10/8/13

Vương Trung Hiếu - Văn chương hậu hiện đại (phần I)



 
 
 

Thuật ngữ "hậu hiện đại" xuất hiện ở phương Tây hơn nửa thế kỷ trước, ứng dụng trong nhiều lĩnh lực của đời sống, trong đó có cả văn chương. Thuật ngữ này cùng với khái niệm văn chương hậu hiện đại đã du nhập vào Việt Nam khoảng một hai thập niên gần đây, thông qua vài quyển sách tham khảo, vài tiểu thuyết và tập truyện ngắn nước ngoài được dịch sang tiếng Việt, ngoài ra còn có một số bài nghiên cứu của các tác giả người Việt khắp nơi trên thế giới về đề tài này. Tuy nhiên số lượng còn rất khiêm tốn so với những ngôn ngữ khác, vì thế chúng tôi quyết định tham gia, góp thêm phần nhỏ để bạn đọc hiểu rõ hơn về hậu hiện đại và văn chương hậu hiện đại.

Chủ nghĩa hiện đại
Chủ nghĩa hiện đại (modernism) là một khái niệm rộng, miêu tả những khuynh hướng nghệ thuật khác nhau, xuất hiện từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Hiện nay có bốn khái niệm chủ nghĩa hiện đại khác nhau, chúng ta cần phân biệt rõ, xem đâu là chủ nghĩa hiện đại đích thực, có quan hệ trực tiếp với khái niệm mà chúng ta gọi là "chủ nghĩa hậu hiện đại".
- Thứ nhất, chủ nghĩa hiện đại của Giáo hội Công giáo Roma. Đây là chủ nghĩa miêu tả quan điểm thần học, có đặc điểm là "đoạn tuyệt với quá khứ". "Người theo chủ nghĩa hiện đại" (modernist) là thuật ngữ đã được nhắc đến trong thông tri Pascendi Dominici Gregis của Giáo hoàng Pius X gởi đến giáo dân ngày 8 tháng 9 năm 1907.
- Thứ hai, chủ nghĩa hiện đại (Modernismo) trong văn chương châu Mỹ La Tinh – Tây Ban Nha, với chủ soái là Rubén Darío và những tên tuổi nổi bật khác như Leopoldo Lugones, Julio Herrera y Reissig và Julián del Casal …Chủ nghĩa này pha trộn 3 khuynh hướng ở châu Âu: chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa biểu tượng và đặc biệt là khuynh hướng Thi sơn (Parnassianism). Nó ảnh hưởng lớn đến toàn bộ thế giới Mỹ La Tinh – Tây Ban Nha, ngoài ra còn là "mốt đương đại" của nhóm nghệ sĩ thuộc Thế hệ 1898, thế hệ mà người Tây Ban Nha gọi là Generación de 1898 hay Generación del 98, bao gồm những tiểu thuyết gia, thi sĩ và triết gia hoạt động ở Tây Ban Nha trong giai đoạn Chiến tranh Mỹ – Tây Ban Nha (1898).
- Thứ ba, chủ nghĩa hiện đại (modernisme) là tên gọi của một phong cách kiến trúc chủ đạo, có liên quan đến những nghệ thuật khác như hội họa và  điêu khắc, đặc biệt là thiết kế và nghệ thuật trang trí. Chủ nghĩa này xuất hiện khoảng năm 1888 đến 1911, riêng ở vùng Catalonia và Barcelona thuộc Tây Ban Nha thì nó có những đặc điểm riêng, mang phong cách kiến trúc của nền văn hóa bản địa. Chủ nghĩa này còn là một bộ phận trong trào lưu chung xuất hiện ở châu Âu, thường được hiểu tương đương với những khuynh hướng nghệ thuật như chủ nghĩa hiện đại (modernism), nghệ thuật mới (art nouveau), nghệ thuật trẻ (jugendstijl), phong cách Liberty (Liberty style),  nghệ thuật ấn tượng và tượng trưng (sezession)…Chủ nghĩa này còn được ứng dụng trong văn chương với những đại biểu xuất sắc như nhà văn Prudenci Bertrana, Caterina Albert, nhà thơ Joan Maragall, còn trong kịch nghệ thì có Ignasi Iglésias và Joan Puig i Ferreter…
- Cuối cùng, chủ nghĩa hiện đại (modernism) có liên quan với chủ nghĩa hậu hiện đại mà chúng ta sắp bàn ở đây. Chủ nghĩa này có quan hệ với chủ nghĩa hiện đại (modernisme) kể trên, dùng để chỉ những trào lưu nghệ thuật và văn chương xuất hiện từ thập niên 1890 đến khoảng năm 1945, hình thành từ sự phát triển nhanh chóng của các đô thị phương Tây, từ sự căm ghét Thế chiến thứ nhất.
Giống như tất cả những kỷ nguyên khác, chủ nghĩa hiện đại bao gồm nhiều khuynh hướng cạnh tranh và không thể định nghĩa như một tổng thể hoặc sự thống nhất riêng. Tuy nhiên, những đặc tính chủ đạo của nó cho thấy đó là sự nghiên cứu tính chất xác thực trong những mối quan hệ của con người, sự trừu tượng trong nghệ thuật và sự đấu tranh không tưởng.
Chủ nghĩa hiện đại bao gồm một chuỗi cách tân trong mỹ thuật, kiến trúc, văn chương, âm nhạc và nghệ thuật ứng dụng. Nó được miêu tả bằng sự thay đổi tư tưởng sâu sắc, qua đó trí tuệ con người tìm kiếm sự cải thiện môi trường, cải thiện mọi khía cạnh của đời sống dựa vào khoa học và kỹ thuật. Chủ nghĩa hiện đại mang toàn bộ sự cách tân của đời sống, bao gồm triết học, thương mại, nghệ thuật và văn chương, với sự trợ giúp của công nghệ và thí nghiệm. Nó hướng dẫn đến mọi mặt của cuộc sống bằng sự thay đổi cách tiếp cận, quan điểm của nhân loại về chúng.
Chủ nghĩa hiện đại coi trọng tư duy logic và lý trí, cách tiếp cận lý thuyết, phân tích và khách quan. Người theo chủ nghĩa hiện đại không quan tâm đến chính trị, tìm kiếm chân lý trừu tượng của đời sống, cố gắng phát triển thế giới quan chặt chẽ, tin vào việc học từ kinh nghiệm quá khứ. Ngoài ra, họ còn tin cậy vào văn bản nói về quá khứ, thường phân tích đề tài bằng cách đào sâu tận gốc rễ, dựa vào kết quả và nguyên nhân của sự việc.
Trong nghệ thuật, chủ nghĩa hiện đại bác bỏ thẳng thừng ý thức hệ của chủ nghĩa hiện thực, cái hữu lý trong tư tưởng của Thời kỳ Khai sáng (Enlightenment) và cả ý tưởng về lòng trắc ẩn của đấng Tạo hóa toàn năng. Một đặc tính nổi bật của chủ nghĩa hiện đại là tự ý thức. Điều này thường dẫn tới những thể nghiệm về hình thức và tác phẩm thu hút sự chú ý đối với cách thức và vật chất sử dụng (và đối với cả khuynh hướng trừu tượng). Trào lưu hiện đại giới thiệu những quan điểm và phương pháp sáng tác mới như chủ nghĩa biểu hiện, siêu thực, lập thể, ấn tượng, Đa đa và vị lai…

