Bàn về quyền dân sự và chính trị của công dân trong
xã hội dân sự ở nước ta, xin kính mời bạn đọc tham khảo diễn văn kỷ
niệm 150 Đảng Dân chủ Xã hội Đức.
Đây là ngày kỷ niệm của đảng lâu đời nhất nước Đức. Đây cũng là ngày lễ của châu Âu đấu tranh cho tự do và dân chủ. 150 năm này là cả một thiên lịch sử đầy những thắng lợi và thất bại, những cuộc chiến tranh khủng khiếp và tàn bạo, các cuộc nổi dậy và sự đàn áp; có thể nói đấy là các cuộc nổi dậy luôn luôn với nhận thức cho rằng các xã hội có thể thay đổi, dân chủ là có thể thực thi, nếu như chúng ta hiểu rõ được chúng ta phấn đấu, bảo vệ hay phải giành lấy những giá trị gì, và nếu như chúng ta đủ dũng cảm vượt qua được mọi đàn áp.
Mọi chuyện tùy thuộc vào việc chúng ta đã và luôn luôn dám đối mặt với tâm trạng cảm thấy mình bất lực, dám như thế vì chính mình và vì những người khác, dám tiến tới những bước phát triển mới. Với ý chí không gìlay
chuyển nổi, nhiều nam nữ đảng viên Đảng Dân Chủ Xã hội Đức đã phấn đấu
như vậy trong suốt quá khứ đầy biến động của đảng mình, dám xả thân cho
niềm tin của mình, để đẩy mạnh phong trào, để giành được sự công nhận của xã hội, giành lấy sự tồn tại của chính mình, và nhiều người đã hy sinh.
Những con người dũng cảm này gửi lại chúng ta di chúc: Không nên coi lễ kỷ niệm hôm nay chỉ là “nơi để tưởng nhớ”. Nhìn vào nhiệm vụ của mình trong tương lai, chúng ta phải tự hỏi: Khẩu hiệu “Tiến lên!” (“Vorwaerts!”) [2] của hôm qua sẽ có ý nghĩa gì đối với triển vọng sắp tới nhìn từ hôm nay?
Xin các quý vị hãy cho tôi bắt đầu từ năm 1863, xin hãy nhớ đến sự nghèo khốn, sự bóc lột, nhớ đến những điều kiện lao động mà ngày nay chúng ta chỉ thấy ở một số nước đang phát triển mà chúng ta từng phê phán; xin thưa đấy cũng chính là đời sống ngột ngạt thường ngày của hàng triệu người Đức thời đó. Thử hỏi những người thời ấy dám nổi dậy đấu tranh sẽ có thể lựa chọn như thế nào: Nên chăng đấy sẽ là sự nổi dậy để dẫn đến cách mạng, để rồi lại thiết lập nên một nền thống trị mới của những người trước đó đã từng bị áp bức? Tình hình đã đến mức gần xảy ra một kịch bản như thế. Nhưng Ferdinand Lassalle – người đã từng trải qua cuộc cách mạng 1848 ở tỉnhRhein
– đã tìm thấy đáp án khác cho nghèo khốn và áp bức. Ngày nay trong tai
chúng ta chúng ta vẫn còn vang lên cương lĩnh của ông: Thay đổi xã hội
bằng chính sách giải phóng con người, nhằm tạo ra sự tham gia của quảng
đại quần chúng nhân dân vào chính sự. Mục tiêu này trước hết bao gồm
giáo dục, cưỡng bách giáo dục đối với mọi người, đương nhiên bao gồm cả
những nghiệp đoàn giáo dục tự lập của công nhân nhằm giúp mỗi cá nhân có
thể thăng tiến nhờ có hiểu biết qua học hỏi. Giải phóng con người bằng
cách thực hiện tham gia vào các quyền đã ghi thành luật, nhất là bằng
cách mỗi người tự nâng cao quyền năng của mình. Cách đây 150 năm những
đòi hỏi này là cách mạng, và hôm nay vẫn còn rất hiện đại.
Trong thời kỳ Đảng Dân chủ Xã hội Đức mới được thành lập, đương nhiên phải đặt cuộc đấu tranh vì những quyền bình đẳng của cộng đồng công nhân bị áp bức lên trước. Cương lĩnh Eisenach năm 1869 ghi rõ, đấy là bầu cử tự do, bình đẳng trong cả nước, bất chấp sự khác biệt về đẳng cấp xã hội của những người tham gia bầu cử, là cấm lao động trẻ em, là các tòa án phải độc lập.
Trong cuộc đấu tranh triền miên trong nội bộ đảng DCXHĐ, cuối cùng quan điểm đã thắng thế là: không thiết lập một đặc quyền giai cấp mới nào. Vì không thể đáp trả sự bất bình đẳng bằng cách thiết lập nên một sự bất bình đẳng mới. Hơn ba thập kỷ sau khi Lassalle thành lập ĐDCXHĐ, Eduard Bernstein, nhà lý luận nổi tiếng và cũng là người bị đả kích rất nhiều của ĐDCXHĐ, đã mô tả: “dân chủ phải vừa là phương tiện, vừa là mục tiêu”. Đối với tôi, trong nhãn quan chính trị mới này hàm chứa một trong những cống hiến lịch sử vĩ đại nhất của đảng DCXHĐ. Hồi ấy, ĐDCXHĐ đã rất sớm làm cho dân chủ có ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu rộng trong một bộ phận đáng kể của tầng lớp công nhân và phong trào xã hội chủ nghĩa ở nước Đức. Chính là ĐDCXHĐ đã đấu tranh cho cải cách, chứ không phải cho việc làm cách mạng. Và cũng chính là ĐDCXHĐ đã kiên trì con đường của mình và cuối cùng đã vận động được đa số tham gia, với cái đích là cải thiện từng bước cụ thể đời sống con người, thay vì công bố những mục tiêu không tưởng xa vời.
Nhưng phong trào cộng sản thế giới đã quyết định cho mình con đường khác – hiển nhiên với những hệ quả vô cùng khủng khiếp. Phong trào này đã thiết lập nên một giai cấp nắm quyền mới, và thay thế sự thống trị cũ bằng một sự thống trị mới. Còn tự do, công bằng xã hội, sự ấm no… người công nhân phải mong ngóng một cách vô vọng.
Chính vì thế, ngày nay chúng ta càng đánh giá cao những nỗ lực cải cách của phong trào xã hội dân chủ. Nhờ những nỗ lực này, chúng ta lần đầu tiên có được Luật Bảo hộ lao động, Luật về Quyền tham gia bầu cử của phụ nữ, và nhiều điều khác nữa. Thể chế dân chủ đầu tiên của nước Đức – cụ thể ở đây là Nền Cộng hòa Weimar – sẽ không thể thiết lập được, nếu như các đảng viên xã hội dân chủ – đứng đầu là Friedrich Ebert và Philipp Sheidemann – không có can đảm phấn đấu cho sự hợp tác chính trị với những lực lượng to lớn khác của các đảng phái tư sản. Đặc biệt là, các đảng viên xã hội dân chủ đã đấu tranh kiên cường hơn, bền bỉ hơn nhiều nhà dân chủ khác trong việc bảo vệ nền cộng hòa này. Các đảng viên xã hội dân chủ đã nêu cao lý tưởng của mình về tự do, bình đẳng và đoàn kết, quyết đấu tranh chống lại mọi kẻ chỉ muốn áp bức và chiến tranh.
Không thể nào quên bài nói của Otto Wels ngày 23-03-1933 tại Quốc hội Đức, giữa lúc quốc xã đã bắt giam nhiều người chống đối, đồng thời khiến nhiều người chống đối khác phải sống lưu vong. “Người ta có thể tước đoạt mạng sống và tự do của chúng tôi, nhưng danh dự của chúng tôi thì không bao giờ!..” Bài nói ấy của Otto Wels quả là “can đảm nhất chưa từng có tại Quốc hội Đức” – đúng như Peter Struck đã nhận xét.
Chúng ta nên ghi nhớ, bằng cách nói “Không!” với cái gọi là Đạo luât Ủy quyền[3], hồi đó 94 nghị sỹ của ĐDCXHĐ chẳng những đã cứu danh dự của chính mình, mà còn cứu cả danh dự của thể chế dân chủ đầu tiên của nước Đức (nền Cộng hòa Weimar – ND chú giải). Những con người ấy đã hiến tặng mọi người Đức chúng ta một trang sử chính nghĩa của dân chủ – đấy cũng là sự đối nghịch hoàn toàn đối với tội lỗi và sự hổ thẹn (của sử nước Đức – ND chú giải), đấy cũng là một kinh nghiệm quý báu cho thấy con người ta có thể kiên định với những giá trị của mình – cho dù bị bêu giếu, bị làm nhục, bị đầy đọa. Ngày nay chúng ta trân trọng với tinh thần biết ơn sự can đảm của họ.
Trong hàng ngũ những người này có Kurt Schumacher, một trong những nghị sỹ đã bác bỏ cái gọi là Đạo luật Ủy quyền. Sau hàng chục năm bị giam trong trại tập trung, khi chiến tranh kết thúc, ông đã chống lại sự quyến rũ muốn thành lập một đảng công nhân bao gồm những người xã hội dân chủ và những người cộng sản. Bởi vì ông nhận ra rằng – xin trích lời ông – Đảng Cộng sản Đức “không phải là một giai cấp Đức, mà là một quốc đảng xa lạ”. Tại miền Đông nước Đức, Đảng Dân Chủ Xã hội Đức chính thống xưa kia mãi đến sau năm 1989 (khi CHDC Đức sụp đổ – ND chú giải) mới được tái lập. Tôi vô cùng biết ơn vì điều này.
Ngược lại, ở miền Tây nước Đức, ĐDCXHĐ đã tham gia một cách có ý nghĩa quyết định cùng với những người thuộc đảng bảo thủ và đảng tự do, làm cho Cộng Hòa Liên Bang Đức có thể hoạt động có hiệu quả, với thẩm quyền rộng rãi, trở thành một “liên bang dân chủ và xã hội” như đã quy định trong Đạo Luật Cơ Bản, và chúng ta đều biết Đạo luật này được ban hành cũng ngày 23 tháng 5[4].
Ngày nay chúng ta đều biết thể chế dân chủ của chúng ta thật vững chãi, cho dù đôi lúc suy yếu tùy theo tình trạng của các đảng phái. ĐDCXHĐ chẳng những có thể nhìn nhận lại truyền thống lâu đời nhất của mình. ĐDCXHĐ còn phải thực hiện sự thay đổi rất sâu sắc từ bên trong. Đơn giản vì ĐDCXHĐ ngày nay không còn là đảng của giai cấp nữa. Trong quá trình học hỏi lâu dài và gian khổ, ĐDCXHĐ đã phải tự phát triển mình để trở thành đảng của nhân dân. Cương lĩnh Godesberg năm 1959 đã xác định, củng cố và thúc đẩy sự cải tổ này.
Đối với hầu hết chúng ta, những cống hiến của ĐDCXHĐ cho CHLBĐ thật rõ ràng. Tôi xin kể ở đây những cải cách xã hội được tiến hành trong những năm thập niên 70 dưới thời Willi Brandt, giai đoạn đầu tiên đổi mới của Chính sách phương Đông mở cửa hướng sang Cộng Hòa Dân Chủ Đức và các nước láng giềng Đông Âu, chính sách này đã giúp vén lên bức màn sắt.
