26/3/13

TQ bác bỏ kháng nghị của Việt Nam về vụ tấn công tàu đánh cá



26.03.2013

 

Trung Quốc bác bỏ tố cáo của Việt Nam cho rằng một tàu cá của ngư dân tỉnh Quảng Ngãi mới đây đã bị tàu Trung Quốc truy đuổi và nổ súng bắn cháy cabin trong vùng biển thuộc quần đảo Hoàng Sa, là quần đảo mà Trung Quốc gọi là Tây Sa và cũng tuyên bố có chủ quyền.

Theo tin của hãng thông tấn Reuters và nhật báo The Hindu, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi hôm thứ ba nói rằng Tây Sa là lãnh thổ của Trung Quốc và việc giới hữu trách Trung Quốc có hành động chống lại tàu cá Việt Nam hoạt động trái phép trong vùng biển này là thích đáng và hợp lý. Ông Hồng Lỗi nói thêm rằng kết quả xác minh cho thấy chiếc tàu của Việt Nam không bị hư hại gì vào lúc đó.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng yêu cầu Việt Nam tăng cường công tác quản lý ngư dân để ngăn chặn điều mà ông gọi là “những hoạt động bất hợp pháp như vậy.”

​​Một ngày trước đó, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị tố cáo rằng việc tàu Trung Quốc nổ súng bắn cháy cabin của tàu cá Việt Nam “vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc, trái với tinh thần Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông.”

Ông Lương Thanh Nghị yêu cầu Trung Quốc xử lý nghiêm đối với điều mà ông gọi là “hành động sai trái và vô nhân đạo”, và bồi thường thiệt hại cho ngư dân Việt Nam.

Vụ tranh cãi giữa Việt Nam và Trung Quốc về vụ tấn công tàu cá là vụ việc mới nhất của một loạt những xích mích ngoại giao liên quan tới vụ tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông.

Tháng 12 năm ngoái, tàu cá Trung Quốc đã cắt cáp thăm dò địa chấn của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam trong vùng biển mà Việt Nam cho là thuộc quyền quản lý của mình. Hồi tháng 5 năm 2011, tàu tuần tra Trung Quốc cũng đã cắt cáp địa chấn của tàu khảo sát Việt Nam hoạt động trong vùng biển chỉ cách bờ biển Việt Nam chưa đầy 200 kilomét.

Nguồn: Reuters, AP, The Hindu



25/3/13

Thắng và bại

 

25.03.2013

  Nguyễn Hưng Quốc

Kỷ niệm 10 năm chiến tranh Iraq, mấy tuần vừa qua, giới bình luận chính trị Tây phương bàn tán sôi nổi về vấn đề: cuối cùng, Mỹ đã thắng hay bại?

Nhìn chiến tranh Iraq như một trận đánh, đương nhiên là Mỹ thắng. Thắng rất dễ dàng. Quân Mỹ và đồng minh bắt đầu tấn công vào ngày 20 tháng Ba năm 2003. Đến ngày 9 tháng Tư, tức 20 ngày sau, họ đã chiếm được thủ đô Baghdad. Bên Iraq, có 9.200 binh sĩ bị giết chết; phía đồng minh, Mỹ có 139 và Anh có 33 binh sĩ bị tử vong.

Nhìn rộng hơn một tí, toàn bộ cuộc chiến tranh, từ lúc khởi chiến (tháng 3/2003) đến lúc rút quân (tháng 12/2011), cũng có thể nói Mỹ thắng. Mỹ chiếm được Iraq, bắt và treo cổ Saddam Hussein, đập đổ được chế độ độc tài, dần dần hình thành nên một chế độ dân cử tương đối dân chủ, và cuối cùng, rút quân ra khỏi Iraq một cách an toàn. Như vậy là thắng chứ còn gì nữa?

Thế nhưng, nhiều người vẫn cứ băn khoăn. Lý do đơn giản: Cần phải đặt cuộc chiến Iraq vào hai chu cảnh lớn: Một, trong một cuộc chiến tranh lớn hơn: chiến tranh chống khủng bố và độc tài; và hai, trong thế địa chính trị tại vùng Trung Đông.
Nhớ, tướng Tommy Franks của Mỹ đã đặt ra tám mục tiêu chính khi đánh Iraq năm 2003: “Một, chấm dứt chế độ Saddam Hussein. Hai, phát hiện, cô lập và tiêu hủy các loại vũ khí sát thương hàng loạt (mass destruction). Ba, tìm kiếm, bắt và trục xuất khủng bố ra khỏi Iraq. Bốn, sưu tầm tài liệu tình báo liên quan đến các mạng lưới khủng bố. Năm, sưu tầm các tài liệu liên quan đến mạng lưới vũ khí hủy diệt hàng loạt phi pháp trên phạm vi toàn cầu. Sáu, giải tỏa lệnh cấm vận và tiến hành tức khắc các cuộc viện trợ nhân đạo cho dân chúng Iraq. Bảy, bảo đảm an toàn cho các mỏ dầu khí và tài nguyên thiên nhiên vốn thuộc về nhân dân Iraq. Và cuối cùng, giúp người dân Iraq tạo điều kiện chuyển tiếp sang một chính phủ đại biểu do dân bầu để quản trị đất nước của họ.”

Không phải mục tiêu nào ở trên cũng được hoàn thành. Ngoài chuyện không có các loại vũ khí sát thương hàng loạt hay các mạng lưới khủng bố toàn cầu nào ở Iraq, thất bại chính của Mỹ không chừng là nằm ở mục tiêu cuối cùng. Sau khi Mỹ chiếm Iraq một cách dễ dàng, Iraq trải qua những năm tháng nội chiến triền miên. Khủng bố nối tiếp khủng bố. Chỉ riêng tại thủ đô Baghdad, người ta ước tính mỗi ngày có khoảng từ 11 đến 33 người bị giết chết trong các cuộc đặt bom ở các khu dân sự, kể cả chợ búa và đền thờ.

Về phương diện chính trị, các phe phái liên tục chống đối nhau. Đúng là Iraq đã bắt đầu xây dựng được một số nền tảng cho một chế độ dân chủ, tuy nhiên, tương lai chính trị của nước này vẫn đầy bất an.

Cái giá của cuộc chiến này khá cao. Về nhân mạng, 115.376 người Iraq bị giết chết từ năm 2003 đến 2011.

Về phía đồng minh, số binh sĩ bị chết của Mỹ là 4.488; của Anh là 179, của Ý 33, của Ba Lan 30, của Ukraine 18, Bulgaria 13, v.v.. Về tài chính, chi phí cho cuộc chiến tranh ấy, về phía Mỹ, là khoảng trên 845 tỉ đồng.

