23/3/09

Thư Gửi Một Quốc Gia Ki-tô Giáo – Phần 2

Thư Gửi Một Quốc Gia Ki-tô Giáo – Phần 2

Sam Harris




Những người vô thần có phải là quỷ dữ không ?

Nếu bạn là đúng khi tin rằng đức tin tôn giáo đem lại căn bản thực sự và duy nhất cho nền đạo đức thì những ngưòi vô thần chắc sẽ ít đạo đức hơn những ngưòi có lòng tin. Thực tế, họ phải là cực kỳ vô đạo đức. Có phải thế không? Có phải thành viên các tổ chức vô thần ở Mỹ phạm tội ác nhiều hơn không? Có phải thành viên của Hiệp hội Khoa Học, 93 phần trăm trong số họ không chấp nhận các ý tưởng về Thưọng đế, đã dối trá, lừa lọc và ăn cắp với sự buông thả hay không? Chúng ta có chứng cớ để tin tưởng rằng các tổ chức này tối thiểu cũng cư xử tốt lành như đa số dân chúng khác. Thế nhưng, người vô thần là thiểu số luôn bị mắng nhiếc nhiều nhất ở Mỹ. Các số thống kê thăm dò cho thấy là một ngưòi vô thần thì khó mà ứng cử vào các chức vụ cao trong đất nước (trong khi da đen, Hồi Giáo hoặc đồng tính thì không sao). Trên khắp các đất nước Hồi Giáo, gần đây, nhiều ngàn người đã tụ họp - đốt các tòa đại sứ Âu châu, đe dọa, bắt cóc con tin, giết người - để phản đối mười hai bức tranh biếm họa Tiên tri Mohammad lần đầu tiên xuất hiện trên một tờ báo Ðan mạch. Ngưòi vô thần có nổi loạn bao giờ? Có báo chí nào trên thế giới này phải lưỡng tự khi đăng những tranh biếm họa về người vô thần vì e rằng những người viết bài sẽ bị bắt cóc hoặc sát hại để trả thù?

Ngưòi Ki-tô giáo như các bạn cứ luôn tuyên bố rằng những con quỷ như Adolf Hitler, Joseph Stalin, Mao Trạch Ðông, Pol Pot và Kim Chính Nhật đã nhảy ra từ cửa mình một người vô thần. Trong khi sự thật là những kẻ ấy dù có khi là kẻ thù của các tổ chức tôn giáo nhưng họ vốn không có lý trí gì đặc biệt.[i] Thực tế, những công bố trước công chúng của họ thường là ảo tưởng: về những vần đề rất nhiều khác biệt như chủng tộc, kinh tế, tính đồng nhất quốc gia, tiến triển của lịch sử và các nguy hiểm đạo đức của chủ thuyết duy lý trí. Vấn đề của các bạo chúa đó không phải vì họ chối từ lý thuyết của tôn giáo mà là vì họ ôm chặt những huyền thoại hủy diệt sự sống khác. Hầu hết đã trở thành trọng tâm của những giáo phái cá nhân gần như tôn giáo, luôn cần đến sự tuyên truyền để duy trì. Có sự khác biệt giữa tuyên truyền và sự phổ biến thông tin chân thực mà chúng ta (thường) trông đợi từ một nền dân chủ tự do. Những bạo chúa gây diệt chủng hoặc sung sướng trị vì trên sự đói khát của chính dân mình, cũng thường thiên về những kẻ có tính khí riêng rất mạnh, chứ không phải là những người đấu tranh cho lẽ phải. Như Kim Chính Nhật, đã đòi hỏi là giường ngủ của y ở nhiều nơi cư ngụ khác nhau phải được đặt chính xác năm trăm mét trên mức nước biển. Nệm giường của y phải được nhồi bởi các thứ lông vũ mềm mại nhất mà chúng ta có thể tưởng tượng được. Các thứ lông vũ đó chính là các lông măng dưới cằm của giống chim sẻ. Phải cần đến bảy trăm ngàn con chim sẻ để dồn đủ lông cho một tấm chăn. Nhìn vào cái quan tâm sâu sắc bí hiểm ấy, chúng ta ắt phải tự hỏi cái con người Kim Chính Nhật đó đã biết điều đến thế nào.

Thử nghĩ về các lò thiêu Do Thái: những ngưòi chống Do Thái từng xây dựng các trại Nazi tử thần chính là di sản trực tiếp của Ki-tô giáo thời trung cổ. Trong bao nhiêu thế kỷ, ngưòi Ki-tô giáo ở châu Âu đã xem ngưòi Do thái như loại tệ hại nhất trong hàng ngũ những kẻ dị giáo và sự hiện diện của họ đã mang đến tất cả những bệnh hoạn cho xã hội. Ở Đức quốc lòng thù ghét người Do Thái đã biểu lộ như là một phương cách thế tục vượt trội, với căn nguyên từ tôn giáo, và sự dứt khoát ma quỷ hóa đạo giáo của người Do Thái ở Âu châu đã tiếp diễn suốt thời kỳ đó. Ngay chính Vatican cũng đã kéo dài những phỉ báng huyết thống trên báo chí của họ mãi đến cuối năm 1914 [ii] Và các nhà thờ Công giáo lẫn Thệ phản Giáo đều có những quá khứ đáng xấu hổ về những đồng lõa của họ với chính sách diệt chủng Nazi.

Lò sát sinh Auschwitz, các trại tập trung Xô Viết và cánh đồng chết ở Cam Bốt không phải là những điển trưng của những con ngưòi khi đã trở nên quá tin. Ngược lại, những khiếp đảm này minh chứng cho mối hiểm nguy của chính trị và chủ nghĩa giáo điều. Đã đến lúc những ngưòi Ki-tô các bạn ngưng viện cớ rằng sự chối bỏ đức tin sẽ dẫn đến sự ôm vội chủ thuyết vô thần như tín điều một cách mù quáng. Ngưòi ta không cần phải chấp nhận một điều gì không đủ tín lý để cho rằng sự ra đời trong trinh bạch của Jesus là một ý tưởng phi lý. Vấn nạn của tôn giáo– như là với chủ nghĩa Nazi, Stalin hoặc bất kỳ các hoang đường chuyên chế nào- chính là vấn nạn của tín điều. Tôi không thấy một xã hội nào trong lịch sử nhân loại từng khổ đau vì dân chúng quá khao khát chứng tín cho các khuôn mẫu niềm tin của mình.

KHI BẠN NGHĨ rằng chấm dứt tôn giáo là một mục tiêu không thể đạt được, quan trọng hơn là bạn nên ý thức được rằng nhiều đất nước phát triển đã gần đạt được điều ấy. Na uy, Iceland, Úc, Canada. Thụy điển, Thụy sĩ, Đan Mạch, Bỉ, Nhật, Netherland, và Anh quốc là những quốc gia ít tôn giáo tính nhất trên địa cầu. Theo báo cáo về phát triển của nhân loại của Liên Hiệp Quốc (2005) những quốc gia này là những quốc gia khỏe mạnh, dựa vào tuổi thọ, trình độ đọc viết, thu nhập đầu người, học thức, công bằng giới tính, tỉ lệ giết người và tỉ lệ tử vong của trẻ em. Đến mức rằng nếu như có một trường hợp tội phạm xảy ra ở Tây Âu thì hầu như phần lớn là từ giới di dân. Thí dụ như bảy mươi phần trăm các tù phạm trong các nhà tù ở Pháp là những ngưòi Hồi giáo. Người Hồi giáo ở Tây Ây nói chung không phải là ngưòi vô thần. Ngược lại, năm mươi quốc gia hiện xếp hạng chót theo những tiêu chuẩn của Liên Hiệp Quốc là những quốc gia kiên định về tôn giáo.

Các phân tích khác cũng vẽ nên bức tranh tương tự: Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, trong mức độ trung thành với tôn giáo, là một độc đáo giữa những quốc gia dân chủ giàu có. Đất nước này còn độc đáo ở sự bủa vây trong mức độ cao của tệ nạn sát nhân, phá thai, trẻ vị thành niên mang thai, bệnh truyền nhiễm qua tình dục và mức tử vong của trẻ em. Trong nội tình nưóc Mỹ, một so sánh đúng tương tự là: giữa các tiểu bang phía nam và trung tây, nơi có đặc tính tôn giáo mạnh, thì đặc biệt tiêm nhiễm bởi những chỉ dấu của một xã hội thiếu lành mạnh, trong khi các tiểu bang tương đối mang tính thế tục ở vùng đông bắc thì thích ứng với các tiêu chuẩn Âu châu.

Trong khi sự sát nhập đảng phái chính trị ở Mỹ không phải là một chỉ dấu hoàn hảo về lòng mộ đạo, chả có gì gọi là bí mật khi những “tiểu bang đỏ” (ý nói thiên về đảng Cộng Hòa - ghi chú của Người Dịch) đã thắm đỏ hơn vì ảnh hưởng chính trị quá mạnh của giới Ki-tô giáo bảo thủ. Nếu có một liên quan gì mạnh mẽ giữa chủ nghĩa bảo thủ Ki-tô với y tế xã xội, và chúng ta mong nhìn thấy vài tín hiệu của tương quan ấy trong các tiểu bang đỏ ở Mỹ. Chúng ta sẽ không thấy gì cả. Trong hai mươi lăm thành phố có tỉ lệ tội phạm thấp nhất, 62 phần trăm thuộc tiểu bang “xanh” ( ý nói thiên về đảng Dân Chủ), 38 phần trăm thuộc ”đỏ”. Trong hai mươi lăm thành phố nguy hiểm nhất, 76 phần trăm thuộc các tiểu bang “đỏ”, 24 phần trăm thuộc “xanh”. Thực tế, ba trong năm thành phố nguy hiểm nhất ở Mỹ là ở tiểu bang đạo đức giả Texas. Mưòi hai tiểu bang có mức ăn trộm cao nhất là “đỏ’. Hai mươi bốn trong hai mươi lăm tiểu bang có mức ăn cắp cao nhất là “đỏ”. Trong hai mươi hai tiểu bang có tỉ lệ sát nhân cao nhất, mưòi bảy tiểu bang là “đỏ’.

Dĩ nhiên, những liên quan như thế này không giải quyết được các câu hỏi về nguyên nhân hậu quả - niềm tin vào Thượng đế có thể đã dẫn đến những trục trặc của xã hội - hoặc các trục trặc của xã hội có thể đã thúc đẩy niềm tin vào Thượng đế, yếu tố này có thể gây ra yếu tố kia, hoặc cả hai có thể đã nảy sinh từ các nguyên nhân sâu xa của điều ác. Tuy vậy, bỏ qua một bên vấn đề của nguyên nhân và hậu quả, các con số thống kê này đã chứng minh rằng chủ nghĩa vô thần là khát vọng căn bản của một xã hội dân sự; các con số thống kê ấy cũng chứng minh một cách đầy thuyết phục rằng, việc phổ biến niềm tin vào Thượng đế không bảo đảm gì cho sự lành mạnh xã hội.

Các quốc gia có trình độ cao về chủ nghĩa vô thần là những quốc gia có lòng khoan dung nhất, trong cả hai phương diện tỉ lệ bách phân tài nguyên họ cống hiến cho các chương trình an sinh xã hội và tỉ lệ bách phân của cải họ cho đi trong các viện trợ đến thế giới đang phát triển. Mối liên hệ không rõ ràng giữa chủ nghĩa Ki-tô nghĩa đen và các giá trị Ki-tô đã gây nên từ ảo tưởng của các sai lầm về sự công bằng xã hội. Hãy nhìn mức tỉ lệ lương bổng giữa các viên chức điều hành cao cấp với mức lương trả cho các công nhân trung bình cùng hãng xưỏng: ở Anh quốc là 24:1, ở Pháp 15:1, Thụy điển 13:1, ở Mỹ, nơi mà 80 phần trăm dân số mong đợi được vời đến trong ngày phán xét của Thượng đế là 475:1. Trông có lẽ như khối con lạc đà có thể đi lọt qua một lỗ kim.

Ai đã đặt điều tốt lành vào cuốn “sách tốt lành”?

Ngay cả nếu niềm tin vào Thiên chúa quả thực tạo nên một ảnh hưởng tốt và đáng tin lên phẩm hạnh của con ngưòi, thì yếu tố này cũng không đủ là một lý lẽ để tin vào Thiên chúa. Người tin vào Thiên chúa là ngưòi chỉ tin rằng Thiên chúa thực có hiện hữu. Ki-tô giáo không hẳn là đúng, ngay cả khi chủ nghĩa vô thần có dẫn thẳng đến cuộc khủng hoảng đạo đức. Có thể Hồi giáo mới là đúng trong trường hợp ấy. Hoặc tất cả các tôn giáo chỉ nên hoạt động như những loại thuốc trấn an. Như khi ra toa chữa bệnh cho vũ trụ, thuốc có thể là hoàn toàn giả, thế nhưng lại hữu ích. Tuy vậy, chứng cớ cho thấy rằng cả hai đều giả mạo và nguy hiểm.

Khi nói về những kết quả tốt lành mà niềm tin của bạn mang lại cho đạo đức con ngưòi, bạn đang noi gương những ngưòi tự do và ôn hòa tôn giáo. Thay vì nói rằng họ tin vào Thiên chúa vì một số tiên tri trong thánh kinh đã thật xảy đến, hoặc vì những phép lạ kể lại trong phúc âm đáng tin, những ngưòi tự do và ôn hòa có khuynh hướng nói về những hậu quả tốt lành của niềm tin như khi họ tin. Những ngưòi tin theo này thường nói rằng họ tin vào Thượng đế bởi vì niềm tin này “mang lại ý nghĩa cho đời sống của mình”. Khi cơn sóng thần giết hại vài trăm ngàn ngưòi ngay sau ngày giáng sinh 2004, nhiều ngưòi Ki-tô giáo bảo thủ nhìn thiên tai này như một minh chứng cho cơn giận của Thiên chúa. Rõ ràng là Thiên chúa đã gởi một mã thông tri nữa đến bọn quỷ phá thai, sùng bái ảnh tượng và đồng tình luyến ái. Mặc dù tôi đánh giá những lý giải này như một sự kinh tởm cùng cực, nếu được gán một số giả định, hẳn nó cũng phải có một đặc điểm gì phải lẽ. Mặt khác, những ngưòi tự do và ôn hòa đã từ chối rút ra một kết luận nào về Thiên chúa trong công việc của ngài. Thiên chúa vẫn là một bí mật tuyệt đối, vẫn chỉ một nguồn an ủi tương thích bên một ác quỷ tàn phá hung hãn. Theo sau cơn sóng thần ở Á châu, những ngưòi tự do và ôn hòa lần lượt khuyên bảo nhau tìm Thiên chúa “ không phải trong sức mạnh để dịch chuyển được cơn bão, mà trong chống trả của con người với cơn bão”. Tôi nghĩ chúng ta có thể đồng ý rằng những tử thi trôi nổi được kéo vớt khỏi mặt biển là những biểu hiện của lòng bác ái từ chính con ngưòi chứ không phải từ Thiên chúa. Vào cái ngày cả hơn một trăm ngàn trẻ thơ thình lình bị giật xé khỏi vòng tay mẹ chúng rồi bị nhận chìm, thần học tự do phải đứng dậy để vén mở xem đó là điều gì: đó là những sự giả ngơ chết người nhất. Hiểu biết của Thần học về cơn giận của Thiên Chúa thật đã đi quá xa khỏi phẩm chất trí thức. Nếu Thiên Chúa hiện hữu và quan tâm đến việc đời của nhân loại thì ý nguyện của người không bí hiểm. Cái bí hiểm duy nhất ở đây chính là nhiều ngưòi đàn ông, đàn bà trí thức thông thái có thể chối từ cái thảm họa vô ích này để nghĩ đến những cao sâu của đạo đức.

CÙNG VỚI hầu hết những ngưòi Ki-tô khác, bạn tin rằng những sinh vật có thể chết đi như chúng ta không thể chối từ đạo đức của Thánh kinh. Chẳng hạn như, chúng ta không thể bảo rằng Thiên Chúa đã sai lầm khi dìm chết hầu hết nhân loại trong trận lũ lụt thời Sáng thế, bởi vì đấy chỉ là cách nhìn từ nhãn quan giới hạn của chúng ta. Thế nhưng, bạn lại cảm thấy mình ở được đứng vào vị trí để thẩm định rằng Jesus là con Thiên Chúa , rằng Khuôn Vàng Thước ngọc là đỉnh cao của đạo đức thâm thúy, rằng cuốn Thánh kinh tự bản thân không đầy ắp những điều dối trá. Bạn đang xử dụng chính trực giác của mình để xác thực cái uyên thâm của đạo đức – và rồi – ngay sau đó, bạn lại yêu sách rằng con ngưòi không thể dựa vào trực giác của mình để dẫn dắt mình đi đúng đường trên thế gian này; chúng ta phải nên dựa vào toa thuốc chẩn bệnh của Thánh kinh thì tốt hơn. Bạn đang dùng chính trực giác đạo đức của mình để xác quyết rằng cuốn Thánh kinh là bảo chứng đúng đắn nhất cho trực giác đạo đức của mình. Trực giác của bạn là cái chính yếu, lẽ phải của bạn thì lòng vòng.

Chúng ta quyết định xem điều gì tốt lành trong cuốn sách Tốt lành này. Chúng ta đọc Khuôn vàng Thước Ngọc và đánh giá đó là chắt lọc sáng giá từ rất nhiều thúc đẩy đạo đức của chúng ta. Sau đó, chúng ta bắt gặp lời một dạy khác của Thiên Chúa về đạo đức : Trong đêm động phòng, nếu ngưòi đàn ông khám phá ra rằng ngưòi vợ của mình không còn trinh nữ thì y phải ném đá y thị cho chết đi tại ngay thềm cửa nhà cha của y thị

(Deuteronomy 22:12-21). Nếu là con ngưòi văn minh, hẳn chúng ta phải chối bỏ ngay hành vi này như thể một thứ điên rồ, ghê tởm có thể tưởng được được. Hành động như thế là cần đến sự thực hành trực giác đạo đức của mình. Sự tin rằng cuốn Thánh kinh là chính lời của Thượng đế chẳng giúp gì chúng ta cả.

Chọn lựa của chúng ta rất đơn giản: Hoặc chúng ta sẽ có một cuộc thảo luận của thế kỷ hai mươi mốt về đạo đức học và phẩm hạnh nhân loại - cuộc thảo luận mà mình sẵn sàng với mọi sáng suốt của khoa học và các tranh biện triết học vốn tích lũy từ hơn hai ngàn năm qua trong tiến trình phát triển nhân loại – hay là chúng ta tự giam mình vào một cuộc thảo luận của thế kỷ thứ nhất như đã được bảo quản cất giữ trong cuốn Thánh Kinh. Tại sao lại có ai đó muốn một cuộc thảo luận thứ hai ?

Lòng Từ tâm của Thiên chúa

Ở một nơi nào đó trên thế gian này có một ngưòi đàn ông bắt cóc một bé gái. Chẳng bao lâu sau đó, y hãm hiếp, hành hạ và giết bé đi. Nếu sự man rợ loại này không xảy ra đúng vào lúc này, nó có thể xảy ra tối đa là trong một vài giờ hay vài ngày nữa. Chúng ta biết chắc như thể rút ra từ các phép thống kê đang khống chế đời sống của sáu tỉ ngưòi. Các thống kê tương tự cho thấy rằng cha mẹ của bé gái này tin – cũng như bạn đang tin - rằng có một Thiên chúa toàn năng đầy lòng bác ái đang quan phòng đến họ và gia đình họ. Họ tin như thế có đúng không? Và có tốt đẹp gì không khi họ tin như thế ?

Không.

Tất cả chủ nghĩa vô thần nằm trong câu trả lời này. Chủ nghĩa vô thần không phải là một trường phái triết học. Cũng không phải một quan điểm về thế gian. Chủ nghĩa vô thần chỉ đon giản chỉ sự chấp nhận những gì hiển nhiên. Thực ra, “Vô thần” là một từ vốn không nên có. Không ai cần phải minh định mình là một ngưòi “không chiêm tinh học”, hoặc “không giả kim học”. Chúng ta không có từ diễn tả những ngưòi còn ngờ rằng Elvis vẫn còn sống hoặc các thứ ngưòi hành tinh đã du hành qua dải ngân hà chỉ để để quấy nhiễu các chủ trang trại và gia súc của họ. Vô thần chỉ là những âm vang từ những con ngưòi biết phải quấy trước sự hiện diện của những niềm tin tôn giáo vô lý. Ngưòi vô thần đơn giản chỉ là người tin rằng 260 triệu ngưòi Mỹ (87 phần trăm dân số Mỹ) nhận rằng họ “không bao giờ nghi ngờ hiện hữu của Thượng đế” nên có trách nhiệm chứng minh sự hiện hữu ấy của Ngài, và, ngay cả cho tình bác ái của ngài trước những hủy diệt không ngừng của nhân loại mà chúng ta đang là nhân chứng mỗi ngày. Ngưòi vô thần là ngưòi tin rằng việc sát hại đứa bé gái đơn độc - dù chỉ xảy ra một lần duy nhất trong cả triệu năm – cũng đủ để nghi ngờ ý tưởng của một Thiên chúa nhân từ.

Các thí dụ về sự thất bại của Thiên chúa trong việc bảo vệ nhân loại có thể được nhìn thấy đầy rẫy mọi nơi mọi chốn. Thí dụ như thành phố New Orleans vừa bị hủy diệt bởi cơn bão dữ Katrina. Hơn một ngàn ngưòi tử vong, hàng chục ngàn người mất đi tất cả tài sản trần gian của mình, và gần một triệu ngưòi phải rời bỏ nơi ăn chốn ở. Vậy thật không sai khi nói rằng hầu hết mọi ngưòi sống ở New Orleans vào thời điểm cơn bão Katrina tràn đến đã chia xẻ với quý bạn niềm tin vào một Thiên chúa toàn năng, toàn trí và nhân từ. Thế nhưng Thiên chúa đã làm gì khi Katrina ngập tràn rác rưởi khắp thành phố ? Chắc chắn là Thiên chúa đã nghe thấy lời cầu kinh của những người già cả, phụ nữ phải chạy lên rầm thượng tìm nơi an toàn để trốn khỏi cơn sóng dữ đang dâng lên, rồi cũng bị nhận chìm chết đuối. Ðó là những con ngưòi của đức tin. Ðó là những ngưòi đàn ông, đàn bà tốt lành đã đọc kinh cầu suốt cả đời mình. Bạn có can đảm chấp nhận sự hiển nhiên này không? Quả là những ngưòi đáng thương này đã chết vì chuyện trò với một ngưòi bạn tưởng tượng.

