30/7/10

Thế Uyên - Những ý nghĩ của bọt biển (2)

Thế Uyên
Những ý nghĩ của bọt biển
(Thái độ II)


Mười năm văn hoá kiểm duyệt miền Nam

Gần đây trên các tạp chí văn học có một phù trợ dịch thuật những bài tham luận, khảo luận, tự sự, hội thảo, v.v. của những nhà văn Tây phương, nhất là những nhà văn Pháp về các đề tài như: văn nghệ dấn thân hay không dấn thân, văn nghệ là vô bổ vô ích hay có tác dụng đối với xã hội, cái họa siêu hình đối với văn chương ra làm sao, văn nghệ có nên để chính trị theo đuổi hay không, v.v. Tôi theo dõi các bài ấy một cách khá chăm chú vì tò mò muốn xem thiên hạ nghĩ ngợi ra làm sao ở bên Tây, bên Mỹ, bên Tàu. Đôi khi, gặp mặt bạn bè, nếu có người nêu những đề tài ấy ra, tôi thường im lặng đứng ra ngoài cuộc bởi vì đọc những bài ấy để mở rộng thêm kiến văn thì nên, còn đọc chúng để rồi coi những vấn đề nêu ra ấy là những vấn đề của nhà văn Việt Nam thì lại là một lầm lẫn lớn. Lầm lẫn lớn bởi vì thân phận nhà văn Pháp ở giữa Paris trong một quốc gia tân tiến có chế độ tự do ngôn luận và tinh thần thái bình đã lâu không giống một chút nào thân phận nhà văn nhược tiểu Đông Nam Á. Những Grillet, Berger, Sartre, Camus đâu có phải tham dự thứ chiến tranh bi thảm, đâu có phải lo chế độ bị tiêu tan, đâu có nghèo khổ quá mức, đâu có phải chứng kiến cảnh tượng chua xót như… (Tôi xin miễn ghi tiếp bởi vì ghi tiếp thể nào cũng bị kiểm duyệt xóa bỏ. Vả lại, không ghi tiếp đầy đủ, chúng ta, những người Việt Nam, ai cũng biết rõ người cảnh tượng đó là như thế nào rồi).

Nhận xét như trên, tôi thấy rằng ở Việt Nam, vấn đề trọng đại đối với nhà văn không phải là vấn đề viết thế nào, viết để làm gì. Cũng không phải là vấn đề cái họa siêu hình, tiểu thuyết mới tiểu thuyết cũ, tiền chiến hậu chiến. Đối với nhà văn Việt Nam mang thân phận nhược tiểu Đông Nam Á, thực sự ra chỉ có một vấn đề cấp bách thường xuyên và trọng đại là VẤN ĐỀ KIỂM DUYỆT. Và nhà văn Việt Nam chỉ có một ám ảnh, thắc mắc, một vấn đề thực sự là: VIẾT THẾ NÀO ĐỂ KHỎI BỊ KIỂM DUYỆT BỎ.

Tôi không biết các cụ Nguyễn Trãi, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Gia Thiều, v.v. khi sáng tác thơ văn, có bị kiểm duyệt hay không. Tôi mở lịch sử ra đọc, và đọc mờ cả mắt mà không thấy triều đại nào đã thành lập một cơ quan kiểm duyệt. Mới đầu tôi cho rằng nhất định phải có, bởi vì không lẽ gì vào thế kỷ XX, chúng ta có cả một nền văn hóa kiểm duyệt rất phong phú mà lại không có một nguồn gốc truyền thống nào trong bốn ngàn năm văn hiến. Tôi tìm đến một vị thâm nho hỏi tiếp bởi vì tôi cho rằng quá kém chữ Hán, tôi đã không hiểu được những tên chức vụ xưa như Đông các đại học sĩ, Tả tham tri, Hữu tham tri, v.v. Hơn nữa, đọc sử, tôi đã thấy những ông đề đốc đô đốc của Quang Trung đã chỉ huy toàn đơn vị bộ binh, thì suy ra dám có một ông Chánh sự vụ Sở Kiểm duyệt nấp dưới tên một chức vụ như Đô sát Ngự sử Văn đàn chẳng hạn. Sau khi vị túc nho đã xác định là trong suốt lịch sử Việt Nam từ hồi Đinh Bộ Lĩnh cho tới khi Tôn Thất Thuyết xách gươm chạy sang Tàu, nhất định không có chức vụ kiểm duyệt nào, kể cả chức Đa sát (xin lỗi, Đô sát) ngự sử văn đàn, tôi chợt nghĩ ra một điều thực hiển nhiên là: Nếu trong quá khứ đã có những cơ quan kiểm duyệt, thì hẳn chúng ta ngày nay chưa chắc đã có Đoạn trường tân thanh, Chinh phụ ngâm hay Cung oán ngâm khúc. Bởi vì nếu có cơ quan kiểm duyệt, chắc Đoạn trường tân thanh bị cấm phổ biến vì “tả chân” quá, Cung oán ngâm khúc bị cấm vì “xúc phạm đến thuần phong mỹ tục” và Chinh phụ ngâm thì chắc chắn không những bị cấm ấn hành mà thôi, tất cả còn dám bị truy tố ra trước tòa vì tội “làm suy giảm tinh thần chiến đấu của quân đội”. Giả thử Nguyễn Du hay Nguyễn Công Trứ lấy tư cách ông bự, xin lỗi, lấy tư cách đại quan thần trong triều, gây áp lực với quan Đa sát ngự sử văn đàn, có thể những tác phẩm của các ông vẫn được lưu hành với những đoạn kiểm duyệt bỏ cần thiết. Và như thế, trong Đoạn trường tân thanh của chúng ta ngày nay, chắc chắn không còn có những câu như: “Rõ ràng trong ngọc trắng ngà, Dày dày đúc sẵn một tòa thiên nhiên” (Đa sát ngự sử văn đàn phê: “tả chân”, “khiêu dâm”) và trong Chinh phụ ngâm không còn có những câu “Bước đi một bước lại vin áo chàng”. (Đa sát ngự sử văn đàn phê: Tiễn chồng đi thi hành bổn phận quân đội gì mà lại thê thảm vậy, viết thế là “hại tới tinh thần chiến đấu của quân đội”). Càng nghĩ lại quá khứ, tôi càng mừng cho nền văn học, nếu không có ngày nay chúng ta còn gì? Vậy tôi tin rằng những người thường chê trách các cụ nhất, đến đây chắc cũng phải nghiêng đầu bái phục sự sáng suốt của tiền nhân bởi vì tiền nhân đã hiểu rằng văn hóa không thể đi đôi với chế độ kiểm duyệt.

Lịch sử đã chứng tỏ rõ khi Việt Nam còn độc lập, chúng ta không có cơ quan kiểm duyệt. Vậy có thể suy luận dễ dàng rằng chế độ kiểm duyệt hiện nay chỉ xuất hiện kể từ khi quốc gia này đi vào vòng nô lệ ngoại bang và nó thiết yếu gắn liền với sự nô lệ của dân Việt dưới một chế độ có hình thức cai trị khác nhau. Cơ quan kiểm duyệt đầu tiên của Việt Nam dĩ nhiên do người Pháp thiết lập. Tôi không được đọc những văn kiện căn bản quy định tổ chức điều hành và nhiệm vụ của cơ quan này nên không hiểu rõ thực sự người Pháp muốn gì. Nhưng căn cứ trên những sự kiện thực tế, tôi thấy người Pháp trọng văn hóa và vì thường rêu rao họ tới “khai hóa” dân Việt, do đó chế độ kiểm duyệt của họ trung bình không lấy gì làm khắt khe. Đôi khi còn có những thời kỳ thật cởi mở, người cầm bút là người đừng xúi dân nổi dậy chống chính quyền bảo hộ. Còn ngoài ra muốn viết gì thì viết tùy ý. Lắm khi, họ còn không cấm cả những cuốn đề cao con người cách mạng chống Pháp – bằng cớ là những cuốn như Đôi bạn, Đoạn tuyệt của Nhất Linh, v.v. đều ấn hành dưới thời Pháp thuộc.

Theo ý tôi, chính vì sự hiểu biết và chính sách cởi mở của các cơ quan kiểm duyệt dưới thời Pháp thuộc, dân Việt đã có một thời kỳ sinh hoạt văn hóa phong phú từ 1925 tới 1945. Dù không ưa gì người Pháp, tôi cũng phải ghi nhận rằng nhờ sự tử tế này, chúng ta mới có văn học sử cận đại đáng kể. Đọc đến đây, nhiều người có tinh thần bài Pháp hơn tôi chắc không đồng ý. Nhưng nếu những người đó làm một thí nghiệm giả tưởng là đem một vài tác phẩm của văn chương tiền chiến đưa ra kiểm duyệt theo các tiêu chuẩn hiện nay, họ sẽ đổi ý kiến. Cuốn Hồn bướm mơ tiên chẳng hạn, chắc chắn không thể được phép in vì nội dung thuật lại một tình duyên có tính cách ép liễu nài hoa dưới bóng từ bi của Phật tổ – nhân viên kiểm duyệt sẽ bôi bỏ. Cuốn Giông tố của Vũ Trọng Phụng chắc sẽ được truyền tay nhau đọc để rồi cũng bôi bỏ trọn cuốn vì nội dung “phương hại tới nền đạo đức truyền thống của dân tộc”. Cuốn Số đỏ cũng bị cấm không những vì cùng lý do trên, còn thêm lý do đả phá giai cấp thống trị. Nói một cách giản dị, một nhà văn như Vũ Trọng Phụng chắc chắn không thể ra mắt dân chúng và thành danh dưới chế độ hiện nay. Tôi đã một lần tình cờ tìm được hai cuốn kể trên ấn bản thời Pháp thuộc, đem so với những ấn bản mới phát hành gần đây tôi đã thấy cơ quan kiểm duyệt hồi tố nhiều đoạn trong ấn bản sau. Một giáo sư bạn tôi khi biết truyện này đã thốt ra một tiếng thở dài: “Cũng may là mấy ngài kiểm duyệt còn thương các cụ, đã buông tha cho các tác phẩm của thế kỷ XIX…”.

Sau khi người lính viễn chinh Pháp cuối cùng xuống tàu hồi hương, có một cơ quan do chính quyền bảo hộ để lại được chính phủ đầu tiên Việt Nam Cộng hòa nâng niu quý trọng nhiều nhất là cơ quan kiểm duyệt. Điều đó thực dễ hiểu vì thành phần lãnh đạo mới đa số là cựu quan lại và phong kiến cũ – những người đã từng bị nhà văn nhà báo tố cáo sự thối nát nhũng lạm ngay từ dưới thời Pháp thuộc. Do đó, các quan Tuần vũ, quan Huyện, quan Phủ, quan Đốc phủ sứ, v.v. ngay sau khi lên được địa vị chủ nhân ông nước Việt Nam, đã liên kết với nhau để thẳng tay triệt hạ sinh hoạt văn hóa – họ hy vọng làm im được tiếng nói của dân chúng biểu lộ qua các tác phẩm và báo chí, họ sẽ vĩnh viễn giữ được “triều đình mới”. Họ đã không thành công trong việc duy trì “triều đình” quá 10 năm, nhưng đã thành công trong việc làm tê liệt các sinh hoạt văn hóa và tạo ra cả một MƯỜI NĂM VĂN HÓA KIỂM DUYỆT MIỀN NAM.

Trước khi viết văn, tôi đã từng nghe thấy tiếng kêu la của nhiều nhà văn về sự khắt khe thiếu hiểu biết của Kiểm Duyệt. Và tôi va đầu vào bức tường kiểm duyệt ngay từ truyện ngắn đầu tiên. Nhất Linh khi còn chủ trương Văn Hóa Ngày Nay, nói: “Truyện cháu viết được nhưng kiểm duyệt không cho đăng đâu…”. Từ ngày ấy cho tới nay, mỗi khi cầm bút viết, tôi đều bị ám ảnh bởi một câu hỏi: “Làm sao đây cho khỏi bị Kiểm Duyệt bỏ?”. Theo lời khuyên của nhiều người giàu kinh nghiệm, tôi tránh viết những bài khảo luận bởi vì chế độ Diệm sẵn lòng cho nói chuyện văn chương chính trị bên Phú-lãng-sa, bên Mỹ, bên Brésil nhưng lại rất kỵ việc người cầm bút quốc nội đưa những ý kiến, bàn tới những lý thuyết đi ra ngoài khuôn khổ “Cần lao Nhân vị”. Nhưng rút lui vào địa hạt sáng tác cũng không xong bởi vì trong địa hạt này cũng có nhiều cấm điều. Chẳng hạn như muốn rủa Thượng Đế một câu cũng khó, muốn viết một chút về quân đội cũng không xong. Viết truyện tình cũng không yên thân vì Phủ Tổng Thống đã ban chỉ thị xuống cho các nhân viên kiểm duyệt biết chỉ cho phép yêu như thế nào. Tôi có một thời kỳ nhận thấy cứ tả hôn môi là bị bỏ nên đành viết đến chỗ chàng-bắt-đầu-cúi-xuống hay nàng-bắt-đầu-ngửng-lên là ngừng. Một thời kỳ khác tôi nhận thấy nhân vật cấm không được bàn cả đến vấn đề trinh tiết. Xoay sang viết về chiến tranh Việt-Pháp trước 1954, cũng bị Kiểm Duyệt bôi xóa… Có lần bực tức quá, tôi nghĩ: “Thôi, có lẽ cũng đành nghỉ viết cho rồi!”. Tôi đã nghỉ viết một thời gian khá lâu và khi bắt đầu lại, mỗi khi cầm bút lại tự nhủ: “Cứ viết để đấy, viết cho độc giả năm năm sau…”.

Nhưng chế độ của hai ông Nhu – Diệm đã sụp đổ sớm hơn lòng mong mỏi. Lợi dụng khí thế cách mạng những tháng đầu, tôi vội vàng cho đăng những truyện đã chuẩn bị sẵn. Nhưng thời kỳ cởi mở qua rất nhanh ............................ [1] Các sáng tác của tôi đã bắt đầu xuất hiện trên các báo với các vết đen ô nhục hay các khoảng trắng mỹ thuật. Nhưng tôi chưa chán nản như dưới thời Nhu Diệm dù bị va đầu vào một loạt cấm điều mới: cấm đả kích Viện Hoá Đạo, cấm đả kích Thiên chúa giáo, cấm tố cáo những xấu xa của nhà cầm quyền, cấm phê bình chính sách của chính phủ, cấm nói động tới các tướng lãnh ........................... [2] .

Tôi chưa chán nản bởi vì một buổi đi làm về tới nhà biết tin một người em họ khá thân vừa bị Việt cộng bắt không biết sống chết thế nào, tôi chợt hiểu một điều là tôi và các bạn tôi cần phải có bổn phận phải tiếp tục cuộc chiến đã mở trên địa hạt văn hóa ít nhất cũng bởi vì nếu miền Nam mất vào tay cộng sản, chúng tôi sẽ chịu cùng số phận với người em họ kia – chứ đâu có thể đáp phi cơ đi ngoại quốc sống ung dung như những vị đang tưởng rằng chỉ cần dollar và súng đạn là thắng được kẻ thù.


Văn hoá trong chiến tranh Việt Nam

Tại các nước có truyền thống dân chủ như Pháp, Anh, Hoa Kỳ, v.v. những người cầm bút thường được sử dụng ngòi bút của mình theo lương tâm của chính họ và dư luận quần chúng. Vì thế, những nhà văn nhà báo tại các nước Tây phương này có thể được coi như phát ngôn viên cho nguyện vọng nhân dân mọi tầng lớp trong xã hội. Cũng vì thế, dân mua báo, mua sách và kết quả là những người cầm bút có một mức sống khá cao và nguồn lợi tức không lệ thuộc vào chính quyền. Trong những điều kiện ấy, văn hóa (trong đó báo chí là một bộ môn) có thể coi như sinh hoạt và phát triển trong một chính sách văn hóa tạm gọi là TỰ DO. Quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận trở thành một thứ quyền thứ tư sau quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Những người hành xử thứ quyền thứ tư này được cả chính quyền lẫn dân chúng tôn trọng.

Tại các nước theo xã hội chủ nghĩa như Nga Xô, Ba Lan, Trung Cộng, Bắc Việt, v.v. những người cầm bút phải sử dụng ngòi bút của mình theo chỉ thị của đảng và giới hạn trong chính sách của đảng từng thời kỳ. Vì thế, họ không phải là phát ngôn viên cho dân, mà là phát ngôn viên cho đảng. Cũng vì thế dân ít mua sách, báo và cũng vì vậy, đảng phải bao dưỡng nhà văn qua cơ quan trung gian và thừa hành là Chính phủ, và hậu quả là nhà văn có mức sống khá cao và nguồn lợi tức hoàn toàn lệ thuộc vào chính quyền. Trong những điều kiện ấy, văn hóa có thể coi như sinh hoạt và phát triển trong một chính sách văn hóa tạm gọi là CHỈ HUY. Quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận bị tiêu diệt hay hạn chế tối đa và những người cầm bút được chính quyền đối xử như những cán bộ đặc biệt và đãi ngộ xứng đáng. Còn người dân thì thờ ơ.

Như vậy, xét về phương diện thuần túy vật chất và quyền lợi, người cầm bút trong chế độ dân chủ hay chế độ vô sản chuyên chính, đều được trọng đãi – dĩ nhiên trong những điều kiện khác nhau. Còn tại Việt Nam và tại những quốc gia cùng mang thân phận nhược tiểu Á Phi, chính sách văn hóa là gì và những người cầm bút được đối xử và đãi ngộ ra sao?

Nói tới chính sách văn hóa, cần phải tìm hiểu xem chính quyền ở Việt Nam, từ khi cựu hoàng Bảo Đại về nước làm Quốc trưởng cho tới gần đây, do thành phần xã hội nào nắm giữ – bởi vì quan điểm văn hóa biến đổi tùy theo tầng lớp xã hội. Điều hiển nhiên, nhưng cho tới giờ chưa ai nói ra, là các chính phủ quốc gia kế tiếp nhau 10 năm nay tại miền Nam Việt Nam đều là do thành phần cựu quan lại và phong kiến phối hợp với nhau nắm giữ. Đã là cựu quan lại và phong kiến, tất nhiên họ phải có một chủ trương tiêu diệt hay cản trở mọi phát triển hay sinh hoạt văn hóa, bởi vì yếu tính của văn hóa từ sau 1930 thường chống lại yếu tính của giai cấp phong kiến và quan lại. Hậu quả là để duy trì địa vị thống trị của mình, quan lại và phong kiến đưa ra một chính sách văn hóa tạm gọi là ngu-hóa-quần-chúng. Chính sách này trên thực tế được biểu lộ bằng những khía cạnh sau:

- Một chính sách kiểm duyệt khắt khe: Nói chung, quan lại và phong kiến cũ không cho phép ấn hành một nhận định, quan điểm, biên khảo, không cho phép xuất hiện một khuynh hướng hay trường phái tư tưởng nào xét ra có hại trực tiếp hay gián tiếp tới địa vị thống trị của họ.

- Một chính sách bế quan tỏa cảng tinh thần: Các sách báo ngoại quốc chỉ được nhập nội sau những biện pháp ngăn chặn khắt khe. Không những tất cả những cuốn sách nào có nội dung hay đề tài về thế giới cộng sản bị cấm, hàng rào “quan thuế văn hóa” còn cản cả những cuốn có nội dung đi ra ngoài khuôn khổ chính trị chính quyền đã ấn định.

- Một chính sách văn hóa vị chính quyền: Chỉ nâng đỡ hay ưu đãi những người làm văn hóa nào hoặc chịu suy tôn chính quyền hay ít nhất cũng chịu im lặng phục tòng. Bỏ rơi, lơ là mọi hoạt động văn hóa thông thường mà một quốc gia trung bình phải tìm cách nuôi dưỡng, phát triển không ẩn ý chính trị nhất thời.

Chính sách văn hóa (xin tạm gọi như thế) của chính quyền miền Nam Việt Nam trình bày trên, đã được áp dụng tối đa dưới sự kiểm soát của Cố vấn Ngô Đình Nhu. Và hiện nay, dù ông Nhu đã chết, và dù có vài cởi mở đáng kể, miền Nam vẫn còn được thụ hưởng những điểm chính yếu của thứ chính sách trên.

