25/7/13

Ở nơi không có gió thổi qua .



File:Sonoran Desert 33.081359 n112.431507.JPG


Tặng CT


Ở nơi không có gió thổi qua .
Những cánh bướm không còn chao lượn .
Những cánh hoa  ủ rũ
Ngọn cỏ hắt  hiu .

Ở nơi không có gió thổi qua
Không còn tiếng chim hót
Mây ngừng trôi

Không còn nghe  tiếng ru hời của mẹ
gương mặt trẻ thơ
Bỗng trở nên già cỗi
Ở nơi không có  gió thổi qua
Không còn hoa cỏ mùa xuân
Không còn tiếng ve mùa hạ
Chỉ còn  mùa thu trút lá
trơ lại mùa đông
Em bé nức nở
Cô gái  xuân thì thổn thức
mẹ già cúi mặt
rưng rưng nguyện cầu

Những cánh bướm
Những cánh hoa
lá cỏ

Hãy đợi !
và đừng vội lìa đời

Ở phía chân trời
tia chớp
báo hiệu
cơn giông

Gió sẽ trở lại  !


Mặt trời sẽ mọc !
và gió
sẽ mang  đến niềm vui
cho bướm ,hoa , lá cỏ

 Bé thơ ơi
 Em gái ơi
Thôi đừng khóc

Gió sẽ  trở lại !
đem về hương sắc mùa xuân 
đem  lại nụ cười
cho bé thơ  ,  em gái

Từ  vực sâu
Hoa , cỏ sẽ mọc lên
Đón ánh mặt trời
Reo vui với gió 

Gió cũng sẽ lau khô
 dòng nước mắt
đã chảy ngược rất lâu  
vào trong  lòng Mẹ

Trần Hồ Dũng .

24/7/13

huyền ca

tranh-son-dau-thieu-nu-cua-pino-daeni_022


 huyền ca

                          Trần Hồ Dũng


Em gieo sầu chi lên cung đàn

Cho ta ngồi đây đau tình xa

Em ngân nga chi lời tơ vàng

Cho ta nghe xa như huyền ca


Lá thu còn rơi cho vai gầy 

Gió thu còn trôi cho tóc bay 

Lệ xưa còn rơi trên vai người 

Tình xưa còn in trong nắng phai 


Em như chim bay về chân trời

Tình ta nổi trôi theo ngàn mây

Nhớ em về trong ly rượu đầy

ta nghe sầu lên men ngất ngây



Tình đâu trăm năm mà ngậm ngùi 

Đời không thiên thu sao mãi đau 

Ai thương nhớ ai trông mây ngàn 

Ai ngồi khóc ai dòng sông trăng 


Ừ ! ta giờ đây thôi yêu nàng 

Ừ ! em giờ đây thôi yêu trăng 

Lòng ta hồ như bia mộ vàng 

Lòng em hồ như rêu đá xanh


T.H.D. 
                                            


22/7/13

Cuồng Từ - Nhớ TRÚC PHƯƠNG

Thứ bảy, ngày 20 tháng bảy năm 2013

Nhớ TRÚC PHƯƠNG

Trucphuong.jpg



Nhớ Trúc Phương : Một-tài-hoa-trót-sa-vũng-lầy-nhân-thế


----------------------

tiểu dẫn :
Năm 1980 , Cuồng Từ nhảy tàu chợ từ Nha Trang vào Sài Gòn , rồi xuống Xa Cảng để về Miền Tây . Xếp hàng trọn ngày mà không mua được vé xe , đêm ấy CT phải qua đêm ở Xa cảng , gặp Trúc Phương làm "Nhạc Sĩ Cái Bang" ở đây . Anh là "Bang chủ" . Bạn cũ gặp nhau xiết nỗi vui mừng . Đêm ấy , mưa to và gió lớn , chúng tôi ngồi trên manh chiếu giữa Xa Cảng và uống rượu với nhau . Trúc Phương muốn Cuồng Từ tặng anh một bài thơ để phổ nhạc . Cuồng Từ say làm bài thơ , đặt tên là : "Nhớ Trúc Phương" . Làm xong , CT đọc to một lần .Trúc Phương ôm đàn và hát bài thơ này . Bài hát rất cảm động . Sáng ra Trúc Phương lo vé xe cho Cuồng Từ ...

***

NHỚ TRÚC PHƯƠNG [*]

Ngươi ơi Ngươi ! một cánh diều
Đứt dây oan nghiệt còn yêu bầu trời
Ôm đàn đất lạ chơi vơi
Rượu say mà hát : "Thói Đời"đắng cay

Mưa hỡi cứ bay mù Xa Cảng
Cho mưa về trên đôi mắt người xưa
Mẹ già ta đã thành mây trắng
Cha đã ngàn năm lặng trống đồng

Bạn bè tứ tán từ thất trận
Người yêu túng quẫn đi lấy chồng
Trang Tử ngày xưa mà sống lại
Như ta rồi cũng khóc ròng thôi ?

[ Thời nay còn mỗi ngươi viết sách
Minh triết cho đời bỏ mặc thân ? ]

Này ngươi nhạc sĩ Cái Bang ơi !
Ôm đàn thăng trầm chơi khúc phong yên
Tay cũ gió mưa trên phím cũ
Cho ngàn tình cũ lệ đầy vơi

Trán buồn tóc rủ màu sương khói
Ngươi đàn ta hát không thanh âm
Có phải là ngươi hồn tình phụ
Một đời hát mãi tình đơn phương

Có phải ngươi ? là ngươi dại gái
Mà hát hoài câu : "thiên nhất phương"
Đời ngươi sao mãi yêu Thanh Thúy
Ảo ảnh ngày xưa nức nở hoài

Ngồi đây Xa Cảng đêm mưa vắng
Thiên hạ nhìn ta quá lạ lùng
Trời đất của riêng loài mắt trắng
Sá gì thế sự mà đau lòng

Chẳng lẽ sống đời sao hả mậy
Hao hơi làm gì với lũ bội vong ?
Ngươi ơi ! Áo rách vì thương rượu
Yêu nàng thiên kim mà vô tâm
Gió đã khắp trời lòng đắng quá
Rót đi người ạ rượu đời câm

Rồi kể ta nghe tình ngươi lận đận
Ta kể ngươi nghe tình ta hoang đường
Ta viết bài thơ tình ngươi hoạn nạn
Ngươi phổ thơ ta nhạc đoạn trường

Ngươi ơi Thánh Triết ngàn năm trước
Đã biết say là tịch mịch chưa ?
Có biết mưa là sầu vô thủy
Lánh đời giữa chợ là thượng thừa ?

