hại ngày 20/4/1947.
Tại miền Bắc, nhóm Đặng Vũ Lạc (1902-1948), Lê Thăng (1901-1987?), Đỗ Văn Năng (1915-1950) bắt đầu qui tụ các đảng viên Đại Việt và VNQDĐ, thành lập Đại Việt Quốc Dân Đảng hay Tân Đại Việt. Nhượng Tống Hoàng Phạm Trân cùng Ngô Thúc Địch và một số người khác tái tổ chức VNQDĐ.
Tại miền Trung, VNQDĐ và Đại Việt tái xây dựng tại vùng Tề. Tổ chức Đại Việt Phục Hưng của Diệm cũng hoạt động trở lại. Do Nguyễn Khoa Toàn đề xướng, Trần Văn Lý và Trần Thanh Đạt lập nên Việt Nam Quốc Gia Liên Hiệp làm cánh tay chính trị. Một nhân vật đang lên khác tại miền Trung là Phan Văn Giáo (1901-1963?). Giáo, một Dược sĩ Ki-tô gốc Ninh Hoà (Khánh Hòa) từng nổi danh là cây vợt tennis tên tuổi, bị Việt Minh bắt giữ vào tháng 8/1945 vì liên hệ với VNQDĐ, và lên án 6 năm khổ sai, tịch biên gia sản vào tháng 2/1946. Thoát ra Hà Nội tháng 11/1946, Giáo qua Hong Kong với Bảo Đại. Tháng 3/1947, được Bảo Đại ủy về nước vận động thành lập chế độ quân chủ lập hiến.
Tại miền Nam, các phe nhóm tự trị thay đổi lập trường, tuyên bố không chống đối việc thống nhất, miễn mỗi xứ vẫn có tự trị về kinh tế và chính trị. Những nhóm chống Cộng khác tổ chức biểu tình khắp nơi. Ngày 12/8, Huế biểu tình yêu cầu Bảo Đại về nước chấp chánh. Ngày 1/9 và rồi 14/9, biểu tình được tổ chức ở Sài Gòn.
Các viên chức vùng Tề khắp ba miền cũng tới tấp đi lại giữa Việt Nam và Hong Kong để "van xin" Bảo Đại đứng ra nhận trách nhiệm. Có những nỗ lực liên hiệp giữa Lê Văn Hoạch và MTQGTNTQ của Nguyễn Văn Sâm, sau khi Hộ Pháp Phạm công Tắc tuyên bố ủng hộ tổ chức này ngày 16/8. Điều kiện của Sâm là ghế Bộ trưởng Nội Vụ hoặc Quốc Phòng. Sau đó, MTQGTNTQ ủy Hoạch tiếp xúc Bảo Đại để cầm đầu phong trào quốc gia và thống nhất đất nước. Ngày 5/9, Bảo Đại tuyên bố muốn tiếp xúc với các lãnh tụ VN để bàn luận thời sự. Cùng ngày, dù không được mời, Sâm qua Hong Kong gặp Bảo Đại.
Ngày 9/9, Bảo Đại tiếp kiến 24 đại diện ba miền. Trong số những đại diện này có Nguyễn Văn Tâm, Bộ trưởng Quốc Phòng của chính phủ Hoạch. Bảo Đại tuyên bố sẽ đứng ra hoà giải các phe phái sau khi đã thương lượng với Pháp.(68)
Giới Ki-tô giáo cũng âm thầm yểm trợ thí nghiệm Bảo Đại. Từ đầu năm 1947, Giám mục Từ đã cho một số các chính khách chống Cộng vào ẩn náu tại Phát Diệm mà Hồ cho hưởng đặc ân tự trị. Vợ chồng Ngô đình Nhu và Trần Văn Chương cũng một thời tá túc tại đây, trước khi bí mật vào Nam, rồi cư ngụ ở Đà Lạt. Các chi nhánh Đại Việt Duy Dân, VNQDĐ và Đại Việt cũng bắt đầu được tái sinh. Trong khi đó, Từ mượn những chuyến thăm viếng giáo dân với danh nghĩa vận động kháng chiến chống Pháp để tuyên truyền Ngô đình Nhu cầu một cuộc thánh chiến chống Cộng. Tại giáo phận Vĩnh Long, Giám mục Ngô đình Thục cắt dần liên hệ với Việt Minh. Nhưng nhiệt tình chống Cộng hơn cả là các giáo mục tại vùng Bến Tre và Mỹ Tho. Họ công khai yểm trợ các đơn vị lưu động bảo vệ giáo xứ [UMDC] của Trung úy Jean Léon Leroy, thủ diễn vai trò ‘chính trị viên’ cho các binh sĩ thêu trước ngực hình thập tự giá. Tại các vùng Pháp mới tái lập kiểm soát như Kẻ Sặt (Hải Dương), Quảng Bình, Quảng Trị, Kontum, v.. v... nhiều đơn vị tự vệ của giáo dân Ki-tô cũng được tổ chức để chống Cộng. Pháp còn sử dụng các giáo sĩ Ki-tô để móc nối với những cộng đồng giáo dân tại các giáo phận Việt Minh kiểm soát. Khâm sứ Drapier không những ban phép lành cho phong trào thánh chiến này mà còn đẩy mạnh hơn vai trò Diệm và họ Ngô trong thí nghiệm Bảo Đại.(69)
Mặc dù có kẻ thù chung là Cộng Sản, các tổ chức chính trị và giáo phái không đạt được sự đoàn kết cần thiết. Màu sắc tôn giáo, địa phương chi phối nặng nề, khiến phần đông hữu danh vô thực. Nguy hiểm nhất là tệ nạn sứ quân.
Dĩ nhiên, phe Việt Minh không chịu bó tay. Đài phát thanh Việt Minh không ngừng đả kích những tên "Việt Gian" đang âm mưu lập nên một �chính phủ bù nhìn tay sai� chống lại chính phủ hợp pháp VNDCCH. Tại miền Nam, Nguyễn Bình (Nguyễn Phương Thảo) phát động chiến dịch khủng bố và ám sát. Đã có lúc, Việt Minh nghĩ đến việc gửi Phạm Khắc Hoè sang Hong Kong thuyết phục Bảo Đại. Và, khi công bố chính phủ đổi mới vào tháng 7/1947, Hồ vẫn liệt kê Bảo Đại như cố vấn tối cao.
Theo đúng kịch bản, ngày 10/9/1947, Bollaert đọc diễn văn lần thứ hai tại Hà Đông. Trong diễn văn này, Bollaert đưa ra khẩu hiệu mới là "Độc lập trong tương trợ [L'Indépendance dans l'interdépendance]." Mục đích chính không phải là hứa hẹn sẽ trao độc lập cho Việt Nam mà chỉ thỏa mãn đòi hỏi của người Việt bằng cách tạo một tiền lệ nhắc đến hai chữ "độc lập"-từ năm 1945, Pháp chưa hề nhắc đến hai chữ "quốc cấm" này, và chỉ có cặp Ramadier-Bollaert mới không sợ hãi chúng. Việc này sẽ chứng tỏ tinh thần "cấp tiến" của Paris.(70)
Những đề nghị của Bollaert cũng được cân nhắc sao cho Hồ không thể chấp nhận được; và như thế, tạo lý do chính đáng để phát động chiến dịch mùa khô 1947 sắp tới nhằm cắt đứt trục tiếp vận của Việt Minh từ Hoa Nam, tiêu diệt lực lượng võ trang Việt Minh, và bắt sống Hồ cùng những cán bộ lãnh đạo.(71)
Diễn văn của Bollaert cũng mở cửa cho Bảo Đại. Mặc dù chẳng trọng vọng gì cựu hoàng, Pháp miễn cưỡng chấp nhận cho Bảo Đại về nước cầm đầu một chính phủ thống nhất chống Cộng. Bollaert hy vọng rằng việc đả bại Việt Minh sẽ khiến Bảo Đại bớt cứng rắn trong những điều kiện hợp tác.(72)
Ngày 18/9-tức 4 ngày sau cuộc biểu tình rầm rộ ở Sài Gòn mời Bảo Đại về nước-Bảo Đại ra tuyên cáo chấp nhận sự ủy thác của quốc dân và sẵn sàng thương thuyết. Ngày 20/9, cựu hoàng nói sẵn sàng gặp đại diện Pháp ở Hong Kong hay Đông Dương. Theo Giám đốc Mật Thám Đông Dương, Perrier, nói với Lãnh sự Mỹ tại Sài Gòn ngày 22/9, Bảo Đại đã đồng ý thương thuyết, nhưng tạm trì hoãn để khỏi mang tiếng do Pháp dựng lên. Pháp chẳng kỳ vọng gì ở Bảo Đại, chỉ mong Bảo Đại sẽ có một số người ủng hộ. Sợ rằng Bảo Đại khó lôi kéo số lớn người quốc gia trong hàng ngũ Hồ. Vậy mà Bảo Đại đòi hỏi độc lập rộng rãi hơn những gì Bollaert đã hứa.(73)
Ngày 29/9/1947, Hoạch từ chức. Hai ngày sau, 1/10, Xuân-mới từ Pháp về ngày 15/9-được Hội Đồng Tư Vấn Nam kỳ ủy thác lập chính phủ lâm thời. Một tuần sau, Xuân công bố danh sách chính phủ Lâm thời Nam Phần.(74)
Đây là bước chủ yếu để trao quyền thống nhất lãnh thổ cho Bảo Đại.
C. CHIẾN DỊCH MÙA THU 1947 (LÉA-CEINTURE):
Ngày 7/10, Pháp mở chiến dịch "Léa" (10-11/1947) tấn công Việt Bắc. Léa là tên một ngọn đèo cao 1,362 mét trên đường số 3, giữa Nguyên Bình (Cao Bằng) và Bắc Kạn. Lực lượng mũi nhọn là các toán biệt kích Dù được thả xuống ngay tỉnh lỵ Bắc Kạn và thị trấn Chợ Mới, nhằm chộp bắt cơ quan đầu não của chính phủ Hồ. Tuy nhiên, Hồ đã sớm di tản đến một khu vực khác. Trường Chính Đặng Xuân Khu đang chủ tọa một buổi họp tại Bắc Kạn kịp thời trốn xuống hầm trú ẩn. Chỉ có Nguyễn Văn Tố, Bộ trưởng không bộ nào, bị bắt sống và tình nghi là chính Hồ. Ngoài ra, còn có phụ tá của Lê Văn Hiến, Bộ trưởng Tài chính, cùng một số nhân viên thứ hạng khác.
Ngày 7/10, Pháp cũng chiếm được Tong và Sơn La. Nhưng hai mũi chủ lực Pháp gồm một cánh thiết giáp có Bộ binh tùng thiết di chuyển từ Lạng Sơn lên Cao Bằng trên đường số 4, dưới quyền Trung tá Beaufré; và một đoàn giang hạm, mang theo hai tiểu đoàn Bộ binh, do Communal chỉ huy, từ Hà Nội ngược sông Hồng lên sông Lô, rồi sông Gầm. Hai cánh quân này sẽ như hai gọng kìm vây chặt an toàn khu Việt Minh, phá hủy đài phát thanh, các kho tàng, tiêu diệt chủ lực Việt Minh, và yểm trợ việc thiết lập các tiền đồn dài theo biên giới để cắt đứt đường tiếp vận của Việt Minh với Trung Hoa. Điểm hẹn là Đài Thị, đông bắc Chiêm Hoá 12 cây số.
Vì mực nước sông Hồng lên cao, hai ngày sau, cánh quân hỗn hợp thủy-bộ của Đại tá Commumal mới từ Hà Nội ngược sông Hồng lên sông Lô, hướng về Tuyên Quang.
Trong khi đó Nhảy Dù tiếp tục truy kích hàng ngũ lãnh đạo kháng chiến Việt Minh. Ngày 9/10, Tướng Salan thả thêm 300 quân Nhảy Dù ở phía Đông Nam Cao Bằng, tăng cường cho lực lượng cơ giới của Beaufré. Một chiếc Junker 52 bị bắn hạ. Đại tá Lambert, Tham Mưu Phó của Salan, cùng 10 sĩ quan tùy tùng bị tử nạn. Việt Minh tịch thu được toàn vẹn kế hoạch hành quân Lea, và 4 ngày sau chuyển về Bộ Tổng Tư lệnh của Võ Nguyên Giáp.
Ngày 13/10, Nhảy Dù Pháp chiếm Bắc Kạn, Cao Bằng; 20/10, chiếm Yên Báy; 21/10, chiếm Chapa; và 30/10, chiếm Lào Kay.
Ngày 20/11/1947, Salan mở thêm chiến dịch Ceinture [Vòng Đai hay Thắt Lưng]. Đây là giai đoạn II của chiến dịch Việt Bắc. Chiến dịch này nhằm lùng bắt cho bằng được cơ quan đầu não của Việt Minh (tại khu vực núi đá Đình Cả) và phá nát căn cứ địa trong khu vực tứ giác Tuyên Quang-Thái Nguyên-Việt Trì-Phủ Lạng Thương. 9 tiểu đoàn từ Hải Dương tiến lên tảo thanh phía Đông, Đông Bắc và chính Bắc Hà Nội. Đồng thời lập thế cản để đón đường các đơn vị từ phía rút Bắc về.
Ngày 19/12/1947, Chiến dịch mùa Thu của Salan chấm dứt. Mặc dù có những thắng lợi đáng kể, Salan không đạt được mục tiêu chiến lược. 60,000 quân Pháp cùng giang hạm, không quân và thiết giáp chỉ có thể tịch thu và phá hủy một số kho tàng của Việt Minh cùng ba trạm phát tuyến. Mục tiêu chính, tức toàn bộ chính phủ Hồ, đều chạy thoát. Đài phát thanh Việt Minh tiếp tục hoạt động. Trong khi đó, những đợt phản công của Việt Minh gây tổn thất đáng kể cho lực lượng Nhảy Dù Pháp.(75)
Đáng sợ hơn nữa, từ ngày 12/10, Hồ ra lệnh "tiêu thổ kháng chiến." Làng mạc bị thiêu hủy. Đường xá, cầu cống bị phá hoại. Nền kinh tế quốc gia ngày một phá sản. Qua đầu năm 1948, tuyến giao thông từ Lào Kay tới Cao Bằng của Việt Minh trở lại tình trạng tự do như cũ.(76)
Tại miền Nam, việc điều quân Pháp ra Bắc tạo cơ hội cho Việt Minh tăng gia hoạt động. Mặc dù Việt Minh không tạo được chiến thắng lớn nào, những vụ phá hoại đồn bót, cầu cống, ám sát, thủ tiêu diễn ra khắp nơi. Hai vụ ám sát gây tiếng vang nhất là cái chết ngày 10/10/1947 của Nguyễn Văn Sâm (1898-1947) tại Sài Gòn và Trương Đình Tri ở Hà Nội.(77)
D. THỎA ƯỚC HẠ LONG 6-7/12/1947:
Như mũi tên đã rời khỏi giây cung, thí nghiệm Bảo Đại tiếp tục chu trình tiến hoá của nó. Báo chí Paris bắt đầu nhập cuộc. Ngày 18/11/1947, Le Monde đăng bài của André Blanchet, đề nghị trả độc lập cho một nước Việt Nam độc lập dưới quyền lãnh đạo của Bảo Đại. Các đoàn thể, tổ chức chống Cộng người Việt tiếp tục chuẩn bị đón Bảo Đại về nước. Quan trọng hơn, Bollaert quyết định gặp Bảo Đại để thương thuyết.
Ngày 6-7/12/1947, hai bên gặp nhau ở Hạ Long. Bollaert ký với Bảo Đại một tạm ước [protocol], theo đó, Bảo Đại sẽ trở lại Đông Dương thành lập chính phủ thống nhất ba miền. Việt Nam sẽ được trao trả độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp. Về ngoại giao, Pháp sẽ chịu trách nhiệm, nhưng sẽ đưa viên chức Việt vào ngạch ngoại giao. Về quốc phòng, Việt Nam có quân đội riêng, nhưng quân đội này phải hứa sẽ tham chiến trong khối LHP. Quan trọng nhất là mật ước Pháp sẽ ngưng thương thuyết với Hồ.(78)
Ngày 12/12, Bollaert về Pháp báo cáo. Ba ngày sau, 15/12, Paris tuyên bố sẽ cho Bollaert �toàn quyền hành động và thương thuyết cần thiết để tái lập hoà bình và tự do tại Việt Nam." Bản tuyên cáo này nhấn mạnh rằng vì Hồ đã bác bỏ đề nghị của Bollaert trong diễn văn ngày 10/9 tại Hà Đông, Pháp đã ngưng mọi nỗ lực thương thuyết với Việt Minh. Bốn ngày sau nữa, 19/12, Tướng Xuân qua Hong Kong yết kiến Bảo Đại. Ngày 23/12, chính phủ Pháp lại ra tuyên cáo là thể theo lời yêu cầu của Paul Coste-Floret, Bộ trưởng Pháp quốc Hải ngoại, Bollaert được phép xúc tiến việc thương thuyết với tất cả các phe phái ở Việt Nam.