Chủ nghĩa hậu hiện đại là gì?
Trước tiên, chúng ta phân tích thuật ngữ "hậu hiện đại" (postmodern). Thuật ngữ này lần đầu được sử dụng khoảng thập niên 1870. Trong giai đoạn đó, John Watkins Chapman đề xuất một “phong cách hậu hiện đại trong hội họa” để vượt qua chủ nghĩa ấn tượng Pháp (French Impressionism). Năm 1914, J. M. Thompson viết một bài phê bình tôn giáo, đăng trên tạp chí triết học The Hibbert Journal, sử dụng khái niệm "hậu hiện đại" để miêu tả những đổi thay trong quan điểm và đức tin để thoát khỏi chủ nghĩa hiện đại.
Năm 1917, nhà văn – triết gia Đức Rudolf Pannwitz (1881 – 1969) sử dụng thuật ngữ này để miêu tả sự giáo hóa định hướng chất hiện đại của Friedrich Nietzsche với kết quả cuối cùng là sự điêu tàn và chủ nghĩa hư vô (nihilism).
Từ năm 1921 đến 1925, "chủ nghĩa hậu hiện đại" (postmodernism) được dùng để miêu tả những hình thức mới của nghệ thuật và âm nhạc. Đến năm 1939, với tư cách là một lý thuyết chung trong sự vận động của lịch sử, nó được Arnold J. Toynbee sử dụng lần đầu trong tác phẩm Our own Post-Modern Age (Thời hậu hiện đại của chính chúng ta).
Năm 1942, H. R. Hays miêu tả thuật ngữ này như một hình thức văn chương mới. Đến năm 1949 hậu hiện đại được dùng để cho thấy sự không thỏa mãn trước kiến trúc hiện đại, dẫn tới phong trào "kiến trúc hậu hiện đại" (postmodern architecture), và có lẽ đây còn là phản ứng trước phong trào kiến trúc hiện đại gọi là "Phong cách quốc tế" (International style).
Chủ nghĩa hậu hiện đại là một thuật ngữ bao quát, đa nghĩa, chứa nhận thức hoài nghi về văn hóa, văn chương, nghệ thuật, triết học, kinh tế và những lĩnh vực khác trong đời sống.
Nó có liên quan với phương pháp phân tích văn chương gọi là "giải cấu trúc" (deconstruction ) và hậu cấu trúc luận (post-structuralism). Trong thế kỷ 20 nó là thuật ngữ phổ biến quan trọng bên cạnh tư tưởng hậu cấu trúc (post-structural).
Chủ nghĩa hậu hiện đại xuất hiện sau Thế chiến II, được xem là phản ứng trước những hỏng hốc của chủ nghĩa hiện đại. Nó hình thành từ sự tổn thương tinh thần, chịu ảnh hưởng lớn bởi những sự kiện như Hiệp định Geneva, những nhà tù Soviet, cuộc Cách mạng văn hóa Trung Quốc, bom nguyên tử thả xuống Hiroshima và Nagasaki, nạn tàn sát người Do Thái, bom hủy diệt thành phố Dresden (Đức), những trận bom lửa khiến Tokyo bị thiêu hủy và những trại giam người Mỹ gốc Nhật… Nó còn gợi ý sự phản ứng trước những sự kiện hậu chiến quan trọng như tình trạng không an toàn trong thời kỳ chiến tranh lạnh (1947 – 1991), phong trào đòi quyền cơ bản của người Mỹ gốc Phi (1955-68), hậu quả sau chủ nghĩa thực dân, uy quyền của các tập đoàn đa quốc gia, hệ thống hậu công nghiệp với những kỹ thuật mới và văn hóa tiêu dùng…
Phần lớn các học giả đồng ý rằng chủ nghĩa hậu hiện đại bắt đầu cạnh tranh với chủ nghĩa hiện đại từ cuối thập niên 1950 và có ảnh hưởng lớn từ thập niên 1960, sau đó ngày càng  định hình trong nhiều loại hình như mỹ thuật, văn chương, phim ảnh, âm nhạc, kịch, kiến trúc và triết học.
Trong thập niên 1960, chủ nghĩa hậu hiện đại tác động rõ nét đến sự phát triển của xã hội. Nó được ứng dụng rộng rãi trong nhiều loại hình nghệ thuật, ám chỉ đến tình trạng thiếu hệ thống kết nối các thành phần riêng lẻ (cái cho thấy sự phức tạp, mơ hồ và đa nghĩa).
Chủ nghĩa hậu hiện đại từ chối sự tồn tại của bất kỳ nguyên tắc cơ bản nào. Nó thiếu tính lạc quan hiện có trong khoa học, triết học và chân lý tôn giáo. Về bản chất, chủ nghĩa hậu hiện đại xuất phát từ sự công nhận thực tại không đơn giản chỉ là sự phản chiếu hiểu biết của nhân loại về thực tại. Nó hình thành trong tâm trí để con người cố hiểu chân lý riêng của nó. Vì lý do này, chủ nghĩa hậu hiện đại chính là sự hoài nghi cao độ về những lý giải tuyên bố là “chân lý”, đúng đắn cho tất cả các nhóm, các nền văn hóa, các truyền thống hay các chủng tộc, thay vì phải tập trung vào cái đúng cho từng cá nhân. Trong sự hiểu biết về hậu hiện đại, cách hiểu là tất cả; thực tại trở thành cái cốt lõi qua sự hiểu biết của chúng ta, cái mà thế giới có ý nghĩa đối với mỗi cá nhân chúng ta. Chủ nghĩa hậu hiện đại tin vào kinh nghiệm cụ thể đối lập với những nguyên tắc, luôn biết rằng kết quả kinh nghiệm riêng của ai đó chỉ là sự tương đối, có thể sai lầm, chứ không phải là điều hoàn toàn chính xác, phổ biến cho tất cả.
Chủ nghĩa hậu hiện đại phủ nhận tư duy lô gíc, tiếp cận thế giới hoàn toàn chủ quan. Người theo chủ nghĩa hậu hiện đại không tin vào chân lý trừu tượng hoặc chân lý phổ biến, cố loại bỏ sự khác biệt giữa cái gọi là văn hóa cao và thấp. Họ không tin vào kinh nghiệm trong quá khứ, văn bản nói về quá khứ và cho rằng những gì thuộc về quá khứ không hữu dụng cho hiện tại.
Chủ nghĩa hậu hiện đại dựa trên tình trạng kiến thức không chính xác, bất định và hỗn loạn; thiếu sự phân tích, tư duy hoa mỹ, hoàn toàn dựa trên niềm tin. Người theo chủ nghĩa hậu hiện đại tin vào việc tìm kiếm ở bề mặt của sự vật, không quan tâm tới chiều sâu của vấn đề đang quan sát. Nói cách khác, họ không tin vào việc phân tích sự vật ở chiều sâu. Quan điểm của họ là dựa vào "bội hiện thực" (hyperreality). Họ tin vào sự ngẫu nhiên, tin rằng chân lý dựa trên nền tảng xã hội và các mối quan hệ. Họ bị cuốn hút hoàn toàn vào những quan điểm chính trị.
Trong thời chủ nghĩa hậu hiện đại, với sự tấn công mạnh mẽ của các phương tiện thông tin đại chúng và sự tiến bộ trong công nghệ, truyền hình và máy vi tính trở nên có ưu thế vượt trội trong xã hội. Những tác phẩm nghệ thuật và văn chương đã bắt đầu được sao chép, bảo quản bằng các phương tiện kỹ thuật số. Người ta không còn tin các tác phẩm nghệ thuật và văn chương chứa một ý nghĩa duy nhất. Họ tin vào sự suy luận, nhận thức riêng của họ về những tác phẩm văn chương và nghệ thuật. Internet và các phương tiện media tương tác dẫn tới sự phân bố kiến thức rộng khắp trong xã hội.