Đời bỏ ta rồi đôi ngã lạnh
Trải lòng say trọn một đêm mưa .

________________________

[*] TRÚC PHƯƠNG (1939-1995) tên thật là Nguyễn Thiên Lộc , quê xã Mĩ Hòa , quận Cầu Ngang , tỉnh Trà Vinh . Trúc Phươnglà nhạc sĩ trữ tình lãng mạn , viết nhạc từ cuối thập niên 50 của thế kỉ 20 , nổi danh từ những bản nhạc đầu tiên : Đò Chiều , Tình thắm duyên quê , Nửa đêm ngoài phố , Tàu đêm năm cũ ... Trúc Phương sáng tác rất đều tay .
Lối xưa, hai ca sĩ hát nhạc Trúc Phương hay nhất có lẽ là Duy Khánh và Thanh Thúy , thịnh hành ở phòng trà Đức Quỳnh ( đường Cao Thắng) là những bài : Tàu đêm năm cũ , Nửa đêm ngoài phố , Hai lối mộng ... do Thanh Thúy hát .

Sau năm 75, tất cả những bài hát của Trúc Phương không được hát trong nước , Trúc Phương sống lang thang ở Saigòn , tối về xa cảng miền Tây mướn một chiếc chiếu để ngủ .
Ngày 18-9-1995 , Nhạc sĩ Trúc Phương lặng lẽ từ biệt cõi đời , để lại gần 70 nhạc phẩm viết trước năm 75 , và một số nhạc phẩm khác , viết tặng bạn bè , chưa phổ biến .
Suốt 20 năm (75-95) TRúc Phương sống âm thầm trong nghèo khó , bi đát và cô đơn , rồi trút hơi thở cuối cùng trong căn phòng trọ tồi tàn nhỏ hẹp ở quận 11 SG , lối xóm chôn ông ở nghĩa trang Lái Thiêu .
Nhạc sĩ Trúc Phương - một tài hoa đã " TRÓT SA VŨNG LẦY NHÂN THẾ !
---------------------------------------------------------------