Hiện nay có nhiều người trách ông Ngô Đình Nhu đã chỉ nghĩ tới địa vị cá nhân và dòng họ, đã quá chú trọng tới chính trị giai đoạn, v.v. nên đã không để văn hóa dân tộc phát triển – và như thế là làm hại tới một sinh hoạt có tính cách trường cửu của cộng đồng xã hội. Những vị này – cho tới nay vẫn nắm giữ những địa vị then chốt trong chính quyền, khi trách chế độ cũ như vậy, có ẩn ý cho rằng văn hóa không có ích cho việc tranh đấu chống Cộng hay việc tranh đấu nói tổng quát. Và ông Ngô Đình Nhu như vậy xét ra cũng có điểm có thể “thông cảm”, v.v.

Sự thực không phải như thế. Sự thực có lẽ chính những vị nghĩ như vậy đã bị ông Nhu, giai tầng phong kiến và trí thức vong bản phóng thể (tạm dịch chữ aliéné) mà không biết. Hơn nữa, chính một số trí thức không vong bản còn tự phóng thể lấy mình bằng cách chấp nhận không xét lại những lập luận của các nhà văn Pháp về sự không có giá trị chiến đấu của văn hóa. Những bài dịch thuật tham luận, khảo luận của các nhà văn Pháp về đề tài: “Que peut la littérature” xuất hiện khá nhiều ở Việt Nam gần đây chứng tỏ. Ít có ai đặt vấn đề lại như sau: Nước Việt Nam nhược tiểu Á Phi với một chiến cuộc 25 năm không phải là nước Pháp.

Những người chấp nhận luận cứ văn hóa không có giá trị chiến đấu có bao giờ đặt câu hỏi tại sao các nước cộng sản không những tiêu diệt văn hóa mà lại còn trọng đãi các nhà văn? Đặt câu hỏi này rồi, vấn đề đặt ra kế tiếp sẽ là: Chính quyền cộng sản ưu đãi nhà văn là tại họ trọng văn hóa, yêu chuộng nghệ thuật hay là vì tại các nhà văn chính là những cán bộ rất hữu ích và văn hóa chính là một thứ vũ khí lợi hại của chính quyền vô sản chuyên chính?

Mở các thánh thư của các đấng tổ phụ của chủ nghĩa cộng sản ra đọc, tìm hiểu mọi nguyên tắc căn bản quy định cơ cấu tổ chức và sinh hoạt điều hành của các chế độ cộng sản, thấy có một sự kiện hiển nhiên nữa là không có một khoảng đất nào dù nhỏ và khuất nẻo tại các nước “xã hội chủ nghĩa”, các cán bộ cộng sản lại chịu chấp nhận một người ăn rồi ngồi làm những việc vô ích theo quan điểm về lao động của họ. Vậy khó có thể chấp nhận luận cứ cho rằng cộng sản ưu đãi nhà văn (dĩ nhiên là những nhà văn không đi ra ngoài khuôn khổ Đảng đã ấn định) chỉ vì họ trọng nghệ thuật, yêu chuộng người cầm bút. Làm một suy luận đơn giản, sẽ thấy rằng cộng sản ưu đãi nhà văn, chú trọng tới sinh hoạt văn hóa, chính bởi vì các người cầm bút là những cán bộ tốt và sinh hoạt văn hóa là phương tiện tốt cho việc duy trì chế độ xã hội tại quốc nội, phát triển chủ nghĩa và chế độ xã hội tại quốc nội, phát triển chủ nghĩa và chế độ tại quốc ngoại. Nói một cách đơn giản coi như một vũ khí chiến đấu có hiệu năng ưu hạng. Vấn đề kế tiếp đặt ra là tại sao văn hóa lại được các lãnh tụ cộng sản coi như là một vũ khí chiến đấu có khả năng ưu hạng.

Trái với các ngộ nhận của người không cộng sản, chiến trường chính và đối tượng của sách lược cộng sản là Ý THỨC CON NGƯỜI. Đọc đến đây nhiều người sẽ không đồng ý bởi vì cho rằng cộng sản “chúng nó vô thần”, “chúng nó duy vật”, v.v. tất không thể chú trọng tới một cái gì “dính dáng tới tinh thần”. Sự thực ngược hẳn lại. Người cộng sản thắng chúng ta nhiều hiệp chính vì họ đã hiểu rằng chiến thắng tùy thuộc Con Người và Sự Chinh Phục Được Ý Thức Con Người. Năm 1938, Mao Trạch Đông, khi ấy còn ở mật khu đối phó với hai kẻ địch Nhật Bản và Quốc dân đảng Trung Hoa, đã viết như sau: “Trong một cuộc chiến tranh, vũ khí là một yếu tố quan trọng nhưng không phải là yếu tố quyết định. Yếu tố chính là người chứ không phải là vật. Tương quan giữa các lầm lẫn không phải chỉ được xác định là do tương quan giữa những sức mạnh kinh tế và quân sự mà cũng còn do tương quan giữa những tiềm lực nhân sự và tinh thần con người. Để điều khiển những sức mạnh quân sự và kinh tế, phải cần đến con người” (trích Trường kỳ kháng chiến). Hai mươi năm sau đại tá Ch. Lacheroy, chỉ huy Sở Tác động Tinh thần Bộ Quốc phòng Pháp, tuyên bố trong một hội nghị: “Ở Đông Dương cũng như Trung Hoa, cũng như ở Triều Tiên và tại các nơi khác nữa, chúng ta nhận thấy rằng kẻ mạnh nhất dường như đã bị đánh bại bởi kẻ yếu nhất. Tại sao vậy? Tại vì những tiêu chuẩn chúng ta dùng để đánh giá các lực lượng cho tới lúc này, những tiêu chuẩn cổ truyền ấy, chúng đã bị đào thải rồi. Chúng ta phải đối diện với một hình thức chiến tranh mới, mới trong ý niệm và mới trong áp dụng. Đấy là cái hình thức chiến tranh mà chúng ta gọi là chiến tranh cách mạng”.

Nói đến Ý Thức Con Người, lại sẽ có nhiều người thắc mắc: “Làm sao chống lại, làm sao diệt được ý thức hệ cộng sản?”. Những người thắc mắc này cho rằng ý thức hệ cộng sản phát sinh từ vô sản nông công, yếu tính của vô sản nên khó có cách gì hủy diệt được. Để giải đáp thắc mắc này, bây giờ nếu tôi, người viết bài, nói rằng vô sản công nông chẳng có ý thức quái gì hết, chắc những thắc mắc trên không ai chịu tin. Do đó, để đơn giản vấn đề, xin trích dẫn sau đây một đoạn, vẫn do chính Lénine viết từ 1902 trong cuốn Que faire?: “Còn về chủ nghĩa xã hội, nó thoát thai từ những lý thuyết triết học, lịch sử kinh tế do những đại biểu học thức của tầng lớp có của, do những người trí thức. Những người sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học hiện đại, Marx và Engel, đều là những trí thức trưởng giả xét theo địa vị xã hội của họ… Ý thức chính trị về giai cấp chỉ có thể mang đến cho những thợ bên ngoài, nghĩa là bên lề tranh đấu kinh tế và ở ngoài những tương quan chủ và thợ. Vậy ai đem ý thức chính trị về giai cấp đến cho người thợ, người vô sản? Những người trí thức ở tầng lớp khác”. Như vậy, những người trí thức đã đem ý thức chính trị (ý thức hệ cộng sản) đến cho công nông, nghĩa là đã tạo ra cách mạng vô sản và chế độ cộng sản, thì người trí thức cũng có thể tiêu diệt ý thức hệ cộng sản, hay mang lại cho người thợ, người nông phu một Ý THỨC HỆ MỚI chống lại hoặc phá hủy được chế độ cộng sản. Tất cả những điều đó thực hiện bằng gì? Dĩ nhiên không phải chỉ bằng dollar và súng đạn. Hiển nhiên là bằng cái mà những người không cộng sản thường gọi là VĂN HÓA và những người cộng sản thường gọi là TUYÊN TRUYỀN (hiểu theo định nghĩa của Trường Chinh: “Tuyên truyền thực hiện đến tuyệt đích là văn hóa”).

Xét như vậy, văn hóa nếu biết sử dụng nó, là một vũ khí chiến đấu có mục tiêu là chinh phục con người và ý thức con người. Vấn đề bây giờ là không nên nói thêm về phía địch, những kẻ đã đạt tới mức thượng thừa trong việc sử dụng văn hóa như một vũ khí, chỉ nên xét về phía chúng ta từ sau tháng 7.1954, và nhất là từ sau 1.11.1963, xem các chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã làm được những gì trong địa hạt này. Và vấn đề tương lai là làm sao trong một tương lai không xa lắm, tại một phòng họp tại Pentagone, thống tướng Westmoreland đừng phải nhắc lại câu nói của đại tá Ch. Lacheroy:

“Ở Đông Dương cũng như ở Trung Hoa, cũng như ở Triều Tiên và các nơi khác nữa, chúng ta nhận thấy rằng kẻ mạnh nhất dường như đã bị đánh bại bởi kẻ yếu nhất. TẠI SAO VẬY?”.


Quảng Ngãi tháng Mười

Quảng Ngãi có lẽ là thị trấn độc nhất có bãi cát ven sông tương tự Hà Nội ở miền Nam sông Bến Hải. Nhiều lần nhìn qua cửa phi cơ, thấy bãi cát lớn trắng chói êm ả, tôi đã ao ước sẽ có lúc được đặt chân lên nó vào một mùa lạnh nào đó. Bây giờ mới cuối tháng 10, khí hậu chưa lạnh nên tôi, trong suốt thời gian lưu lại tại tỉnh này, vẫn không thực hiện được cái thú ngày xưa, cái thú vị nghe gió rít quanh tai và tiếng cát khô cứng dưới gót giầy.

Thị trấn Quảng Ngãi cuối tháng Mười nắng chói chang, gay gắt trên gáy, bụi trắng bay từng lớp. Mùa mưa năm nay tới chậm. Người dân địa phương đã nói với tôi: “Trời không mưa mau, lấy nước đâu mà cấy. Mạ đã già cả rồi…”. Bắt chước dáng điệu người đối thoại, tôi cũng ngẩng đầu nhìn trời và cũng thoáng lo âu – một thứ lo âu của một người không ở trong mối tai họa đang đe dọa. Năm ngoái lụt, rồi chiến dịch lớn của Việt cộng, chiến dịch của ta, bây giờ nếu thêm nạn hạn hán, thì quả thật người dân tóc bạc này nói đúng: “Trời không thương dân nghèo miền Trung”.

Người dân Quảng Ngãi nói chung khác hẳn những người dân Sài Gòn. Hơn mười tháng trời phục vụ tại thủ đô, tôi đã quá quen với những thái độ chán chường tiêu cực, những hành động hư không, những thứ tranh đấu không liên tưởng và không cả nhiệt tình, v.v. nên khá ngạc nhiên khi biết rõ những người dân xứ Nam Ngãi. Ở nhiều nơi cát trắng chói đất cằn này, con người dứt khoát hơn với cuộc đời và những người đồng loại. Không có những vị trí mơ hồ, không có những hiệp hội đoàn thể, chơi với ai cũng được và thực ra chẳng chơi với ai hết. Bất cứ người dân nào đến tuổi đi bầu tại Quảng Ngãi, đều gần như đã chọn một lập trường chính trị.

Hoặc họ là Việt cộng, hoặc họ là Việt Quốc… Mà đã Cộng thì là thứ cộng trung kiên, và đã Quốc thì cũng quốc tới hai ba đời. Và ngay trong nội bộ Việt Quốc, ai đã thuộc hệ phái A thì nhất định là A, ai thuộc hệ phái B thì khăng khăng là B. Nơi đây chiến tranh quốc cộng mang hẳn một hình thái cá nhân, một thứ thù truyền kiếp. Đêm nay Cộng về giết hay mổ bụng hay chôn sống một bí thư xã Việt Quốc, thì ngày mai căn nhà của anh chàng chỉ huy vụ ám sát đêm trước sẽ bị đốt ra tro. Việt Quốc thù hằn Việt cộng và ngược lại. Và con người thật là nóng bỏng như thứ nắng chói chang đang chiếu đến nỗi rằng du kích cộng địa phương đã chôn sống cả tới những vợ con cha mẹ đối thủ khi họ thắng thế vào mùa mưa vừa qua. “Giết được một Việt Quốc bằng giết mười chính quy” là khẩu hiệu của Việt cộng nơi địa phương này.

Làng ta ta về… Trong phòng khách của tòa tỉnh, người thiếu úy bí thư thẳng thắn trả lời câu hỏi của tôi: “Mấy tháng trước, chúng ta chỉ còn giữ được thị trấn và vùng phi trường. Chính vì thế tỉnh chúng tôi mới phát động chiến dịch về làng”. Một thiếu úy khác vạch ba nét tượng trưng cho sông Trà Khúc, sông Vệ và bờ biển, giới hạn ranh giới khu vực chiến dịch về làng đã thành công.

Anh nói: “Chúng tôi đã đưa được dân hai xã về lấy đất hai xã đông nhất trong tỉnh. Trong tháng tới, hy vọng sẽ sang miền phía Nam sông Vệ”. Ngày hôm sau, mượn xe Jeep của sư đoàn, lấy khẩu colt của Duy Lam, tôi nhờ một người bạn giáo sư địa phương đưa về thăm miền ngoài thị trấn. Sau khi vượt dăm ba cây cầu tạm (cầu cũ đã bị Việt cộng phá hủy), rẽ vào con đường đất rộng đủ vừa bốn bánh xe; khung cảnh đột nhiên trở thành quen thuộc. Những ruộng nhỏ có bờ đất, những con đường làng sát cạnh các lũy tre – hình ảnh của quê hương ngoài Bắc. Dừng chân ở một ấp, một trưởng đoàn công tác của chiến dịch về làng nói với tôi qua ly trà nóng bỏng: “Sao thượng cấp không chịu phát cho chúng tôi súng lớn để giữ làng?”. Tôi lảng tránh câu trả lời dù rằng phát súng cho họ là đưa họ vào đất chết. Có trung liên đại liên những người dân sẽ chiến đấu đến cùng giữ mảnh đất riêng và trong nhiều trường hợp, họ sẽ không đủ sức chống chủ lực địch. Thà để đánh bằng lựu đạn và carbine để rồi phải phân tán mỗi khi địch về đông. Khi cho xe chạy qua một cây cầu dẫn sang quận Mộ Đức bên kia sông Vệ, tôi hơi ngập ngừng vì vùng này, theo lời dặn dò của người thiếu úy, khá thiếu an ninh cho một chiếc xe Jeep và khẩu súng 6 viên đạn. Nhưng khung cảnh quá đẹp làm tôi tiếp tục cuộc hành trình tìm tới một đoàn chiến dịch về làng đang công tác sát biển. Các cồn cát, hàng phi lao bắt đầu xuất hiện nhiều.

Sau khi ra khỏi một làng, cảnh sông và bãi cát dưới nắng đẹp rõ từng nét gần như bất động. Người hướng dẫn chỉ tay bên kia sông, nói: “Quê ngoại tôi ở trong làng kia…”. Nhìn cảnh người bạn ngồi cạnh, nghĩ tới các người dân lúc nào cũng tranh đấu chính trị miền này, tôi không chặn nổi một câu hỏi vẩn vơ: “Quê hương các anh đẹp thế, đáng lẽ phải sản xuất thi sĩ nhiều mới phải…”. Người bạn cười chỉ cất tiếng nói khi xe len lỏi vào trong một khu vực toàn nhà đổ nát, toàn những cột cháy đen: “Tụi Cộng tấn công hồi đó đấy!”. Khi tới gần sát biển, tại thôn An Chỉ, một thiếu úy than thở với tôi: “Anh đừng ngạc nhiên khi thấy tôi không đeo súng. Đeo, tôi sợ dám bắn chết cán bộ dân chính ba gai lắm. Số ba gai tí thôi, nhưng bực lắm! Hai trung đội B K của tôi nằm sương phơi nắng ngoài những cồn cát kia giữ an ninh, các ông cán bộ ba gai lại tà tà, chịu sao nổi!”. Bữa cơm thô sơ đã dọn ra vì tôi, vì lý do có buổi họp gần kề, rất tiếc không ở lại được để cùng chia sẻ, với những người đang vì dân chúng đứng đầu gió miền ven biển đất cằn.

Những Thanh niên Quảng Ngãi trong Ban Chấp hành của lực lượng thanh niên cách mạng, một đoàn thể tư bao gồm hơn 1.500 đoàn viên, đều rất trẻ.

Đa số dưới 25 tuổi. Họ liên tiếp trình bày về những hiện tượng thối nát tại địa phương, và sau mỗi sự kiện, họ lại hỏi một câu: “Sài Gòn có biết không?”. Tôi tránh né một câu trả lời dứt khoát vì trả lời “có” cũng kẹt mà trả lời “không” còn kẹt hơn. Không gian trong phòng họp đầy nghẹn ngào, đầy uất ức. Tôi cố giữ khỏi bị chìm đắm vào tình tự ấy. Và tôi đã thành công nếu không phải biết tới chuyện những bao gạo, bao cá khô, hũ nước mắm mà chính tôi, với tư cách một hộ tống viên, đã mang ra sau cơn lụt tới miền này.

Trở dậy từ 4 giờ sáng, cài chiếc bi đông nước vào thắt lưng (ngồi cả ngày trên phi cơ và hộ tống viên ít khi được phi hành đoàn cho uống nước) phóng xe tới cơ quan theo xe thực phẩm ra phi trường để rồi khi tối mờ mịt mới đặt chân mệt lử xuống Sài Gòn.

Tôi đã cứ tưởng như thế đã góp một phần nhỏ bé giúp dân cho tới lúc này, khi biết những liên tục cứu trợ ấy đã lạc đi nơi nào hầu hết trước khi tới tay người dân khốn khổ.

Khi rời phòng họp, trời đã về chiều nắng đã bớt chói trên cát nhưng tâm hồn tôi vẫn nóng bỏng. Nóng bỏng bởi những người thanh niên này đã đặt quá nhiều tin tưởng vào tôi và cơ quan tôi hiện đang phục vụ, khi tôi biết rằng, với tất cả nỗ lực và thiện chí cá nhân những nguyện vọng của họ chưa chắc đã được thỏa mãn.

Mà nguyện vọng của họ – những người trẻ tuổi kết hợp với nhau dưới đoàn kỳ gồm tới 7 ngôi sao trên nền đỏ ấy, có là gì đâu. Họ chỉ mong được giúp đỡ phương tiện để hoạt động xã hội (số tiền trợ cấp của chính quyền địa phương không nhiều) và nếu có thể được làm những kẻ trung gian chuyển những giúp đỡ của trung ương và các nước bạn tới tận tay người dân thụ hưởng.

Chỉ muốn giúp dân như thế cũng khó – khó bởi vì giả thử có quá nhiều người thiện chí thanh liêm thì những kẻ tham nhũng ở cái quốc gia này biết ăn chận để làm giàu vào đâu. Nghĩ như thế là bi quan quá chăng? Chưa chắc!



--------------------------------------------------------------------------------
[1]Đoạn bị kiểm duyệt (chú thích của talawas)
[2]Đoạn bị kiểm duyệt (chú thích của talawas)
Nguồn: In xong tại nhà in Nam Sơn, 36 Nguyễn An Ninh, Sài Gòn, ngày 10-5-1966. Nam Sơn xuất bản.

Thế Uyên - Những ý nghĩ của bọt biển (1)

Thế Uyên
Những ý nghĩ của bọt biển
(Thái độ II)


Tất cả những đoạn văn sau đây chỉ là những ý nghĩ biểu lộ thái độ của một người trẻ tuổi chấp nhận cuộc chiến tranh hiện tại cùng tất cả những khốn khổ của thân phận làm dân một nước nhược tiểu. Hắn không hề nghĩ rằng những ý nghĩ cùng thái độ của hắn là đúng nhất bởi hắn không phải là một nhà đạo đức hay một quan tòa. Cùng lắm, hắn cho rằng bất quá hắn đã chỉ làm công việc của một chứng nhân – một chứng nhân trong cuộc.
Thế Uyên
Mục lục

Ý nghĩ vẩn vơ
Lời giảng chót gửi học trò cũ
Những bàn tay không
Những người bơ vơ
Trương Vô Kỵ
Mười năm văn hóa kiểm duyệt miền Nam
Văn hóa trong chiến tranh Việt Nam
Quảng Ngãi tháng Mười
Lương đống
Hiện tượng chậm tiến trong bộ máy nhà nước
Trở lại miền Trung
Hai thái độ

Ý nghĩ vẩn vơ

Từ nhiều năm nay, ít khi tôi suy nghĩ tới một điều gì xa quá một năm trong tương lai bởi vì vị trí của một người dân trong xã hội miền Nam đầy biến chuyển bất trắc này không cho phép. Nhưng rồi cũng có một buổi sáng trời không có nắng, không khí hiu hắt làm tâm hồn lắng xuống làm xuất hiện một câu hỏi vẩn vơ nhưng day dứt, một câu hỏi giản dị đến ngây ngô: Thế nào là một người Việt Nam?