Chính vì vậy, nhiều học giả Mỹ đặt vấn đề: Một, liệu cuộc chiến tranh ấy có đáng không? Và hai, có thể xem là Mỹ thắng trận không?

Không có câu trả lời nào thật dứt khoát và thuyết phục hẳn. Eric S. Margolis, tác giả cuốn sách American Raj: Liberation or Domination? trả lời thẳng thừng: Mỹ thất bại. Fred Kaplan cho đó là một cuộc chiến tranh không cần thiết nhưng cũng cho rất khó trả lời câu hỏi ai thắng ai.

Christian Whiton, chủ tịch Hamilton Foundation, lại cho là Mỹ thành công, hơn nữa, hai lần thành công: vừa lật đổ được một chế độ được xem là độc tài và tàn bạo nhất thế giới vừa xây dựng được cơ sở cho một nền dân chủ lâu dài tại Iraq.

Một số người đề nghị chờ thời gian trả lời: Mỹ thành công nếu chính phủ dân chủ mới phôi thai ở Iraq càng ngày càng vững mạnh; ngược lại, Mỹ thất bại nếu nó sụp đổ và Iraq lại sống dưới chế độ độc tài như thời Sadam Hussein.

Gai góc hơn là vấn đề địa chính trị (geopolitics). Một trong những động cơ chính của Mỹ khi quyết định tấn công và xâm chiếm Iraq là biến Iraq thành một quốc gia dân chủ thân Mỹ, từ đó, biến nước này thành một trung tâm quyền lực của Mỹ để, một mặt, thúc đẩy quá trình dân chủ hóa ở các nước Hồi giáo Trung Đông, mặt khác, sẵn sàng trấn áp mọi cuộc chiến tranh chống Mỹ trong tương lai. Cả hai đều gắn liền với địa chính trị.

Tuy nhiên, ở cả hai khía cạnh này, dường như Mỹ không thành công, hoặc ít nhất, chưa thành công.

Thứ nhất, nền dân chủ ở Iraq còn rất mỏng manh và yếu ớt.

Thứ hai, do tính chất mỏng manh và yếu ớt ấy, Iraq cũng không thể đóng vai trò một căn cứ địa chính trị hay quân sự đáng tin cậy cho Mỹ. Sau năm 2003, Mỹ đã xây dựng Tòa Đại sứ tại Baghdad, một Tòa đại sứ lớn và tốn kém nhất của Mỹ với chi phí hơn 750 triệu trên một mảnh đất rộng trên 104 mẫu Anh, nơi, thoạt đầu, chứa đến 16.000 nhân viên, trong đó, có đến 2.000 nhân viên ngoại giao, với tham vọng xem đó như một đầu não ngoại giao và an ninh trong khu vực. Tuy nhiên, với lý do nêu trên, tham vọng này dường như chỉ là một ảo tưởng.

Thứ ba, việc xâm lăng Iraq - nhất là việc không phát hiện bất cứ một thứ vũ khí hủy diệt hàng loạt nào ở Iraq cũng như việc không thể tìm ra chứng cứ nào về mối quan hệ giữa Saddam Hussein và al-Qaeda vốn là những lý do chính được đưa ra để gây chiến - đã gây bất bình cho cộng đồng Hồi giáo tại Trung Đông.

Thứ tư, quan trọng hơn hết, cuộc chiến tranh Iraq dường như làm cho Iran, kẻ thù của cả Mỹ lẫn Iraq trước đây, mạnh hơn hẳn. Mạnh vì hai lý do: Một, đối thủ chính và nguy hiểm nhất của Iran là Saddam Hussein đã bị tiêu diệt; và hai, phái Shia, một giáo phái thuộc Hồi giáo đang cầm quyền tại Iran càng ngày càng phát triển mạnh, nắm rất nhiều quyền lực tại Iraq, thay cho giáo phái Sunni trước đây. Với sự thắng thế của phái Shi’ite, Iran có thể sẽ có một lực lượng đồng minh rất đáng kể ở Iraq.

Dĩ nhiên, vẫn có người phản bác các nhận định trên với lý do chính: Bất kể những thất bại ở lãnh vực này hay lãnh vực khác, Mỹ cũng đã chiến thắng trong cuộc chiến tranh khủng bố vốn mở màn sau biến cố 11 tháng 9 năm 2001. Lực lượng khủng bố, trên cơ bản, đã bị dẹp tan, không còn là một đe dọa lớn đối với Mỹ cũng như trên thế giới nữa. Vì thế, Mỹ có thể an tâm quay về với một đối thủ mới xuất hiện ở phương Đông: Trung Quốc.

Như vậy, cuộc bàn cãi về chuyện thắng hay bại của Mỹ trong cuộc chiến tranh Iraq từ năm 2003 cho đến nay vẫn còn tiếp tục và có lẽ sẽ còn tiếp tục dài dài.

Thật ra, đó cũng là điều bình thường. Chuyện thắng hay bại là một vấn đề phức tạp hơn hẳn những gì chúng ta thường nghĩ. Thường, nghĩ về chiến tranh hay chính trị, chúng ta hay tự giới hạn mình ở một biến cố hay một sự kiện nào đó. Như một cái gì biệt lập và đơn lập. Trong khi, trên thực tế, bất cứ sự kiện hay biến cố nào cũng nằm trong một chu cảnh (context) với nhiều quan hệ chằng chịt theo nhiều chiều và với nhiều kích thước khác nhau, từ kích thước địa chính trị đến kích thước lịch sử. Bởi vậy, không hiếm trường hợp thắng một trận đánh nhưng lại thua một cuộc chiến tranh hay thua một cuộc chiến tranh nhỏ nhưng lại thắng một cuộc chiến tranh lớn. Hoặc ngược lại.

Thời Chiến tranh lạnh, Mỹ hòa ở chiến tranh Triều Tiên, và có thể gọi là thua, như nhiều người đã nói, cuộc chiến tranh ở Việt Nam, nhưng lại thắng trong toàn bộ cuộc chiến tranh lạnh, nghĩa là thắng toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa.

Cũng có thể nói, phần nào, Mỹ thắng Liên Xô ở cuộc chiến tranh tại Afghanistan từ 1979 đến 1989. Dù hai bên không hề trực tiếp đụng độ với nhau, nhưng ai cũng biết suốt thời gian chín năm ấy, Mỹ và nhiều đồng minh của Mỹ, từ Pakistan đến Anh, Saudi Arabia (và, kể cả Trung Quốc) đã đổ tiền giúp đỡ các kháng chiến quân người Afghanistan rất nhiều. Không những giúp đỡ tiền bạc mà còn giúp vũ khí và cả việc huấn luyện quân sự, bao gồm các chiến thuật du kích và, thậm chí, các phương pháp khủng bố. Cuối cùng, không chịu đựng nổi, từ đầu năm 1987, Liên Xô quyết định rút quân: Giữa năm 1988, rút một nửa, đến đầu năm 1989 thì rút toàn bộ. Phe tự do hoan hỉ xem đó như một chiến thắng.