19/7/13

Trần Đình Sử - PHÊ BÌNH KIỂM DỊCH

Tháng 7 17, 2013
Trần Đình Sử    
Theo quan điểm của nhà phê bình văn học Pháp Albert Thibaudet (1874-1936) trong sách Sinh lí học phê bình (1922) thì phê bình chuyên nghiệp đối lập với phê bình tự phát. Phê bình tự phát là loại phê bình tự nhiên của người đọc. Đọc xong một cuốn sách hay thì vỗ đùi khen, nếu đọc cuốn sách dở, buột miệng chửi một tiếng, hay khi trà dư tửu hậu, hoặc lúc dạo chơi với bạn bè, bàn bạc mấy câu về cuốn sách nào đó… Đó là phê bình tự phát. Loại phê bình này chủ yếu là phê bằng miệng, bằng động tác, như phẩy tay, dẩu miệng… đều là tự phát cả. Sau này trong các xa lông sang trọng của các bà quý tộc, các bà mệnh phụ sau cuộc chơi bài, đàm đạo mấy cuốn sách vừa xem, đó vẫn là phê bình tự phát. Anh Hoàng trong truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao, khi nghe vợ đọc Tam quốc diễn nghĩa, đến chỗ hay, vỗ đùi đánh đét khen: “Tài thật, Tài thật. Tài đến thế là cùng. Tiên sư anh Tào Tháo!”, “Tiểu thuyết thì nhất anh Tàu”. Đó cũng là phê bình tự phát. Phê bình tự phát có mọi nơi, mọi lúc, đồng hành cùng sinh hoạt văn học của con người. Dù cho phê bình chuyên nghiệp có chết hết đi thì phê bình tự phát vẫn sống. Phê bình tự phát khi thành dư luận mạnh mẽ buộc phê bình chuyên nghiệp phải nhào vô giải thích. Phê bình tự phát thường có ba nhược điểm. Một là thường nói theo, nói leo. Người đã đọc sách nhận xét đã đành, người không đọc cũng nghe rồi nói theo, bàn tán, thực ra là nói mò. Hai là phê bình tự phát dễ biến thành ý kiến nhóm, có thói quen riêng, thiếu cái nhìn toàn bộ, dễ thiên lệch. Ba là dễ chạy theo thời thượng, đồng thời cũng nhanh chóng bị thay thế, thiếu bền vững, hôm nay vừa khen, ngày mai thấy nói khác, lại nói theo, số phận ngắn ngủi. Có một thời, sách xuất bản xong liền có cán bộ đi thu thập ý kiến bạn đọc các giới, kết quả thu được chỉ là các dư luận như thế, rất ít tính khoa học. Tất nhiên phê bình chuyên nghiệp cũng góp phần định hướng cho phê bình tự phát, giúp nó sâu sắc hơn.
Phê bình văn học phát triển đến một lúc nào đó thì nảy sinh ra sự phân công, và thế là xuất hiện các loại phê bình, trong đó có loại phê bình kiểm dịch. Nhà tư tưởng Khai sáng Pháp là Voltaire (1694–1778) có lần nói: “Chúng ta nhìn thấy, trong các nước hiện đại, khi người ta ra sức phát triển văn học thì có một số người trở thành nhà phê bình chuyên nghiệp, cũng giống như người ta muốn kiểm tra các loại lợn đem ra thị trường có bệnh hay không, người ta đã thiết lập những người chuyên môn kiểm tra lưỡi lợn. Những người kiểm tra lưỡi lợn trong văn học không phát hiện được một nhà văn nào là lành mạnh cả” (Sách đã dẫn của Thibaudet, Nxb Tam Liên, Thượng Hải, năm 2002, tiếng Trung, tr. 74). Xin chú ý mấy chữ này của Voltaire: phê bình kiểm dịch trong văn học không phát hiện được ai là lành mạnh cả. Nó là nghề phát hiện bệnh của văn học. Như thế, có thể coi nhà phê bình chuyên nghiệp đầu tiên là người có chức năng giống như nhân viên thú y kiểm dịch ngoài chợ, thấy có bệnh thì kêu lên, để mọi người tránh xa, không mua hàng đó. Cứ theo chức năng ấy thì nhà phê bình chuyên nghiệp kiểm dịch đầu tiên của nhân loại phải kể đến Đức Khổng Tử bên Tàu. Khổng Tử đã lựa hàng vạn bài ca dao, dân ca của các nước trong lãnh thổ Trung Hoa cổ đại, chọn lấy 305 bài, theo tiêu chí “tư vô tà”, tức là tư tưởng không có gì sai trái, lệch lạc, đồi trụy, có thể lưu hành. Còn các bài khác “có tà” đã bị ông vứt bỏ, thất truyền hết. Nhưng Khổng Tử là nhà kiểm dịch lỗi lạc, bởi trong tư tưởng của ông, lấy ngôn chí, tải đạo làm gốc, có sự thống nhất giữa mĩ và thiện, chấp nhận thi ca có thể hứng, quan, quần, oán, văn chất thống nhất với nhau, cho nên 305 bài vẫn bao hàm đủ các tác phẩm xuất sắc, đa dạng. Platon, người Hi Lạp (427– 327), sống sau Khổng Tử 100 năm (552-479) cũng là nhà phê bình kiểm dịch. Nhưng khác với Khổng Tử, Platon quá cực đoan, ông coi thi ca (văn học) đều là ôn dịch, nên ông đuổi tất ra khỏi nước Cộng hòa lí tưởng của ông.
Nhìn theo lịch sử như vậy ta sẽ thấy từ khởi thủy phê bình chuyên nghiệp, phân biệt với phê bình tự phát, trước hết là loại phê bình kiểm dịch mà Voltaire đã nói. Nhưng phê bình kiểm dịch đời sau ngày một kém. Nó chỉ quan tâm tới sự lành mạnh của văn học theo tiêu chí hình thức, hay tiêu chí đạo đức hay chính trị quốc gia, mà không hề quan tâm đến giá trị nghệ thuật đích thực. Các nhà quản lí quốc gia bao giờ cũng ưu tiên phát triển loại phê bình kiểm dịch này.
Theo Thibaudet, thế kỉ XVII Tể tướng của vua Louis XIII là Richelieu đã đem phê bình kiểm dịch áp đặt cho Viện Hàn lâm Pháp. Bất đắc dĩ Viện Hàn lâm Pháp phải chấp nhận, nhưng cũng chỉ sử dụng có một lần duy nhất rồi thôi. Phê bình kiểm dịch Pháp chỉ đơn giản là đem tác phẩm văn học ra đối chiếu với các quy phạm thể loại, tuy nó thấy tác phẩm nào cũng không hợp chuẩn, nhưng văn học “lệch chuẩn” không bị nó đem ra đốt, văn sĩ không mấy người bị đem đi chôn. Sau thế kỉ XVII phê bình chuyên nghiệp châu Âu chuyển sang phê bình học thuật và hàn lâm, phê bình kiểm dịch tất nhiên vẫn còn, nhưng nói chung không còn trở ngại cho các công trình nghiên cứu học thuật.