Tôi là người Việt Nam – hiển nhiên là vậy. Nhưng có chắc thật thế không? Trước tầm nhìn của tôi là hàng rào kẽm gai, khung cửa sổ, vách tường, bàn ghế. Những vật này không biện minh được gì: kẽm gai từ Tây phương nhập cảng, kiểu cửa sổ, lối xây tường, kiểu bàn ghế, v.v. đều là của Tây phương. Trên mình tôi, kiểu tóc, quần áo, thắt lưng, ví đựng tiền, giầy vớ, v.v. Tôi châm một điếu thuốc hút, thấy điếu thuốc bật lửa cũng là của Tây phương nốt. Tôi ngừng cuộc tìm kiếm qua sự vật và khung cảnh bao quanh vì hiển nhiên chúng không thể chứng minh tôi là người Việt Nam. Căn cứ vào chúng, tôi sẽ có thể là Tàu Chợ Lớn, Tàu Đài Loan, Phi Luật Tân, Mã Lai, v.v. cũng như có thể là Pháp, Ý, v.v. Có lẽ tôi có thể xác định tôi là người Việt Nam căn cứ vào hành động và sinh hoạt chăng? Trước kia tôi làm giáo sư, chương trình giáo dục, lối dậy học trò, lối chấm bài, gần đây nhập ngũ, thể thức động viên, cách tổ chức quân trường, phương thức huấn luyện quân sự, lối chào kính, quân kỷ, v.v. đều là của Tây phương. Nửa giờ nữa, có kẻng hết giờ làm việc ấn định theo thời khắc Tây phương, tôi ra về bằng phương tiện nào cũng vậy, phải là do Tây phương mang tới. Tôi đọc một tờ nhật báo, một tờ tuần báo, tôi đọc sách, tôi đi xem xi-nê, tôi đi phòng trà nghe nhạc, khiêu vũ, khuya về đi ngủ vặn đồng hồ, v.v. Chẳng có một vật gì, điều gì chứng tỏ tôi là người Việt Nam, và đến khi ân ái với đàn bà, phương pháp Ogino-Knaus, phương pháp nhiệt độ, v.v. tôi cũng chỉ làm như một người Pháp, người Mỹ, người Ba Tây cùng thành phần xã hội.

Tôi biết tôi là người Việt Nam, hiển nhiên là vậy. Nhưng cái gì chứng tỏ? Nhiều cụ già khả kính nói đến TRUYỀN THỐNG. Bắt chước một đại tướng đã mở một cuộc “truy tầm hạnh phúc”, tôi mở một cuộc truy tầm truyền thống. Tôi tìm mãi, tìm hoài, mở hết trang sách này đến trang sách khác, cầu cứu tới cả các cụ Nguyễn Gia Tường, Hồ Hữu Tường, v.v. cũng không thấy nó đâu. Mặc áo bà ba hút thuốc lá rê thuốc lào là truyền thống chăng? Tôn trọng tam cương ngũ thường, tam tòng tứ đức, nam nữ thọ thọ bất thân là truyền thống chăng? Ở nhà tranh vách đất, bàn ghế kiểu cổ, nhuộm răng đen đi guốc gỗ là truyền thống chăng? Càng tìm kiếm tôi càng ngỡ ngàng. Thiên hạ không hiểu tại sao ai cũng tìm thấy ngay TRUYỀN THỐNG dân tộc, bốn ngàn năm văn hiến mà tôi thì “truy tầm” nó mãi không ra. Tôi chỉ tìm thấy hệ thống giáo lý Khổng Mạnh của Tàu, đồ đạc cung điện kiểu Tàu, Tàu Tàu và Tàu… chỗ nào cũng thế sau khi gạt hết lớp bụi phủ. Theo các nhà khảo cổ học và nhân chủng học lên tít mù trong bụi thế gian, tôi cũng chỉ thấy cái trống đồng Đông Sơn – mà các vị bác học khả kính lại kết luận là “lai Tàu”. Sau cùng tôi kết luận rằng muốn theo cho thật đúng truyền thống, hợp lý nhất là nhập Hoa tịch cho rồi. Nhưng thế cũng không ổn vì chính thế hệ trẻ Trung Hoa Chợ Lớn và Đài Loan cũng đang đốt đuốc lên coi lại cái truyền thống của họ xem nó ra làm sao.

Cuộc truy tầm ở ngoại giới không đưa đến đâu, tôi quay về tra hỏi bản thân. Hoàn cảnh sinh hoạt, khung cảnh quanh tôi là Tây phương dĩ nhiên rồi. Nhưng tệ hơn nữa là tôi suy nghĩ theo cùng phương pháp với sinh viên Sorbonne, Harvard, Oxford. Tôi thích khiêu vũ, ăn uống, xem chiếu bóng y hệt một anh chàng trí thức cùng tuổi bên Tây bên Mỹ. Như vậy, xét đến ý thích, khuynh hướng cá nhân, tôi cũng không tìm thấy gì chứng tỏ tôi là người Việt Nam.

Vẫn bắt chước vị đại tướng, sau khi “truy tầm” không có kết quả, tôi phải sang một giai đoạn khác là tra hỏi. Tra hỏi không ra thì phải “tra tấn”, tôi tra tấn ý thức, tư tưởng tôi đến cùng thì thấy rằng tôi là người Việt Nam có lẽ chỉ vì khi còn nằm nôi, tôi nghe mẹ ru cho ngủ bằng những câu ca dao cổ kính, khi đã biết đi biết chạy, tôi đi tôi chạy giữa các ruộng lúa nhà tranh ao bèo giếng nước, tôi cưỡi trâu, cưỡi bò, nghe sáo diều kêu văng vẳng trên không gian buổi chiều. Tôi là người Việt Nam chỉ vì tuổi ấu thời yêu nước sông đỏ phù sa, tuổi niên thiếu yêu những người con gái có áo dài lả lướt, yêu Tết Nguyên đán có bánh chưng, trầm hương, hoa và lễ chùa, yêu rằm Trung thu có đèn kéo quân, đèn xếp, đèn ngôi sao làm đen lánh cặp mắt người con gái tôi yêu. Tôi là người Việt Nam, sau cùng có lẽ chỉ vì trong tâm hồn có dấu vết chồng chất của bao nỗi đau buồn vui sướng quá khứ, những đau buồn vui sướng tôi đã cùng trải qua cùng anh em bố mẹ họ hàng, cùng các bạn đồng lứa còn sống, cùng những người già đã chết… Tôi là người Việt Nam vì những điều như thế, bắc có Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nam có Việt Nam Cộng hòa.

Đôi khi tôi còn nghĩ vẩn vơ rằng nước Việt Nam của chúng ta chỉ có thể thống nhất, chỉ có thể hòa bình khi nào từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, từ Chủ tịch, cán bộ, Quốc trưởng đến công dân, ai cũng nhớ rằng mình chính thực ra là người Việt Nam trước khi là bất cứ cái gì khác. Và chúng ta, những người miền Nam, chỉ nên nghĩ đến giải phóng miền Bắc khi nào quan niệm nó như một công trình khôi phục con người Việt Nam.


Lời giảng chót gửi học trò cũ

“Đi lính ba năm, trở về thăm trường cũ, thầy cảm thấy gì?”

Mỗi lần có em hỏi tôi câu trên, tôi không khỏi muốn mỉm cười vì liên tưởng tới những đề luận loại: “Trò vừa được dự một cuộc diễn binh (một buổi lễ chào cờ hay một đám tang), hãy thuật lại và cho biết cảm tưởng”, tôi thường ra cho học sinh nhiều năm về trước. Tuy muốn mỉm cười nhưng tôi vẫn làm một bài luận cho các em với lời giao ước không phải là bài luận mẫu. Đứng trên thềm nhìn sân đất đỏ lầy ướt nước mưa, những cây trứng cá xanh um lá, tôi đã nói với các em những gì, tôi không nhớ rõ. Hình như tôi nói tới một thứ tình cảm vui nhẹ khi được trở về khoảng đồi quen thuộc, niềm thích thú khi biết những học trò cũng đã biến đổi ra sao, em nào đi lính như thầy, em nào ra trường học đâu, em nào đỗ em nào trượt trung học phổ thông, Tú tài, và nhất là những nữ sinh xinh xắn, cô nào đã lấy chồng cô nào còn tuyển phu.

Sau buổi gặp gỡ lần đầu, tôi trở về nhà với một thoải mái dễ chịu. Giả thử công tác phải thi hành hoàn tất một ngày, tôi rời thị trấn cao nguyên có nhà trường mái tôn xanh đỏ này sáng hôm sau, chắc tôi trở về với đời lính, với doanh trại mang theo thoải mái dễ chịu. Nhưng tôi đã phải ở lại thêm một tuần, và vì thế tôi đã hối hận. Hối hận vì đã trở lại thăm trường, đã làm bài luận: Thầy đi lính ba năm, trở về thăm trường cũ, thầy cảm thấy gì? Tôi đã lầm ở một điểm: vấn đề tư cách trở về và thái độ. Khi trở về thăm trường, tôi tới với tư cách người lính nhiều hơn với tư cách ông thầy và các em coi tôi như ông thầy nhiều hơn là người lính. Chính vì thế các em tiếp tục hỏi tôi những vấn đề về học vấn, về đời sống, về tương lai như ngày xưa. Trước những câu hỏi, nếu tôi chỉ là một ông thầy vào loại như các giáo sư mới lớn đang phụ trách dạy các em kia, chắc tôi sẽ giải đáp tất cả những thắc mắc đủ loại với một giọng quả quyết, tin tưởng mình nắm vững chân lý - những lời giải đáp sách giáo khoa in sẵn. Bây giờ, tôi không thể còn thái độ ấy. Nhưng tôi còn giữ quan niệm một ông thầy không thể nói dối học trò, không thể bảo một thứ đen xì ngoài đời là màu đỏ cho những kẻ ngồi trong lớp học. Bởi thế tôi đã ngập ngừng trước các câu hỏi của các em, tôi đã ngập ngừng rất nhiều.

Một em học đệ nhất hỏi tôi: “Có nên tiếp tục học nữa không thầy? Em muốn nhập ngũ cho rồi!” Thoáng trong một giây, do một chút thói quen nghề nghiệp cũ, tôi đã toan thốt ra một tràng ngôn từ cổ điển đại loại: Phải tiếp tục học tới cùng. Học để mở mang trí tuệ, để trở thành một công dân hữu ích cho xã hội mai sau, v.v. Cũng may tôi ngừng kịp, nếu không, chắc sẽ thấy trong đôi mắt thiếu niên mười bảy tuổi trước mặt những ánh mắt chẽ giễu, không tin. Mở mang trí tuệ, trở thành công dân hữu ích cho xã hội, v.v. dĩ nhiên là thành quả của học vấn rồi, nhưng người học trò cũ này đâu có tìm đến tôi để hỏi một ông thầy đã nhập ngũ, không phải chỉ để nghe những lời Công dân Giáo dục “đã được Bộ Quốc gia Giáo dục duyệt y”, có phải đúng như thế không các em?

Tôi đã trả lời em đó một cách thật thực tế: “Em hãy cố gắng thi đỗ Tú tài II, hãy cố gắng học thêm được tới đâu hay tới đó trước khi tới tuổi nhập ngũ. Cuộc chiến tranh này không phải là vĩnh viễn, xã hội này là xã hội của cấp bằng, những bằng cấp em có sẽ giúp ích rất nhiều cho em về sau này… Chưa nói xong, tôi đã cảm thấy rõ rệt đó không phải là của một người chiến binh lớn tuổi. Trả lời như vậy sẽ không làm hài lòng ai hết. Các em đang hoang mang trước chiến tranh, mất tin tưởng ở tương lai, đang mong mỏi được nghe một lời khẳng định về giá trị của học vấn. Tôi đã thoái thác. Nha Chiến tranh Tâm lý Quân lực Việt Nam Cộng hòa cũng không hài lòng, họ chờ đợi ở tôi một câu trả lời đại loại: Hãy tình nguyện nhập ngũ ngay để bảo vệ non sông. Hãy hy sinh xương máu ngoài chiến trường cho tổ quốc! Còn tôi, chính tôi cũng không hài lòng nốt, vì đã ba mươi tuổi, bốn năm dạy học ba năm đi lính, mà không trả lời thẳng và dứt khoát được một câu hỏi giản dị như thế.

Buổi tối, tôi tới dự đêm văn nghệ trường tổ chức. Ngồi nghe các em múa hát, đóng kịch, một phần tâm hồn tôi chìm lắng trong không khí trẻ thơ, ngắm các em gái ba năm về trước còn là những cô bé chuyên ăn vụng mận, me trong giờ học bây giờ trở thành những thiếu nữ tuổi yêu đương, tôi chợt hiểu buổi sáng trả lời như vậy là hơn cả. Thà trả lời với tư cách người lính còn hơn im lặng hay nói dối. Mọi sự sẽ ra sao nếu tôi khuyên: “Hãy tình nguyện nhập ngũ để bảo vệ tổ quốc!” và được nghe các em hỏi thêm: “Có thực thế không thầy?”. Có thực thế không? Có thực là chiến đấu cho tổ quốc không, hay là chiến đấu cho những chính khách phòng trà có hậu cứ an ninh làm chính trị xôi thịt hay là chiến đấu cho các con ông cháu cha xuất ngoại trốn quân dịch, những người công du mang theo từng phần gia sản của dân tộc Việt Nam nghèo khổ… Cuộc chiến này tự nó có một ý nghĩa: chống cộng để cho những người miền Nam sông Bến Hải được tự do sống theo ý mình, được yêu người mình yêu, được lấy người mình yêu. Nhưng mười năm liên tiếp, chính nghĩa đó đã bị lợi dụng, bôi nhọ, trát bùn nhơ nhớp rồi… Chẳng lẽ tôi lại nói điều đó với các em, những kẻ sắp vào đời. Nhưng không nói thì im lặng, câm nín sao? Dù thế nào tôi cũng vẫn là một người trí thức.

Tôi chỉ nói tới trí thức, người lính, không nói tới ông thầy. Không phải vì “chiến tranh đã giết chết ông thầy” như tôi đã nói với một em gái có đôi mắt như hai vì sao cao nguyên, cũng không phải tại vì tôi đã từ bỏ tư cách ông thầy, mà vì tôi đã nhận thấy tôi đã sai lầm.

Tôi, chúng tôi, đã dạy các em những gì nhỉ? Nào chí làm trai nam bắc đông tây, lên đông đông tĩnh lên đoài đoài yên, chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt, làm trai phải chết chốn sa trường da ngựa bọc thây, v.v. Tôi, chúng tôi còn dạy các em những gì nữa? Danh dự, khí tiết, liêm khiết, trinh bạch, bổn phận đối với tổ quốc, đối với xã hội, v.v. Toàn những thứ các em vào đời, đốt đuốc đi tìm bảy ngày bảy đêm liên tiếp cũng không thấy, để rồi sau đó chua chát thất vọng, để rồi sau đó đưa tâm hồn mình vào tình trạng mất hết tin tưởng.

Rời cao nguyên vào buổi tối, khi nhìn đô thị Sài Gòn hiện hình như một cánh đồng cỏ màu sắc và ánh đèn, tôi thấy vấn đề cũng không phải là đến chỗ tuyệt vọng. Tôi còn có những lời giảng, những lời giảng chót, để nói với các em, những học trò đã tản mát khắp nước cũng như còn ở thị trấn buồn muôn thuở. Tôi thấy tôi còn là một ông thầy, vì buổi tối, sau khi suy xét kỹ, tôi thấy còn có thể nói rằng: người thầy ngày trước không lừa dối các em khi nói tới một thế giới đẹp đẽ trong đó mọi cư xử đều y như các ông thầy đã tả trong các giờ học. Chỉ có cần bổ túc là thế giới ấy không phải có sẵn chờ đợi những người vừa rời bỏ ghế nhà trường và tuổi thiếu thời, mà nó nhờ chính những người này, những người mang lý tưởng ôm ấp từ lớp học tới xây dựng, hình thành. Tôi đã có lầm lẫn ngày trước là đã để các em ngộ nhận. Nhưng lầm lẫn này, những ông thầy cũ và tôi đã trả giá thay cho các em bằng cách chịu đựng một nỗi chua chát xao động thường xuyên trong tâm hồn.


Những bàn tay không

Nhiều người thường cho rằng lớp trí thức trẻ hiện nay “nổi loạn”, thích tung phá đạp đổ nên bạ ai cũng chê cũng đả kích. Sự thật không hẳn như vậy. Tự xét bản thân và căn cứ vào tâm trạng bạn bè tôi thấy rằng thế hệ trẻ hiện nay rất bơ vơ – họ muốn tin cậy ở người lớn lắm nhưng không tìm ra ai mà tin. Hệ thống tổ chức xã hội và nền giáo lý cũ không còn thích hợp với nếp sinh hoạt và biến chuyển mới của dân tộc và đất nước: các thanh niên rất cần người hướng dẫn, rất cần người già để kính, để nương tựa về tinh thần. Nhưng vấn đề là ở chỗ, họ, chúng tôi không tìm thấy ai. Thanh niên nào cũng đã hơn một lần muốn bám víu vào một cái gì gương mẫu để giữ vững tinh thần trong dòng hỗn loạn hiện đại, nhưng rồi cũng hơn một lần thất vọng chua chát.

Thanh niên hiện nay gần như chỉ có hai bàn tay không và công việc phải làm nhiều vô hạn – trong khi đó vẫn gánh chịu trực tiếp cuộc chiến tranh tàn khốc không do họ gây ra. Nếu Camus đã nhắc tới một câu nói người xưa mong được sinh vào một thời đại không đáng chú ý, thì nhiều thanh niên Việt Nam cũng đã tiếc rằng đã đầu thai nhầm thế hệ. Nhưng tiếc thì tiếc vậy nhưng họ biết không thể từ chối thân phận mình, họ biết phải làm gì và nhận rằng nếu thế hệ năm mươi tuổi đã từ chối trách nhiệm về một nửa nước Việt thì họ, thế hệ trên dưới ba mươi sẽ chịu trách nhiệm với con cháu sau này, với lịch sử về số phận một nửa phần còn lại.

Khi khóa 14 sĩ quan trừ bị Thủ Đức mãn khóa, ông Diệm không tới, cử ông Trương Công Cừu làm đại diện. Tôi thuộc đại diện khóa sinh đa số là trí thức và vì thân cao thước bảy nên phải đứng hàng đầu hàng quân – sự kiện này có nghĩa là không hy vọng gì cựa quậy cho đỡ mỏi. Mồ hôi đã bắt đầu chảy dọc gáy tôi cũng như người cầm cờ phía trước khi ông Cừu tới duyệt hàng quân. Đúng lúc phái đoàn quan khách đi ngang đại đội, một tiếng nói từ phía sau hàng quân cất lên tuy nhỏ nhưng nghe rõ tới hàng đầu, nhắc lại câu nói của những người giác đấu nói với quan khách trên khán đài trước khi bắt đầu cuộc tử chiến: “Ceux qui vont mourrir te saluent!” [1] … Tuy toàn thân tê cứng trong nỗ lực giữ đúng tư thế chào, tôi cảm thấy như có một chuyển động rì rào phía sau. Có lẽ tôi bị óc tưởng tượng đánh lừa? Có thể là vậy nhưng câu nói cuối cùng của những người giác đấu thời xưa ấy, tôi nghe thật rõ như một tiếng thở dài. Ông Cừu đã lên vị trí chủ tọa buổi lễ trên khán đài cao, dáng điệu ông trịnh trọng và trang nghiêm. Lũ chúng tôi mồ hôi đầy người quỳ xuống trước mặt ông thề trung thành với tổ quốc và nhận cấp bậc nhỏ nhất trong hàng sĩ quan. Vẫn trịnh trọng và trang nghiêm, đại diện cho tổng thống, cho Quốc gia Miền Nam, ông Cừu khuyên chúng tôi nhiều điều… Ceux qui vont mourrir te saluent, tôi không hề được biết anh đồng khóa nào đã thốt ra câu ấy để tìm hiểu xem hiện nay anh đang ở phương nào. Nhưng tôi biết chắc anh hẳn là người buồn nhất buổi sáng ngày hôm ấy khi quỳ xuống trước mặt ông Cừu – nỗi buồn của anh chắc chắn phải bằng hay hơn nỗi buồn của tôi khi viết đến dòng này.