Văn chương hậu hiện đại
Nguồn gốc
Như tất cả các khuynh hướng nghệ thuật, chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn chương không cho thấy sự phát triển, phổ biến và suy tàn của nó cụ thể như thế nào. Bên cạnh dòng chảy của chủ nghĩa hậu hiện đại vẫn còn đó sự phát triển của chủ nghĩa hiện đại và những trào lưu khác.
Văn chương hậu hiện đại được xem là phản ứng chống lại tư tưởng Khai sáng (Enlightenment) – phong trào ủng hộ lý tính, khoa học và sự hợp lý khởi nguồn từ châu Âu trong thế kỷ 17- 18; chống lại cả sự tiếp cận của những người theo chủ nghĩa hiện đại đối với văn chương. Nó không thích bị định nghĩa hay phân loại là một “trào lưu” (văn chương). Nó có nhiều kiểu lý thuyết phê bình khác nhau, chấp nhận phản ứng đa chiều của người đọc, kể cả cách tiếp cận "giải cấu trúc" (déconstruction) – phương pháp phân tích văn chương của triết gia Pháp Jacques Derrida. Nó phá vỡ cái gọi là "ngầm hiểu", sợi dây liên kết giữa tác giả, văn bản và người đọc thông qua tác phẩm.
Nếu xét về tính dự báo văn chương hậu hiện đại, phải kể đến những tiểu thuyết đầu thế kỷ 20 như Impressions d’Afrique (1910) và Locus Solus (1914) của Raymond Roussel, Hebdomeros (1929) của Giorgio de Chirico. Tuy nhiên tín hiệu rõ nét nhất chính là truyện ngắn Pierre Menard, autor del Quijote (Pierre Menard, tác giả của Đông-ki-sốt,1939) của Jorge Luis Borges, bởi vì truyện này đã phát minh ra ý tưởng “văn chương giễu nhại" (parody) cơ bản, một bài bình luận chỉ trích nhà văn Pháp Pierre Menard, người đã dịch quyển Don Quixote của Miguel de Cervantes từ bản tiếng Tây Ban Nha El ingenioso hidalgo don Quijote de la Mancha (Đông-Ki-Sốt, nhà hiệp sĩ quý tộc tài ba xứ Mancha).
Năm 1941, một số nhà nghiên cứu khẳng định đây là năm khởi đầu cho chủ nghĩa hậu hiện đại. Tuy nhiên, nhà lý luận văn chương Keith Hopper không nghĩ như thế, ông cho rằng The Third Policeman (Người cảnh sát thứ ba) của Flann O’Brien mới là một trong những tiểu thuyết hậu hiện đại đầu tiên (bản thảo hoàn tất năm 1939 nhưng bị cấm xuất bản, đến năm 1967 mới được trình làng). Một quyển khác của Flann O’Brien có tựa đề là The Dalkey Archive, xuất bản năm 1964, hai năm trước khi tác giả qua đời cũng được xem là tiểu thuyết khởi đầu giai đoạn văn chương hậu hiện đại.
Riêng tại nước Mỹ, chủ nghĩa hậu hiện đại được chính thức giới thiệu bằng ấn phẩm đầu tiên là boundary 2, một tạp chí chuyên về văn hóa và văn chương hậu hiện đại, xuất bản năm 1972 (hiện nay vẫn còn hoạt động). Những người tiên phong giới thiệu chủ nghĩa hậu hiện đại trong thời kỳ đó chính là David Antin, Charles Olson, John Cage và Trường thi ca – nghệ thuật Black Mountain…