Cuốn phim (chiếu trong lễ kỷ niệm này – ND chú giải) cũng cho chúng ta thấy những cống hiến của Thủ tướng Liên bang Helmut Schmidt và Gerhard Schroeder, cả hai vị này hôm nay cũng có mặt tại đây cùng với chúng ta. Các nhiệm kỳ thủ tướng của hai vị gắn liền với những cống hiến lâu bền của ĐDCXHĐ đối với CHLBĐ.
Trong suốt 150 năm qua vấn đề cốt lõi của dân chủ xã hội là: xã hội đoàn kết, thể chế dân chủ thường xuyên được cải thiện. Nhưng trong thế giới thay đổi ngày nay, nhiều thách thức mới đang đặt ra cho ĐDCXHĐ cũng như cho các đảng khác. Trong đó vấn đề trung tâm là các đảng phải luôn luôn là một bộ phận của một xã hội công dân tự lớn mạnh, và nhờ đó luôn luôn tạo ra được những mối ràng buộc vững chắc cho một chương trình chính trị tổng quát (được hiểu là chiến lược phát triển – ND chú giải).
Nhiệm vụ này không hề dễ, bởi vì trong những năm qua chúng ta đã chứng kiến nhiều phong trào phản đối; những phong trào này nhiều khi cực đoan hơn các chính đảng, thường tập trung chỉ vào một vấn đề, và những phong trào này tư coi mình là đối thủ của các đảng. Những phong trào này cho thấy nhiều công dân muốn phải có tiếng nói của mình. Tôi hoan nghênh và ủng hộ điều này. Các đảng không nên lo sợ về hình thức tham gia này của công dân, mà ngược lại nên coi đấy là một hệ thống cảnh báo sớm, để nhờ đó có thể luôn luôn đi cùng với thời cuộc. Về phần mình, các đảng cũng cần phải có những phương thức tham chính mới, để từ đó làm cho sự năng động của mình tìm thấy hướng đi trong cuộc sống hàng ngày của nền dân chủ đại nghị của chúng ta. Tóm lại: Hình thức tham chính mới có một vai trò bổ sung quan trọng, nhưng dứt khoát không thay thế cho dân chủ đại diện.
Một lần nữa chúng ta hãy nghĩ xem, điều tôi vừa trình bầy có thể thấy rõ trong vấn đề: Các sáng kiến của công dân thường đại diện những mối lợi ích riêng biệt – nhìn chung là chính đáng; trong khi đó ngược lại các đảng phải hướng về cái chung nhiều hơn, phải để mắt vào cái tổng thể. Thậm chí đôi khi các đảng có thể thành công trong việc tác động vào những cử tri của mình để lựa chọn những quyết định mâu thuẫn với đường lối hiện hành đến nay hoặc những lợi ích ngắn hạn của đảng. Tôi hiểu, trong phạm vi nội bộ một đảng điều này không được ưa chuộng lắm. Nhưng mà chúng ta đã chứng kiến: Chính những quyết định như thế thường là những quyết định có ý thức trách nhiệm đối với cả nước.
Hôm nay tôi chúc mừng ĐDCXHĐ 150 tuổi. Cho tôi nói lời cảm ơn và đánh giá cao đối với những người suốt 150 năm qua đã đấu tranh cho tự do, công bằng và đoàn kết và qua đó đã cải thiện đời sống của hàng triệu người.
Cùng với lời cảm ơn ĐDCXHĐ, tôi đánh giá cao tất cả những ai đang hoạt động trong các đảng dân chủ vì hạnh phúc của tất cả chúng ta – dù đấy là các hiệp hội tại các địa phương hay là trong khung khổ Chính sách Châu Âu, dù họ là làm việc nghiệp dư hay chuyên nghiệp. Cống hiến của họ đã góp phần vào những thành tựu trong nền dân chủ của chúng ta. Vì vậy tôi cũng xin chúc mừng tất cả chúng ta việc chúng ta có các đảng dân chủ. Các đảng này do con người tạo ra, vì thế chúng không hoàn hảo và không tránh khỏi thiếu sót, cho nên cần luôn luôn thực hiện phê bình, tự phê bình và phải chịu học. Các đảng dân chủ ở nước ta là cần thiết cho sự sống của nền dân chủ ở nước ta, và trong tương lai cũng không thể nào thiếu chúng. Với ý nghĩa ấy, xin nhiệt liệt chúc mừng sinh nhật (của ĐDCXHĐ – ND chú giải)!
Suy nghĩ của tôi đơn giản: Lịch sử 150 năm của ĐDCXHĐ (SPD), về mặt nào đó mà nói cũng phản chiếu lịch sử thất bại của Đảng Cộng Sản Đức và sau này là Đảng Xã hội Thống Nhất Đức – đảng cầm quyền ở Cộng Hòa Dân Chủ Đức kể từ khi nhà nước này được thiết lập năm 1949, cho đến khi nó bị chính nhân dân của mình lật đổ năm 1989. Thực tế này gợi lên nhiều điều phải suy nghĩ.
Hai trào lưu: Cải cách và cách mạng vô sản
Trước hết xin thưa, cách dây 150 năm, hoặc thậm chí ít nhiều sớm hơn nữa, lịch sử phong trào cộng sản và công nhân trên thế giới nói chung và ở nước Đức nói riêng, ngay từ đầu – trước cả khi Marx bước lên vũ đài chính trị với Tuyên Ngôn Cộng Sản – cũng là lịch sử của hai trào lưu đấu tranh khác biệt nhau và đối lập nhau khủng khiếp, gần như giữa nước và lửa. Một bên là trào lưu dân chủ xã hội – được những người mác-xít đặt cho cái tên là “cải lương”, còn một bên là trào lưu của cách mạng chuyên chính vô sản. Cuộc đấu tranh giữa hai trào lưu này – mặc dù cả hai đều thuộc về phong trào cộng sản và công nhân quốc tế – càng về sau càng đối kháng nhau quyết liệt, chẳng kém gì đấu tranh với kẻ thù giai cấp. Chỉ xin điểm lại, các nhà lý luận mác-xít – kể từ Marx, Lénin trở xuống – đã giành cho trào lưu cải lương và toàn bộ cánh xã hội dân chủ sự bác bỏ tuyệt đối, với những lời lẽ và việc làm nặng nề nhất, không hiếm khi rất đẫm máu trong các chính quyền xô-viết và cộng sản sau này – dù ở châu Âu hay châu Á.
Nhân dịp này, nhìn lại phong trào cộng sản và công nhân thế giới 150 năm qua, có thể khẳng định: Tư tưởng của trào lưu cách mạng vô sản là thực hiện khát vọng xây dựng một xã hội mới không người bóc lột người – mang tên là chủ nghĩa xã hội, với 2 đặc trưng xuyên suốt: Thực hiện chuyên chính vô sản và công hữu hóa tư liệu sản xuất. Sau những bước phát triển ban đầu, phong trào này đạt tới đỉnh cao là thiết lập nên hệ thống thế giới xã hội chủ nghĩa gồm 12 quốc gia, bao gồm toàn Đông Âu và một phần lớn châu Á, sau này có thêm Cuba.
Hệ thống các quốc gia XHCN này có ảnh hưởng quan trọng tới phong trào độc lập dân tộc trong 2 thập kỷ đầu tiên sau chiến tranh thế giới II, qua đó chi phối 1/3 quả địa cầu. Hệ thống thế giới XHCN phân rã rất sớm, đạt tới hồi kết là sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô Đông Âu trong các năm 1989 – 1991.
Sau chặng đường 150 năm kể trên, cuối cùng thế giới ngày nay đã chứng kiến sự phá sản và thất bại hoàn của trào lưu cách mạng vô sản dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác – Lênin. Đồng thời thế giới cũng chứng kiến: Trào lưu dân chủ xã hội là một trong những yếu tố quyết định đem lại những thành quả quan trọng cho công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động ở hầu hết các nước phát triển – đặc biệt là các nước Bắc Âu. Trong những thành quả ấy, trước hết phải nói tới các quyền tự do, dân chủ của cá nhân con người, các điều kiện để mỗi con người ngày một tự nâng cao quyền năng của mình trong một chính thể dân chủ, cuộc sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân lao động ngày một cải thiện và nâng cao cùng với sự phát triển của đất nước.
Có thể nói một cách tổng quát: Sự phát triển của các nước công nghiệp, kể cả những tiến bộ đạt được trong thể chế chính trị và đời sống văn hóa – xã hội, có sự đóng góp không thể thiếu của trào lưu dân chủ xã hội. Nếu muốn, có lẽ cũng có thể nói: Do sự vận động bên trong như vậy – trước hết được hiểu là những thắng lợi của trào lưu dân chủ xã hội – và và do những thay đổi trên thế giới, chủ nghĩa tư bản tại các nước công nghiệp này đã ngày một bớt đi “mùi đế quốc chủ nghĩa”. Ở phạm vi toàn cầu, chính sự vận động này đã góp phần từng bước đẩy lùi chủ nghĩa đế quốc trên thực tế. Đấy chính là xu thế vận động của thế giới đã diễn ra từ nửa sau thế kỷ 20 và đang tiếp diễn.
Bản kết toán của trào lưu cách mạng vô sản tại các nước LXĐÂ nói ngắn gọn là: (1)chỉ thành công trong bạo lực đập tan (ở Nga) hay xóa bỏ (ở các nước Đông Âu) sự thống trị của giới cầm quyền áp bức đương thời, (2)nhưng thất bại hoàn toàn trong xây dựng một chế độ xã hội mới; nội dung cốt lõi được đề xướng thành lý tưởng của trào lưu này là giải phóng con người cuối cùng chỉ còn là một khẩu hiệu không tưởng, (3)trên thực tế giai cấp công nhân và nhân dân lao động cuối cùng lại trở thành kẻ bị chính những đồng chí của mình áp bức thống trị trong chế độ toàn trị mới. Chính 3 kết quả cụ thể này trong bản kết toán là những nguyên nhân quyết định, trực tiếp dẫn tới sự sụp đổ của các nước XHCN Liên Xô – Đông Âu 1989-1991.
Trong khi đó, tại các nước công nghiệp có trào lưu dân chủ xã hội phát triển mạnh – dù là ở Tây Âu hay Bắc Âu – những thành quả tự do, dân chủ và cuộc sống phồn thịnh dành cho con người ngày càng cao và bền vững hơn. Dù chẳng bao giờ hết những vấn đề xấu tồn đọng, song cho đến nay chưa có một nước phát triển nào sụp đổ. Hơn nữa, những quốc gia này luôn luôn tìm được lối thoát ra khỏi mọi cuộc khủng hoảng để đi tiếp. Nhìn chung, thực tế cuộc sống thừa nhận các nước phát triển hiện nay đang là đầu tầu của đoàn tầu thế giới.