Ý nghĩ người lính trong thành phố - Những người bơ vơ

Một sinh viên bạn tôi trong năm vừa qua, nhờ thế lực chính trị và khả năng tài chính của gia đình, đã được phép xuất ngoại đi Pháp học. Đó là một thanh niên biết suy nghĩ nên việc du học này đã đặt anh trước nhiều vấn đề. Nếu anh xuất ngoại, anh sẽ có thể đỗ tiến sĩ và trở về nước sau này làm giám đốc, tổng trưởng. Nhưng sự xuất ngoại này không do một tuyển chọn công bằng, không do tài năng. Vậy vấn đề đặt ra cho anh là chấp nhận hay không chấp nhận xuất ngoại này. Nếu không đi, ở lại, anh sẽ phải nhập ngũ một thời gian dài ngắn không biết rõ là bao nhiêu. Nhập ngũ là chiến đấu. Anh không sợ khổ cực của đời lính, anh có thể hy sinh mạng sống – nhưng cho ai? Anh ngó quanh, nhìn những người bạn đã nhập ngũ, nhìn chính quyền, nhìn xã hội, anh thấy rằng chưa biết chừng những người bạn ấy đã vô tình chiến đấu để bảo vệ cho những thương gia Ba Tàu, các xí nghiệp ngoại quốc, các tham quan ô lại, các tướng lãnh bê bối, v.v. Vậy anh chọn đường nào, đi hay không đi? Chọn đường nào cũng có lý và chẳng đường nào hợp lý. Anh thấy anh là một con người bơ vơ.

Một giáo sư trẻ bạn tôi ở tỉnh nhỏ được một nữ sinh bày tỏ tình yêu. Anh tự hỏi nên hay không nên nhận tình yêu này. Ông Hiệu trưởng, ông bạn già đồng nghiệp bảo không nên nhận vì như vậy là trái nghĩa sư đệ. Nghĩa sư đệ? Nó là cái gì vậy? Nghe có vẻ Tàu Tàu, anh mở sách cổ ra đọc, tìm xem người xưa nói làm sao về việc thầy trò yêu nhau. Dĩ nhiên anh không tìm thấy vì thời trước không có học trò con gái, lấy đâu ra việc yêu đương. Và nếu tìm thấy, chắc cũng không có được giải pháp nào bởi vì ông thầy đồ có nhiệm vụ thay cha dạy học trò thành người. Nếu thầy trò yêu nhau có lẽ có thể coi như một hành động loạn luân. Nhưng anh bạn tôi là một giáo sư ở hậu bán thế kỷ hai mươi, và nhiệm vụ của anh là truyền bá cho cô gái này các kiến thức về khoa học và văn hóa, chứ đâu phải dạy nàng thành hiền phụ hay gái chính chuyên – mở tất cả các cuốn chương trình kể từ khi người Pháp hủy bỏ nền học cổ truyền thay bằng nền học chánh mới cho tới hiện nay, anh không thấy có điều khoản nào ghi giáo sư phải rèn luyện, đào tạo học trò thành người cả. Anh chỉ biết rằng cho tới giờ, chương trình giáo dục được gọi là nhân bản, khai phóng, v.v. Thế thôi. Ông giáo sư già nhất trong trường nhận xét: “Dù sao chúng ta cũng có dạy nó thành người qua những lời khuyên răn và kỷ luật áp dụng trong những giờ học trò tới trường…”. Anh bạn tôi không đồng ý vì cho rằng một huấn luyện viên quân sự của các khóa đào tạo nữ quân nhân, cũng khuyên răn, cũng áp dụng kỷ luật, cũng truyền bá những kiến thức. Và nếu một trung úy huấn luyện viên và một khóa sinh yêu nhau rồi lấy nhau thì đó lại được coi là một tình duyên thông thường, không ai buồn thắc mắc – trừ những tình địch của hai kẻ này. Vậy tại sao anh và nữ sinh của anh lại không được yêu nhau tự do – như mọi người? Hơn nữa nếu cấm lấy nữ sinh thì các giáo sư biết lấy ai làm vợ. Đa số các cô bây giờ đều được đi học, do đó đều là học trò không của giáo sư này thì của giáo sư khác… Tôi chen vào, góp ý kiến: “Con gái vị thành niên chưa được coi là đủ óc suy xét, ông thầy lại tiếp xúc luôn, có được yêu thì tình yêu đó chưa được coi là chín chắn. Hơn nữa, lôi thôi với gái vị thành niên có hai cái nguy: thứ nhất là Bộ biết, sẽ bị đổi đến những nơi hổ về gậm gãy cột cờ, trăn bò vào nằm trên bục; thứ hai là nếu bố mẹ cô nàng kiện thì đi ở tù!” Nói như thế không giải quyết được gì cho vấn đề, anh bạn nhận xét, vấn đề ở chỗ là tìm xem thầy trò yêu nhau có gì là tội lỗi như mọi người thường quan niệm hay không. Đây là một vấn đề tinh thần, một vấn đề luân lý. Vụ tranh luận đến đây là ngừng, và khi tôi rời trường, anh bạn tôi vẫn chưa biết nên chọn thái độ nào. Anh cũng là một người bơ vơ.

Một anh bạn đồng môn cũ, mới thuyên chuyển đến ngành Cảnh sát Công an, sau ba tuần nhận chức, nói với tôi: “Tao nghĩ hoài không biết có nên tổ chức tảo thanh gái điếm hay không. Tao chưa vợ, vẫn thường đi tìm đĩ để giải quyết sinh lý, thấy làm như vậy là tự nhiên. Đàn bà làm đĩ, tao nhân danh cái gì để cản, để đi bắt? Đối với gái vị thành niên còn có thể bảo là chưa biết suy nghĩ nên bắt trở về đời sống lương thiện hơn, nhưng còn đàn bà trưởng thành tự nguyện chọn làm nghề này?” Dĩ nhiên, về phương diện tinh thần, anh bạn này không biết nhân danh cái gì để kết án gái đĩ. Anh bơ vơ rồi.

Sau 1-11-1963, cả chính phủ lúng túng trong việc tìm một tiêu chuẩn để xác định thế nào là thuần phong mỹ tục, đạo đức xã hội. Các người ham chuộng loại phim thoát y đã thấy rõ sự lúng túng này ở những người tự-cho-có-nhiệm-vụ bảo vệ đạo đức xã hội. Có thời kỳ, các nhà kiểm duyệt cho rằng cởi nịt vú nhưng giữ xi-líp, được kể như không làm thương tổn đến thuần phong mỹ tục của “nước A Nam ta”. Có thời kỳ cho rằng để lộ ngực cũng làm hại đến đạo đức của dân Đại Cồ Việt. Có thời kỳ cho rằng nhảy twist vô hại, có thời kỳ lại cấm vì cho rằng twist sẽ văng mất bốn ngàn năm văn hiến Giao Chỉ ra ngoài. Nói giản dị, các nhà đạo đức trong chính quyền không còn biết vị trí, giới hạn của đạo đức ở-chỗ-nào-nữa. Họ là những người bơ vơ rồi.

Cái gì cũng phải có một kết thúc, kể cả những bơ vơ. Anh bạn sinh viên đã đi Pháp học nhưng viết thư về nói rằng: “Lắm lúc nghĩ, tôi tự hỏi tôi đi thế này hơn hay ở lại đi lính để cùng liên đới chịu đựng cái phận khốn khổ của dân mình…”. Anh bạn giáo sư tỉnh nhỏ viết thư về báo tin: “Tao sẽ phải nhập trường Thủ Đức khóa tới, và con bé học trò ấy vừa đủ 21 tuổi tuần trước. Vấn đề đã được đi đến cùng, nhưng tao vẫn thấy…”. Anh bạn trong ngành kiểm tục tuyên bố: “Tao vẫn thứ bảy đi kiếm poule và khi nào có lệnh thượng cấp, vẫn đi bố ráp gái điếm…”. Còn về công tác bảo vệ thuần phong mỹ tục dân nước Việt Nam Cộng hòa, ông đô trưởng vừa trịnh trọng minh định đại khái như sau: “Mặc nịt vú và xi-líp sẵn sàng bước ra múa là không hại đạo đức, nếu mặc quần áo rồi vừa múa vừa cởi cho đến khi còn nịt vú và xi-líp là một hành động công xúc tu sỉ…”. (Tôi tự hỏi như vậy có phải đạo đức và không đạo đức chỉ khác nhau ở chỗ “có sẵn” và “cởi dần” hay không?).

Tại sao, vì cớ gì, người dân Việt đệ tứ cộng hòa (đệ nhất cộng hòa là của ông Diệm, đệ nhị cộng hòa là của DIDOXI – Đính Đôn Xuân công ty, đệ tam cộng hòa là của Chủ tịch Nguyễn Khánh) lại lâm vào tình trạng bơ vơ như vậy? Và làm thế nào để cho những người hiện tại, nhất là thế hệ mai sau khỏi bơ vơ như thế?

Đó là hai vấn đề căn bản phải giải quyết cho xã hội miền Nam. Tất cả những vấn đề khác về chế độ, về luật pháp, v.v. chỉ là những cái đến sau. Nếu giải quyết được hai vấn đề căn bản này, người sinh viên sẽ biết nên đi Pháp học hay ở lại đi lính với những bạn đồng môn nghèo hèn, người giáo sư sẽ biết nên nhận tình yêu học trò hay từ chối, viên chức kiểm tục biết nên kết án hay dung dưỡng gái điếm, nhà kiểm duyệt biết sử dụng chính xác cái kéo không cần phải coi lại các chỉ thị co giãn tùy thời, người lính nên biết hay không nên hy sinh tính mạng của mình. Có hết bơ vơ, viên chức thanh liêm mới tin rằng thái độ của mình là đúng là đáng khen chứ không phải là “dại” là “ngu”, người thanh niên thiện chí phục vụ xã hội mới tin rằng mình không phải là quân tử Tàu, người biết giữ liêm sỉ mới tin là mình không lỗi thời hay chậm tiến. Không đưa được mọi người ra khỏi tình trạng bơ vơ, mọi sự sẽ tiếp tục như hiện nay – nghĩa là mỗi người đều tiếp tục đóng vai trò riêng trên một sân khấu riêng: Giáo sư đóng kịch trên bục vì dạy học trò “không nên rượu chè, cờ bạc, trai gái, nghiện hút” nhưng vẫn đi chơi gái, đánh bạc và uống rượu, những nhân viên kiểm duyệt sẽ bề ngoài nhăn nhó khi cắt những đoạn phim “đồi phong bại tục” và những câu văn khiêu dâm, tả chân, nhưng rất thích thú khi được coi Sexy show, Sexy girl nguyên bản, khi đọc Mémoire d’une chanteuse allemande…

Một xã hội khi nào chỉ xây dựng trên những con người giả hình như vậy là một xã hội đang đi đến chỗ tan rã chắc chắn.


Ý nghĩ của người lính thành phố - Trương Vô Kỵ

Trong tuổi thiếu thời, về phương diện đọc sách, tôi là một đứa trẻ bình thường, nghĩa là đương nhiên phải mê đọc truyện kiếm hiệp. Mê đến độ những hôm không có tiền đặt cọc, tôi tới thuê sách ngồi đọc ngay tại hiệu. Tôi còn nhớ những phút say mê theo dõi Giang Đông tam hiệp, Long Hình quái khách, lo âu cho những tráng sĩ nghĩa hiệp lao vào những ổ ác tăng cứu nguy cho người đẹp, và ở cái tuổi còn tin rằng em trai ở trong nách mẹ chui ra và đàn ông đàn bà cứ ngủ chung giường là tự động có con, tôi đã hồi hộp và rung động trước những hoàn cảnh hiểm nghèo của những nữ hiệp khi sa vào tay dâm tặc. Lớn hơn, khi bắt đầu thích mối tình Hồn bướm mơ tiên, những nhân vật kiếm hiệp tan biến vào dĩ vãng ấu thời, không còn di tích. Năm ngoái khi Thi với tôi ở một doanh trại miền Trung, nàng nằn nì tôi thuê cho bằng được Cô gái đồ long để nàng đọc trong những lúc vắng tôi. Không những không chịu chiều ý, tôi còn cười chế giễu. Gần đây trong một buổi gặp gỡ thân mật, tôi thấy các nhà văn, có người sắp tới tuổi tứ thập nhi bất hoặc, bàn một cách hăng hái về những Chu Chỉ Nhược, Vô Kỵ, Triệu Minh, Đao Đồ Long, Nhất Dương chỉ, v.v. và những chưởng những ám khí quay lộn, đánh bật tất cả những Sartre, Camus, Hemingway cùng các đề tài văn nghệ thông thường ra bụi mía trong vườn nhà mẹ tôi. Đến đây, dĩ nhiên là tôi chỉ có thể làm một việc: đi tìm kiếm hiệp đọc để xem nó ra làm sao mà đã có thể gây cả một phong trào đọc sôi nổi như vậy.

Để bắt đầu, tôi đọc cuốn kiếm hiệp đã được xếp vào loại “cổ điển” là cuốn Cô gái đồ long. Qua được vài chục trang, tôi đã bị lôi luôn vào vòng chưởng lực của các nhân vật. Và tiếp đó, dĩ nhiên bình thường như bao người, tôi đọc hết cuốn này đến cuốn khác của Kim Dung, và cũng chỉ thích đọc có một tác giả này mà thôi. Bây giờ đã khá quen thuộc với các võ công thượng thừa của các phái Thiếu Lâm, Nga Mi, Võ Đang, v.v. tôi hiểu tại sao mọi người – trong đó có tôi, say mê đọc loại văn này. Lý do quan trọng nhất là kiếm hiệp đã được Kim Dung viết với nhiều nghệ thuật. Các nhân vật linh động, nhiều cá tính, nhiều tâm trạng không như các nhân vật thông thường: loại gian tà và anh hùng hào kiệt. Gian tà bao giờ cũng gian ác và đáng giết, anh hùng bao giờ cũng quang minh chính đại đáng kính. Thiện ác phân minh. Các nhân vật của Kim Dung không như thế. Trừ một số ít, còn chẳng có ai là thiên thần, chẳng có ai là ác quỷ. Tạ Tốn có tàn ác, Chu Chỉ Nhược có giảo quyệt nhẫn tâm, không hẳn là tự thâm tâm họ muốn hành động như vậy nếu không có những nỗi đau đớn, những vò xé bên trong. Họ có vẻ người hơn, do đó gần gũi với chúng ta hơn. Về tả cảnh, những đoạn như Đoàn Dự bị bắt dẫn đi trên thuyền đến nhà Cô Tô Mộ Dung trên hồ, có thể coi là một đoạn văn đẹp. Các võ công được trình bày liên quan chặt chẽ với y lý Đông phương và triết lý Dịch, Đạo cùng giáo lý đạo Phật làm người đọc trưởng thành có được một thứ ảo giác sự thật. Đó là những lý do “nội tại” làm truyện kiếm hiệp Kim Dung trở thành lôi cuốn. Nhưng lý do không phải chỉ có thế. Mọi người ở trong xã hội này, bao nhiêu năm rồi, thấy những kẻ ác bao giờ cũng được hưởng xe hơi nhà lầu, những kẻ thiện cứ úp mặt xuống hít khói và bụi. Nhưng nhu cầu muốn công bằng được thực hiện, ác giả ác báo vẫn tiềm tàng trong tâm hồn nên mọi người vui thú tìm sự thể hiện những ước vọng đó trong kiếm hiệp.

Trong tất cả những nhân vật của Kim Dung, Trương Vô Kỵ được người đọc chú ý hơn cả. Gần đây, trên một tờ báo sinh viên, tôi đã thấy một bài chê trách Vô Kỵ mải ngồi kẻ lông mày cho Triệu Minh quên cả sự hiện diện của quân Mông Cổ trên đất nước. Đã từ lâu, khi còn làm thầy đồ miền núi, tôi hay tự hỏi nền giáo dục hiện đại sẽ đưa thanh niên tới đâu. Mỗi một nền giáo dục đều bao hàm chủ đích đào tạo thanh niên thành người theo một mẫu nào đó – tôi tạm gọi là mẫu người lý tưởng. Trước kia người lý tưởng Việt Nam là kẻ sĩ. Người Pháp, vì nhu cầu thống trị, đã phá hủy giai tầng kẻ sĩ, phá hủy hệ thống giáo dục cũ, thay thế bằng một hệ thống giáo dục nhằm đào tạo những viên chức thừa hành và những trí thức quên gốc. Thu hồi lại độc lập từ 1954, những người cầm quyền miền Nam chưa ai có một ý niệm rõ rệt về một mẫu người lý tưởng mới để cho các nhà giáo dục lấy làm tiêu chuẩn soạn thảo chương trình và dạy dỗ học sinh. Trong khi ấy, cộng sản chĩa mũi dùi tấn công vào những kẻ sĩ biến thể, chê họ là anh hùng cá nhân, là trí thức tiểu tư sản, v.v. Tất cả những sự kiện đó làm tôi chú ý nhiều tới Trương Vô Kỵ, một thứ người hùng đặc biệt, Vô Kỵ võ giỏi nhưng không hiếu sát, không đánh kẻ ngã ngựa, không thù hận và tàn nhẫn quá độ với kẻ thù. Đứng đầu Minh giáo, Vô Kỵ cư xử hết lòng với thầy, tin cậy ở thiện tính của bằng hữu và thuộc hạ, không bao giờ chịu dùng những thủ đoạn xấu dù có lợi cho chính nghĩa và thà để người phụ mình còn hơn mình phụ người. Về tình cảm, Vô Kỵ yêu chân thành không để ý đến chủng tộc, giai cấp, môn phái. Yêu một cách rất tiểu tư sản: khi chưa yêu ai thực sự, muốn lấy cả Tiểu Siêu, Hân Ly, Chu Chỉ Nhược, Triệu Minh làm vợ (độc giả nào đọc Cô gái đồ long mà không ước ao lấy cả bốn cô gái kể trên thì người đó một là liệt dương, hai là đã trên 77 tuổi, ba là cán bộ cấp huyện ủy trở lên). Khi đã yêu thực sự Triệu Minh thì thôi, tất cả vũ trụ trở thành vắng ngắt. Về chính trị, tới thời kỳ sắp thành công, mọi lãnh tụ bắt đầu mở cuộc tranh giành quyền lực. Vô Kỵ từ bỏ tất cả ra đi.

Thái độ sống, quan niệm xuất xử của Vô Kỵ, tôi thấy bắt nguồn từ lâu lắm, từ Phạm Lãi treo ấn từ quan mang Tây Thi đi du ngoạn Ngũ Hồ, Trương Lương nhàn cư dưỡng tính. Tôi thiết tưởng Vô Kỵ không đáng trách khi trao ngôi Minh chủ cho Dương Tiêu, để kệ Chu Nguyên Chương giữ binh quyền thực hiện việc đuổi quân Mông Cổ trong giai đoạn chót. Bổn phận đối với dân tộc đã làm xong, bổn phận đối với đồ đệ, với nghĩa vụ, với thầy, với bằng hữu, đã thi hành trọn vẹn. Bây giờ rũ áo, mang đao Đồ Long ra đi cùng Triệu Minh, Vô Kỵ đã làm một hành động đẹp nhất đời, chàng theo quan điểm của tôi – một người trí thức tiểu tư sản.

Đọc trang cuối Cô gái đồ long, khi thấy Vô Kỵ cầm bút vẽ lông mày cho người yêu, tôi chợt khám phá ra một điều: tôi đã có lý khi chọn thái độ chống Cộng bởi vì các chính ủy ngoài bắc đã đốt hết sách Tự Lực Văn Đoàn để diệt người hùng tiểu tư sản thì tất sẽ đốt hết sách kiếm hiệp của Kim Dung, tôi cũng đã có lý khi chọn thái độ chống Cộng vì tuy lông mày người yêu tôi khá đậm không cần vẽ thêm, nhưng tôi vẫn muốn mãi mãi giữ được quyền tự do điểm nốt ruồi lên má nàng bất cứ lúc nào tôi muốn…



--------------------------------------------------------------------------------
[1]“Những kẻ sẽ chết chào Ngài”: công thức của những tay giác đấu thời La Mã chào hoàng đế trước khi vào đấu trường. (Chú thích của talawas)
Nguồn: In xong tại nhà in Nam Sơn, 36 Nguyễn An Ninh, Sài Gòn, ngày 10-5-1966. Nam Sơn xuất bản.