Những ảnh hưởng đáng kể
Văn chương hậu hiện đại chịu ảnh hưởng mỹ học của một số nhà văn kiêm nhà soạn kịch cuối thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20, đáng kể nhất là sự ảnh hưởng từ August Strindberg (Thụy Điển), một tác giả sáng tác theo phong cách chủ nghĩa tự nhiên và chủ nghĩa biểu hiện, cha đẻ của văn chương và kịch nghệ hiện đại Thụy Điển qua tiểu thuyết Röda rummet (Căn phòng màu đỏ, 1879), kịch Fadren (Người cha, 1887); Ett drömspel (Trò chơi chiêm bao, 1902) và Stora landsvägen (Con đường lớn, 1910)…
Ngoài ra còn phải kể đến ảnh hưởng từ những tác phẩm của Luigi Pirandello (Ý), một tác giả chuyên về khuynh hướng duy thực, khám phá chiều sâu tâm lí và nỗi đau khổ của con người, cụ thể là qua vở kịch Sei personaggi in cerca d’autore (Sáu nhân vật đi tìm tác giả, 1921) và tiểu thuyết Uno, nessuno e centomila (Một, không và mười vạn, 1926).
Người thứ ba có ảnh hưởng sâu sắc đến văn chương hậu hiện đại là Bertolt Brecht (Đức), một tác giả chuyên về sân khấu sử thi, sân khấu phi Aristotle và sân khấu biện chứng, nổi tiếng với vở kịch Die Dreigroschenoper (1928), vở  Der gute Mensch von Sezuan (Người tốt Tứ Xuyên, 1943).
Trong thập niên 1910 những nghệ sĩ liên quan đến trào lưu Đa Đa (Dadaism) ca ngợi sự ngẫu nhiên, văn chương giễu nhại (parody), tính khôi hài và thách thức quyền lực của nghệ sĩ cũng có ảnh hưởng lớn đối với các tác giả hậu hiện đại. Điển hình về sự ngẫu nhiên là cách sáng tạo của nhà thơ Tristan Tzara, người đã tuyên bố trong tác phẩm How to Make a Dadaist Poem rằng, để tạo ra một bài thơ theo chủ nghĩa Đa Đa, người ta chỉ cần cho những con chữ ngẫu nhiên vào một cái nón (mũ), sau đó lấy từng chữ ra để sử dụng.
Nghệ thuật cắt dán ảnh (collage), đặc biệt là những bức ảnh sử dụng các yếu tố quảng cáo hoặc tranh minh họa từ những tiểu thuyết phổ biến cũng có ảnh hưởng đáng kể. Thí dụ: từ “collage novel”, loại sách có hình ảnh được chọn từ những xuất bản khác, cắt dán lại với  nhau theo chủ đề hoặc chuyện kể. Bậc thầy về thủ pháp này là nghệ sĩ Đức Max Ernst, với những tác phẩm như Les Malheurs des immortels (1922), La Femme 100 Têtes (1929), Rêve d’une petite fille… (1930) và Une Semaine de Bonté (1933-1934).
Tiếp tục thể nghiệm bằng sự ngẫu nhiên và giễu nhại trong dòng chảy của tiềm thức, những tác giả siêu thực có tác động lớn đến văn chương hậu hiện đại. Nhà văn kiêm nhà thơ Pháp André Breton đề nghị rằng hành động vô thức (automatism) và sự diễn tả giấc mơ cần đóng vai trò lớn trong sáng tạo văn chương. Ông sử dụng kỹ thuật viết tự động (écriture automatique), nghĩa là sáng tạo từ tiềm thức hay từ nguồn tinh thần/nguồn bên ngoài, mà không có sự ý thức nội dung. Kỹ thuật này ông ứng dụng trong Les Champs Magnétiques (1920), một tiểu thuyết siêu thực cộng tác với Soupault; ngoài ra trong Nadja (1928), Breton cũng sử dụng thủ pháp viết tự động kết hợp với hình ảnh để diễn tả sự giễu nhại.
Sự ảnh hưởng còn đến từ René Magritte, một họa sĩ Bỉ theo trường phái siêu thực, nổi tiếng với những bức tranh kỳ dị và bí ẩn như Portrait of Edward James (Chân dung Edward James, 1937), vẽ Edward James đang nhìn trực tiếp vào gương nhưng chỉ thấy hình ảnh phần lưng của mình trong gương; từ Jacques Derrida, triết gia Pháp đã phát triển lý thuyết phê phán gọi là “Giải cấu trúc” và “Hậu cấu trúc luận”; từ Michel Foucault, một triết gia Pháp khác lừng danh với lý thuyết phê phán các thể chế xã hội, đặc biệt là về tâm thần học, nhân học xã hội về y học, các khoa học nhân văn cũng như về lịch sử tính dục con người…
Ngoài ra còn phải kể đến sự ảnh hưởng từ nhà văn Argentina Jorge Luis Borges, cha đẻ của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ Latinh với cách viết siêu hư cấu (metafiction).