Thực tế trình bầy trên khẳng định: Trào lưu dân chủ xã hội tiếp tục có sức sống và là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy tiến bộ xã hội. Nguyên nhân thật dễ hiểu: Trong bất kể nấc thang phát triển nào của mỗi quốc gia, tự do và các quyền dân chủ cụ thể của công dân luôn luôn là khát vọng thường trực thôi thúc và làm nên con người; cộng đồng ngày càng đông những con người tự do và có quyền năng như vậy trong mỗi quốc gia chính là động lực phát triển quyết định của quốc gia ấy. Hơn thế nữa, tự do và dân chủ là tiền đề cho đòi hỏi tất yếu của đa nguyên chính trị làm nên sức sống quốc gia trong thời đại ngày nay.
Trong khi đó, chủ nghĩa bao giờ và ở bất kỳ đâu cũng chỉ là một giáo điều, trong quá trình vận động luôn luôn bị biến dạng thành tín điều, và cuối cùng bị lợi dụng thành công cụ chuyên chính bóp chết tự do – dân chủ và quyền con người.
Không có chủ nghĩa Mác – Lênin bách chiến bách thắng
Cần lưu ý một sự thật lịch sử: Cách mạng vô sản xóa bỏ chế độ thống trị đương thời thật ra cho đến nay mới chỉ thành công duy nhất ở nước Nga mà thôi. Thực tế này trái hẳn với dự báo nêu trong Tuyên Ngôn Cộng Sản. Từ những gì quan sát được trên thế giới 150 năm qua cho đến hộm nay, còn có thể nói: Cách mạng Tháng Mười Nga có lẽ cũng là cuộc cách mạng vô sản cuối cùng.
Tại các nước Đông Âu không hề có một cuộc cách mạng vô sản nào cả để vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin, dù rằng phong trào cộng sản và công nhân tại những nước này phát triển rất sớm. Hoàn toàn không sai nếu nói rằng: Sự giải phóng của Hồng quân Liên Xô, vai trò tác động của Liên Xô sau chiến tranh thế giới II, và phong trào cộng sản tại các nước Đông Âu là các nhân tố trực tiếp dựng nên chế độ xã hội chủ nghĩa tại các quốc gia này.
Nhưng đúng là chủ nghĩa Mác – Lênin đã được các nước LXĐÂ vận dụng để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau khoảng 4 thập kỷ tồn tại, các chế độ xã hội chủ nghĩa này phá sản hoàn toàn. Năm 1989 các nước XHCN Đông Âu sụp độ. Liên Xô, thành trì của chủ nghĩa xã hội và cũng là dinh lũy của chủ nghĩa Mác – Lênin, sụp đổ cuối cùng năm 1991.
Chủ nghĩa Mác – Lênin (CNMLN) – phần liên quan đến đấu tranh giai cấp, đến đấu tranh giữa 2 còn đường ai thắng ai?[5] chống chủ nghĩa đế quốc – là một trong những yếu tố quan trọng (không phải yếu tố quan trọng duy nhất) đối với các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc tại Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam, và sau này có thêm Cuba. Chính thực tế này đã xác định con đường đốt cháy giai đoạn để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội sau khi các quốc gia này giành được độc lập. Nói một cách khác, thảm bại nghiêm trọng của những quốc gia này khi bắt tay vào xây dựng CNXH trong thời bình là tất yếu (ở Việt Nam đã có lúc khẩu phần lương thực phải có cả hạt bo-bo!), vì sự thất bại này đã được lập trình và cài đặt sẵn ngay từ lúc còn kháng chiến.
Bản kết toán của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở các nước Liên Xô – Đông Âu cũ cũng giữ nguyên vẹn tại 4 quốc gia này. Nguyên nhân cơ bản vẫn là sau khi giành được độc lập, con đường chuyên chính vô sản và công hữu tư liệu sản xuất không cho phép 4 quốc gia xã hội chủ nghĩa đi sau này thành công trong những nhiệm vụ của phát triển và giải phóng con người. Cả 4 nước này buộc phải xé rào ý thức hệ mác xít – lê-nin-nít, để cải cách – (1)với nhãn hiệu là “chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, (2)hoặc để đổi mới như ở Việt Nam – với cái tên gọi mới là “định hướng xã hội chủ nghĩa”, (3)hoặc là đã phải vứt bỏ tuốt luột chủ nghĩa Mác – Lênin để thế vào đó bằng “thuyết chủ thể” như ở Bắc Triều Tiên, (4)hoặc hiện nay đang phải quay về tìm kinh tế thị trường nhưng chưa muốn dân chủ cải cách chính trị như ở Cuba. Kết quả đạt được của quá trình cải cách ở cả 4 quốc gia này nhìn chung còn khá mờ nhạt tính xã hội và nhân văn, nhưng vẫn mang đặm ở các mức độ khác nhau mầu sắc của chủ nghĩa tư bản hoang dã (có người muốn gọi là chủ nghĩa tư bản dã man – nhất là ở Trung Quốc, Bắc Triều Tiên), nội dung thật của chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa vẫn là chế độ độc quyền toàn trị, cái nhân dân lao động được quá nhỏ bé so với cái họ mất.
Riêng ở chỗ đứng hôm nay của nước ta sau 38 năm độc lập thống nhất, còn phải nói thêm: Sự tha hóa của đảng cầm quyền đang phạm phải làm cho cái giá phải trả cho độc lập thống nhất đất nước đắt quá. Ngoài sự ngột ngạt của chế độ độc quyền toàn trị, đất nước đang bị uy hiếp nghiêm trọng, lòng tin của nhân dân vào chế độ chính trị và vào vai trò của ĐCSVN chưa bao giờ khủng hoảng như hiện nay.
Bản kết toán hôm nay của chủ nghĩa Mác – Lênin trên thế giới phải chăng là:
Chủ nghĩa (hay học thuyết) Mác, được Lênin tổng hợp và bổ sung thêm (phần vai trò của chuyên chính vô sản và đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc) thành chủ nghĩa Mác – Lênin (CNMLN) để dẫn đường cho sự nghiệp giải phóng con người và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đã không thành công ở bất kỳ quốc gia nào. CNMLN với tinh thần và nội dung như vậy đã cáo chung, kể cả Glasnos hay Perestroika thời cuối trào Liên Xô cũng không cứu vãn nổi. Chưa nói đến việc chính Lênin trong những năm cuối đời đã muốn sửa đổi lại nó (đang viết lại trong NEP[6]), nhưng Lênin không còn đủ thời gian làm việc này. Chưa nói đến (1)học thuyết Marx và những ý tưởng giải phóng con người của Marx – như những gì Marx (phần nào cùng với Engels) đã xây dựng lên, và (2)chủ nghĩa Mác – Lênin về “chủ nghĩa xã hội khoa học” là hai câu chuyện khác nhau, không ít điều mâu thuẫn nhau, không ít học giả trên thế giới đã chứng minh điều này.
Trên thế giới ngày nay không còn tồn tại phong trào cộng sản và công nhân quốc tế nữa. Trào lưu dân chủ xã hội trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế ngày càng lớn mạnh cho đến khi các nước XHCN LXĐÂ sụp đổ; nhưng kể từ đó trào lưu DCXH cũng đang ngày càng mờ nhạt đi rất nhanh, và bây giờ đang ngày càng hòa nhập vào các trào lưu khác trong một thế giới đã hoàn toàn thay đổi. Đơn giản: Một thế giới thay đổi đang đặt ra những vấn đề thời sự hoàn toàn khác, tạo ra những người tham gia cuộc chơi khác.
Chủ nghĩa Mác – Lênin và cái gọi là ý thức hệ cách mạng của Việt Nam
Mặc dù CNMLN và phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã cáo chung như vừa trình bầy trên, nhưng hiện nay, trong nhiều văn kiện chính thống của ĐCSVN, nhất là trong các phát ngôn của nhiều người lãnh đạo, trong các bài viết của một số chính khách, học giả của ĐCSVN đang tham gia hàng ngũ dư luận viên, trong những giải trình của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 tại Quốc hội (giải trình bản Dự thảo 5, ngày 17-05-2013), trong toàn bộ hoạt động của hệ thống báo chí “lề phải”.., chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đang được tìm mọi cách để áp đặt vào dân, để được đưa vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 như là nền tảng tư tưởng và chính trị của quốc gia.
Làm như thế nhằm mục đích gì?
Trước hết cần xem xét CNMLN được nói tới trên diễn đàn lề phải là chủ nghĩa nào? Đó là CNMLN gốc, do Lênin tổng hợp lại? Hay là thứ đã được Stalin xô-viết hóa, rồi tiếp đến là thứ đã được “mao-ít” hóa, rồi vào đến nước ta lại được “Việt Nam hóa” tiếp cho hợp khẩu vị chuyên chính và trình độ phát triển ở nước ta? Tiếp đến nữa còn phải hỏi: CNMLN đang được nói đến trên mọi diễn đàn của dư luận viên hiện nay còn đọng lại hay được thêm thắt mới đến mức nào so với chính những giáo trình của các trường và các cơ quan nghiên cứu lý luận của ĐCSVN?
Nếu đọc lại các bài nói, bài viết rất khiên cưỡng một chiều đả kích, không cần lý lẽ giải thích, của các dư luận viên trên các diễn đàn “lề phải”, thậm chí còn phải nghi ngờ: Không biết các tác giả dư luận viên của những bài viết hay bài nói này đã đọc hay đã được học với đúng nghĩa chủ nghĩa Mác – Lênin hay chưa? Hay là chỉ học, chỉ biết lơ mơ về nó, được dậy tốt dậy xấu như thế nào, hay là được yêu cầu phải nói như thế nào, thì phát thanh lại như thế?! Một trong những cao điểm trí tuệ của các bải này làm nên sự nghi ngờ ở đây chính là sự hù dọa về nguy cơ “mất sổ hưu”!
Trong khi đó, như đã trình bầy ở các phần trên, sự thất bại của CNMLN trong việc xây dựng CNXH trên toàn thế giới – kể cả ở Việt Nam – không còn là chuyện phải bàn cãi.
Hơn thế nữa, cứ lấy những điều cao đẹp hiện đang được nói về CNMLN nhân dịp sửa đổi Hiến pháp, đối chiếu với những gì đang xảy ra trong cuộc sống hàng ngày – như một chiều đả kích những ý kiến xây dựng trong việc sửa đổi Hiến pháp, nhất quyết bóp chết hay không cho phép mở ra các diễn đàn để nhân dân trao đổi ý kiến của mình về sửa đổi Hiến pháp, liên tiếp các bản án rất nặng trấn áp những người yêu nước bất đồng chính kiến với chế độ và những người chống Trung Quốc xâm phạm bờ cõi đất nước, sự đàn áp thô bạo những người đi biểu tình bầy tỏ thái độ bảo vệ biển đảo của Tổ quốc, nhìn vào tệ nạn tham nhũng và biết bao nhiêu bất công xã hội đang xảy ra hàng ngày trên đất nước, nhìn vào sự sa đọa của hệ thống chính trị cai quản đất nước, nhìn vào sự xuống cấp và tha hóa ngày càng trầm trọng của đời sống văn hóa – xã hội của đất nước.., không thể không đặt ra câu hỏi: CNMLN đang được áp đặt ở đây thực chất có nội dung gì và nhằm mục đích gì?
Cũng phải đặt ra câu hỏi tư tưởng Hồ Chí Minh được nói đến trên các diễn đàn của dư luận viên là tư tưởng nào?