29/7/10

Nguyễn Minh Vương: Quá trình hiện đại hóa đã ảnh hưởng đến tôn giáo như thế nào?

Quá trình hiện đại hóa đã ảnh hưởng đến tôn giáo như thế nào?

Nguyễn Minh Vương

I. HIỆN ĐẠI HOÁ LÀ GÌ ?

Như chúng ta đã biết, đầu thế kỷ 17, nhờ những nghiên cứu về phương pháp thực nghiệm của hai triết gia Francois Bacon và Descartes, khoa học bắt đầu phát triển bằng “đôi hài bảy dặm”. Tới thế kỷ 19, nhà bác học người Pháp, Claude Bernard đề ra phương pháp nhận xét và thí nghiệm càng làm cho khoa học tiến triển một cách thần kỳ. Thực vậy, khoa học bây giờ đã trở thành như một tôn giáo mới, một tín điều mới ảnh huởng đến đời sống tư tưởng và giáo dục của con người mạnh mẽ đến nỗi ngay cả những hệ thống tôn giáo lớn cũng bị biến đổi theo. Nói rõ hơn, bất cứ điều gì con người hiện đại cũng lấy khoa học làm cơ sở để chứng minh; nhìn về lãnh vực tôn giáo, ngay cả trong những sự kiện gọi là phép lạ của các vị thánh, giáo hội cũng cần khoa học nhúng tay vào, để căn cứ vào đó mà thẩm định xem phép lạ có thật hay không.

Vì vậy, trước khi xem xét biến chuyển của tôn giáo trong môi trường Hiện đại hoá (HĐH), mà nói cụ thể, là sự thế tục hoá tôn giáo, ta thử khảo sát sơ những định nghĩa và ý nghĩa của quá trình HĐH. Đối với những biến chuyển to lớn của cuộc cách mạng công nghiệp, các nhà Xã hội học (XHH) đã có cách mô tả và giải thích như sau.

1. Theo Các Nhà Xã Hội Tiền Phong :

Nhà XHH Đức, Toennies cho rằng : quá trình hiện đại hoá như là bước quá độ từ XH cộng đồng sang một XH hiệp hội.

Theo É. Durkheim thì quá trình hiện đại hoá liên quan đến việc phân công lao động gia tăng trong các hoạt động sản xuất. Nói rõ hơn : đó là việc chuyển từ sự đoàn kết có tính cách máy móc sang sự đoàn kết hữu cơ

Đối với M. Weber, ông cho rằng : đó là quá trình tàn lụi của những khuôn mẫu tư tưởng truyền thống và đồng thới là sự gia tăng tầm quan trọng của tính hợp lý, (tức là Chủ nghĩa duy lý).

Cái nhìn của K. Marx về quá trình hiện đại hoá rất khác, vì ông nhấn mạnh đến tầm quan trọng của mâu thuẫn XH. Ông cho rằng : XH hiện đại đồng nghĩa với chủ nghĩa tư bản, là một hệ thống kinh tế được sản sinh ra do đấu tranh giai cấp vào cuối thời kỳ trung cổ.

Đó là những giải thích của các nhà XHH, tuy có một vài quan điểm khác nhau, nhưng chung qui vẫn là sự phủ định của những cái mới so với cái cũ trong dòng biến dịch của lịch sử. Bây giờ, chúng ta hãy xem quan niệm hiện đại về quá trình hiện đại hoá như thế nào.

2. Theo Lối Giải Thích Hiện Đại :

Hiện đại hóa hình thành một xã hội đại chúng :

Qui mô đời sống XH gia tăng : đời sống XH có qui mô nhỏ trong các XH tiền công nghiệp đã trở thành những cộng đồng có qui mô lớn trong các XH công nghiệp. Với tính chuyên môn hoá cao, cơ sở hạ tầng phát triển, công nghệ thông tin diễn ra với tốc độ chóng mặt, thị trường chứng khoán, hệ thống ngân hàng, tổ chức chính trị, dân số gia tăng nhanh chóng ở các đô thị… đã góp phần làm cho qui mô đời sống XH gia tăng mạnh mẽ. Con người hiện đại giải quyết những vấn đề cá nhân, không còn trong vòng luân lý của gia đình, làng xóm nữa, mà là ở những tổ chức XH, trung tâm tư vấn việc làm, giáo dục, tâm lý gia đình… Dân tộc thiểu số, phụ nữ, người nghèo đều có cơ hội tham gia bầu cử, tư vấn, giao dịch thị trường chứng khoán, tham gia các hoạt động, các phong trào từ thiện, thể thao, văn hoá… Các tổ chức này chính thức đảm nhận nhiệm vụ giúp con người hoà vào dòng chảy của thời đại, tự do cạnh tranh lành mạnh trong kinh tế thị trường mà không vi phạm đến nhân quyền, phẩm giá của người khác. Đặc biệt, cá nhân trong XHHĐ có quyền quyết định lối sống, nghề nghiệp, quan điểm, tôn giáo cho riêng mình mà không sợ bị lên án.

Qui mô lãnh đạo của nhà nước gia tăng : trong khi XH truyền thống chỉ biết có người cha trong gia đình và ông cai ông tổng ngoài làng ; thì trong XHHĐ, chính quyền nhà nước can thiệp vào tất cả các lãnh vực trong đời sống của con người như : giáo dục (hệ thống trường công có mức học phí thấp, chất lượng giảng dạy bảo đảm…), điều tiết lương bổng trong từng ngành, hướng nghiệp, trung tâm cai nghiện, hệ thống y tế đến tận nông thôn…

Nhìn chung, quá trình hiện đại hoá đã mang lại rất nhiều tự do, sự đa dạng hoá, cung cấp nền giáo dục chuyên môn sâu sắc, tuổi thọ trung bình cao hơn nhờ hệ thống y tế hiện đại, phương tiện thông tin thuận lợi nhanh chóng hơn các XH cổ truyền trong quá khứ rất nhiều. Họ không còn bị giới hạn, ràng buộc trong những hủ tục lạc hậu nhưng họ được quyền quyết định, chọn lựa lấy hạnh phúc cho riêng mình. Tuy nhiên, tính phức tạp của XHHĐ cũng gây không ít nguy hiểm cho đời sống con người. Đó là tính phi chuẩn mực trong đời sống luân lý và đạo đức của con người vì cá nhân được đề cao quá mức. Cho nên, cá nhân thường cảm thấy bất lực khi đối diện với hệ thống bàn giấy của chính quyền. Hơn nữa, mức độ gia tăng dân số, ô nhiễm môi trường, nạn kẹt xe, nạn thất nghiệp, tệ nạn bóc lột công nhân, nạn xì ke ma túy và các tệ nạn xã hội khác đã tạo cho đời sống XHHĐ những bài toán vô cùng hóc búa.

Hiện đại hóa hình thành một xã hội phân chia giai cấp

Với khía cạnh này, quan điểm của K. Marx được trình bày như sau. Cuộc cách mạng công nghiệp đã đẻ ra các nước công nghiệp và hệ thống của các nước này đặt cơ sở trên việc tìm kiếm lợi nhuận. Hệ thống đó đã không chừa bất cứ thủ đoạn nào để tìm kiếm lợi nhuận về cho mình. Chính vì thế XH hình thành hai giai cấp tư sản và vô sản. Trong đó, giai cấp tư sản nếu muốn thu lợi nhuận cao, họ phải tăng giá sản phẩm và hạ mức lương của công nhân đến mức tối thiểu. Họ xem con người như là một con ốc trong guồng máy khổng lồ và họ tìm cách khai thác hết năng suất bộ máy đó. Như vậy, tư bản đã đảo ngược quan niệm truyền thống xem con người dù ở vị trí nào trong XH cũng đều bình đẳng trước mặt Thiên Chúa theo quan niệm của Kitô giáo và ai cũng có phật tính theo quan niệm nhà Phật. Tuy đã có nhiều tiến trình rút ngắn cách biệt giữa các giai cấp so với XH cổ truyền, nhưng vẫn chỉ là bề mặt, bất bình đẳng XH không những không được xoá bỏ mà còn đào sâu thêm cái hố chia cắt các tầng lớp với nhau, vì hầu hết tài nguyên và của cải đều tập chung vào một thiểu số ưu tú. Về mặt nhà nước, thuyết này cho rằng nhà nước trong XH tự bản bảo vệ quyền lợi và tài sản cho giai cấp tư sản.

Tóm lại, thay vì nhấn mạnh qui mô ngày càng gia tăng của đời sống XH và sự hình thành các tổ chức chính thức, lối tiếp cận này nhấn mạnh đến sự bành trướng của giai cấp tư sản, nhấn mạnh đến sự vong thân của cá nhân vì không có thực quyền để thay đổi đời sống của mình.

II. THẾ TỤC HOÁ LÀ GÌ

Để có được một định nghĩa tôn giáo khách quan bao hàm được tất cả những thay đổi của các hiện tượng tôn giáo và cả những hình thái mới của niềm tin, các nhà XHH đã gặp những khó khăn rất lớn đó là tính chất của đối tượng nghiên cứu. Tuy nhiên, vẫn có một số khái niệm được đa số chấp nhận đó là tính linh thiêng, siêu nhiên và siêu nghiệm đối nghịch với thế gian là tự nhiên và duy nghiệm. Trong giới hạn bài này, xin được đưa ra hai loại hình định nghĩa về tôn giáo.

Định nghĩa về bản thể : định nghĩa này nêu lên tôn giáo là gì bằng những khái niệm trừu xuất từ những kinh nghiệm cụ thể. Berger đã đưa ra định nghĩa khá điển hình : “Tôn giáo là sản phẩm của con người qua đó vũ trụ linh thiêng được thiết lập.” Hạn chế của định nghĩa này là tách rời vũ trụ ra hai thế giới : thần thánh và con người. Điều đó dẫn đến việc xem tôn giáo là cái gì xa vời không thực tế và như vậy không có thẩm quyền gì trên đời sống của con người. Khi khoa học phát triển, con người giải quyết được nhiều vấn đề thực tế trong cuộc sống. Cho nên, hiện đại hoá là tất yếu đối với tôn giáo theo kiểu định nghĩa trên.

Định nghĩa về chức năng : định nghĩa này cho thấy tính cách hành động của tôn giáo, tức là tôn giáo làm cái gì, đáp ứng những nhu cầu nào, hay có những hệ quả gì đối với sự vận hành của cơ cấu xã hội. Yinger đưa ra một định nghĩa như sau : “Tôn giáo được định nghĩa như một hệ thống niềm tin và thực hành qua đó một nhóm người chiến đấu với những vấn đề tối hậu của nhân sinh.” Những vấn đề tối hậu là con người từ đâu đến, sẽ về đâu sau khi chết, nhất là về ý nghĩa của sự đau khổ… Hạn chế của định nghĩa này hàm ý rất nhiều thứ có thể là tôn giáo khi chúng thực hiện các chức năng trên, trái lại, nếu không thực hiện những chức năng đó thì không phải là tôn giáo. Điều này dẫn đến việc tách giáo hội ra khỏi nhà nước : mỗi cơ cấu thực hiện chức năng riêng của mình. Tôn giáo thực hiện chức năng tinh thần, còn nhà nước thực hiện chức năng trần thế. Định nghĩa còn được hiểu ngậm rằng : không có một tổ chức nào tự cho mình độc quyền đáp ứng một chức năng nhất định. Điều đó dẫn đến việc loại bỏ hoàn toàn tôn giáo ra khỏi xã hội.

Nói chung, chúng ta đều thấy rằng bản chất hay chức năng của tôn giáo không thể khái quát hoá được. Nó thay đổi tuỳ thuộc rất nhiều vào hoàn cảnh xã hội nhất định, tuỳ thuộc vào vị trí người đưa ra định nghĩa. Do đó, có thể nêu lên những thành tố xã hội thích đáng của hiện tượng tôn giáo, nghĩa là những yếu tố mà không có chúng ta không thể nói gì về tôn giáo được. Nói cách khác, tôn giáo không còn được nghiên cứu như một định chế tĩnh trong xã hội mà cần được quan niệm như một Trường Tôn giáo.

III. CÁC LÝ THUYẾT TỤC HOÁ.

Qua việc tìm hiểu quá trình hiện đại hoá ở trên, ta thấy tầm ảnh hưởng của quá trình không chỉ dừng lại trong đời sống thường nhật của con người mà còn len lỏi vào niềm tin của những tôn giáo lớn. Các nhà khoa học xã hội còn cho rằng có một mối tương quan chặt chẽ giữa tính hiện đại và hiện tượng thế tục hoá trong các tôn giáo.

1. Một Số Lý Thuyết Truyền Thống :

Vấn đề này không chỉ được các nhà xã hội học cổ điển quan tâm mà còn được lưu ý bởi các nhà triết học thuộc thế kỷ ánh sáng. Mặc dù cho nhiều tranh cãi về thuật ngữ này, nhưng có thể hiểu một cách đơn giản như sau : thế tục hoá là một quá trình qua đó tôn giáo giảm tầm quan trọng trong cả bình diện xã hội và trong ý thức của những cá nhân. Đa số những nhà nghiên cứu hiện tượng này đều chia sẻ quan điểm thế tục hoá là hậu quả của quá trình hiện đại hoá. Nói cách khác có mối quan hệ giữa giữa tính hiện đại và tôn giáo, nhưng mối quan hệ này nghịch biến. Tính hiện đại càng phát triển, tôn giáo càng biến mất. Sở dĩ có chủ trương như vậy là vì : tư duy khoa học hiện đại càng phát triển, con người càng nắm bắt và điều khiển được nhiên giới theo ý muốn của mình nhiều hơn. Như thế, cái thế giới thần thánh của cha ông như : bụt ở gốc đa, thần sông thần núi, Chúa ở trên trời ban ơn giáng phúc… bị giảm trừ đến mức tối thiểu. Weber gọi hiện tượng đó là sự giải mê thế giới, còn trong triết học thì gọi hiện tượng đó là sự giảm trừ Thượng đế ra khỏi suy tư của con người. Thế giới không còn bí ẩn thiêng liêng để con người cung chiêm bái lậy nữa nhưng là để biến đổi, khai thác, đào bới nhằm mục đích phục vụ cho hạnh phúc của con người. Sự tách biệt giữa nhà nước và giáo hội cũng làm cho vấn đề niềm tin chỉ còn là một chọn lựa mang tính cá nhân. Tư tưởng chỉ chấp nhận những gì mắt thấy tai nghe hay được chứng minh cụ thể bằng khoa học làm cho niềm tin vào thiêng đàng, niết bàn không còn được quan tâm. Chủ nghĩa thực dụng làm con người quên đi bản chất của mình là : ngoài nhu cầu vật chất, con người còn một nhu cầu thiết yếu khác đó là đời sống tinh thần.

Thêm vào đó, nhu cầu khách quan đòi hỏi phải tách biệt thần quyền ra khỏi thế quyền. Hình ảnh các ông vua chỉ được công nhận khi có sự chấp thuận của Giáo hoàng đã trở thành dĩ vãng. Ngược lại, ở các nước cộng sản, nhà nước không chỉ đòi quyền can thiệp vào lễ nghi tôn giáo mà còn muốn xen vào tổ chức của tôn giáo. Luận điểm của Marx cho ta thấy rõ điều đó trong tác phẩm Vấn đề Do thái : “Nhà nước mà còn cần lấy tôn giáo làm nền tảng thì chưa phải là nhà nước đích thực… Còn nhà nước dân chủ, một nhà nước thực sự thì nó không cần đến tôn giáo để bù đắp về mặt chính trị cho mình.” (C.Mác, Angghen Toàn tập, nxb. CTQG, 1995, tập Người, tr. 541). Sự tách biệt đó làm cho vấn đề tôn giáo chỉ còn là chuyện riêng tư của cá nhân. Như thế, qua các lập luận trên, đa số các nhà XHH đều cho rằng thế tục hóa là một hệ quả tất yếu của quá trình hiện đại hoá. Vì thế vào đầu TK 20, Crawley viết : “Ở mọi nơi, quan điểm đang thắng thế là tôn giáo hoàn toàn chỉ là vết tích từ thời kỳ nguyên thủy và sự lụi tàn của tôn giáo chỉ còn là vấn đề thời gian.

2. Một Số Quan Điểm Chống Lý Thuyết Thế Tục Hoá :

Điểm cần lưu ý ở đây là các nhà xã hội học chống lý thuyết thế tục hoá lại là những người Mỹ. Họ cho rằng lý thuyết thế tục hóa chỉ là một chủ thuyết (doctrine) chứ không phải là lý thuyết (theory) khoa học vì nó đặt trên những tiền giả định của một hệ ý thức được xem là bất biến. Lý luận rằng: hiện nay xã hội Châu Âu ít tính tôn giáo hơn cách đây 100 năm là kiểu lập luận không có cơ sở. Vì ở Bắc và Tây Âu, tỷ lệ tham dự lễ nghi rất thấp, trong khi ở Mỹ, đời sống xã hội hiện đại cao nhất thế giới, lại có chiều hướng gia tăng nhiều hơn. Cụ thể là tỷ lệ các tín hữu gia tăng gấp ba lần so với cách đây 150 năm. Tuy nhiên cũng không thể quyết rằng ở Châu Âu có mức độ thế tục hoá cao khi mà đại bộ phận vẫn còn tin vào Thượng Đế. Một nhà xã hội học nữa đã nhận xét : Vấn đề quan trọng là không phải tại sao dân chúng không còn tin nữa, mà là vấn đề tại sao họ vẫn còn tin nhưng cảm thấy rằng không cần thiết phải tham gia ở mức tối thiểu vào các định chế tôn giáo. Họ chủ trương giữ đạo tại tâm là đủ. Một khía cạch khác mà các nhà xã hội học ở Mỹ chống lý thuyết thế tục hoá là nếu khoa học phát triển thì tôn giáo không còn chỗ đứng. Vấn đề này hoàn toàn trái ngược trong bối cảnh xã hội Mỹ. Các nhà khoa học trong các lãnh vực có tính chính xác cao ở Mỹ lại tự khẳng định rằng mình có niềm tin cao hơn các nhà khoa học xã hội.

Tại sao lại có những hiện tượng trái ngược nhau như vậy? Để trả lời, họ đã ứng dụng mô hình về thị trường tôn giáo và lý thuyết sự chọn lựa hợp lý của hành động con người vào lãnh vực tôn giáo. Cả hai lý thuyết này đều thống nhất về khái niệm “nền kinh tế tôn giáo”, tức là xem các tôn giáo như là những xí nghiệp. Nơi đó, chức sắc của mỗi giáo hội có quyền tranh giành tín đồ trong một thị trường tôn giáo. Như thế, hiện tượng thế tục hoá chỉ là hậu quả đương nhiên của những độc quyền tôn giáo. Tuy nhiên, định chế độc quyền khó có thể đáp ứng nhiều nhu cầu của người tiêu thụ, nên ở Châu Âu người dân không còn tham dự các nghi lễ phụng vụ vì tính cách tập trung quyền hành rất cao. Còn ở Mỹ, giáo hội vận hành với thị trường, trong một cơ cấu đa nguyên và mềm dẻo, cho nên thu hút được rất nhiều tín đồ.

Một ưu điểm khác của lý thuyết chọn lựa hợp lý là cá nhân luôn hành động hợp lý bằng cách so sánh, cân đo đong đếm xem điều gì mang lại nhiều lợi nhuận nhất. Trên cơ sở đó, con người cũng chọn lựa xem tôn giáo nào bảo đảm cho mình vừa có đời sống đầy đủ về vật chất, vừa có sự ổn định về đời sống tâm lý, vừa thoả mãn khát vọng sâu xa về cuộc sống mai sau của mình… Nếu tôn giáo nào thoả mãn các điều kiện trên thì con người sẵn sàng chấp nhận đổi chác, tuân thủ các luật lệ do tôn giáo đó đề ra.