Đặc điểm và thủ pháp
Xin lưu ý, những đề tài và kỹ thuật dưới đây không phải là đặc điểm và thủ pháp độc quyền của văn chương hậu hiện đại và không phải bất kỳ nhà văn hậu hiện đại nào cũng sử dụng chúng.
- Châm biếm (irony): sử dụng lời nói, kịch tính và tình huống trớ trêu để nhấn mạnh, khẳng định một chân lý hay sự thật nào đó. Thí dụ, dùng hình thức so sánh bằng lời mỉa mai, cách nói giảm (litotes) để nhấn mạnh ý nghĩa cái gì đó (sử dụng ngôn ngữ có cân nhắc để đối lập với sự thật) hoặc tuyên bố rõ ràng, mạnh mẽ điều liên quan đến sự thật; ngoài ra còn những hình thức khác, bao gồm phép biện chứng và thực hành.
Trong văn chương hậu hiện đại, tác giả có thể sử dụng hình thức châm biếm cổ điển (có nguồn gốc từ hài kịch Hy Lạp cổ đại và sự cường điệu của những nhà tu từ học thời Trung cổ); châm biếm bằng lời (nói ngược lại ý nghĩa của sự vật, hiện tượng); châm biếm kịch tính (sử dụng sự mỉa mai vốn có trong bài phát biểu hoặc tình huống của phim và kịch, miễn sao người đọc hiểu ý đồ của tác giả); châm biếm lãng mạn (hài hước về giới hạn của bản thân trong mọi khía cạnh, thường là cười sự trớ trêu một cách lãng mạn và vui vẻ); châm biếm bi kịch (sử dụng những tình huống éo le, kịch tính trong một bi kịch, cho thấy lời nói hay hành động của nhân vật sẽ mang lại kết quả bi thảm nhưng người đọc nhận ra không phải vậy); châm biếm số phận hay châm biếm vũ trụ (mỉa mai số phận, định mệnh vì nghĩ rằng ông Trời đã kiểm soát, trêu chọc, đùa vui trước hy vọng và mong ước của con người); châm biếm hoàn cảnh (mỉa mai một tình huống trong đó hành động có kết quả ngược lại sự chờ đợi) và những hình thức khác như châm biếm thi ca (poetic irony); châm biếm lịch sử (historical irony)…
Trong văn chương hậu hiện đại còn có hình thức vui đùa (playfulness) và chuyện khôi hài (black humor), tác giả có thể sử dụng những đoạn trích để mua vui hoặc châm biếm. Nhìn chung, những hình thức châm biếm, khôi hài trong văn chương hậu hiện đại thường nằm trong những chủ đề nghiêm túc. Thí dụ, sự châm biếm thành ngữ trong tác phẩm Catch-22 của Joseph Heller, khả năng ứng đối ngờ nghệch trong The Crying of Lot 49 – một tiểu thuyết ngắn có chủ đề nghiêm túc, cấu trúc phức tạp của Thomas Pynchon. Ngoài ra, những đặc trưng nêu trên còn bộc lộ rõ nét trong trong quyển Le plaisir du texte  (Niềm vui của văn bản, 1973) của Roland Barthes. Nói như thế, không có nghĩa là bất kỳ nhà văn trào phúng nào cũng được xem là nhà văn hậu hiện đại. Trên thực tế, đã có một số người chuyên viết hài trước đây, bây giờ được dán nhãn là tiểu thuyết gia hậu hiện đại (!). Thí dụ như Joseph Heller, Bruce Jay Friedman, John Barth, hay Kurt Vonnegut….
- Phân mảnh (fragmentation): là một khía cạnh quan trọng khác của văn chương hậu hiện đại. Người ta có thể tìm thấy những mảnh vụn rời rạc trong cốt truyện, tính cách nhân vật, đề tài, hình ảnh và  tình tiết xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. Nhìn chung, một chuỗi gồm nhiều sự kiện, con số, hành động…tiếp nối nhau theo trình tự nào đó, thoạt nhìn có vẻ giống tác phẩm hiện đại, song, sự khác biệt chính là cách tiếp cận từng mảnh vụn của văn chương hậu hiện đại. Sự phân mảnh có thể xuất hiện trong ngôn từ, cấu trúc câu và văn phạm. Trong tiểu thuyết Ζ213: ΕΞΟΔΟΣ (Z213: Ra đi, 2009), nhà văn Hy Lạp Dimitris Lyacos cho thấy phong cách viết gần như là điện báo (telegraphic). Hiếm khi ông sử dụng mạo từ và liên từ, chủ yếu dùng biện pháp tu từ của hình thức nhật ký; phần lớn là ngôn ngữ đời thường, giản dị với sự rối loạn và méo mó của văn phạm. Sự khiếp sợ được tạo ra bằng ngôn từ vừa phải, kết hợp để hình thành loại cú pháp không có kết cấu, đứt quãng, dường như chật chội, mà qua đó nỗi sợ hãi trong tiềm thức người đọc có thể tăng lên rồi dịu xuống…
Sự phân mảnh còn xuất hiện bằng những hình thức khác trong tiểu thuyết Giovanni’s Room (Căn phòng của Giovanni, 1956) của James Baldwin hay trong kịch Waiting for Godot (Chờ đợi Godot, 1953) của Samuel Beckett. Theo nhà văn James Morley, nhiều tác giả hậu hiện đại thường tìm kiếm các yếu tố hữu ích trong những hình thức xưa, thí dụ như sử dụng nghệ thuật cắt dán ảnh cho tác phẩm của mình.
- Nghịch lý (paradox): nghịch lý của văn chương hậu hiện đại là đặt toàn bộ các nguyên tắc dưới sự giám sát của chủ nghĩa hoài nghi (absurdism), ngay cả những nguyên tắc riêng cũng có thể bị tra hỏi. Chủ nghĩa hoài nghi (hay chủ nghĩa phi lý) có nguồn gốc từ quan điểm của triết gia Đan Mạch Søren Kierkegaard (1813 – 1855), người đã chọn cách đương đầu với những khủng khoảng mà con người phải đối mặt với sự phi lý. Chủ nghĩa này không thừa nhận lí trí, khả năng khoa học nhận thức được chân lý, bản chất và quy luật của hiện thực khách quan.
Chủ nghĩa hoài nghi cho rằng thế giới bị chi phối bởi những lực lượng phi lý trí, chỉ có thể nhận thức được bằng bản năng, trực giác hay vô thức…Đến cuối thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa này đã trở thành hệ thống với những đại biểu tầm cỡ như Arthur Schopenhauer, Friedrich Nietzsche, Henri Bergson…Chủ nghĩa hoài nghi có liên quan mật thiết với thuyết hiện sinh (existentialism) và thuyết hư vô (nihilism).