Nhưng chiến thắng ấy, oái oăm thay, lại mở đầu cho một thất bại của Mỹ trong trận chiến chống khủng bố: Một trong những lực lượng được Mỹ giúp đỡ và huấn luyện để chống lại Liên Xô thời ấy, sau này, đã trở thành một lực lượng Hồi giáo cực đoan mang tên al-Qaeda, trong đó có cả Osama bin Laden: Chính những người ấy, vào năm 2001, đã tổ chức cuộc tấn công khủng bố khủng khiếp ngay trên đất Mỹ.

Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
 
Source : VOA

KHẨN CẤP: TRUNG CỘNG ĐÃ NỔ SÚNG TRÊN BIỂN ĐÔNG

 Thứ hai, ngày 25 tháng ba năm 2013

Tàu Trung Quốc đã bắn cháy tàu cá Việt Nam tại Hoàng Sa
24/03/2013 - 09:17

Theo Tiền Phong đưa tin, tàu Trung Quốc đã chính thức nổ súng vào tàu cá Việt Nam, kéo dài chuỗi hành động từ uy hiếp và đến nay đã đe dọa tính mạng ngư dân. Không chỉ vậy, chúng đã cắm cờ, xây cột mốc trên các đảo không người tại Hoàng Sa. 



 Một góc cabin cháy của tàu QNg 96382. Ảnh: Tiền Phong


Cập bến An Hải, Lý Sơn ngày 22/3, ông Phải và 9 thuyền viên vẫn còn bàng hoàng trên chiếc tàu cá bị bắn tả tơi, đồ đạc cháy nham nhở. Ông Phải kể lại, khoảng 10h sáng ngày 20/3, trong khi chuẩn bị kết thúc phiên đánh bắt tại khu vực đảo Lin Côn thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, tàu QNg 96382 của thuyền trưởng Bùi Văn Phải đã bị tàu Trung Quốc hùng hổ truy đuổi.

Không có rạn san hô để làm chướng ngại vật, tàu của ông buộc phải chạy thẳng. Sau 30 phút rượt đuổi, lính Trung Quốc nổ súng vào tàu của ông. Lửa bắt vào nóc cabin phủ nhựa cháy ầm ầm, bên trong cabin vẫn còn 4 bình ga, không dập tắt sẽ nổ. Bất chấp nguy hiểm (có thể bị Trung Quốc bắn), ông Thạch, một ngư dân lớn tuổi, đã lao lên nóc lấy nước chữa cháy. Lúc này, tàu Trung Quốc quay đầu đi mất.
Ông Phải cho biết, chi phí sửa tàu khoảng hơn chục triệu đồng, nhưng chi phí thiệt hại vì tổn phí chuyến biển lên đến hàng trăm triệu đồng. Đây không phải lần đầu tiên tàu QNg 96382 đối mặt với sự côn đồ của tàu Trung Quốc. Trước đó, trong khi đánh bắt tại đảo Đá Lồi, ông cũng đã từng bị 2 tàu mã số 262, 263 (có thể là tàu Hải giám) chặn đuổi.



Ảnh : Người đưa tin

Như vậy, chỉ riêng trong tháng 3, tại Hoàng Sa, đã có 3 tàu cá của ngư dân Lý Sơn đụng độ với tàu Hải giám, tàu tuần tra Trung Quốc, mức độ ngày càng nghiêm trọng hơn. Thậm chí, cuối năm 2012, tàu chiến của Trung Quốc cũng đã xuất hiện uy hiếp ngư dân. Nghiêm trọng trên cấp độ quốc gia, theo thuyền trưởng Bùi Văn Trung (tàu QNg 50949) - người cũng bị Trung Quốc đập phá tài sản ngư cụ, cướp hải sản ngày 17/3 - cho biết từ đầu năm đến nay, những hòn đảo, cồn cát ở Hoàng Sa dù không có người ở nhưng Trung Quốc đã xây cột mốc và cắm cờ Trung Quốc.
.
Ngày 19/3, với động thái yếu ớt, Ủy ban Biên giới Việt Nam đã cử đại diện nào đó cất tiếng phản đối với giai điệu phản đối quen thuộc, yêu cầu Trung Quốc chấm dứt hành vi sai trái. Các lực lượng có chức năng giám sát biển, bảo vệ ngư dân vẫn chưa cho thấy là một chỗ dựa vững chắc cho ngư dân Việt Nam. Trong khi đó, tại New York ngày 15/3, trong chuyên đề hội thảo “Biển Đông - Quả bom hẹn giờ”, các học giả quốc tế đều chia sẻ nỗi cảm thông với ngư dân Việt Nam đang bơ vơ đối mặt trước một Trung Quốc hung hăng khi đánh bắt trong vùng biển Hoàng Sa - một khu vực tranh chấp song phương và dường như chỉ tồn tại thứ chủ quyền lấn lướt của Trung Quốc.

Theo ông Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới CP, mặc dù Việt Nam đã có có khá đầy đủ các lực lượng chấp pháp trên các vùng biển của mình như Cảnh sát Biển, Bộ đội Biên phòng, Kiểm ngư, Công an, Hải quan, tuy nhiên, các lực lượng này phối hợp với nhau để tròn một bổn phận là giám sát biển, bảo vệ chủ quyền như thế nào vẫn là một câu hỏi lớn. Những lực lượng chấp pháp này đã ở đâu khi ngư dân bị những nhóm “hải tặc” trá hình của Trung Quốc đe dọa?

Sơn Minh
Nguồn: Sống Mới.


Không hiểu Đảng và Nhà nước lo thế nào mà ra nông nỗi này!
Bạn vàng của Đảng đây ư?