Trong khi đó, chính phủ Truman bắt đầu lo ngại về sự sụp đổ của chế độ Tưởng Giới Thạch ở Trung Hoa lục địa. Tướng Marshall được gửi qua Trung Hoa, hy vọng tìm một giải pháp chính trị. Tuy nhiên, Mao Trạch Đông và Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã quyết định ngả theo Nga, công kích mãnh liệt chính sách Mỹ. Bầu không khí chiến tranh lạnh khiến Mỹ chú tâm hơn đến Đông Dương, trực tiếp ủng hộ cuộc tái xâm lăng Việt Nam của Pháp.
Ngày 29/12/1947, báo Life đăng bài �The Saddest War� [Cuộc chiến buồn thảm nhất] của William C. Bullitt, cựu Đại sứ Mỹ tại Pháp và Liên Sô, cổ võ việc trao trả độc lập cho Việt Nam theo kiểu Philippines; giao phó cho người Việt quốc gia chân chính [true nationalists] trách nhiệm lôi cuốn những phần tử quốc gia trong hàng ngũ Việt Minh và tập sự cai quản đất nước. Mặc dù không nhắc đến Bảo Đại, và cũng chỉ đăng hình Bollaert cùng Hồ, "phần tử quốc gia" mà Bullit nhắc đến được diễn giải như Bảo Đại. Thực ra, Bullitt chỉ đề nghị duy trì một chế độ chống Cộng thân hữu ở Đông Dương.(79)
Từ ngày 7/1/1948, Bollaert và Bảo Đại lại bắt đầu gặp nhau tại Geneva để thương thuyết về điều kiện hợp tác. Nhưng hai bên không đạt được kết quả nào. Một mặt, vì mặc cảm trước sự công kích, chửi rủa tục tằn của hệ thống tuyên truyền Việt Minh Cộng Sản, Bảo Đại nói không thỏa mãn với những điều thỏa thuận tại Hạ Long, và đòi nhiều nhượng bộ hơn. Mặt khác, Bảo Đại không tin tưởng Bollaert, và lo ngại mình đang trở thành con cờ của Pháp trong việc hoà đàm với Việt Minh. Bởi thế, thương thuyết tạm ngưng sau ngày 12/1.
Để trấn an Bảo Đại, ngày 29/1/1948 Pháp bắt giam Blokov Trần Ngọc Ranh, trưởng phái đoàn VM ở Paris. Hôm sau, 30/1, Bollaert tuyên bố là Pháp nhất định không thương thuyết với Việt Minh nữa. Nhờ vậy, hai bên lại bắt đầu nói chuyện ngay tại Paris từ 5 tới 10/2. Nhưng Bảo Đại vẫn còn do dự chưa muốn về nước. Sau khi ghé ngang Cannes, Bảo Đại qua Geneva, và tuyên bố sẽ về lại Hong Kong vào tháng 3/1948, đồng thời hủy bỏ cuộc họp dự trù ngày 13/2/1948 (tức mồng 4 Tết Mậu Tý).(80)
E. �KHO VŨ KHÍ CỦA THẾ GIỚI TỰ DO�:
Từ năm 1947, Diệm đã liên lạc với viên chức Mỹ, xin viện trợ. Đây chẳng phải là sáng kiến mới mẻ gì của họ Ngô. Hầu hết chính khách Việt đều nhận rõ vị thế siêu cường của Mỹ, nhưng không có đường giây móc nối như anh em họ Ngô. Ngay chính Hồ cũng đã hoạt động cho Sở tình báo chiến lược [OSS] Mỹ trong hai năm 1944-1945, và lực lượng võ trang đầu tiên của Việt Minh được OSS Mỹ trang bị và huấn luyện. Hồ còn được đặt cho bí danh Lucius. Điều khiến Mỹ e ngại, và cuối cùng theo đuổi chính sách �hands-off� [không nhúng tay] khi Pháp tái xâm lăng Việt Nam là thành tích hoạt động cho QTCS của Hồ. Việc Hồ quyết định giải tán Đảng CSĐD ngày 11/11/1945 vẫn chưa đủ thuyết phục các viên chức Mỹ-những người vẫn chủ trương chỉ có Âu Châu mới đáng chú tâm hàng đầu.(81) Dẫu vậy, trong hai năm 1945-1946, chính phủ Truman vẫn dành cho Hồ và Việt Minh đôi chút thiện cảm. Có lẽ nhờ sự can thiệp của Mỹ, Moutet đã đồng ý ký modus vivendi ngày 14/9/1946 cho Hồ an toàn trở lại Việt Nam vào hạ tuần tháng 10/1946. Hơn một tháng sau, dù biết rõ liên hệä giữa Hồ với QTCS, Bộ Ngoại Giao Mỹ vẫn chỉ thị cho đặc sứ Moffat tìm cách gặp Hồ để giải quyết sự khác biệt Việt-Pháp bằng đường lối ngoại giao.(82)
Sau khi Bollaert ký thông cáo chung Hạ Long (6-7/12/1947) với Bảo Đại, ngày 21/12, Diệm cùng Trần Văn Lý lên Hong Kong gặp cựu hoàng. Trước khi qua Geneva ngày 24/12, Bảo Đại ủy Diệm về nước tham khảo ý kiến các phe phái để thành lập chính phủ thống nhất. Diệm từ chối vì những nhượng bộ của Pháp quá ít. Ngày 26/12, Diệm trở lại Sài Gòn chờ đợi tình thế chuyển biến.
Điều ít ai biết là phía sau hậu trường, ngày 24/12/1947, Diệm bí mật gặp Tổng lãnh sự Mỹ tại Hong Kong là George D. Hopper, trình bày về nội tình VN và giải pháp Bảo Đại. Mục đích chính của �Giệm,� theo Hopper, là xin viện trợ Mỹ. Hopper chỉ ghi nhận mà không hứa hẹn gì.(83)
Tại Việt Nam, đa số các chính khách chống Cộng đã tạm thời thỏa mãn. Ngày 25/12, mặc dù không ưa Xuân, Hoạch thành lập Việt Nam Quốc Gia Liên Hiệp để ủng hộ "giải pháp Bảo Đại."(84)
Riêng Diệm, qua đường giây Giám mục Ngô đình Thục, tổ chức một nhóm thân Mỹ và chống Cộng. Tại miền Bắc, Diệm có những thân hữu cũ như Trần Trung Dung, Nguyễn Xuân Chữ, Nguyễn Đình Thuần, v.. v... Tại miền Trung, Trần Văn Lý thành lập Đảng Xã Hội Công Giáo. Tại miền Nam, Diệm được sự yểm trợ của Nguyễn Phước Hậu, Bertin, Nguyễn Bửu, Trần Tử Hoàng, v.. v....(85) Tuy nhiên, vai trò Diệm bị lu mờ dần trước những khuôn mặt được Pháp chọn lựa. Một trong những lý do là thành tích hợp tác với Nhật của Diệm
Chuyến viếng thăm Sài Gòn ngày 25/5/1948 của Hồng y Francis Spellman mở thêm đầu mối liên hệ với Mỹ cho anh em Diệm. TGM Sài Gòn, Cassaigne, mời Ngô đình Thục tham dự buổi tiếp đón Spellman.(86) Trong tháng 6/1948, Trần Văn Lý chính thức thành lập Đảng Xã Hội Công Giáo, do Ngô đình Thục bảo trợ. Diệm được coi như lãnh tụ tối cao của đảng này.(87) Tại Đà Lạt, Ngô đình Nhu cùng nhóm Linh mục Parrell tụ họp hạt nhân đầu tiên của chủ thuyết �Nhân vị.� Thuyết này dựa theo thuyết Personalisme [Nhân vị] của Emmanuel Mounier, đặt trên cơ bản thần quyền Ki-tô giáo.
F. CHÍNH PHỦ LÂM THỜI & THỎA ƯỚC HẠ LONG II (5/6/1948):
Trong khi đó, tại nội địa, các chuẩn bị cho Bảo Đại hồi hương vẫn tiếp tục. Ngày 27/1/1948, Cao Đài và Hoà Hảo ký hiệp ước tương trợ. Ngày 8/2, Việt Nam Quốc Gia Liên Hiệp [Rassemblement National Vietnamien] họp ở Huế.
Sau khi chính phủ Ramadier khẳng định vẫn tin cậy Bollaert trong việc thương thuyết với Bảo Đại, cuối tháng 2/1948, Diệm lại qua Hong Kong. Ngày 14/3, Bảo Đại về tới Hong Kong. Sau đó, tiếp kiến Chủ tịch các Hội Đồng An Dân Hà Nội và Hội Đồng Chấp Chánh Huế. Tướng Xuân và Lê Văn Hoạch cùng những người khác yêu cầu Bảo Đại xúc tiến nhanh hơn việc thương thảo. Xuân cũng đồng ý thống nhất 3 miền.
Đại diện Hoà Hảo-Dân Xã là Trần Văn Soái, Lê Văn Kính (tức Lương Văn Tường, Lương Trọng Tường hay Kinh Lý Tường), Phan Khắc Sửu và Nguyễn Hữu Đạt (?) qua Hong Kong gặp Bảo Đại từ ngày 19 tới 26/3/1948. Bởi thế, Bảo Đại sai Diệm về Sài Gòn báo cho Bollaert biết là "Nguyện vọng của dân Việt vượt quá những điều ký kết ở Hạ Long."(88)
Mặt khác, ngày 26/3, Bảo Đại viết thư cho đại diện những đoàn thể chính trị và tôn giáo, khẳng định chấp thuận việc thành lập chính phủ lâm thời trung ương để thương thuyết với Pháp. Cuối tháng 4/1948, Xuân qua Hồng Kông gặp Bảo Đại; được Bảo Đại chấp thuận cho lập chính phủ trung ương lâm thời. Đầu tháng 5/1948, Paris phê chuẩn việc Xuân làm Thủ tướng, và sẽ trực tiếp ký Hiệp ước với Bollaert, với sự "chứng kiến" của Bảo Đại.(89)
Ngày 15/5, Bảo Đại gửi thông điệp cho Xuân đứng ra thành lập Chính phủ trung ương lâm thời.(90) Năm ngày sau, 20/5, một nhóm 37 người, có cả Phạm Công Tắc, họp Đại hội tại Sài Gòn, ký quyết nghị "Vâng thánh ý" lập Chính phủ Trung ương lâm thời Việt Nam. Tại Đại hội này, các đại diện ra tuyên cáo: Việt Nam là một nước đồng minh mà không phải "liên hiệp" [associés]; VN có quyền gửi các lãnh sự ngoại giao; VN có những nhân viên ngoại giao ở hải ngoại; VN có thể được các nước ngoài nhìn nhận, mà như thế được tình trạng "dominion" như của Bri-tên.(91)
Ngày 21/5/1948, chính phủ Trung ương Lâm Thời thành hình. Hai ngày sau, 23/5, Nguyễn Văn Xuân ký Sắc lệnh số 1, thành lập "Chính phủ Trung ương lâm thời Việt Nam," do Xuân "chủ tọa."(92) Ngày này, Bollaert và Xuân trao đổi văn thư về việc thành lập chính phủ trên. Bốn ngày sau, 27/5, Xuân trình diện chính phủ lên Bảo Đại ở Hong Kong.(93) Ngày này, Robert Schumann "ghi nhận" sự thành lập chính phủ Xuân. Ngày 1/6/1948, Xuân công bố danh sách chính phủ. (94)
Ngày 3/6, khi Xuân ra trước Hội đồng Tư Vấn Nam Kỳ, yêu cầu được yểm trợ trước khi đi Hạ Long, Đảng Quốc Gia Độc Lập, mới thành lập, công kích Xuân là bán đứng Nam Kỳ. Dẫu vậy, ngày 5/6/1948, Bollaert và Xuân cùng các đại diện chính quyền ở ba miền (Nghiêm Xuân Thiện, Đặng Hữu Chí [Bắc], Phan Văn Giáo, Nguyễn Khoa Toàn, Đinh Xuân Quảng [Trung], và Trần Văn Hữu, Lê Văn Hoạch [Nam]) gặp nhau trên chiến hạm Duguay-Trouin, "dưới sự chứng kiến" của �đế � Bảo Đại. Sau đó ra Tuyên ngôn chung (Déclaration Commune) 3 điểm; theo đó, điều 1 xác định: "Nước Pháp long trọng nhìn nhận sự độc lập của nước Việt Nam. Từ rày về sau, việc tự do thực hiện nền thống nhất quốc gia tùy nơi nước Việt Nam. Về phần mình, nước Việt Nam tuyên bố chịu gia nhập vào Liên Hiệp Pháp với danh nghĩa một quốc gia đồng hội với nước Pháp."(95) Ngoài Tuyên Ngôn Chung nói trên, còn có một phụ bản mật, với nội dung tương tự như mật ước ngày 7/12/1947. Bảo Đại, Nguyễn Văn Xuân và Bollaert cũng ra ba tuyên cáo riêng lập lại những điều căn bản trên.(96) Ngay sau đó, Bảo Đại rời Hong Kong qua Paris.
Ít nữa thì Hiệp ước Hạ Long cũng mang lại vài tin vui. Điều khiến Pháp hài lòng nhất là ngày 17/6/1948, Bảy Viễn, thủ lãnh Bình Xuyên, mang quân về hợp tác với Bảo Đại. Ngày Chủ Nhật, 1/8/1948, Xuân bổ nhiệm Bảy Viễn làm Đại tá tạm thời, tùng sự dưới quyền Trần Văn Hữu.(97)
Để làm vui lòng giáo phái Hòa Hảo, Xuân cử Lê Công Bộ làm Thứ trưởng Nội vụ, và ngày 26/6/1948, phong Trần Văn Soái lên Thiếu tướng thực thụ.
G. �HIỆP ƯỚC� ELYSEE (8/3/1949):
Mặc dù đã ký Hiệp ước Hạ Long II, dư luận Pháp vẫn chưa muốn trao trả độc lập và thống nhất cho Việt Nam. Bollaert rất bất mãn, tuyên bố chỉ trở lại Việt Nam nếu Quốc Hội Pháp công nhận thỏa ước này. Ngoại trưởng Marshall nỗ lực can thiệp, nhưng cả hai chính phủ Robert Schumann và André Marie đều ngần ngại.(98)
Trong khi đó, Bảo Đại không chứng tỏ dấu hiệu nào sẽ về nước ngay. Có nhiều nguyên do. Trước hết là phản ứng dữ dội của phe Việt Minh Cộng Sản. Ngay trong ngày 7/6, Hồ đã gay gắt phản đối việc "bọn bù nhìn" [fantoche] ký kết hòa ước với bất cứ nước ngoài nào. Cơ quan tuyên truyền Việt Minh cũng phát động chiến dịch bôi nhọ từ Bảo Đại tới những người khác trong chính phủ Xuân. Việt Minh cũng gia tăng hành động khủng bố -kể cả chôn sống-để ngăn chặn phong trào về tề.(99) Xuân và các cộng sự viên cũng bị lên án tử hình.