Tinh hoa trong tư tưởng Hồ Chí Minh là Tuyên ngôn Độc lập 02-09-1945, là Hiến pháp 1946, là tư tưởng Không có gì quý hơn độc lập tự do!, là đạo đức Cần kiệm liêm chính – chí công vô tư.., là Dân chủ có nghĩa là để cho nhân dân mở mồm ra nói!...
Xin hỏi có bất kỳ điều gì trong tinh hoa này của tư tưởng Hồ Chí Minh được tôn trọng, được vận dụng vào việc sửa đổi Hiến pháp lần này không?
Thậm chí hệ thống nhà nước cần được phân công nhiệm vụ, phân quyền kiểm soát lẫn nhau (tạm gọi là vấn đề “tam quyền phân lập” – như được thiết kế trong Hiến pháp 1946), nhưng được chính Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đích thân bác bỏ, với lập luận dứt khoát: Quyền lực nhà nước là thống nhất dưới sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của ĐCSVN…
Bác bỏ cách làm phô trương hình thức theo kiểu “26 triệu lượt ý kiến & 28 nghìn hội thảo…” để áp đặt, nhiều người đã hỏi thẳng lãnh đạo ĐCSVN: Sửa đổi Hiến pháp theo như cách đang làm thì sửa đổi làm gì? Chỉ thêm tốn tiền thuế của dân, công sức và thời gian của cả nước! Bản tuyên bố của nhóm 72 bác bỏ bản dự thảo 5 (ngày 17-05-2013) Dự thảo sửa đổi Hiến pháp nhận định: bản Dự thảo 5 thụt lùi so với Hiến pháp 1992 đang hiện hành.
Theo hay không theo ý thức hệ nào, tư tưởng nào, là quyền tự do của mỗi người. Nhưng áp đặt một ý thức hệ đã phá sản trên toàn thế giới, kể cả ở Việt Nam – cụ thể ở đây là CNMLN – vào Hiến pháp nước ta nhân dịp sửa đổi lần này nhằm mục đích gì?
Câu trả lời chỉ có thể là: Đây là sự áp đặt một công cụ chuyên chính tư tưởng và tinh thần, với mục đích phục vụ cho chuyên chính bạo lực, nhằm (a)bảo vệ chế độ độc quyền toàn trị nhân danh sự lãnh đạo của ĐCSVN, và (b)biện minh cho vị thế tối thượng bất khả xâm phạm của ĐCSVN để ghi vào Điều 4 của dự thảo Hiến pháp sửa đổi (bản dự thảo ngày 17-05-2013). Có lẽ vì hai lý do chủ yếu này, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã giải trình trước Quốc hội: Trước mắt không đặt ra vấn đề Luật về đảng trong sửa đổi Hiến pháp lần này. Giải trình như thế, khác gì tự xác nhận ĐCSVN đứng ngoài và đứng trên pháp luật, giữa lúc ĐCSVN kêu gọi cả nước sống và làm theo pháp luật!
Tuyên bố của nhóm 72 về bản dự thảo 17-05-2013 phân tích rõ:
- Sự áp đặt này nhằm tiếp tục hiến định vai trò lãnh đạo của ĐCSVN, cho thấy ĐCSVN quyết đứng trên và đứng ngoài Hiến pháp;
- sự áp đặt này hàng chục năm nay đã và đang trực tiếp hủy hoại vai trò lãnh đạo của ĐCSVN, là nguy cơ xóa bỏ toàn bộ sự nghiệp lịch sử của ĐCSVN từ bên trong, triển vọng với nhiều hệ quả đẫm máu cho đất nước – không một thế lực thù địch nào có thể làm nổi việc này;
- chế độ độc quyền toàn trị dưới hình thức “đảng hóa” mọi mặt đời sống đất nước ta là nguyên nhân gốc đẩy đất nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng toàn diện hiện nay, với nhiều nguy cơ và thách thức mới rất nguy hiểm.
Tóm lại: Dùng một chủ nghĩa đã phá sản như một công cụ chuyên chính làm ngọn cờ khua trương cho một sứ mệnh chính trị không được phép tồn tại trong một nhà nước của dân – do dân – vì dân, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân có nghĩa trong thực tế là sự phủ nhận trực tiếp nhà nước này, là để tiếp tục duy trì chế độ độc quyền toàn trị nhân danh kiên trì con đường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhân danh sự lãnh đạo của ĐCSVN. Kịch bản đen tối này không thể là sự lựa chọn của nhân dân ta, cũng không mở ra cho ĐCSVN con đường tồn tại. Cưỡng bức nhân dân đi theo kịch bản đen tối này, hệ quả cuối cùng sớm muộn sẽ chẳng khác mấy là sự tự sát của chính người cưỡng bức.
Sửa đổi Hiến pháp lần này đang tạo ra một cơ hội khó mà có lại, để ĐCSVN tự tay trực tiếp xóa bỏ kịch bản đen tối này cho chính mình mà những tha hóa tự thân đang cuốn hút mình vào. Không ai có thể làm thay ĐCSVN việc này.
Với gần 4 triệu đảng viên, lại trực tiếp nắm mọi quyền lực trong tay, ĐCSVN là lực lượng chính trị mạnh nhất trong xã hội Việt Nam, chiếm tới khoảng gần 4 triệu gia đình, có ảnh hưởng trực tiếp / gián tiếp tới 1/3 hay hơn nữa dân số cả nước, chưa nói đến nhiều ảnh hưởng to lớn khác nữa. Vì thế, tối ưu cho ĐCSVN và cũng là cho đất nước, là xóa bỏ kịch bản đen tối nêu trên. Con đường Myanmar đang gợi ý ra cho ĐCSVN một hướng đi hiện thực: Tất cả cùng sống, tất cả cùng nhau khép lại quá khứ, không ngoái lại quá khứ (bao hàm cả nghĩa không hồi tố), để cùng nhau theo tinh thần đoàn kết – hòa giải dân tộc mở ra một chương sử mới cho chính mình và cho đất nước, để từ nay mỗi người và cả đất nước trở thành chính mình: Xây dựng một đất nước tự do của những con người tự do. Đấy cũng là nguyện vọng cháy bỏng của toàn thể dân tộc Việt Nam ngày nay: Xây dựng một Việt Nam độc lập – tự do – hạnh phúc, để có được một Việt Nam đáng sống, không ai có thể ức hiếp, và cùng đi được với cả thế giới! Tìm đường cho nhân dân thực hiện khát vọng này, đấy mới chính là vai trò lãnh đạo mà ĐCSVN bây giờ phải lột xác phấn đấu để đạt tới. Đấy chính là con đường cứu đảng cứu nước mỗi đảng viên ĐCSVN bây giờ nhất thiết phải giác ngộ, chứ không phải cam tâm làm nô lệ của CNMLN đã bị cuộc sống loại bỏ – chỉ để phục vụ cho mục đích duy tri chế độ độc quyền toàn trị của một số người trong đảng đang giam hãm đất nước.
Trung thành với lịch sử chiến đấu vì nước vì dân của ĐCSVN, trung thành với tư tưởng Hồ Chí Minh, đảng viên ĐCSVN bây giờ nhất thiết và trước hết phải chiến thắng chính mình, để chiến thắng sự sa đọa đang dìm đảng của mình vào tội lỗi, để đặt lại đảng của mình vào con đường đấu tranh vì nước vì dân đã từng làm nên sự nghiệp của đảng, nhất là để không phản bội lại những hy sinh, những mất mát của dân tộc, của đồng chí và đồng đội trên chặng đường gần một thế kỷ qua!
Các đảng viên ĐCSVN hãy bắt đầu từ việc thảo luận thẳng thắn trong đảng về thực trạng của ĐCSVN và của đất nước, về những vấn đề đang đặt ra cho việc sửa đổi Hiến pháp. Hãy bắt đầu từ việc đòi trả tự do cho tất cả những người yêu nức bất đồng chính kiến với chế độ đang bị cầm tù. Hãy phản đối đàn áp biểu tình bảo vệ tổ quốc. Hãy xóa bỏ phân biệt đối xử lề trái hay lề phải trong báo chí, để cho trong báo chí chỉ có lẽ phải, lòng yêu nước, ý chí bảo vệ tổ quốc!
Các đảng viên của ĐCSVN dù ở cương vị nào, nếu còn giữ đất nước trong tim mình, nhất thiết phải đứng lên như thế để cứu đảng của mình, và như thế cũng là cứu nước. Các đảng viên ĐCSVN đừng để cho đảng của mình rơi vào tình trạng mà một chính khách ở Liên Xô[7] hồi đó đã phải thốt lên: ĐCS Liên Xô không thể cải tạo được nữa! Chỉ còn cách đập tan nó!
Đối nghịch lại, nếu các đảng viên ĐCSVN không phấn đấu lựa chọn con đường cứu đảng cứu nước, sẽ chỉ còn lại con đường của kịch bản đen tối, của tha hóa và tội lỗi. Đó là con đường cố tính đối kháng lại nhân dân, sớm muộn sẽ dẫn tới thảm họa nồi da xáo thịt cho đất nước, kết cục chắc chắn với sự phủ nhận dứt khoát của nhân dân cả nước dành cho ĐCSVN, với một màn chót không phải là không hình dung được.
Người dịch tạm kết luận
Thành, bại và cuối cùng là sự cáo chung của trào lưu cách mạng của chuyên chính vô sản trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế sau 150 năm tồn tại; gắn liền với chặng đường lịch sử này là sự cáo chung của chủ nghĩa Mác – Lênin với tính cách là cẩm nang cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; thành, bại và những thành tựu lâu bền của trào lưu xã hội dân chủ trên chặng đường 150 năm đồng hành này; thành và bại của chính thực tiễn 38 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta – bây giờ lùi xuống là định hướng xã hội chủ nghĩa, tất cả những thứ này có lẽ là đủ để cho chúng ta thấy: Thường xuyên mở rộng các quyền tự do, dân chủ rất cụ thể của mỗi công dân trong mỗi bước đi của đất nước, thường xuyên làm tất cả mọi việc để mỗi công dân luôn luôn tự nâng cao được quyền năng của mình từ hiểu biết và học hỏi, đấy mới là động lực sáng tạo, năng động và lâu bền cho sự phát triển của đất nước ta.
Tận dụng cơ hội việc sửa đổi Hiến pháp đang mang lại, sẽ mở ra cho đất nước ta một con đường đi lên của tự do và dân chủ.
Đọc kỹ diễn văn 150 năm ĐXHDCĐ (SPD) của Tổng thống Joachim Gauck, tôi thấy thêm một bằng chứng sống động của nước Đức cho những điều trình bầy trên. Tôi tin như vậy, tôi cũng mong nhân dân nước ta vận dụng được lợi thế của nước đi sau./.