23/3/13

Nói Với Tuổi Hai Mươi (5) -THƯƠNG YÊU

THƯƠNG YÊU

THÍCH NHẤT HẠNH

Tôi cũng ưng định nghĩa thương yêu như một trong những nhu cầu trọng yếu của con người nên tôi không chịu người ta nói đến bổn phận thương yêu. Ví dụ cha mẹ có bổn phận phải thương yêu con, hay loài người phải có bổn phận phải thương yêu nhau, hoặc con người có bổn phận phải thương yêu đấng Tạo hóa. Tôi nghĩ thương yêu là một cái gì tự nhiên, không thể bắt buộc, không thể nói là một bổn phận. Không ai có thể bắt tôi thương yêu được một đối tượng mà tôi không thể thương yêu, mà tôi không muốn thương yêu. Tuy nhiên nếu có lúc ta không thấy được chính những nhu yếu của chúng ta thì cũng có thể có lúc ta không thấy được rằng ta vốn có sẵn tình thương yêu với đối tượng mà hiện nay ta không (hoặc chưa) cảm thấy yêu thương. Vì lý do đó cho nên người ta có thể đánh thức dậy tình thương yêu sẵn có ở trong ta đối với một đối tượng nào đó bằng cách chỉ cho ta thấy rõ đối tượng đó hơn hoặc bằng cách khai mở và hướng dẫn cho nội tâm ta. Nhưng công việc này chỉ có thể thành công khi quả nhu yếu kia là một cái gì thực có, tiềm tàng trong ta. Ví dụ có một người mẹ ghẻ chưa bao giờ thực sự yêu con, và suốt trong đời sống của người con, người mẹ ghẻ kia chỉ là hình ảnh của một ác mộng dài thì dù ta có khuyên bảo gì đi nữa, người con cũng không thể nào thương yêu bà mẹ kia với tình con thương mẹ được. Trong thực tế, chúng ta thấy có những đứa con thương yêu bà mẹ nuôi một cách thắm thiết trong khi không muốn công nhận bà mẹ đẻ của mình. Như thế là vì trong cuộc đời ấu thơ của chúng, trong những lúc đau khổ của chúng, bà mẹ nuôi đã đến như một dòng suối  ngọt, như một bóng mát. Khổ đau, ngọt bùi, ân nghĩa và kỷ niệm đã là miếng đất trong đó hạt thương yêu đã được gieo và được mọc. Tình thương rõ rệt là một nhu yếu. Sở dĩ lắm lúc con người tỏ ra bất nghĩa, vô tình là vì có những cái màn vô minh nào đó, hoặc một tâm trạng u sầu, lo lắng, bực dọc hay đam mê nào đó tới che lấp đi mà thôi. Những tâm trạng đó lắng xuống, những tấm màn kia lột đi thì nhu yếu thương yêu nọ lại được phát hiện rõ ràng trở lại.

Có người nói rằng hạnh phúc chỉ là một danh từ hoa mỹ không có thực chất, người ta chỉ có nhiều ao ước mà không bao giờ đạt tới được. Tôi thấy điều đó là không đúng, và tôi nghĩ rằng chỉ vì quá tham lam quá dại khờ và quá vô minh cho nên người ta mới không thấy được hạnh phúc, hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại. Trong chúng ta bất cứ ai cũng đã có trong tầm tay mình một số lượng hạnh phúc nào đó, nói đúng hơn là một số điều kiện nào đó của hạnh phúc, mà ta có khi không biết. Cố nhiên là trong lúc ấy chúng ta cũng có thể có những niềm đau khổ của chúng ta, những niềm đau khổ phần nhiều do nhận thức của chúng ta tạo nên. Chỉ cần mở mắt ra, chỉ cần nhận thức cho chính xác, chỉ cần có ý thức về những hạnh phúc mà chính ta đang có thì ta đã trông thấy được diện mục của hạnh phúc rồi. Một bà mẹ ngọt ngào như dòng suối, một buổi mai thơm mát và lành mạnh, một mẩu xanh của núi rừng, ruộng đồng, hay biển cả, một buồng phổi tốt không nám cũng không có lỗ thủng, một bàn tay có thể làm phát ra bất cứ một âm thanh nào hoặc trong suốt như ngọc thạch hoặc cao vút như sao trời, một người bạn có thể trao đổi tâm tình, một cuốn sách chứa đầy một kho hiểu biết, một tờ lá thắm, một dòng nước trong... và nhiều nữa, nhiều không đếm xiết, tất cả đều có thể là những nguồn hoan lạc chỉ chờ ta mở rộng tâm hồn đón lấy. Yếu tố lớn nhất để tạo nên hạnh phúc là ý thức về hạnh phúc. Có những kẻ sống trong thiên đường mà không biết mình sống trong thiên đường, cứ dại dột tạo cho mình một thế giới bất mãn bực dọc - thế giới của cố chấp, hẹp hòi, tham lam và vội vã. Yêu tố thứ nhì của hạnh phúc là biết rõ được con người của mình có những nhu yếu nào trong lĩnh vực khám phá và thương yêu và hướng về sự thực hiện những nhu yếu ấy những nhu yếu đích thực là nhu yếu, nghĩa là những nhu yếu bảo vệ và bồi đắp sự sống, sự vươn lên của mình. Như thế, sức khỏe, trí tuệ và tình thương, những hoa trái gặt được sẽ là dấu hiệu của hạnh phúc chân thực.

Càng khám phá càng hiểu biết con người càng thoát khỏi cái vỏ bản ngã chật hẹp và nghèo nàn của mình để vươn tới thể nhập với những hiện tượng khác trong vũ trụ, cùng có tính cách phóng khoáng bao la như vũ trụ.

Trong ngôn ngữ Pháp, chữ comprendre có mang ý nghĩa ấy. Com là cùng với mình, prendre là nắm lấy.Và như thế hiểu biết một vật gì là mình cùng đồng nhất với vật ấy - cũng có nghĩa là nới rộng bản ngã của mình ra tới vật ấy. Thương yêu cũng vậy, càng thương yêu con người càng thoát khỏi cái vỏ bản ngã chật hẹp và nghèo nàn của mình để vươn tới thể nhập với những hiện tượng khác trong vũ trụ, cùng có tính cách phóng khoáng bao la như vũ trụ. Thương yêu cũng là nới rộng bản ngã mình tìm tới đồng nhất với đối tượng. Và đối tượng càng to rộng thì mình càng trở thành to rộng.