Khi bước vào văn chương, đặc biệt là văn chương hậu hiện đại, chủ nghĩa hoài nghi chuyển biến thành “absurdist fiction”, một thể loại xuất hiện trong tiểu thuyết, kịch và thi ca; tập trung vào sự trải nghiệm của các nhân vật trong hoàn cảnh họ không thể tìm thấy bất kỳ mục đích cố hữu nào trong cuộc sống, phần lớn được miêu tả bằng những sự kiện và hành động vô nghĩa cơ bản nhất. Những nhân tố trong văn chương phi lý bao gồm nghệ thuật châm biếm, những câu chuyện cười, điều phi lý, sự tranh cãi về điều kiện triết lý của sự sống “hư vô”. Những tác phẩm văn chương phi lý thường bộc lộ những đề tài về thuyết bất khả tri và hư vô.
Về bản chất, xét phương diện nào đó, văn chương hậu hiện đại có thể là sự chế giễu, sự phi lý, một thể loại không phải hài kịch và cũng không đơn thuần là những hành vi vô nghĩa, nói đúng hơn, nó là sự nghiên cứu về hành vi con người trong những hoàn cảnh (dù hiện thực hay hư cấu) cho thấy không có mục đích, chứa sự vô lý mang tính triết học. Cái phi lý ấy ấn định phần nào đó trong tính cách và hành động của nhân vật và người đọc có thể nhận ra được. Điều này thể hiện khá rõ trong vở kịch phi lý "Chờ đợi Godot" đã nêu ở trên.
Ngoài ra, về sự nghịch lý hay phi lý, chúng ta có thể tìm thấy trong những tác phẩm hậu hiện đại sau: Cat’s Cradle (1963) của Kurt Vonnegut; Rosencrantz & Guildenstern Are Dead (1966) của Tom Stoppard;  The Dice Man (1971) của Luke Rhinehart; Still Life with Woodpecker (1980) của Tom Robbins; Perfume (1985) của Patrick Süskind; The New York Trilogy (1989) của Paul Auster; A Series of Unfortunate Events (1999 – 2006) của Lemony Snicket;  Tales From the Vinegar Wasteland (2006) của Ray Fracalossy; Gagarin Way (2001) của Gregory Burke; Light (2002) của M. John Harrison; Absurdistan (2006) của Gary Shteyngart, The Postmodern Mariner (2008) của Rhys Hughes và Burn Your Belongings (2009) của David Hoenigman…
- Liên kết văn bản (intertextuality): văn chương hậu hiện đại thường sử dụng sự liên kết văn bản: mối quan hệ giữa văn bản này (thí dụ tiểu thuyết) và văn bản khác có kết cấu đan xen trong lịch sử văn chương. Liên kết này có thể là sự tham khảo, trích dẫn, mô phỏng, thảo luận rộng mở hoặc ứng dụng vài quyển sách nào đó trong tác phẩm mới của tác giả.Thí dụ, văn sĩ Canada Margaret Atwood đã lấy chất liệu thần thoại, cổ tích đưa vào nhiều bài thơ của bà trong thời kỳ đầu sáng tác hoặc sử dụng chất liệu khoa học cho những tiểu thuyết khoa học viễn tưởng nổi tiếng của bà như The Handmaid’s Tale (1985) hay Oryx and Crake (2003). Năm 1975, trong một cuộc phỏng vấn trên Pacifica Radio, nhà văn Mỹ Donald Barthelme đã thổ lộ rằng ông chịu ảnh hưởng một số tiểu thuyết gia, đã từng "liên kết văn bản" với những tác phẩm của họ, đặc biệt là đối với Samuel Barclay Beckett (1906 – 989) – nhà văn Ai Len đoạt giải Nobel Văn chương năm 1969.
Một thí dụ liên kết văn bản khác từ đầu thế kỷ 20, đó là tác phẩm Pierre Menard, autor del Quijote của Jorge Luis Borges, một truyện ngắn có liên quan mật thiết với tiểu thuyết El ingenioso hidalgo don Quijote de la Mancha của Cervantes.
Nhân vật Don Quixote cho thấy có sự liên kết văn bản đối với những nhà văn hậu hiện đại, thí dụ như Don Quixote: Which Was a Dream (Don Quixote: đó là một giấc mơ) của Kathy Acker; tiểu thuyết The Sot-Weed Factor (1960) của John Barth có chất liệu lấy từ tựa đề bài thơ The Sotweed Factor, or A Voyage to Maryland, A Satyr (1708) của Ebenezer Cooke. Đôi khi có sự liên kết văn bản khá phức tạp, thí dụ tác phẩm Pinocchio in Venice của Robert Coover liên kết nhân vật phim hoạt hình Pinocchio với quyển Der Tod in Venedig (Cái chết ở Venice) của Thomas Man. Ngoài ra, quyển Il nome della rosa (Tên của hoa hồng, 1980) của Umberto Eco cũng lấy từ hình thức tiểu thuyết trinh thám có liên quan tới những tác giả như Aristotle, Arthur Conan Doyle và Borges.
- Cóp nhặt (pastiche): kết hợp hoặc "dán" nhiều yếu tố vào nhau. Trong văn chương hậu hiện đại, điều này có nghĩa là tôn trọng hoặc giễu nhại những thể loại trong quá khứ. Nó có thể đại diện cho sự hỗn độn, tính đa nguyên hoặc đa khía cạnh thông tin của xã hội hiện đại. Kỹ thuật cóp nhặt có thể kết hợp nhiều thể loại để tạo ra một chuyện kể duy nhất hoặc đưa ra những lời bình về sự vật, hoàn cảnh trong thời hậu hiện đại. Thí dụ, nhà văn Mỹ William S. Burroughs sử dụng kỹ thuật "cut-up" của Brion Gysin, cắt ra những đoạn văn, những con chữ để sáng tạo những câu mới trong quyển Naked Lunch (1959) – một tuyển tập chứa nhiều mảnh vụn "sinh hoạt hàng ngày", trích từ bản thảo The Word HoardThe Nova Trilogy của ông.
Nữ văn sĩ Canada Margaret Atwood sử dụng những tình tiết hư cấu, tưởng tượng, cóp nhặt để sáng tạo tiểu thuyết khoa học viễn tưởng The Handmaid’s Tale. Nhà văn Ý Umberto Eco sử dụng thể loại trinh thám hư cấu, chuyện thần tiên, khoa học viễn tưởng, Derek Pell ứng dụng nghệ thuật cắt dán ảnh, hình sự xã hội đen, sách báo khiêu dâm, cẩm nang du lịch, sách tham khảo, dạy nghề….