Nhờ những quan điểm này, các nhà XHH trong những năm gần đây đã đề ra những lý thuyết về thế tục hoá trong thời hiện đại mang tính chính xác và khoa học hơn.

3. Một Số Lý Thuyết Về Thế Tục Hóa Trong Những Năm Gần Đây :

Theo quan điểm của S. Bruce : Ông cho rằng giáo hội bị thế tục hoá ngay từ cuộc cải cách do Luther khởi xướng vào cuối thời Trung cổ (tk 17). Phong trào này dựa vào trường phái thực nghiệm của Occam và phủ nhận Thomas Aquinas thiên về lý trí và John Duns Scotus thiên về ý chí. (Bùi Đức Sinh, lịch sử giáo hội, tập II, tr. 9). Từ đó, chủ nghĩa cá nhân phát triển mạnh mẽ trong đời sống tôn giáo và hệ quả của nó là những quan điểm bất đồng sâu sắc về bản chất của Thượng Đế. Hơn nữa, ở giai đoạn này, tinh thần quốc gia tăng lên rất cao và việc thành lập các quốc gia đã làm cho mức độ tập trung quyền hành của giáo hội tan rã. Đức tin không còn tính chất khách quan, giáo điều mà được thay thế bằng tính chủ quan và tương đối. Xã hội đã đẩy tôn giáo vào trong thánh đường. Nghi lễ phụng tự và phong trào sa sút nghiêm trọng. Mức độ niềm tin xuống thấp hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, hiện trạng đó xảy ra ở một số nước Bắc Âu, nhưng ở trong xã hội hiện đại ở Hoa kỳ thì sự đa dạng của các Giáo hội và niềm tin lại có xu hướng gia tăng. Điều cho thấy rằng tôn giáo bị ảnh hưởng bởi xã hội hiện đại chỉ diễn trong bối cảnh lịch sử của Châu Âu.

Theo quan điểm của J. Casanova : ông nhận định rằng, thế tục hoá được hiểu như là quá trình phân biệt hoá định chế : “Quá trình phân biệt hoá định chế và sự giải phóng những lãnh vực thế tục đối với những chuẩn mực và những định chế tôn giáo vẫn là một khuynh hướng trong xã hội hiện đại.” Tuy nhiên, tính hiện đại không phải lúc nào cũng dẫn đến việc mất niềm tin và lễ nghi tôn giáo. Chỉ có những tôn giáo bảo thủ, kháng cự lại quá trình phân biệt hoá cơ cấu là những tôn giáo thích ứng khó khăn với lối sống hiện đại. Việc người dân Châu Âu không còn đi lễ ngày chủ nhật và cử hành các bí tích, hoàn toàn không phải là hậu quả tất yếu của quá trình hiện đại hoá, nhưng đúng hơn là hậu quả của sự giàn xếp giữa tôn giáo và nhà nước.

Theo quan điểm của D. Hervieu-Léger: Bà cho rằng Tôn giáo là kí ức. Từ đó, bà giải thích hiện tượng thế tục hoá trong tôn giáo không phải do chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa khoa học ; nhưng là vì tôn giáo không còn khả năng truyền lại các kí ức, truyền thống – là nền tảng trung tâm cho sự hiện hữu của cộng đoàn và đời sống của giáo hội. Do đó, bản chất của các xã hội hiện đại là hủy diệt những giá trị truyền thống của tôn giáo, nhưng nó cũng mở ra những không gian mà chỉ có tôn giáo mới lấp đầy được. Thật vậy, tự muôn đời con người là động vật thiếu quê hương. Cho nên, một nghịch lý của xã hội hiện đại là càng đạt được những dự phóng của tính hiện đại, con người càng cảm thấy thiếu một cái gì đó mà chỉ có tôn giáo mới bù đắp được. Như thế, tuy nó loại bỏ những hình thức tôn giáo truyền thống, nhưng vẫn còn bảo lưu tính siêu việt, khả năng trở nên giống như Thượng Đế có sẵn trong con người của mình.

VI. NHẬN ĐỊNH

Trước tiên, để có một quan niệm tương đối về sự ảnh hưởng của tính hiện đại lên tôn giáo, cần phải có một định nghĩa mang tính khách quan và phổ biến. Một trong những định nghĩa nêu lên được tính khách quan đó là định nghĩa của Berger. Ông viết: “Đó là quá trình, qua đó xã hội và văn hoá thoát khỏi sự thống trị của các định chế và biểu tượng tôn giáo.” Ông còn giải thích thêm rằng chính vì Tây phương đã sản sinh ra ngày càng nhiều chủ nghĩa cá nhân và sự sung túc về vật chất nên lối sống của họ không còn cảm thấy một lợi ích nào từ những lý giải của tôn giáo. Từ đó, chúng ta đưa ra hai mức độ của thế tục hóa :

1. Sự độc lập trong các lãnh vực khác đối với định chế và quyền lực tôn giáo, trong khi vẫn bảo tồn các biểu tượng tôn giáo. Ở mức độ này, chúng ta lại tiếp tục chia ra làm ba cấp độ.

Ở cấp độ vĩ mô, thế tục hoá được hiểu như là quá trình phân biệt hoá các định chế, các lĩnh vực thế tục tách ra, thoát khỏi ảnh hưởng, chuẩn mực của tôn giáo. Đây chính là điểm cốt cán của vấn đề mà tất cả các nhà xã hội học đều phải công nhận. Swatos nói rằng : “Nếu thế tục hoá chỉ hiểu như vậy thì không có gì tranh luận.” Thật vậy, hầu hết các nhà nước đều muốn độc lập hẳn với tôn giáo, thậm chí trong những nước độc đảng, nhà nước còn có tham vọng điều khiển luôn cả cơ chế và tổ chức của tôn giáo.

Ở cấp độ trung mô, thế tục hoá diễn ra dưới nhiều hình thức. Cụ thể nhất là trong giáo dục. Các trường công ở Pháp không còn giáo dục về tôn giáo. Ngay cả những hệ thống trường tư thục Công giáo cũng phải tuân theo những chuẩn mực của nhà nước. Còn trong các nước cộng sản thì ta thấy tôn giáo hoàn toàn bị loại trừ trong giáo dục. Còn trong nghệ thuật, âm nhạc, mỹ thuật, truyền thông đều tách khỏi tôn giáo và càng ngày càng có tính chuyên môn hoá cao.

Ở cấp độ vi mô, thế tục hoá cũng có những dấu hiệu rõ rệt. Các cá nhân quan niệm về Thiên Chúa, về tội lỗi, về nghi lễ, về lề luật ngày càng khác biệt, thậm chí đối lập với cả những người lãnh đạo tôn giáo. Ngay cả việc công nhận tính cách trung gian giữa giáo hội và Thiên Chúa, cũng có rất nhiều người phủ định hoàn toàn.

2. Việc loại bỏ luôn các biểu tượng tôn giáo còn tuỳ thuộc ở cách định nghĩa tôn giáo là gì. Tuy nhiên, ở mức độ này, hiện trạng thế tục hoá xảy ra hạn chế hơn.

Ở cấp độ vĩ mô, tuỳ theo hiến pháp của các quốc gia có còn quy chiếu về tôn giáo hay không. Ở Pháp, tôn giáo không được quy chiếu trong hiến pháp nước này. Ở Anh cũng thế, người ta cấm tất cả các chức sắc tôn giáo tự ứng cử vào quốc hội.

Ở cấp độ cá nhân, có hai xu hướng đối nghịch nhau. Một mặt, số người trẻ không còn tin vào tôn giáo và tin vào sự hiện hữu của Thượng Đế gia tăng. Mặt khác, họ lại hay tin vào phép lạ, vào đời sau với tỷ lệ cao. Có thể nói rằng, họ tin nhưng lại không muốn tỏ ra niềm tin ấy là do lòng hảo tâm ban phát của giáo hội, vì thế không muốn lệ thuộc vào bất kỳ một tôn giáo nào. Họ cho rằng chính họ sáng tạo ra niềm tin đó nhờ những cảm nhận về sự vô nghĩa của đời sống, về thân phận con người, về cái chết… Một phần ba những người tự cho là không có tôn giáo lại có một số tin tưởng nào đó mang tính tôn giáo.

Tóm lại, việc giảm niềm tin và sự thực hành các lễ nghi tôn giáo không phải là dấu hiệu duy nhất để thẩm định mức độ thế tục hoá. Nó còn phụ thuộc vào môi trường, hoàn cảnh xã hội, mối tương quan giữa nhà nước và tôn giáo. Do đó, hiện đại hoá chỉ ảnh hưởng phổ biến trong xã hội Châu Âu và ở một số tầng lớp trí thức, nhất là trong lãnh vực khoa học nhân văn. Trái lại, ở Mỹ Châu, tính đa dạng của đạo Tin lành cho phép cá thể hoá tôn giáo và như vậy lại duy trì được sự tồn tại của tôn giáo. Một cách tổng quát, chúng ta có thể nói như Berger rằng hiện đại hoá đã làm cho tôn giáo không còn thống trị xã hội và văn hoá bằng các định chế và biểu tượng của mình. Nhất là trong những tôn giáo độc thần, hiện tượng số tín đồ giảm sút, hiện tượng mất đức tin ngày càng gia tăng. Đó chính là con người ngày càng dị ứng và có khuynh hướng loại trừ các tín điều, giáo lý, và đức tin một cách mù quáng. Bởi tôn giáo độc thần dễ sản sinh ra thái độ độc quyền cai trị bằng các tín điều, luân lý, đạo đức được núp bóng dưới những danh từ như Thiên Chúa, Chân Thiện Mỹ,… nên tôn giáo ngày càng mất ảnh hưởng trong xã hội hiện đại ngày nay.

SÁCH THAM KHẢO

1. Bùi Đức Sinh, Lịch sử giáo hội công giáo, quyển II, nxb. Veritas Edition, 1999

2. Nguyễn Xuân Nghĩa, Tôn giáo trong thời hiện đại, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 2, 2003, tr. 21-30 và Định nghĩa về Tôn giáo, số 2, 2002, tr. 21-27

3. Nguyễn Xuân Nghĩa, Xã hội học, 2005,

Nguyễn Minh Vương

Daniel Ellsberg- Xấu xa hơn cả bọn ăn thịt người

Xấu xa hơn cả bọn ăn thịt người
Harry Kreisler phỏng vấn Daniel Ellsberg



Nguyên tác:
Worse than Cannibals
Guernica, tháng 1-2010



Lời giới thiệu của người dịch: Trong một phần tư thế kỉ Mĩ can thiệp ở Việt Nam (1950-1975), nhất là trong những năm quân đội Hoa Kỳ trực tiếp tham gia chiến trận (1965-1973) với hơn 3 triệu binh lính, hàng triệu người Mĩ đã lên tiếng chống lại chính sách chiến tranh, bằng những hình thức và mức độ khác nhau. Họ là những trí thức, sinh viên, thanh niên, mục sư, linh mục, nghệ sĩ… Họ là những người có tên tuổi do sự nghiệp, chức vị, như Martin Luther King, Noam Chomsky, Benjamin Spock, Jane Fonda… hoặc là những người mà dư luận chỉ biết tên qua hành động chống chiến tranh dũng cảm như Angela Davis, hai linh mục anh em Daniel và Philip Berrigan (vào tù vì chống chiến tranh), Norman Morrison (tín đồ Quaker, tự thiêu trước Lầu năm góc)… Đằng sau họ, chung quanh họ là hàng triệu người “vô danh” đã “biểu tình ngồi”, “biểu tình đứng”, “biểu tình đi vòng quanh”, đốt thẻ quân dịch, chấp nhận án tù hay lưu đầy để không tham gia cuộc chiến tranh phi nghĩa.
Trong những con người ấy, Daniell Ellsberg giữ một vị trí đặc biệt. Anh thuộc thế hệ và loại người mà nhà báo Mĩ David Halberstam gọi là “ The Best and the Brightest ” (những con người ưu tú và xuất sắc nhất), những cá nhân giỏi giang được tuyển mộ vào chính quyền Mĩ, trở thành những cộng sự viên đắc lực nhất của tổng thống Hoa Kì. Sinh năm 1931, Daniel Ellsberg là một điển hình của mẫu người “văn võ toàn tài” kiểu Mĩ: tiến sĩ kinh tế học (Trường đại học Harvard, 1962), tốt nghiệp thủ khoa khoá đào tạo 1100 thiếu uý Thuỷ quân lục chiến (Marine Corps Basic School, Quantico, Virginia). Sau hai năm phục vụ trong quân chủng “sừng sỏ” này, Ellsberg vào làm “phân tích viên” của tập đoàn RAND. Từ đó cho đến mùa hè năm 1969, với tư cách là nhân viên của “think tank” này, hay với tư cách là viên chức của chính quyền, ở Lầu năm góc, Việt Nam hay Nhà Trắng, Ellsberg đã làm việc với những cánh tay mặt của các tổng thống (Kennedy, Johnson, Nixon) như Robert McNamara (bộ trưởng quốc phòng của Kennedy và Johnson), Edward Lansdale (CIA, cha đỡ đầu của chế độ Việt Nam cộng hoà), Henry Kissinger (cố vấn an ninh của Nixon).

Là một trong vài ba người đã được đọc toàn bộ 7000 trang tài liệu “mật” mang tên “Hồ sơ Lầu năm góc” (Pentagon Papers) và đã chứng kiến từ bên trong chính sách “nói một đàng làm một nẻo” ở Việt Nam của “5 đời tổng thống” (từ Harry Truman đến Richard Nixon), Ellsberg bắt đầu tham gia những cuộc biểu tình chống chiến tranh, gặp những người sẵn sàng vào tù để lên án cuộc chiến tranh phi nghĩa và vô vọng. Cuối cùng là quyết định công bố Pentagon Papers, như ông kể lại trong cuộc phỏng vấn này.

Điều mà bài phỏng vấn không đề cập là những gì diễn ra trước và sau khi công bố. Xin nhắc lại vài mốc chính:

* trong suốt năm 1970, D. Ellsberg tìm cách thuyết phục những thượng nghị sĩ phản đối chiến tranh – như J. William Fulbright, chủ tịch Uỷ ban đối ngoại Thượng viện, George McGovern, người sẽ ra tranh cử với Nixon năm 1972 – hãy công bố Hồ sơ Lầu năm góc ngay tại hội trường Thượng viện, nhưng không người nào dám làm việc này.

* D. Ellsberg đành cung cấp bộ tài liệu mật cho kí giả Neil Sheehan: ngày chủ nhật 13.6.1971, báo The New York Times công bố phần đầu trong 9 phần trích đoạn 7000 trang hồ sơ. Toà án, theo yêu cầu của chính quyền Nixon, ra lệnh cho New York Times phải ngừng công bố. Ellsberg trao hồ sơ cho The Washington Post và 17 nhật báo khác trước khi “rút vào vòng bí mật” vì, tuy The New York Times không tiết lộ danh tính, ông tin rằng chính quyền sẽ biết chính ông là nguồn gốc của sự “rò rỉ” này.

* Ngày 29.6.1971, thượng nghị sĩ Mike Gravel (bang Alaska) cho đăng 4 100 trang Hồ sơ Lầu năm góc vào ấn bản của một tiểu ban Thượng viện. Tài liệu này sau đó được nhà xuất vản Beacon Press phát hành dưới tên gọi “ấn bản Gravel”. (trước đó một ngày, Ellsberg ra trình diện trước công lý, đến tháng 1.1973 mới bị xử -- xem dưới).

* Cuối cùng, Toà án Tối cao xử The New York Times thắng kiện chính quyền liên bang. Nhà Trắng trả thù bằng cách bôi nhọ Ellsberg. John Erlichman, trợ lý nội vụ của tổng thống Nixon, thành lập nhóm “Thợ hàn của Nhà Trắng” (White House Plumbers, hàm ý nhiệm vụ của nhóm này là “bịt kín” những “rò rỉ” hồ sơ mật). Nhóm này đột nhập phòng khám bệnh của Lewis Fielding, bác sĩ tâm thần học của Ellsberg, nhưng không tìm thấy “hồ sơ bệnh lí” của Ellsberg. Từ đó, nhóm “Thợ hàn” tiếp tục được Nhà Trắng sử dụng để bới móc đời tư của các chính khách đối lập như Thượng nghị sĩ Edward Kennedy, và cuối cùng bị bắt quả tang đột nhập trụ sở Uỷ ban tranh cử của Đảng dân chủ tại toà nhà Watergate. Vụ “ bê bối Watergate ” đã dẫn tới việc Nixon phải từ chức năm 1974 để tránh bị truy tố và cách chức.

* Vụ ăn trộm văn phòng của bác sĩ Fielding, mãi đến ngày 3.1.1973 mới được công bố trong phiên toà xử Daniel Ellsberg vì vi phạm “Luật gián điệp 1917”, tại Los Angeles. Cùng với việc này, nhiều hành động phạm pháp khác của Nhà Trắng (nghe trộm các cuộc điện đàm, mua chuộc quan toà…) đã được đưa ra ánh sáng, nêu rõ trách nhiệm của những người thân cận tổng thống (Haldeman, tổng thư kí Nhà Trắng, Mitchell, bộ trưởng bộ tư pháp..) và của chính tổng thống Nixon. Cuối cùng, ngày 11.5.1973, toà án Los Angeles đã bác bỏ tất cả các tội trạng của Daniel Ellsberg và bạn ông là Anthony Russo. Một năm sau, Richard M. Nixon phải từ chức.

Nguyễn Ngọc Giao






Giới thiệu của Tạp chí Guernica: “Phần tử quấy rối” trứ danh nhất của nước Mĩ kể lại chuyện ông chuẩn bị vào tù, chuyện tổng thống dối trá tràn lan, và tại sao chiến tranh kéo dài.

Sang năm 2011 sẽ là 40 năm kể từ ngày Daniel Ellsberg tiết lộ Hồ sơ Lầu năm góc cho nhật báo New York Times. Sự kiện này đã vạch trần sự dối trá của chính quyền trong việc thông tin về chiến tranh Việt Nam và góp phần thúc đẩy việc tổng thống Nixon từ chức. Năm mới cũng có thể chứng kiến việc cuốn phim tài liệu The Most Dangerous Man in America: Daniel Ellsberg and the Pentagon Papers (Người đàn ông nguy hiểm nhất của nước Mĩ: Daniel Ellsberg và Hồ sơ Lầu năm góc) được vào chung kết giải Oscar (nó đã được vào vòng đầu hồi tháng 11.2009). Cuốn phim nói về “ phần tử quấy rối ” có lẽ nổi tiếng nhất nước Mĩ, đồng thời cũng là biểu tượng cho lòng dũng cảm và tinh thần trách nhiệm của phong trào phản chiến ngày nay. Ở thời điểm mà đất nước của ông đang dính líu vào hai cuộc chiến tranh gây ra tranh cãi, lời nói của Daniel Ellsberg, năm xưa và bây giờ, vẫn gây tiếng vang lớn.

Tháng giêng năm nay, Hoa Kì bắt đầu triển khai thêm gần ba chục ngàn binh sĩ trong cuộc chiến ở Afghanistan, thì khi Daniel Ellsberg nói về quá trình quyết định của tổng thống, về cách thức mà chính quyền trình bày các quyết định ấy với công chúng, nhất là trong tình huống các cuộc chiến tranh trở thành thứ tâm bệnh di truyền thừa hưởng từ quá khứ, sự mô tả của ông âm hao như một lời tiên tri. Trong cuộc phỏng vấn công bố dưới đây, ông nói: “ Điều mà tôi rút ra từ năm 1969 và từ Hồ sơ Lầu năm góc, là Nixon, người thứ năm trong chuỗi những tổng thống Mĩ (dính líu vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam), đã quyết định kéo dài cuộc chiến tranh vì ông ta hi vọng hão huyền rằng mình có thể đạt được một kết cuộc tốt đẹp hơn là nếu ông ta chấp nhận thương lượng cách nào rút ra êm thấm, và cơ bản có nghĩa là chấp nhận thất bại. Ông ta hy vọng đạt kết quả tốt hơn thế nhiều ” (bài phỏng vấn sẽ được công bố trong cuốn Political Awakening: Conversations with History, nhà xuất bản New Press sẽ ấn hành vào tháng 3.2010).