Dĩ nhiên, đã có những cảnh báo kịp thời về một cơn bão “có tầm cỡ kinh thánh” sẽ đổ vào New Orleans, và sự đối phó sau đó của con ngưòi với tai họa đã là một thảm kịch bất lực. Thế nhưng đó là một sự đối phó không tương ứng dưói ánh sáng của khoa học. Còn tôn giáo thực không mang đến cơ bản nào cho sự đối phó. Các cảnh báo trước về đường tiến của bão Katrina đạt được từ cuộc vật lộn với thiên nhiên câm lặng, từ tính toán của thiên văn học và các ảnh chụp từ vệ tinh. Thiên chúa không hề cho ai biết trước các kế hoạch của Ngài. Nếu như các dân cư ở New Orleans từng đồng lòng dựa cả vào thiện tâm của Thiên chúa, họ đã chỉ có thể biết cơn bão chết ngưòi đổ xuống mình khi cuồng phong thực sự tạt vào mặt mình. Thế nhưng, chắc bạn cũng không ngạc nhiên khi kết quả cuộc thăm dò của tờ Washington Post đã cho thấy 80 phần trăm những nạn nhân sống sót sau cơn bão Katrina đã nhìn nhận rằng biến cố bão ấy chỉ làm vững mạnh hơn niềm tin của họ vào Thiên chúa.

Trong lúc cơn bão Katrina đang nuốt chửng New Orleans, gần một ngàn ngưòi Shiite hành hương đã giẫm đạp lên nhau mà chết ở một cây cầu tại Iraq. Những ngưòi hành hương này tin tưởng mãnh liệt vào đấng Thiên chúa trong kinh Koran. Thực vậy, cuộc sống của họ được tổ chức chung quanh thực tế không thể tranh cãi về sự hiện diện của ngài: phụ nữ phải phủ mạng che mặt trưóc ngài, nam giới thưòng xuyên giết hết ngưòi này đến kẻ khác vì tranh nhau diễn giải lời dạy của ngài. Thật là ngoại lệ nếu có kẻ sống sót đơn lẻ nào mất niềm tin từ những thảm kịch này. Thường thì những kẻ sống sót tưởng tượng rằng mình được tha chết do ơn huệ của Thiên chúa.

Ðã đến lúc để chúng ta ý thức cái không giới hạn của chủ nghĩa tự yêu mình và tự dối mình từ những người được cứu sống. Ðến lúc để chúng ta nhận thấy thật đáng hổ thẹn đến thế nào khi những kẻ sống sót từ trận thiên tai có thể tin rằng họ được tha chết bởi một Thiên chúa nhân từ, trong khi cũng Ðấng ấy nhận chìm những trẻ thơ trong nôi của chúng. Một khi bạn ngưng trùm tấm chăn tôn giáo tưởng tượng của bạn lên cái thực tế đau khổ của thế giới, bạn sẽ nhận ra mạng sống quý báu đến dường nào và, từ đó nhận thấy được nỗi bất hạnh của hàng triệu con ngưòi đã bị tước đoạt hạnh phúc của họ một cách đau khổ mà không vì nguyên nhân gì cả.

THỬ HỎI một cơn thiên tai đã lớn lao và vô lý đến chừng nào mới lay chuyển được đức tin của thế gian. Lò thiêu Holocaust đã không lay chuyển được. Nạn diệt chủng ở Rwanda cũng không, ngay cả có những tu sĩ mang gươm giáo giữa những thủ phạm. Năm trăm triệu ngưồi chết vì bệnh đậu mùa trong thế kỷ hai mươi, đa số là trẻ thơ. Phương cách của Thiên chúa thật bí hiểm. Dường như tất cả thực tại, bất kể là bất hạnh đến đâu, có thể đáp trả tương xứng với đức tin của tôn giáo.

Lẽ tất nhiên, hết bận này đến lượt khác, con ngưòi của mọi đức tin luôn quả quyết là Thiên chúa không chịu trách nhiệm gì về đau khổ của con ngưòi. Thế thì còn gì khác để chúng ta tin vào khẳng định rằng Thiên chúa đế là toàn năng và toàn trí ? Dĩ nhiên, đây là câu hỏi cũ rích dành cho thần học và chúng ta có thể cho rằng câu hỏi đã được giải đáp. Nếu Thiên chúa hiện hữu, hoặc ngài đã không thể làm gì để chặn đứng các tai ương thái quá ấy hoặc ngài không muốn ngăn chặn. Do đó, Thiên chúa hoặc là bất lực hoặc là một con quỷ. Ðến đây chắc bạn muốn biểu diễn động tác múa ballet xoay tròn để đáp rằng: Thiên chúa không thể bị đánh giá bằng những tiêu chuẩn đạo đức của con ngưòi. Nhưng chúng ta đã thấy tiêu chuẩn đạo đức của con ngưòi là chính những tiêu chuẩn mà bạn dùng để dựng nên lòng nhân từ của Thiên chúa ngay từ khởi điểm. Và bất kỳ Thiên chúa nào có thể lo lắng cho chính mình bởi những chuyện tầm thường như hôn nhân đồng tính hay bởi danh xưng mà Ngài được nhắc đến trong các bài kinh cầu nguyện thì không có gì là bí hiểm cả.

Dĩ nhiên, còn một khả năng khác, vừa hợp lý vừa ít đáng ghét nhất: đó là vị Thiên chúa trong Kinh thánh là không có thật, tương tự như thần Zeus và hàng ngàn vị thần đã chết khác mà hầu hết nhân loại tỉnh táo đều không để ý đến. Bạn có thể chứng minh rằng thần Zeus không hề hiện hữu? Dĩ nhiên là không. Vậy thì, hãy tưởng tượng mình đang sống trong một xã hội mà hàng năm con ngưòi tiêu hàng chục tỉ bạc tiền thu nhập của họ để làm nguôi giận các thần trên đỉnh Olympus, trong khi chính phủ chi ra nhiều tỉ bạc khác từ tiền thuế để hỗ trợ cho các cơ quan dâng hiến cho các thần này, cùng lúc ấy, nhiều tỉ bạc khác lén lút lấy từ trợ cấp thuế mang hiến tặng cho các đền thờ ngoại giáo, đồng thời các viên chức dân cử đang làm hết sức mình để ngăn chặn các nghiên cứu y khoa gây mất lòng Iliad và Odyssey, và trong khi tất cả các tranh luận về chính sách công cộng đều đả phá các ý tưởng kỳ quặc của các tác giả cổ đại từng viết hay nhưng không biết gì về thực tế của thiên nhiên để loại phân ra khỏi thức ăn của họ. Ðây đúng là một sự biển thủ khủng khiếp cho tài nguyên, đạo đức và tri thức. Thế nhưng đấy chính là cái xã hội chúng ta đang sống. Ðấy là một thế giới phi lý cùng cực mà bạn và những ngưòi Ki-tô hữu của bạn đang cật lực tạo nên.

Thật khủng khiếp là chúng ta sẽ chết đi và mất đi tất cả những gì chúng ta yêu thương. Thật khủng khiếp là quá nhiều con ngưòi đang phải sống mà chịu đựng những đau khổ không cần thiết. Và rất nhiều những đau khổ này đang trực tiếp quy cho tôn giáo - cho hận thù tôn giáo, chiến tranh tôn giáo, cấm kỵ tôn giáo, và các lệnh hướng tôn giáo về các tài nguyên hiếm- là những điều khiến sự phê phán chân thành về đức tin tôn giáo là một nhu cầu đạo đức và trí thức. Ðáng tiếc thay, việc diễn đạt những phê bình như thế đang đặt những người không tin theo tôn giáo ra ngoài lề xã hội. Chỉ việc va chạm với thực tại thôi, ngưòi không tin theo tôn giáo đã bị xem như kẻ đúng ngoài cuộc sống kỳ diệu của các láng giềng.

Sức mạnh của sự tiên tri

Ngưòi ta thường nói rằng thật có lý khi tin Thánh kinh chính là lời của Thượng đế bởi vì nhiều biến cố được kể lại trong Tân Ước đã xác định tiên tri của thời Cựu ước. Nhưng hãy tự hỏi chính mình, các nhà soạn phúc âm đã phải khó khăn đến dường nào khi phải kể lại câu chuyện về cuộc đời Jesus sao cho phù hợp với các tiên đoán trong Cựu Ước? Không phải Thánh kinh đã ở trong quyền lực của những ngưòi quá cố nào để soạn lên một cuốn sách nhằm khẳng định các tiên đoán của cuốn sách trưóc đó? Thực tế, chúng ta đã biết về căn bản có chứng tích văn tự rằng đấy chính là cách mà các nhà soạn sách Phúc âm đã thực hiện.

Thí dụ như các nhà soạn phần Luke và Matthew công bố rằng Mary đã mang thai trinh nguyên, dựa vào việc Hy lạp trao trả lại Isaiah 7:14. Văn tự bằng tiếng Hebrew về Isaiah dùng chữ ‘almâ” có ý nghĩa đơn giản là “ngưòi phụ nữ trẻ” chứ không mang ý ám chỉ gì về sự trinh nguyên. Chắc là cái niềm tin về sự hạ sinh đồng trinh, và hầu hết các hậu quả mối băn khoăn của thế giói Ki-tô giáo về tình dục, chính là sản phẩm dịch sai từ cổ ngữ Do Thái. Một phủ nhận khác về niềm tin vào sự hạ sinh trinh nguyên là ở chỗ nhiều nhà truyền giáo khác đã không hề nghe biết đến việc ấy. Cả Mark và John cùng bối rối trước lời kết tội rằng Jesus là kết quả của sự chửa hoang nhưng cả hai chẳng bao giờ nhắc đến nguồn gốc phép lạ của Ngưòi. Pauls nhắc đến Jesus như đã “sinh ra từ giống, da thịt của David” và “sinh ra từ một ngưòi đàn bà”, mà không hề nhắc đến việc đồng trinh của Mary gì cả.

Các nhà truyền giáo cũng mắc những sai lầm khác về sự thông thái, thí dụ như, Matthew trong câu 27:9-10 đã khẳng định một câu châm ngôn có nguyên do từ sách Jeremiah. Trong khi đó câu châm ngôn này thực sự đã xuất hiện trong Zechariah 11:12-13 (về việc Judas bán Jesus lấy 30 miếng bạc, cũng là tiền mua ruộng của kẻ làm đồ gốm – ghi chú của người dịch). Các phúc âm cũng mâu thuẫn trực tiếp với nhau. John cho chúng ta biết rằng Jesus đã bị đóng đinh một ngày trước khi ăn bữa Passover; Mark lại bảo là ngày hôm sau. Với ánh sáng của những khác biệt đó, làm sao quý bạn có thể tin rằng tất cả mọi phần của cuốn Thánh kinh là hoàn hảo? Bạn nghĩ sao về Muslim, Mormons, và ngưòi Sikhs vốn thường không để ý đến những mâu thuẫn trong các sách thánh của họ? Họ cũng tuyên bố những điều đại loại như “Thần thánh thiêng liêng chỉ nhìn vào thực chất cốt lõi chứ không bị ràng buộc bởi ngôn từ” (Luthers). Như thế có khiến bạn chấp nhận kinh sách của họ như những lời hoàn hảo hơn của đấng tạo nên vũ trụ?

NGƯỜI KI-TÔ giáo thường xác nhận rằng sách Thánh kinh tiên đoán được những biến cố lịch sử ngày mai. Thí dụ như sách Deuteronomy 28:64 phán rằng “ Và Đức cha sẽ rải các ngươi ra giữa mọi ngưòi, từ đầu bên này đến bờ bên kia của quả đất “ Jesus nói, trong Luke 19:43-44 “ Rồi các ngươi sẽ đến những ngày, khi quân thù sẽ dựng nên những bờ song chung quanh ngươi, bao vây các ngươi mọi phía, và ném ngươi xuống mặt đất, ngưoi và con cái ngươi bên trong, và chúng sẽ không chừa một hòn đá nào cho ngươi, bởi vì các ngươi không biết giờ thăm viếng của các ngươi” Chúng tôi nhắc đến để tin rằng nhưng lời phát biểu này sẽ tiên đoán lịch sử sau đó của ngưòi Do thái với những đặc điểm huyền bí như thế để chấp nhận một giải thích phi thường.

Nhưng hãy tưởng tượng xem cái công việc đặc biệt ngoạn mục của sự tiên tri như thế nào, nếu như dó là một sản phẩm của sự toàn trí. Nếu cuốn Thánh kinh là một cuốn sách như thế, ắt phải chứa đựng những tiên đoán chính xác hoàn hảo về những biến cố của nhân loại. Bạn phải nhận thấy cuốn sách chứa đựng những dòng như “trong nửa thế kỷ sau của thế kỷ thứ hai mươi, nhân loại sẽ phát triển một hệ thống computer liên lạc toàn cầu - những nguyên tắc mà ta đã nói trước ở Leviticius – và hệ thống này sẽ được gọi tên là internet”. Thánh kinh không có những dòng tiên đoán như thế. Thực tế, cuốn sách đã không chứa đựng một dòng nào không từng được viết ra bởi những ngưòi sống trong thế kỷ thứ nhất. Điều này chắc phải gây phiền cho bạn.

Một cuốn sách được viết bởi một con ngưòi toàn trí có thể chưa đựng một phần về toán học mà sau hai ngàn năm xử dụng liên tục, vẫn còn là một nguồn sung mãn của thông thái toán học mà nhân loại từng được biết. Thay vì thế, cuốn Thánh kinh không hề chứa đựng những thảo luận nghiêm túc về toán lại còn chứa đựng những sai lầm hiển nhiên về toán học nữa. Cuốn sách lành này nói rằng tỉ số giữa chu vi và tâm của vòng tròn là 3:1 (I Kings 7:23-26 và II Chronicles 4:2-5). Thật không ấn tượng gì lắm khi đem so sánh một cách tương đối với hằng số Pi. Tích thập phân của hằng số Pi. chạy đến vô tận – 3.1415926535…- và hiện nay các máy điện toán hiện đại cho phép chúng ta tính toán được hằng số này đến bất kỳ mức chính xác nào chúng ta muốn. Trong khi cả ngưòi Ai cập và Babylons đều chỉ đánh giá gần đúng hằng số Pi ở một vài phần mười ở vài thế kỷ trước khi những cuốn sách cũ nhất về Pi hằng được soạn ra. Cuốn Thánh kinh mang đến cho chúng ta một con số phỏng chừng vốn quá tệ ngay cả khi căn cứ vào tiêu chuẩn của thời thượng cổ. Và không có gì ngạc nhiên, chính niềm tin đã tìm cách để hợp lý hóa điều này; nhưng những sự hợp lý hóa ấy không che dấu được các khác biệt rành rành của Thánh kinh như là nguồn gốc cho thông thái của toán học. Thật tuyệt đối chính xác nếu như nhà toán học Hy lạp Archimedes soạn những phần liên quan trong I Kings và II Chronicles, thì các văn tự sẽ mang được bằng chứng mạnh hơn về sự “toàn trí ” của ngưòi viết.

Tại sao sách Thánh kinh không hề nói chi đến điện năng, hay về DNA, hay về kích thước và tuổi thực của vũ trụ? Thế còn về thuốc trị liệu cho bệnh ung thư thì sao? Khi chúng ta hoàn toàn hiểu tính sinh học của bệnh ung thư, hiểu biết này có thể dễ dàng tóm tắt lại trong vài trang chữ viết. Tại sao những trang như thế, hay một cái gì gần giống như thế không tìm được trong cuốn Thánh kinh? Ngay lúc này, ngưòi hiền lương, kẻ đạo đức giả đang chết một cách khủng khiếp từ chứng ung thư, và đa số là trẻ thơ. Thánh kinh là một cuốn sách vĩ đại. Thượng đế có chỗ để hướng dẫn chúng ta với đầy đủ chi tiết về cách giữ nô lệ và hy sinh rất nhiều loại động vật. Đối với những ai đứng bên ngoài đức tin Ki-tô giáo, thì thật là một sự ngạc nhiên cùng cực về sự tầm thường của cuốn sách và sao vẫn được nghĩ đến như một sản phẩm toàn trí .

Va chạm giữa Tôn giáo và Khoa học

Hiện nay, khi sự phát biểu trung thực về mâu thuẫn giữa khoa học và tôn giáo là một nhu cầu đạo đức của các nhà khoa học thì Hiệp Hội Tri thức Khoa học lại khẳng định sự mâu thuẫn một cách viển vông:

Ngay tại căn nguyên của mối mâu thuẫn rõ rệt giữa vài tôn giáo và sự tiến

hoá là sự hiểu lầm về cách hiểu những khác biệt căn bản giữa tôn giáo và

khoa học. Các tôn giáo và khoa học giải quyết những vấn đề khác nhau của

thế giới. Có hay không một mục đích cho vũ trụ hay một mục đích cho hiện

hữu của nhân loại không phải là câu hỏi của khoa học. Phương cách hiểu

biết mà khoa học và tôn giáo đang thực hiện và tiếp tục thực hiện giữ các vai trò riêng biệt trong lịch sử nhân loại… Khoa học là con đường dẫn đến hiểu biết thế giới tự nhiên. Khoa học giới hạn trong phạm vi giải thích thế giới tự

nhiên thông qua những nguyên nhân tự nhiên. Khoa học không thể phát biểu

gì về siêu nhiên. Thượng đế có hiện hữu hay không là một câu hỏi mà khoa học giữ thái độ trung tính.

Phát biều này thật choáng váng vì sự thiếu thẳng thắn. Dĩ nhiên, các nhà khoa học sống trong nỗi sợ hãi triền miên của việc mất đi ngân sách do công chúng tài trợ, vì thế Hiệp hội Tri thức Khoa học chắc chỉ đơn thuần diễn tả nỗi kinh hoàng thô thiển về đám đông đóng thuế. Tuy nhiên, sự thật là mối mâu thuẫn xung khắc giữa tôn giáo và khoa học là không thể tránh khỏi. Thành công của khoa học thường đến từ phí tổn của đức tin tôn giáo; sự duy trì đức tin tôn giáo luôn luôn đến từ phí tổn của khoa học. Các tôn giáo của chúng ta không chỉ đơn giản nói về “mục đích cho hiện hữu của nhân loại”. Tương tự như khoa học, mỗi tôn giáo khẳng định những điều khác nhau về phương cách của thế giới. Những khẳng định này ngụ ý về những sự kiện - đấng tạo hoá có thể nghe (và sẽ đôi khi đáp lại) lời cầu nguyện của con ngưòi; linh hồn nhập vào hợp tử con ngưòi ngay lúc thụ thai; nếu ngươi không tin những điều tốt lành về Thượng đế, ngươi sẽ phải chịu đựng khổ đau mãi mãi sau khi chết. Những khẳng định như thế mâu thuẫn về bản chất với các khẳng định của khoa học, bởi vì những khẳng định đó dựa vào những bằng chứng tệ hại.

Trong ý nghĩa thoáng nhất, “science” (đến từ chữ Latin scire, “để hiểu biết”) đại diện cho các nỗ lực cao nhất của chúng ta để hiểu biết cái gì đúng về thế giới của mình. Ở đây, chúng ta không cần phải phân biệt khoa học “nặng” hay khoa học “nhẹ”, hoặc giữa khoa học với một nhánh khác của nhân loại như là lịch sử. Chẳng hạn, việc Nhật bản ném bom Trân châu cảng ngày 7 tháng 12 năm 1941 là một dữ kiện lịch sử. Hậu quả đưa đến là, sự kiện này tạo nên một phần của thế giới quan về sự hợp lý có tính khoa học. Nếu có đủ dữ kiện minh chứng cho sự việc này, kẻ nào tin rằng sự kiện đã xảy ra trong một ngày khác, hoặc chính ngưòi Ai cập mới là kẻ bỏ bom chắc phải tốn kém rất nhiều giải thích. Cốt lõi của khoa học không chi phối đến các thử nghiệm hoặc tính tính toán khuôn mẫu mà là một sự chân thực trí thức. Khi suy nghĩ về sự chân thực của một định đề, ngưòi ta hoặc tham dự vào sự dịnh giá chân thực của chứng cứ và các tranh luận họp lý hoặc ngược lại. Tôn giáo là một khu vực cuả đời sống mà con ngưòi tưởng tượng rằng có thể áp dụng một loại tiểu chuẩn khác của liêm chính trí thức.

THỬ suy nghĩ về các tranh luận gần đây của các nhà thờ Công giáo đối với học thuyết về cái chết lâm bô. Ba mươi nhà thần học hàng đầu trên thế giới vừa gặp nhau tại Vatican để thảo luận câu hỏi rằng cái gì sẽ xảy đến cho các trẻ em chết mà chưa đưọc trải qua phép rửa tội báp têm. Từ thời trung cổ, thiên chúa giáo đã tin rằng các trẻ em đó sẽ được ở trong tình trạng lâm bô, nghĩa là chúng sẽ đưọc hưởng cái mà thánh Thomas gọi là “ hưởng phước tự nhiên” vĩnh viễn. Điều này lại trái ngược với ý kiến của thánh Augustine, ngưòi đã tin rằng những đứa trẻ thiếu may mắn này sẽ phải đọa địa ngục đời đời.