Source :diendanxahoidansu.wordpress.com
Nguyễn Trung. Hà Nội, Tây Hồ, Võng Thị, ngày 28-09-2013
(Tựa bài viết tổng hợp này do Diễn đàn XHDS đặt)
Diễn văn của Tổng thống CHLB Đức, Joachim Gauck, tại lễ kỷ niệm 150 năm ngày thành lập Đảng Dân chủ Xã hội Đức (SPD)[1]
Leipzig, 23 tháng 5 năm 2013
Một dịp hiếm có và đầy tự hào đoàn tụ
chúng ta tại đây hôm nay: Đảng Dân Chủ Xã Hội Đức kỷ niệm lần thứ 150
ngày sinh của mình. Không một đảng nào khác tồn tại lâu như vậy, bởi lẽ
những mục tiêu phấn đấu cơ bản của đảng này đã và luôn luôn có tính
thời sự với nội dung mới, đó là: Các quyền tự do, công bằng xã hội,
quyền tham dự vào chính trị.Đây là ngày kỷ niệm của đảng lâu đời nhất nước Đức. Đây cũng là ngày lễ của châu Âu đấu tranh cho tự do và dân chủ. 150 năm này là cả một thiên lịch sử đầy những thắng lợi và thất bại, những cuộc chiến tranh khủng khiếp và tàn bạo, các cuộc nổi dậy và sự đàn áp; có thể nói đấy là các cuộc nổi dậy luôn luôn với nhận thức cho rằng các xã hội có thể thay đổi, dân chủ là có thể thực thi, nếu như chúng ta hiểu rõ được chúng ta phấn đấu, bảo vệ hay phải giành lấy những giá trị gì, và nếu như chúng ta đủ dũng cảm vượt qua được mọi đàn áp.
Mọi chuyện tùy thuộc vào việc chúng ta đã và luôn luôn dám đối mặt với tâm trạng cảm thấy mình bất lực, dám như thế vì chính mình và vì những người khác, dám tiến tới những bước phát triển mới. Với ý chí không gì
Những con người dũng cảm này gửi lại chúng ta di chúc: Không nên coi lễ kỷ niệm hôm nay chỉ là “nơi để tưởng nhớ”. Nhìn vào nhiệm vụ của mình trong tương lai, chúng ta phải tự hỏi: Khẩu hiệu “Tiến lên!” (“Vorwaerts!”) [2] của hôm qua sẽ có ý nghĩa gì đối với triển vọng sắp tới nhìn từ hôm nay?
Xin các quý vị hãy cho tôi bắt đầu từ năm 1863, xin hãy nhớ đến sự nghèo khốn, sự bóc lột, nhớ đến những điều kiện lao động mà ngày nay chúng ta chỉ thấy ở một số nước đang phát triển mà chúng ta từng phê phán; xin thưa đấy cũng chính là đời sống ngột ngạt thường ngày của hàng triệu người Đức thời đó. Thử hỏi những người thời ấy dám nổi dậy đấu tranh sẽ có thể lựa chọn như thế nào: Nên chăng đấy sẽ là sự nổi dậy để dẫn đến cách mạng, để rồi lại thiết lập nên một nền thống trị mới của những người trước đó đã từng bị áp bức? Tình hình đã đến mức gần xảy ra một kịch bản như thế. Nhưng Ferdinand Lassalle – người đã từng trải qua cuộc cách mạng 1848 ở tỉnh
Trong thời kỳ Đảng Dân chủ Xã hội Đức mới được thành lập, đương nhiên phải đặt cuộc đấu tranh vì những quyền bình đẳng của cộng đồng công nhân bị áp bức lên trước. Cương lĩnh Eisenach năm 1869 ghi rõ, đấy là bầu cử tự do, bình đẳng trong cả nước, bất chấp sự khác biệt về đẳng cấp xã hội của những người tham gia bầu cử, là cấm lao động trẻ em, là các tòa án phải độc lập.
Trong cuộc đấu tranh triền miên trong nội bộ đảng DCXHĐ, cuối cùng quan điểm đã thắng thế là: không thiết lập một đặc quyền giai cấp mới nào. Vì không thể đáp trả sự bất bình đẳng bằng cách thiết lập nên một sự bất bình đẳng mới. Hơn ba thập kỷ sau khi Lassalle thành lập ĐDCXHĐ, Eduard Bernstein, nhà lý luận nổi tiếng và cũng là người bị đả kích rất nhiều của ĐDCXHĐ, đã mô tả: “dân chủ phải vừa là phương tiện, vừa là mục tiêu”. Đối với tôi, trong nhãn quan chính trị mới này hàm chứa một trong những cống hiến lịch sử vĩ đại nhất của đảng DCXHĐ. Hồi ấy, ĐDCXHĐ đã rất sớm làm cho dân chủ có ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu rộng trong một bộ phận đáng kể của tầng lớp công nhân và phong trào xã hội chủ nghĩa ở nước Đức. Chính là ĐDCXHĐ đã đấu tranh cho cải cách, chứ không phải cho việc làm cách mạng. Và cũng chính là ĐDCXHĐ đã kiên trì con đường của mình và cuối cùng đã vận động được đa số tham gia, với cái đích là cải thiện từng bước cụ thể đời sống con người, thay vì công bố những mục tiêu không tưởng xa vời.
Nhưng phong trào cộng sản thế giới đã quyết định cho mình con đường khác – hiển nhiên với những hệ quả vô cùng khủng khiếp. Phong trào này đã thiết lập nên một giai cấp nắm quyền mới, và thay thế sự thống trị cũ bằng một sự thống trị mới. Còn tự do, công bằng xã hội, sự ấm no… người công nhân phải mong ngóng một cách vô vọng.
Chính vì thế, ngày nay chúng ta càng đánh giá cao những nỗ lực cải cách của phong trào xã hội dân chủ. Nhờ những nỗ lực này, chúng ta lần đầu tiên có được Luật Bảo hộ lao động, Luật về Quyền tham gia bầu cử của phụ nữ, và nhiều điều khác nữa. Thể chế dân chủ đầu tiên của nước Đức – cụ thể ở đây là Nền Cộng hòa Weimar – sẽ không thể thiết lập được, nếu như các đảng viên xã hội dân chủ – đứng đầu là Friedrich Ebert và Philipp Sheidemann – không có can đảm phấn đấu cho sự hợp tác chính trị với những lực lượng to lớn khác của các đảng phái tư sản. Đặc biệt là, các đảng viên xã hội dân chủ đã đấu tranh kiên cường hơn, bền bỉ hơn nhiều nhà dân chủ khác trong việc bảo vệ nền cộng hòa này. Các đảng viên xã hội dân chủ đã nêu cao lý tưởng của mình về tự do, bình đẳng và đoàn kết, quyết đấu tranh chống lại mọi kẻ chỉ muốn áp bức và chiến tranh.
Không thể nào quên bài nói của Otto Wels ngày 23-03-1933 tại Quốc hội Đức, giữa lúc quốc xã đã bắt giam nhiều người chống đối, đồng thời khiến nhiều người chống đối khác phải sống lưu vong. “Người ta có thể tước đoạt mạng sống và tự do của chúng tôi, nhưng danh dự của chúng tôi thì không bao giờ!..” Bài nói ấy của Otto Wels quả là “can đảm nhất chưa từng có tại Quốc hội Đức” – đúng như Peter Struck đã nhận xét.
Chúng ta nên ghi nhớ, bằng cách nói “Không!” với cái gọi là Đạo luât Ủy quyền[3], hồi đó 94 nghị sỹ của ĐDCXHĐ chẳng những đã cứu danh dự của chính mình, mà còn cứu cả danh dự của thể chế dân chủ đầu tiên của nước Đức (nền Cộng hòa Weimar – ND chú giải). Những con người ấy đã hiến tặng mọi người Đức chúng ta một trang sử chính nghĩa của dân chủ – đấy cũng là sự đối nghịch hoàn toàn đối với tội lỗi và sự hổ thẹn (của sử nước Đức – ND chú giải), đấy cũng là một kinh nghiệm quý báu cho thấy con người ta có thể kiên định với những giá trị của mình – cho dù bị bêu giếu, bị làm nhục, bị đầy đọa. Ngày nay chúng ta trân trọng với tinh thần biết ơn sự can đảm của họ.
Trong hàng ngũ những người này có Kurt Schumacher, một trong những nghị sỹ đã bác bỏ cái gọi là Đạo luật Ủy quyền. Sau hàng chục năm bị giam trong trại tập trung, khi chiến tranh kết thúc, ông đã chống lại sự quyến rũ muốn thành lập một đảng công nhân bao gồm những người xã hội dân chủ và những người cộng sản. Bởi vì ông nhận ra rằng – xin trích lời ông – Đảng Cộng sản Đức “không phải là một giai cấp Đức, mà là một quốc đảng xa lạ”. Tại miền Đông nước Đức, Đảng Dân Chủ Xã hội Đức chính thống xưa kia mãi đến sau năm 1989 (khi CHDC Đức sụp đổ – ND chú giải) mới được tái lập. Tôi vô cùng biết ơn vì điều này.
Ngược lại, ở miền Tây nước Đức, ĐDCXHĐ đã tham gia một cách có ý nghĩa quyết định cùng với những người thuộc đảng bảo thủ và đảng tự do, làm cho Cộng Hòa Liên Bang Đức có thể hoạt động có hiệu quả, với thẩm quyền rộng rãi, trở thành một “liên bang dân chủ và xã hội” như đã quy định trong Đạo Luật Cơ Bản, và chúng ta đều biết Đạo luật này được ban hành cũng ngày 23 tháng 5[4].
Ngày nay chúng ta đều biết thể chế dân chủ của chúng ta thật vững chãi, cho dù đôi lúc suy yếu tùy theo tình trạng của các đảng phái. ĐDCXHĐ chẳng những có thể nhìn nhận lại truyền thống lâu đời nhất của mình. ĐDCXHĐ còn phải thực hiện sự thay đổi rất sâu sắc từ bên trong. Đơn giản vì ĐDCXHĐ ngày nay không còn là đảng của giai cấp nữa. Trong quá trình học hỏi lâu dài và gian khổ, ĐDCXHĐ đã phải tự phát triển mình để trở thành đảng của nhân dân. Cương lĩnh Godesberg năm 1959 đã xác định, củng cố và thúc đẩy sự cải tổ này.
Đối với hầu hết chúng ta, những cống hiến của ĐDCXHĐ cho CHLBĐ thật rõ ràng. Tôi xin kể ở đây những cải cách xã hội được tiến hành trong những năm thập niên 70 dưới thời Willi Brandt, giai đoạn đầu tiên đổi mới của Chính sách phương Đông mở cửa hướng sang Cộng Hòa Dân Chủ Đức và các nước láng giềng Đông Âu, chính sách này đã giúp vén lên bức màn sắt.
Cuốn phim (chiếu trong lễ kỷ niệm này – ND chú giải) cũng cho chúng ta thấy những cống hiến của Thủ tướng Liên bang Helmut Schmidt và Gerhard Schroeder, cả hai vị này hôm nay cũng có mặt tại đây cùng với chúng ta. Các nhiệm kỳ thủ tướng của hai vị gắn liền với những cống hiến lâu bền của ĐDCXHĐ đối với CHLBĐ.
Trong suốt 150 năm qua vấn đề cốt lõi của dân chủ xã hội là: xã hội đoàn kết, thể chế dân chủ thường xuyên được cải thiện. Nhưng trong thế giới thay đổi ngày nay, nhiều thách thức mới đang đặt ra cho ĐDCXHĐ cũng như cho các đảng khác. Trong đó vấn đề trung tâm là các đảng phải luôn luôn là một bộ phận của một xã hội công dân tự lớn mạnh, và nhờ đó luôn luôn tạo ra được những mối ràng buộc vững chắc cho một chương trình chính trị tổng quát (được hiểu là chiến lược phát triển – ND chú giải).