Ở Trung Quốc xưa kia phê bình kiểm dịch thực hiện chức năng phát hiện các vụ án văn tự ngục khiến bao nhiêu văn sĩ rơi đầu. Đó là lối đọc văn cắt xén, suy diễn để quy tội phản lại triều đình, phản loạn, nhằm khép đối tượng vào tội chết. Vụ án văn tự ngục đầu tiên của Trung Quốc xảy ra vào thời Chiến Quốc, quyền thần nước Tề gian ác, giết vua, sử quan ghi đúng sự thật, bị khép vào tội chết, đem chém đầu. Suốt lịch sử Trung Quốc, đã có hàng chục vạn người chết vì văn tự ngục. Riêng đời Thanh văn tự ngục giết chết 200 người, liên lụy trên ba nghìn người. Thời phong kiến nước ta cũng thế. Trong các cuộc đấu tranh tư tưởng ở Trung Quốc suốt thời kì Mao Trạch Đông thống trị, đến Cách mạng Văn hóa, phê bình kiểm dịch thực hiện chức năng chỉ ra đâu là dấu hiệu của tư tưởng phong kiến, đế quốc, tư sản, xét lại, đồi trụy, chống Đảng, chỉ ra ai là kẻ thù, đẩy hàng chục vạn người đi lao động cải tạo, bức hại, nhiều người tự tử. Diêu Văn Nguyên, một trong lũ bốn tên, là nhà phê bình kiểm dịch khét tiếng nhất, gian ác nhất. Chu Dương suốt đời trung thành với Mao, thế mà cuối cùng bị Diêu Văn Nguyên tố cáo chống lại tư tưởng của Mao, phải đi lao động trong chuồng lợn. Ở nước ta, trong thời kì bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, phê bình chuyên nghiệp cũng thực hiện nhiệm vụ kiểm dịch, chỉ ra các biểu hiện tư sản, phản động, đồi trụy, xét lại, bôi đen chế độ… Ở nhiều giai đoạn, loại phê bình kiểm dịch này cũng thịnh hành ở nước ta. Thế cho nên, hàng loạt tác phẩm, ví như Vào đời, Sắp cưới, Mùa hoa dẻ, Sương tan, Phá vây, Chuyện kể năm 2000, Miền hoang tưởng, Cây táo ông Lành, Sẹo đất, Vòng trắng, từng bị phê bình chuyên nghiệp phanh phui, lên án, xem đó là những tác phẩm “có vấn đề”, dù sau này nhìn lại hầu như chẳng có vấn đề tư tưởng quan trọng nào cả. Lấy tác phẩm Vào đời (1963) của Hà Minh Tuân làm ví dụ. Người đầu tiên “có công” phát hiện Vào đời “có vấn đề” là Nguyễn Phan Ngọc, người kết luận nặng nề nhất là Hồng Chương, giữa thời gian đó, theo thông tin trên tạp chí Nghiên cứu văn học số 3–1963, trong hơn một tháng đã có 43 bài phê bình lớn nhỏ đăng trên hầu hết các báoNhân dânQuân đội Nhân dânTiền phongCứu quốcThống nhấtĐộc lậpThủ đô Hà Nội.., hầu hết đều ghi tên biệt hiệu, không ghi tên thật. Kết quả là Hà Minh Tuân bị cách chức Giám đốc Nhà xuất bản Văn học, điều chuyển sang Bộ Thủy sản, làm chuyên viên cá nước lợ, mãi đến năm 90 ông mới đuợc phục hồi.
Các dẫn chứng nói trên cho thấy, phê bình kiểm dịch có lịch sử lâu đời và có chức năng đảm bảo cho văn học được lành mạnh theo quan điểm nhà nước. Ngày nay ở Trung Quốc phê bình kiểm dịch cũng thịnh hành. Các tác phẩm như Phế đô, Báu vật của đời, Búp bê Thượng Hải,… đều bị cấm, nhưng Báu vật của đời lại được Giải Nobel. Điều này cho thấy phê bình kiểm dịch tuy có tính chuyên nghiệp, đúng hơn là tính nghiệp vụ, song chất lượng thực tế có nhiều vấn đề đáng bàn, có những sai sót và nhiều khi gây hậu quả không thể sửa chữa được. Phê bình kiểm dịch thường có mấy đặc điểm chung như sau:
Thứ nhất: Vì văn học là hiện tượng phức tạp, nên phê bình kiểm dịch không thể làm thí nghiệm, khó tìm được những tiêu chí khách quan để kiểm dịch văn học giống như bác sĩ thú y kiểm dịch lưỡi lợn ngoài chợ. Nguyên tắc “phương pháp luận” mà phê bình kiểm dịch thường dựa vào để phát hiện “dịch bệnh” là cắt xén, suy diễn, quy chụp, cốt rút ra cho được cái mục tiêu tư tưởng của mình.
Thứ hai: Phê bình kiểm dịch thường tố lên tác hại nghiêm trọng của ổ dịch, kích động xã hội cảnh giác, gieo rắc niềm lo lắng sợ hãi, gây không khí bất an trong đời sống xã hội.
Thứ ba: Sau khi phát hiện ổ bệnh trong văn học, các nhà phê bình kiểm dịch rất hồ hởi, tự hào về công lao phát hiện luận điệu sai trái, chỉ tên kẻ thù địch trong nội bộ để xử lí. Đặc biệt không mảy may quan tâm số phận những người hữu quan. Hình như, đã là kẻ thù của chế độ thì còn tiếc thương gì nữa?! Đối với họ văn học chỉ có một nghĩa là nghĩa xấu, các nghĩa khác đều bị giản lược.
Nhưng nhìn lại sản phẩm phát hiện của các vụ kiểm dịch om sòm trên văn đàn, ví như những bài báo của các tác giả thuộc nhóm Nhân văn-Giai phẩm, hoặc các bài báo của Trương Tửu, hay tác phẩm Sương tan của nhà văn Hoàng Tiến, tôi cứ băn khoăn tự hỏi, không hiểu họ chống Đảng, đồi trụy ở chỗ nào?
Phê bình kiểm dịch là một tồn tại khách quan. Nó cũng là phê bình chuyên nghiệp, tinh thông nghiệp vụ. Nhà nước rất hậu đãi loại phê bình kiểm dịch này. Các nhà phê bình kiểm dịch đầu đàn thường được trao nhiều giải thưởng cao quý. Nhưng rõ ràng, phê bình kiểm dịch không quan tâm tới tính nghệ thuật của văn học. Cho nên, tôi rất hoài nghi giá trị và ý nghĩa tồn tại của nó với tư cách là phê bình văn học đích thực.
Có thể nó cũng là một loại loại phê bình, nhưng không phải phê bình văn học.
17–7–2013