Mặt khác, Bảo Đại vẫn nhấn mạnh đòi hỏi thống nhất lãnh thổ và độc lập thực sự.(100)
Quan trọng hơn cả là sự chống đối của thành phần bảo thủ Pháp. Theo một viên chức Mỹ, Phụ tá Tây Âu Vụ Bộ Ngoại Giao Mỹ, Wallner, chính phủ Schumann đang chuẩn bị ra điều trần về ngân sách quân sự và quĩ yểm trợ kinh tế trước khi QH tái nhóm ngày 15/7, nên có lẽ chẳng dám ném ra thỏi thuốc nổ Đông Dương. Trong khi đó tại QH các đảng Cộng Sản, Gaullist và PRL chắc chắn sẽ chống đối. Số dân biểu Xã Hội chống lại có lẽ không nhiều, mặc dù nghị quyết về vấn đề thương thuyết với HCM đã thông qua. Có lẽ Schumann sẽ không đưa vấn đề ra trước Quốc Hội, nhưng Bollaert thì nhất quyết đòi Quốc Hội thảo luận, hoặc sẽ từ chức. Wallner đề nghị Marshall nên cảnh giác chính phủ Schumann là Pháp đang đối diện hai con đường: chấp nhận ngay nguyên tắc Việt Nam độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp và thống nhất ba kỳ; hoặc, sẽ mất cả Đông Dương.(101)
Thêm vào đó, ngày 28/8/1948 chính phủ André Marie (26/7-28/8/1948) bị đổ. Ngày 11/9, Henri Queuille được cử lập chính phủ mới, với Schumann làm Ngoại trưởng, Ramadier nắm Quốc Phòng. Tháng 10/1948, Bollaert về nước. Ngày 20/10, Queuille cử Léon Pignon làm Cao Ủy Đông Dương.(102) Pignon vội xúc tiến ngay việc thương thuyết với Bảo Đại, vì lúc này áp lực của Liên Bang Mỹ ngày một mạnh.(103)
Những chiến thắng liên tiếp của Mao Trạch Đông tại lục địa khiến Pháp hối hả hơn trong việc thực hành thí nghiệm Bảo Đại. Ngày 22/1/1949, Tưởng Giới Thạch từ chức, rồi bay ra Đài Loan. (Lý Tôn Nhân lên thay). Đang điều đình với Bảo Đại, Chủ Nhật, 24/1/1949, Cao ủy Pignon phải hối hả bay về Đông Dương đối ứng tình thế mới. Đầu tháng 2/1949, Đảng CSTQ chiếm Bắc Kinh.
Biến cố này khiến thương thuyết Pháp-Bảo Đại vượt nhanh qua những trở ngại kỹ thuật. Ngày Thứ Tư, 17/2/1949, Bửu Lộc, Chánh văn phòng của Bảo Đại, từ Cannes về Paris. Buổi tối, Lộc cho Đại sứ Mỹ Caffery biết rằng Bảo Đại sẽ được Tổng thống Pháp Vincent Auriol mời lên Paris ký Hiệp ước vào tuần sau, và trở về Việt Nam bằng tàu chiến vào đầu tháng 4/1949.(104)
Ngày 25/2, chính phủ Pháp cho báo chí Paris công bố nội dung thỏa ước Pháp-Bảo Đại. Rồi, ngày 8/3/1949 Auriol trao đổi công hàm với Bảo Đại, theo đó "Pháp long trọng công nhận" một nước Việt Nam độc lập và dân chúng có quyền tự do quyết định sự thống nhất lãnh thổ của mình, theo tinh thần Hiệp ước Hạ Long, kèm theo một phụ bản các điều thỏa thuận với Pignon.(105)
Phía sau hậu trường, Bộ trưởng Hải ngoại Coste-Floret vận động Quốc Hội Pháp biểu quyết cấp thời một sắc luật thành lập một Hội đồng Lãnh thổ Nam kỳ (Assemblée Territoriale de Cochinchine, HĐLTNK), gồm 12 đại diện Pháp và 24 đại diện Việt, để quyết định số phận Nam Kỳ. Viên chức Pháp cũng giữ kín nội dung "Hiệp ước Elysée" tới ngày Bảo Đại về nước, dự trù vào 25/4/1949 để có một "kích xúc tâm lý" (choc psychologique).(106)
Ngay ngày Thứ Năm, 9/3, Quốc Hội Pháp bắt đầu thảo luận về Thỏa ước Elysée và nhất là vấn đề Nam Kỳ. Báo Franc-Tireur của Đảng Xã hội Gaullist đăng một lá thư đề ngày 17/1/1949 của Guy Mollet gửi Thủ tướng Queuille: Bác giải pháp Bảo Đại, và kêu gọi thương thuyết với Hồ. Theo dân biểu Jean Guillon, "Giải pháp quân sự không thể thắng; Bảo Đại chẳng có một chút uy thế nào ở Việt Nam. Việt Nam đứng sau lưng Hồ Chí Minh. Trước tiên phải thương thuyết với Hồ Chí Minh."(107)
Hôm sau, 10/3, nhiều dân biểu Cộng Sản và Gaullist tiếp tục phản đối. Dân biểu Guillon cho đó là "sự sao chép vụng về của Hiệp ước [sơ bộ] 6/3/1946, chỉ là một thứ hình thức (facade)." Việc làm của Coste-Floret, theo Guillon, "thiếp vàng lại một ông vua mất chức, được biết nhiều ở các sân golf tại Cannes hay những tay bồi rượu ở các hộp đêm hơn là trong lớp nông dân."(108)
Guillon cũng cho rằng chính phủ Pháp đã chịu áp lực của Mỹ, đề cập đến chuyến thăm Đông Dương của Bullit, cựu đại sứ Mỹ ở Paris, vào tháng 9/1948; rồi cảnh cáo rằng thanh niên Pháp đang bị giết để bảo vệ quyền lợi kinh tế của My.õ Theo Guillon: "Thực ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh không làm hài lòng ông Bullit, vì trong thời gian Nhật đầu hàng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từ chối những đề nghị do Tướng Gallagher nhân danh Washington đưa ra." Guillon cũng dẫn lời của Cuisinier, trên báo Revue socialiste [Tạp chí Xã hội] số tháng 7/1948, nhận định về Hồ:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã qui tụ được những người quốc gia không đảng phái cũng như một số đông những người Ki-tô giáo yêu nước. Chống lại ông ta chỉ có cựu quan lại, cựu công chức, vài trưởng giả giàu có-mà không phải tất cả họ-và những cá nhân, dưới chế độ Nhật cũng như Pháp, đã nghĩ đến sự gia tăng quyền lợi bản thân mà họ có thể rút ra từ phe này hay phe kia, dù không vì bất cứ phe nào, trước khi nghĩ đến tổ quốc hay việc bảo vệ một lập trường chính trị." (109)
Guillon còn dẫn lời cựu Thủ tướng Léon Blum, trên báo Le Populaire ngày 6/8/1947:
"Thưa vâng, người ta phải thương thuyết với những đại diện thực (authentiques) và xứng đáng (qualifiés) của dân chúng Việt Nam, bất kể họ là ai, bất kể chính kiến hay cá nhân nào. Vâng, Hồ Chí Minh chưa chết, dù ai có nói gì đi nữa, ông ta còn sống, đã tiếp kiến ông Paul Mus, đã gửi cho tôi một công hàm ít ngày trước, là đại diện chính thức và xứng đáng của dân chúng Việt Nam."(110)
Dẫu vậy, ngày Thứ Bảy, 11/3, Quốc Hội Pháp chấp thuận lập Hội đồng Lãnh thổ Nam Kỳ [HĐLTNK] với số phiếu 387/193. Dự thảo luật này chuyển lên Thượng viện (Conseil de la République) để biểu quyết ngày hôm sau. Ngày Chủ Nhật, 12/3, Thượng Viện Pháp, với số phiếu 185/97, chấp thuận dự luật thành lập HĐLTNK với vài sửa đổi. Sau đó, gửi trả lại Hạ Viện. Hạ Viện chấp thuận. Luật này được in trên Công báo [JOF] ngày 24/3/1949. Thủ tục này dựa theo Điều thứ 75 của Hiến pháp: Một phần lãnh thổ của Cộng Hoà Pháp hoặc Liên Hiệp Pháp có thể biến đổi, do Luật của Quốc Hội, sau khi đã tham khảo với Hội nghị địa phương và Hội đồng Liên Hiệp Pháp. Như thế, theo Điều 27 của Hiến pháp, không cần phải trưng cầu dân ý (referendum). Thứ Ba, 14/3/1949, Pháp ban hành Luật tổ chức HĐLTNK. Hội đồng gồm 16 Pháp (12 nghiệp đoàn, thương gia; 4 tự do) và 48 Việt (8 Sài Gòn, Chợ Lớn; 40 cho các tỉnh). Ngày 23/3, ban hành Nghị định áp dụng luật ngày 14/3/1949 tại Đông Dương. Ngày 10/4, HĐLTNK bầu xong, gồm 54 thành viên, 14 Pháp và 40 Việt. Ngày 24/4, HĐLTNK đồng ý tái nhập Nam Kỳ vào Việt Nam.(111) Ngày 24/4/1949, Bảo Đại lên đường về nước. Bốn ngày sau, 28/4, Bảo Đại từ Singapore về tới Sài Gòn, nhưng lên thẳng Đà Lạt.(112)
Mãi tới ngày 10/6/1949-sau khi Quốc Hội Pháp chấp thuận cho Nam Kỳ sát nhập vào Việt Nam (3/6/1949) và Tổng thống Auriol ban hành Luật công nhận Việt Nam thống nhất (4/6/1949), đồng thời báo chí Pháp công bố một thư Auriol gửi Bảo Đại khẳng định QH Pháp đã thông qua luật sát nhập Nam Kỳ vào Việt Nam; như thế "độc lập và thống nhất của Việt Nam, trong Liên Hiệp Pháp, đã trở thành sự thực" (6/6/1949)-Bảo Đại mới xuống Sài Gòn trao đổi văn kiện với Pignon và ra mắt quốc dân.
Trong thời gian chờ đợi, Bảo Đại vận động xin viện trợ Mỹ. Ngày 2/6, Đại sứ Bruce từ Paris điện báo rằng "Quốc trưởng" Bảo Đại muốn được Mỹ nhìn nhận trên thực tế (de facto recognition), được viện trợ kinh tế trực tiếp, và giúp vũ khí qua trung gian Pháp (50,000-60,000 súng). Cũng muốn Mỹ gửi đến những phái đoàn thiện chí, và nâng Toà Tổng lãnh sự lên hàng Phái bộ (Legation).(113)
Tuy nhiên, đa số chuyên viên Mỹ đều cho rằng Thỏa ước Elysée "quá ít, quá chậm" (too little, too late). Pháp cần rộng rãi hơn nữa trong việc diễn dịch và thi hành thỏa ước, vì giải pháp Bảo Đại chỉ có khoảng 50-50 thành công. Giám Đốc Tây Âu vụ, Douglas MacArthur II, khẳng định các quan điểm cho rằng Mỹ sẽ đổ viện trợ vào Đông Dương để ngăn chặn vùng này lọt vào tay CS, hay quân viện Mỹ sẽ giúp Pháp đạt một chiến thắng quân sự, hoàn toàn sai lầm và nguy hiểm.(114)
Bởi thế, mặc dù trong thông điệp chúc mừng Bộ Ngoại Giao Pháp về Hiệp ước 8/3/1949, Bộ Ngoại Giao Mỹ nhấn mạnh rằng "Dân tộc Việt Nam sẽ mắc phải một lầm lỗi tai hại nếu không ủng hộ chính phủ thành lập qua Hoà ước 8/3/1949," ngày 2/5, Ngoại trưởng Dean Acheson chỉ thị cho Tổng lãnh sự Abbott ở Sài Gòn: �Phải cố tránh gây sự hiểu lầm là Mỹ trên thực tế nhìn nhận chế độ Bảo Đại.�(115) Cho tới ngày 7/10/1949, sau khi Mao đã tuyên bố thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, chính phủ Mỹ vẫn cảm thấy chưa tiện công nhận chính phủ Bảo Đại.
Sự trì hoãn của Mỹ phản ảnh sự khác biệt sâu đậm giữa Pháp và Mỹ. Đông Dương, với Pháp, là quyền lợi chính trị, kinh tế và văn hóa. Với Mỹ, chiến lược chống Cộng là bản căn. Buổi nói chuyện ngày 13/4/1949 giữa W. Walton Butterworth, Giám đốc Viễn Đông vụ, và Charles S. Reed, Đông Nam Á vụ, với Jean Daridan, Cố vấn Toà Đại sứ Pháp, phần nào phản ảnh tâm ý các viên chức Mỹ. Khi Daridan đặt câu hỏi liệu Mỹ có yểm trợ Bảo Đại hay chăng nếu sau một thời gian kế hoạch Bảo Đại chứng tỏ có tiến bộ, Butterworth khẳng định chỉ muốn giúp những người chống Cộng.(116)
Ngày 10/5, Ngoại trưởng Acheson chỉ thị cho Tổng Lãnh sự Abbott: Mỹ mong muốn thí nghiệm Bảo Đại thành công vì chẳng có một lựa chọn nào khác hơn. Đang chờ cơ hội thuận tiện để công nhận Quốc Gia Việt Nam, cũng như cho viện trợ vũ khí và kinh tế. Tuy nhiên, muốn Pháp có những nhượng bộ cần thiết trước khi chiến thắng của Mao Trạch Đông tạo ảnh hưởng tại Đông Dương. Với những người quốc gia, nếu Pháp nhân nhượng những điều cần thiết, có thể thuyết phục họ rằng: 1/ mục đích yêu nước của họ có thể thực hiện được qua sự thoả thuận Pháp-Bảo Đại; 2/ chính phủ Bảo Đại đại diện đích thực cho Việt Nam vì có thể bao gồm cả những phần tử không Cộng Sản hiện đang ủng hộ chính phủ Hồ Chí Minh; 3/ Bảo Đại là giải pháp duy nhất bảo vệ Việt Nam trước những âm mưu xâm lấn (khuynh đảo) của Trung Cộng.
Cũng cần cảnh cáo Bảo Đại về sự nguy hiểm nếu mời Cộng Sản tham gia chính phủ. Mối quan tâm của Mỹ là liệu chính phủ Bảo Đại có thể tồn tại được hay chăng. Abbott không nên đi Đà Lạt tiếp xúc Bảo Đại, nhưng có thể tiếp xúc không chính thức với những người thân cận của Bảo Đại.(117)
Ngày 20/5/1949, Acheson còn chỉ thị Lãnh sự Hà Nội William Gibson giải thích thêm cho Xuân những điểm sau: Nhìn vào quá khứ của Hồ, không thể có kết luận nào hơn rằng Hồ là Cộng Sản, nếu (1) Hồ không tuyên bố cắt đứt liên hệ với Liên Sô và chủ thuyết Cộng Sản, và (2) tiếp tục được báo chí Cộng Sản ca ngợi cũng như ủng hộ. Hơn nữa, Mỹ không thấy khía cạnh quốc gia của Hồ qua lá cờ đỏ sao vàng. Vấn đề Hồ vừa là Cộng Sản, vừa là quốc gia không đáng lưu tâm (irrelevant). Tất cả những cán bộ Stalin ở các nước [cựu] thuộc địa đều là người quốc gia. Sau khi đã đạt được mục đích quốc gia (tức độc lập), mục tiêu kế tiếp sẽ là biến quốc gia thành phụ thuộc cho mục đích Cộng Sản, và tận diệt không những chỉ người chống đối, mà cả các phần tử bị nghi ngờ là không đúng đường lối.... Nếu mời Hồ và CS gia nhập chính phủ Bảo Đại, chỉ đình hoãn việc Việt Nam trở thành độc lập, hay một vệ tinh của Cộng Sản cho tới lúc thời cơ của những người quốc gia bị kém sút. Dĩ nhiên, trên lý thuyết, có thể thiết lập một chế độ Cộng Sản quốc gia như Yugoslavia [của Tito] tại bất cứ vùng nào ở xa vòng kiềm toả của Hồng quân Liên Sô. Nhưng Việt Nam đang trong vòng kiềm tỏa của Hồng quân Trung Hoa. Nếu Pháp đồng ý thực hiện Thỏa ước Elysée một cách cấp tiến, việc quan trọng nhất của Bảo Đại và Xuân là phải lôi kéo được sự ủng hộ của dân chúng. Như trong trường hợp Trung Hoa, nước Mỹ không "bỏ rơi" (wrote it off) chính phủ Thạch, mà chính những người quốc gia Trung Hoa yếu kém quá mức và không có ý chí tranh đấu.(118)
Chẳng hiểu có sự tiến cử của Reed hay chăng-lúc này Reed đã về Ban Viễn Đông vụ ở BNG Mỹ-dịp này đích thân Bộ trưởng Hải Ngoại Coste-Floret cố gắng thuyết phục Diệm lập chính phủ, nhưng không thành công. Diệm nêu lý do sợ giáo dân Ki-tô bị VM thảm sát.(119)
Ngày 1/7/1949, Bảo Đại ký sắc lệnh số 1-CP công bố danh sách chính phủ.(120) Ngày 12/7, Bảo Đại về Huế. Ngày 14/7, từ Huế, Bảo Đại hiệu triệu quốc dân. Hai ngày sau, 16/7, ra Hà Nội.
Ngày, 15/7/1949, Giáo hoàng Pius XII (1939-1958) ra lệnh "rút thông công" bất cứ ai có liên hệ với Cộng Sản. Thánh lệnh này phần nào giải tỏa mối lo ngại của Diệm, nhưng Diệm vẫn chưa chịu hợp tác với Bảo Đại. Trong khi đó, các cộng đồng Ki-tô ngày một nghiêng về phía Thế giới Tự Do, thắp hồng �cuộc thánh chiến chống Cộng Sản.