Dù cái chết lâm bô không hề có một nguồn gốc nào từ kinh sử, và chưa bao giờ là một học thuyết chính thức của nhà thờ, nhưng thuyết này đã từng là một phần chính yếu trong truyền thống nhà thờ qua nhiều thế kỷ. Năm 1905, giáo hoàng Pius X đã hoàn toàn chấp nhận : “Con trẻ chết đi dù chưa chịu phép báp têm sẽ ở vào tình trạng chết lâm bô, nghĩa là dù chúng không biết đến Thượng đế, nhưng chúng cũng sẽ không phãi chịu hình phạt”. Ngày nay, các tư tưởng lớn của nhà thờ đang cân nhắc lại về sự việc ấy.

Ai có thể nghĩ đến được một dự án đáng thương hơn về trí thức như thế này? Hãy thử tưởng tượng xem các bàn cãi này sẽ ra thế nào. Có khả năng mỏng manh nào cho ai đó trình bày được một bằng chứng cho thấy sộ phận đời đời của các đứa trẻ chưa chịu phép báp têm này sau khi chết đi ra sao không? Làm sao mà một ai có ăn học không thể nghĩ rằng những việc này chỉ là những việc mất thì giờ một cách khôi hài, kinh khủng và vô ý thức? Khi ai đó nghĩ đến thực tại rằng đây sẽ là cái lập thành đầu tiên để dẫn đến và chở che cho đạo quân tinh túy của sự quấy nhiễu tình dục trẻ em, cả công trình sẽ bắt đầu rỉ ra những mùi hương ma quỷ của sự phí phạm năng lực con ngưòi.

XUNG ĐỘT giữa khoa học và tôn giáo có thể rút gọn vào một sự kiện đơn giản trong tiến trình hiểu biết của con ngưòi: ngưòi ta hoặc là có lý lẽ đúng cho điều mình tin hoặc là không có. Nếu có lý đúng cho sự việc Jesus đã sinh ra từ sự đồng trinh, hoặc Muhammad đã bay về trời bằng một con ngựa có cánh, thì những niềm tin này sẽ tạo nên một phần những giải thích có ý thức của chúng ta về vũ trụ. Mọi ngưòi đều nhận ra rằng chỉ dựa vào “đức tin” để để phán đoán những vấn đề đặc biệt của thực tế lịch sử là một sự kỳ cục – trừ khi các cuộc thảo luận lại quay về nguồn căn của các kinh sách như cuốn Thánh kinh hoặc kinh Koran, trở về các câu chuyện trao đổi giữa Muhammad và thiên sứ Gabriel, trở lại chuyện sống lại của Jesus, hoặc các thứ tín điều tôn giáo khác. Đã đến lúc để chúng ta nhận ra rằng đức tin không gì khác hơn cái mà những ngưòi có giấy phép hành nghề đạo giáo trao cho nhau để tin tưởng khi thất bại trong lý lẽ.

Trong khi sự cả tin, không bằng chứng là nhãn hiệu của sự điên loạn hoặc ngu xuẩn trong nhiều lãnh vực của đời sống, thì đức tin vào Thiên chúa vẫn còn một niềm tự hào lớn lao trong xã hội của chúng ta. Tôn giáo là một lãnh vực được xem là cao quý trong việc giả vờ như đã chắc chắn về những việc mà không ai có thể xác quyết được trong các cuộc đàm luận của chúng ta. Nó cho thấy rằng cái tinh hoa này chỉ phát triển đến những đức tin vẫn còn được nhiều ngưòi đăng ký mua. Còn ai bị bắt gặp đang thờ kính Thủy thần, ngay cả trên mặt đại dương, cũng sẽ bị xem như kẻ mất trí.[iii]

Thực tại của Đời sống

Tất cả các cuộc sống phức tạp trên thế gian đã được phát triển từ những cấu thành sự sống đon giản từ hàng tỉ năm trước. Đây là một sự thực không còn phải bàn cãi trong giới trí thức nữa. Nếu bạn ngờ rằng nhân loại đã chuyển hoá từ các sinh thể có trước, bạn cũng có thể ngờ rằng mặt trời là một vì sao. Giả dụ là như thế, mặt trời trông có vẻ không giống như một vì sao thông thường, nhưng chúng ta biết rằng mặt trời là một vì sao tự nhiên đã ở một vị trí gần với địa cầu hơn. Hãy tưởng tượng ra sự xấu hổ của bạn khi đức tin tôn giáo của mình lại cho rằng mặt trời đã không phải là một ngôi sao. Tưởng tượng xem hàng triệu ngưòi Ki-tô giáo ở nưóc Mỹ đã chi hàng trăm triệu đô la hàng năm để chiến đấu chống lại những nhà thiên văn học và các nhà vật lý học thiên thể không tin thiên chúa về quan điểm này. Hãy tưởng tượng họ đã làm việc miệt mài đam mê như thế nào để mang những quan điểm vô căn cứ của mình về mặt trời giảng dậy trong các trường học của chúng ta. Đây chính là hoàn cảnh của quý bạn trong mối liên hệ với sự tiến hóa.

Những ngưòi Ki-tô giáo nghi ngờ sự thật của tiến hóa có khuynh hướng phát biểu những điều như “Tiến hoá chỉ là một lý thuyết, không phải là một thực tại”. Phát biểu như thế biểu lộ một loạt những hiểu lầm nghiêm trọng về cách xử dụng khái niệm “lý thuyết” trong các bàn luận khoa học. Trong khoa học, các sự kiện phải được giải thích trong mối tương quan với các sự kiện khác. Các khuôn thức giải thích rộng lớn hơn chính là “các lý thuyết”. Các lý thuyết, trên nguyên tắc, tạo ra các tiên đoán đã được chứng nghiệm. Cụm từ “ lý thuyết về sự tiến hóa” không hề có sự gợi ý tối thiểu rằng sự tiến hóa không phải là một thực tế. Ngưòi ta có thể nói về “ lý thuyết mầm mống của bệnh tật” hoặc “ lý thuyết về vạn vật hấp dẫn” mà không hề mảy may nghi hoặc rằng bệnh tật hay trọng lực không phải là những thực tế của thiên nhiên.

Cũng đáng để lưu ý rằng ngưòi ta có thể đạt đến văn bằng tiến sĩ trong bất kỳ ngành khoa học nào với mục đích không có gì khác hơn là xử dụng khoa học một cách bất chấp đạo lý của ngôn ngữ khoa học trong nỗ lực hợp lý hóa những điều rõ ràng không thỏa đáng trong Thánh kinh. Một nhóm ngưòi Ki-tô giáo đã làm như thế, một số ngưòi còn đạt được các bằng cấp của họ từ những trường đại học danh tiếng. Không nghi ngờ gì, những ngưòi khác sẽ đi theo các bước chân ấy. Dù những ngưòi này là các “nhà khoa học” đi nữa, họ thực không hành xử như những nhà khoa học. Họ hoàn toàn không tham dự vào cuộc tra vấn lương thiện về bản chất của vũ trụ. Và các tuyên ngôn của họ về Thượng đế cùng các thất bại của chủ nghĩa Darwin mà không có được một biểu hiện tối thiểu cho thấy có một cuộc tranh luận khoa học chính đáng về sự tiến hóa. Một cuộc thăm dò được thực hiện năm 2005 ở ba mươi bốn quốc gia nhằm đo lường tỉ lệ những ngưòi chấp nhận thuyết tiến hóa. Mỹ đứng hạng ba mươi ba, chỉ trên mỗi nước Thổ nhĩ Kỳ. Trong khi đó, kiểm tra kiến thúc về toán và khoa học của học sinh trung học ở Mỹ thấp hơn học sinh ở Châu Âu và châu Á. Những dữ kiện này cho thấy rõ ràng chúng ta đang xây dựng một nền văn minh của sự ngu dốt.

Ðây là điều chúng ta biết. Chúng ta biết rằng vũ trụ có trước rất lâu hơn là như Thánh kinh chỉ ra. Chúng ta biết rằng tất cả các sinh vật phức tạp trên thế gian, kể cả chúng ta, đã tiến hóa từ những sinh vật lâu hơn trước đó qua tiến trình hàng nhiều tỉ năm. Bằng chứng cho sự việc này thì cực kỳ mạnh mẽ. Không còn thắc mắc gì rằng đời sống đa dạng mà chúng ta nhìn thấy chung quanh là sự diễn đạt của một mã số mầm sinh (genetic code) đã được ghi trong phân tử DNA, rằng DNA trải qua các cơ hội đột biến, một số đột biến làm gia tăng lợi thế tồn tại của các sinh vật và tái sản xuất trong một một trường đuợc cho trước. Tiến trình đột biến và chọn lọc tự nhiên cho phép các quần thể bị cô lập của những cá thể được lai giống và, trải qua thòi gian, để hình thành những sinh thể mới. Không còn thăc mắc gì nữa về sự việc con ngưòi chúng ta đã được tiến hóa từ những tổ tiên không phải con ngưòi. Từ các bằng chứng về gene di truyền, chúng ta biết rằng chúng ta có chung tổ tiên với loài khỉ, dã nhân, và các tổ tiên này đã có chung gốc nguồn với giống dơi và các loài vượn bay. Có một cội cây nhiều nhánh của sự sống mà ngày nay tính chất và hình thể của nó đã được thông hiểu khá tường tận. Hậu quả là, không có lý do gì để tin rằng các sinh vật cá thể đã được tạo nên trong hình dạng hiện tại của chúng. Tiến trình tiến hóa đã khởi đầu như thế nào vẫn còn là một bí mật, nhưng điều ấy tối thiểu không cho thấy rằng có thần thánh gì đang ẩn nấp trong đáy sâu của những sự kiện này. Ðọc các khẳng định từ kinh thánh tử tế sẽ thấy Thiên chúa đã tạo nên cây cỏ và muôn thú trong hình dạng mà chúng ta đang thấy ngày nay. Dứt khoát là cuốn Thánh kinh đã sai về sự việc này.

Hiện giờ, nhiều ngưòi Ki-tô giáo vốn nghi ngờ về sự thật của thuyết tiến hoá đang tán thành cho điều gọi là sự thiết kế thông minh (Intelligent Design). Vấn đề của Thiết kế thông minh (TKTM) là ở chỗ nó chỉ là một chương trình bênh vực chính trị, tôn giáo, giả trang khoa học không hơn không kém. Bởi vì niềm tin vào Thượng đế như trong thánh kinh không có được hỗ trợ nào từ các kiến thức khoa học về thế giới, các lý thuyết gia của Thiết kế Thông minh đã luôn luôn đặt cọc các khẳng định của họ vào những khu vực của sự ngu dốt về khoa học.

Cuộc tranh luận về TKTM đã đồng loạt tiến hành trên nhiều mặt. Như vô số những ngưòi vô thần trước kia, những nguòi hâm mộ TKTM đã biện luận rằng chính thực tế hiện hữu của vũ trụ chứng minh hiện hữu của Thưọng đế. Các biện luận đại loại xoay quanh rằng: bất kỳ vật gì hiện hữu đều có một nguyên nhân; không gian thời gian hiện hữu, do đó, không gian, thời gian nhất định phải được tạo nên bởi cái gì bên ngoài không gian, thời gian, và cái duy nhất vượt khỏi thời gian, không gian nhưng vẫn có một sức mạnh để sáng tạo chính là Thưọng đế. Nhiều người Ki-tô giáo như quý bạn nhận thấy lý lẽ này rất là thuyết phục. Thế nhưng, ngay cả chúng ta giả định rằng các khẳng định chính của thuyết này (mỗi khẳng định đòi hỏi đến nhiều bàn cãi hơn cả những gì mà các lý thuyết gia của TKTM từng chấp nhận) là đúng, thì kết luận chung cuộc lại không đến được. Ai là ngưòi để tuyên bố rằng kẻ duy nhất có thể tạo căn nguyên cho thời gian, không gian là một loài siêu nhân? Nếu như chúng ta chấp nhận rằng vũ trụ của chúng ta đơn giản là được thiết kế bởi một nhà thiết kế, cũng không có ý rằng nhà thiết kế này phải là Thượng đế của Thánh kinh, hoặc rằng đấng thiết kế ấy tán thành Ki-tô giáo. Nếu được thiết kế một cách thông minh, vũ trụ của chúng ta có thể đang vận hành như một mô phỏng từ một siêu máy tính của ngưòi hành tinh. Hoặc vũ trụ chúng ta là công trình của một Thiên chúa bị quý ám, hoặc của hai đấng đang kéo co ganh đua với nhau trong một vũ trụ rộng hơn.

Như nhiều phê bình về tôn giáo đã vạch ra, khái niệm về đấng sáng tạo dẫn đến một vấn nạn trực tiếp cho sự thoái bộ vô định. Nếu Thiên chúa tạo nên vũ trụ, cái gì đã tạo nên Thiên chúa? Bảo rằng Thiên chúa, như đã định nghĩa, là đấng không do đâu tạo nên thì đúng là lý luận lòng vòng. Ðấng nào có năng lực sáng tạo nên một thế giới phức tạp có lẽ bản thân cũng rất phức tạp. Như nhà sinh vật học Richard Dawkins đã nhiều lần quan sát, tiến trình tự nhiên duy nhất có thể sản xuất được một cái gì thiết kế nên sự vật mà chúng ta hằng biết đó chính là sự tiến hóa.

Sự thật là không ai biết bằng cách nào và vì sao mà vũ trụ này đi vào hiện hữu. Cũng không rõ ràng là chúng ta có thể phát biểu mạch lạc về sự sáng tạo nên vũ trụ, ngay cả khi biến cố như thế có thể cưu mang chỉ với sự tham chiếu vào thời gian trong khi chúng ta đang phát biểu về sự sinh sản của tự chính bản thân không-thời-gian.[iv] Bất kỳ ngưòi lương thiện trí thức nào cũng sẽ phải thú nhận rằng mình không biết tại sao vũ trụ hiện hữu. Dĩ nhiên, các nhà khoa học đã thú nhận sự ngu dốt của họ về điểm này. Những ngưòi theo tôn giáo thì không thú nhận như vậy. Một trong những mỉa mai ấn tượng nhất của luận thuyết tôn giáo có thể đánh giá được là tính thường xuyên chê trách của những ngưòi có đức tin về những nhà khoa học và ngưòi không tôn giáo là sự kiêu căng trí thức trong khi tự ca tụng mình đức khiêm tốn của mình. Thực sự không có thế giới quan nào đáng trách như cái nhìn thế này của một ngưòi có đạo: đấng tạo dựng vũ trụ quan tâm đến tôi, công nhận tôi, yêu thương tôi, và sẽ thưởng tôi sau khi chết; niềm tin hiện tại của tôi, được rút ra từ thánh kinh, và sẽ mãi mãi là những khẳng định của sự thật cho đến ngày tận cùng của thế giới; kẻ nào không đồng ý với tôi sẽ vĩnh viễn rơi vào địa ngục… Một ngưòi Ki-tô giáo thông thường, trong một nhà thờ thông thường, lắng nghe một bài thuyết giảng chủ nhật thông thường này thực đã đạt đến một mức độ cao ngạo rồi.

HƠN 99 PHẦN TRĂM các sinh thể từng đi đứng, bay lượn hoặc bò trườn trên địa cầu này hiện đã tuyệt chủng. Riêng sự thật này thôi đã đủ bác bỏ thiết kế thông minh. Khi nhìn vào thế giới tự nhiên, chúng ta thấy sự phức tạp phi thường nhưng không thấy sự thiết kế tối ưu. Chúng ta thấy sự dư thừa, thoái bộ và sự phức tạp không cần thiết; chúng ta thấy sự thiếu khả năng một cách đáng hoang mang khiến dẫn đến đau đớn và chết chóc. Chúng ta nhìn thấy những loài chim không bay và loài rắn có xương chậu. Chúng ta thấy các sinh vật ngành cá, kỳ nhông, loài giáp xác có những con mắt nhưng không hề nhìn được, bởi vì chúng tiếp tục tiến hóa trong bóng tối lặng thầm cả triệu năm. Ta thấy cá voi có răng trong giai đoạn phôi thai nhưng rút bỏ khi khi trưỏng thành. Những đặc tính đó của thế giới chúng ta thực cực kỳ bí hiểm. Nếu như Chúa sáng tạo nên muôn loài trên cuộc sồng địa cầu này “một cách thông minh”; thì không có loài nào phải bối rối khó xử trong ánh sáng của sự tiến hóa.

Nhà sinh vật học J.B.S.Haldane được biết đã từng nói rằng, nếu có Thiên chúa, Người hẳn đã “có một niềm yêu khác thường cho các loài bọ”. Có ngưòi đã hy vọng rằng kiểu quan sát phá bĩnh này sẽ mãi mãi gấp lại cuốn sách về sáng tạo luận. Sự thật là, trong khi hiện nay có vào khoảng ba trăm năm mươi ngàn loại bọ được biết đến, Thượng đế cho thấy lại dành nhiều tình thương hơn đối với loài vi khuẩn. Các nhà sinh vật học ước tính rằng tối thiểu mỗi loài động vật trên địa cầu có đến mười chủng loại vi khuẩn khác nhau. Dĩ nhiên nhiều vi khuẩn thì vô hại, và một số vi khuẩn cổ đại có thể đã đóng một vai trò quan trọng trong sự nảy sinh các sinh vật phức tạp. Nhưng các vi khuẩn có khuynh hướng xử dụng đến các cơ thể như của bạn và của tôi để làm bộ phận sinh dục vay mượn của chúng. Nhiều loại tấn công các tế bào của chúng ta chỉ để phá hủy. Phá hủy các tế bào của chúng ta một cách kinh khủng, không thương hại và không ngừng nghỉ. Các vi khuẩn như HIV, cũng như một số nhiều các loại vi khuẩn gây hại, có thể được nhìn thấy lúc nhúc ngay dưói lỗ mũi chúng ta, làm hại chúng ta vì những phát triển sức đề kháng chống lại các thuốc trụ sinh và chống vi khuẩn. Thuyết tiến hóa vừa tiên đoán vừa giải thích hiện tượng này; sách Genesis thì không hề. Làm sao bạn có thể tưởng tượng rằng đức tin tôn giáo mang lại những giải thích tốt nhất cho những thực tế này, hay là các niềm tin tôn giáo muốn nói đến mục đích thương xót sâu xa hơn của một sinh thể toàn trí?

Cơ thể của chúng ta chứng thực tính đỏng đảnh và bất lực của tạo hóa. Khi còn nằm trong phôi thai, chúng ta có đuôi, có túi mang và một lớp lông như loài khỉ. Hạnh phúc thay, khi sinh ra chúng ta được mất đi những thứ phụ tùng quyến rũ ấy. Quy trình kỳ lạ của hình thái học này đã được giải thích sẵn sàng trong lý thuyết tiến hóa và các điều kiện về di truyền học ; nếu chúng ta là sản phẩm của một thiết kế thông minh thì những điều này là quá bí hiểm: nam giới có ống tiết niệu dẫn thẳng từ các tuyến tiền liệt. Tuyến này có khuynh hướng tăng trưởng, to ra trong suốt cuộc đời. Vì thế, hầu hết đàn ông quá tuổi sáu mươi có thể chứng thực rằng tối thiểu có một thiết kế trên địa cầu xanh tươi của Thiên chúa đã khiến ngưòi đàn ông ước ao phải chi đừng được như thế. Xương chậu của đàn bà đã không được thiết kế thông minh lắm khi nó phải được dùng để giúp vào phép lạ sinh sản. Từ đó, mỗi năm, hàng ngàn ngưòi phụ nữ phải đau đớn vì sanh lâu, sanh khó đến nỗi hậu quả dẫn đến chứng nghẹt thai. Phụ nữ trong các quốc gia đang phát triển bị tình trạng này thưòng bị chồng bỏ, hoặc phải đi ra khỏi làng mạc của mình. Quỹ hỗ trợ Dân số của Liên Hiệp quốc ước tính hiện nay có đến hơn hai triệu phụ nữ phải sống mang chứng nghẹt thai (fistula)[v].

Các điển hình của sự thiết kế không thông minh trong tự nhiên nhiều đến nỗi chỉ liệt kê ra thôi cũng cần đến cả một cuốn sách. Tôi xin tự cho phép mình kể ra một điển hình nữa mà thôi. Hệ thống hô hấp và tiêu hóa của con ngưòi cùng dùng chung một cơ phận bơm ở cuống họng. Chỉ riêng tại Mỹ, hàng năm, đặc trưng của thiết kế thông minh này đã khiến cả chục ngàn đứa trẻ phải vào bệnh viện cấp cứu. Hàng trăm đứa trẻ chết vì nghẹt thở. Nhiều trẻ khác bị tổn thưong não không thể chữa trị được. Chủ đích nhân ái nào trong những sự việc này? Dĩ nhiên, chúng ta có thể tưởng tượng ra một mục đích: có lẽ cha mẹ của những trẻ em này cần được dạy một bài học; có lẽ Thượng Đế đã chuẩn bị một phần thưởng đặc biệt trên thiên đàng cho mỗi em bị tắc thở vì bình sữa. Tuy nhiên, vấn nạn chính ở chỗ những tưỏng tưọng như thế tương hợp với bất kỳ hiện trạng nào của thế gian. Có nỗi bất hạnh kinh hoàng nào không thể hợp lý hóa được bằng cách này? Và tại sao bạn thiên về cách suy nghĩ như thế? Suy nghĩ như thế thì đạo đức đến đâu?



(còn tiếp)

[i] Hitler đã nói trong bài diễn văn đọc ngày 12 tháng 4 năm 1922. (Norman H. Bayes, ed. The Speeches of Adolf Hitler, April 1922- August 1939. Vol. 1 of 2, pp. 19-20. Oxford University Press, 1942”:

Cảm giác Ki-tô giáo đã dẫn tôi đến Chúa và bậc cứu rỗi của mình như một chiến sĩ (…) Trong tình yêu không bờ bến của một ngưòi Ki-tô hữu và của một con người, tôi đã đọc được những dòng được những ẩn ngữ dạy cho chúng ta biết cuối cùng đức Chúađã dương cao sự vĩ đại của người, nắm giữ lấy tai ương để quét sách khỏi Ðiện thờ lũ rắn độc. Cuộc chiến đấu cho thế giới chống lại nọc độc Do Thái của người lớn lao biết dường nào …là ngưòi Ki-tô giáo Tôi còn có trách nhiệm với riêng dân tộc của mình.