NGỤC TÙ CỦA TRÍ TUỆ

Tháng 7 15, 2013

Ở TÙ xứ nào cũng khổ, nhưng mỗi xã hội có những cách hành xử văn hóa riêng để đày đọa người tù. Óc tưởng tượng tàn ác của giới cai tù Trung Quốc tuy không phải là độc nhất vô nhị, nhưng thường rất khác thường. Mà chính các tù nhân, những người tự phân chia đẳng cấp và lập nên nhà tù trong nhà tù, cũng có óc tưởng tượng khác thường.
Ví dụ, ở Trung tâm Điều tra thuộc Sở Công An Thành phố Trùng Khánh, còn gọi là Trung tâm Điều tra Tung Sơn, những tay trùm xà lim sáng chế một thực đơn gồm các món tra tấn quái dị. Thử điểm qua vài món:
Vịt hun khói kiểu Tứ Xuyên: Kẻ tra tấn đốt lông hạ bộ của tù nhân, tụt da quy đầu rồi dùng lửa đốt đen đầu dương vật.
Hoặc:
Mì nước trong: Những dải giấy vệ sinh được nhúng trong một bát nước tiểu, rồi tù nhân bị buộc ăn giấy vệ sinh và uống nước tiểu.
Hoặc:
Canh mai rùa và da heo: Kẻ tra tấn đánh hai đầu gối của tù nhân cho đến khi chúng thâm tím và sưng lên như mai rùa. Hết đi nổi.
Còn nhiều trò tra tấn khác nữa, được ban phát tùy theo tài ứng biến của kẻ thực hiện. Trong hồi ký lao tù lạ thường có nhan đề “Vì một bài hát và một trăm bài hát” (For a Song and a Hundred Songs, do Hoàng Văn Quảng dịch từ tiếng Trung, nhà xuất bản New Harvest), Liệu Diệc Vũ kể chuyện một tiều phu bị tâm thần phân liệt đã chặt chính vợ mình vì cô ta hốc hác đến nỗi anh tưởng lầm cô là một bó củi. Trùm xà lim pha thuốc nhuận trường vào nước súp của anh, rồi không cho anh dùng chậu đi tiêu đi tiểu chung, thế là anh chàng buồn đi cầu đến tuyệt vọng đành ỉa vấy lên khắp người một bạn tù. Vì cái tội đáng kinh tởm này, anh bị đập mặt vào bồn nước. Rồi đến lượt bọn quản giáo vì tưởng anh muốn tự tử, một trọng tội trong tù, nên dùng dùi cui điện đánh anh nhừ tử.
Alexis de Tocqueville đến Mỹ vào năm 1831 để nghiên cứu hệ thống nhà tù của nước Mỹ, nhưng rốt cuộc viết nên tác phẩm Dân chủ ở Mỹ(Democracy in America).[i] Quan sát hệ thống nhà tù Trung Quốc từ bên trong, với tư cách là một “tù nhân phản cách mạng” từ năm 1990 đến 1994, Liệu Diệc Vũ kể cho chúng ta biết rất nhiều về xã hội Trung Quốc, cả truyền thống lẫn cộng sản, trong đó có tác động của kiểu tuyên truyền cách mạng khoa trương, đấu tố vì bị ép buộc và thú tội công khai, và, khi thời thế thay đổi kể từ sau thời kỳ cai trị sai lầm của Mao Trạch Đông, áp dụng chủ nghĩa tư bản dưới những hình thức đồi bại. Ông kết thúc câu chuyện của mình bằng nhận xét “Trung Quốc vẫn còn là một nhà tù của trí tuệ: thịnh vượng nhưng không có tự do”.
LIỆU DIỆC VŨ bị tống giam vì sáng tác Thảm sát – một bài thơ theo phong cách dòng-ý-thức (stream-of-consciousness) tưởng niệm hàng ngàn người bị sát hại vào ngày 4/6/1989,[ii] khi phong trào đòi dân chủ bị đàn áp trên toàn Trung Quốc. Bài thơ (theo bản dịch tiếng Anh của Michael Day) mở đầu như sau:
Lại thêm một kiểu thảm sát diễn ra ở trung tâm xứ hoang tưởng
Thủ tướng cảm lạnh, nhân dân phải ho theo;
thiết quân luật ban bố bao lần.
Cỗ máy không răng của nhà nước cán lên những người can đảm không chịu bệnh theo.
Liệu Diệc Vũ không phải là nhà hoạt động chính trị, hay nói đúng hơn, một người bất đồng chính kiến, và sự phản kháng của ông mang tính tự phát. Ông không quan tâm lắm đến chính trị, ngay cả trong những năm 1980 khi mà nhiều thanh niên Trung Quốc chẳng nghĩ đến gì khác ngoài chính trị. Ông có cuộc sống khá phóng đãng, lang bạt kỳ hồ như một “kẻ đạo đức giả ăn mặc bảnh bao, một nhà thơ tự khắc họa mình là một tấm gương mẫu mực nhưng đồng thời lại hít thở bằng đàn bà như tôi đang hít thở bằng không khí, tìm chỗ trú ẩn và hơi ấm trong thú ăn nằm lang chạ”.
Cũng như nhiều người Trung Quốc lớn lên trong thời Cách mạng Văn hóa, Liệu Diệc Vũ coi như tự học văn chương, tuy ông được cha là thầy giáo truyền thụ nền tảng căn bản về Tứ Thư Ngũ Kinh. Rải rác trong hồi ký của ông, ta bắt gặp tên những tác giả phương Tây – Orwell, Kundera, Proust – một số tác phẩm của họ thậm chí lọt qua được những bức tường nhà tù ở Trùng Khánh. Trong số đó, đáng chú ý là có cả cuốn Một chín tám tư của Orwell. Liệu Diệc Vũ viết: “Trên trang sách là một nhà tù tưởng tượng, còn xung quanh tôi là nhà tù thật”.
Khác với người bạn Lưu Hiểu Ba, nhà phê bình được Giải Nobel và là một tác giả có chính kiến mãnh liệt, Liệu Diệc Vũ chưa bao giờ muốn liều lĩnh chấp nhận rủi ro. Ông mô tả mình là một nghệ sĩ chỉ muốn được tự do viết theo ý thích của mình. Mới hồi năm 2011, ông nói với nhà báo Ian Johnson: “Tôi không muốn phạm luật của họ. Tôi không quan tâm đến họ và mong muốn họ chẳng quan tâm đến tôi”. Nhưng, năm 1989, ông tự đẩy mình “vào con đường tự hủy diệt” khi đến các tửu quán và hội quán khiêu vũ để ngâm bài thơ của mình bằng giọng than khóc theo lối cầu siêu truyền thống của Trung Quốc. Một băng thu âm bài thơ này được lén lút phát tán, và một nhóm nghệ sĩ và bạn bè đồng cảm đã làm một bộ phim mang tên Lễ cầu hồn (Requiem) quay những cảnh ông ngâm bài thơ này. Theo Liệu Diệc Vũ, không một ai trong số đó có thể được liệt vào hạng “kẻ bất đồng” hay “nhà tranh đấu dân chủ”. Nhưng tất cả đều bị bắt, tác phẩm của họ bị tịch thu, và nhờ đó “Sở Công An triệt hạ một cộng đồng văn chương bí mật hoạt động mạnh ở Tứ Xuyên”.