Nếu khám phá và hiểu biết là một nguồn hạnh phúc thì thương yêu cũng là một nguồn hạnh phúc- hạnh phúc trong ý nghĩa thỏa mãn được nhu yếu của mình. Hạnh phúc, về phương diện tình cảm, là yêu thương và được yêu thương... Được thương yêu là ngọt ngào, nhưng yêu thương không phải chỉ là ngọt ngào Yêu thương cần nhiều nỗ lực, cần nhiều can đảm, cần nhiều chịu đựng. Yêu thương là chịu trách nhiệm, là che chở, là lo lắng, là hy sinh; tất cả những thứ đó đều là những yếu tố cần triệt để thương yêu, nghĩa là để thỏa mãn nhu yếu thương yêu, nhu yếu vươn tới đồng nhất với đối tượng. Người đầu tiên dạy cho ta yêu thương là bà mẹ. Ta sinh ra đời nhỏ bé, mong manh, yếu đuối, không có khả năng tự vệ. Những cảm giác đói, khát, đau đớn, thiếu thốn của chúng ta được mẹ hiểu, được mẹ lo lắng, được mẹ đối phó. Ta cần mẹ, ta thiếu mẹ và ta yêu mẹ. Khi ta cần mẹ, thiếu mẹ ta chỉ cần mở miệng khóc. Mẹ xuất hiện liền bên nôi như một thiên thần. Ta cảm thấy đầy đủ sung sướng. Vậy tình yêu phát xuất từ sự cần thiết, từ sự thiếu thốn, từ sự đau khổ. Tình yêu được hình thành rồi lớn lên trong đắng cay, trong ngon ngọt, trong kỷ niệm và trong ân nghĩa. Sự ngọt ngào tự nó không thể hiện hữu. Sự ngọt ngào phải nương trên sự đắng cay, sự khao khát. Một ly nước chanh không thể ngon nếu không có sự khát nước. Khi ta lớn lên, mạnh chân khỏe tay, có đủ sức tự vệ, ta ít cần đến cha mẹ hơn, và theo lý, ta ít yêu cha mẹ như xưa. Nhưng mà cái nguồn suối ngọt ngào ấy ít khi khô cạn. Nếu ta trở về, ta vẫn cảm thấy nó còn là một kho tàng hạnh phúc của ta. Khi con khôn lớn, mẹ vẫn cần con dù con đã ít cần tới mẹ. Con có những thứ cần mới, và con không tập trung cái nhìn nơi mẹ, nơi bầu sữa mẹ nữa. Và nhiều bà mẹ cũng thấy khổ đau vì sự kiện tầm thường nhưng hiện thực đó.Nhưng trong tình yêu ngoài sự ngọt ngào, còn có kỷ niệm, còn có ân nghĩa. Và vậy cho nên tình yêu cha mẹ của một kẻ lớn khôn vẫn có thể còn đậm đà, tha thiết tuy bản chất đã không thể còn giống như bản chất của nó hồi đứa con còn thơ ấu, vụng về. Tình yêu ấy kỷ niệm và ân nghĩa ấy lắm khi đậm đà thiết tha khiến cho nhiều lúc đứa con tuy đã khôn lớn vẫn không chịu nhận mình là khôn lớn trước người đã thương yêu mình, đã là nguồn suối ngọt ngào cho mình từ khi mình còn măng sữa. Dù lớn bao nhiêu, tôi vẫn là con của mẹ. Có khi những bựcdọc những lo lắng những bận rộn những phiền muộn của cuộc đời làm lu mờ mọi kỷ niệm buồn vui, mọi ân nghĩa  thâm sâu, và người con có thể, trong những lúc đó, nhìn người thương yêu của mình như nhìn người xa lạ. Điều ta có thể trách cứ là sự dại dột mà không phải là sự bội bạc. Bội bạc thật ra chỉ là hậu quả của một sự mờ ám,dại khờ. Chỉ cần một sự lắng lòng, chỉ cần một sự trở về là lòng ta lại tràn ngập yêu thương, và ta lại tìm thấy nguồn hạnh phúc. Em đã bận rộn quá, em đã phiền muộn quá, tôi biết điều đó nhưng bận rộn và phiền muộn để làm chi, nếu không phải là để mất hết những gì quý giá nhất trong đời em? Em than phiền rằng các bậc cha mẹ hiện giờ không hiểu thấ u được lòng em và em có cảm nghĩ là không thể bắc được một cây cầu cảm thông. Có cây cầu cảm thông nào mà không cần đến chất liệu thương yêu. Em như thế, thái độ em như thế, tâm hồn em ơ thờ, lạc lõng, nguội lạnh như thế, làm thế nào mà cảm thông. Cha mẹ có thể không hiểu ta mà vẫn cứ tưởng là hiểu ta. Thì ta cũng có thể không hiểu được cha mẹ mà vẫn giản dị nghĩ rằng ta hiểu được cha mẹ. Tôi chắc các bậc cha mẹ có cố gắng và nhẫn nại về phần họ. Chúng ta nên có cố gắng về phần ta. Em nóng nảy, bực dọc và phiền muộn làm chi. Nên lắng lòng lại, đi tìm yên tĩnh mà nghĩ đến ân tình và kỷ niệm. Niềm thương yêu sẽ trở lại, rồi em sẽ cố gắng về phần em. Không nên thất vọng không nên càng lúc càng vùng vẫy một cách tuyệt vọng Các bậc cha mẹ cũng đã trải qua nhiều đau khổ, thắc mắc và lo âu của họ. Đôi khi những thứ đó là vì ta, dù là đau khổ thắc mắc và lo âu không đúng cách, không có hiệu quả. Nghĩ đến điều đó, nghĩ đến những nếp nhăn trên trán họ, nghĩ đến những ngày tháng sắp đến của cha mẹ, đến sự vắng mặt vĩnh viễn của cha mẹ sau này, nghĩ đến ân tình kỷ niệm trong suốt một thời gian thương yêu lo lắng khổ đau mà phát lòng hối hận, rũ bỏ bớt bận rộn phiền não, trở về thương yêu lấy người đã sinh dưỡng mình. Tôi biết trong lòng em có thương yêu, nhưng bề ngoài em lại có vẻ ngủng ngẳng, bất cần, đôi khi tàn nhẫn nữa. Tôi cũng biết rằng cái bề ngoài ấy là biểu lộ của những khắc khoải, đau xót, oán hờn và cô đơn mà thời đại đã ghi đậm nét trong tâm hồn em. Và chính những thứ đó đã không cho em tĩnh tâm nhìn thấy sự thực cũng như mặt hồ nổi sóng không phản chiếu được hình ảnh tròn trịa của mặt trăng đêm rằm. Tình yêu là thần dược mầu nhiệm có thể chữa lành những thương tích tâm hồn của em. Tôi nhớ cái lần đầu tiên đọc xong bộ sách Lý Thường Kiệt - lịch sử ngoại giao triều Lý của Hoàng xuân Hãn, tôi bỗng thấy tâm hồn rung động và tràn đầy cảm thương. Tiền nhân của chúng ta đã khai sơn phá thạch, đem xương máu tâm huyết bảo vệ từng tấc đất, phấn đấu bằng trăm mưu nghìn kế để chiếm lại từ Bắc phương những giải đất nhỏ xíu, hiểm trở, giữ gìn những miếng đất ấy dù phải bỏ xương tàn nơi chốn rừng thiêng nước độc. Tiền nhân đã tổ hợp lại, tự lực tự cường giữ gìn phương Bắc và bành trướng về phương Nam. Sau này được nghe những câu ca dao miền Nam, đọc truyện của Sơn Nam, tôi cũng thấy cảm thương khi gợi lại hình ảnh của những con người phấn đấu với sình lầy, với muỗi mòng, với bệnh rét rừng và muôn ngàn tai nạn khác để mở rộng đất sống về phương Nam. Giải đất cẩm tú ngày nay đã là công trình xây đắp của bao nhiêu thế hệ đi trước. Chúng ta sinh ra trên mảnh đất này, ăn, chơi, ca hát, ngủ nghỉ, làm việc trên mỗi tấc đất đã từng thắm mồ hôi, nước mắt và xương cốt của những thế hệ trước. Nếu chúng ta quên lãng quá khứ, quên lãng lịch sử, quên lãng những hy sinh những khổ đau những kỷ niệm vui buồn những ân nghĩa tổ tiên và giống nòi, thì cũng giống như những cái cây không đâm rễ sâu được xuống lòng đất, càng ngày càng héo khô lạc lõng, thiếu chất liệu tình cảm cần thiết cho một cuộc sống. Có những miếng đất tuy nghèo nhưng không ai muốn bỏ để đi làm ăn nơi khác chỉ vì một lý do duy nhất là tổ tiên ông bà cha mẹ đã ở tại đó lâu đời, miếng đất đã chôn dấu biết bao khổ vui bao kỷ niệm ân tình bền chặt. Lại có những miếng đất trên đó người tứ xứ đến làm ăn thịnh vượng, buôn bán, trao đổi gặp gỡ nhau trong một thời gian rồi ai về xứ đó. Như Dalat, như Vũng Tàu chẳng hạn. Người ta đổi chác làm ăn với nhau trên bề mặt, không ai có gốc rễ sâu xa ở những nơi như thế, không ai bị ràng buộc vào miếng đất ấy bằng khổ đau ân tình lâu dài, không ai bám vào những miếng đất ấy với tất cả tiềm thức sâu xa của họ, cho nên, cũng như hoa anh đào nở rồi tàn, tình người ở các nơi ấy rất mỏng manh và thay đổi. Không nhà văn hóa nào lại có thể muốn chọn những nơi ấy làm thủ đô văn hóa của một dân tộc có lịch sử phải không em.