[ii] “phỉ báng huyết thống” (với chủ ý đến người DoThái) gồm các cáo buộc sai lầm rằng ngưòi Do Thái đã giết hại những ngưòi không phải Do Thái để lấymáu của họ dùng vào những nghi thức tế lễ . Sự kết án này vẫn còn được tin là thật ở nhiều nơi trong các nước Hồi giáo.

[iii] Sự thật cần được nói, hiện nay tôi nhận được các điện thư phản kháng từ những ngưòi khẳng định với tất cả chân thành rõ rệt, rằng họ tin Thuỷ thần (Poisedon) và các thần linh khác của thần thoại Hy lạp là có thật.

[iv]Thí dụ như nhà vật lý học Stephen Hawking hình dung không-thời gian như một hiện hữu đa dạng kín, bốn chiều, không có đầu, không có cuối. (giống như bề mặt của một quả cầu)

[v] Ðể chữa trị chứng sanh nghẹt thai, chỉ cần đến một giải phẫu đơn giản-chứ không cần phải cầu nguyện. Dù nhiều ngưòi có đức tin vẫn cứ tin rằng cầu nguyện có thể chữa lành nhiều căn bệnh ( bất kể là các chúng bệnh đã được các khảo cứu khoa học tốt nhất tìm ra) Chuyện cầu nguyện này cũng kỳ cục ở chỗ là ngưòi ta chỉ cầu nguyện trong những trường hợp bệnh tật hoặc thương tích có giới hạn thôi. Chẳng hạn như không ai tin rằng lời cầu nguyện có thể khiến cụt tay chân có thể mọc ra lại. Sao không nhỉ? Giống kỳ nhông có thể làm được việc này, đoán chừng là không phải cầu xin gì. Nếu Thiên chúa từng đáp lại lời cầu xin, sao Ngưòi không đôi lúc chữa lành một trường hợp cụt tay chân Và sao ngưòi có đức tin không trông mong vào cầu nguyện trong những trường hợp ấy? Có một trang WEB rất phi thường đang dốc lòng khám phá bí hiểm này: www.whydoesgodhatesamputees.com

Sam Harris

Article printed from Tạp chí Da Màu - Văn Chương Không Biên Giới: http://damau.org

URL to article: http://damau.org/archives/2489


© 2008 damau.org - Damau Literary Portal. All rights reserved.

SAM HARRIS : Thư Gửi một Quốc gia Ki tô giáo - Phần 1

Thư Gửi một Quốc gia Ki tô giáo - Phần 1


Bạn tin rằng Thánh kinh là lời của Thượng đế, Jesus là con trai của Thượng Ðế và bạn tin rằng chỉ những ai tin vào Jesus mới tìm được sự cứu rỗi sau khi chết đi. Là một người Ki-tô giáo, bạn tin vào những tiền đề này không phải chỉ vì chúng làm cho bạn cảm thấy tốt lành mà chính là vì bạn nghĩ rằng những tiền đề này đúng. Trước khi tôi vạch ra những vấn nạn của các loại niềm tin này, tôi xin được minh xác rằng có nhiều luận điểm mà tôi và quý bạn đồng ý. Thí dụ như, chúng mình đồng ý rằng nếu như một trong hai chúng ta đúng, thì người kia ắt phải là sai. Cuốn Thánh kinh hoặc chính là lời của Thượng đế hoặc không phải. Jesus là đấng mang đến cho con ngưòi một con đường đường giải thoát duy nhất đúng ( John 14:6) hoặc ông không phải là một đấng như thế. Chúng ta đồng ý rằng để thành một người Ki-tô giáo chân chính là phải tin tưởng một cách sâu sắc rằng tất cả các niềm tin khác là sai lầm. Nếu Ki-tô giáo là đúng và tôi vẫn duy trì niềm tin riêng của tôi, thì tôi sẽ phải bị đọa vào địa ngục khổ hình. Ghê gớm hơn, nếu tôi khuyến dụ ngưòi khác, và nhiều người quanh tôi, chối từ ý tưởng thuần túy của Thượng đế, thì cả họ (những ngưòi nghe theo tôi) sẽ sa vào “hỏa ngục đời đời” (Matthew 25:41). Nếu cái học thuyết căn bản của Ki-tô là đúng, thì tôi đã nhầm lẫn cuộc đời mình vào trong một phương cách thê thảm nhất mà mình có thể tưởng tượng ra được. Tôi phải nhận lấy sự tệ hại này mà không hề được cảnh báo trước. Chính sự chối bỏ Ki-tô giáo công khai, liên tục mà không gây cho mình một mảy may lo lắng nhỏ nào của tôi đã giúp bạn hiểu được tôi đã coi những lý do khiến bạn trở nên một ngưòi Kitô giáo là không chính đáng đến mức nào.

Dĩ nhiên, cũng có những ngưòi Ki-tô giáo không đồng ý với cả hai chúng ta. Có những ngưòi Ki-tô giáo nhìn nhận rằng những niềm tin khác cũng có các giá trị ngang nhau trong các phương cách cứu rỗi con ngưòi. Có những ngưòi Ki-tô giáo không tin vào địa ngục và sự sống lại của Jesus. Những người Ki-tô giáo này thường tự nhận mình như là những ngưòi “Tự do tôn giáo” hay “Ôn hòa Tôn giáo”. Từ các góc nhìn của họ, cả hai chúng ta đều hiểu sai về những ý nghĩa tạo nên một con người của đức tin. Chúng ta được đảm bảo rằng, giữa những người vô thần và những ngưòi tôn giáo chính thống có một khu vực bao la, đẹp đẽ mà những nhà tư tưởng thuộc Ki-tô giáo đã lặng lẽ thám hiểm qua nhiều thế hệ. Ðức tin, theo những ngưòi tự do và những ngưòi ôn hòa, là tình yêu thương, điều thần bí, có ý nghĩa và cùng chia xẻ. Quần chúng tạo nên tôn giáo từ gấm vóc của đời sống chứ không phải chỉ từ những đức tin thô thiển.

Tôi đã từng viết ở một nơi khác về những vấn đề tôi nhìn ra từ những ngưòi tôn giáo tự do và những người tôn giáo ôn hòa. Ở đây, chúng ta chỉ cần quan sát vấn đề đặt ra đơn giản và cấp bách hơn là những điều mà những ngưòi tự do, ôn hoà tưởng. Thánh kinh, chỉ là cuốn sách bình thường đã được viết nên bởi những ngưòi quá vãng, hoặc không phải là như thế. Thiên chúa là đấng thiêng liêng, hoặc là ngược lại. Nếu Thánh kinh là một cuốn sách thông thường và Thiên chúa là một con ngưòi thông thường thì lịch sử thần học của Ki-tô giáo chỉ là câu chuyện của những nhà mọt sách cùng phân tích một ảo tưởng chung. Nếu những tín điều cơ bản của Ki-tô giáo là đúng, ắt phải có những ngạc nhiên không lay chuyển được từ những người như chính tôi. Quý bạn hiểu được như thế. Tối thiểu có hơn một nửa dân chúng châu Mỹ hiểu được như thế. Do đó, chúng ta hãy tự chân thật với chính mình rằng: đến một lúc chín mùi, sẽ có một phe thật sự thắng cuộc tranh luận này và phía bên kia thật sự phải thua.

NGHĨ XEM: Mỗi ngưòi Hồi Giáo sùng tín đều có chung những lý lẽ như nhau về việc họ là nguời Hồi Giáo, tương tự như những lý do chung mà quý bạn có về lý do vì sao bạn là ngưòi Ki-tô giáo. Tuy rằng bạn không nhìn thấy sự thuyết phục của nhưng lý lẽ khác mình. Kinh Koran lập đi lập lại rằng chính đấy mới là nhưng lời toàn thiện nhất của đấng tạo nên vũ trụ. Người Hồi Giáo mạnh mẽ tin tưởng vào điều này như bạn tin tưởng vào chính giá trị của Thánh kinh vậy. Có rất nhiều áng văn chương đã mô tả cuộc đời của Muhammad, theo quan niệm của Hồi Giáo, chứng minh rằng ông ta mới là tiên tri của Thượng đế. Muhammad cũng đã đảm bảo với những ngưòi tin theo mình rằng Jesus không phải là bậc thánh thần (Koran 5:71-75;19:30-38), và kẻ nào không tin sẽ phải đọa vào địa ngục mãi mãi. Người Hồi Giáo tin rằng ý kiến của Muhammad về sự việc này và các sự việc khác là không thể sai lầm.

Tại sao quý bạn lại không thể mất ngủ vì băn khoăn về việc cải đạo qua Hồi Giáo? Bạn có thể chứng minh rằng Allah không phải là đấng Thượng đế thực hay không? Bạn có thể chứng minh được việc không hề có chuyện thiên sứ Gabriel đến thăm Muhammad trong hầm của ông ấy không? Dĩ nhiên là không. Vả lại, bạn cũng không cần phải chứng minh những điều như thế để chối từ niềm tin của ngưòi Hồi Giáo như những điều tầm phào. Trách nhiệm là của chính những người theo Hồi Giáo phải minh chứng cho giá trị niềm tin của họ vào Thượng đế và Muhammad. Ngưòi Hồi Giáo đã không hề chứng minh gì. Họ không thể làm được. Ðơn giản là những ngưòi Hồi Giáo đã không viện dẫn được gì từ thực tại vốn không thể minh chứng được gì cho họ. Ðiều này là một sự rõ ràng hiển nhiên cho những ai đã không để mình bị mê hoặc bởi những tín điều của Hồi Giáo.

Sự thật là, bạn rất hiểu tại sao phải trở nên một ngưòi vô thần trước các niềm tin của người Hồi Giáo. Thế chẳng hóa ra người Hồi Giáo khờ khạo cả hay sao? Thế chẳng hoá ra những ai tin rằng cuốn Koran là lời thực của đấng sáng tạo nên vạn vật là những ngưòi đã không đọc cuốn Koran đàng hoàng? Thế chẳng hoá ra học thuyết của Hồi giáo chính là một cản ngăn cho sự truy tìm chân thật? Ðúng, những điều này thật là hiển nhiên. Quý bạn nên hiểu rằng phương cách mà quý bạn nhìn về Hồi giáo cũng chính xác là cách ngưòi sùng tín Hồi giáo nhìn về Ki-tô giáo. Và đó cũng là phương cách mà tôi nhìn về các tôn giáo khác.

Sự thâm thúy của Thánh kinh.

Bạn tin Thánh kinh là một cội nguồn vô địch của các tốt lành của nhân loại. Bạn tin rằng Jesus đã giảng dạy về các phẩm hạnh yêu thương, bác ái và vị tha hay hơn tất cả những bậc thầy hằng sống trên thế gian. Bạn tin rằng cuốn Thánh kinh là một cuốn sách sâu sắc nhất từng có, và nội dung của cuốn sách này đã được thử thách bởi thời gian rằng nó chắc chắn đã được sáng tạo một cách thiêng liêng. Tất cả những niềm tin này là sai lầm.

Vấn đề của đạo đức là các vấn đề về hạnh phúc và khổ đau. Ðó là lý do vì sao mà tôi và bạn không hề có trách nhiệm đạo đức đối với loài sỏi đá. Vấn đề đạo đức được mang ra tùy thuộc vào mức độ mà các hành vi của chúng ta ảnh hưởng tốt hay xấu đến các sinh vật khác. Ý niệm rằng Thánh kinh là một cẩm nang tốt nhất cho đạo đức thật đáng kinh ngạc, nếu căn cứ vào nội dung của cuốn sách này. Phải công nhận rằng những lời khuyên của Thượng đế cho các bậc phụ huynh rất là thẳng thắn : Khi nào trẻ đi ra ngoài khuôn phép, cần phải đánh bằng roi. (Proverbs 13:24, 20:30 và 23:13-14). Nếu chúng dám cãi lại, ta cần giết bỏ chúng đi (Lecviticus 20:9, Deuteronomy 21:18-21, Mark 7:9-13 và Matthew 15:4-7). Chúng ta cũng cần phải ném đá cho chết những ai phạm tội theo dị giáo, ngoại tình, đồng tính luyến ái, làm việc vào ngày Sabbath, thờ phượng những ảnh tượng, hành nghề phù thủy và một loạt các tội ác tưởng tượng khác. Ðây chỉ là một thí dụ về sự thông thái muôn đời của Thiên chúa:

Nếu anh em của ngươi, con trai của mẹ ngươi, hay con trai, con gái của ngươi, ngưòi vợ ôm ấp của ngươi, bạn thân như chính bản thân mình của ngươi, bí mật lén lút cám dỗ ngươi mà nói rằng “ Chúng ta hãy đi phụng thờ các thần chúa khác”,… ngươi không được ưng thuận, nghe lời hay nhường bước chúng nó, không được thương hại chúng, không được tha thứ chúng, không được dấu giếm bao che chúng mà phải giết chúng đi. Tay ngươi phải là bàn tay đầu tiên trước tất cả mọi người khác để giết chúng chết đi. Nó phải chết bởi vì đã tìm cách lôi kéo ngươi xa khỏi đất Ai cập, rời khỏi cảnh nô lệ… Nếu ngươi nghe thấy, nơi một trong những thành mà Thiên chúa đã ban cho ngươi để ở, rằng có những kẻ phát xuất từ các ngươi và lôi kéo dân cư mà bảo rằng “Mình hãy đi thờ phụng những thần chúa khác” những thần, chúa mà ngươi không được biết thì các ngươi phải điều tra, xem xét, tra hỏi kỹ lưỡng để chắc rằng đã có điều đáng ghê tởm như thế từng được thực hiện giữa các người, thì chắc chắn rằng ngươi phải đặt những cư dân ấy dưới lưỡi gươm, hủy diệt đến tận cùng, tất cả mọi người trong thành cùng nhà cửa dinh thự.

DEUTERONOMY 13:6,8-15

Nhiều người Ki-tô tin rằng Jesus đã bị giết chết với tất cả sự dã man như thế này trong sự tàn bạo nhất có thể tưởng tượng được để mang lại một học thuyết về tình yêu thưong thuần khiết và thứ tha. Không, Jesus đã không làm như thế. Mà thực sự là, theo một số đoạn ghi trong Tân Ước, ngưòi đọc có thể nhìn ra Jesus đã ca tụng toàn bộ luật pháp của thời Cựu ước.

Thật sự, ta bảo các ngươi, cho đến khi thiên đàng và trần thế tan biến đi, không một dấm chấm nhỏ trong lề luật có thể đưọc bỏ qua cho đến khi mọi sự được hoàn tất. Ai nương nhẹ dù một điều nhỏ nhất trong những điều răn ấy và dạy bảo ngưòi khác làm như thế, sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong nước thiên đàng. Ai làm theo và dạy bảo ngưòi khác làm theo sẽ được gọi là lớn lao trong nước thiên đàng. Vì, ta bảo ngươi, nếu ngươi không ăn ở công chính hơn các kinh sư và ngưòi Pharisees, các ngươi sẽ chả bao giờ được vào nước thiên đàng

MATTHEW 5:1, 8-20

Các tông đồ cũng đã thường xuyên nhắc lại chủ đề này (thí dụ, xem 2 Timothy 3:16-17). Dĩ nhiên quả đúng là Jesus có từng nói đến những điều sâu sắc về yêu thương, lòng nhân hậu và thứ tha. Khuôn vàng Thước ngọc thực là một lời giáo huấn tuyệt vời. Nhưng trước Jesus hàng nhiều trăm năm, có vô số những bậc thầy (Zoroaster, Buddha, Confucius, Epictetus…) từng mang đến những hướng dẫn tương tự như thế, và biết bao văn, kinh bản đã luận bàn về tình yêu thương tự cảm hóa rõ ràng, rành mạch hơn cuốn Kinh thánh, vốn lại còn bị nhơ nhớp bởi sự tán dương một cách khiêu dâm về sự tàn bạo mà chúng ta có thể tìm thấy đầy suốt các cuốn tân và cựu ước. Nếu bạn quan niệm rằng Ki-tô giáo là sự diễn đạt trung thực và trong sạch nhất của tình yêu thương và lòng bác ái thì chính là bạn đã không biết gì nhiều về các tôn giáo khác trên thế giới.

Hãy lấy giáo phái Jainism làm một ví dụ. Những ngưòi theo đạo Jains thuyết giảng một học thuyết về sự bất bạo động tuyệt đối. Tuy ngưòi đạo Jains tin vào nhiều điều không thể có về vũ trụ, nhưng họ không tin vào các thứ đã khiến gây ra những ngọn lửa thiêu của các tòa dị giáo. Có thể bạn nghĩ rằng tòa dị giáo là một loại xuyên tạc tinh thần “chính trực” của Ki-tô giáo. Có thể là như thế thật. Tuy nhiên, vấn đề ở chỗ là, sự rao giảng của Thánh kinh đã quá lộn xộn và tự mâu thuẫn đến mức tạo nên việc ngưòi Ki-tô giáo đã sung sướng nướng sống nhửng ngưòi dị giáo suốt năm thế kỷ dài. Ðã khiến cả các bậc giáo phụ trong nhà thờ, như thánh Augustine, thánh Thomas Aquinas, đi đến kết luận rằng nhưng ngưòi dị giáo thật đáng bị hành hạ (Augustine) hay giết ngay đi (Aquinas). Martin Luther và John Calvin đã bào chữa cho việc tàn sát hàng loạt những ngưòi dị giáo, kẻ bỏ đạo và các mụ phù thủy. Dĩ nhiên, bạn cũng tự do giải thích Thánh kinh theo cách khác- tưởng không có gì đáng ngạc nhiên hơn, khi hầu hết các tư tưởng gia có uy tín trong lịch sử đức tin của bạn thất bại thì bạn lại đang thành công trong nhận thức sâu sắc về những gì thực sự được rao giảng của Ki-tô giáo. Dĩ nhiên, nhiều ngưòi Ki-tô giáo tin rằng một con ngưòi không hại ai như Martin Luther King Jr. là một minh chứng sáng ngời cho tôn giáo của mình. Nhưng chuyện này đã mang lại một vấn nạn lớn, bởi vì học thuyết của đạo Jainism chính thực là một hướng dẫn khách quan tốt để trở nên một con ngưòi như Martin Luther King Jr. hơn là học thuyết của Ki-tô giáo. Dù Martin Luther King Jr. tự nhận chắc chắn mình là một ngưòi Ki-tô sùng kính, thực ra ông đã thủ đắc được lòng tận tụy của mình đối với bất bạo động chính yếu từ những bài viết của Mohandas K. Ghandhi. Năm 1959, ông còn đến Ấn độ để học hỏi những nguyên tắc phản kháng bất bạo động trực tiếp từ các môn đệ của Ghandhi. Ghandhi, một ngưòi Ấn độ giáo, đã có học thuyết bất bạo đông từ đâu? Ngài đã tìm được từ ngưòi Jains.

Nếu bạn nghĩ rằng Jesus đã chỉ dạy các Khuôn vàng Thước ngọc và tình yêu thương hàng xóm làng giềng mình thì bạn nên đọc Tân Ước. Ðặc biệt chú ý đến cái đạo đức biểu lộ khi Jesus trở lại thế gian trong các vầng mây của ánh hào quang :

Thượng đế đã cho thấy để trả lại đau buồn cho những ai gây cho ngươi buồn đau… Khi chúa Jesus hiện ra trên thiên đàng với các thiên thần hùng mạnh trong ánh lửa đỏ, để trừng trị, báo thù những kẻ không biết đến thiên chúa và những kẻ không tuân phục lời phúc âm của chúa Jesus. Chúng sẽ phải chịu sự trừng phạt bằng sự hủy diệt đời đời và gạt bỏ chúng ra khỏi sự hiện diện của chúa và ánh hào quang sức mạnh của ngưòi…

2 THESSALONIANS 1:6-9

Nếu ngưòi nào không tuân phục ta, y sẽ bị ném bỏ như một cành cây và khô héo đi; cà những nhánh cây khô ấy sẽ bị gom lại, bỏ vào lò lửa mà thiêu đi.

JOHN 15:6

Nếu lấy một nửa tính cách của Jesus thôi, ta có thể đánh giá được các hành vi của Thánh Francis của Assisi hoặc Martin Luther King Jr., lấy nửa còn lại kia có thể thanh minh được cho các tòa dị giáo. Ai tin rằng Thánh kinh đem lại những chỉ hướng tốt nhất cho chúng ta về các câu hỏi đạo đức chắc phải có những ý tưởng rất lạ lùng, kỳ quặc, hoặc về đạo đức hoặc về sự hướng đạo.

ÐỂ TRUY CẬP vào sự thâm thúy đạo đức của Thánh kinh, sẽ rất bổ ích nếu chúng ta xem xét đến các câu hỏi về đạo đức đã từng được giải đáp vốn thỏa mãn nhiều người. Cả thế giới văn minh ngày nay đồng ý rằng nô lệ là một điều đáng kinh tởm. Vậy, hãy xem loại hướng dẫn đạo đức nào mà chúng ta có thể học được từ Thiên chúa của Abraham? Tham khảo Thánh kinh, bạn sẽ tìm thấy rằng đấng tạo ra vũ trụ này thật sự muốn chúng ta giữ nô lệ :

Ðối với các nô lệ nam cũng như nữ mà các ngươi sẽ có: ngươi có thể mua

nô lệ nam, nữ từ những nước lân bang chung quanh ngươi. Ngươi cũng có thể

mua từ trong những kẻ lạ tạm trú cùng ngươi và từ gia đình của chúng đang ở cùng ngươi, những kẻ có thể đã sinh ra trong cùng đất đai với ngươi, và chúng sẽ là tài sản sở hữu của ngươi. Ngươi có thể để lại cho con trai ngươi, có thể thừa kế như một tài sản vĩnh viễn của mình; các ngươi có thể tạo chúng thành nô lệ, nhưng trong trong vòng đồng hữu dân Do thái ngươi không được thống trị hà khắc.