Trong văn chương hậu hiện đại, thủ pháp cóp nhặt pha trộn đa dạng thể loại và có nhiều yếu tố khác nhau (thường là siêu hư cấu và bóp méo thời gian). Trong tiểu thuyết The Public Burning (1977) của Robert Coover có những đoạn miêu tả sai sự thật lịch sử về Richard Nixon (Tổng thống thứ 37 của Hoa Kỳ). Những chi tiết này pha trộn, tương tác những nhân vật có thật trong lịch sử với nhân vật hư cấu như Uncle Sam và Betty Crocker.
- Siêu hư cấu (metafiction): về cơ bản, siêu hư cấu là cách viết về cách viết hoặc "làm nổi bật cấu trúc phức tạp của tác phẩm", vì nó là đặc trưng cho cách tiếp cận của người theo chủ nghĩa giải cấu trúc, tạo ra tính chất giả của nghệ thuật hoặc tính chất tiểu thuyết hư cấu mà người đọc có thể nhận ra được, nói chung siêu hư cấu không quan tâm tới sự sự hoài nghi.Thí dụ, sự tri giác hậu hiện đại và siêu hư cấu ra lệnh cho những tác phẩm giễu nhại (parody) cần nhái lại ý tưởng của chính sự giễu nhại.
Siêu hư cấu thường được sử dụng để làm suy yếu quyền lực của tác giả, giúp chuyện kể thay đổi bất ngờ, thúc đẩy nội dung theo lộ trình duy nhất, tạo khoảng cách xúc cảm hoặc bình luận hành động kể chuyện. Thí dụ, tiểu thuyết Se una notte d’inverno un viaggiatore (Nếu một đêm đông có người lữ khách, 1979) của nhà văn Ý Italo Calvino. Nội dung nói về một người đang đọc quyển sách có tựa là Se una notte d’inverno un viaggiatore (chú ý: tựa sách thật và tựa sách trong truyện trùng tên). Quyển này bắt đầu bằng chương nói về nghệ thuật và bản chất của việc đọc, và sau đó được chia thành hai mươi hai đoạn. Những đoạn đánh số lẻ và đoạn cuối cùng cho thấy nhân vật chính kể chuyện bằng đại từ nhân xưng ở ngôi thứ hai, kể cho người đọc những gì mà anh ta đang chuẩn bị cho việc đọc ở chương kế tiếp. Mỗi đoạn đánh số chẵn là một chương đầu tiên của một quyển tiểu thuyết (tổng cộng 10 quyển khác nhau), có sự thay đổi lớn về chủ đề, thể loại, văn phong. Tất cả bị gãy rời, vì những lý do khác nhau được giải thích trong những đoạn rải rác, phần lớn xuất hiện chốc lát trong vài cao điểm của cốt truyện. Trong sách có một chương riêng cho thấy nhân vật thứ hai là người nữ.
Nhà văn Mỹ Kurt Vonnegut cũng thường xuyên sử dụng kỹ thuật siêu hư cấu. Chương I trong tiểu thuyết Slaughterhouse-Five (Lò sát sinh số 5, 1969) là lời nói đầu của Vonnegut về quá trình viết quyển này, kêu gọi chú ý đến sự hiện diện của  xuyên suốt trong tác phẩm. Nội dung sách bắt đầu từ chương thứ hai, nói về người lính Billy Pilgrim phải trải qua hành trình kinh khủng trong Thế chiến II, một sự thám hiểm số phận, ý chí tự do và bản chất phi lý của cuộc sống con người. Cách dẫn chuyện rời rạc, đứt đoạn, hư cấu đến mức không tưởng.
- Fabulation: là thuật ngữ do Robert Scholes phổ biến trong phê bình văn chương. Khái niệm này xuất phát từ quyển The Fabulators (1967) của Robert E. Scholes, miêu tả loại tiểu thuyết phát triển nhất trong thế kỷ 20, có phong cách giống như chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, nhưng không tương hợp với những thể loại truyền thống như chủ nghĩa hiện thực hoặc lãng mạn. Nó xâm phạm những tiêu chuẩn tiểu thuyết chuẩn mực bằng sự thể nghiệm mạnh mẽ, có chủ đề, hình thức, thể loại, chuỗi thời gian, sự kỳ quái, thần thoại, ác mộng…làm mờ nhạt những nét độc đáo truyền thống. Nói cách khác, "fabulation" thách thức những khái niệm truyền thống của văn chương (kết cấu truyền thống của tiểu thuyết hoặc vai trò của người kể chuyện), thí dụ: kết hợp những khái niệm chuyện kể truyền thống khác, bao gồm những yếu tố kỳ quái, thí dụ như ma thuật, chuyện hoang đường hoặc những yếu tố từ những thể loại phổ biến như khoa học viễn tưởng.
Một trong những người đã ứng dụng thành công "fabulation" chính là nữ văn sĩ Giannina Braschi. Năm 2011, bà trình làng tiểu thuyết đầy kịch tính là United States of Banana, trong đó pha trộn nhiều thể loại, kết hợp sân khấu thể nghiệm, thơ văn xuôi, tiểu thuyết, tiểu luận và tuyên ngôn về chủ đề dân chủ kể từ sự kiện khủng bố ngày 11 tháng 9 tại Manhattan, New York. Nhà văn Salman Rushdie cũng rất thành công với "fabulation" qua truyện thiếu nhi có tựa đề Haroun and the Sea of Stories (1990), một tác phẩm ngụ ngôn, hiện thực huyền ảo, trình bày những vấn đề tồn tại trong xã hội ngày nay, đặc biệt là trong tiểu lục địa Ấn Độ.
- Poioumenon: xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ ποιούμενον, một thuật ngữ do Alastair Fowler tạo ra để chỉ loại siêu hư cấu đặc biệt, trong đó có câu chuyện kể về quá trình sáng tạo. Theo Fowler, "poioumenon" dùng để cung cấp những cơ hội khảo sát ranh giới của hư cấu và thực tại – những giới hạn của cái có thật dưới hình thức chuyện kể (1). Trong nhiều trường hợp, sách sẽ là quá trình sáng tạo sách hoặc bao gồm phép ẩn dụ quyết định cho quá trình này. Loại siêu hư cấu “poioumenon” xuất hiện từ những thế kỷ trước, được ứng dụng trong tiểu thuyết khôi hài Tristram Shandy (1759) của Laurence Sterney và quyển Sartor Resartus (1836) của Thomas Carlyle. Trong văn chương hậu hiện đại, kỹ thuật này có ý nghĩa quan trọng trong tác phẩm Pale Fire (1962) của nhà văn Mỹ gốc Nga Vladimir Nabokove, nội dung nói về người kể chuyện Kinbote yêu cầu ông ta viết bài phân tích trường thi Pale Fire của John Shade, nhưng chuyện kể về mối quan hệ giữa Shade và Kinbote lại hiện ra trong cái có vẻ là những chú thích cuối bài thơ. Tương tự như vậy, nhân vật chính Saleem Sinai, người kể chuyện trong tác phẩm Midnight’s Children (1980) của Salman Rushdie đã so sánh sự sáng tạo sách của ông ta với sự sáng tạo của tương ớt (chutney) và sự sáng tạo của Ấn Độ độc lập.