Ngày 21/9, Diệm về Huế, sống ở nhà Ngô Đình Cẩn (1911-1964), em trai áp út. Ngày 22/11-trong khi Hồng quân Trung Cộng đang tiến sát dần tới biên giới Việt-Hoa-Diệm rời Huế vào Sài Gòn, rồi Vĩnh Long, và Đàø Lạt (2/1950).
Tháng 3/1950, Giám mục Từ tại Phát Diệm sai Lê Quang Luật vào Nam yêu cầu Diệm đừng "chùm chăn" và "ngang bướng" nữa, cần yểm trợ Bảo Đại.(121) Ngày 9/4/1950, Tổng lãnh sự Mỹ Edmund Gullion, XLTV Đại sứ, báo cáo chính phủ Nguyễn Phan Long sắp đổ và Trần Văn Hữu có thể lên thay. Gullion nghĩ rằng Pháp hẳn muốn Diệm, nhưng Bảo Đại không đồng ý.
Giữa năm 1950, Diệm có ý định thành lập một lực lượng thứ ba, thân Mỹ, chống Pháp để lôi kéo những người bất mãn trong hàng ngũ Việt Minh. Cuối tháng 6/1950, tổ chức Phong Trào Quốc Gia Quá Khích ra đời ở Trung và Nam Việt, có liên hệ với Diệm.
H. HỒ NGẢ THEO CỘNG SẢN:
Từ năm 1947-1948, Hồ bắt đầu có liên lạc chặt chẽ với Trung Cộng. Một trung đoàn TC thuộc tỉnh Quảng Đông đã được Hồ cho phép hoạt động tại vùng Việt Bắc để tránh sự tận diệït của Tưởng Giới Thạch. Từ tháng 6 tới tháng 10/1949, một số đơn vị Việt Minh cũng tham dự vào chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn ở vùng ranh giới Vân Nam/Quảng Tây của Trung Cộng. Tuy nhiên, chỉ từ đầu năm 1950, Hồ mới công khai ngả theo phe Cộng Sản. Do sự khuyến khích của Bắc Kinh, ngày 15/1/1950, chính phủ Việt Nam DCCH của Hồ chính thức công nhận chế độ Mao Trạch Đông.
Từ thượng tuần tháng 1/1950, Hồ Chí Minh đi bộ 17 ngày đêm qua tới Nam Ninh (Quảng Tây), rồi được Lưu Thiếu Kỳ đón lên Bắc Kinh. Hồ cho biết mục đích của chuyến đi là xin viện trợ. Vì cả Mao Trạch Đông lẫn Chu Ân Lai đã qua Mat-scơ-va, ngày 3/2, Lưu Thiếu Kỳ dàn xếp cho HCM qua Nga. Tại Mat-scơ-va, HCM được gặp Stalin. Stalin hỏi Hồ về lý do giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương (chính thức từ ngày 11/11/1945), rồi chỉ thị cho Mao tiếp tay Đảng CSĐD. Đây là lần đầu tiên Hồ được gặp �người thép� Nga, dù đã chính thức hoạt động cho QTCS từ hơn phần tư thế kỷ trước.(122)
Để chuẩn bị cho chuyến viếng thăm Bắc Kinh, ngày 15/1/1950, đài phát thanh Việt Minh đã công bố nhìn nhận chính quyền Cộng Sản Trung Hoa, và yêu cầu các nước Cộng Sản mở quan hệ ngoại giao với chính phủ VNDCCH. Ba ngày sau, 18/1, Bắc Kinh nhìn nhận VNDCCH. Ngày 30/1 đến phiên Mat-scơ-va. Các nước Cộng Sản khác liên tục mở bang giao với chế độ Hồ.
Ngày 17/2/1950, Hồ tháp tùng phái đoàn Mao và Chu Ân Lai rời Mat-scơ-va. Sau đó, Hồ ở lại Bắc Kinh tiếp tục thảo luận về viện trợ. Lưu Thiếu Kỳ, Phó Chủ tịch Trung Cộng, đích thân điều động công tác �nghĩa vụ quốc tế� này. Hồ xin Bắc Kinh cung cấp chuyên viên quân sự để cố vấn và chỉ huy từ cấp Trung đoàn và Sư đoàn trở lên, nhưng Lưu Thiếu Kỳ chỉ đồng ý gửi cố vấn. Luo Guibo [La Quí Ba] được chọn làm Cố vấn trưởng chính trị; trong khi Wei Guoqing [Vi Quốc Thanh] cầm đầu phái đoàn cố vấn quân sự với nhân số khoảng 280 người. Trung Cộng cũng hứa giúp huấn luyện và trang bị vũ khí cho 6 đại đoàn (sư đoàn) Việt Minh. Các trung đoàn đầu tiên qua Vân Nam huấn luyện thuộc Đại đoàn Quân Tiên Phong (308) của Vương Thừa Vũ, và 312 của Lê [Trịnh] Trọng Tấn. Để bảo đảm cho việc tiếp vận từ Trung Cộng, Bắc Kinh giúp Hồ mở chiến dịch biên giới �Cao-Bắc-Lạng,� hay Lê Hồng Phong II (16/9-14/10/1950), nhằm tiêu diệt lực lượng đồn trú tại Lạng Sơn và Cao Bằng. Người thực sự chỉ huy trận này là Chen Geng [Trần Canh], Tư lệnh Quân Khu Vân Nam, do Hồ xin đích danh. Tướng Marcel Carpentier rúng động, phải cho lệnh triệt thoái tất cả những vị trí trú quân dài theo biên giới, chỉ giữ lại Tiên Yên-Móng Cáy.(123)
Từ ngày này, thế trận đã thay đổi hoàn toàn. Việt Minh bắt đầu chủ động chiến trường. Chính phủ Hồ được giao nhiệm vụ mới: Tiền đồn của Xã hội chủ nghĩa.(124)
Trong khối Tự Do, ngày 4/2/1950, Mỹ nhìn nhận chế độ Bảo Đại vì �Hồ đã để lộ bản chất thật sự Cộng Sản.� Rồi đến Bri-tên và một số nước khác. Từ ngày này Pháp tìm cách lôi kéo Mỹ và Bri-tên vào trận chiến chống Cộng ở Đông Dương. Đại sứ Donald Heath (1950-1954) của Mỹ thận trọng thêm vào mối đe dọa của Trung Cộng hai chữ �Nga Sô.� Việc Mỹ tham chiến ở Triều Tiên từ tháng 6/1950, và nhất là cuộc triệt thoái các tiền đồn biên giới Việt-Hoa, khiến cuộc chiến tranh lạnh Mỹ-Nga bắt đầu chi phối nội tình Việt Nam. Pháp bị đặt vào vị thế cực kỳ tế nhị. Một mặt, cần thành lập quân đội bản xứ để phụ giúp cho quân viễn chinh Pháp; và ngày càng tùy thuộc nhiều hơn vào viện trợ Mỹ. Mặt khác, giới thẩm quyền Mỹ không ngừng áp lực Pháp phải trao trả dần độc lập cho Việt Nam, và áp lực Mỹ gia tăng theo viện trợ.
Winston Churchill-người cực lực chống lại kế hoạch Quốc tế quản trị [International Trusteeship] Đông Dương của Tổng thống Franklin D. Roosevelt, và tác giả thuật ngữ �bức màn sắt� ở Âu châu-sau ngày lên nắm chức Thủ tướng Bri-tên lần thứ hai, cũng muốn dựng �bức màn tre� ở Đông Dương. Nhưng Churchill chỉ muốn góp ý mà không tán thành việc gửi quân tác chiến qua Đông Dương.(125)
VI. �LÊ GÓT NƠI QUÊ NGƯỜI�:
Trong bài hát �Suy Tôn Ngô Tổng Thống,� để tô hồng cho thành tích cách mạng của Diệm, nhà văn Thanh Nam viết: �Ai bao năm từng lê gót nơi quê người, cứu đất nước, v.. v...� Thực tế, cuộc hành trình ra ngoại quốc của Diệm chẳng có vẻ gì gian khổ. Trước hết, qua Mỹ, được gặp gỡ những nhân vật quyền thế; rồi qua Vatican gặp Giáo hoàng Pius XII; trở lại Mỹ, tu học ở các tu viện và diễn thuyết đó đây; và cuối cùng qua Belgium, vận động làm Thủ tướng.
A. QUA MỸ XIN VIỆN TRỢ:
Ngày 18/6/1950, Giám mục Ngô đình Thục gặp XLTV Đại sứ Gullion tại Sài Gòn, xin giấy nhập cảnh Mỹ trên đường qua Roma dự năm Thánh cho mình và Diệm. Tháng 7/1950, có tin Diệm nhiều lần bị Việt Minh đe dọa đến tính mạng. Ngày 15/7, Diệm về Huế thăm mẹ bị đau nặng. Ngày 2/8, Diệm trở lại Sài Gòn sau khi ghé ngang Đàø Nẵng. Ngày 14/8, Diệm cùng Ngô đình Thục rời Sài Gòn trên tàu La Marseillaise. Gặp Cường Đểå ở Nhật, bàn việc thành lập một chính phủ chống Cộng.(126)
Ngày 2/9, Diệm và Ngô đình Thục tới Mỹ. Hơn hai tuần sau, ngày 21/9, William S. B. Lacy, Trưởng Nha Philippines và Đông Nam Á, tiếp Diệm và Ngô đình Thục. Ngô đình Thục tuyên bố phải lập một quân đội quốc gia, lấy giáo dân Ki-tô làm hạt nhân để không sợ đào ngũ mang súng hàng VM. Lacy nhận xét rằng Ngô đình Thục mới là phát ngôn chính, trong khi Diệm chỉ tán thưởng ý kiến Ngô đình Thục.(127)
Ngày 15/10, Diệm và Ngô đình Thục rời Mỹ qua Paris. Sau đó, xuống Roma, rồi trở lại Paris vào trung tuần tháng 11/1950. Ngày 8/12/1950, Ngô đình Thục rời Âu Châu trở lại Việt Nam. Cuối tháng đó, Diệm, qua trung gian Bửu Kĩnh, Nghị viên Hội Đồng Liên Hiệp Pháp, gửi cho Bảo Đại một thư riêng, đề nghị một chương trình hoạt động.(128) Sau đó Diệm lại sang Mỹ. Ngày 15/1/1951, Diệm khai với nhân viên Bộ Ngoại Giao Mỹ là mới từ Paris qua được khoảng một tháng để nghiên cứu về giáo lý và cơ cấu chính quyền Mỹ. Nói thêm là đã cho Bảo Đại biết sẵn sàng làm Thủ Tướng với một số điều kiện.(129)
Trong thời gian ở Mỹ, nhờ sự che chở của Francis Spellman, Hồng Y Giám đốc Tuyên úy Ki-tô Roma trong quân đội Mỹ, Diệm tá túc tại Tu viện Maryknoll, thuộc tỉnh Lakewood, tiểu bang New Jersey. Có dịp làm quen với Thẩm phán Tối cao Pháp viện William O. Douglas, nhiều Thượng Nghị sĩ, Dân biểu như Mike Mansfield (Montana), John F. Kennedy (Massachusetts), Walter Judd, v.. v... Diễn thuyết tại nhiều nơi. Từ ngày này, Diệm trở thành một lá bài �chí sĩ quốc gia chống Cộng� trừ bị của Mỹ. Diệm cũng thường tuyên bố mình là nhân vật được biết nhiều nhất tại Việt Nam, chỉ thua có Hồ Chí Minh.(130)
Đại sứ Heath nhiều hơn một lần tiến cử Diệm trong các cuộc khủng hoảng chính phủ, nhưng cả Bảo Đại lẫn Pháp chỉ muốn những người đáng tin cậy như Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm, v.. v... Ngày 12/5/1952, chẳng hạn, Heath đề nghị cho Bảo Đại nắm chức Thủ tướng, và mời những người có khả năng như Nguyễn Hữu Trí hay Ngô Đình Diệm vào nội các, với chức vụ Phó Thủ Tướng; Pháp ra tuyên ngôn về một chính sách "tiến hoá" (evolutionary statement) đối với nền độc lập của Việt Nam; sửa đổi một số điều khoản lỗi thời trong Hiệp định 8/3/1949 và Hiệp ước Pau; đẩy mạnh hơn việc thiết lập QĐVN.(131) Khoảng một năm sau, ngày 28/4/1953, Heath nhận xét rằng Bảo Đại thông minh và hữu dụng như biểu hiệu đoàn kết Bắc-Nam, nhưng không có khả năng cỡ Churchill và đại loại; Tâm nhiệt tình và hữu hiệu, nhưng không đủ khả năng đoàn kết toàn quốc vì tính tình và lập trường thân Pháp; chỉ còn lại hai ứng cử viên Diệm và Trí. Hiện tại, Diệm không được vì cứng cổ [intransigence], chống Pháp, không được Bảo Đại ưa, và không ưa Bảo Đại. Chỉ còn lại Trí xứng đáng nhất.(132)
B. QUA ÂU CHÂU:
Sau khi Joseph Laniel (6/1953-6/1954) đồng ý trả độc lập hoàn toàn cho Việt Nam ngày 3/7/1953,(133) họ Ngô ráo riết vận động lên cầm quyền. Tại Việt Nam, Ngô đình Thục và Ngô đình Nhu mở rộng hoạt động với các tổ chức tôn giáo và chính trị. Ngô đình Nhu hợp tác với Lê Văn �Bảy� Viễn, Phạm Công Tắc, v.. v... mưu toan thành lập một liên minh chính trị vào cuối năm 1953. Đầu năm 1954, Ngô đình Thục, Ngô đình Nhu cùng nhóm Tinh Thần của Y sĩ Trần Văn Đỗ và Liên Đoàn Thanh Lao Công của Trần Quốc Bửu lập ra tổ chức tiền thân của Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng, tức Cần Lao.(134)
Diệm cũng từ Mỹ sang Belgium lo tiếp xúc Bảo Đại, mới từ Việt Nam qua Pháp chữa bệnh sán gan. Ngày 14/5, Bảo Đại gọi Diệm qua Paris, và Diệm đồng ý hợp tác. Hai ngày sau, Bảo Đại cử em trai Diệm, Ngô Đình Luyện, làm �đặc phái viên� tại Hội nghị Geneva để bí mật tiếp xúc với Mỹ. Ngày 24/5, khi được nhân viên Tòa Đại sứ Mỹ ở Paris tiếp kiến, Diệm tiết lộ đã được Bảo Đại ủy quyền về Việt Nam nghiên cứu việc thành lập một chính phủ mới. Diệm dự định rời Pháp ngày 26/5, nhưng sau đó hủy bỏ.
Sau cuộc gặp gỡ này, Mỹ chấp thuận Diệm, không vì Diệm là nhân vật lý tưởng, mà vì những người tiền nhiệm quá kém cỏi, và Diệm có hậu thuẫn của một số giáo mục Ki-tô. Tuy nhiên, Ngoại trưởng Dulles vẫn còn chủ trương khuyến khích Pháp tiếp tục hiện diện ở Đông Dương, nên chưa thuận yểm trợ trực tiếp cho QGVN như Bảo Đại và Diệm yêu cầu. Phần Bảo Đại cũng được một nhóm cực hữu Pháp áp lực đưa Diệm lên thay Bửu Lộc. Nhưng cái giá Diệm đòi hỏi khá cao: Toàn quyền về dân sự và quân sự. Trước ám ảnh đại họa Pháp sẽ cắt nửa nước cho Việt Minh, và tổng tuyển cử trong một thời gian ngắn để giải quyết thể chế chính trị tương lai, Bảo Đại đành nhân nhượng-chỉ bắt Diệm phải quì gối, thề trước thập tự giá là tuyệt đối trung thành, và duy trì ngôi báu nhà Nguyễn.
Cuối cùng, ngày 16/6/1954, giữa lúc chính phủ Laniel đã từ chức và Pierre Mandès-France có nhiều triển vọng lên làm Thủ tướng, Bảo Đại bổ nhiệm Diệm làm Thủ tướng toàn quyền. Ngày 25/6/1954, Diệm cùng một đoàn tùy tùng nhỏ lên đường về nước.