LEVITICUS 25:44-46

Cuốn Thánh kinh cũng chỉ rõ rằng mọi người – khi có hội đủ một số điều kiện đúng đắn - đều được tự do bán con gái của chính mình vào vòng nô lệ tình dục:

Khi một ngưòi bán con gái của mình làm nữ nô, y thị không được đi ra ngoài như những kẻ nô lệ nam. Nếu y thị không làm vừa lòng chủ, ngưòi đã chỉ định y cho chính mình, thì ngưòi chủ này sẽ để cho y được chuộc; ngưòi chủ này không được bán y cho ngưòi ngoại quốc, vì như thế là ngưòi ấy đã cư xử vô tín với y thị. Nếu ngưòi ấy muốn dành y thị cho con trai mình, y sẽ cư xử với y thị như đối với con gái mình. Nếu người ấy lấy thêm một ngưòi vợ khá, người ấy không được giảm đi lương thực, y trang, và quyền làm vợ của ngưòi vợ trước. Và nếu ngưòi ấy không thực hiện được ba điều trên, y thị có thể ra đi không phải trả lại tiền bạc gì.

EXODUS 21:7-11

Sự kiềm chế duy nhất của Thiên chúa trong việc dạy dỗ về nô lệ là chúng ta không được đánh đập nô lệ quá đáng đến nỗi hỏng mắt hoặc gãy răng (Exodus 21). Ðây thật đúng không phải là loại đạo đức sáng suốt vốn đưa đến sự cáo chung chế độ nô lệ ở nưóc Mỹ.

Không có một chỗ nào trong sách Tân ước cho thấy Jesus chống lại việc thực hành nô lệ. Thánh Paul còn răn dạy các nô lệ phục vụ ngưòi chủ cho tốt, và phục vụ người chủ Ki-tô giáo của họ tốt hơn thế:

Nô lệ, các ngươi hãy tuân lời ngưòi chủ của ngươi trên thế gian với sự run sợ, trong toàn tâm ý, như đối với Ki tô vậy …

EPHESIANS 6:5

Hãy để cho chúng, những kẻ đang trong ách gông của nô lệ, trông đến người

chủ của chúng bằng tất cả danh dự, để cho danh Chúa và những lời giảng dậy không bị phỉ báng. Còn những kẻ đang có chủ là người tín hữu, thì đừng vì họ là người anh em mà xem thường, đáng lẽ họ phải phục vụ chủ tốt hơn bởi vì họ phục vụ những tín hữu và được yêu quý. Nếu ai dạy điều gì khác và không đồng ý với những lời lành mạnh của Chúa Jesus và những giảng dạy phù hợp với lòng ngoan đạo, kẻ ấy vênh váo kiêu căng, kẻ ấy không biết gì cả, kẻ ấy chỉ mang bệnh thích tranh luận và cãi chữ nghĩa, khiến sanh ganh tị, bất đồng quan điểm, vu khống, nghi hoặc…

1 TIMOTHY 6:1-4

Những chương đoạn này cho thấy rõ, trong khi những ngưòi theo chủ nghĩa bãi nô ở thế kỷ mưòi chín đã có được một nền đạo đức đúng đắn, thì chính là họ đang ở vào phía thua trong cuộc tranh luận thần học. Như đức cha Richard Fuller đã nói năm 1845 “Những gì Thượng đế trừng phạt trong Cựu ước, để rồi lại cho phép trong Tân ước, thì không thể là tội lỗi”. Ðức cha lòng lành đang vững vàng quan điểm ở đây. Không có gì trong thần học Ki-tô cứu chữa được những khiếm khuyết kinh khủng của Thánh kinh về những vấn nạn đạo đức có lẽ lớn nhất- và dễ nhất- mà xã hội chúng ta từng phải đối diện.

Ðể đáp trả, ngưòi Ki-tô quý bạn thường chỉ ra rằng những ngưòi theo chủ thuyết bãi nô đã rút ra được rất nhiều gợi ý từ Thánh kinh. Dĩ nhiên là họ đã rút ra được như vậy. Quần chúng đã lựa lọc từ Thánh kinh trong nhiều thiên niên kỷ để biện minh cho từng động cơ đạo đức hay vô đạo đức của họ. Tuy vậy, điều ấy không có nghĩa là chấp nhận cuốn kinh thánh như lời của Thượng đế là phương cách tốt nhất để hiểu ra rằng việc bắt cóc và nô lệ hóa hàng triệu con người, nam, nữ, trẻ em vô tội là một sai lầm về đạo đức. Sự kiện những ngưòi chủ trương bãi nô đã xử dụng đến một phần kinh thánh để chối từ đi các phần khác không cho thấy rằng cuốn Thánh kinh là một chỉ đạo tốt cho đạo đức. Nó cũng không đề ra được rằng nhân loại cần phải nên tham khảo một cuốn sách để mà giải quyết các vấn đề đạo đức các loại. Cái khoảnh khắc mà một con ngưòi nhận ra rằng kẻ nô lệ cũng là một con ngưòi như chính mình, có được cái năng lực như mình về hạnh phúc và khổ đau, người ấy ắt hiểu ra rằng việc sở hữu nô lệ và coi họ như những nông cụ là một tội ác hiển nhiên. Thật là hết sức dễ dàng cho một con ngưòi đến được sự tỉnh thức này, Nhưng trải dài suốt thời nội chiến nam bắc, và đối với nhiều ngưòi Ki-tô giáo đạo đức giả mà đất nước này từng biết đến thì sự tỉnh thức đơn giản ấy đã phải phổ biến bằng mũi dao găm nhọn .

MƯỜI ÐIỀU RĂN của Chúa cũng là những điều đáng suy bàn trong nội dung này, khi mà dường như như hầu hết ngưòi Mỹ đều cho rằng đó là những điều không thể thiếu được cả về mặt pháp lý lẫn đạo đức. Trong khi hiến pháp Hoa kỳ không hề chứa đựng một đề cập nào, và đã làm giảm giá trị của Thiên Chúa đi rất nhiều vào thời điểm soạn thảo hiến pháp nhưng nhiều ngưòi Mỹ tin rằng đất nước họ đã xây dựng trên một “nền tảng Judeo-Ki-tô giáo”. Lạ lùng thay, Mười điều răn của Chúa lại thường được viện dẫn như những chứng cớ không thể chối cãi về sự việc này. Trong khi sự thích ứng của chúng đối với lịch sử Hoa Kỳ còn là một điều đáng nghi ngờ thì sự sùng kính của chúng ta đối với những điều răn không phải là chuyện tình cờ. Những điều răn này, là những đoạn văn duy nhất trong kinh thánh, sâu sắc đến nỗi đấng tạo dựng nên vũ trụ phải đích thân mình viết lên và chạm khắc vào đá cứng. Như vậy, ai cũng tưởng rằng đấy là những dòng vĩ đại từng được viết ra, trên tất cả mọi chủ đề, bằng bất kỳ ngôn ngữ nào. Những dòng ấy như thế này đây. Xin hãy chuẩn bị đón nhận …

1. Ngươi không được có chúa, cha nào khác trước ta.

2. Ngươi không đươc tự tạo cho mình ảnh tượng thờ riêng.

3. Ngươi không được mang, kêu tên Chúa ra trong sự vô nghĩa

4. Phải nhớ ngày Sabbath, giữa ngày ấy được thiêng liêng.

5. Ngưoi phải phụng thờ cha mẹ ngươi.

6. Ngươi không được giết người.

7. Ngươi không được ngoại tình.

8. Ngươi không được ăn cắp.

9. Ngươi không được làm chứng gian.

10. Ngươi không được thèm muốn nhà cửa của người láng giềng, đầy tớ trai, gái, trâu, bò, lừa, hoặc bất cứ cái gì của họ.

Bốn điều huấn thị đầu chẳng có ăn nhập gì với đạo đức. Ðúng như nguyên văn, chúng có nghĩa ngăn cấm việc đi theo bất kỳ tôn giáo nào khác (như Ấn độ giáo chẳng hạn), tất cả các nghệ thuật tôn giáo khác, hoặc lầm bầm những câu như “God damn it!”, hoặc làm những việc thông thường trong ngày Sabbath - đều đáng tội chết. Chúng ta hẳn phải rất băn khoăn là làm sao mà những điều luật này có thể sống còn trong khi duy trì nền văn minh.

Ðiều răn 5 đến 9 thật có hưóng vào đạo đức, mặc dù nó thật đáng nên hỏi là bao nhiêu người từng thực sự kính trọng cha mẹ, tránh làm việc sát nhân, ngoại tình, trộm cắp hoặc khai man nhờ những lời răn này. Những khuyên răn đại loại như thế có thề tìm được hầu như ở trong tất cả các nền văn hóa xuyên qua ghi chép của lịch sử. Chẳng có sự thuyết phục đặc biệt gì hơn về sự trình bày của những điều này trong Thánh kinh. Có nhiều nguyên nhân sinh học hiển nhiên cho thấy tại sao con người có khuynh hướng cư xử tốt với cha mẹ mình và cho những hành vi sát nhân, ngoại tình,trộm cắp, dối trá là những điều xấu. Ðó chính là một dữ kiện có tính khoa học- như cảm giác về sự công bằng, oán ghét hoặc tàn nhẫn- đã có trước cả Thánh kinh. Thật vậy, các nghiên cứu về tính cách cư xử của loài vượn người cho thấy rằng những tình cảm này (trong một số dạng thức) tự chúng đã có trước nhân tính. Tất cả các anh em họ hàng loài vượn ngưòi của chúng ta thường thương yêu họ hàng của chúng hơn và thường không tha thứ cho việc giết hại và trộm cắp. Chúng cũng có khuynh hướng không ưa sự lừa dối hay phản bội về dục tình lắm. Ðặc biệt, loài vượn, hiển thị rất nhiều những quan tâm có tính xã hội phức tạp mà bạn mong muốn nhìn thấy trong mối quan hệ ruột thịt của chúng ta trong đòi sống tự nhiên. Do vậy, có lẽ rằng không có gì cho thấy rằng ngưòi Mỹ trung bình sẽ nhận được những lời giáo huấn đạo đức này khi họ đọc được những ý niệm này chạm khắc trên đá khi họ đến những tòa pháp đình. Và, chúng ta làm sao để hiểu được rằng, để đem luận thuyết của mình vào được sân trong nhà thờ, đấng sáng tạo nên vũ trũ đã nghĩ rằng không có những quan tâm con ngưòi nào thúc bách hơn, lâu bền hơn các việc hoán chuyển tôi tớ và gia súc?

Nếu chúng ta muốn nghĩ đến Thiên chúa từ cuốn thánh kinh một cách nghiêm chỉnh, chúng ta sẽ phải thừa nhận rằng Ngài chưa bao giờ cho chúng ta được quyền tự do tuân thủ theo những điều răn nào chúng ta thích và lờ đi những điều còn lại. Người cũng không nói rằng khi vi phạm giới răn chúng ta có thể được giảm nhẹ các hình phạt mà Người đã đặt ra.

Nếu quý bạn nghĩ rằng sẽ khó có thể tốt đẹp hơn được nếu không có Mưòi điều răn như một khẳng định của đạo đức thì quý bạn nên cần phải đọc thêm nhiều kinh, sách khác. Một lần nữa, bạn không phải nhìn đâu xa ngoài chủ thuyết của Jains: những nhà sáng lập Jains đã vượt trội hơn cái đạo đức của Thánh kinh chỉ bằng một câu đơn giản: “Không được gây thưong tích, quấy nhiễu, đàn áp, nô dịch hóa, lăng nhục, gây đau đớn, hành hạ, hoặc giết hại bất kỳ sinh vật, sinh mạng nào.” Hãy thử tưởng tượng thế giới của chúng ta sẽ khác đi như thế nào nếu như Thánh kinh đã chứa đựng một nội dung như thế như là một lời giáo huấn chính. Nhân danh Thiên chúa, Ki-tô giáo đã quấy nhiễu, đàn áp và giết hại quần chúng trong nhiều thế kỷ, dựa trên căn bản của việc hiểu một cách bào chữa được bằng thần học từ cuốn Thánh kinh. Trung thành với những nguy ên tắc của chủ thuyết Jain thì không thể hành xử như thế được. Vậy thì, làm sao quý bạn có thể tranh cãi rằng Thánh kinh mang đến những khẳng định trong sáng nhất cho đạo đức như cả thế giới đã từng thấy ?

Chân đạo đức

Bạn tin tưởng rằng nếu như cuốn thánh kinh không được coi là lời của Thiên chúa thì sẽ không có được một tiêu chuẩn chung cho đạo đức. Nhưng chúng tôi có thể dễ dàng nghĩ ra những cội nguồn khách quan của trật tự đạo đức mà không hề cần đến sự hiện hữu của đấng Thiên chúa để ban hành pháp luật. Bởi lẽ để có thể trở thành những chân lý đạo đức khách quan đáng được biết đến, chỉ cần biết cái hạnh phúc trên thế gian ấy đã đạt được bằng các phương cách tốt đẹp hay xấu xa.

Nếu như có một thứ lề luật tâm lý nào có thể khống chế được hạnh phúc của con người, kiến thức của các luật lệ này đã có thể mang lại một căn bản lâu dài cho nền đạo đức khách quan. Dù chúng ta chưa có được cái gọi là hiểu biết khoa học, cuối cùng của đạo đức con ngưòi, chúng ta có lẽ không thể sai khi bảo rằng hãm hiếp và giết hại láng giềng không thể là một trong những yếu tố chính của căn bản đạo đức ấy. Tất cả những gì thuộc kinh nghiệm của con người đã chỉ ra rằng yêu thương dẫn đến hạnh phúc nhiều hơn là oán ghét. Đây là một sự thật khách quan về tinh thần con người, tính năng động của các mối quan hệ xã hội và về trật tự đạo đức của thế giới chúng ta. Thất là hiển nhiên và rõ ràng để nói rằng Hitler đã sai lầm về các phạm trù đạo đức mà không cần phải tham cứu vào kinh sách gì.

Trong khi yêu thương kẻ khác chắc chắn là nguồn gốc lớn nhất cho hạnh phúc của chúng ta, chúng dẫn đến mối quan tâm sâu xa cho hạnh phúc và khổ đau của người mình thương yêu. Do vậy, sự kiếm tìm hạnh phúc của mình, mang lại nhân tố căn bản cho việc hy sinh và quên mình. Không còn phải nghi ngờ gì nữa rằng, hết lòng hy sinh cho sự tốt lành của tha nhân chính là yếu tố cần thiết để chính mình cảm thấy an vui sâu sắc hơn. Ai cũng có thể thành tựu được những quan hệ như thế mà không cần phải tin vào những bằng chứng vốn thiếu sót. Nhiều điểm trong sách Phúc âm, Jesus rõ ràng bảo ban chúng ta rằng tình yêu thương có thể chuyển hóa đời sống con ngưòi. Chúng ta không cần phải tin rằng người đã được sinh ra từ một trinh nữ, hoặc người sẽ trở lại trần gian như một siêu nhân để thẩm thấu lời bảo ban này của Ngưòi vào lòng mình.

Một trong những ảnh hưởng nguy hại nhất của tôn giáo chính ở chỗ là tôn giáo có khuynh hướng ly dị đạo đức khỏi thực tại đau khổ của con ngưòi và vạn vật. Tôn giáo cho phép con ngưòi tưởng rằng các quan tâm của mình là đạo đức trong khi chúng không phải như vậy – có nghĩa là, không có liên quan gì đến đau khổ hoặc nguôi ngoai. Hơn nữa, tôn giáo cho phép con ngưòi tưởng rằng các quan tâm của mình là đạo đức trong khi chúng thật sự là hết sức vô đạo đức- nghĩa là, khi sự ôm chặt những quan tâm ấy của họ đã gây nên những khổ đau kinh hoàng không cần thiết lên nhân loại vô tội. Điều này giải thích lý do tại sao những Ki-tô hữu như quý bạn đã dùng nhiều năng lực “đạo đức” để chống phá thai hơn là nạn diệt chủng. Chính điều này giải thích nguyên nhân vì sao quý bạn quan tâm đến phôi thai con ngưòi hơn là các triển vọng cứu người từ các khảo cứu về stem-cell. Và, giải thích được lý do vì sao quý bạn cầu nguyện chống lại việc xử dụng bao cao su ở ngoại ô Saharan Phi Châu dù hàng triệu người đang chết vì AIDS ở đấy mỗi năm.

Quý bạn tin rằng tôn giáo của mình quan tâm đến tình dục, với tất cả sự bao la buồn chán của dục tình, có cái gì đó liên quan đến đạo đức. Thực tế, các nỗ lực ngăn chặn hành vi tính dục của việc ngoại tình- ngay cả việc can ngăn con cái bạn không được quan hệ thân xác trước hôn phối- cũng chưa từng bao giờ hướng đến việc giảm thiểu đau khổ của con ngưòi. Thực tại còn cho thấy, việc giảm thiểu đau khổ của con ngưòi đứng hàng khá thấp trong các ưu tiên của bạn. Trông có vẻ như ưu tiên hàng đầu của bạn chính là về việc đấng tạo dựng ra vũ trụ bị mếch lòng về những chuyện mà con ngưòi thực hiện trong khi trần truồng. Sự quan tâm với bộ tịch đoan trang kiểu cách này của bạn đã đóng góp thường nhật vào nỗi khốn khổ của nhân loại .

Thí dụ như, thử nghĩ về bệnh dịch HPV (Human papillomavirus). Hiện nay HPV là căn bệnh dễ lây lan nhất qua đường giao hợp ở nưóc Mỹ. Virus bệnh này lây nhiễm hơn nửa dân số Hoa kỳ, gây tử vong cho hơn năm nghìn phụ nữ qua bệnh ung thư cổ tử cung; hơn hai trăm ngàn ngưòi chết hàng năm theo ước tính của Trung tâm Kiểm soát Tật bệnh (Center for Disease Control). Hiện nay, chúng ta có thuốc chủng ngừa bệnh HPV hiệu quả và an toàn. Hơn sáu ngàn phụ nữ qua vòng thí nghiệm dùng thử đã cho kết quả miễn nhiễm đến 100%. Thế nhưng, những ngưòi Ki-tô giáo bảo thủ trong chính phủ của chúng ta đã phản đối chương trình chủng ngừa với lập luận rằng HPV là một ngăn cản có giá trị cho việc liên hệ xác thịt trước hôn nhân. Quý ông bà đạo đức giả này muốn bảo quản bệnh ung thư cổ tử cung để thúc đẩy việc kiêng cữ, ngay cả có phải hy sinh đến mạng sống của hàng ngàn phụ nữ hàng năm.

Không có gì là sai trái khi khuyến bảo các cô gái mới lớn nên tránh đừng quan hệ tình dục. Nhưng chúng ta biết rõ và không còn nghi ngờ gì nữa rằng chỉ dạy dỗ việc kiêng cữ không thôi thì không đủ để ngăn ngừa việc thiếu niên có thai, hoặc ngăn chặn các bệnh lây lan qua đường giao hợp. Thực tế là, những thiếu niên vốn chỉ được dạy dỗ sự kiêng cữ thuần túy đã trở nên ít hiểu biết đến việc xữ dụng thuốc ngừa thai khi chúng thực muốn quan hệ xác thịt, như nhiều thiếu niên đã không thể tránh khỏi. Một nghiên cứu đã cho thấy rằng trung bình, thiếu nữ “nguyện giữ trinh tiết” đã giữ được việc giao tiếp thân xác thêm mười tám tháng – trong thời gian đó, các thiếu nữ trinh tiết này có nhiều khả năng tham dự vào các gần gũi thân xác qua miệng và hậu môn hơn các thiếu nữ khác. Thiếu nữ vị thành niên ở Mỹ tham dự vào tình dục cũng nhiều như các thiếu nữ vị thành niên ở các nước phát triển khác, nhưng các thiếu nữ Mỹ có nhiều khả năng mang bầu, sinh con hoặc phá thai nhiều hơn. Giới trẽ Mỹ nhiễm HIV và các bệnh lây lan qua tình dục nhiều hơn. Giới thiếu niên ở Mỹ có tỉ lệ bệnh lậu bảy lần nhiều hơn đối với các thiếu niên ở Netherland và Pháp. Chắc chắn những việc này có liên quan đến việc 30 phần trăm chương trình giáo dục giới tính của chúng ta chỉ dậy dỗ sự kiêng cữ xuông không thôi.

Vấn để không phải ở chỗ là vì những ngưòi Ki-tô như bạn không đặt nặng quan tâm đến sự việc thiếu niên mang thai sớm và sự truyền nhiễm lây bệnh. Vấn đề ở chỗ là bạn không lo lắng đến những khổ đau gây ra bởi tình dục mà bạn lo lắng về chính tình dục. Nếu như sự kiện này cần thêm bằng chứng: Reginald Finger, một nhà truyền giáo, thành viên của Uỷ ban cố vấn CDC về Thực hiện chủng ngừa, gần đây đã thông báo rằng ông có thể tính đến việc chống lại chủng ngừa HIV – nghĩa là kết án tử đến hàng triệu ngưòi lẽ ra không phải chết hàng năm vì bệnh AIDS - bởi vì một loại chủng ngừa như thế sẽ khuyến khích các quan hệ giao hợp truớc hôn nhân vì đã làm cho chúng trở nên bớt nguy hại. Ðây là một trong nhiều quan điểm mà niềm tin tôn giáo của bạn đã trở thành sự giết ngưòi chân thật.