Nhiệm vụ này không hề dễ, bởi vì trong những năm qua chúng ta đã chứng kiến nhiều phong trào phản đối; những phong trào này nhiều khi cực đoan hơn các chính đảng, thường tập trung chỉ vào một vấn đề, và những phong trào này tư coi mình là đối thủ của các đảng. Những phong trào này cho thấy nhiều công dân muốn phải có tiếng nói của mình. Tôi hoan nghênh và ủng hộ điều này. Các đảng không nên lo sợ về hình thức tham gia này của công dân, mà ngược lại nên coi đấy là một hệ thống cảnh báo sớm, để nhờ đó có thể luôn luôn đi cùng với thời cuộc. Về phần mình, các đảng cũng cần phải có những phương thức tham chính mới, để từ đó làm cho sự năng động của mình tìm thấy hướng đi trong cuộc sống hàng ngày của nền dân chủ đại nghị của chúng ta. Tóm lại: Hình thức tham chính mới có một vai trò bổ sung quan trọng, nhưng dứt khoát không thay thế cho dân chủ đại diện.
Một lần nữa chúng ta hãy nghĩ xem, điều tôi vừa trình bầy có thể thấy rõ trong vấn đề: Các sáng kiến của công dân thường đại diện những mối lợi ích riêng biệt – nhìn chung là chính đáng; trong khi đó ngược lại các đảng phải hướng về cái chung nhiều hơn, phải để mắt vào cái tổng thể. Thậm chí đôi khi các đảng có thể thành công trong việc tác động vào những cử tri của mình để lựa chọn những quyết định mâu thuẫn với đường lối hiện hành đến nay hoặc những lợi ích ngắn hạn của đảng. Tôi hiểu, trong phạm vi nội bộ một đảng điều này không được ưa chuộng lắm. Nhưng mà chúng ta đã chứng kiến: Chính những quyết định như thế thường là những quyết định có ý thức trách nhiệm đối với cả nước.
Hôm nay tôi chúc mừng ĐDCXHĐ 150 tuổi. Cho tôi nói lời cảm ơn và đánh giá cao đối với những người suốt 150 năm qua đã đấu tranh cho tự do, công bằng và đoàn kết và qua đó đã cải thiện đời sống của hàng triệu người.
Cùng với lời cảm ơn ĐDCXHĐ, tôi đánh giá cao tất cả những ai đang hoạt động trong các đảng dân chủ vì hạnh phúc của tất cả chúng ta – dù đấy là các hiệp hội tại các địa phương hay là trong khung khổ Chính sách Châu Âu, dù họ là làm việc nghiệp dư hay chuyên nghiệp. Cống hiến của họ đã góp phần vào những thành tựu trong nền dân chủ của chúng ta. Vì vậy tôi cũng xin chúc mừng tất cả chúng ta việc chúng ta có các đảng dân chủ. Các đảng này do con người tạo ra, vì thế chúng không hoàn hảo và không tránh khỏi thiếu sót, cho nên cần luôn luôn thực hiện phê bình, tự phê bình và phải chịu học. Các đảng dân chủ ở nước ta là cần thiết cho sự sống của nền dân chủ ở nước ta, và trong tương lai cũng không thể nào thiếu chúng. Với ý nghĩa ấy, xin nhiệt liệt chúc mừng sinh nhật (của ĐDCXHĐ – ND chú giải)!
Hết
Một vài cảm nghĩ của người dịch
Như một phản sạ tự nhiên, đọc xong bài diễn văn này, tôi liên hệ ngay đến nước ta, mặc dù toàn bộ câu chuyện của diễn văn xẩy ra ở nước Đức xa xôi, nghĩa là – nhìn theo góc cạnh nào đó – chẳng dính dáng tí teo nào đến nước ta.Suy nghĩ của tôi đơn giản: Lịch sử 150 năm của ĐDCXHĐ (SPD), về mặt nào đó mà nói cũng phản chiếu lịch sử thất bại của Đảng Cộng Sản Đức và sau này là Đảng Xã hội Thống Nhất Đức – đảng cầm quyền ở Cộng Hòa Dân Chủ Đức kể từ khi nhà nước này được thiết lập năm 1949, cho đến khi nó bị chính nhân dân của mình lật đổ năm 1989. Thực tế này gợi lên nhiều điều phải suy nghĩ.
Hai trào lưu: Cải cách và cách mạng vô sản
Trước hết xin thưa, cách dây 150 năm, hoặc thậm chí ít nhiều sớm hơn nữa, lịch sử phong trào cộng sản và công nhân trên thế giới nói chung và ở nước Đức nói riêng, ngay từ đầu – trước cả khi Marx bước lên vũ đài chính trị với Tuyên Ngôn Cộng Sản – cũng là lịch sử của hai trào lưu đấu tranh khác biệt nhau và đối lập nhau khủng khiếp, gần như giữa nước và lửa. Một bên là trào lưu dân chủ xã hội – được những người mác-xít đặt cho cái tên là “cải lương”, còn một bên là trào lưu của cách mạng chuyên chính vô sản. Cuộc đấu tranh giữa hai trào lưu này – mặc dù cả hai đều thuộc về phong trào cộng sản và công nhân quốc tế – càng về sau càng đối kháng nhau quyết liệt, chẳng kém gì đấu tranh với kẻ thù giai cấp. Chỉ xin điểm lại, các nhà lý luận mác-xít – kể từ Marx, Lénin trở xuống – đã giành cho trào lưu cải lương và toàn bộ cánh xã hội dân chủ sự bác bỏ tuyệt đối, với những lời lẽ và việc làm nặng nề nhất, không hiếm khi rất đẫm máu trong các chính quyền xô-viết và cộng sản sau này – dù ở châu Âu hay châu Á.
Nhân dịp này, nhìn lại phong trào cộng sản và công nhân thế giới 150 năm qua, có thể khẳng định: Tư tưởng của trào lưu cách mạng vô sản là thực hiện khát vọng xây dựng một xã hội mới không người bóc lột người – mang tên là chủ nghĩa xã hội, với 2 đặc trưng xuyên suốt: Thực hiện chuyên chính vô sản và công hữu hóa tư liệu sản xuất. Sau những bước phát triển ban đầu, phong trào này đạt tới đỉnh cao là thiết lập nên hệ thống thế giới xã hội chủ nghĩa gồm 12 quốc gia, bao gồm toàn Đông Âu và một phần lớn châu Á, sau này có thêm Cuba.
Hệ thống các quốc gia XHCN này có ảnh hưởng quan trọng tới phong trào độc lập dân tộc trong 2 thập kỷ đầu tiên sau chiến tranh thế giới II, qua đó chi phối 1/3 quả địa cầu. Hệ thống thế giới XHCN phân rã rất sớm, đạt tới hồi kết là sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô Đông Âu trong các năm 1989 – 1991.
Sau chặng đường 150 năm kể trên, cuối cùng thế giới ngày nay đã chứng kiến sự phá sản và thất bại hoàn của trào lưu cách mạng vô sản dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác – Lênin. Đồng thời thế giới cũng chứng kiến: Trào lưu dân chủ xã hội là một trong những yếu tố quyết định đem lại những thành quả quan trọng cho công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động ở hầu hết các nước phát triển – đặc biệt là các nước Bắc Âu. Trong những thành quả ấy, trước hết phải nói tới các quyền tự do, dân chủ của cá nhân con người, các điều kiện để mỗi con người ngày một tự nâng cao quyền năng của mình trong một chính thể dân chủ, cuộc sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân lao động ngày một cải thiện và nâng cao cùng với sự phát triển của đất nước.
Có thể nói một cách tổng quát: Sự phát triển của các nước công nghiệp, kể cả những tiến bộ đạt được trong thể chế chính trị và đời sống văn hóa – xã hội, có sự đóng góp không thể thiếu của trào lưu dân chủ xã hội. Nếu muốn, có lẽ cũng có thể nói: Do sự vận động bên trong như vậy – trước hết được hiểu là những thắng lợi của trào lưu dân chủ xã hội – và và do những thay đổi trên thế giới, chủ nghĩa tư bản tại các nước công nghiệp này đã ngày một bớt đi “mùi đế quốc chủ nghĩa”. Ở phạm vi toàn cầu, chính sự vận động này đã góp phần từng bước đẩy lùi chủ nghĩa đế quốc trên thực tế. Đấy chính là xu thế vận động của thế giới đã diễn ra từ nửa sau thế kỷ 20 và đang tiếp diễn.
Bản kết toán của trào lưu cách mạng vô sản tại các nước LXĐÂ nói ngắn gọn là: (1)chỉ thành công trong bạo lực đập tan (ở Nga) hay xóa bỏ (ở các nước Đông Âu) sự thống trị của giới cầm quyền áp bức đương thời, (2)nhưng thất bại hoàn toàn trong xây dựng một chế độ xã hội mới; nội dung cốt lõi được đề xướng thành lý tưởng của trào lưu này là giải phóng con người cuối cùng chỉ còn là một khẩu hiệu không tưởng, (3)trên thực tế giai cấp công nhân và nhân dân lao động cuối cùng lại trở thành kẻ bị chính những đồng chí của mình áp bức thống trị trong chế độ toàn trị mới. Chính 3 kết quả cụ thể này trong bản kết toán là những nguyên nhân quyết định, trực tiếp dẫn tới sự sụp đổ của các nước XHCN Liên Xô – Đông Âu 1989-1991.
Trong khi đó, tại các nước công nghiệp có trào lưu dân chủ xã hội phát triển mạnh – dù là ở Tây Âu hay Bắc Âu – những thành quả tự do, dân chủ và cuộc sống phồn thịnh dành cho con người ngày càng cao và bền vững hơn. Dù chẳng bao giờ hết những vấn đề xấu tồn đọng, song cho đến nay chưa có một nước phát triển nào sụp đổ. Hơn nữa, những quốc gia này luôn luôn tìm được lối thoát ra khỏi mọi cuộc khủng hoảng để đi tiếp. Nhìn chung, thực tế cuộc sống thừa nhận các nước phát triển hiện nay đang là đầu tầu của đoàn tầu thế giới.
Thực tế trình bầy trên khẳng định: Trào lưu dân chủ xã hội tiếp tục có sức sống và là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy tiến bộ xã hội. Nguyên nhân thật dễ hiểu: Trong bất kể nấc thang phát triển nào của mỗi quốc gia, tự do và các quyền dân chủ cụ thể của công dân luôn luôn là khát vọng thường trực thôi thúc và làm nên con người; cộng đồng ngày càng đông những con người tự do và có quyền năng như vậy trong mỗi quốc gia chính là động lực phát triển quyết định của quốc gia ấy. Hơn thế nữa, tự do và dân chủ là tiền đề cho đòi hỏi tất yếu của đa nguyên chính trị làm nên sức sống quốc gia trong thời đại ngày nay.
Trong khi đó, chủ nghĩa bao giờ và ở bất kỳ đâu cũng chỉ là một giáo điều, trong quá trình vận động luôn luôn bị biến dạng thành tín điều, và cuối cùng bị lợi dụng thành công cụ chuyên chính bóp chết tự do – dân chủ và quyền con người.