Phụ chú: Jean Baptiste Ngô Đình Diệm:
1. Department of Defense, US-Vietnam Relations, 1945-1967, 12 books, (Washington, DC: GOP, 1971), Bk 11, tr. 36-41.
2. Xem, chẳng hạn, Bernard B. Fall, The Two Vietnams: A Political and Military Analysis (New York: Praeger, 1965), tr. 235ff. Fall ghi nhận Khả là �Thượïng thư Bộ Lễ� sau khi từ chức đã cắt mọi liên lạc �với những kẻ xâm lăng đáng ghét,� �ủng hộ Phan Bội Châu,� và truyền xuống cho các con như Khôi và Diệm một tinh thần quốc gia nồng nhiệt;� Ibid., tr. 235. Fall, một học giả gốc Pháp viết khá nhiều về Việt Nam và chết tại Việt Nam, nhận định: �Sự kiện Bảo Đại là người kế thừa của các hoàng đế yếu ớt trong việc chống lại Pháp cũng có thể gây ra sự khinh thường ông ta trong Diệm� [The fact that Bao Dai was the descendant of emperors who had been weak in their resistance to the French may also account for Diem's contempt for him]; Ibid., tr. 475n3. Một lời võ đoán dễ hiểu trong thập niên 1950-1960. Thực ra, từ thời Đồng Khánh (1885-1889), các vua nhà Nguyễn do Khâm sứ và Toàn quyền Pháp lập nên, và chỉ còn công dụng của �một vòng hoa,� để hợp thức hóa chế độ �Bảo hộ� Pháp. Quan lại thì được tuyển từ giới trung gian bản xứ mà đa số là giáo dân Ki-tô hay cựu bồi bếp của viên chức, sĩ quan Pháp. Thành phần �tân trào� này hiểu rất rõ vị thế �làm kiểng� của các vua Nguyễn. Ngoài ra, Khả còn có liên hệ thân thiết với phòng Thành Thái (1889-1907), và từng nuôi tham vọng biến Thành Thái thành một vua theo Ki-tô giáo đầu tiên. Sự khinh thường phòng Khải Định (1916-1925) và cá nhân Bảo Đại (1926-1945) là điều dễ hiểu. Xem Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối nhà Nguyễn, 1883-1945, 3 tập (Houston: Văn Hóa, 1999-2000). [Sẽ dẫn: Các vua cuối] Ngoài ra, Diệm không ưa Bảo Đại vì đã hai lần ký Dụ đầy Diệm ra Quảng Bình. Xem chú 18 infra.
3. Direction des Services Franc¼ais de Securité en Indochine [DSFSI], �M. Jean Baptiste Ngo Dinh Diem, dit Nguyen Ba Chinh;� SHAT (Vincennes), Indochine, [10H 4195]. Tài liệu này hiện vẫn chưa giải mật. Xem phóng ảnh trong Nguyên Vũ, Paris Xuân 96 (Houston: Văn Hóa, 1997), tr. 165. Những chi tiết không có phụ chú trong bài này đều trích dẫn từ tài liệu trên. Xem thêm Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu [VNNB], tập III: Nhân vật chí, tái bản có bổ sung (Houston: Văn Hóa, 1997), tr. 262. Sẽ dẫn: Nhân vật chí, 1997.
4. Theo Lansdale, Diệm �đã cắt bỏ mối tình với người yêu đầu đời để dâng hiến cho tổ quốc� nên 60 tuổi vẫn còn độc thân. Xem chú 1 supra. Nhưng nhiều người đương thời, như Tướng Trần Văn Đôn André, cho rằng Diệm thiếu khả năng tình dục. Theo một nhân chứng, sáng ngày 2/11/1963, một số sĩ quan trẻ tại Bộ Tổng Tham Mưu đã tò mò kiểm chứng xem cơ thể Diệm có gì khác thường hay chăng. Phỏng vấn Tiến sĩ VĐĐ tại Houston, Texas (1996-2003).
5. Xem Ngô Đình Diệm, �L'Encrier de S. M. Tu-Duc: Traduction des Inscriptions [Nghiên mực của vua Tự Đức: Bản dịch những chữ khắc];� Bulletin des Amis du Vieux Hue [BAVH], Bộ IV, số 3 (Tháng 7-9/1917), tr. 209.
6. Phỏng vấn ngày 2/11/1985 tại Paris; Ngô Đình Diệm, �L'Ambassade de Phan Thanh Gian (1863-1864);� BAVH, Bộ VI, Số 1bis và 2 (Avril-Juin 1919), tr. 161. Ở đầu bài, Diệm tự giới thiệu là �học sinh trường Hậu bổ,� và bài này đã được đọc tại các buổi họp ngày 27/8 và 3/12/1918, và 4/3/1919. Ibid. Tác giả đa tạ ông Nguyễn Đắc Xuân đã cung cấp phóng ảnh bài viết này. Diệm chỉ dịch một phần tập tâu của Phan Thanh Giản và Phạm Phú Thứù, dưới sự hướng dẫn của Nguyễn Đình Hòe. Phần còn lại (thiếu đoạn đi sứ Espania) do Trần Công Tạn dịch; BAVH (1921), tr. 147-187.
7. Xem báo cáo về cuộc đàm thoại ngày 28/4/1955 giữa Bảo Đại với William Gibson, Đệ nhất thư ký Tòa Đại sứ Mỹ; FRUS, 1955-1957, I:332-336; Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu [VNNB], 1939-1975, tập I-C: 1955-1963 (Houston, TX: Văn Hóa, 2002), tr. 54-55.
8. Nguyên văn: �A year after his decision to give up becoming a priest. Diem falsified his age and took competitive examinations for the equivalent of a highschool diploma;� Robert Sharplen, The Lost Revolution (New York: Harper & Row, 1966), pp. 106-107.
9. Xem tiểu sử Ngô đình Thục trong CAOM (Aix), GGI, CP 125; Chính Đạo, Nhân vật chí, 1997:312; Idem., Cuộc thánh chiến chống Cộng (Houston: Văn Hóa, 2004), tr. 464-465. Tại Việt Nam, tưởng cũng nên ghi nhận, có tục lấy tên �mẹ già,� tức vợ chính thức, để khai sinh cho các con ngoại hôn hoặc thê thiếp.
10. Xem Chính Đạo, VNNB, Tập I-C: 1955-1963, tr. 110.
11. Theo Bernard Fall, niềm tin tôn giáo của Diệm là một loại hiếu chiến tàn bạo của một Quan tòa Dị giáo [ruthless militancy of the Grand Inquisitor]. Khi một người Pháp nói �tín ngưỡng chung của chúng ta,� Diệm thản nhiên trả lời: �Tôi tự cho tôi là một tín đồ Ki-tô Spain [Tây Ban Nha],� tức cuồng đạo hơn là hòa hoãn theo kiểu Ki-tô Pháp; Two Vietnams, 1965:236.
12. Xem Chính Đạo, Hồ Chí Minh (1892-1969), Con người & Huyền thoại, 3 tập (Houston: Văn Hóa, 1993-1997), tập I:161-162; Phụ bản 5, trong Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, 1883-1945, tập II:602-604. Trần Trọng Kim, trong Việt Nam Sử Lược, đã dẫn lời �một đại quan về hưu� để bài bác chi tiết trộn tro than Ngự sử Phùng bắn xuống sông Lam. �Đại quan về hưu� dấu tên này chắc không thể biết rõ sự việc bằng Khâm sứ Huế, người viết báo cáo vào tháng 2/1896, hay báo cáo của chính Nguyễn Thân. Đó là chưa nói đến thói quen chối tội của các tội nhân chiến tranh [war criminals], hoặc âm mưu ngụy tạo lịch sử để bảo vệ cho thượng cấp và đồng đạo (kiểu �Việt Cộng ném lựu đạn trước đài phát thanh Huế tối ngày 8/5/1963,� �nhân viên an ninh Mỹ ném mìn plastic tối 8/5/1963,� �toàn dân Việt Nam ghi ơn Ngô Tổng thống�). Đáng tiếc vì không được huấn luyện về phương pháp nghiên cứu và viết sử, lại không có tư liệu, Trần Trọng Kim khiến tập phổ thông lược sử của ông chứa nhiều dữ kiện và nhận định lầm lạc.
13. Có tài liệu cho rằng Khả là Chưởng giáo đầu tiên của trường Quốc Học; E. Le Bris, �Le Quoc Hoc;� BAVH (1916), số 1, tr. 80. Đây có lẽ dựa theo Dụ năm 1896 của Thành Thái, nhưng Toàn quyền Pháp không chấp thuận. Giám đốc trường này là một người Pháp. Về chức �Thượng thư bộ Lễ� của Khả, chúng tôi chưa thấy một tài liệu nào. Nhưng trong bài �Une ascension sur l'écran du roi: Poésie de S. M. Tu Duc, traduite par Ngô Đình Khả, Ministre honoraire; BAVH, số 2 (4-6/1916), tr. 223-227-bản dịch một bài thơ nói về chuyến du ngoạn của vua Tự Đức-Ngô Đình Khả chỉ ghi �hàm Thượng thư,� khác xa với chức Thượng thư thực sự, nói chi �Thượng thư đầu triều.� Trần Lục, hay cha Sáu [Père Six] ở Phát Diệm, một tay chân tín cẩn của Giám mục Puginier, cũng được thưởng hàm Thượng thư và Bắc đẩu Bội tinh.
14. Lời chứng của Nguyễn Thi, trong Trần Văn Giàu, Miền Nam giữ vững thành đồng (Hà Nội: NXB Khoa Học, 1964), tập I, tr. 36; Nguyệt Đàm và Thần Phong, Chín năm máu lửa dưới chế độ gia đình trị Ngô Đình Diệm (Sài Gòn: 1964), tr. 18. Theo hai tác giả này, nhân chứng là Cử nhân Nguyễn Trác, cựu Nghị viên trưởng An Nam. Xem thêm, Bùi Ngô đình Nhung, Thối nát (Sài Gòn: 1969); Hoàng Trọng Miên, Đệ nhất phu nhân (Los Alamitos, CA: 1989), I:128-129.
15. Nguyên văn: �Các anh em tôi cũng liên tục dâng hiến mạng sống họ cho nước Pháp trong dịp Cộng Sản nổi loạn. Diệm, em tôi, đã ngã xuống vì những viên đạn súng lục của một người Tàu Chợ Lớn, được gửi tới Phan Rang, nơi Diệm hăng say ngăn chặn sự xâm nhập của các cán bộ Cộng Sản từ Nam Kỳ� [Mes frères, eux mêmes ont exposé leur vie continuellement pour la France lors de la révolte communiste. Mon cadet Diệm a failli tomber sous les coups de révolver d'un chinois de Cholon, envoyé à cet effet à Phan Rang, où Diệm défendait énergétiquement l'entrée de l'Annam aux émissaires communistes envoyées de la Cochinchine]. Thư Ngô Đình Ngô đình Thục gửi Decoux ngày 21/8/1944; CAOM (Aix), PA 14, carton 2. Thư này do tác giả công bố lần đầu tiên trong Luận án Tiến sĩ tại Đại học Wisconsin-Madison năm 1984, rồi trên báo Lên Đường (Houston) năm 1989; in lại trong Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu [VNNB], 1939-1975, tập I-A: 1939-1946, tr. 200. Vài cá nhân đặt nghi vấn là Pháp ngụy tạo tài liệu trên. Nghi vấn này do sự thiếu hiểu biết về phương pháp bảo quản tài liệu văn khố. Hơn nữa thủ bút và chữ ký của Ngô Đình Ngô đình Thục khó thể giả mạo. Tưởng cũng nên ghi thêm rằng một vài cá nhân (như Lê Trọng Văn, Bùi Kha) đã tự động tẩy xóa bút phê của Decoux cũng như ghi chú của nhân viên văn phòng Toàn quyền và dấu cùng chữ ký thị thực của Văn khố Aix-en Provence Pháp, in vào sách họ.
16. Nguyên văn: �Franc¼ais ne veulent pas de nous, parce que nous sommes trop entiers, à fortiori Japonais qui préfèraient souplesse PHAM QUYNH dont ils vantent talent.� Báo cáo số 1806, A,B,C,D ngày 18/8/1944, Surete gửi DirSurGe; CAOM (Aix), 14 PA, c.2, d.19; trích đăng trong Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, III:856.
17. �Ngôi sao� thứ hai của Pasquier là Bùi Bằng Đoàn (1890-1955), từ Tuần phủ lên chứùc Thượng thư Bộ Hình. Ngày 6/5/1933, năm tân Thượng thư mới có mặt đầy đủ tại Huế nhân dịp gắn huy chương cho Bài và 4 ngườøi khác. Ngày 17/5, Thibaudeau chủ tọa phiên họp Hội đồng Nội các đầu tiên. Mười ngày sau, 27/5, tân Nội các họp dưới sự chủ tọa của Bảo Đại và Pasquier. Xem Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, tập III:793, 1111-1129 (Phụ bản bài tường thuật trên báo Nam Phong số 184 (5/1933). Đoàn sau này hợp tác với Hồ Chí Minh.
18. Theo Tổng Lãnh sự Hong kong, Diệm tuyên bố là bạn lâu đời của Bảo Đại, đã phục vụ như �Tể tướng� những năm cũ, và hai gia đình có liên hệ gần gũi [Ngo Dinh Giem [Diem] claimed that he was an old friend of Bao Dai, had served as his Prime Minister in former years, and that their families enjoyed close relations�]; CĐ 450, 30/12/1947, Hongkong gửi BNG; FRUS, 1947, VI:153. Việc tự đánh bóng để �bán mình� [sell yourself] cho Mỹ này không được tài liệu văn khố Pháp chứng minh. Thực tế, Diệm, như đã lược nhắc, chỉ được đặc cách lên hàng Thượng thư Bộ Lại, mà phận sự và quyền lợi đồng đều với bốn bộ khác, và năm 1935, chỉ được Bảo Đại cho lại chức Thượng thư hàm. Xem chú 21 infra.
19. Báo cáo ngày 10/5/1933, Pasquier gửi Colonies; CAOM [Aix], INF, c.366/d.2905; trích in trong Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, tập III:785-809, 1111-1145. Xem Phụ bản báo Tiếng Dân trong sách này.
20. Báo cáo số 303-A.P., 22/7/1933, Gougal gửi Colonies; CAOM (Aix), INF, c.366/d.2905; Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, III:804-806.
21. Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, III:806-807. Gần ba chục năm sau, Diệm lại tuyên bố với một viên chức Mỹ rằng sở dĩ Diệm từ chức, ngoài tinh thần chống thực dân, còn vì không đồng ý với chính sách �chống Cộng� của Pháp. Theo Diệm, Cộng Sản là sản phẩm của các chính phủ tả phái Pháp. Xem Memorandum of a Conversation, Saigon, Jan 16, 1962; FRUS, 1961-1963, II:41-42. Nội dung buổi nói chuyện này chứng tỏ Diệm, dù tự nhận đã nghiên cứu về Cộng Sản từ năm 1922 qua các tài liệu Switzerland [Thụy Sĩ], chẳng biết gì vai trò của địa bàn Trung Hoa cùng hoạt động của DALBURO Liên Sô Nga ở Vladivostok, Thượng Hải hay Hong Kong. Ngoài ra, Diệm có vẻ �rất linh động và sáng tạo� trong việc diễn giải thành tích dĩ vãng của mình. Năm 1963, Đại sứ Henry Cabot Lodge đi đến kết luận, không hẳn đã chủ quan, rằng Diệm và họ Ngô thuộc loại �dối trá và tội phạm� (liars and criminals); Ibid., IV:tài liệu 69 (deception, IV:127),77 (medival view of life; IV:143), 221.
22. CAOM (Aix), INF, c.366/d.2905; Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, III:808.
23. Năm 1934, Ngô đình Thục cũng tìm cách đả kích Bảo Đại bằng cách áp dụng �giáo luật� vào đám cưới của Bảo Đại với Nam Phương hoàng hậu (tức bắt Bảo Đại phải �rửa tội� trước khi làm đám cưới). Pháp giải quyết bằng cách cho một linh mục Pháp cử hành lễ cưới trong bí mật.
24. Note số 2995-SP/C, Huế, 4/4/43; CAOM (Aix), 14 PA, c.1. Ít tháng sau, do sự dàn xếp của Thân Thị Nam Trân (1905-1986), vợ Luật sư Trần Văn Chương (1898-1986), Ngô đình Nhu khiến gia đình Nguyễn Liên phải hủy bỏ cuộc đính hôn để Ngô đình Nhu kết hôn với Lệ Xuân, con gái thứ hai của Nam Trân và Chương, thua Ngô đình Nhu tới 14 tuổi.