Nhất định là tình yêu đất nước và dân tộc nằm sẵn trong em, trong xương tủy em, trong mạch máu em. Nhưng mà những hình ảnh của khổ đau, của máu xương của kỷ niệm của ân tình rất cần thiết để gọi những gì tiềm tàng trở thành hiện lực. Những cuốn sách như cuốn Lý thường Kiệt chẳng hạn, không phải được viết nên để phô bày một cái biết của tác giả. Người viết cũng được thúc đẩy bởi thương yêu, rung cảm , người đọc cũng nhờ đó mà đánh thức dậy tình yêu đất nước và dân tộc. Văn hóa dân tộc chắc chắn là văn hóa của tình yêu, tình yêu đất nước, tình yêu quê hương, tình yêu tổ tiên, tình yêu đã nuôi dưỡng chúng ta và sẽ còn nuôi dưỡng chúng ta. Hiện thời dân tộc ta đang lâm vào tai họa chiến tranh, không ai trong các em mà không xót xa. Xót xa, bồn chồn như đứng trên đống lửa. Xót xa bồn chồn đến mức muốn gầm thét, muốn trở thành điên dại... Chiến tranh tàn phá núi sông, tàn phá sinh mệnh và tệ nhất là tàn phá những giá trị nhân bản. Sự sống ở nhiều nơi đã được thu gọn lại trong phạm vi bản năng. Phải sống đã, và phải sống bằng bất cứ phương thức nào. Bán liêm sỉ đi, bán truyền thống đi, bán sự trinh bạch đi để được sống. Không thể dạy đạo đức luân lý cho kẻ hấp hối, cho kẻ đang phấn đấu để thoát khỏi cái chết. Một nửa ổ bánh mì có thể đổi lấy đời trinh tiết của một thiếu nữ. Một cậu ma cô có thể nuôi nổi một gia đình đã kiệt quệ... Có cần chi nói đen bổn phận. Thấy như thế, nghe như thế, em đã rung động vì xót thương rồi. Và tình thương dẫn tới hành động. Hãy tìm tới nhau, nắm lấy tay nhau, tìm một giải pháp cho nhau. Em không thể ngồi yên, em không thể cưỡng lại sự thương yêu, dù em thấy trước mắt những khó khăn tủi cực. Thương yêu như tôi đã nói, không phải chỉ là ngọt ngào. Thương yêu còn là nỗ lực, nhẫn nhục, can đảm, hy sinh. Và bởi vì thương yêu như thế cũng là một nhu yếu lớn của bản thể em cho nên em không thể không thương yêu, không thể không chấp nhận một sự dấn thân cần thiết.

22/3/13

Lưu Trọng Lư - ĐỌC " THƠ -THƠ " CỦA XUÂN DIỆU

 

Lưu Trọng Lư

 

 Hơn 70  năm trưóc trong số báo đầu tiên của Tạp chí Tao Đàn được đánh giá là "tạp chí văn chương hay nhất thế kỷ 20 của Việt Nam"  do Thạch Lam và Lưu Trọng Lư làm thư ký tòa soạn, số ra ngày 1/3/1939 đã in bài ”ĐỌC THƠ THƠ CỦA XUÂN DIỆU ” . Đây là lần đầu tiên thơ Xuân Diệu bị .. chê , mà người chê chính là Lưu Trọng Lư người cùng Thế Lữ khởi xướng ra phong trào “ thơ mới “ . Để biết thêm không khí phê bình văn chương trên báo chí thời đó ,   xin giới thiệu nguyên văn bài viết trên .

Tao Đàn số 1 ngày 1/ 3/ 1939 
ĐỌC THƠ THƠ CỦA XUÂN DIỆU 
( Thư cho em gái )