Không có chủ nghĩa Mác – Lênin bách chiến bách thắng
Cần lưu ý một sự thật lịch sử: Cách mạng vô sản xóa bỏ chế độ thống trị đương thời thật ra cho đến nay mới chỉ thành công duy nhất ở nước Nga mà thôi. Thực tế này trái hẳn với dự báo nêu trong Tuyên Ngôn Cộng Sản. Từ những gì quan sát được trên thế giới 150 năm qua cho đến hộm nay, còn có thể nói: Cách mạng Tháng Mười Nga có lẽ cũng là cuộc cách mạng vô sản cuối cùng.
Tại các nước Đông Âu không hề có một cuộc cách mạng vô sản nào cả để vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin, dù rằng phong trào cộng sản và công nhân tại những nước này phát triển rất sớm. Hoàn toàn không sai nếu nói rằng: Sự giải phóng của Hồng quân Liên Xô, vai trò tác động của Liên Xô sau chiến tranh thế giới II, và phong trào cộng sản tại các nước Đông Âu là các nhân tố trực tiếp dựng nên chế độ xã hội chủ nghĩa tại các quốc gia này.
Nhưng đúng là chủ nghĩa Mác – Lênin đã được các nước LXĐÂ vận dụng để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau khoảng 4 thập kỷ tồn tại, các chế độ xã hội chủ nghĩa này phá sản hoàn toàn. Năm 1989 các nước XHCN Đông Âu sụp độ. Liên Xô, thành trì của chủ nghĩa xã hội và cũng là dinh lũy của chủ nghĩa Mác – Lênin, sụp đổ cuối cùng năm 1991.
Chủ nghĩa Mác – Lênin (CNMLN) – phần liên quan đến đấu tranh giai cấp, đến đấu tranh giữa 2 còn đường ai thắng ai?[5] chống chủ nghĩa đế quốc – là một trong những yếu tố quan trọng (không phải yếu tố quan trọng duy nhất) đối với các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc tại Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam, và sau này có thêm Cuba. Chính thực tế này đã xác định con đường đốt cháy giai đoạn để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội sau khi các quốc gia này giành được độc lập. Nói một cách khác, thảm bại nghiêm trọng của những quốc gia này khi bắt tay vào xây dựng CNXH trong thời bình là tất yếu (ở Việt Nam đã có lúc khẩu phần lương thực phải có cả hạt bo-bo!), vì sự thất bại này đã được lập trình và cài đặt sẵn ngay từ lúc còn kháng chiến.
Bản kết toán của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở các nước Liên Xô – Đông Âu cũ cũng giữ nguyên vẹn tại 4 quốc gia này. Nguyên nhân cơ bản vẫn là sau khi giành được độc lập, con đường chuyên chính vô sản và công hữu tư liệu sản xuất không cho phép 4 quốc gia xã hội chủ nghĩa đi sau này thành công trong những nhiệm vụ của phát triển và giải phóng con người. Cả 4 nước này buộc phải xé rào ý thức hệ mác xít – lê-nin-nít, để cải cách – (1)với nhãn hiệu là “chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, (2)hoặc để đổi mới như ở Việt Nam – với cái tên gọi mới là “định hướng xã hội chủ nghĩa”, (3)hoặc là đã phải vứt bỏ tuốt luột chủ nghĩa Mác – Lênin để thế vào đó bằng “thuyết chủ thể” như ở Bắc Triều Tiên, (4)hoặc hiện nay đang phải quay về tìm kinh tế thị trường nhưng chưa muốn dân chủ cải cách chính trị như ở Cuba. Kết quả đạt được của quá trình cải cách ở cả 4 quốc gia này nhìn chung còn khá mờ nhạt tính xã hội và nhân văn, nhưng vẫn mang đặm ở các mức độ khác nhau mầu sắc của chủ nghĩa tư bản hoang dã (có người muốn gọi là chủ nghĩa tư bản dã man – nhất là ở Trung Quốc, Bắc Triều Tiên), nội dung thật của chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa vẫn là chế độ độc quyền toàn trị, cái nhân dân lao động được quá nhỏ bé so với cái họ mất.
Riêng ở chỗ đứng hôm nay của nước ta sau 38 năm độc lập thống nhất, còn phải nói thêm: Sự tha hóa của đảng cầm quyền đang phạm phải làm cho cái giá phải trả cho độc lập thống nhất đất nước đắt quá. Ngoài sự ngột ngạt của chế độ độc quyền toàn trị, đất nước đang bị uy hiếp nghiêm trọng, lòng tin của nhân dân vào chế độ chính trị và vào vai trò của ĐCSVN chưa bao giờ khủng hoảng như hiện nay.
Bản kết toán hôm nay của chủ nghĩa Mác – Lênin trên thế giới phải chăng là:
Chủ nghĩa (hay học thuyết) Mác, được Lênin tổng hợp và bổ sung thêm (phần vai trò của chuyên chính vô sản và đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc) thành chủ nghĩa Mác – Lênin (CNMLN) để dẫn đường cho sự nghiệp giải phóng con người và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đã không thành công ở bất kỳ quốc gia nào. CNMLN với tinh thần và nội dung như vậy đã cáo chung, kể cả Glasnos hay Perestroika thời cuối trào Liên Xô cũng không cứu vãn nổi. Chưa nói đến việc chính Lênin trong những năm cuối đời đã muốn sửa đổi lại nó (đang viết lại trong NEP[6]), nhưng Lênin không còn đủ thời gian làm việc này. Chưa nói đến (1)học thuyết Marx và những ý tưởng giải phóng con người của Marx – như những gì Marx (phần nào cùng với Engels) đã xây dựng lên, và (2)chủ nghĩa Mác – Lênin về “chủ nghĩa xã hội khoa học” là hai câu chuyện khác nhau, không ít điều mâu thuẫn nhau, không ít học giả trên thế giới đã chứng minh điều này.
Trên thế giới ngày nay không còn tồn tại phong trào cộng sản và công nhân quốc tế nữa. Trào lưu dân chủ xã hội trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế ngày càng lớn mạnh cho đến khi các nước XHCN LXĐÂ sụp đổ; nhưng kể từ đó trào lưu DCXH cũng đang ngày càng mờ nhạt đi rất nhanh, và bây giờ đang ngày càng hòa nhập vào các trào lưu khác trong một thế giới đã hoàn toàn thay đổi. Đơn giản: Một thế giới thay đổi đang đặt ra những vấn đề thời sự hoàn toàn khác, tạo ra những người tham gia cuộc chơi khác.
Chủ nghĩa Mác – Lênin và cái gọi là ý thức hệ cách mạng của Việt Nam
Mặc dù CNMLN và phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã cáo chung như vừa trình bầy trên, nhưng hiện nay, trong nhiều văn kiện chính thống của ĐCSVN, nhất là trong các phát ngôn của nhiều người lãnh đạo, trong các bài viết của một số chính khách, học giả của ĐCSVN đang tham gia hàng ngũ dư luận viên, trong những giải trình của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 tại Quốc hội (giải trình bản Dự thảo 5, ngày 17-05-2013), trong toàn bộ hoạt động của hệ thống báo chí “lề phải”.., chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đang được tìm mọi cách để áp đặt vào dân, để được đưa vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 như là nền tảng tư tưởng và chính trị của quốc gia.
Làm như thế nhằm mục đích gì?
Trước hết cần xem xét CNMLN được nói tới trên diễn đàn lề phải là chủ nghĩa nào? Đó là CNMLN gốc, do Lênin tổng hợp lại? Hay là thứ đã được Stalin xô-viết hóa, rồi tiếp đến là thứ đã được “mao-ít” hóa, rồi vào đến nước ta lại được “Việt Nam hóa” tiếp cho hợp khẩu vị chuyên chính và trình độ phát triển ở nước ta? Tiếp đến nữa còn phải hỏi: CNMLN đang được nói đến trên mọi diễn đàn của dư luận viên hiện nay còn đọng lại hay được thêm thắt mới đến mức nào so với chính những giáo trình của các trường và các cơ quan nghiên cứu lý luận của ĐCSVN?
Nếu đọc lại các bài nói, bài viết rất khiên cưỡng một chiều đả kích, không cần lý lẽ giải thích, của các dư luận viên trên các diễn đàn “lề phải”, thậm chí còn phải nghi ngờ: Không biết các tác giả dư luận viên của những bài viết hay bài nói này đã đọc hay đã được học với đúng nghĩa chủ nghĩa Mác – Lênin hay chưa? Hay là chỉ học, chỉ biết lơ mơ về nó, được dậy tốt dậy xấu như thế nào, hay là được yêu cầu phải nói như thế nào, thì phát thanh lại như thế?! Một trong những cao điểm trí tuệ của các bải này làm nên sự nghi ngờ ở đây chính là sự hù dọa về nguy cơ “mất sổ hưu”!
Trong khi đó, như đã trình bầy ở các phần trên, sự thất bại của CNMLN trong việc xây dựng CNXH trên toàn thế giới – kể cả ở Việt Nam – không còn là chuyện phải bàn cãi.
Hơn thế nữa, cứ lấy những điều cao đẹp hiện đang được nói về CNMLN nhân dịp sửa đổi Hiến pháp, đối chiếu với những gì đang xảy ra trong cuộc sống hàng ngày – như một chiều đả kích những ý kiến xây dựng trong việc sửa đổi Hiến pháp, nhất quyết bóp chết hay không cho phép mở ra các diễn đàn để nhân dân trao đổi ý kiến của mình về sửa đổi Hiến pháp, liên tiếp các bản án rất nặng trấn áp những người yêu nước bất đồng chính kiến với chế độ và những người chống Trung Quốc xâm phạm bờ cõi đất nước, sự đàn áp thô bạo những người đi biểu tình bầy tỏ thái độ bảo vệ biển đảo của Tổ quốc, nhìn vào tệ nạn tham nhũng và biết bao nhiêu bất công xã hội đang xảy ra hàng ngày trên đất nước, nhìn vào sự sa đọa của hệ thống chính trị cai quản đất nước, nhìn vào sự xuống cấp và tha hóa ngày càng trầm trọng của đời sống văn hóa – xã hội của đất nước.., không thể không đặt ra câu hỏi: CNMLN đang được áp đặt ở đây thực chất có nội dung gì và nhằm mục đích gì?
Cũng phải đặt ra câu hỏi tư tưởng Hồ Chí Minh được nói đến trên các diễn đàn của dư luận viên là tư tưởng nào?
Tinh hoa trong tư tưởng Hồ Chí Minh là Tuyên ngôn Độc lập 02-09-1945, là Hiến pháp 1946, là tư tưởng Không có gì quý hơn độc lập tự do!, là đạo đức Cần kiệm liêm chính – chí công vô tư.., là Dân chủ có nghĩa là để cho nhân dân mở mồm ra nói!...
Xin hỏi có bất kỳ điều gì trong tinh hoa này của tư tưởng Hồ Chí Minh được tôn trọng, được vận dụng vào việc sửa đổi Hiến pháp lần này không?