Thời gian ở tù cũng không biến Liệu Diệc Vũ thành một nhà hoạt động chính trị. Có lúc một người cũng thuộc phong trào Bát Cửu (89) muốn khởi xướng một tổ chức gồm các tù nhân chính trị đã tiếp xúc với ông. Liệu Diệc Vũ không chịu tham gia, và giải thích lý do tại sao ban đầu ông viết bài thơ Thảm sát. Ông nói ông “buộc phải phản kháng” vì “ý thức hệ nhà nước mâu thuẫn dữ dội với quyền tự do diễn đạt của nhà thơ”. Trong hồi ký, ông kể rằng đối với chuyện này, “ông không hề có ý định làm anh hùng, nhưng ở một đất nước mà sự điên rồ ngự trị, tôi phải có lập trường. Thảm sát là tác phẩm nghệ thuật của tôi, và tác phẩm nghệ thuật của tôi là cách phản kháng của tôi”.
Nhiều nhà bất đồng nổi tiếng đã viết khá sinh động về kiếp lao tù của họ. Lòng can đảm để đứng một mình của Ngụy Kinh Sinh kể chuyện 18 năm ông ở tù sau khi ông lãnh đạo phong trào Bức tường Dân chủ trong những năm 1970. Những ngọn gió rét của Ngô Hoằng Đạt (Harry Wu) mô tả kiếp đọa đày của ông ở những trại lao động cưỡng bức trong thập niên 1960 và 1970. Những câu chuyện quả cảm của họ chuyển tải một thông điệp chính trị mạnh mẽ về việc đứng lên chống lại chế độ độc tài. Liệu Diệc Vũ là một văn nhân, và nhờ đó hồi ký ở tù của ông càng có sức thuyết phục hơn. Trước hết, ông thành thực đến tàn nhẫn về các nhược điểm và nỗi sợ của mình. Ông chẳng có gì đặc biệt anh hùng cả. Nhìn bọn quản giáo tập dượt chiến đấu trong ngày đầu tiên ở tù, ông “rùng mình như một con chuột nơm nớp lo sợ”. Buộc phải hát đi hát lại nhiều bài với cổ họng khô rát trong trời lạnh cóng người để mua vui cho bọn quản giáo, ông bị đánh bằng dùi cui điện. Khi không thể hát tiếp được nữa, ông bị lột hết áo quần và quật ngã xuống đất: “Tôi có thể cảm nhận được cái dùi cui trên hậu môn của mình, nhưng tôi không chịu đầu hàng. Đầu dùi cui đi vào người tôi. Tôi hét lên rồi rên khóc như một con chó”. Liệu Diệc Vũ đã hai lần tìm cách tự vẫn, một lần bằng cách đập đầu vào tường. Chuyện này khiến những tù nhân cùng xà lim chế nhạo ông; họ tố ông đóng kịch, cho rằng đó là trò tiêu biểu của một nhà thơ mọt sách. Nếu thực sự đã muốn vỡ sọ, lẽ ra ông nên đập đầu vào gờ tường.
Liệu Diệc Vũ mô tả rất tỉ mỉ tâm trạng của kẻ lúc nào cũng sợ hãi, phải sống trong một xà lim chật chội với quá nhiều người khác đến nỗi chẳng có chỗ nằm, đói ăn và thiếu tình dục. Có tù nhân đói lả bắt được một con chuột bèn lột da khi nó đang còn sống rồi ăn tươi. Có người vục mặt vào xô đồ ăn thừa mà ngoạm đầy miệng. Sinh hoạt tình dục vẫn diễn ra, nhưng theo kiểu đê tiện. Một tù nhân suýt đốt trụi giường vì thủ dâm với một cái bật lửa khi bật lên thì hiện ra hình ảnh một phụ nữ khỏa thân. Có người chỉ cần thấy một ngôi sao phim sến trên truyền hình là không nhịn được lòng thèm muốn nhục dục. Liệu Diệc Vũ chứng kiến đám tù nhân bu quanh cửa sổ, tay trùm xà lim được đôn lên vai những kẻ nô lệ của mình, khi cả đám thủ dâm trong lúc cố nhìn cho được một người đàn bà bên ngoài. Một anh tù nhân trẻ bị trùm xà lim hãm hiếp, đem lòng yêu hắn, rồi bị ruồng bỏ bằng một cái tát vào mặt khi tay trùm bị bất lực.
MỘT trong những lý do không mấy đáng khoe khiến ta đọc các hồi ký lao tù như cuốn này với cảm giác thích thú pha lẫn khiếp đảm là nỗi thống khổ của kẻ khác lại có thể có sức hấp dẫn khiêu dâm ghê gớm. Nhưng tác phẩm của Liệu Diệc Vũ hết sức lôi cuốn chính nhờ tài quan sát của ông. Tuy bản thân cũng chịu đau khổ, ông luôn tò mò về những người khác, về tính cách của họ, về những câu chuyện của họ, và về cách họ đối phó với bao nỗi kinh hoàng của đời sống ngục tù. Những lần tiếp xúc của ông với các tù nhân khác được khéo léo biến thành các truyện ngắn. Vì một số tù nhân này đang chịu án tử hình, truyện thường bàn chuyện đối mặt với cái chết cận kề. Một tay buôn lậu ma túy có biệt danh Tử Thường muốn mượn tập sách bản đồ của Liệu Diệc Vũ để chuẩn bị cho kiếp sau làm con ma lang thang. Tử Thường đã lạc lối quá nhiều lần ở kiếp này, và muốn tới thăm những nơi hắn thích lai vãng sau khi hắn bị kết liễu bằng một viên đạn vào cổ. Nghe kẻ tử tù này nói họ có thể gặp lại nhau ở kiếp sau, Liệu Diệc Vũ thấy “tứ chi tôi run rẩy”. Tử Thường hỏi ông có sao không, rồi “bật ra tiếng cười quái gở. Vết nhăn hằn sâu giữa hai chân mày của hắn cứ như mở toang hoác giống cái miệng chực nuốt chửng tôi”.
Một số trong những tù nhân này được khắc họa trong một cuốn sách khác của Liệu Diệc Vũ, được xuất bản ở Đài Loan với nhan đề Phỏng vấn những người ở dưới đáy xã hội (Interviews with People from the Bottom Rungs of Society, 中国底层访谈录, 2001), và ở Mỹ với nhan đề Người vác thi thể (The Corpse Walker, 2008). Trong đó có truyện về một nông dân mù chữ tuyên bố làng quê của mình là một nền quân chủ độc lập, tự phong mình làm hoàng đế. Vì hành động lật đổ phản cách mạng này, ông bị tù chung thân. Liệu Diệc Vũ thấy “hoàng đế nông dân” lý thú ở chỗ các ảo tưởng của ông bắt nguồn từ Tứ Thư Ngũ Kinh. Một trong những tuyên bố của ông là dải băng vàng mang niên hiệu của ông được tìm thấy trong một con cá. Khi Liệu Diệc Vũ chỉ ra rằng cái mẹo này đã được một nông dân phiến loạn sử dụng hai ngàn năm trước để phỉnh dụ thiên hạ theo ông, vị hoàng đế nông dân bảo ông câm mồm: “Ngươi quả là thất lễ vì dám nói với Trẫm như vậy. Trẫm biết ngươi là ký giả giả trang do vương quốc Trung Hoa thù địch phái tới đây. Ngươi đã âm mưu cấu kết với bọn cán bộ quản giáo để lừa Trẫm cung cấp bằng chứng kết tội”.