Em C. D
Anh vừa đọc xong một cuốn thơ. Anh cầm bút biên thơ này cho em, tay anh còn run. Trong những lúc như lúc này, anh không thể không viết thư cho em. Mà cũng không lúc nào như lúc này, anh thấy mình ngập- ngừng, ái- ngại trước một trang giấy trắng, tâm hồn anh như cây hổ ngươi, sau một vái đụng nhẹ chụm lại rồi mở ra còn thẹn – thùng, còn e-lệ…Trong lúc này, anh thấy một câu mình viết, một lời mình nói sẽ nghiêm trọng một cách lạ thường. Ta không có quyền xem khinh một điều gì, phung phí một điều gì em ạ! Văn-thơ đã sáp nhập vào trong tâm- hồn ta và kỳ diệu ! Nó đã làm cho ta trở nên một người khác.
Ta có cảm tưởng là cuộc đời chung quanh ta và trong ta, bay bổng thêm, nghiêm- trọng hơn, lan rộng ra .. Và trong một lúc, ta muốn sống tất cả những cuộc đời của người khác, lún mình trong thâm-tâm của vạn vật. Ta có một cái ngạc- nhiên thú- vị , và một cái khoái- trá không cùng về sự được sống ở đời vì đã được đọc một cuốn thơ hay một cuốn văn.
Đời đối với anh lúc này đẹp quá và đáng sống vô cùng. Anh không muốn đổi cái khoảnh- khắc ấy, dù để lấy tất cả ngọc vàng trong cung điện. Anh không thể “quan- niệm “ một cuộc đời không có văn - thơ, cũng như một vũ- trụ không có ánh trăng xanh dịu. Một cuốn thơ ra đời mang lại cho ta một nguồn phong- phú những tình đẹp, ý cao.
Em hãy tưởng tượng từ bé em không được đọc câu thơ nào . Đời em sẽ nghèo –nàn một cách thảm hại. Và em không thể soi mình trong gương mà không ngượng- nghịu. Nhưng anh hiểu người em gái của anh nhiều lắm . Đã hơn một lần, em tỏ ra rằng em yêu mến văn-thơ ngang với cuộc đời.
Hôm nay gửi cho em cuốn “ Thơ -Thơ “ không phải là anh chỉ gửi cho em một bó hoa. Hoa chỉ là hoa . Nhưng thơ không phải chỉ là thơ mà thôi. Thơ còn là “ người “ nữa . Anh gửi em một tâm- hồn. Anh gửi em một người . Một người đã sống . Môt người biết sống . Nhưng hơi tiếc một chút, tâm-hồn ấy đã sống theo kiểu một người phương Tây . Đó không phải là lỗi một người mà là lỗi cả một thời -đại. Anh nhớ một lần đã nói với em hoài bão
tha thiết của anh là được một ngày kia trông thấy một thi nhân Việt- Nam xuất hiện từ ở trong cái sốt dẻo, cái cùng sâu của tâm hồn Việt Nam, giữa cái hương vị say sưa của đồng lúa chiêm , bên cạnh những người đàn bà phủ ở trong sồi , trong nái những người đàn bà chân-thực và mộc mạc, đã ru cả một thời đại , cả một dĩ vãng Việt-Nam ru bằng tiếng hát bên đồi khi cắt cỏ , hay bằng tiếng hát bên nôi , khi gấp xuống cái “ Hậu-lai” của xứ sở.

Xuân Diệu không phải là hạng thi nhân ấy. Xuân Diệu từ phương xa lại. Quê hương của người ấy phải là trên bờ sông Seine , trước cửa sổ của chàng là những hàng “ô liu” trắng những tuyết . Chàng ấy đã mang lại cho ta một cuộc đời mới . Chàng đã đến với sự bồng bột, mảnh liệt của người xứ lạnh, một người phải cần cù, phải siêng năng để sống và để thắng. Chàng đã làm cuộc sống thành một đạo- giáo để tôn thờ, để tin yêu, để say sưa, để đắm đuối. Chàng là một tâm hồn tha thiết, một tâm hồn đã nhuần tắm trong những luồn tư tưởng sáng lạn , tưng bừng của Andre Gide hay Oscar Wilde.
Một hôm đọc những bài thơ của Xuân Diệu đăng trên báo Ngày nay, một người bạn đã hạ một câu cụt ngủn : “ Thơ Xuân Diệu “ tây quá “. Câu ấy bạn anh nói với một cái bĩu môi. Anh cũng nhận thế nhưng có chỗ muốn nghĩ khác : “ Thơ Xuân Diệu “tây “ nhưng mà có lẽ Tây một cách thành thực “. Mà khi nói đến thành thực, người ta không có quyền bĩu môi . Một câu thơ thành thực có thể là một câu thơ hay rồi.
Xuân Diệu là người học trò của “ trường học “ mới. một người đã tìm nguồn sống ở đôi vú sữa phương Tây. Nếu thơ chàng ta có nhiễm một mầu tây phương, cũng không biết làm thế nào được kia mà ! Vì tài nghệ không cải tạo được tâm hồn, không thay đổi được sự thành thực. Chỉ có một cách là đổi ngay cái chất mầu ở dưới đất mới mong thay được sắc lá của sinh vật. Vì thi nhân không phải bao giờ cũng là anh thợ vườn có cái nghệ thuật kỳ dịệu. Thường thường thi nhân chỉ là một cái hoa bất ngờ nở ở bên đường .
Vậy một bông hoa đã nở , ta hãy chịu để cho nhà thơ ấy cứ trở nên là “ mình “- với tất cả cái bản sắc của mình. Và trước mắt ta đã thấy hiện ra một người Việt-Nam “Tây “ một cách táo bạo, “Tây” với tất cả tâm hồn, từ những tình cảm đến những hình ảnh và ý tưởng.
Bửa nay lạnh, mặt trời đi ngủ sớm,
Anh nhớ em, em hỡi ! Anh nhớ em ..
Không gì buồn 
bằng những buổi chiều êm . 
Mà ánh sáng điều hòa cùng bóng tối . 
Gó lướt thướt kéo mình qua có rối ;
Vài miếng đêm u uất lẫn trong cành ;
Mây theo chim về dãy núi xa xanh ,
Từng đoàn lớn nhịp nhàng và lặng lẽ
Không gian xám tưởng sắp tan 
thành lệ.
Thôi hết rồi ! Còn chi nữa đâu em ! 
Thôi hết rồi! Gió gác với trăng thềm
Vói sương lá rụng trên đầu gần gũi ….
………………………………………
Anh một mình nghe tất cả buổi chiều
Vào chầm chậm 
Ở trong hồn hiu quạnh .
Anh nhớ tiếng ..Anh nhớ hồn.
Anh nhớ anh .
Anh nhớ em! Anh nhớ lắm em ơi ! 
( Tương tư chiều )