Cuộc đời của Daniel Ellsberg (năm nay 78 tuổi) là cả một hành trình khác thường. Sinh trưởng ở thành phố Detroit, ông đỗ tiến sĩ kinh tế học ở Harvard trước khi đầu quân vào Thuỷ quân lục chiến. Sau đó vào làm việc cho Rand Corporation. Với cương vị chuyên gia về Việt Nam của công ti này, Ellsberg được Bộ trưởng quốc phòng Robert McNamara yêu cầu tham gia vào một nhóm tuyệt mật có nhiệm vụ nghiên cứu các tài liệu mật về quá trình tiến hành chiến tranh Việt Nam, sau này sẽ được gọi chung là Hồ sơ Lầu năm góc. Hiếm ai có trải nghiệm (và dũng cảm) để có thể khẳng định một cách có thẩm quyền về những tổng thống Mĩ như Ellsberg trong cuộc phỏng vấn dưới đây khi ông nói: “Thật sự là họ chẳng mấy khi ngại nói dối về các vấn đề đó. Trình bày sự việc cho công chúng theo một đường hướng không tương ứng gì với thực tại, đối với họ là “thuận tiện” và có lợi về chính trị”.

Cho nên khi tổng thống Obama nói với sinh quân Học viện West Point (và qua đó, với thế giới) rằng quyết định của ông là do ông “tin tưởng rằng nền an ninh của chúng ta được định đoạt ở Afghanistan và Pakistan”, Ellsberg nhảy chồm lên thì cũng không có gì lạ. Những lí do được nêu ra để giải thích rằng an ninh của Hoa Kì bị đe doạ ở Afghanistan – một chính phủ thối nát, phi nghĩa đối với nhân dân Afghanistan, bầu cử thì gian lận, dân chúng ủng hộ các lực lượng chống đối không phải vì ưa thích đám này, mà vì họ muốn người ngoại quốc (nhất là lính Mĩ) cuốn gói đi – “nghe hệt như chuyện Việt Nam trước đây”, Ellsberg nói.


Daniel Ellsberg

Harry Kreisler phỏng vấn Daniel Ellsberg (năm 1998):

Harry Kreisler: Lần đầu tiên ông dính líu tới Việt Nam là năm nào?

Daniel Ellsberg: Tôi chưa bao giờ nói công khai chuyện này, nhưng sự thật là tôi đã sang Việt Nam năm 1961 với một nhóm đặc nhiệm, tổ nghiên cứu của Bộ quốc phòng thời Kennedy, về nghiên cứu & phát triển chiến tranh hạn chế. Lúc đó tôi đã có một cái nhìn chung về tình hình Việt Nam và tôi đã quyết định là nếu có thể, trên con đường quan lộ, tôi sẽ lánh xa vấn đề này. Trở về Mĩ, tôi tham gia việc soạn thảo bản báo cáo cho RAND. Bản báo cáo chứa đựng những gì tôi biết được trong nhóm nghiên cứu, với khuyến nghị cơ bản là: chớ tìm kiếm tài trợ để nghiên cứu vấn đề Việt Nam, đừng dính liu vào đó, hãy tránh xa ra, sa vào đó nhất định thất bại. Bởi vì ngay từ năm 1961, hay trước đó nữa, rõ ràng là không thể hi vọng rằng phương Tây có thể làm gì được để khuất phục một phong trào đấu tranh cho độc lập quốc gia và chủ quyền dân tộc ở Việt Nam, do Cộng sản lãnh đạo, đã đánh bại người Pháp được người Mĩ ủng hộ mạnh mẽ về tài chính, vật tư và các thứ. Trước mặt chúng ta, cơ bản vẫn là đối phương đó, và khả năng chúng ta làm tốt hơn người Pháp là rất thấp.

Thế là trong nhiệm kì Kennedy làm tổng thống (năm 1961, rồi 1962, 1963), tôi đã tránh xa những cuộc thảo luận về Việt Nam, tôi không muốn sa vào đó. Tôi cho là dính dấp vào đó cũng tương tợ như dính líu vào vụ Vịnh Con Heo, cuộc đổ bộ thảm bại ở Cuba đã làm cho hầu như tất cả những người dính dáng vào đó đã bị thân bại danh liệt.

Harry Kreisler: Nhưng rồi ít năm sau ông vẫn trở lại Việt Nam?

Daniel Ellsberg: Không, tôi bị gửi sang… Có thể nói là tôi miễn cưỡng, bị người ta gửi trở lại Việt Nam. Phần tôi cũng muốn quan sát quá trình hoạch định chính sách của chính phủ từ bên trong, sau mấy năm tìm hiểu quá trình ấy với tư cách một nhà nghiên cứu và tư vấn. Ngày đầu tiên tôi dính líu vào vụ này, là tôi ngồi đọc các “bức điện”, hay như họ thường nói, là “tắm mình” trong dòng chảy của những điện tín gửi từ một vùng đất nhất định. Hầu như tất cả những bức điện đầu tiên tôi đọc hôm ấy đều liên quan tới một vụ có vẻ như là tấn công vào khu trục hạm của ta ở Vịnh Bắc Bộ. Đó là ngày mồng 4 tháng 8 năm 1964. Và tôi ngồi đó, đọc một loạt điện “thượng khẩn”, báo cáo các khu trục hạm của chúng ta lại bị tấn công, dồn dập tới vào khuya hôm đó. Tất cả các điều họ biết chỉ đều là qua radar và sonar.

Nhảy cóc mấy năm sau nhé: mấy năm sau, rõ ràng là không có tấn công gì ráo. Họ đánh nhau với những hình bóng trên màn ảnh radar và sonar dưới nước. Họ bắn loạn xạ vào những bóng ma đó chứ thật ra không hề có ngư lôi nào của đối phương bắn ra cả.

Nhưng trở lại thời điểm đó, họ được báo cáo tường tận là chiến hạm của ta bị tấn công. Rồi, cũng trong ngày đầu tiên ấy, tôi đọc một bức điện nói “Tạm ngưng mọi chuyện”. Viên chỉ huy hai chiến hạm thỉnh cầu chưa hành động phản ứng gì vội, đợi ban ngày họ có cơ hội quan sát mặt biển xung quanh xem có xác tàu đắm, vết dầu loang, người sống sót nào không. Bởi vì họ nghĩ đã đánh đắm tàu địch, tất sẽ phải tìm thấy vài dấu hiệu. Lúc đó có nghi vấn lớn về quy mô cuộc tấn công, và nghi vấn là thật sự có tấn công hay không. Thực khó mà xác nhận điều này. Tuy nhiên, trước lúc nhận được bức điện ấy, thì tổng thống đã quyết định bắt đầu những phi vụ chống Bắc Việt.

Thế là chúng ta đã tung ra 64 phi vụ đánh Bắc Việt. Suốt đêm hôm đó, tôi ở liền trong Lầu năm góc để theo dõi các phi vụ và hậu quả, những sự việc diễn ra ở phía bên kia trái đất, cách 12 thoi giờ, nghĩa là bên ấy là ngày, bên này là đêm.

Rồi trong vài ngày tiếp theo, tổng thống đã được Quốc hội hầu như nhất trí ủng hộ một điều coi như là tương đương với quyết định tuyên chiến: nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, mà tổng thống cho rằng như vậy là Quốc hội ủng hộ chiến tranh, trong khi Quốc hội lại được giải thích để hiểu là không phải như vậy. Và thế là chúng ta đã bước sang giai đoạn Hoa Kì tham gia mạnh mẽ vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam.

Harry Kreisler: Căn cứ vào những gì chính ông thấy tận mắt, lúc đó ông có hoài nghi gì không về những điều mà tổng thống yêu cầu nơi Quốc hội?Công chúng thì ngày ngày bị tổng thống, người phát ngôn của tổng thống và các quan chức lừa dối.

Daniel Ellsberg: Hoàn toàn không thể nghi ngờ. Tổng thống nói với Quốc hội và công chúng rằng chiến hạm nước ta bị tấn công, bằng chứng về điều này hết sức rõ ràng. Nói thế là nói dối. Và tôi, lúc đó tôi biết là nói dối. Trước khi cuộc tấn công bắt đầu, đã có rất nhiều nghi vấn đã được nêu lên, và rõ ràng là tình hình rất mập mờ, không có gì rõ ràng cả. Tôi nghĩ lúc đó tôi chỉ có thể nói, và nhiều người khác nữa cũng chỉ có thể nói thế này thôi: “Có thể đã xảy ra một cuộc tấn công”. Nhưng tổng thống đâu có nói thế với công chúng. Ông đã nói dối với công chúng.

Thứ nữa, giả định là cuộc tấn công có thực, tổng thống còn nói rằng: đó rõ ràng là một cuộc tấn công ở ngoài khơi, vô cớ đánh vào khu trục hạm của chúng ta. Đây cũng là một lời nói dối, theo nghĩa này: trước đó hai ngày, đúng là đã có một cuộc tấn công tiến hành sau khi Mĩ tung ra những cuộc đánh phá Bắc Việt vào đêm hôm trước – những hành động này được tiến hành một cách bí mật, nguỵ trang và nhất mực bị phủ nhận. Tóm lại, có bằng chứng là vụ này do chính chúng ta gây hấn. Thế mà tất cả, McNamara, Rusk, Vance đều giấu nhẹm, không cho Quốc hội biết về các cuộc đánh phá mà Hoa Kì đã tiến hành.

Harry Kreisler: Trong bối cảnh làm việc như vậy của ông ở Lầu năm góc, các tuyên bố công cộng không ăn khớp gì với những điều mà ông và những người khác ở trong hành lang của quyền lực biết được, các ông xử lí ra sao trước sự bất nhất này?

Daniel Ellsberg: Tính từ năm 1959 đến thời điểm đó, tôi đã làm tư vấn cho chính phủ được khoảng 6 năm, từ Eisenhower, qua Kennedy rồi bấy giờ là Johnson. Tính tới lúc đó, tôi đã được đọc hàng vạn trang tài liệu mật, do đó có thể so sánh những gì tôi biết với những gì công chúng được nghe giải thích. Công chúng đã bị tổng thống, các người phát ngôn của ông ta cũng như các viên chức nói dối, nói dối ngày này qua ngày kia. Nếu anh không chế ngự được ý tưởng rằng, vì đủ mọi thứ lí do, tổng thống đã dối trá đối với công chúng, thì anh không thể nào ở yên trong vị trí đó trong chính quyền, là nơi anh buộc phải biết, tuần nào cũng thế, tất cả những điều đó.

Tôi nói điều này vì đôi khi có người suy luận, cho rằng tôi đã trao Hồ sơ Lầu năm góc cho New York Times là để bị bỏ tù. Như Harrison Salisbury của báo New York Times đã nói, “Anh ấy đã không chịu được sự dối trá”. Tuyệt nhiên không phải vậy đâu. Tôi không đâm đầu vào tù chỉ để công bố hồ sơ. Nếu anh không thể chung sống với ý tưởng là tổng thống nói dối, thì anh không thể làm việc với các tổng thống được. Sự thật là hiếm khi nào các tổng thống nói toàn bộ sự thật. Họ không bao giờ nói thật và nói hết là họ toan tính, chờ đợi gì, là họ đang làm gì, họ tin tưởng ở những điều gì và tại sao họ lại đang làm những việc họ làm. Và sự thực là ít khi họ ngần ngại nói dối về những điều này. Nói với công chúng, trình bày sự việc theo một cung cách không đúng với sự thật, đối với họ, rất là tiện lợi, và về mặt chính trị, rất hữu hiệu.

Harry Kreisler: Và cứ như thế, ông ngày càng dấn thân vào cuộc chiến tranh. Sau thời gian này, ông đã sang Việt Nam và làm việc ở đó.

Daniel Ellsberg: Vâng, vào mùa hè 1965, tổng thống đã quyết định leo thang chiến tranh không kì hạn. Từ tháng hai 1965, chúng ta đã ném bom (miền Bắc Việt Nam) và tham chiến mạnh mẽ; lúc đó, chúng ta đã có hơn 100 000 binh sĩ ở Việt Nam. Chúng ta đã “làm chiến tranh”. Và tôi, vốn là một thuỷ quân lục chiến trong thời bình (1954-1957) – tiểu đội trưởng, rồi chỉ huy đại đội – tôi không muốn ngồi yên ở Washington mà theo dõi chiến cuộc. Nên tôi đã tình nguyện sang Việt Nam, làm công tác liên lạc giữa đại sứ quán và phía Việt Nam. Tôi cảm thấy đây là cơ hội để hiểu được cuộc chiến tranh và có thể tránh được những thể loại kết cục xấu nhất.

Phần lớn thời gian tham gia ở Việt Nam, tôi thấy rõ là chúng ta không có triển vọng nào khác là ẩn ức, bế tắc, giết hại và chết chóc. Chẳng có mấy hi vọng đi tới một kết cục thuận lợi hay ít nhất một kết cục tạm gọi là chấp nhận được. Giỏi lắm là khả năng hoặc trì hoãn sự thất bại, hoặc phải thay đổi chính sách.

Tôi là người nghiên cứu duy nhất, ở trong cũng như ở ngoài chính quyền, được phép tham khảo toàn bộ 47 tập khảo sát để thực hiện cuộc nghiên cứu. Tổng cộng là bảy nghìn trang tài liệu, tối mật.

Sau này, khi nghiên cứu trở lại toàn bộ hồ sơ, tôi mới phát hiện ra một điều là: thực ra, các tổng thống chưa bao giờ nhận được những khuyến nghị mang lại hi vọng dứt khoát là sẽ kết cục thành công ở Việt Nam. Mặt khác, họ chỉ thấy nêu ra khả năng trì hoãn được thất bại, hay trì hoãn được tình thế gay go sẽ xảy ra nếu Mĩ rút khỏi Việt Nam, để người Việt Nam quyết định lấy cuộc sống chính trị của họ -- điều ấy có nghĩa, hầu như chắc chắn, là sự bá quyền của cộng sản. Để tránh viễn ảnh ấy, họ chỉ còn một chọn lựa là cái giá phải trả đối với người Mĩ và người Việt ngày mỗi tăng, về sinh mạng, tiền của cũng như sự dính líu. Rốt cuộc là tổng thống nào cũng chọn cách ấy. Kennedy đã chọn như thế, Johnson đã chọn như thế, và đó cũng là chọn lựa của Nixon cho đến ngày ông ra phải từ chức.

Harry Kreisler: Về lại Washington với công việc ở RAND, ông được phép tham khảo những hồ sơ sau này sẽ được họi là “Hồ sơ Lầu năm góc”. Ông hãy cho biết đó là những tài liệu gì.

Daniel Ellsberg: Tôi ở Việt Nam hai năm, từ 1965 đến 1967. Phần lớn thời gian đó tôi có nhiệm vụ đánh giá công cuộc bình định, nên tôi đã đi hầu hết các tỉnh (Nam) Việt Nam. Chính xác là tôi đã đi 38 tỉnh trên tổng số 43. Tuy là dân sự, tôi đã sử dụng sự huấn luyện trong thuỷ quân lục chiến để làm việc với quân đội trong một thời gian, và có lúc tôi đã trải nghiệm chiến đấu thực sự. Do đó, tôi đã thấy “cận cảnh” cuộc chiến tranh, cụ thể là ở cấp độ đại đội bộ binh. Tôi đã bị viêm gan, có lẽ đã nhiễm bệnh trong một cuộc hành quân dã ngoại, trở về Mĩ, ra khỏi cơ quan chính quyền và trở lại hàng ngũ Tập đoàn RAND. Ngay lập tức, tôi được cử tham gia dự án lịch sử mà McNamara đã tiến hành tổ chức ở Lầu năm góc, dưới tên gọi chính thức là “Quá trình lấy quyết định của Hoa Kì ở Việt Nam, 1945-1968”.

Tôi là nhà nghiên cứu duy nhất, ở trong cũng như ở ngoài chính quyền, được tiếp cận toàn bộ 47 tập khảo sát để thực hiện công cuộc nghiên cứu. Tổng cộng là bảy ngàn trang tài liệu “tối mật”. Trong phòng làm việc tôi có hẳn một cái tủ “tuyệt mật” để cất giữ tài liệu, tiến hành công trình nghiên cứu mang tên “Những bài học từ Việt Nam”.

Điều khá lạ lùng: tôi là người duy nhất ăn lương do hợp đồng với chính phủ Hoa Kì để rút ra những bài học về Việt Nam. Có một lúc, cả nước Mĩ chỉ có ba người thực sự đã đọc toàn bộ nghiên cứu, do đó có khả năng rút ra những bài học của thời kì 23 năm, từ 1945 đến 1968.

Harry Kreisler: Những gì đã làm ở Việt Nam thường không có gì là thuận lí, mà chỉ phản ánh một động lực chịu ảnh hưởng nặng nề của chính trị. Thế mà trong nhiều năm, ông đã sống với nó.

Daniel Ellsberg: Cũng phải nói là, đứng ở quan điểm tổng thống, đó là tinh tuý của sự thuận lí: thắng cử và giữ được quyền lực. Ông có thể hợp lí hoá điều đó bằng cách nói rằng điều quan trọng là đảng tôi và bản thân tôi khôn ngoan hơn mấy người khác, quyết định sẽ sáng suốt hơn. Thí dụ: nhất thiết không thể để cho Goldwater thắng cử. Thà rằng phải làm thế này thế nọ, chứ không nên để cho Goldwater thắng. Và tất nhiên, cũng như trong vụ Watergate, người của tổng thống phân bua: “Chúng tôi làm như thế chỉ là để ngăn chặn không cho McGovern trở thành tổng thống; McGovern mà làm tổng thống thì tai hoạ lắm”. Lí lẽ của họ là như vậy. Nếu anh bảo họ “nói thế không hợp lí” thì tôi xin trả lời: đó là lôgic của quyền lực nội trị, lôgic của việc giữ chặt quyền lực, của sự tự trọng, của uy tín tổng thống, những thứ mà các tổng thống và giới thân cận rất dễ đồng hoá với quyền lợi của quốc gia. Họ rất khó phân biệt hai thứ ấy.

Harry Kreisler: Trong nhiều năm, ông ở trong chính quyền, nằm trong một tổ nghiên cứu, sống với những nhân tố của quá trình lấy quyết định. Sau những thất vọng, ẩn ức về tình hình Việt Nam, sau khi đọc các Hồ sơ Lầu năm góc, ông đã thay đổi quan niệm về ranh giới giữa những điều chấp nhận được và những điều không thể chấp nhận, giữa những điều phù hợp với đạo lý và những điều đi ngược đạo lý. Ông hãy giải thích sự thay đổi đó trong suy nghĩ của ông.

Daniel Ellsberg: Ở Việt Nam thực ra tôi cũng không rút ra điều gì thực sự mới về việc không có triển vọng thành công. Song có một điều tôi đã học được: đó là nét mặt của người Việt Nam. Tôi đã biết quan tâm tới số phận của người Việt Nam, điều mà các đồng nghiệp của tôi ở Washington có lẽ không biết. Người Việt Nam, đối với tôi, đã trở thành một hiện thực. Họ không chỉ còn là những con số, những mã số trừu tượng như trong đầu óc của những đồng sự khác.

Điều đặc biệt nhất mà tôi học được, vào năm 1969, và từ Hồ sơ Lầu năm góc, là Nixon, người thứ năm trong chuỗi dài các tổng thống (dính dấp tới Việt Nam) đã chọn lựa quyết định kéo dài cuộc chiến tranh, với hi vọng hão huyền là ông ta có thể đạt tới một kết cuộc tốt đẹp hơn là kết cuộc sẽ có nếu ông ta chịu thương lượng cuộc rút quân, và về thực chất, là chấp nhận thất bại. Ông ta tưởng có thể làm tốt hơn thế nhiều. Ông ta tưởng có thể kiểm soát mãi được Sài Gòn và các vùng đông dân, rằng các vùng này sẽ phục tùng ý chí của chúng ta, chính sách của chúng ta, chứ không do cộng sản cai trị. Và ông ta có thể làm được điều ấy, như Johnson trước đó đã hi vọng, bằng cách đe doạ leo thang chiến tranh. Nixon đã lớn tiếng đe doạ và sẵn sàng thực hiện lời đe doạ của mình.

Tôi không tin rằng những lời đe doạ ấy sẽ mang lại kết quả. Tôi đoán trước là chiến tranh sẽ mở rộng. Mà lúc ấy, công chúng đã không còn chấp nhận tiếp tục chiến tranh nữa, huống chi tới mở rộng chiến tranh. Nhưng Nixon đã thành công trong việc đánh lừa công chúng, bởi vì công chúng không muốn tin rằng tổng thống lại điên rồ và thiển cận (đứng về quyền lợi cá nhân mà nói) đến mức sau cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân mà còn muốn kéo dài chiến tranh. Thế là một lần nữa, tôi chứng kiến cảnh một tổng thống bí mật đe doạ đối phương, gần như chắc chắn sẽ thực hiện lời đe doạ ấy, đồng thời lại lừa dối công chúng về hành động của mình.