Văn học có thể dùng làm lối thoát, như khi Liệu Diệc Vũ thả mình dạt theo những ký ức về Trăm năm cô đơn của Gabriel García Márquez. Ông thấy mình đặc biệt giống một nhân vật trong tiểu thuyết này: đó là Đại tá Buendia, mất trí sau khi bị cột vào một cây dẻ trong nhiều năm. Giống như Đại tá, Liệu Diệc Vũ rút lui vào trong tâm trí của mình. Những lúc khác, các tác phẩm văn học minh họa các khía cạnh sơ khai nhất của kiếp tù. Liệu Diệc Vũ nhớ trong Đời nhẹ khôn kham (The Unbearable Lightness of Being),[iii] Milan Kundera định nghĩa cái kitsch toàn trị (totalitarian kitsch) là “sự hoàn toàn phủ nhận cứt”. Liệu Diệc Vũ viết rằng ông không thể nâng phân người lên một tầng ẩn dụ cao hơn: “Trong cuốn hồi ký tầm thường này của tôi, cứt là cứt. Tôi cứ nhắc mãi đến cứt vì tôi suýt chết đuối trong cứt”. Thực tế quả gần đúng như vậy; là ma mới trong xà lim, hoặc nếu không còn được lòng một trong những tay trùm xà lim, ông thường phải ngủ kề mặt bên chậu đi tiêu đi tiểu.
Song, ông không nhịn được cách nhìn ẩn dụ về cứt, như trong nhận xét ông đang sống “trong một chuồng heo đầy cứt gọi là Trung Quốc”. Bệnh tật cũng được nâng lên thành một ẩn dụ. “Nếu Trung Quốc là một bệnh nhân bị ung thư ruột, thành phố Trùng Khánh là điểm cuối bẩn thỉu của khúc ruột đó, cái hậu môn bệnh hoạn”. Trong sách, nhà tù thường được mô tả là một nhà tù bên trong một nhà tù khổng lồ của một xã hội Trung Quốc bệnh hoạn, một tấm gương lố bịch của các thể chế chính trị và sự khoa trương khoác lác của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
NGÔN NGỮ của chủ nghĩa Mao, nay gần như đã thấm nhuần vào đời sống Trung Quốc như các giáo điều Khổng giáo đã từng ăn sâu, thường được dùng theo lối tương tự, cứ liên tục bật ra giữa các cuộc trò chuyện trong tù. Tù nhân thường nhại các phát biểu của Mao với vẻ mỉa mai, như khi anh tiều phu bị cấm dùng chậu đi tiêu đi tiểu sau khi dính thuốc nhuận trường, đám tù nhạo anh: “Không có kỷ cương và phép tắc thì cách mạng sẽ không thành công”. Đôi khi Mao được trích dẫn nghiêm chỉnh. Một tay trùm xà lim có cảm tính với Liệu Diệc Vũ cảnh báo ông đừng kết bạn với một người khác cũng là trí thức: “Đừng có mà sách vở quá … Hãy nhớ lời dạy của Mao Chủ tịch về đấu tranh giai cấp – đừng bao giờ mất cảnh giác đối với kẻ thù giai cấp của anh”.
Ngoài suy nghĩ đượm chất Mao, chính hệ thống chính quyền kiểu Trung Quốc được sao chép bên trong nhà tù. Một phần là do cách tổ chức Đảng Leninist, nhưng phần lớn là do những tập quán truyền thống. Khi Liệu Diệc Vũ nhập trại ở Trung tâm Điều tra Tung Sơn, trùm xà lim của ông giải thích cơ chế vận hành xà lim. Hắn so sánh hệ thống tôn ti trong xà lim với Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương; ủy viên BCT và Quân ủy đứng trên dân thường. Họ muốn làm gì cũng được. Nhưng, để duy trì trật tự, họ phải áp đặt tính đoàn kết tuyệt đối trong xà lim. Dấu hiệu phản loạn đầu tiên sẽ bị bóp nát không thương tiếc. Tuy nhiên, phản ánh hàng trăm năm theo Khổng giáo, trùm xà lim nói giới cai trị không thể quá tàn nhẫn: “Chúng ta cần để những người dưới quyền chúng ta có cảm giác chúng ta là cha mẹ của họ”. Khi Liệu Diệc Vũ phản đối, trích lời Mao Chủ tịch nói rằng nhân dân là cha mẹ của Đảng, trùm xà lim tỏ vẻ hiểu rõ hơn về thực tế Trung Quốc: “Tào lao! Nếu một tên trộm ở đây muốn có một bữa ăn đường hoàng đủ no, chuyện đó do tao quyết định”.
Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi giới quản giáo cũng dựa các phương pháp của mình theo các tập quán phổ biến ở Cộng hòa Nhân dân. Chẳng hạn như việc sử dụng các chiến dịch chính trị. Tù nhân ở Trung tâm Điều tra bị ép buộc tham gia một chiến dịch hàng năm gọi là “Tự thú tội và đấu tố người khác”. Những cuộc mít-tinh chính thức được tổ chức trong sân trại, giống như dưới thời Mao, với các khẩu hiệu chính trị hô vang trời, và những bài phát biểu dài lê thê của những cán bộ công an và quản giáo. Tù nhân phải dành hàng giờ để viết lời tự thú và đấu tố. Các trùm xà lim được khuyến khích chọn những món hấp dẫn nhất trong thực đơn tra tấn cho những tù nhân bị xem là chưa đủ nhiệt tình tự thú hay đấu tố người khác.
Chiến thuật này cũng là một kết hợp hiểm độc giữa truyền thống và sáng tạo hiện đại. Tự thú theo lễ nghi xưa nay đã luôn là một phần trong công lý Khổng giáo. Việc bị buộc phải đấu tố người khác, tuy không phải là không có trong quá khứ, là một thủ đoạn tinh vi của chế độ toàn trị nhằm triệt tiêu lòng tin giữa người với người, để họ chỉ còn biết trung thành với Đảng. Liệu Diệc Vũ kể những chiến dịch tự thú và đấu tố quá ác nghiệt đến nỗi nhiều người chết do tra tấn. Song, khi tình hình có nguy cơ vượt quá tầm kiểm soát, cấp quản lý trại giam cho ngừng các màn xử tội, và đúng theo kiểu hành xử Maoist thường thấy, trở mặt đổ tội cho các thủ phạm bằng cách mở một chiến dịch khác, lần này gọi là “Xử lý những kẻ bắt nạt bạn tù”. Chính những kẻ trước đây được khuyến khích trấn áp những tù nhân ngoan cố nay lại bị đàn áp.