Khi người ấy yêu , thì thật là tha thiết , đắm say và .. ầm ĩ . Cũng là tình ái , nhưng đây không phải là tình ái lặng lẽ , thâm trầm , kín đáo . Ở đây tình ái lên như ngọn gió chiều . Yêu và bao giờ cũng sợ không đủ , không đủ ngày tháng , không đủ mê tơi ; tất cả cảm giác từ thị giác đến xúc giác đều cùng theo một tiếng gọi , núp dưới một lá cờ , cùng tiến lên một lúc và khắp trận tuyến để làm việc cho tình ái . 
Phải yêu với đôi mắt , với đôi môi , phải yêu với hơi thở với nụ cười …Phải kề đôi vai phải trộn lẫn hai đầu tóc , phải có những cái hôn nồng cháy , phải , phải ..
…….. Nhích lại , và đưa tay anh nắm .
Một khoảnh khắc đối với Xuân Diệu là ngắn lắm , và người ta muốn “ thoát” một cách vội vàng , muốn nói hết cả , trong một lúc . Vì thế , trong những vần thơ chật hẹp , người ta đã tràn ngập , đã đầy dẫy những “ mình “. Mà không những “ thoát “ một cách vội vàng , muốn nói hết cả trong một lúc . Vì thế , trong những vần thơ chật hẹp , người ta đã tràn ngập đã đầy dẫy những “ mình “ . Mà không những chỉ trong tình ái , ở đâu nhà thi sĩ ấy cũng muốn làm vang động và “ầm ĩ” cái “bản ngã “ của mình . Ở đâu chàng cũng tự trưng bày một cách sỗ sàng và quá thật thà ..
……Để linh hồn ràng buộc bởi muôn dây ,
Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu mến 
……Đây là quán tha hồ muôn khách đến ;
Đây là bình thu hợp trí muôn hương ;
Đây là vườn , chim nhả hạt mười phương 
Hoa mật ngọt chen giao cùng trái độc .
Đôi giếng mắt đã chứa trời vạn hộc , 
Đôi bờ tai nào ngăn cản thanh âm ,
Của vu vơ nghe mãi tiếng kêu thầm 
Của xanh thắm thấy luôn màu nói sẽ..
Tay ấp ngực dò xem chiều máu lệ .
Nghìn trái tim mang trong một trái tim .
( Cảm xúc )


….. Một tối bầu trời ám sắc mây ,
Cây tím nghiêng xuống nhánh hoa gầy ,
Hoa nghiêng xuống cỏ , trong khi cỏ 
Nghiêng xuống làn rêu . Một tối đầy 
Những lời huyền bí tỏa lên trăng ,
Những ý bao la ủ xuống trần 
Những tiếng ân tình hoa bảo gió 
Gió đào thỏ thẻ báo hoa xuân ….
( Với bàn tay ấy ) 
Những câu thơ anh vừa dẫn ra đó , có thể là những câu thơ hay và là những câu thơ mà các thiên tài Việt Nam từ xưa chưa hề tạo ra được. Trong những câu thơ ấy , ta vẫn thấy một cái gì mới lạ - khác hẳn với tâm hồn Việt Nam , một vái gì tha thiết lắm , nhưng mà vẫn như bao giờ cũng trống trải , bộc lộ , không phải là kết quả của một trí tượng thuần túy , đơn giản một trí tượng “ tổng hợp “ . Bao giờ ta cũng thấy chàng trẻ tuổi ấy chỉ là một người học trò quá thật thà của “ trường” thơ Tây , dẫu có lần chính chàng đã nói :
Ai đem phân chất một mùi hương 
Hay bán cầm ca ? Tôi chỉ thương ,
Chỉ để tình theo dòng cảm xúc 
Như thuyền ngư phủ lạc rong sương .
Mà chàng vẫn có cái khuynh hướng muốn phân chất như thường . Muốn nói cho nhiều và cho rõ , cho thật kỹ..Chàng muốn tinh vi , muốn tế nhị , muốn sáng tỏ , nhưng hãy coi chừng ! Chàng đã làm câu thơ thành một câu tán văn . Cái mà anh đã “hận “ nhất trong khi đọc thơ Xuân Diệu là sao khi người ta đã biết làm những câu thơ sau :
Say người như rưọu tối tân hôn ..
…….
Đã nghe rét mướt buồn trong gió 
Đã vắng người sang những chuyến đò …
Mà còn cho in những câu thơ bất thành như thế này :
Chân đi nặng như mang xiềng giam cấm 
Trong cũi to hồn không thể vượt lên…
……
Người là trăng , hỡi trăng đẹp bình yên ,
Hỡi trăng đẹp , người là trăng nao nức 
Nhớ thương luôn , nên mắt có quang viền …
…..
Lẫn với đời quay , tôi cứ đi 
Người ngoài không thấu giữa lòng si ..
…..
Anh nhớ anh của ngày tháng xa khơi ,
Nhớ đôi môi đương cười ở phương trời …
Đấy là một ít câu thơ mà anh đã lượm ở vài bài nào của Xuân Diệu , chứ thực ra , những câu thơ khắc khổ , sống sượng như thế , đã chiếm một phần lớn của cuốn thơ . Cái bệnh nặng nhất củ thơ Xuân Diệu ấy là sự “nôm na “ ( prosaisme) và điều lầm to nhất của người ấy là đã làm cái tiếng của “thân mình “ thành cái tiếng của kẻ tục phàm . Trong tiếng nói của thân mình ít khi dung đến những chữ : Nên , nhưng , vì , của ..v..v..nhưng những trợ từ ấy thì Xuân Diệu phải xài đến luôn , vì bao giờ chàng cũng muốn rõ rệt và cho người ta hiểu mình hơn . Chàng đã lầm một cách tai ác ! . Thơ sở dĩ là thơ , bởi vì nó xúc tích , gọn gàng , lời ít và ý nhiều và nếu cần phải tối nghĩa mà tối nghĩa chỉ vì thi nhân không xuất diễn một cách trực tiếp : Lời nói thân yêu của thi nhân phải là hình ảnh . Ỏ đây , em thấy Victor Hugo….Lamartine phải kính cẩn ngã mủ trước những anh chàng thi sĩ say rượu kia là Lý Bạch và Omar Khayyam.. Và cái Tây phương bộc lộ kia sẽ hàm phục trước cái Đông phương hàm- dưỡng .
Omar Khay- yam nhà thi sĩ Ba Tư mà thế giới đều biết tiếng , là một nhà thông thái , một nhà kỷ-hà-học ngang hàng với Pascal, thế mà trong thơ của tiên sinh , không hề có dấu vết của luận lý , của khoa học . Trọn đời , tiên sinh chỉ làm 72 bài thơ mà , điều này mới lạ ! Toàn là những bài thơ tứ tuyệt ! Ngay những bài thơ hay nhất của Tàu phần nhiều cũng chỉ là những bài thơ “ tứ tuyệt “ . Có lẽ cái “hình thức” ấy rất thích hợp với cái tâm hồn “ tổng hợp “ của phương Đông.
Tuy vậy, nếu ta bắt một nhà thơ như Xuân Diệu, một người học trò trung thành của phương Tây , một người đầy ham muốn phải uốn mình trong một cái hình thức uyển chuyển và súc tích ấy thì thật là một điều thừa và cũng không thể nào được.
Em không nên đòi hỏi ở “con người phương Tây “ấy , một tâm hồn phương Đông và đồng thời lại đòi ở họ một tấm lòng thành thực. Nhưng em ạ ! Có một điều , đến phút cuối cùng này anh mới nhận ra là một người đã từng sống ở giữa những xóm dừa , ăn rau sắn , ngửi mùi lúa ngự , một người như thế , nhất đán có thể trở nên một người Tây phương được không?, một người phương Tây thành thực và trọn vẹn . ! 
Anh ,

Lưu Trọng Lư .