Thậm chí hệ thống nhà nước cần được phân công nhiệm vụ, phân quyền kiểm soát lẫn nhau (tạm gọi là vấn đề “tam quyền phân lập” – như được thiết kế trong Hiến pháp 1946), nhưng được chính Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đích thân bác bỏ, với lập luận dứt khoát: Quyền lực nhà nước là thống nhất dưới sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của ĐCSVN…
Bác bỏ cách làm phô trương hình thức theo kiểu “26 triệu lượt ý kiến & 28 nghìn hội thảo…” để áp đặt, nhiều người đã hỏi thẳng lãnh đạo ĐCSVN: Sửa đổi Hiến pháp theo như cách đang làm thì sửa đổi làm gì? Chỉ thêm tốn tiền thuế của dân, công sức và thời gian của cả nước! Bản tuyên bố của nhóm 72 bác bỏ bản dự thảo 5 (ngày 17-05-2013) Dự thảo sửa đổi Hiến pháp nhận định: bản Dự thảo 5 thụt lùi so với Hiến pháp 1992 đang hiện hành.
Theo hay không theo ý thức hệ nào, tư tưởng nào, là quyền tự do của mỗi người. Nhưng áp đặt một ý thức hệ đã phá sản trên toàn thế giới, kể cả ở Việt Nam – cụ thể ở đây là CNMLN – vào Hiến pháp nước ta nhân dịp sửa đổi lần này nhằm mục đích gì?
Câu trả lời chỉ có thể là: Đây là sự áp đặt một công cụ chuyên chính tư tưởng và tinh thần, với mục đích phục vụ cho chuyên chính bạo lực, nhằm (a)bảo vệ chế độ độc quyền toàn trị nhân danh sự lãnh đạo của ĐCSVN, và (b)biện minh cho vị thế tối thượng bất khả xâm phạm của ĐCSVN để ghi vào Điều 4 của dự thảo Hiến pháp sửa đổi (bản dự thảo ngày 17-05-2013). Có lẽ vì hai lý do chủ yếu này, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã giải trình trước Quốc hội: Trước mắt không đặt ra vấn đề Luật về đảng trong sửa đổi Hiến pháp lần này. Giải trình như thế, khác gì tự xác nhận ĐCSVN đứng ngoài và đứng trên pháp luật, giữa lúc ĐCSVN kêu gọi cả nước sống và làm theo pháp luật!
Tuyên bố của nhóm 72 về bản dự thảo 17-05-2013 phân tích rõ:
- Sự áp đặt này nhằm tiếp tục hiến định vai trò lãnh đạo của ĐCSVN, cho thấy ĐCSVN quyết đứng trên và đứng ngoài Hiến pháp;
- sự áp đặt này hàng chục năm nay đã và đang trực tiếp hủy hoại vai trò lãnh đạo của ĐCSVN, là nguy cơ xóa bỏ toàn bộ sự nghiệp lịch sử của ĐCSVN từ bên trong, triển vọng với nhiều hệ quả đẫm máu cho đất nước – không một thế lực thù địch nào có thể làm nổi việc này;
- chế độ độc quyền toàn trị dưới hình thức “đảng hóa” mọi mặt đời sống đất nước ta là nguyên nhân gốc đẩy đất nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng toàn diện hiện nay, với nhiều nguy cơ và thách thức mới rất nguy hiểm.
Tóm lại: Dùng một chủ nghĩa đã phá sản như một công cụ chuyên chính làm ngọn cờ khua trương cho một sứ mệnh chính trị không được phép tồn tại trong một nhà nước của dân – do dân – vì dân, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân có nghĩa trong thực tế là sự phủ nhận trực tiếp nhà nước này, là để tiếp tục duy trì chế độ độc quyền toàn trị nhân danh kiên trì con đường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhân danh sự lãnh đạo của ĐCSVN. Kịch bản đen tối này không thể là sự lựa chọn của nhân dân ta, cũng không mở ra cho ĐCSVN con đường tồn tại. Cưỡng bức nhân dân đi theo kịch bản đen tối này, hệ quả cuối cùng sớm muộn sẽ chẳng khác mấy là sự tự sát của chính người cưỡng bức.
Sửa đổi Hiến pháp lần này đang tạo ra một cơ hội khó mà có lại, để ĐCSVN tự tay trực tiếp xóa bỏ kịch bản đen tối này cho chính mình mà những tha hóa tự thân đang cuốn hút mình vào. Không ai có thể làm thay ĐCSVN việc này.
Với gần 4 triệu đảng viên, lại trực tiếp nắm mọi quyền lực trong tay, ĐCSVN là lực lượng chính trị mạnh nhất trong xã hội Việt Nam, chiếm tới khoảng gần 4 triệu gia đình, có ảnh hưởng trực tiếp / gián tiếp tới 1/3 hay hơn nữa dân số cả nước, chưa nói đến nhiều ảnh hưởng to lớn khác nữa. Vì thế, tối ưu cho ĐCSVN và cũng là cho đất nước, là xóa bỏ kịch bản đen tối nêu trên. Con đường Myanmar đang gợi ý ra cho ĐCSVN một hướng đi hiện thực: Tất cả cùng sống, tất cả cùng nhau khép lại quá khứ, không ngoái lại quá khứ (bao hàm cả nghĩa không hồi tố), để cùng nhau theo tinh thần đoàn kết – hòa giải dân tộc mở ra một chương sử mới cho chính mình và cho đất nước, để từ nay mỗi người và cả đất nước trở thành chính mình: Xây dựng một đất nước tự do của những con người tự do. Đấy cũng là nguyện vọng cháy bỏng của toàn thể dân tộc Việt Nam ngày nay: Xây dựng một Việt Nam độc lập – tự do – hạnh phúc, để có được một Việt Nam đáng sống, không ai có thể ức hiếp, và cùng đi được với cả thế giới! Tìm đường cho nhân dân thực hiện khát vọng này, đấy mới chính là vai trò lãnh đạo mà ĐCSVN bây giờ phải lột xác phấn đấu để đạt tới. Đấy chính là con đường cứu đảng cứu nước mỗi đảng viên ĐCSVN bây giờ nhất thiết phải giác ngộ, chứ không phải cam tâm làm nô lệ của CNMLN đã bị cuộc sống loại bỏ – chỉ để phục vụ cho mục đích duy tri chế độ độc quyền toàn trị của một số người trong đảng đang giam hãm đất nước.
Trung thành với lịch sử chiến đấu vì nước vì dân của ĐCSVN, trung thành với tư tưởng Hồ Chí Minh, đảng viên ĐCSVN bây giờ nhất thiết và trước hết phải chiến thắng chính mình, để chiến thắng sự sa đọa đang dìm đảng của mình vào tội lỗi, để đặt lại đảng của mình vào con đường đấu tranh vì nước vì dân đã từng làm nên sự nghiệp của đảng, nhất là để không phản bội lại những hy sinh, những mất mát của dân tộc, của đồng chí và đồng đội trên chặng đường gần một thế kỷ qua!
Các đảng viên ĐCSVN hãy bắt đầu từ việc thảo luận thẳng thắn trong đảng về thực trạng của ĐCSVN và của đất nước, về những vấn đề đang đặt ra cho việc sửa đổi Hiến pháp. Hãy bắt đầu từ việc đòi trả tự do cho tất cả những người yêu nức bất đồng chính kiến với chế độ đang bị cầm tù. Hãy phản đối đàn áp biểu tình bảo vệ tổ quốc. Hãy xóa bỏ phân biệt đối xử lề trái hay lề phải trong báo chí, để cho trong báo chí chỉ có lẽ phải, lòng yêu nước, ý chí bảo vệ tổ quốc!
Các đảng viên của ĐCSVN dù ở cương vị nào, nếu còn giữ đất nước trong tim mình, nhất thiết phải đứng lên như thế để cứu đảng của mình, và như thế cũng là cứu nước. Các đảng viên ĐCSVN đừng để cho đảng của mình rơi vào tình trạng mà một chính khách ở Liên Xô[7] hồi đó đã phải thốt lên: ĐCS Liên Xô không thể cải tạo được nữa! Chỉ còn cách đập tan nó!
Đối nghịch lại, nếu các đảng viên ĐCSVN không phấn đấu lựa chọn con đường cứu đảng cứu nước, sẽ chỉ còn lại con đường của kịch bản đen tối, của tha hóa và tội lỗi. Đó là con đường cố tính đối kháng lại nhân dân, sớm muộn sẽ dẫn tới thảm họa nồi da xáo thịt cho đất nước, kết cục chắc chắn với sự phủ nhận dứt khoát của nhân dân cả nước dành cho ĐCSVN, với một màn chót không phải là không hình dung được.
Người dịch tạm kết luận
Thành, bại và cuối cùng là sự cáo chung của trào lưu cách mạng của chuyên chính vô sản trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế sau 150 năm tồn tại; gắn liền với chặng đường lịch sử này là sự cáo chung của chủ nghĩa Mác – Lênin với tính cách là cẩm nang cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; thành, bại và những thành tựu lâu bền của trào lưu xã hội dân chủ trên chặng đường 150 năm đồng hành này; thành và bại của chính thực tiễn 38 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta – bây giờ lùi xuống là định hướng xã hội chủ nghĩa, tất cả những thứ này có lẽ là đủ để cho chúng ta thấy: Thường xuyên mở rộng các quyền tự do, dân chủ rất cụ thể của mỗi công dân trong mỗi bước đi của đất nước, thường xuyên làm tất cả mọi việc để mỗi công dân luôn luôn tự nâng cao được quyền năng của mình từ hiểu biết và học hỏi, đấy mới là động lực sáng tạo, năng động và lâu bền cho sự phát triển của đất nước ta.
Tận dụng cơ hội việc sửa đổi Hiến pháp đang mang lại, sẽ mở ra cho đất nước ta một con đường đi lên của tự do và dân chủ.
Đọc kỹ diễn văn 150 năm ĐXHDCĐ (SPD) của Tổng thống Joachim Gauck, tôi thấy thêm một bằng chứng sống động của nước Đức cho những điều trình bầy trên. Tôi tin như vậy, tôi cũng mong nhân dân nước ta vận dụng được lợi thế của nước đi sau./.
Võng Thị – Hà Nội, ngày 10-06-2013
Nguyễn Trung
[1] Bài này đã được đăng trên Viet – Studies ngày 11-06-2013
[2]
“Vorwaerts!” (“Tiến lên!”) là khẩu hiệu đấu tranh của Đảng Xã hội Dân
Chủ Đức, lấy từ cuộc đấu tranh của phong trào công nhân Đức cuối thế kỷ
XIX. ND.
[3]
Đạo luật trao những quyền hành đặc biệt cho chính qyền Hitler, qua đó
phát xít hóa nước Đức, mở đường cho chiến tranh thế giới II. – ND chú
giải.
[4]
Đạo Luật Cơ Bản năm 1949 là Hiến pháp của Cộng Hòa Liên Bang Đức. Chú
ý, vì là nước phát xít bại trận trong chiến tranh thế giới II, nên cả 2
miền Tây và Đông nước Đức tuy đã có 2 nhà nước có chủ quyền, nhưng cả 2
nhà nước này vẫn chịu những ràng buộc nhất định trong khuôn khổ Hiệp ước
Postdam và một số quyền kiểm soát của 4 bên đồng minh là Liên Xô, Mỹ,
Anh và Pháp. ND chú thích.
[5] “Ai thắng ai?” – giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc.
[6] NEP – Neww Economic Policy.
[7] Boris Eltsin.Source :diendanxahoidansu.wordpress.com