Nhưng, dĩ nhiên, Trung Quốc đã tiến tới kể từ sau mấy chục năm dưới chế độ kinh hoàng của Mao. Khi Liệu Diệc Vũ ở tù, Trung Quốc đã mở cửa làm ăn với thế giới tư bản hơn mười năm. Cải cách kinh tế bắt đầu vào đầu thập niên 1980 dưới sự lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình. Năm 1992, Đặng Tiểu Bình kêu gọi tăng trưởng kinh tế nhanh hơn nữa. Chính vì thế, theo lời của Liệu Diệc Vũ, “cán bộ quản giáo không để lỡ nhịp và nhanh chóng lợi dụng sức lao động miễn phí để tư lợi đầy túi”.
Lao động miễn phí là mỹ từ để chỉ nạn nô lệ. Mỗi tù nhân buộc phải đóng gói thuốc men ít nhất mười giờ mỗi ngày, trong khi tai phải nghe loa phóng thanh ra rả những lời hô hào chính trị – cách kết hợp thường thấy của Đảng Cộng sản Trung Quốc giữa áp bức ý thức hệ và bóc lột kinh tế. Liệu Diệc Vũ nhận xét rằng kiểu lao động chân tay lặp đi lặp lại này đã bị các nhà máy địa phương bãi bỏ. Nhưng giới quản giáo có thể kiếm bộn lợi nhuận nhờ ép buộc các nô lệ bị cầm tù hoàn thành chỉ tiêu tới ba ngàn gói mỗi ngày. Tù nhân nào tìm cách trốn hoặc phản đối chế độ nhà tù sẽ bị đánh đập hoặc tống vào ‘xà lim tối” chỉ đủ chỗ để bò vào rồi nằm bẹp xuống. Liệu Diệc Vũ viết: “Sau chừng một năm, da của kẻ ở xà lim tối trở nên nhợt nhạt, xương yếu đi, còn tóc trắng bệt. Da trong suốt đến nỗi ta thấy rõ những gân máu xanh”.
Liệu Diệc Vũ nhắc đến vài giây phút thư thái. Có nhiều ví dụ về lòng tốt của những trùm xà lim ưu ái ông, đôi khi nhờ là nhà thơ; lòng tôn trọng văn chương chưa chết ở Trung Quốc. Một thầy tu đạo Phật dạy ông thổi sáo. Và thảng hoặc, điều kiện sinh hoạt trong tù có khá lên đôi chút vì nước ngoài gây áp lực buộc Trung Quốc cải thiện về nhân quyền. Điều này có thể khiến những người trong chúng ta đã hết hy vọng gây ảnh hưởng từ bên ngoài đối với cách hành xử chính thức của Trung Quốc sẽ bớt hoài nghi hơn đôi chút.
Trong khi đó, Liệu Diệc Vũ cố gắng lưu giữ ký ức về những điều tai nghe mắt thấy trong tù bằng cách chép vội trong một cuốn Tam quốc chí. Ngày 31/1/1994, ông được trả tự do. Nhưng, theo ông kể, việc ra tù của ông chỉ là khởi đầu của một kiểu đọa đày khác, có lẽ còn cay đắng hơn theo cách riêng của nó. Người gây rối và người bất đồng hiếm khi được ưa chuộng ở các xã hội áp bức. Họ gây rắc rối cho người khác vì xúi giục trả đũa, và họ khiến đa số những người không chịu chống đối thấy bất an về thái độ phục tùng của mình. Liệu Diệc Vũ ghét về quê ăn tết và vào các dịp lễ lạt gia đình khác, vì ông biết mình sẽ bị chỉ trích. Vợ ông quyết định ly dị ông – có lẽ cũng chẳng đáng ngạc nhiên, vì Liệu Diệc Vũ chưa bao giờ tự nhận là một người chồng tận tụy. Tệ hơn nữa là ông bị chính bạn cũ ruồng bỏ. Sau bốn năm ở tù, ông viết, “tôi chẳng khác nào một đống cứt chó dưới mắt những bạn văn của tôi”. Sự ruồng bỏ này có thể thể hiện một kiểu nhẫn tâm đặc thù Trung Quốc, nhưng thực ra chủ yếu là do cách quản lý Trung Quốc hiện nay. Sau cuộc dấy loạn bất thành năm 1989, chính quyền cộng sản đã có một thỏa thuận khôn khéo với các giới có học: nếu những người thuộc thành phần ưu tú ở thành thị tránh xa chính trị, họ sẽ được tự do mở mang trí tuệ cho chính mình. Liệu Diệc Vũ viết: “Cả nước ta đột nhiên mải mê kiếm tiền, đó chính là axít ăn mòn làm hòa tan chính kiến bất đồng. Cũng chính những người từng can đảm tuần hành trên đường phố đòi dân chủ nay lại hóa ra “phi chính trị” trong thời đại hiện nay khi ai cũng chạy theo vật chất tiền tài – theo kiểu cộng sản”. Nhiều bạn văn nghệ đồng chí hướng với ông đã trở thành doanh nhân.
Trong những hoàn cảnh như vậy, thiên hướng thông thường khiến con người lảng tránh kẻ gây rối càng được củng cố bởi cái ý thức không kiềm nén được về việc đã chấp nhận một thỏa thuận đê hèn. Cũng giống như trong thực tế thường xảy ra với những người sống trong chế độ độc tài, các độc giả hăng hái nhất của Liệu Diệc Vũ là các cán bộ ăn lương để kiểm duyệt ngôn từ của ông. Buộc phải chấp nhận kiếp sống của một kẻ lang thang có học, đôi khi thổi sáo ngoài đường để kiếm sống, và sợ bị tống giam trở lại, Liệu Diệc Vũ xoay xở vượt biên sang Việt Nam, rồi từ đó ông tìm đường sang Đức, nơi ông sinh sống hiện nay. Và thế là chính nhà thơ Trung Quốc đầy tài năng này trình diễn những buổi ngâm thơ tưởng niệm của ông để mua vui cho khán giả ở Berlin và New York – một “người bất đồng” kỳ lạ ở nước ngoài, tiếng nói của ông được nghe ở khắp nơi ngoại trừ nơi nó cần được nghe nhất.
Nguồn: Ian Buruma, Prison of the Mind, The New Yorker, 1/7/2013
Bản tiếng Việt © 2013 Phạm Vũ Lửa Hạ & pro&contra
______________
Liệu Diệc Vũ bị cầm tù từ năm 1990 đến 1994 sau khi sáng tác bài thơ Thảm sát để tưởng niệm những người biểu tình đòi dân chủ. Minh họa của Peter và Maria Hoey.

[i] Bản dịch tiếng Việt có nhan đề Nền dân trị Mỹ.Trả lời phỏng vấn của Ban Việt ngữ Đài VOA, dịch giả Phạm Toàn cho biết ông và Nhà xuất bản Tri Thức chủ động đổi nhan đề vì hiểu tâm lý chính quyền Việt Nam dị ứng với từ “dân chủ”.
[ii] Sự kiện Thiên An Môn
[iii] Bản dịch tiếng Việt của Trịnh Y Thư
Source : pro&contra
Share