25. Mối hiềm khích, nếu không phải hận thù, giữa họ Ngô và Phạm Quỳnh, là điều bất cứ giới chức quan lại nào ở Huế đều rõ. Các viên chức Pháp quyết định không ngả theo phe nào, theo đúng chủ trương chia để trị. Theo an ninh Pháp, �những phần tử trong họ Ngô, đặc biệt là Khôi, nuôi dưỡng lòng hận thù ngày một sâu đậm đối với Phạm Quỳnh người đã thụ hưởng nhiều lợi lộc nhất trong 'cuộc đảo chính ngày 2/5/1933.' Từ một nhà báo, Quỳnh đã trở thành Thượng thư Bộ Quốc Dân Giáo Dục, rồi thăng lên chức Tổng lý khá nhanh, nắm giữ tước cao nhất của hệ thống quan lại (Tứ trụ triều đình) năm 1944. Từ từ theo sự thăng tiến về danh vọng của Phạm Quỳnh, hận thù giữa họ Ngô với Phạm Quỳnh càng gia tăng . . . .;� �M. Jean Baptiste Ngo Dinh Diem, dit Nguyen Ba Chinh,� tr. 2; SHAT (Vincennes), 10H 4195. Xem thêm chi tiết trong Vũ Ngự Chiêu, �Social and Cultural Change in Vietnam Between 1940 and 1946,� Ph.D. dissertation, December 1984, University of Wisconsin-Madison, Part I, chapters 3, 4 & 6. Báo Tiếng Dân trong tháng 5/1933 cũng có bài xa gần nhắc nhủ �những người được cái của người khác đừng nên vội mừng� (có lẽ ám chỉ Phạm Quỳnh) và kết luận rằng mọi việc đều do Pháp chủ xướng. Huỳnh Thúc Kháng, tưởng nên nhấn mạnh, cùng chủ trương �thờ người Pháp làm bậc thầy để cầu tiến bộ� như Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác, v.. v...
26. CAOM (Aix), GGI, 7F 29, tr. 56.
27. Matsushita [Tùng Hạ] đã tới Đông Dương từ thập niên 1920. Năm 1938, bị trục xuất; nhưng trở lại Sài Gòn từ năm 1941. Matsushita thường tuyên bố là bạn thân và đại diện của Cường Để.
28. Xem chú 13 supra. Anh em Diệm, thường rất thích �thề trên thập tự giá� nhưng ít khi giữ những lời thề này, kể cả lời thề �trung thành� với Bảo Đại trước khi về làm Thủ tướng toàn quyền dân và quân sự vào tháng 6/1954. Xem infra.
29. Thời gian này, Decoux như ngồi trên đống lửa. Một mặt, phe Gaullist tăng gia hoạt động �kháng Nhật,� và Paris hoàn toàn im lặng trước nỗ lực xin qui phục của Decous. Mặt khác, Decoux đang đối diện mối hiểm họa sẽ bị Nhật tước đoạt quyền lực. Xem Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, III: 858-862.
30. Nguyễn Xuân Chữ, Hồi ký Nguyễn Xuân Chữ (Houston: Văn Hóa, 1996), tr. 243-249.
31. Chữ, 1996:247-248.
32. Bảo Đại, Le Dragon d'Annam (Paris: Plon, 1980), tr. 106. Mùa Thu 1945, Giám mục Ngô đình Thục cho rằng sở dĩ Diệm không nhận lời vì thấy chế độ do Nhật lập nên khó tồn tại lâu dài; hơn nữa quanh Bảo Đại có những thành phần tả phái và franc-mac¼on [tam điểm]. CAOM (Aix), GGI, CP 125. Lời chứng này khó tin cậy. Mục đích của Ngô đình Thục là biện minh cho sự hợp tác với Nhật của Diệm, một tội ác chiến tranh ở thời điểm này. Và có thể Ngô đình Thục cũng không biết đến, hoặc tảng lờ quyết định của Tsuchihashi hay lời tuyên bố sẽ tống giam Cường Để vào Côn đảo nếu Hoàng thân về nước. Nhân viên an ninh Pháp, năm 1954, cho rằng Diệm từ chối lời mời lập chính phủ vì Nhật không chịu cho thống nhất ba miền Bắc, Trung, Nam; SHAT (Vincennes), 10H 4195. Theo ký giả Sharplen, �Diem refused, not because he objected to the Japanese but because he did not feel he would be able to establish a free government-among other things, the southernmost area of Cochin China was initially be exlcuded from it. Furthermore, he now saw the handwriting on the wall and did not want to put himself in the position of being declared a collaborator when the war was over. He returned to Saigon and waited;� 1966:110.
33. Xem Vũ Ngự Chiêu, The Other Side of the 1945 Vietnamese Revolution: The Empire of Vietnam (4-8/1945) / Phía bên kia cuộc cách mạng 1945: Đế Quốc Việt Nam (4-8/1945) (Houston: Văn Hóa, 1996). Bản Anh ngữ tập sách nhỏ này, trích ra từ luận án năm 1984, đã in trong Journal of Asian Studies vào tháng 2/1986.
34. Vào cuối tháng 7, đầu tháng 8/1945, có những vận động đón Cường Để hồi hương làm Cơ Mật viện trưởng cho Bảo Đại, nhưng Cường Để không về nước được vì chiến tranh chấm dứt đột ngột vào giữa tháng 8/1945.
35. Chủ tịch Ủy Ban Chính Trị Bắc Bộ đã bị bó buộc trao chính quyền cho nhóm Nguyễn Khang-Nguyễn Quyết ngày 19/12/1945. Xem Chữ 1996:284-290. Tài liệu CS Việt Nam cho rằng đây là một cuộc �cách mạng,� nhưng chưa phải là �cách mạng vô sản.� Xem những bài viết trên Cờ Giải Phóng (Hà Nội) từ tháng 8 tới tháng 11/1945.
36. Cùng bị sát hại với cha con Khôi là Phạm Quỳnh.
37. FRUS, 1952-1954, XIII:554.
38. FRUS, 1961-1963, II:42.
39. Stanley Karnow, Vietnam: A History (New York: Viking Press, 1983), tr. 216-217.
40. CAOM (Aix), GGI, CP 125; Nhân vật chí, 1997:313.
41. Vẫn theo Drapier, Ngô đình Nhu, lúc ấy ở Hà Nội, không dám ra khỏi nhà vì sợ bị bắt cóc. Tại Huế cũng có tin Ngô đình Thục bị Việt Minh bắt; CAOM (Aix), GGI, CP 125.
42. Giám mục Lê Hữu Từ & Phát Diệm, 1945-1954 , tr. 117.
43. Trước đây, thường có cuộc tranh cãi về hai chữ �giải pháp� [solution] và �thí nghiệm� [experiment]. Biến cố lịch sử cho thấy lá bài Bảo Đại không giải quyết được Ngô đình Nhu cầu chính trị của phe chống Cộng, tức tiêu diệt chế độ Hồ Chí Minh, nên không thể gọi là một �giải pháp.� Nó vẫn nằm trong phạm trù một �thí nghiệm.� Về cuộc tái xâm lăng của Pháp, xem Vũ Ngự Chiêu, �Social and Cultural Change,� Part III: �The Brutality of World Politics� (1984); Georges Thierry d'Argenlieu, Chronique d'Indochine (Paris: 1985); Général de Gaulle et l'Indochine (1982).
44. Nguyên văn: �À mon avis, il serait avantageux pour le calme de rétablir le Roi comme chef régulier avant le 9 mars.� Ngày 28/12/1945, trong một lá thư gửi một giáo sĩ Pháp, Drapier cho rằng gia đình Bảo Đại là "gia đình thân Pháp bậc nhất trong dân chúng Việt Nam (la plus francophile de tous les annamites); CAOM (Aix), CP 125.
45. Trần Trọng Kim, Kiến Văn Lục: Một Cơn Gió Bụi (Sài Gòn: 1969), tr. 134ff. Sẽ dẫn: MCGB, 1969.
46. D'Argenlieu, Chronique, 1985:385-92.
47. Nguyên văn công điện số 2464/CI/142, ngày 23/1/1947, như sau: "Ne suis pas d'accord. Ne rien décider avant que nouveau gouvernement ait formé directives;" d'Argenlieu, Chronique, 1985:387.
48. Số người chủ trương thương thuyết với Hồ chỉ có Đảng Cộng Sản Pháp và một số cá nhân như Léon Blum. Ngày 31/12/1946, trong phần trích dịch những dư luận báo chí ở Paris, báo L'Humanité đăng lại lời bình luận của báo Le Parisien libéré [Người Paris Giải Phóng]: �Sẽ là một sự điên rồ khó tha thứ khi mưu toan đặt lên một chính phủ bù nhìn nào đó sẵn sàng hợp tác với chúng ta, nhưng không có nền tảng dân chúng. Một sự điên rồ mà trong tương lai sẽ rất đắt giá cho chúng ta.� (Nguyên văn: Ce serait une impardonable folie que de susciter pour pouvoir comme partenaire, un quelconque gouvernement fantoche prêt à la collaboration avec nous, mais sans fondement populaire. Une folie qui dans l'avenir nous couterait fort cher).
49. Cầm đầu nhóm này là phe Gaullist. Xem infra.
50. Nguyên văn: "Chính trị với tôi đã hết. Dân tộc tôi đã muốn dân chủ: tôi không có gì chống lại điều đó, bởi vì ngay từ đầu tôi đã cộng tác với chính phủ mới.... Tôi rất kính trọng Chủ tịch Hồ Chí Minh" [La politique est pour moi une chose morte. Mon peuple a voulu une démocratie: je n'y ai fait aucune opposition, puisque j'ai même accepté, au début, de collaborer avec le nouveau gouvernement.... J'ai beaucoup d'estime pour le Président Ho Chi Minh....]; Combat (Paris), 15/10/1946; PA 28, Carton 7, d. 164; trích đăng trong Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, III:995-996.
51. SHAT (Vincennes), 10H 643.
52. AAN, 1946 [Séance du 20 décembre 1946]:196.
53. AAN, 1946, [2è Séance du 23/12/1946]:321.
54. AAN, 1947:882-883.
55. AAN, 1947:835.
56. AAN, 1947: 856, col 2.
57. Những tài liệu văn khố Nga và Trung Cộng mới giải mật cho biết Hồ chỉ chính thức nối lại liên hệ với Liên Sô Nga từ tháng 2/1950. Nhưng Stalin giao cho Bắc Kinh cai quản Đông Dương. Theo một viên chức Trung Cộng, tối 16/2/1950, Stalin từ chối lời đề nghị của Hồ là Liên Sô và VNDCCH ký Hiệp ước hữu nghị giống như Nga mới ký với Trung Cộng.
58. Blokov Ranh (1909-1952?), em trai Trần Phú (1904-1931), Tổng thư ký đầu tiên của Đảng CSĐD, từng theo học Đại học Phương Đông [KUTV] Mat-scơ-va và một thời gian là �bạn đồng hành� của Nguyễn Thị Vịnh (Minh Khai) (1910-1941) ở Trung Hoa; CAOM (Aix), SPCE, carton 367. Năm 1947, Ranh bị Pháp bắt giữ cùng Bourov Dương Bạch Mai (1904-1964), nhưng phải trả tự do vì áp lực của Đảng Xã Hội và báo Figaro; AAN, 1947, 833; Ibid., 1949, II:1509. Năm 1949 qua Tiệp Khắc, sau bị khai trừ khỏi Đảng CSĐD, khi tái lập Đảng Lao Động Việt Nam năm 1951 (cùng Lê Hy); Hoàng Văn Hoan, Giọt nước trong biển cả (Bắc Kinh: 1987), tr. 319-321.
59. CĐ số 1313, 27/3/1947, Caffery gửi BNG; FRUS, 1947, VI:81-82.
60. CĐ số 154, 7/5/1947, O'Sullivan gửi BNG; FRUS, 1947, VIII:94-95. De Pereyra, tưởng nên thêm, chủ trương thí nghiệm Bảo Đại. Nhưng từ năm 1950, de Pereyra hết hy vọng ở thí nghiệm chống Cộng này.
61. CĐ 289, 17/4/1947, Bangkok gửi BNG; FRUS, 1947, VI:87-88; CĐ 361, 7/5/1947, Bangkok gửi BNG; Ibid., VI:92-93.
62. CĐ 145, 7/5/1947, Bangkok gửi BNG; FRUS, 1947, VI:93-94.
63. Thành phần chính phủ thứ tư của VNDCCH như sau: Chủ tịch: Hồ Chí Minh; Cố vấn: Vĩnh Thụy; Ngoại Giao: Hoàng Minh Giám; Quốc phòng: Tạ Quang Bửu; Tài chính: Lê Văn Hiến; Tư pháp: Vũ Đình Hoè; Kinh tế: Phan Anh; Canh Nông: Ngô Tấn Nhơn(?); Y tế: Hoàng Tích Tri; Lao động: Nguyễn Văn Tạo; Cứu tế, Xã hội: Chu Bá Phượng (?); Giáo dục: Nguyễn Văn Huyên; Cựu chiến binh: Vũ Đình Tụng (Y sĩ, Ki-tô); Trong hàng Thứ trưởng, có: Trần Duy Hưng (Nội vụ), Trần Văn Bính (Tài chính), Trần Công Tường (Tư Pháp), Nghiêm Xuân Yêm (Canh Nông), Tôn Thất Tùng (Y tế), Nguyễn Khánh Toàn (Giáo dục), Ngô Tử Hạ (Cựu chiến binh); Cù Huy Cận (Thứ trưởng Kinh tế Nhà nước).
64. Ngày 28/12/1945, trong thư gửi một giáo sĩ Pháp, Tổng Giám Mục Drapier cho rằng gia đình Bảo Đại là "gia đình thân Pháp bậc nhất trong dân chúng Việt Nam (la plus francophile de tous les annamites), và theo ý ông ta, nên cho Bảo Đại lên ngôi như trước ngày 9/3 (À mon avis, il serait avantageux pour le calme de rétablir le Roi comme chef régulier avant le 9 mars); CAOM (Aix), CP 125.
65. Ngày 2/2, Kim xuống tàu thủy từ Hong Kong về Việt Nam. Tới Sài Gòn, Kim tạm trú trong nhà Luật sư Trịnh Đình Thảo, cựu Thượng thư Tư pháp trong chính phủ Kim (4-8/1945). Pignon và nhiều người khác, gồm cả cựu Khâm sai miền Nam Nguyễn Văn Sâm, hay tới thăm viếng. Nhưng chỉ hơn một tháng sau, d'Argenlieu bị Dân biểu Bollaert thay thế. Tân Cố vấn chính trị Michel chỉ ghé thăm Kim một lần ngày 8/5/1947, rồi từ đó biệt tín. Nhóm Quảng và Đán cũng xa lánh dần Kim, làm việc cho những "sứ giả" mới của Bảo Đại như Phan Văn Giáo và Trần Văn Quế; Trần Trọng Kim 1969:161-169,171-174,178. Theo Phạm Khắc Hoè, ngày 8/2/1947, Phan Huy Đán và Đinh Xuân Quảng đưa Hoè tới gặp Trần Trọng Kim và Nguyễn Văn Sâm ở nhà Trịnh Đình Thảo; Phạm Khắc Hoè 1987, tr. 312-4.
66. CAOM (Aix), INF, c.138-139, d. 1245.
67. Ibid; FRUS, 1947, VI:133.
68. SHAT [Vincennes], 10H 643.
69. Ibid., 10H 252?. Xem thêm Quang Toản & Nguyễn Hoài, Những hoạt động của bọn phẩn động đội lốt Thiên chúa giáo trong thời kỳ kháng chiến (1945-1954) (Hà Nội: NXB Khoa Học, 1965), Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu, 1945-1975, tập II-A: Các tổ chức tôn giáo (đang in).
70. FRUS, 1947, VIII:133-134.
71. FRUS, 1947, VIII:138-139.
72 . FRUS, 1947, VIII:140-141.
73. FRUS, 1947, VI:139-40.
74. Chính phủ Nguyễn Văn Xuân ngày 8/10/1947 gồm có: Thủ tướng: Xuân; Phó Thủ tướng: Trần Văn Hữu; Bộ trưởng [BT] Tư pháp: Nguyễn Khắc Vệ; BT Công chính: Nguyễn Văn Tÿ; BT Canh Nông: Trần Thiện Vàng; BT Thông tin: Nguyễn Phú Khai; Thứ trưởng Thông tin: Trần Văn Ân.
75. Vào cuối chiến dịch Léa, hơn 1,000 lính Pháp tử trận, và khoảng 3,000 người bị thương. Võ Nguyên Giáp ghi rằng VM chỉ chết 260, 168 bị thương; Chiến đấu trong vòng vây, 3rd rev. ed (Hanoi: QDND, 2001), tr. 170 [138-180]; Lịch sử, 1986:169-70.