Đọc Hồ sơ Lầu năm góc (mùa thu năm 1969 thì tôi đọc xong), tôi đã có được cái nhìn bao quát về lịch sử đi tới một kết luận mà chắc tôi không thể đạt được nếu không được đọc. Đó là: có rất ít hi vọng làm thay đổi não trạng (của tổng thống) từ bên trong ngành hành pháp – thí dụ như đưa ra cho tổng thống những khuyến nghị đúng đắn, hay cung cấp cho ông những đánh giá hiện thực về tình hình Việt Nam. Bởi vì đọc trong Hồ sơ Lầu năm góc, tôi đã thấy là từ những ngày đầu – thời Truman – tổng thống nào cũng đã nhận được những khuyến nghị như vậy rồi. Và bây giờ, sự thực là Nixon đã lao mình vào một cuộc đua mới, thì so với những tổng thống tiền nhiệm, lại càng ít có khả năng chịu nghe những lời khuyên can.

Như vậy, muốn cho ông ta thay đổi quyết định – và chính vì tôi quan tâm tới Việt Nam và nước ta, tôi lại càng bức xúc mong muốn Hoa Kì phải chấm dứt oanh tạc và chém giết người Việt Nam – thì phải có sức ép từ bên ngoài tác động vào hành pháp. Điều này đòi hỏi là ở bên ngoài cơ quan hành pháp, cụ thể là Quốc hội và công chúng, phải được thông tin tốt hơn về quá khứ cũng như về hiện tại. Nếu tôi có trong tay những tư liệu về các kế hoạch của Nixon thì tôi đã tung ra cho Quốc hội để các nghị sĩ biết việc gì sắp xảy ra. Như thế, tôi chẳng còn phải bận tâm với hàng nghìn trang lịch sử liên quan tới các tổng thống tiền nhiệm; chỉ cần vạch rõ những gì Nixon đang tiến hành. Những tài liệu ấy, tôi không có. Mà ở thời ấy, rất khó làm cho công chúng hiểu ra rằng tổng thống đang đánh lừa họ, để công chúng có hành động thích ứng. Điều này không có trong ý thức của người dân Mĩ. Nội cái việc đưa ra ý kiến đó cũng sẽ được rất ít người đồng ý.

Thành ra, lần đầu tiên, tôi tự hỏi: nếu tôi sẵn sàng vào tù thì tôi có thể làm gì để chấm dứt chiến tranh?

Có lần ra toà để bênh vực những người bị truy tố về tội chống quân dịch, tôi đã tuyên bố tổng thống nói dối. Đó là hồi đầu năm 1971, trước khi Hồ sơ Lầu năm góc được công bố. Ngay lập tức, quan toà ra lệnh ngừng ghi biên bản, gọi luật sư lại gần. “Nếu ông còn đưa ra những nhân chứng như vậy”, quan toà cảnh cáo trạng sư bên bị, “thì sẽ coi là ông lăng nhục, xúc phạm. Tại phòng xử án này, tôi sẽ không bao giờ cho phép ai tuyên bố là tổng thống nói dối”. Đó là phiên toà xét xử những người chống chiến tranh một cách bất bạo động. Và họ không được phép mời những chứng nhân dám nói rằng tổng thống dối trá. Hồ sơ Lầu năm góc đã làm thay đổi hẳn tình trạng này. Bảy nghìn trang tư liệu về sự dối trá của Nhà trắng đã vĩnh viễn vạch rõ – và hai ba năm sau, vụ Watergate đã xác nhận lần nữa – rằng tổng thống nào cũng dối trá.

Harry Kreisler: Những người biểu tình và lập trường đạo lí của họ có tác động tới quyết định đó của ông không?

Daniel Ellsberg: Phải nói thực là tác động của những người biểu tình đối với tôi không lớn bằng tác động của những người mà tôi đã được gặp, là những người đã phải trả cái giá cao hơn nhiều trong cuộc sống của họ để gửi đi một thông điệp mạnh mẽ. Họ sẵn sàng vào tù hơn là đi quân dịch hay sang Việt Nam, hay chạy sang Canada, hay là chọn quy chế “từ chối quân dịch vì lương tâm”, hay là vào đội Vệ quốc. Họ có thể chọn nhiều cách để tránh đi đánh nhau ở Việt Nam, trong đó có cách là chọn quy chế “từ chối quân dịch vì lương tâm” (conscientious objector). Nhưng họ đã chọn cách khẳng định mạnh mẽ nhất thông điệp này: cuộc chiến tranh này là sai trái, phải chấm dứt nó, họ từ chối mọi hình thức hợp tác với chính sách chiến tranh, kể cả việc chấp nhận quy chế “không đi quân dịch vì lương tâm”. Và họ chấp nhận đi tù.

Trong số những người tôi đã gặp như thế, có một người tên là Randall Keeler, mà tôi gặp hồi cuối tháng tám năm 1969. Đến lúc tôi bàng hoàng hiểu ra rằng anh ra sắp sửa phải ra toà vì tội chống quân dịch và chuẩn bị vào tù – và đúng thế, anh ấy đã ở tù hai năm – thì tôi mới ngỡ ngàng, ngộ ra là chúng ta đang ở trong tình thế mà những con người trí tuệ và tận tâm như Randy Keeler phải cảm thấy rằng điều tốt đẹp nhất anh ta có thể làm là chấp nhận đi tù, để đồng bào của mình có thể hiểu rằng đây là vấn đề đạo lý. Keeler đã làm điều phải làm, và hành động của anh cho thấy rõ bản chất tình thế nước Mĩ lúc đó là gì. Thật là kinh khủng! Tôi cảm thấy chúng ta đang ăn thịt thanh niên của chúng ta. Xấu xa hơn cả những kẻ ăn thịt người: chúng ta ăn thịt ngay cả con em mình. Chúng ta dùng con em để trả giá cho việc tìm ra một lối thoát cho cuộc chiến tranh, bằng cách hi sinh tuổi trẻ như là thịt nhồi đại bác trong cuộc chiến tranh. Những con người như Keeler phải được ủng hộ. Mỗi người phải làm bất cứ việc gì có thể, bất bạo động và thành khẩn. Họ đúng là những môn đệ của Gandhi. Trước đó, tôi đã được đọc Gandhi và Martin Luther King. Và bây giờ, tôi được gặp những người đang thật sự sống cuộc sống mà tôi đã đọc trong sách vở. Dưới tiêu chí thành khẩn và bất bạo động, tôi nhận thức rằng, noi gương họ, tôi sẵn sàng làm tất cả những gì có thể, nghĩa là tôi sẵn sàng từ bỏ sự nghiệp, sẵn sàng đi tù.

Cho nên, lần đầu tiên tôi tự hỏi: nếu tôi sẵn sàng ở tù, thì tôi có thể làm gì để góp phần chấm dứt chiến tranh? Tôi tìm cách thu xếp ra điều trần ở Quốc hội. Tôi tìm cách thúc đẩy việc mở ra các cuộc điều trần. Cũng với một số người, tôi viết thư gửi từ RAND. Và tôi cũng sao chụp Hồ sơ Lầu năm góc với hi vọng mang thêm sức mạnh cho các việc làm khác, thí dụ như điều trần ở Quốc hội. Thực ra tôi không tin là việc này có nhiều khả năng làm thay đổi tình thế, nhưng cũng có khả năng nào đó. Tôi đã sẵn sàng làm bất cứ điều gì có thể, và đó là một điều tôi có thể làm.

Harry Kreisler: Ngoài ra còn có những nhân tố nào khác, giúp chúng tôi hiểu thêm cái động lực nội tâm đã thúc đẩy ông làm điều đó? Đối với bất cứ người nào, đây không phải là một sự chọn lựa dễ dàng.

Daniel Ellsberg: Đọc Hồ sơ Lầu năm góc đã làm tan biến trong tôi cái ý muốn làm việc cho tổng thống. Qua đó, tôi đã thấy liên tiếp năm vị tổng thống lầm lỗi đi theo con đường ngoan cố, vị kỷ, điên rồ, tổng cộng tới lúc đó là hai mươi bốn năm trời.

Từ thuở bé, tôi đã nuôi dưỡng cái ý định, và nhiều người Mĩ cũng như tôi, nuôi dưỡng ý tưởng là có cơ hội phục vụ tổng thống (Chúng ta hay nói tới giấc mơ lớn lên làm tổng thống, Clinton là một ví dụ khá hiếm, nhưng mấy ai như Clinton, từ nhỏ đã thực sự nuôi dưỡng ý tưởng trở thành tổng thống). Tôi thì khi tôi là trung uý thuỷ quân lục chiến, tôi đã nghĩ tới làm việc dưới quyền tổng thống. Theo tôi nghĩ, thuỷ quân lục chiến, hơn các binh chủng khác, tự coi mình là lực lượng phản ứng nhanh mà tổng thống có trong tay, họ tự coi là một thứ quân cận vệ tổng thống, họ có tâm lý tự đề cao mình, xuất phát từ chỗ họ tự đồng nhất với tổng thống. Trong ngành hành pháp, mọi người đều quen miệng nói “Chúng tôi làm thế này, chúng tôi làm thế kia”, điều này cũng biểu lộ sự đồng nhất hoá cao độ của những người, nam cũng như nữ, làm việc dưới trướng tổng thống.

Như thế là năm 1969, tôi là nghiên cứu viên duy nhất của RAND mà lại làm việc trực tiếp cho trợ lí an ninh quốc gia của tổng thống. Tôi làm công tác tham mưu về Việt Nam cho Kissinger ngày từ buổi đầu của chính quyền mới. Đó là một công việc hết sức danh giá và hứng khởi. Bên trong cũng như bên ngoài ngành hành pháp, rất nhiều người cho rằng được làm việc cho cơ quan hành pháp là vinh hạnh lớn nhất mà một người Mĩ có thể kì vọng. Các thứ công việc khác, viết báo, viết sách, cộng tác với một nghị sĩ, trở thành đại biểu quốc hội, chẳng có việc nào sánh bằng công việc cung cấp thông tin cho tổng thống và có ảnh hưởng với tổng thống. Điều này đúng với mọi người làm việc cho Nhà trắng, bất luận đã bỏ phiếu hay không bỏ phiếu ủng hộ tổng thống, đã làm việc nay không làm việc cho đảng của tổng thống. Mỗi thời chỉ có một tổng thống, bất luận ông ấy thuộc đảng nào, có cơ hội tác động tới tổng thống bằng cách báo cáo tin tức hay tham gia hoạch định chính sách là điều quan trọng nhất mà anh có khả năng thực hiện.

Đọc Hồ sơ Lầu năm góc và suy ngẫm về vấn đề Việt Nam làm cho tôi đốn ngộ là dù có được tham vấn đúng đắn tới đâu chăng nữa, các tổng thống đều có thể mắc sai lầm nghiêm trọng. Cho nên, cách tốt nhất để phục vụ đất nước không nhất thiết là giúp tổng thống làm những điều ông ta muốn làm, bởi vì cách tốt nhất có khi lại là ngăn cản không để cho ông ta làm điều ông ta muốn. Muốn làm như vậy thì phải đứng ở bên ngoài giới hành pháp, phải thông qua Quốc hội, qua toà án, qua cử tri, qua công chúng. Đúng thế, ở ngoài ngành hành pháp, anh có thể làm tốt hơn nhiều để giúp nước.

Thứ nữa, cái hào quang bao quanh tổng thống, cái ý tưởng tự đồng nhất với tổng thống, phục vụ tổng thống, trở thành người của tổng thống, một kiểu quan hệ phong kiến, hiệp sĩ, bỗng nhiên mất hết hào quang lấp lánh. Tôi hết muốn là “người của tổng thống”. Sống ở ngoài vòng hành pháp, cái ý này, đối với tôi, trở thành tốt như, tốt hơn là làm việc cho tổng thống. Theo tôi, chưa có đồng nghiệp nào đã đạt tới điểm đó trong đời họ. Họ không thể nào tưởng tượng ra một cuộc sống tốt đẹp hơn ở ngoài vòng hành pháp. Khi đảng của họ rời chính quyền, hay là họ bị sa thải, hoặc là họ từ chức để kiếm được nhiều tiền hơn hoặc vì lí do nào khác, họ vẫn sống trong tâm trạng chờ đợi một cú điện thoại, gọi họ trở lại hoặc hỏi ý kiến họ. Dù cho sự đoạn tuyệt với tổng thống tiền nhiệm còn để lại nỗi đau, họ vẫn sẵn sàng trở lại. Đối với họ, đó là sự nghiệp cao quý nhất. Tự hào, danh giá, hưng phấn, trọng vọng, lại thêm cảm thấy mình đang phục vụ đất nước. Tất cả những thứ đó đã cháy rụi trong tôi sau khi đọc xong bảy nghìn trang tài liệu. Nhờ đó mà tôi có thể hình dung ra một hành động khả dĩ chặn đường tôi từ nay về sau có thể quay lại phục vụ cho bất cứ tổng thống nào. Làm được việc đó rồi, không một quan chức hành pháp nào còn có thể thuê tôi làm việc trở lại nữa. Phần lớn các đồng nghiệp của tôi không thể nào quan niệm một hành động nào khiến cho các tổng thống sau này không còn tin cậy họ, gọi họ ra làm việc trở lại. Mấu chốt vấn đề là ở đó.

Cuối cùng dẫn tới kết cục là tôi làm được một việc mà tôi tin chắc sẽ đưa tôi vào tù. Làm sao được như vậy?

Tôi đã ở trong thuỷ quân lục chiến, đã sang Việt Nam, đã tham gia chiến trận. Ba triệu binh sĩ sang Việt Nam là dấn thân vào tình thế có thể cụt hai chân, mất xác, mất mạng vì mìn nổ, bị bắn tỉa, hay ăn đạn moọc-chê. Họ không được coi là anh hùng hay bị coi là điên rồ chỉ vì họ chấp nhận vai trò ấy. Chẳng ai chẩn đoán bệnh lí tâm thần cho họ, như người ta đã làm cho tôi. Chẳng ai tra hỏi họ xem tại sao họ làm như thế. Họ làm thế vì tổng thống, vì đất nước. Song, tổng thống lại lầm to khi ông quyết định điều gì là ích lợi cho đất nước. Nhưng anh vẫn làm theo lời tổng thống, anh vẫn làm những gì tổng thống muốn anh làm. Làm những chuyện nhạy cảm dù anh có thể chết, dù anh có phải giết người, rốt cuộc là làm những việc phi nghĩa. Phi nghĩa nếu xét theo mọi tiêu chuẩn nào khác hơn là nó do tổng thống chủ trương. Sự thật đó là điều phi nghĩa.

Thành ra rốt cuộc mất mạng và giết người trong một công cuộc phi nghĩa lại được coi là hết sức bình thường. Và tôi cứ thế mà làm. Tôi đã sang bên ấy. Mặc dù tôi tôi không còn tin vào công cuộc mà tôi phục vụ vì tổng thống nữa. Cho đến lúc hành động của Randy Keeler làm cho tôi giác ngộ ra rằng muốn làm theo lương tâm, có những phương cách khác hơn là phục vụ tổng thống. Có những cách dũng cảm khác. Rồi tôi tự hỏi, mình đã như bạn bè, sẵn sàng bỏ mình hay bị bắt làm tù binh ở Việt Nam vì mình ủng hộ hay cam chịu công cuộc chiến tranh, thì nay tại sao không sẵn sàng vào tù, không sẵn sàng hy sinh tự do của mình? Một khi phải đối diện với câu hỏi ấy, thì câu trả lời đến cũng nhanh.

Anh hỏi tôi làm sao tôi có thể đảm đương được cái đó, (xin trả lời) tôi thuộc lớp người đã tự nguyện sang Việt Nam. Tôi không phải là người duy nhất đã làm như vậy. Không phải bất cứ ai, nhưng nhiều người cũng đã làm như vậy. Chỉ có điều là không mấy ai có cơ hội, sau khi tích cực phục vụ tổng thống, lại tích cực dấn thân chống lại ý chí, chống lại đường lối của tổng thống, chống lại việc ông ta muốn làm, chống lại cuộc chiến tranh mà ông ta ra lệnh tiến hành. Lại đặt mình vào vị trí một người phản kháng, hay là vị trí một đại biểu Quốc hội chống lại cuộc chiến tranh.

Có thể nói, từ ngành hành pháp mà chuyển sang giúp việc cho Quốc hội và lộ diện trước công chúng, là cả một cuộc thay đổi. Một sự thay đổi lớn về “căn cước” rất khó làm, cực kỳ khó đối với một viên chức hành pháp. Một thay đổi nữa, tất nhiên, là dọn mình để sẵn sàng vào tù vì những việc mình làm. Mà đó là vì tôi liên hệ với việc bản thân tôi đã làm ở Việt Nam hay trong hàng ngũ thuỷ quân lục chiến. Nhưng sở dĩ tôi làm được cũng là nhờ tấm gương của hàng nghìn người Mĩ. Tháng trước, tạp chí Esquire có gọi tôi. Họ chuẩn bị một số đặc biệt về anh hùng và hỏi tôi có người anh hùng nào mà tôi muốn nêu tên. Tôi đã nêu tên Randy Keeler là người đã làm gương cho tôi, đã thay đổi đời tôi.

Harry Kreisler: Nói vắn tắt, thì trong một chế độ dân chủ, trách nhiệm của một cá nhân trong những vấn đề chiến tranh và hòa bình mà ta đã bàn là như thế nào?



Daniel Ellsberg: Tôi có thể vắn tắt vài câu về quyết định của riêng tôi như tôi vừa kể. Tôi cho rằng bài học mà tôi rút ra về việc phải làm gì có thể áp dụng không những cho thời trước mà cho người ta trong tương lai. Trước hết, chúng ta có cái may là trong Hiến pháp, chịu trách nhiệm về chuyện chiến tranh và hòa bình không chỉ có hành pháp (như hành pháp vẫn tưởng), mà còn có cả Quốc hội: Hiến pháp nước ta quy định rằng Quốc hội có trách nhiệm tuyên chiến, tài trợ, kiểm soát ngân sách, và có rất nhiều phương cách để thực sự kháng cự lại đường lối của hành pháp trong lãnh vực chiến tranh và hòa bình. Và trong nội bộ ngành hành pháp, lại có những quan chức có thể nghĩ tới việc thông báo cho Quốc hội, với sự đồng ý hay không đồng ý của tổng thống. Có nhiều cách làm tránh được trách nhiệm pháp lý. Ngược lại, thường ra họ chỉ cần nói thật chứ không phạm pháp vì khai man như họ thường làm. Nói khác đi, họ chỉ cần tuân thủ pháp luật thay vì vi phạm pháp luật, họ chỉ cần làm theo Hiến pháp. Tóm lại, hợp tác với Quốc hội để thay đổi tình hình. Nhưng điều đó, ít khi nào họ dám nghĩ tới bởi như thế là chéo cẳng ngỗng đối với người đã bổ nhiệm họ. Song, như tôi vẫn thường nói, ra khỏi hàng rào hành pháp, người ta vẫn có thể sống như thường.



Thứ hai, những thanh niên đi quân dịch hay những người tự nguyện nhập ngũ mà họ đưa ra trận mạc, phải chịu những rủi ro như thế nào, thì họ cũng phải hiểu rằng chính họ cũng có bị rủi ro như thế ấy trên con đường hoạn lộ của họ. Nói cách khác, họ có thể suy nghĩ, chấp nhận phải trả giá trong cuộc đời của mình bằng việc nói thực, bằng việc cung cấp thông tin cho công chúng, bằng hành động theo lương tâm, một cách trung thực, ra ngoài ngành hành pháp để nói sự thật, để thông tin cho công chúng. Nghĩa là phải trả một cái giá đắt về sự nghiệp tương lai, nhưng là cái giá mà họ phải sẵn sàng trả. Tóm lại, họ phải thấy rằng nếu họ chịu trả cái giá trong cuộc đời, thì có được một thứ quyền lực lớn hơn mà họ tưởng nhiều lắm.



Bản dịch của Nguyễn Ngọc Giao

Source : Thời Đại Mới
23-3-2010