Nỗi băn khoăn của các bạn về việc nghiên cứu phát triển tế bào phôi thai là một sự bẩn thỉu tương tự. Đây là những sự thật: nghiên cứu về tế bào phôi thai là một trong những phát triển hứa hẹn nhất trong thế kỷ vừa qua về y học. Nghiên cứu này mang lại bước đột phá trong việc điều trị nhiều chứng bệnh hoặc thương tích mà nhân loại đang phải chịu đựng- bởi lý do đơn giản là tế bào phôi tủy sống có thể trở thành bất kỳ cơ phận nào trong cơ thể con người. Nghiên cứu này còn là một yếu tố cần thiết cho hiểu biết của chúng ta về bệnh ung thư, song song với những rối loạn của sự phát triển đa dạng. Dựa vào những thực tế này, thật là không thể có được sự thổng phồng cường điệu quá đáng về các hứa hẹn của việc nghiên cứu tế bào phôi thai tủy sống. Dĩ nhiên, đúng là sự nghiên cứu như thế này đã dẫn đến việc hủy hoại các tế bào ba ngày tuổi của con ngưòi. Đây chính là điều làm quý vị lo lắng.

Chúng ta hãy nhìn vào các chi tiết. Một cái thai con người được ba ngày tuổi là một tập hợp của 150 tế bào được gọi là một blatocyst. Để tiện so sánh, có hơn 100.000 tế bào trong não bộ của một con ruồi. Cái phôi thai con người được ba ngày tuổi bị hủy diệt trong các nghiên cứu chưa hề có não bộ hoặc ngay cả chưa có tủy. Thành ra, không có lý do gì để có thể tin rằng chúng có thể đau đớn vì bị huỷ diệt. Ở đây, trong phân tích này, cũng thích đáng để nhớ rằng khi não bộ của một con người bị chết, hiện nay chúng ta cho rằng có thể giữ lại, xử dụng được các cơ phận của người ấy (nếu như người ấy đã đồng ý cống hiến) và chôn kẻ ấy đi. Do đó, nếu cư xử với một con người có não bộ đã chết bằng một cung cách không như một người đang sống có thể chấp nhận được thì chúng ta cũng có thể đối xử với một blatocyst như thế. Nếu bạn lo lắng về những đau đớn trong vũ trụ này thì việc giết một con ruồi có thể khiến bạn vi phạm đạo đức hơn là giết hại một blastocyst.

Có thể bạn cho rằng, cái khác biệt chính yếu giữa con ruồi và cái phôi thai người là ở sự việc cái phôi thai có thể mang tiềm năng phát triển đầy đủ để thành một con người. Thế nhưng, hầu như tế bào nào trong cơ thể của bạn cũng là một tiềm năng con người nếu như ta nhìn vào những nghiên cứu gần đây về kỹ thuật gen. Mỗi khi gãi mũi, bạn đã phạm tội diệt chủng đối với các tiềm năng con người. Đây là một thực tế. Cuộc tranh cãi về tiềm năng của tế bào dứt khoát sẽ không đi đến đâu.

Nhưng ngay lúc này, chúng ta hãy thử thừa nhận rằng, mỗi phôi thai ba ngày tuổi có một linh hồn đáng cho mối quan tâm đạo đức của chúng ta. Phôi thai ở thời kỳ này, đôi khi có thể chia ra, trở thành hai con con người (sinh đôi giống nhau). Thế có ngĩa là một linh hồn chia ra làm hai linh hồn hay sao ? Hai phôi thai đôi khi nối thành một, gọi là chimera. Có thể bạn hay người quen biết nào đó đã phát triển từ phương cách này. Không ngạc nhiên tại sao cho đến hiện nay, các nhà thần học vẫn còn vất vả để xác định xem cái gì đã trở thành một linh hồn nữa trong trường hợp như vậy.

Có phải đã đến lúc để chúng ta công nhận ra rằng các bài toán để tính linh hồn này thực chẳng có ý nghĩa gì nữa không? Ý tưởng ngây thơ về linh hồn trong trường hợp đĩa Peril không thể bào chữa được gì về tri thức. Nó cũng không thể bào chữa được gì về mặt đạo đức khi mà ngày nay ý tưởng ngây thơ này đang đứng giữa con đường phát triển của những nghiên cứu hứa hẹn nhất trong lịch sử y học. Ngay vào thời điểm này, những niềm tin vào linh hồn của các bạn chỉ kéo dài thêm những thảm kịch khốn khổ của hàng triệu triệu con người.

Bạn tin rằng “sự sống bắt đầu ngay từ lúc thụ thai”. Bạn tin rằng có những linh hồn trong mỗi một phôi thai này và tin rằng các quyền lợi của một linh hồn- linh hồn của một bé gái đã bị phỏng hơn 75% thân thể - nghĩa là – không thể tráo với các quyền lợi của một linh hồn khác, ngay cả linh hồn ấy tình cờ đang sống bên trong một cái đĩa Peril. Chấp nhận những điều chỉnh mà chúng ta đã thực hiện về những căn bản đức tin phi lý trong những bài luận thuyết trước công chúng của chúng ta, ngay cả từ những người ủng hộ nghiên cứu về stem-cell, đã thưòng chỉ ra rằng vai trò của bạn trong vấn đề này có vấn đề đối với luật pháp về đạo đức. Nói đúng nhất, sự phản đối của bạn về các nghiên cứu stem-cell chính là sự dốt nát, thiếu học. Thực tế, không có nguyên nhân đạo đức nào cho sự thiếu thiện chí của chính phủ liên bang chúng ta trong việc tài trợ các nghiên cứu này. Chúng ta cần đổ ra nhiều tài nguyên vào việc nghiên cứu stem-cell và chúng ta cần phải hành động ngay. Bởi vì những gì người Ki-tô các bạn tin về linh hồn mà các bạn không chịu làm việc này. Thực tế, có nhiều tiểu bang còn coi công việc đó là bất hợp pháp. Thí dụ như nếu ai thực hiện một cuộc thí nghiệm về phôi thai ở tiểu bang South Dakota, ngưòi ấy sẽ phải vào tù.

Ở đây, sự thật đạo đức rất rõ ràng: bất kỳ ai thương cảm cho một cái phôi thai đã thực có một cảm quan đạo đức bị mù lòa bởi các ảo tưởng tôn giáo để vứt bỏ đi quyền sống của một đứa trẻ bị tổn thương cột sống. Mối dính giữa tôn giáo và “đạo đức”- cái rất thường được công bố nhưng rất ít được chứng minh- thì thật là tương phản ở đây, như nó vẫn luôn được làm ngược lại như thế mỗi khi tôn giáo vứt bỏ đi cái lẽ phải đạo đức và tình bác ái.

Làm tốt vì Thiên Chúa

Thế còn những điều tốt lành mà thiên hạ đã làm nhân danh Thiên chúa ? Không thể chối cãi sự thật là nhiều con ngưòi của đức tin tôn giáo đã hy sinh rất anh hùng trong việc làm giảm khuây sự đau khổ cho tha nhân. Thế nhưng có cần thiết phải tin vào những điều thiếu chứng cứ để hành xử như vậy? Nếu lòng bác ái thực sự dựa trên học thuyết của tôn giáo, làm sao để giải thích công việc của các bác sĩ thế tục ở những nơi đang bị tàn phá bởi chiến tranh trong những nước đang phát triển? Nhiều lương y đã động lòng không phải từ ý tưởng nào về Thiên chúa mà chỉ đơn giản vì muốn làm giảm đi nỗi đau của nhân loại. Trong khi đó, chắc chắn rằng các dòng truyền giáo đã cũng mủi lòng bởi khao khát xoa dịu nỗi đau, đồng thời cũng bởi họ đến với một nhiệm vụ ngổn ngang bởi những huyền thoại nguy hiểm và chia rẽ. Các dòng truyền giáo ở các nước đang phát triển đã phí phạm rất nhiều thì giờ và tiền bạc (chưa kể đến thiện chí của những ngưòi không Ki-tô giáo) để cải đạo cho những kẻ khốn cùng; họ đã truyền đi những thông tin sai lầm về việc ngừa thai và các tật bệnh lây lan tình dục, dấu đi những thông tin đúng, chủ thuyết của họ vẫn lan truyền sự ngu dốt và chết chóc. Ngược lại, những người tự nguyện cho các tổ chức thế tục như Hội Y Sĩ không biên giới đã không bỏ phí thời gian vào việc truyền bảo cho công chúng về sự sản sinh trong trinh tiết của Jesus. Họ cũng không truyền đạt cho dân ở ngoại ô Saharan Phi Châu rằng xử dụng bao cao su là tội lỗi. Các nhà truyền đạo Ki-tô giáo đã nổi tiếng về việc rao giảng tội lỗi của việc xử dụng bao cao su ở những làng mạc vốn chưa hề được bao giờ thông tin gì về bao cao su. Mộ đạo kiểu này là một sự diệt chủng [i]. Ngẫu nhiên, chúng ta hẳn phải băn khoăn: giúp ngưòi thuần vì quan tâm đến đau khổ của ngưòi ta hay giúp ngưòi vì nghĩ rằng đấng tạo dựng vũ trụ sẽ thưởng công cho mình?

Mẹ Theresa là một bằng chứng tốt nhất cho phương cách mà một ngưòi tốt lành, mủi lòng thương giúp tha nhân, đã có cảm thức đạo đức của mình bị đảo lộn bởi đức tin tôn giáo. Christopher Hichens đã trình bày một cách thẳng thắn huỵch toẹt như sau :

[Mẹ Theresa] không phải là bạn của người nghèo. Bà là bạn của sự nghèo

khó. Bà nói rằng đau đớn là tặng phẩm của Thượng đế. Bà đã cả đời chống

lại phương cách duy nhất từng được biết để giải quyết nghèo khó, khỏi

dạng gia súc của việc cưỡng ép sinh sản.

Dù thật sự đồng ý với Hitchens về quan điểm này, tôi cũng không hề chối bỏ sự việc mẹ Theresa là một thuyết phục vĩ đại của tình bác ái. Rõ ràng, bà đã động lòng thương cảm từ những khổ đau của đồng loại, và bà đã hành động nhiều để thức tỉnh nhiều ngưòi khác đến thực tại khổ đau ấy. Tuy nhiên, vấn đề, đã ở chỗ là lòng bác ái của bà bị hưóng vào khuôn khổ những bức tường thẳng dốc từ chủ nghĩa tôn giáo của bà. Trong diễn từ nhận giải Nobel, bà đã nói :

Phá thai là sự tàn phá lớn nhất cho bình an… Nhiều ngưòi rất, rất quan

tâm đến trẻ em Ấn Ðộ, đến trẻ em Phi Châu, nơi nhiều em đã bị chết, vì suy

dinh dưỡng, đói khát và các nguyên nhân tương tự nhưng hàng triệu trẻ em

khác đang chết vì chủ tâm của chính ngưòi mẹ. và điều này, ngày nay, chính

là sự tàn phá lớn nhất cho an bình. Bởi bởi vì, nếu một ngưòi mẹ có thể giết

chính con mình – thì có cái gì còn lại nữa để mình có thể giết người khác và

kẻ khác có thể giết lại mình- thật không có chọn lựa nào khác.

Ðể chẩn bệnh cho các vấn nạn của thế giới, những lời phẩm bình này thật là một sự dẫn đạo lạc hướng đáng kinh ngạc. Và cũng chẳng giúp gì tốt hơn để khẳng định giá trị của đạo đức. Lòng bác ái của Mẹ Theresa đã bị thẩm định rất tồi khi sự việc giết hại một bào thai ba ngày tuổi gây phiền muộn cho bà nhiều hơn là nỗi đau khổ của nhiều kẻ khác mà bà đã là nhân chứng trên hành tinh này. Khi phá thai là một thực tế xấu xa, tất cả chúng ta đều hy vọng vào một bước đột phá của y học trong việc ngăn ngừa để giảm bớt nhu cầu phá thai, làm sao có thể có ngưòi băn khoăn rằng hầu hết những phôi thai có thể bị đau đớn ở múc độ nào đấy. Làm sao có ngưòi không thể băn khoăn đến hàng triệu con người, đàn ông, đàn bà, trẻ em, đang phải chịu những thống khổ của chiến tranh, đói kém, tra tấn vì chính kiến hoặc những bệnh tật về tinh thần. Ngay trong lúc này, hàng triệu con người có nhận thức đang đau khổ vì những tai ách vật chất, tinh thần không thể tưởng tượng được, trong những tình huống mà không thấy được lòng bác ái của Thượng đế, và lòng bác ái của nhân loại lại bị khập khiễng bởi những tư tưởng lố bịch về tội lỗi và sự cứu rỗi. Nếu bạn lo lắng cho sự đau khổ của nhân loại thì chuyện phá thai chỉ đứng cuối trong danh sách những ưu tư của mình.

Trong lúc việc phá thai vẫn còn là một vấn đề bị chia rẽ đến buồn cưòi tại Mỹ, vị trí “đạo đức” của hệ thống nhà thờ về vấn đề này giờ đây đã hiện thân một cách kinh tởm tại quốc gia El Salvador. Hiện nay, ở El Salvador, phá thai dưói bất kỳ trường hợp nào cũng là bất hợp pháp. Không có ngoại lệ cho cả các trường hợp bị hãm hiếp hoặc loạn luân. Ngay lúc ngưòi phụ nữ đến bệnh viện với một cái tử cung đã bị đục khoét, cho thấy rằng bà đã từng phá thai, bà ta sẽ bị cùm chặt vào giường bệnh và cơ thể bà sẽ bị coi như một hiện trường tội ác. Các bác sĩ giảo nghiệm sẽ đến ngay để khám âm hộ và tử cung. Hiện nay, có những ngưòi đàn bà thụ án phạt ba mươi năm tù vì đã phá thai. Thử tưởng tượng xem, trong một đất nước đã xấu xa hóa việc xử dụng thuốc ngừa thai như là một tội lỗi chống lại Thượng đế, thì đúng đây là loại chính sách mà ai cũng nên xử dụng nếu đồng ý với đánh giá của Mẹ Theresa về nỗi khổ đau của thế giới. Kỳ thực, Tổng giám mục El Salvador đã có tích cực vận động cho chính sách ấy. Các nỗ lực của ông đã được trợ giúp bởi Giáo Hoàng John Paul ÌI, ngưòi đã tuyên ngôn, trong một chuyến hành hương đến thành phố Mexico năm 1999 rằng “ Nhà thờ phải công bố phúc âm của đời sống và công khai ra sức mạnh tiên tri chống lại nền văn hóa của sự chết. Cầu xin cho lục địa của hy vọng trở nên lục địa của đời sống!”

Dĩ nhiên, về sự phá thai thì quan điểm của nhà thờ đã không còn đếm xỉa gì đến các đặc điểm của ngành sinh học hơn việc họ lưu tâm đến thực tại đau khổ của nhân loại. Khoa học ước tính rằng có đến 50 phần trăm các trường hợp thụ thai đã kết thúc bằng sự phá thai tự nhiên, thông thường ngay cả người phụ nữ cũng không hề biết rằng mình đã thụ thai. Thực tế, 20 phần trăm các trường hợp thụ thai đã kết thúc bằng việc sẩy thai. Do đó, có một sự thật hiển nhiên ở đây vưọt ra ngoài hiểu biết: nếu Thượng đế có hiện hữu, thì chính người là kẻ phá thai nhiều hơn cả.

(còn tiếp)

[i] Nếu bạn có thể tin được : Vatican đang chống lại việc xử dụng bao cao su để ngăn ngừa bệnh HIV ngay cả giữa những người có cưói hỏi với nhau. Có tin đồn cho rằng Giáo Hoàng đang xem xét lại chính sách này. Hồng Y Javier Lazano Barragan, lãnh đạo Uỷ ban Y tế của tòa thánh , đã thông báo trên đài phát thanh Vatican rằng văn phòng của ngưòi đang “ thực hiện một nghiên cứu sâu sắc rất kỹ thuật, khoa học, và đạo đức” về vấn đề này. Thật không cần phải nói, nếu học thuyết Nhà thờ thay đổi do kết quả của những cân nhắc đạo đức giả này, sẽ là một chỉ dấu rằng không phải đức tin ấy thâm thuý mà là đức tin của giáo điều ấyđã phát triển không thể cứu chữa được nữa.

© 2008 damau.org - Damau Literary Portal. All rights reserved.

Roger C. Altman - Cuộc đại suy trầm 2008

Roger C. Altman - Cuộc đại suy trầm 2008, một trở ngại địa chính trị cho Phương Tây