76. Am Consul, Hanoi, to State Dept, 9 Feb 1948, 851G.00/2-948, RG 59; Ronald H. Spector, United States Army in Vietnam, Advice and Support: The Early Years, 1941-1960 (Washington, DC: Center for Military History, United States Army, 1983), tr. 90.
77. Từ Hong Kong trở về, ngày 17/9, Sâm nhân danh MTQGTNTQ gửi thư cho TT Truman, yêu cầu can thiệp vào Đông Dương; FRUS, 1947, VI:142-143. Sâm cũng quyết định xuất bản báo Quần Chúng tại Sài Gòn để có cơ quan ngôn luận trong tay. Cái chết của Sâm đã được cảnh cáo từ trước-Ngày 23/6/1947, báo L'Echo du Viet-Nam [Dư Luận] của Nguyễn Phan Long loan tin Sâm đã bị Tòa án Mặt trận Quân Khu VII của Nguyễn Bình cho lệnh bắt giải ra xét xử về tội vi phạm lệnh giải tán MTQGTNTQ.
78. CD 5398 ngày 16/12/1947, Caffery gửi BNG; FRUS, 1947, VI:151.
79. William C. Bullitt, �The Saddest War� [Cuộc chiến buồn thảm nhất]; Life (29/12/1947); FRUS, 1947, VI:110.
80. CAOM (Aix), INF, Carton 154.
81. Văn khố Nga và Trung Cộng chưa công bố hết tài liệu về những cuộc gặp gỡ giữa Hồ và Stalin trong tháng 2/1950, nhất là lý do biện minh cho việc giải tán Đảng Cộng Sản ngày 5/11/1945.
82. CĐ số 305, 5/12/1946, Acheson gửi Moffat; FRUS 1946, VIII:67-69; Department of Defense, US-Vietnam Relations, 1945-1947 (Washington, DC: GPO, 1971), Bk 8, tr. 85-86.
83. Ngày 18/12/1947, Tổng Lãnh sự Charles Reed đã từ Sài-gòn điện trước cho Hopper rằng có thể �Giệm� [Diệm] sẽ ghé thăm; FRUS, 1947, VI:152-155.
84. CAOM (Aix), 7F 27.
85. Theo tin tình báo Pháp, ngày 8/2/1848, Diệm đồng ý với lập trường của VNQGLH: Độc lập - thống nhất. Năm Lửa Trần Văn Soái cùng lập trường, và tỏ ý quí trọng Diệm. Ngày 11/2/1948, Tiết [Thiet], một người thân cận Diệm và Ngô đình Nhu, từ chức Giám đốc báo Thống Nhất ở Huế, về Quảng Nam làm Giám đốc trị sự công ty bảo hiểm Le Secours. Lý do chính là không đồng ý với Trần Văn Lý. Ngày 12/2/1948, Diệm cử Đông đi Hà Tiên, Sa Đéc, Cần Thơ, Vĩnh Long gặp một số linh mục kháng chiến cùng đại diện Cao Đài, Hoà Hảo để vận động cho Bảo Đại. Theo Đông, phần lớn giáo dân trong vùng Việt Minh ủng hộ kháng chiến; nhưng sẽ ngả theo Bảo Đại nếu được độc lập, thống nhất. Cũng định gửi một số sách báo vào vùng Việt Minh, như cuốn Tôi Muốn Tự Do. Ngô đình Nhu sẽ lên đường qua Pháp chừng hai tháng. Dự trù gặp Bảo Đại, và xuống Roma; SHAT (Vincennes),10H 4201.
86. Tháp tùng Spellman có Fulton G. Green. Thời Sự (Hà Nội), 7/3/1949.
87. CAOM (Aix), Indochine, 7F 29, tr. 57.
88. Nguyên văn: �Les aspirations du peuple vietnamien dépassaient les termes de l'accord d'Halong [12/1947]." SHAT (Vincennes), 10H 4138.
89. Ngày 12/5/1948, Đại sứ Mỹ Caffery điện báo về Washington là Vụ trưởng Á Châu Bộ Ngoại Giao Pháp tiết lộ rằng Paris đã cho phép Bollaert chấp thuận việc thành lập một chình phủ lâm thời với Xuân làm Thủ tướng. Tuy nhiên, chính phủ này phải đặt ở Hà Nội hay Huế. Việc thương thuyết giữa Bollaert và Xuân sẽ dựa trên căn bản Hiệp ước Hạ Long ngày 7/12/1947. Bảo Đại sẽ ký tên vào Hiệp ước mới (5/6/1948) giữa Bollaert và Xuân.
90. Công báo Việt Nam [CBVN], I:1 (4/6/1948), tr. 4.
91. SHAT [Vincennes], 10H 642.
92. Công báo Nam phần Việt Nam, 3:22 [31/5/1948]:359; CBVN, I:1 [4/6/1948]:7. Cùng ngày, Xuân ban hành Nghị định thứ 2, công bố tổ chức và chức quyền của chính phủ này; SHAT (Vincennes), 10H 642.
93. CBVN, I:1 [4/6/48]:4.
94. Chủ tịch Hội đồng Tổng trưởng, kiêm Tổng trưởng Quốc Phòng: Nguyễn Văn Xuân. QVK, Phó Chủ tịch, Tổng trấn Nam Phần: Trần Văn Hữu. QVK, Tổng trấn Trung phần: Phan Văn Giáo. QVK, Tổng trấn Bắc phần: Nghiêm Xuân Thiện. QVK, Tùng Bộ Quốc Phòng: Trần Quang Vinh. Lễ nghi, Quốc Gia Giáo dục: Nguyễn Khoa Toàn. Nội vụ: Nguyễn Hữu Trí [không nhận] Tư pháp: Nguyễn Khắc Vệ. Tài chánh/Kinh tế Quốc gia: Nguyễn Trung Vinh. Công tác & Kế hoạch: Nguyễn Văn Ty. Thông tin, Báo chí & Tuyên truyền: Phan Huy Đán, Y sĩ [sau đổi tên thành Phan Quang Đán] Canh Nông: Trần Thiện Vàng. Y tế: Đặng Hữu Chí, Y sĩ. Thứ trưởng tùng Dinh Chủ tịch: Đinh Xuân Quảng. Thứ trưởng tùng Bộ Quốc gia Giáo dục: Hà Xuân Tế (CBVN, I:1, [4/6/1948]:15-6). Vì Nguyễn Hữu Trí từ chối Bộ Nội vụ, chức này do Xuân kiêm nhiệm. Ngày 25/9/1948, Trí được cử làm đại diện VN tại Paris, với Vũ Quí Mão làm "Đặc vụ viên." "Chỉ dụ" ngày 9/6/1948 bổ nhiệm Đỗ Quang Giai làm Thứ trưởng Nội vụ; và Ngô Quốc Còn, Thứ trưởng Lao Động & Hoạt động xã hội (CBVN, I:2 [18/6/1948]:23-4). Qua ngày 28/6/1948, Lê Công Bộ làm Thứ trưởng Nội An (CBVN, I:3[31/7/1948]:35). Ngày 2/6/1948, Xuân ký sắc lệnh thứ ba, ban hành "Pháp qui tạm thời" (Statut Provisoire) của nước Việt Nam. Cờ vàng, 3 sọc đỏ. Quốc ca: Thanh niên hành khúc [nhưng không nhắc tên tác giả Lưu Hữu Phước. (Ngày 7/6/1948, Xuân ký sắc lệnh hủy bỏ pháp qui tạm thời này. Một tuần sau, ngày 14/6, Xuân ký Sắc lệnh liên quan đến các tổ chức công quyền tạm thời. Việt Nam chia làm ba 3 miền, thủ đô là Hà-nội. Quốc kỳ là cờ vàng (chiều dọc bằng 2/3 chiều dài), giữa có 3 sọc đỏ (dày bằng 1/15 chiều dọc của lá cờ và cũng cách nhau chừng ấy). Quốc ca: Thanh niên hành khúc. Theo Nguyễn Văn Tâm, Tâm là tác giả lá cờ vàng 3 sọc đỏ và chọn bài hát của Lưu Hữu Phước làm quốc ca. Theo Nguyễn Khánh, lá cờ vàng ba sọc đỏ là biến thể của lá cờ nền vàng ba sọc xanh của Cộng Hòa Nam Kỳø.
95. Nguyên bản tiếng Pháp như sau: �La France reconnait solennement l'indépendance du Vietnam auquel il appartient de réaliser librement son unité. De son côté, le Vietnam proclame son adhésion à l'õUnion Franc¼aise en qualité d'Etat associé à la France. L'indépendence du Vietnam n'a d'autres limites que celles que lui impose son appartenance à l'õUnion Franc¼aise.� CBVN, I:2 [18/6/48]:18; CAOM (Aix), Amiraux, 50062. Ngoài ra, 2/Việt Nam bảo đảm tôn trọng những quyền lợi của công dân Pháp, tôn trọng các nguyên tắc dân chủ, và dành ưu tiên cho các cố vấn và chuyên viên kỹ thuật Pháp trong việc tổ chức nội bộ cùng kinh tế; 3/ sau khi thiết lập một chính phủ lâm thời, các đại diện Việt Nam và Pháp sẽ ký những thỏa ước về văn hoá, chính trị, quân sự, kinh tế, tài chính và kỹ thuật.
96. FRUS, 1948, VI:25. Ngày 6/6/1948, tại Hà-Nội, Báo L'Entente, cùng hầu hết các báo chí loan tin về �Hiệp ước� (Accords) Hạ Long. Theo các báo này, Bảo Đại đã ký hiệp ước với Bollaert, dưới sự chúng kiến của Nguyễn Văn Xuân. Theo Phó Lãnh sự Mỹ Edwin C. Rendall tại Hà-nội, cả ba người cùng ký, và Bảo Đại dùng thêm hai chữ �S.M.� (Sa Majesté) trước tên mình (FRUS, 1948, VI:24). Hôm sau, 7/6, Hồ phản đối việc "bọn bù nhìn" (fantoche) ký kết hòa ước với bất cứ nước ngoài nào. Ngày 9/6/1948, Tổng Lãnh sự Abbott gặp Xuân và Hữu. Theo Xuân cần đạt hoà ước gấp, nếu muốn có cơ hội thành công. Việc thương thuyết sẽ tiếp tục ở cả Pháp và Việt Nam, do "Siêu Đại sứ" Bảo Đại thực hiện. Có thể Bảo Đại sẽ hồi hương, nếu đó là kết quả của một cuộc trưng cầu dân ý. (Tướng Pierre Boyer de Latour du Moulin, Tư lệnh Quân Pháp ở miền Nam thì cho rằng Bảo Đại sẽ hồi hương trong một thời gian ngắn). Xuân không mấy tin tưởng vào việc chiêu hồi những người Quốc Gia trong hàng ngũ Việt Minh. Việt Minh đang áp dụng những thủ đoạn hung bạo-kể cả chôn sống-để ngăn chặn phong trào về tề; FRUS, 1948, VI:25-6). Ngày 9/6/1948 này, Ferdinand Baeyens, Giám đốc Á Châu vụ Pháp, thông báo Đại sứ Bruce: Chính phủ Pháp rất bi quan về chính phủ Xuân. Bảo Đại không ưa Xuân, chỉ giữ Xuân cho tới lúc "tường đã khô." Bộ Ngoại Giao và Hải ngoại Pháp đều muốn thay Xuân, chẳng hạn như Diệm; FRUS, 1948, VII:24-25.
97. Nghị định ngày 23/8/1948; CBVN, I:8 (4/9/1948):102. Bảy Viễn đặt bản doanh ở số 31, rue de Canton, Chợ Lớn
98. Ngày 3/7/1948, Ngoại trưởng Marshall điện cho Woodruff Wallner, Phụ tá Vụ trưởng Tây Âu, đang có mặt tại Paris:
1. Mặc dù vấn đề thống nhất ba kỳ của Việt Nam cần Quốc Hội Pháp phê chuẩn, nhưng Thủ tướng Robert Schuman cần công khai yểm trợ chữ ký của Bollaert;
2. Liệu chính phủ Schuman có gặp trở ngại khi đưa ra Quốc Hội biểu quyết việc thống nhất ba kỳ?
3. Mặc dù Schuman không dám đưa vấn đề ra trước Quốc Hội, nhưng có lẽ cần những lãnh đạo cao cấp nhất-Schuman, Bidault, và Coste-Floret-cùng ra sức;
4. Vấn đề sát nhập Nam Kỳ chỉ khó khăn trong hiện tại? Nếu thế, lúc nào thuận lợi?
5. Cần có những nhượng bộ nào để chứng tỏ thành khẩn khởi đầu?
Cuộc chiến ở Việt Nam đã kéo dài gần ba năm, và Pháp khó đạt một chiến thắng quân sự. Cuộc chiến này làm suy yếu nền kinh tế của Pháp và liên hệ của phương Tây với các sắc dân phương Đông. Quan điểm của Bộ Ngoại Giao Mỹ là sự tiếp tục cuộc biểu diễn những hình nộm mà Pháp đã sản xuất suốt hai năm qua chỉ giúp HCM mạnh hơn, và bảo đảm việc xuất hiện một quốc gia do Cộng Sản thống trị, ngả theo phe Liên Sô. Để tránh điều này, điều quan trọng hơn cả là phải cho cái gọi là chính phủ trung ương hiện nay, hoặc bất cứ một chính phủ chống Cộng nào, một cơ hội thành công bằng những nhân nhượng có thể quyến rũ đại đa số những thành phần không Cộng Sản; FRUS, 1948, VI:30.
Ngày 9/7/1948, Bollaert nói đang đòi Quốc Hội phải phê chuẩn Hiệp ước Hạ Long, như một điều kiện để trở lại Đông Dương. Bollaert đã yêu cầu chính phủ Schuman và Quốc Hội phải có hành động trước cuối tháng 7/1948, và hy vọng sẽ thuyết phục được Schuman đệ trình trước Quốc Hội toàn bộ hồ sơ. Tại Quốc Hội, Bollaert cũng tin rằng sẽ thắng lợi với một đa số vừa phải, để phê chuẩn thỏa ước Hạ-long cũng như chính sách của Bollaert tại Đông Dương. Quyết nghị của Quốc Hội cũng đương nhiên hủy bỏ Hiệp ước 1862 [đúng hơn, hiệp ước 1874], theo đó Nam Kỳ được cắt nhượng cho Pháp. Tuy nhiên, việc sát nhập Nam Kỳ trở lại với lãnh thổ Việt Nam cần một cuộc trưng cầu dân ý; nhưng trong hoàn cảnh hiện tại không dễ tổ chức trưng cầu dân ý. Về những thỏa ước kỹ thuật, Bollaert cho rằng có thể bắt đầu thảo luận từ mùa Thu 1948, không cần sự chấp thuận của Quốc Hội. Thứ Hai, 19/7/1948: Bollaert khẳng định QH phải phê chuẩn Hiệp ước Hạ Long. Không đồng ý với đề nghị "chấp nhận ngầm" mà Coste-Floret đưa ra ngày 17/7/1948. Bollaert cũng lo ngại Bảo Đại mải mê vui hưởng lạc thú ở Âu Châu, không muốn trở lại Đông Dương, và yêu cầu Mỹ can thiệp; FRUS, 1948, VI:34-35.
Thứ Hai, 19/7/1948: Thủ tướng Schuman xin từ chức. Thứ Tư, 21/7/1948: André Marie được cử làm Thủ Tướng. Thứ Hai, 26/7/1948: Chính phủ Marie nhiệm chức. Schuman, cựu Thủ tướng, nắm Bộ Ngoại giao. 5/8/1948: Đại sứ Caffery báo cáo: Bollaert không chịu trở lại Đông Dương nếu Quốc Hội không thảo luận về vấn đề thỏa ước Hạ-long. 19/8/1948: Thủ tướng Marie tuyên bố ủng hộ Tuyên Ngôn Chung Hạ Long. Tuy nhiên, chưa có một quyết định chính thức nào của Quốc Hội Pháp. ï Bollaert muốn được phê chuẩn chính thức như một hiệp ước, và trở thành Hiến chương của nền bang giao Pháp-Việt (Charte des rapports franco-vietnamiens).
99. FRUS, 1948, VI:25-26.
100. FRUS, 1948, VII:42. Ngày 9/7/1948, Bollaert ăn trưa với Bảo Đại. Khi Bollaert hỏi về việc hồi hương, Bảo Đại nói là còn tùy hoàn cảnh. Bảo Đại muốn đạt được càng nhiều nhượng bộ của Pháp càng tốt; FRUS, 1948, VI:32-33.