Trần Ngọc Cư dịch
Lời người dịch: Roger C. Altman là Thứ trưởng Bộ Tài chính Hoa Kì trong thời kì 1993-1994. Mặc dù bài tiểu luận sau đây phân tích những thất bại của hệ thống tài chính Phương Tây, nhưng nó cũng vẽ ra viễn cảnh của sự phân bố quyền lực địa chính trị (geopolitical powers) trong tương lai có thể tiên đoán được, sự thể này sẽ diễn ra như là một hệ quả nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Cuộc khủng hoảng đang phơi bày những yếu kém của chủ nghĩa tư bản thị trường tự do từng được Hoa Kì và Phương Tây cao rao hàng chục năm nay. Trong bối cảnh này, Trung Quốc, trong tay vẫn còn một lượng tiền dự trữ (nhờ quá trình thặng dư mậu dịch) đến những 2000 tỉ đôla và vẫn giữ độ tăng trưởng GDP ở mức cao, sẽ là con hùm có cánh trên bàn cờ địa chính trị thế giới. Trong khi Hoa Kì và Phương Tây đang co cụm để lo đối phó những vấn đề kinh tế nội bộ, thì đây là lúc Trung Quốc thênh thang lùng sục tài nguyên thiên nhiên qua các thỏa ước song phương kí kết với các chế độ độc tài Á-Phi. Là người Việt Nam chắc hẳn chúng ta không còn mơ màng tự hỏi, đất nước chúng ta đang ở dưới thế lực địa chính trị nào đây? Bô-xít! Bô-xít! Ôi bô-xít.
*
Cuộc suy sụp kinh tế và tài chính 2008, biến cố tệ hại nhất trong vòng 75 năm, là một trở ngại địa chính trị nghiêm trọng cho Hoa Kì và Châu Âu. Trong trung kì (medium term), Washington và các chính phủ Châu Âu sẽ không có đủ cả nguồn lực lẫn uy tín kinh tế để đóng vai trò mà họ mong muốn trong các vấn đề toàn cầu. Những yếu kém này cuối cùng sẽ được chỉnh sửa, nhưng trong lúc này, chúng sẽ tăng tốc những khuynh hướng có khả năng chuyển dịch trọng tâm quyền lực của thế giới ra khỏi vùng ảnh hưởng của Hoa Kì.
Một cuộc suy trầm kinh tế tàn khốc đang diễn ra tại Hoa Kì, Châu Âu, và chắc chắn cả Nhật Bản — một cuộc suy trầm có thể tai hại hơn cuộc đình trệ kinh tế năm 1981-82. Cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay đã gieo nỗi sợ hãi sâu sắc cho người tiêu thụ và các doanh nghiệp; để phản ứng lại, họ chỉ biết đào sâu thế thủ. Thêm vào đó, những phương thức phục hồi kinh tế thông thường được nhiều chính phủ sử dụng — như kích thích tiền tệ và tài chính — tương đối sẽ vô hiệu trong tình thế này.
Tổn thất kinh tế này đã đặt mô hình tư bản, thị trường tự do, của Mĩ dưới một đám mây đen. Toàn bộ hệ thống tài chính coi như đang suy sụp trước mắt mọi người, trong khi cơ chế điều tiết thất bại một cách ngoạn mục vì không kềm chế được những nhũng lạm xảy ra đều khắp. Hiện nay, trong lúc tìm cách ổn định kinh tế, chính phủ Mĩ cũng như các chính phủ Châu Âu đã quốc hữu hoá nhiều khu vực tài chính đến một mức độ mâu thuẫn với giáo điều của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Nhiều nước trên thế giới đang đi một bước ngoặt lịch sử, hướng đến một giai đoạn trong đó vai trò của nhà nước sẽ lớn hơn và vai trò của khu vực tư sẽ bé lại. Như sự thể đang diễn ra, sức mạnh toàn cầu của Hoa Kì cũng như sức hấp dẫn của chế độ dân chủ kiểu Mĩ đang ngày càng suy giảm. Mặc dù Hoa Kì có cái may mắn là cuộc khủng hoảng này đã xảy ra đồng thời với những triển vọng nội tại trong việc Barack Obama đắc cử tổng thống, nhưng những lực tác động lịch sử — và cuộc suy sụp kinh tế 2008 — vẫn sẽ đưa thế giới rời xa hệ thống đơn cực (unipolar system), bất chấp mọi nỗ lực của Hoa Kì.
Thật vậy, những cường quốc kinh tế tân hưng (mới xuất hiện) đang tạo thêm nhiều ảnh hưởng. Không một quốc gia nào có thể hưởng lợi nhờ cuộc khủng hoảng tài chính này trong vòng một năm tới, nhưng một vài quốc gia — đặc biệt là Trung Quốc — sẽ giữ được một tư thế toàn cầu tương đối vững mạnh hơn. Trung Quốc cũng đang kinh qua cơn suy trầm địa ốc, thị trường xuất khẩu yếu kém, và tốc độ phát triển toàn bộ bị khựng lại. Nhưng quốc gia này vẫn còn tương đối cách li với cuộc khủng hoảng toàn cầu. Quĩ dự trữ ngoại thương của Trung Quốc xấp xỉ 2000 tỉ đôla, có khả năng biến nước này thành thành quốc gia mạnh nhất thế giới về tiền mặt (thanh khoản). Hệ thống tài chính của Trung Quốc không bị cuộc khủng hoảng toàn cầu ảnh hưởng bao nhiêu. Sự tăng trưởng quốc gia, hiện được huy động vào sinh hoạt kinh tế trong nước, sẽ tiếp tục với một tốc độ chắc nịch, dù có giảm đi so với trước đây. Trong tư thế tương đối không bị tổn thương, Trung Quốc có được cơ hội củng cố những lợi thế chiến lược trong khi Hoa Kì và Châu Âu còn phải phấn đấu để phục hồi kinh tế. Trung Quốc sẽ có đủ tư thế để tài trợ cho các quốc gia khác và có thể thực hiện những đầu tư then chốt, chẳng hạn, trong việc khai thác tài nguyên thiên nhiên vào một thời điểm mà Phương Tây không làm được. Đồng thời, cuộc khủng hoảng này có thể mang lại một quan hệ khắn khít hơn giữa Hoa Kì và Trung Quốc. Những va chạm trong lãnh vực ngoại thương sẽ giảm bớt đi, điều này sẽ xoa dịu lập trường bảo hộ mậu dịch trong Quốc hội Mĩ. Và rất có thể, một khi Washington ít bị cuộc chiến tại Iraq chi phối, chính quyền mới của Tổng thống Obama sẽ nhận chân rõ ràng hơn chính quyền Bush, rằng quan hệ Mĩ-Trung sẽ trở thành quan hệ song phương chủ yếu nhất của Hoa Kì. Chính quyền Obama sẽ dẫn đầu các nỗ lực để đưa Trung Quốc vào G-8 (nhóm các quốc gia công nghiệp hàng đầu) và mở rộng địa vị cổ phần của Trung Quốc trong Quĩ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Về phần mình, Trung Quốc sẽ dẫn đầu nỗ lực gia tăng cơ sở vốn của IMF.
Bản chất vấn đề
Dư luận thông thường gán cuộc khủng hoảng tài chính này cho sự suy sụp giá nhà và thị trường thế chấp thứ cấp (suprime mortgage market) tại Mĩ. Nghĩ vậy là không đúng; bản thân của sự suy sụp này là hậu quả của một vấn đề khác. Nguyên nhân sâu xa nằm trong sự kết hợp nguy hiểm giữa lãi suất quá thấp và những lượng tiền lớn chưa từng thấy rót vào thị trường Mĩ. Lãi suất thấp phản ánh chính sách tiền tệ quá dễ dãi của chính phủ Mĩ sau biến cố 9/11. (Cục Dự trữ Liên bang hạ lãi suất do quĩ liên bang xuống 1% và duy trì lãi suất gần mức này suốt trong 3 năm.) Lượng tiền mặt hay thanh khoản (liquidity) từ ngoài vào, cùng một số yếu tố khác, phản ánh hiện tượng mà Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Ben Bernanke từng gọi là “lượng tiền tiết kiệm thừa mứa của thế giới”: đó là những nố thặng dư tài chánh đồ sộ của một số quốc gia, đặc biệt Trung Quốc, Singapore, và các nước sản xuất dầu hỏa của vùng Vịnh Ba Tư. Mãi cho đến giữa thập niên 90, hầu hết các nền kinh tế tân hưng đều kinh qua những thâm thủng cán cân chi phó (balance-of-payments deficits) vì chúng phải thu hút vốn nước ngoài vào để tài trợ cho sự phát triển kinh tế. Nhưng cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á những năm 1997-98 là một trong những nhân tố đã thay đổi tình trạng này trong nhiều nước Châu Á. Sau đó, những thặng dư tài chính đã gia tăng khắp vùng để rồi chúng liên tục được luân lưu trở lại với Phương Tây dưới dạng thức các danh mục vốn đầu tư. Gặp phải lãi suất quá thấp, núi tiền ròng này đương nhiên đi tìm những đầu tư có lợi nhuận cao hơn. Một qui luật cơ bản của tài chính là lợi nhuận của tiền cho vay tỉ lệ nghịch với phẩm chất tín dụng: người vay càng đáng tin tưởng thì tiền lời càng thấp, và ngược lại. Những số vốn rất lớn cứ như thế mà chảy vào khu vực thế chấp thứ cấp (the subprime mortgage sector) và lọt vào tay những con nợ thiếu khả năng vay mượn, ở Mĩ, ở Châu Âu, và với mức độ nhỏ bé hơn, ở khắp thế giới. Chẳng hạn, tại Mĩ số lượng nợ thế chấp thứ cấp và được cổ phần hoá (đem bán lại trên thị trường chứng khoán) đã gia tăng từ mức bình quân dài hạn là 100 tỉ lên đến 600 tỉ đôla trong hai năm 2005 và 2006. Như trong mọi trường hợp bong bóng tài chính, các bài học lịch sử luôn bị quên lãng, kể cả bài học về tỉ số thất bại của những con nợ xấu trong việc hoàn trả nợ dài hạn.
Cơn lũ tiền đầu tư tràn vào thị trường thế chấp đã đẩy giá bất động sản (nhà ở và cơ sở thương mại) lên mức cao chưa từng thấy. Trong khi giá nhà trung bình ở Mĩ mỗi năm chỉ tăng 1,4% trong suốt 30 năm trước năm 2000, sự tăng giá lần này lại nhảy vọt lên 7,6% một năm trong thời gian từ 2000 đến giữa 2006. Riêng khoảng giữa năm 2005 đến giữa năm 2006, là lúc có quá nhiều người đầu cơ trong thị trường địa ốc, giá nhà đã tăng 11%. Nhưng tương tự hầu hết các trường hợp giá cả hàng hóa tăng đột biến, nạn tăng vọt giá nhà đất cuối cùng cũng phải đổi chiều – và tuột dốc đáng sợ. Giá nhà rơi nhanh trong vòng hai năm qua, và cho đến nay vẫn chưa có dấu hiệu chạm đáy. Các thị trường thương phẩm tương lai (futures markets) báo hiệu rằng trị giá địa ốc có thể tuột 30-35% từ đỉnh đến đáy. Đây là một sự mất giá khủng khiếp cho một khu vực tài sản có thời điểm được định giá khoảng 13 ngàn tỉ đôla.
Sự suy sụp giá địa ốc đã phá hoại trị giá của các khoản nợ thế chấp thiếu an toàn, tức là các khoản nợ xấu được tạo ra trong thời kì 2003-6. Thêm vào đó, vô số nợ thế chấp thứ cấp được cơ cấu với lãi suất nhẹ một cách giả tạo lúc đầu, rồi sau một thời gian theo khế ước lại bắt đầu chuyển qua lãi suất đắt đỏ hơn. Vô số con nợ không đủ sức góp tiền nhà theo lãi suất mới điều chỉnh, nạn chểnh mãng tiền nhà (delinquencies) trở nên ngày càng nhiều. Những khoản thất thu của các nợ này bắt đầu xuất hiện vào giữa năm 2007, rồi nhanh chóng gia tăng đến mức choáng váng. Và với giá địa ốc và các loại tài sản khác vẫn còn xuống dốc, giá trị của những khoản cho vay này tiếp tục trở nên tồi tệ. Các cơ sở tài chính lớn đang tiếp tục khai lỗ. Những cơ sở này hạ thấp giá trị của một khoản tiền cho vay hay một tài sản thế chấp trong tam cá nguyệt này, để rồi chỉ làm lại như thế trong tam cá nguyệt tiếp theo. Chu kì đi xuống bằng sức đẩy tự động này khiến các thị trường chúi mũi khắp thế giới.
Sự thiệt hại biểu hiện rõ rệt trong từng gia đình. Dân Mĩ đã mất đến 1/4 trị giá tài sản của họ chỉ nội trong một năm rưởi, kể từ 30-6-2007, và chiều hướng này vẫn còn tiếp tục. Tài sản lớn nhất của người Mĩ là vốn liếng họ có được (equity) trong trị giá của cái nhà [equity = giá thị trường - tiền còn nợ]. Tổng số vốn liếng mà toàn dân Mĩ có được trong nhà ở (total home equity), vào lúc cao điểm trong năm 2006, được đánh giá khoảng 13 ngàn tỉ đôla – con số này đã tuột xuống 8.800 tỉ vào giữa năm 2008 và vẫn còn tuột vào cuối năm 2008. Tài sản lớn thứ hai trong gia đình Mĩ là tài sản hưu trí (retirement assets) [phần lớn loại tài sản này hiện nằm trong cách danh mục đầu tư]. Tổng số vốn liếng của người Mĩ trong các danh mục hưu trí đã tuột mất 22%, rơi từ 10.300 tỉ trong năm 2006 xuống 8 ngàn tỉ giữa năm 2008. Trong cùng một thời kì, tài sản nằm trong các danh mục tiết kiệm và đầu tư (không kể đến tiền để dành hưu trí, retirement savings) đã mất 1.200 tỉ và quĩ lương hưu (pension funds) của các công ti hay công sở cũng mất đi 1.300 tỉ đôla. Gộp lại tất cả, tổng số những mất mát này đã lên đến một con số chóng mặt là 8.300 tỉ.
Những cú đấm bạo liệt và bất thần như vậy đã gây sốc cho nhiều gia đình Mĩ. Và vì những biến động tài chính này đã diễn ra đồng thời với các tít lớn trên báo đài và các ngân khoản tiếp cứu khổng lồ do chính phủ hứa hẹn, cơn sợ hãi của dân Mĩ về mức độ an tòan và khả năng tiếp cận với các trương mục đầu tư và ngân hàng lan rộng hơn bao giờ cả, kể từ cuộc khủng hoảng 1933. Đây là lí do vì sao dân Mĩ đã rút 150 tỉ đôla khỏi các quĩ thị trường tiền tệ (money-market funds) chỉ trong vòng hai ngày vào tháng Chín 2008 (con số rút ra trung bình hàng tuần là 5 tỉ đôla). Đó cũng là li do vì sao Cục Dự trữ Liên bang đã thiết lập một quĩ đặc biệt gồm 540 tỉ đôla để giúp các quĩ thị trường tiền tệ có khả năng đáp ứng những lượng tiền vẫn tiếp tục rút ra.
Hỗn loạn
Người ta thấy càng ngày càng hiển nhiên là, cuộc suy trầm nghiêm trọng đang diễn ra tại Hoa Kì và Châu Âu sẽ là cuộc suy thoái kinh tế thế giới gay gắt nhất kể từ thập niên 1930. Tổng sản lượng quốc nội (GDP) của Hoa Kì đã sa sút trong quí ba năm 2008 và được tiên đoán sẽ rớt nhanh, gần 4%, trong quí tư. Trong số 52 nhà kinh tế được The Wall Street Journal thăm dò ý kiến trong năm qua, đại đa số dự kiến kinh thế Mĩ sẽ co thắt chí ít trong ba quí liên tiếp, một điều chưa hề xảy ra trong 50 năm qua. It ra trong trung kì, vai trò quốc tế của Hoa Kì và các quốc gia Châu Âu sẽ se thắt đồng bộ với nền kinh tế của mình.
Thị trường chứng khoán tại Hoa Kì và cả thế giới đang báo hiệu một thời kì kinh tế tàn bạo đang lù lù trước mặt. Khoảng đầu tháng Mười Một 2008, chỉ số thị trường bao trùm nhất của Mĩ, S&P 500, rơi xuống 45% so với đỉnh cao năm 2007. Sự tuột dốc này còn gay gắt hơn thời kì suy trầm 1981-82, một cuộc suy trầm cho đến nay vẫn được coi là thời kì tồi tệ nhất từ thập niên 1930. Lối giải thích hợp lí duy nhất cho sự chúi mũi này là, thị trường chứng khoán hiện nay đang dự kiến mức lợi nhuận của các tập đoàn kinh tế sẽ sút giảm thảm hại hơn nữa trong năm 2009, so với cuộc suy trầm xảy ra cách đây ngót 30 năm.
Một sự sa sút lợi nhuận to lớn như thế có thể xảy ra vì người tiêu thụ Mĩ hiện nay rất sợ hãi trước tương lai nên đã ngừng chi tiêu những khoản không bắt buộc. Bị sốc vì cơn khủng hoảng tài chính, lo sợ về tính an toàn của các ngân hàng và các số tiền kí gửi trong thị trường tiền tệ, đồng thời bị giao động vì cảm thức “ngày tận thế” đang tràn ngập Washington và báo đài Mĩ, người dân Mĩ bèn nhanh chóng nâng mức tiết kiệm của mình lên bằng cách hạn chế chi tiêu và tìm cách trả bớt nợ. Kết quả vào tháng Chín vừa qua là mức sút giảm lớn nhất trong chỉ số tự tin của giới tiêu thụ, còn được gọi là Conference Board Comsumer Confidence Index, một chỉ số được nhiều giới theo dõi. Tháng Chín cũng chứng kiến mức tiêu thụ hàng tháng sút giảm nghiêm trọng nhất kể từ 1980 – và sự sút giảm trong tháng Mười còn tệ hại hơn nữa. Tổng giám đốc của tập đoàn Caterpillar [sản xuất máy ủi đất] và nhiều lãnh đạo doanh nghiệp khác đã mô tả những tình trạng này là tồi tệ chưa từng thấy và đang nghiêm khắc cắt giảm việc sử dụng vốn.
Như cựu Tổng trưởng Tài chính Lawrence Summers nhận xét, cuộc suy trầm này sẽ kéo dài khá lâu một phần vì bản chất bất thường của đường xoắn ốc đi xuống trong lãnh vực tài chính. Khi giá trị các tài sản trên thị trường [cổ phiếu chẳng hạn] mất đi nhanh chóng, các lệnh bán trước mua sau (margin calls) được thi hành, khiến các tài sản đó cũng như các loại tài sản khác bị bán tháo, việc này sẽ làm cho tài sản bị giảm giá thêm nữa. Điều này có nghĩa là nhiều gia đình và nhiều cơ sở tài chính sẽ chịu nhiều thiệt hại to lớn hơn, đưa đến hậu quả là người dân không dám tiêu xài và ngân hàng không dám cho vay. Kết quả nhiên hậu là một nền kinh tế thậm chí còn yếu kém hơn nữa, một nền kinh tế có những đặc tính sau: người dân ít tiêu xài hơn, mức thu nhập thấp hơn, và nạn thất nghiệp nghiêm trọng hơn. Cuộc suy thoái này còn sẽ kéo dài thêm nữa vì những biện pháp của chính phủ nhằm kích thích sự phục hồi hoặc là không có hoặc là vô hiệu. Phương sách cơ bản nhất để kích hoạt một nền kinh tế bệnh hoạn là nới lỏng chính sách tiền tệ, như Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kì đã làm trong Mùa Thu vừa qua. Nhưng lãi suất ở Hoa Kì và Châu Âu đã xuống mức quá thấp, đồng thời các ngân hàng trung ương đã bơm vào các thị trường tín dụng một lượng tiền lớn chưa từng thấy. Như thế, dù chính sách tiền tệ có được nới lỏng thêm nữa thì hiệu quả chắc cũng không được bao nhiêu.
Một khí cụ khác là kích thích tài chính, rất có thể sẽ được sử dụng ở Hoa Kì, Châu Âu, và Nhật bản – nhưng kết quả chắc cũng khiêm nhường thôi. Ngay cả gói 300 tỉ đôla, nhằm gia tăng việc chi tiêu và trả lại tiền thuế cho công dân, đang được bàn luận trong Quốc Hội Mĩ cũng còn quá ít ỏi so với nền kinh tế 15 ngàn tỉ đôla của Hoa Kì. Dựa trên kinh nghiệm quá khứ, một loạt kích thích nữa có lẽ cũng chỉ hiệu nghiệm phần nào thôi: gói kích thích 160 tỉ đôla thực thi vào tháng Hai [năm ngoái] chỉ làm Tổng sản lượng quốc nội, hay GDP, của Hoa Kì tăng thêm một sản lượng chỉ bằng nửa số tiền đó mà thôi. Người ta dự kiến cuộc suy trầm kinh tế ở Châu Âu cũng nghiêm trọng không kém gì ở Hoa Kì. Giới tiêu thụ Châu Âu cũng cắt giảm chi tiêu vì cùng những lí do như giới tiêu thụ Mĩ. Những khu vực tài chính của các nước Châu Âu, nếu so với GDP của các nước ấy, đến nay đã chịu nhiều thiệt hại hơn khu vực tài chính của Hoa Kì. Chính phủ Anh đã công bố sự co thắt của nền kinh tế nước này vào mùa thu vừa qua, và các nước trong khu vực đồng euro đang chính thức ở vào cuộc suy trầm.
Hệ thống tài chính quốc tế cũng bị tàn phá. Quĩ Tiền tệ Quốc tế, hay IMF, ước tính rằng số nợ thất thu của các cơ sở tài chính toàn cầu cuối cùng sẽ lên đến 1500 tỉ đôla. Khoảng 750 tỉ đôla trong con số thất thu ấy đã được tường trình kể từ tháng Mười Một vừa qua. Những khoảng thất thu này đã xoá sạch một phần lớn số vốn trong hệ thống ngân hàng và khiến nhiều luồn tín dụng bị tắt nghẽn. Từ cuối năm 2007, nhiều định chế tài chính bắt đầu lo ngại về khả năng hoàn trả (creditworthiness) của người vay, kể cả giữa các cơ sở tài chính với nhau, đến nỗi họ không còn cho vay nữa. Điều này được chứng minh bằng khoảng cách giữa lãi suất của Công khố phiếu 3-tháng của Hoa Kì và lãi suất 3-tháng theo chuẩn LIBOR, một chuẩn lãi suất dành cho việc vay mượn giữa các ngân hàng (London Interbank Offered Rate) — chuẩn lãi suất này đã tăng gấp bốn một tháng sau khi ngân hàng đầu tư Lehman Brothers khai phá sản vào tháng Chín 2008. Nạn đóng băng tín dụng đã đưa hệ thống tài chính toàn cầu đến bờ suy sụp. Vào tháng Mười, giám đốc quản lí của IMF, Dominique Strauss-Kahn, đã nói đến một “cuộc tan rã có hệ thống” (a systematic meltdown) sắp xảy ra. Vì thế, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kì, Ngân hàng Trung ương Châu Âu, và các ngân hàng trung ương khác đã bơm vào các thị trường tín dụng một thanh khoản (liquidity) trị giá tổng cọng 2500 tỉ đô la, đây là cuộc can thiệp tiền tệ vĩ đại nhất trong lịch sử thế giới. Về phần mình, chính phủ Hoa Kì và các chính phủ Châu Âu đã đi một bước trước đó chưa ai nghĩ đến, là bơm thêm 1500 tỉ đôla vào các danh mục đầu tư vốn trực tiếp tại các cơ sở tài chính trong nước.
Con đường tiến đến phục hồi
Khi chúng tôi ngồi viết bài này thì đã có một chút băng tan khiêm nhường trong những điều kiện cho vay của thị trường tín dụng. Nhưng con đường trở lại tình trạng bình thường thì vẫn còn hun hút xa xăm. Hệ thống tài chính Phương Tây hiện nay đã là một xác không hồn. Trong tình trạng những thiệt hại đang diễn ra, các định chế tài chính Phương Tây phải co cụm nhiều hơn nữa chỉ để giữ ổn định tờ quyết toán [cân bằng giữa chi và thu, DG]. Nói thế khác, các cơ sở tài chính này sẽ phải rút lại tín dụng từ thị trường thế giới chí ít trong ba hoặc bốn năm.
Như trong mọi trường hợp quá đà điển hình, con lắc của các thị trường tài chính đang chuyển động từ hồ hỡi sang thất vọng. Hiện nay tâm lí của các định chế tài chính là quay trở lại một thái độ bảo thủ cực đoan. Các định chế này đang duyệt xét và tu sửa toàn bộ các hệ thống cấp tín dụng và chế ngự rủi ro, cũng như tỉ số đầu cơ và thanh khoản. Những chuẩn mực cho vay khắc khe hơn sẽ thắng thế trong tương lai trước mặt.
Những mô thức cho vay mới mẻ này sẽ bị hạn chế thêm nữa bởi một chế độ điều tiết chặt chẽ hơn trước. Nhiều người nhìn nhận rằng cuộc khủng hoảng tài chính phản ánh sự thất bại lớn nhất trong lịch sử hiện đại của các cơ quan điều tiết — một sự thất bại dàn trải từ việc giám sát ngân hàng, đến những tiết lộ của Ủy ban Điều tiết Thị trường Chứng khoán Mĩ (SEC), đến công tác giám sát việc định giá tín dụng. Ở đây, những lời cáo buộc lẫn nhau cũng mới chỉ bắt đầu, chưa nói đến việc truy tố hình sự. Và mọi người đều nhất trí là cần phải có một cải tổ rộng lớn trong chức năng điều tiết thị trường tài chính. Obama và Quốc Hội mới của Hoa Kì chắc chắn sẽ theo đuổi việc làm luật để thực thi cải tổ nội năm nay. Các chính phủ Châu Âu nhất định sẽ có những biện pháp tương tự. Những tiêu chuẩn về vốn và thanh khoản tối thiểu, mà các cơ quan điều tiết đòi hỏi ở các định chế tài chính, chắc chắn sẽ khắc khe hơn – bên cạnh nhiều biện pháp khác. Tuy nhiên, dựa vào kinh nghiệm lịch sử, người ta tiên đoán rằng những cải tổ tài chính sẽ đi quá xa. Đạo luật Sarbanes-Oxley, ra đời theo sau sự sụp đổ của hai tập đoàn Enron và WorldCom, là một ví dụ điển hình của một phản ứng quá đà. Nếu sự việc lại xảy ra đúng như thế, những hạn chế gắt gao áp đặt lên hệ thống ngân hàng Mĩ và Châu Âu sẽ trì hoãn việc phục hồi những hoạt động mạnh mẽ của ngành tín dụng.
Hoa Kì sẽ bị giới hạn hơn nữa do những thâm thủng ngân sách khổng lồ, hậu quả của những chi tiêu của chính phủ nhằm khắc phục cuộc khủng hoảng tài chính và cũng là hậu quả của nạn sút giảm lợi tức quốc gia do cuộc suy trầm kinh tế. Ở thời điểm này, có vẻ như là, con số thâm thủng của Hoa Kì trong tài khoá bắt đầu vào tháng Mười 2008 sẽ lên tới 1000 tỉ đôla, hơn hai lần con số thâm thủng 450 tỉ đôla của năm trước. Rõ ràng, đây sẽ là thâm thủng ngân sách lớn nhất chưa có một quốc gia nào gây ra trong lịch sử và nó tương đương với 7,5% Tổng sản lượng quốc nội, GDP, của Hoa Kì, một tỉ lệ trước đây chỉ thấy trong hai cuộc thế chiến.
Hậu quả của cuộc khủng hoảng
Hoa Kì và Châu Âu đang lâm vào tình trạng bị hạn chế gay gắt nhất. Một là, cuộc suy trầm kinh tế nghiêm trọng sẽ thúc đẩy các chính phủ này tập chú vào kinh tế trong nước vì dân chúng đòi hỏi các nguồn lực quốc gia phải được tập trung vào việc phục hồi quốc nội. Những ưu tiên của Obama, như được diễn tả trong cuộc vận động tranh cử của ông, rất phù hợp với mô thức này. Nếu vấn đề chưa được tranh luận trong khoá Quốc Hội sắp miễn nhiệm (the lame-duck session) vào cuối năm 2008, hành động chính yếu đầu tiên của Obama trong tư cách tổng thống sẽ là đưa ra các dự án luật kích thích kinh tế. Obama chắc cũng sẽ từng bước làm dịu bớt cuộc khủng hoảng tài chính, chú tâm vào tình trạng nghiệt ngã các hãng sản xuất xe hơi Mĩ, và bắt tay vào nhiệm vụ phức tạp cải tổ chính sách y tế và năng lượng.
Các nhà lãnh đạo Châu Âu cũng sẽ tập chú vào mặt trận quốc nội. Họ cũng sẽ thực thi những chương trình kích thích kinh tế và cố gắng chế ngự những thiệt hại trong khu vực tài chính. Mùa thu vừa qua, Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy và Thủ tướng Ý Silvio Berlusconi đều đã đọc những bài diễn văn nảy lửa nói về việc bảo vệ cho các công ti trong nước khỏi bị các nhóm tư bản nước ngoài mua lại — một thông điệp gần như không phù hợp với kinh tế học hiện đại.
Hai là, những thâm thủng ngân sách chưa hề thấy và những khó khăn trong các hệ thống tài chính cũng sẽ không cho phép Phương Tây lao vào các nỗ lực quốc tế quan trọng. Nếu Obama thừa hưởng 1000 tỉ đôla thâm thủng trong tài khoá này và lâm thời tăng nó lên 1300 tỉ với chương trình kích thích kinh tế, nhất định không còn bao nhiêu nhóm cử tri muốn kêu gọi chính phủ Mĩ gia tăng chi tiêu cho những nỗ lực ở nước ngoài. Thật vậy, quốc gia này có lẽ đang đi vào một thời kì bị kìm hãm chưa từng thấy kể từ [Khủng hoảng Kinh tế] thập niên 1930. Nếu một cuộc khủng hoảng như sự suy sụp kinh tế của Mê-hi-cô năm 1994 tái diễn, không ai còn tin Hoa Kì sẽ can thiệp. Và thậm chí nếu khủng hoảng kinh tế xảy ra trong các vùng quan trọng chiến lược, như Pakistan chẳng hạn, Hoa Kì hay các quốc gia chủ chốt Châu Âu sẽ không còn đứng ra chi viện kinh tế đáng kể. Thay vào đó, IMF sẽ phải gánh lấy trách nhiệm can thiệp chủ yếu.
Trong khu vực tư, các thị trường tư bản Phương Tây sẽ chưa hoàn toàn hồi sức trong nhiều năm tới. Trong một tương lai vô định, các định chế tài chính quan trọng sẽ phải co cụm lại khi các thiệt hại vẫn còn tiếp tục và khi các định chế này cần giảm bớt các sinh hoạt đầu cơ (leverage). Lối phản ứng quá đà tiếp theo sau các cuộc khủng hoảng cũng sẽ làm cho các thị trường ngại rủi ro và không dám vung vít đầu cơ trong tương lai trước mắt.
Trong lịch sử, thị trường tư bản Hoa Kì đã có thời thâm hậu hơn và có khả năng chi trả hơn bất cứ thị trường tư bản nào trên thế giới. Chúng cấu kết nhau để giữ lợi thế qua nhiều thập niên, mãi cho đến khi các thị trường tư bản Châu Âu cũng bắt đầu phát triển nhanh chóng trong vòng 10-15 năm qua. Lúc bấy giờ, phần còn lại của thế giới phải dựa vào thị trường tài chính của Mĩ để có vốn phát triển, và quan hệ này đã củng cố ảnh hưởng toàn cầu của Mĩ. Nhưng từ nay thị trường tài chính Mĩ sẽ cung ứng một lượng tư bản tương đối ít ỏi hơn nhiều trong nhiều năm tới.
Ba là, uy tín kinh tế của Phương Tây đã bị cuộc khủng hoảng hiện nay làm lung lay tận gốc rễ. Điều này có ý nghĩa nghiêm trọng vì qua nhiều thập niên phần lớn ảnh hưởng và quyền lực mềm [ý thức hệ, DG] của Hoa Kì phản ánh sức mạnh tri thức của chủ nghĩa tư bản thị trường nhãn hiệu Anglo-Saxon. Nhưng bây giờ, chính cái mô hình đã giúp đẩy lùi chủ nghĩa xã hội và chủ trương nới lỏng thay vì tăng cường việc điều tiết kinh tế — cái mô hình đã thúc đẩy sự thoát xác của Đảng Lao động Anh, khuyến khích những cải tổ kinh tế ở Đông Âu, và thúc đẩy việc mở cửa Việt Nam trong thập niên 1990 — đang ở dưới một đám mây đen. Hệ thống tài chính của Hoa Kì đang bị nhiều người cho là đã thất bại.
Ngoài ra, Hoa Kì và các quốc gia trong khu vực đồng euro đang sử dụng những biện pháp can thiệp kinh tế trên qui mô lớn mang màu sắc dân tộc chủ nghĩa, những can thiệp có khả năng xoi mòn những lí thuyết về thị trường tự do. Chính phủ Hoa Kì đã mua cổ phần trong hơn 20 cơ sở tài chính lớn và, theo Tổng trưởng Tài chính Henry Paulson, rốt cuộc có thể đầu tư vào “hàng ngàn” cơ sở như thế. Ngoài ra, chính phủ Mĩ còn tạm thời đứng ra đảm bảo món nợ chính của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Pháp, Đức, và Anh thậm chí còn can thiệp rộng lớn hơn nữa, mỗi nước trong một cách thế hơi khác nhau, chẳng hạn ở Đức, chính phủ đảm bảo toàn bộ các trương mục kí gửi ngân hàng của tư nhân. Những can thiệp vào hệ thống ngân hàng của chính phủ Anh, khi đem đo với GDP của nước này, thậm chí còn sâu rộng hơn cả những can thiệp của chính phủ Hoa Kì, khi đem so với GDP của Mĩ. Những can thiệp loại này sẽ chấm dứt khuynh hướng nới lỏng việc điều tiết kinh tế trên toàn cầu. Như Tổng thống Sarkozy đã nói, “Le laisser-faire, c’est fini.” Hay như Phó Thủ tướng Trung Quốc Wang Qishan đã khéo ngoại giao hơn qua câu nói: “Bây giờ các sư phụ lại có vấn đề.” Thái độ này trùng hợp với chuyển động tự nhiên và trường kì của các quốc gia muốn tách rời cái thế giới mà nước Mĩ giữ vị trí trung tâm (the U.S.-centric world), một thế giới được khai sinh sau vụ sụp đổ của Bức tường Bá Linh hai thập niên về trước.
Thắng lợi của Trung Quốc
Chuyển động này cũng phản ánh sự vươn lên nhanh chóng của các nền kinh tế khác, nhất là Trung Quốc và Ấn Độ. Trọng lượng kinh tế của Hoa Kì trong tổng sản lượng thế giới đã giảm 7 năm liền trước khi cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra. Và càng ngày người ta càng thấy rằng GDP của Trung Quốc sẽ vượt quá GDP của Hoa Kì ở một thời điểm nào đó trong vòng 25-30 năm tới. Sức mạnh kinh tế ngày càng lớn của các nước tân hưng (the rising nations) sẽ gia tăng ảnh hưởng toàn cầu và mang lại nhiều cạnh tranh. Hậu quả sẽ là sự xuất hiện của một “thế giới không có cực” (nonpolar world), theo cách nói của Richard Haass, chủ tịch của Ủy ban Nghiên cứu Quan hệ Đối ngoại.
Trung Quốc, chẳng hạn, sẽ bị tác hại ít hơn vì cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu này. Nước này cũng đang kinh qua ít nhiều nỗi đau kinh tế. Thị trường xuất khẩu của Trung Quốc, đứng đầu là Hoa Kì và Châu Âu, đang nhanh chóng khựng lại. Trung Quốc cũng đang chịu đựng những cơn rớt giá trong một số thị trường địa ốc nhất định ở các thành phố. Độ tăng trưởng khựng lại ở mức 9% trong tam cá nguyệt thứ ba năm 2008 — một tốc độ mà nhiều quốc gia đang thèm muốn nhưng vẫn là độ tăng trưởng chậm nhất của Trung Quốc trong vòng 5 năm qua. Những yếu tố này giải thích tại sao lãnh đạo Trung Quốc đang thực thi một chương trình kích thích kinh tế trị giá 500 tỉ đôla, hay khoảng 15% GDP. Dẫu sao, Quĩ Tiền tệ Quốc tế (IMF) vẫn dự kiến rằng kinh tế nước này sẽ tăng trưởng 8,5% trong năm 2009. Về phương diện tài chính, Trung Quốc ít bị ảnh hưởng vì cuộc khủng hoảng tài chính của Phương Tây. Toàn bộ hệ thống tài chính của nước này đóng một vai trò tương đối nhỏ trong nền kinh tế quốc gia, và rõ ràng là Trung Quốc không phải đối đầu với những tài sản thế chấp đang rớt giá trong thị trường địa ốc (toxic assets), thực chất là những món nợ xấu đang làm ngã quị các hệ thống ngân hàng Mĩ và Châu Âu. Các hộ gia đình Trung Quốc để dành khoảng 40% mức thu nhập, một con số làm cho thế giới kinh ngạc. Và danh mục 2000 tỉ đôla của quĩ dự trữ mậu dịch đã tăng thêm 700 triệu đôla năm ngoái, nhờ thặng dư mậu dịch và vốn trực tiếp đầu tư nước ngoài (FDI).
Điều này có nghĩa là mặc dù Trung Quốc cũng bị tổn thương vì cuộc khủng hoảng toàn cầu, nhưng sức mạnh kinh tế và tài chính của nó lại trở nên khỏe hơn so với sức mạnh kinh tế tài chính của Phương Tây. Ảnh hưởng toàn cầu của Trung Quốc nhờ thế mà được gia tăng và Bắc Kinh sẽ có thể lao vào những nỗ lực kinh tế và chính trị trên thế giới nhằm gia tăng ảnh hưởng của mình thêm nữa. Trung Quốc và Hiệp hội các Nước Đông Nam Á (ASEAN) vừa kí kết một thỏa hiệp nhằm tạo ra một vùng mậu dịch tự do lớn nhất thế giới, và Bắc Kinh có thể tiến hành từng bước để hình thành một khối tương lập giữa các nước Châu Á (Asian interdependence) và giữ vai lãnh đạo ngày càng lớn mạnh ở trong vùng. Trung Quốc còn có thể nới rộng quan hệ ngoại giao trong thế giới đang phát triển, để bành trướng mô hình tư bản chủ nghĩa của mình và, tại các nước như Angola, Kazakhstan, và Sudan, để thỏa mãn cơn khát tài nguyên thiên nhiên. Giữa cuộc khủng hoảng tài chính này, Trung Quốc cũng có thể đem tiền ra cho các nước vay khẩn cấp, hoặc trực tiếp, xuyên qua các dàn xếp tài trợ song phương, hoặc gián tiếp, bằng cách tạo thêm một quĩ mới tại IMF nhằm nới rộng tín dụng ra ngoài mức mà các hạn ngạch (quotas) hiện nay cho phép. Người ta cũng dự kiến Trung Quốc sẽ thực hiện những đầu tư chiến lược bằng cách sử dụng quĩ đầu tư nhà nước (sovereign wealth funds). Trong bối cảnh Trung Quốc đang khát tài nguyên, đây có thể là một lãnh vực đáng chú ý; cơ cấu hạ tương đối kém phát triển của Trung Quốc dành cho các dịch vụ tài chính lại là một lãnh vực đáng chú ý khác.
Sự sụp đổ của phần còn lại
Ấn Độ cũng có thể thoát được cơn khủng hoảng tương đối không sây sướt. Ở Ấn Độ, cũng như ở Trung Quốc, hệ thống tài chính chỉ đóng một vai nhỏ trong toàn bộ nền kinh tế quốc gia. Kinh tế Ấn Độ tương đối còn khép kín đối với đầu tư nước ngoài, vì thế nước này ít lệ thuộc vào nguồn vốn từ ngoài vào. Nhiều nhà quan sát thân cận dự kiến kinh tế Ấn độ vẫn tiếp tục tăng trưởng, có lẽ ở mức độ 6,5 đến 7 phần trăm mỗi năm. Nhưng Ấn Độ không có đủ vốn liếng và sự cố kết nội bộ (internal cohesion) như Trung Quốc. Mùa thu vừa qua, chính phủ của Thủ tướng Manmohan Singh suýt thất bại trong cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm của quốc hội và suýt phải giải tán vì những chống đối về thoả ước nguyên tử mà Ấn Độ đã kí kết với Hoa Kì năm 2005. Do đó nhìn chung sẽ thấy, Ấn Độ có thái độ hướng nội và không sẵn sàng bành trướng ảnh hưởng địa chính trị của mình.
Tuy nhiên, phần còn lại của thế giới, rất bị chao đảo vì cuộc khủng hoảng toàn cầu. Những ngân hàng đang bị tổn thất của Phương Tây, trước đây thường xuyên cấp tín dụng cho các doanh nghiệp trong thế giới đang phát triển, nay bỗng đột ngột ngừng cho vay vốn. Khi vốn nước ngoài bị rút ra, đương nhiên tiền tệ, hệ thống ngân hàng địa phương và thị trường chứng khoán vốn đã ở trong tình trạng tồi tệ ngày càng trở nên yếu kém hơn nữa. Các nước Đông Âu, trước đây vốn đã bị thâm thủng ngân sách cực kì lớn và chất ngất nợ nước ngoài, hiện đang đặc biệt thấm đòn. Hungary, Latvia và Ukraine là những trường hợp điển hình rất rõ nét — với Hungary và Ukraine đã vay mượn khẩn cấp từ Quĩ Tiền tệ Quốc tế.
Ở Nga, sự rớt giá của dầu hỏa và các thương phẩm khác đã gần làm suy sụp giá trị đồng ruble và giá cổ phần địa phương. Chính phủ của Tổng thống Dmitry Medvedev đã và đang chi ra nhiều nố khổng lồ, cho đến nay có lẽ đã lên tới 200 tỉ đôla, để chống đỡ giá trị đồng ruble, hệ thống tài chính của Nga, và nhiều xí nghiệp quốc doanh có tính đầu cơ vung vít. Với 500 tỉ đôla hiện có trong quĩ dự trữ mậu dịch, Nga vẫn còn ở trong thế mạnh tài chính ngay cả sau khi thực thi những nỗ lực tiếp cứu này. Tuy nhiên, những biến cố nghiêm trọng này sẽ làm cho Nga khó thực hiện những tham vọng địa chính trị vừa nhem nhúm tái sinh. Trên lí thuyết, điều này có thể giảm bớt sự lạnh nhạt trong quan hệ Nga-Mĩ nếu Obama chịu đưa ra đề nghị trước. Tuy nhiên, trước khi điều này xảy ra, có lẽ Moscow sẽ thử nghiệm đường lối “cứng rắn” mà Thủ tướng Xô-viết Nikita Khrushchev đã sử dụng với Tổng thống Mĩ John F. Kennedy tại Vienna vào năm 1961. Hậu quả của cuộc khủng hoảng này sẽ là nghiêm trọng hơn đối với Iran và Venezuela, những nước này cũng như Nga đang chịu đựng cơn rớt giá dầu hỏa, nhưng khác với Nga ở chỗ là quĩ dự trử mậu dịch của chúng khá bị hạn chế. Kinh tế Iran vốn đã xập xệ và những sức ép bên trong hiện có khả năng gia tăng. Venezuela, quốc gia đã và đang chi tiêu vung vít để xúc tiến chương trình nghị sự quốc tế của Tổng thống Hugo Chávez, đang đối diện với một vấn đề thậm chí nghiêm trọng hơn.
Cần dao giải phẫu chứ không cần mã tấu
Cuộc khủng hoảng lịch sử này nêu lên nghi vấn là liệu có cần đến một đường lối toàn cầu để kiểm soát tiền tệ, ngân hàng và tài chính hay không. Nhiều nhà kinh tế và lãnh đạo hiện đang cổ vũ tái thiết một trật tự mới và kêu gọi triệu tập một loại hội nghị thượng đỉnh như Bretton Woods II [tức Hội nghị Thượng đỉnh G-20 bàn về kinh tế tài chính thế giới tại Washington vào tháng Mười Một năm 2008, DG]. Nhưng việc tạo ra một trật tự tài chính toàn cầu sẽ không thực hiện được. Thị trường tài chính và tiền tệ hiện nay quá rộng lớn và quá mạnh không ai có thể kềm chế được; cái thời quản lí hối suất đã qua rồi. Việc điều tiết tài chính toàn cầu chắc sẽ tạo thêm nhiều vấn đề hơn là giải quyết vấn đề trước mắt, sự thể cũng chỉ vì những cải tổ cần thiết ở Phương Tây lại quá khác những cải tổ mà những nơi khác đòi hỏi.
Một đường lối giải quyết vấn đề hiệu quả hơn là phải tập trung vào một số biện pháp then chốt. Một là, cuộc khủng hoảng này là một cơ hội củng cố và cải tổ lại IMF. Tổ chức này có 250 tỉ đôla để cho vay nhưng không được sử dụng, tuy nhiên cơ sở vốn này kể từ năm 1997 đến nay vẫn chưa được điều chỉnh và có lẽ không đủ lớn để giúp đỡ nhiều quốc gia hiện đang bị khủng hoảng cán cân chi phó và thanh khoản. (Hungary, Iceland, Pakistan, Ukraine, và sáu nước khác đã hoặc đang thương lượng để nhận những gói tài trợ khẩn trương từ IMF.) Tình trạng này cần phải được chỉnh sửa. IMF cũng có thể được điều chỉnh để trở thành linh động hơn. Trong thời gian qua, IMF đặt điều kiện tài trợ cho các quốc gia vay tiền trên nỗ lực thắt lưng buột bụng, chẳng hạn, bằng cách giảm bớt những thâm thủng ngân sách của họ. Việc đặt điều kiện như thế này vẫn còn cần thiết trong trường kì, nhưng với cuộc khủng hoảng tài chính đang diễn ra, IMF đã đi đúng hướng, tiến tới tạm thời đình chỉ việc đặt điều kiện. Ngoài ra, những quốc gia có thặng dư ngân sách cao (high-surplus countries), như Trung Quốc và các nước sản xuất dầu hỏa trong vùng Vịnh Ba Tư, phải được phép có cổ phần lớn hơn trong IMF. Chẳng hạn, một điều hợp lí là phải để cho những quốc gia này đứng đầu bất cứ một quĩ cho vay mới thành lập riêng biệt nào.
Hai là, cơ cấu tổ chức của nhóm G-8 ngày càng trở nên lỗi thời. Của cải và sức mạnh kinh tế của Trung Quốc đòi hỏi rằng, chí ít, quốc gia này phải được thu nhận vào trong nhóm. Ngoài ra, vì tính cách đại diện rộng rãi hơn, cơ cấu tổ chức của nhóm G-20 (19 nền kinh tế quốc gia lớn nhất thế giới cọng với Liên Minh Châu Âu) phải được sử dụng thường xuyên hơn và nhóm G-8 phải được sử dụng ít lại.
Ba là, những đường lối chỉ đạo Base II, tức là những nguyên tắc điều tiết việc cấp tư bản cho các ngân hàng, cần phải được duyệt xét lại. Những nguyên tắc này tỏ ra thiếu sót nghiêm trọng trong việc bảo vệ các ngân hàng chống lại những khủng hoảng quyết toán (balance-sheet crises) đã xảy ra cho chúng. Một đường lối hiệu quả hơn sẽ là tạo ra tư bản gối đệm (capital cushions) cho các ngân hàng trong thời kì thịnh vượng để có thể rút ra sử dụng trong các giai đoạn khủng hoảng. Hoa Kì vẫn còn là một nước mạnh nhất thế giới thêm một thời gian nữa. Nội một mình sức mạnh quân sự của nó cũng đủ đảm bảo viễn ảnh này. Nhưng cuộc suy trầm kinh tế 2008 đã gây tổn thất sâu đậm cho hệ thống tài chính, kinh tế, và tư thế của Mĩ trên thế giới; cuộc khủng hoảng là một trở ngại địa chính trị quan trọng đối với Hoa Kì. Những tiếng hoan của thế giới đón chào việc Obama đắc cử tổng thống có thể làm dịu bớt các hậu quả của cuộc khủng hoảng, nhưng ngay cả sự hồ hỡi nhiệt tình này cũng không thể xoá sạch những hậu quả ấy đi. Sở dĩ vậy một phần vì cuộc khủng hoảng đã xảy ra trùng hợp với những lực tác động lịch sử, những lực vốn đã xê dịch sự tập chú của thế giới xa dần nước Mĩ. Qua trung kì, Hoa Kì sẽ phải hành hiệp từ một diễn đàn thế giới nhỏ bé hơn trước – trong khi các nước khác, đặc biệt là Trung Quốc, sẽ có một cơ may vươn lên nhanh chóng hơn.

Nguồn: Foreign Affairs, tháng Giêng/tháng Hai 2009

Roger C. Altman là Chủ tịch và Tổng giám đốc của Evercore Partner, cựu Thứ trưởng Bộ Tài chính Mĩ trong thời gian 1993-94.