101. FRUS, 1948, VI:32-33. Ngày 14/7, Marshall chấp thuận đề nghị của Wallner, chỉ thị cho Đại sứ Caffery tiếp xúc chính phủ Truman. Ngày 15/7, Caffery thông báo đã hoàn tất nhiệm vụ, nhưng nhân viên Bộ Ngoại Giao Pháp cho biết vấn đề cực kỳ khó khăn; Ibid., tr. 33-34. Nhưng năm ngày sau, 19/7, chính phủ Schuman bị đổ.
102. CAOM (Aix), INF, c. 154/1354.
103. Ngày Chủ Nhật, 17/1/1949, Lovett, XLTV Ngoại trưởng Mỹ, gửi công điện cho Đại sứ tại Pháp: Mỹ muốn thấy Pháp đi đến thỏa thuận với Bảo Đại hay bất cứ một "nhóm quốc gia chân chính" nào khác có khả năng lôi kéo đa số dân chúng, và không thể cam kết yểm trợ một chính phủ không vận động được dân chúng ủng hộ, sẽ biến thành một chính phủ bù nhìn, tách biệt khỏi dân chúng, và sự hiện hữu chỉ dựa vào binh lực Pháp. Caffery sẽ được thông báo về hành động phối hợp Mỹ, Bri-tên và Pháp để chống Cộng Sản sau khi nhận được báo cáo của Bri-tên; FRUS, 1949, VII:5. Ngày Thứ Tư, 20/1/1949, Đại sứ Caffery điện báo là Pignon cho biết đã đạt được các điểm căn bản. Hai bên đồng ý rằng cần Quốc Hội Pháp phê chuẩn việc thống nhất Nam Kỳ trước khi chính thức công bố các điểm thỏa thuận để bảo đảm rằng dân chúng sẽ chấp nhận giải pháp Bảo Đại. Vấn đề chủ quyền gồm 2 lãnh vực: Ngoại giao và nội bộ. Về nội bộ, việc bàn giao cơ cấu hành chính có thể thực hiện bất cứ lúc nào, nhưng về tư pháp, cần sắc luật của Quốc Hội. Chính phủ Pháp đang nghiên cứu thời điểm cho Bảo Đại hồi hương, và chuẩn bị hồ sơ chuyển qua Quốc Hội. Quốc Hội sẽ bàn thảo về việc này trước ngày bầu cử hàng tổng (canton) ngày 15/3/1949. Nếu chính phủ thay đổi lập trường, hay Quốc Hội không phê chuẩn, Pignon sẽ từ chức; FRUS, 1949, VII:6.
104. FRUS, 1949, VII:7.
105. FRUS, 1949, VII:10. Thư ngày 8/3/1949 của Auriol gửi Bảo Đại gồm 7 mục chính: Việt Nam thống nhất (Unité du Vietnam); Vấn đề ngoại giao (Question diplomatique); Vấn đề quân sự (Question militaire): Việt Nam sẽ có một quân đội riêng để duy trì trật tự, an ninh nội địa và bảo vệ đế quốc (la défense de l'Empire). Trong trường hợp tự vệ, có thể được các lực lượng Liên Hiệp Pháp yểm trợ (appuyé par les forces de l'Union francaise). Quân đội VN cũng tham dự vào cuộc bảo vệ biên cương của toàn Khối Liên Hiệp Pháp; Vấn đề chủ quyền trong nước (Souveraineté interne); Vấn đề tư pháp; Vấn đề văn hóa; Vấn đề kinh tế và tài chính (CP 290).
106. AAN, 1949:1545-6. Phụ bản các điều thỏa thuận chỉ công bố vào ngày 18/6/1949.
107. Nguyên văn: �La solution militaire n'est pas obtenue; Bao Dai ne jouit d'aucune autorité au Viet Nam. Le Viet Nam est derrière Ho Chi Minh. Il faut traiter en premier lieu avec Ho Chi Minh; AAN, 1949:1521.
108. AAN, 1949:1522-1523.
109. AAN, 1949:1523, col 3.
110. AAN, 1949:1523, col 3.
111. CAOM (Aix), PA 19, Carton 4/68; AAN, 1949:1590, col1; FRUS, 1949, VII:11.
112. SHAT (Vincennes), Indochine, 10H 642.
113. FRUS, 1949, VII:35-36.
114. FRUS, 1949, VII:27,31.
115. FRUS, 1949, VII: 21-22, 38-45.
116. FRUS, 1949, VII:19-20.
117. FRUS, 1949, VII:24-25; Pentagon Papers, Gravel, I:63.
118. FRUS, 1949, VII:29-30.
119. Irving 1975:69. Ngày Thứ Hai, 6/3/1949, tình báo Pháp báo cáo: Việt Minh triệu tập một buổi họp các cấp chỉ huy quân sự cấp trung đoàn tại Đồng-Tháp-Mười, hoạch định kế hoạch tấn công trả đũa việc Bảo Đại hồi hương, tức vào dịp không trăng từ 22 tới 28 tháng 3 (CP 208). Thứ Tư, 8/3/1949, Việt Minh thành lập Đặc khu Sài-gòn/ Chợ-lớn, gồm các tỉnh Gia-định, Chợ-lớn, và khu Đông-thành cũ (?).Quyết định này do Nguyễn Bình, Lê Duẩn và Phạm Ngọc Thuần ký. Ban chỉ huy của Đặc khu: Chủ tịch: Tô Ký, Phó Tư lệnh Khu 7; Phụ tá: Nguyễn Văn Công, Phó Chủ tịch, Ủy viên quân sự đặc khu Sài-gòn / Chợ-lớn; Bí thư: Ta Ngô đình Nhut Tu (?), Thanh tra chính trị và công an Đông Nam Bộ; Chủ tịch UBHC Sài-gòn/ Chợ-lớn; Chính ủy: Xung, Trưởng phòng chính trị Khu 7. Khu 7 cũ tiếp tục hiện hữu. Bộ Chỉ huy gồm có: Chỉ huy trưởng, Huỳnh Văn Nghệ; Phụ tá: Nguyễn Van Dung; Chính ủy: Nguyễn Văn Tri. (CP 208) Ngày 26/4/1950, nhân cuộc biểu tình chào mừng Bảo Đại hồi hương tổ chức linh đình tại Hà-nội, Việt Minh ném một quả lựu đạn, khiến một em bé tử thương. Theo Lãnh sự Gibson, Pháp kiều bắt đầu bán các cơ sở kinh doanh, chuẩn bị hồi hương; FRUS, 1949, VII:21.
120. Thủ Tướng: " Đức" Bảo Đại, Quốc trưởng. Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng: Trung tướng Nguyễn Văn Xuân. Tổng trưởng Ngoại Giao: Nguyễn Phan Long; Tư Pháp: Nguyễn Khắc Vệä; Quốc Gia Kinh tế và Kế hoạch: Trần Văn Văn. Bộ trưởng Phủ Thủ tướng kiêm Nội vụ: Vũ Ngọc Trản; BT Tài chánh: Dương Tấn Tài; BT Ngoại Giao: Lê Thăng; BT Quốc Phòng: Trần Quang Vinh; BT Thương Mại & Kỹ nghệ: Hoàng Cung; BT Canh Nông, Xã hội, Lao động: Phan Khắc Sửu; BT Công tác, Giao thông & Kiến thiết: Trần Văn Của; BT Quốc Gia Giáo dục: Phan Huy Quát; BT Thanh niên: Nguyễn Tôn Hoàn; BT Y tế: Nguyễn Hữu Phiếm; BT Thông tin: Trần Văn Tuyên. TTK Chính phủ: Đặng Trinh Kỳ; CBVN, II:2 [13/8/1949]:14. Ngày 3/7/1949, Bảo Đại ký sắc lệnh 4-CP, bổ nhiệm Nguyễn Hữu Trí làm Thủ hiến Bắc Việt; Phan Văn Giáo, Thủ hiến Trung Việt, và Trần Văn Hữu, Thủ hiến Nam Việt; CBVN, II:1 [6/8/1949]:6.
121. Ngày 24/3/1950, Luật tiết lộ với cơ quan tình báo Pháp (SEHAN) rằng Diệm không thân cận được với Bảo Đại vì bản tính Ngô đình Nhu nhược (faible) và thiếu cương quyết (indécis) của Bảo Đại. Nếu lên nắm quyền, Diệm sẽ chống Cộng thẳng tay, mà muốn thế cần có sự tín nhiệm và yểm trợ tuyệt đối của Bảo Đại. Điều này chắc không có. Ngoài ra, lập trường chính trị của Diệm cũng khác biệt. Thứ nhất Diệm muốn biết chắc thể chế độ chính trị của Việt Nam sẽ được tương tự như India trong Liên Hiệp Bri-tên. Nhưng sự bảo đảm chắc chắn này không được chứng tỏ qua thực tế, như việc bàn giao chủ quyền, hay qua sự tiến hoá của các khuynh hướng chính trị tại Pháp. Luật thêm rằng tại miền Bắc, Diệm chẳng có bao nhiêu người ủng hộ, ngoại trừ phe Ki-tô chịu ảnh hưởng Phát-diệm. Tại Hà-nội, theo Luật, có thể có Trần Văn Lai, Trần Trung Dung và Nguyễn Xuân Chữ. SHAT (Vincennes), Indochine, 10H 1039.
122. Một trong những biên khảo xuất sắc về liên hệ giữa QTCS với Đảng CSĐD do học giả Anatoli Sokolov thực hiện. Ấn bản Việt ngữ của tác phẩm này, theo Sokolov, không được chính xác. Một số phụ chú đã bị cắt bỏ. Tác phẩm Ho Chi Minh: The Missing Years, 1924-1941 (2003) của Quinn-Judge và tuyển tập Lê Hồng Phong (Hà Nội: 2002) cũng chứa đựng nhiều tài liệu Nga giá trị. Xem thêm những công bố của học giả Việt trong Tạp chí Lịch Sử Đảng (1999-2000).
123. Hầu hết các chi tiết trên đã được công bố từ thập niên 1950. Tuy nhiên, ngày tháng và chi tiết mới được tài liệu văn khố Trung Cộng xác tín từ thập niên 1990. Một trong những tác phẩm nên đọc: Qiang Zhai, China & The Vietnam Wars, 1950-1975 (Chapel Hill: Univ. of North Carolina Press, 2000), tr. 15-20. Xem thêm Võ Nguyên Giáp, Đường tới Điện Biên Phủ (Hà Nội: NXBQĐND, 2001), tr. 10-16.
124. Đại tướng Giáp, trong tập hồi ký Điện Biên Phủ (1994) và trong các ấn bản mới của hồi ký (2001) đã đủ can đảm và sự lương thiện trí thức để ghi nhận sự thực lịch sử cay đắng này.
125. Ngày 21/6/1954, Churchill viết thư cho Eisenhower, đề nghị thành lập một chiến tuyến chống Cộng trong vùng Thái Bình Dương [�establishing a firm front against Communism in the Pacific sphere]. Churchill cũng tán thành việc thành lập một Liên Phòng Đông Nam Á, giống như Liên Phòng Bắc Đại Tây Dương tại vùng Đại Tây Dương và Âu châu [We should certainly have a SEATO, corresponding to NATO in the Atlantic and European sphere]. Churchill nhấn mạnh: �In no foreseeable circumstances, except possibly a local rescue, could British troops be used in Indochina, and if we were asked our opinion we should advise against United States local intervention except for rescue;� FRUS, 1952-1954, XIII:1728-1729.
126. Sau đó, có tin đồn Cường Đểå về Bangkok, được một cán bộ CS tên Quy hết sức chiều đãi. Tuy nhiên, hiện chưa có tài liệu nào minh chứng việc này.
127. FRUS, 1950, VI:884-886. Tối ngày 25/10/1950, Acheson điện cho Heath về việc thành lập QĐGVN. Theo Acheson, viên chức Pháp nghĩ rằng có thể đưa các lực lượng giáo phái vào, tổng số chừng 75,000 người. Ngô đình Thục, Chi và Diệm cũng muốn biến lực lượng Ki-tô Giáo thành một phần quân đội; Ibid., VI:909-10. Ý kiến của Ngô đình Thục, thực ra, chẳng có gì mới lạ. Từ năm 1947, quan tướng Pháp đã khéo léo sử dụng các sứ quân tôn giáo, và ngay cả băng đảng, để ngăn chặn Việt Minh. Các Đơn Vị Lưu Động Bảo Vệ Ki-tô Giáo của Leroy [UMDC] hoạt động không xa giáo phận của Ngô đình Thục. Tháng 7/1950, Bộ Chỉ Huy UMDC rời về tỉnh lÿ Bến-tre. Trung tá Leroy được làm Tỉnh trưởng tỉnh này [cho tới ngày 25/11/1952; SHAT (Vincennes), 10H 643.
128. Ngày Thứ Tư, 24/1/1951, XLTV Đại sứ Mỹ Gullion báo cáo là Bảo Đại đã nhận được thư của Diệm. Nhưng Bảo Đại không ưa Diệm vì Diệm từng nhiều lần từ chối hợp tác. Phần anh em Diệm và Ngô đình Thục chủ trương giải pháp lập Bảo Long lên ngôi, với Nam Phương và Cường Để làm Nhiếp Chính; FRUS, 1951, VI:359-61.
129. FRUS, 1951, VI:348.
130. Ngày 21/6/1954, Diệm nói với Đại sứ Heath: �I am best known figure in Vietnam after Ho Chi Minh;� FRUS, 1952-1954, XIII:1727. Khi đại ngôn điều này, Diệm quên mất Bảo Đại, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Tường Tam, v.. v... Phê bình về lời hợm hĩnh của Diệm, một viên chức ngoại giao Mỹ nhận xét Diệm là �nhân vật thứ hai, cách rất xa, Hồ Chí Minh.�
131. FRUS, 1952-1954, I:134-41.
132. FRUS, 1952-1954, I:522-523.
133. Thương thuyết bắt đầu từ ngày 8/3/1954. Ngày 4/6/1954 [28/4/1954], Laniel và Nguyễn Trung Vinh ký thoả hiệp "kiện toàn [perfection] nền độc lập của Việt Nam." Hiệp ước này chỉ được �paraphé� [ký tắt]; SHAT (Vinvennes), 1K 233, d. 40.
134. Xem chi tiết về tổ chức này trong Chính Đạo, VNNB, Tập I-C: 1955-1963 (Houston: Văn Hóa, 2000) & Tập II-B: Các tổ chức chính trị (Houston: Văn Hóa, đang in). Xem thêm Phạm Văn Liễu, Trả Ta Sông Núi, I:333-342. Nên lưu ý, trong Chính Cương của Cần Lao, không hề đề cập đến thuyết �sáng tạo� hay �tạo hóa� mà đôi lần đề cập đến thuyết �tiến hóa.� Điều này chứng tỏ Ngô đình Nhu có thể là một tín đồ Ki-tô, nhưng �chống Giáo sĩ� [anti-clerical] như Ngô đình Nhu thú nhận với Phái đoàn điều tra LHQ vào ngày 28/10/1963; UNGA, Agenda Item 77, Doc. A/5630, 7/12/1963.
Bài trong tháng
Ba bé Ngoan về
Bin Laden Lá phiếu cuối cùng
Bush hay Kerry?
Bush: bốn năm dài trước mặt
Chuyến về của Thầy Nhất Hạnh
Chùa vào đời Lê
Cổ vật VIỆT NAM ở Đức
Dấu ấn công trình KH thời Lê
George, Thượng đế đây!
Huyền thoại phố phường
Hội thảo chuyên đề KANT
Kinh MILINDA vấn đạo
Kinh Phật khắc gỗ
Kinh đô cổ 500 năm
Kỷ lục Việt Nam
Laurel Kendall
Linh tinh chuyện thế sự
Mộ cổ văn hoá Hạ Long
Ngô Đình Diệm là ai?
Người đẹp cụt đầu
Nhận xét về vụ treo cờ
Những cơn mơ tình cờ
Nói chuyện với VNCH Foundation
Năm Tượng Vua Trần
Pauline ơi!
Phong trào Da vàng ca
Quan niệm thơ Xuân Diệu_Chế Lan Viên
Thích Trí Quang_Cách mạng 1.11
Truy tìm Ung thư Vú
Truyện ngắn: Sân nhà
Tuổi thơ
Tàn một cuộc chơi
Tên gọi của Thăng Long
Văn học dịch miền Nam 55-75
Vĩnh biệt một giấc mơ
Copyright Chuyển Luân 2005
Designed by HT MEDSOFT
CHUYỂN LUÂN ONLINE
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)