- Siêu hư cấu biên sử (historiographic metafiction): một thuật ngữ do nhà lý thuyết văn chương Linda Hutcheon tạo ra. Trong bài A Poetics of Postmodernism, Hutcheon giải thích: tác phẩm siêu hư cấu biên sử là "những tiểu thuyết phổ biến và nổi tiếng, có sự tự phản thân mãnh liệt nhưng nghịch lý là chưa sắp xếp để khẳng định nhân vật quan trọng và sự kiện lịch sử". Siêu hư cấu biên sử là hình thức nghệ thuật hậu hiện đại điển hình, dựa vào lời kịch, văn thơ nhại và sự tái định nghĩa lịch sử.
García Márquez đã sử dụng thành thạo kỹ thuật này trong tiểu thuyết El general en su laberinto (Vị tướng trong mê cung của mình, 1989), nói về những ngày cuối đời của nhà cách mạng Simón Bolívar, người lãnh đạo các phong trào giành độc lập ở Nam Mỹ đầu thế kỷ 19.
Người ta còn thấy siêu hư cấu biên sử trong tiểu thuyết lịch sử  Ragtime (1975) của E. L. Doctorow, nội dung chủ yếu nói về khu vực thành phố New York từ năm 1900 cho tới khi nước Mỹ bước vào Thế chiến I năm 1917. Thomas Pynchon cũng là người ứng dụng thành công kỹ thuật này qua tác phẩm Mason and Dixon (1997), chủ yếu nói về sự cộng tác của hai nhân vật có thật trong lịch sử là Charles Mason và Jeremiah Dixon trong lãnh vực thiên văn và trắc địa ở Cape Colony, Saint Helena, Đảo Anh vào ngày trước lễ hội kỷ niệm Chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ (Revolutionary War).
Nhìn chung, có rất nhiều nhà văn thành danh qua kỹ thuật siêu liên kết biên sử, thí dụ như Margaret Atwood , A. S. Byatt , Angela Carter , Peter Ackroyd , Robert Coover , E. L. Doctorow, Julian Barnes , Umberto Eco,  John Crowley  hay Timothy Findley…
- Bóp méo thời gian (temporal distortion): là kỹ thuật thông thường trong văn hư cấu hậu hiện đại, thể hiện bằng sự phân mảnh và tự sự phi tuyến tính (non-linear narrative), hai đặc điểm chính trong cả văn chương hiện đại và hậu hiện đại. Nhờ kỹ thuật này, tác giả có thể nhảy tới lui bất kỳ thời điểm nào của thời gian. Riêng trong văn hư cấu hậu hiện đại, tác giả có thể sử dụng thủ pháp này trong nhiều cách, thường là vì mục đích châm biếm, khôi hài. Siêu hư cấu biên sử cũng là một thí dụ cho cách này.
Bóp méo thời gian là đặc điểm chính trong nhiều tiểu thuyết phi tuyến tính của nhà văn Mỹ Kurt Vonnegut. Trong Slaughterhouse-Five, tác giả rất thành công khi sử dụng kỹ thuật này cho nhân vật chính Billy Pilgrim, một nhân vật hư cấu "không dính vào thời gian" (unstuck in time), nghĩa là không lường được những thời điểm khác nhau trong quá khứ hay tương lai. Ông ta không bị "dính" vào thời gian như những người khác – theo cách chuyển động đường thẳng từ quá khứ đến tương lai. Ông đã bị "lột rời ra", không còn chịu ràng buộc bởi thời gian. Trong quyển Flight to Canada (Chuyến bay đến Canada, 1976), nhà văn Mỹ Ishmael Reed đã xử lý tinh tế, nghịch ngợm những chi tiết sai thời gian lịch sử, thí dụ cảnh Abraham Lincoln (Tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ) sử dụng điện thoại. Nhìn chung, thời gian đã trở nên méo mó bởi sự pha trộn lịch sử với thực tế chính trị và hài kịch qua lăng kính của Ishmael Reed. Trong Everything Is Illuminated (Mọi điều sáng tỏ, 2002), tiểu thuyết đầu tay của Jonathan Safran Foer, thủ pháp này hiện rõ qua cảnh nhân vật chính Jonathan Safran Foer đến Ukraine, ở nơi ấy mọi điều đã trở nên cũ kỹ so với nước Mỹ, nơi ông khởi hành.
Ngoài ra, thời gian cũng có thể chồng chéo lên nhau, lặp lại hay phân tách trong nhiều sự kiện có thể xảy ra. Một số tiểu thuyết của Thomas Pynchon khắc họa những cảnh hồi tưởng hoặc tình tiết quan trọng, trong đó địa điểm nằm trong nhiều giai đoạn thời gian khác nhau. Thêm vào đó, bất kỳ nhân vật nghiện ma túy nào của Pynchon cũng bị rối loạn thời gian tương ứng với tình trạng say thuốc của họ – vài nhân vật trải qua cảm giác chồng chéo thời gian, những người khác thấy thời gian lặp lại hoặc bị phân mảnh. Trong truyện ngắn The Babysitter (Cô giữ trẻ) từ tuyển tập Pricksongs and Descants (1969), tác giả Robert Coover trình bày nhiều sự kiện có thể xảy ra cùng lúc, ở tiết đoạn này cô giữ trẻ bị giết và cùng lúc ở tiết đoạn khác lại không có gì xảy ra…, mọi việc diễn tiến bình thường, câu chuyện chẳng đưa ra lời giải thích nào rõ ràng về điều này.

(còn tiếp)

 Vương Trung Hiếu

Source : Damau 

 

9/8/13

Hoàng Tiến - Tiếng vỗ tay trong một đám tang


09.08.2013
 Tường thuật của nhà văn Hoàng Tiến

Lời bàn của Lãng tử

Năm 2002 Nông Đức Mạnh đang làm tổng bí thư. Ông ta sẽ phải chịu trách nhiệm danh dự và đạo đức về việc “cạn tàu ráo máng” với  trung tướng Trần Độ trong đám tang do Quốc hội chủ trì để lại ngàn năm bia miệng… Vũ Mão đọc bản Điếu văn tội lỗi chỉ là cái loa phát ngôn … cũng liên danh chịu án vĩnh viễn cùng ông Mạnh trong một trang  sử Việt Nam hiện đại..
Xin biết cho rằng Trưởng ban văn hóa văn nghệ trung ương là Trần Độ cùng phó ban là GSTS Nguyễn Văn Hạnh chấp bút viết Nghị quyết 05 BCT,  người ký ban hành Nghị quyết là TBT Nguyễn Văn Linh. Đó là nghị quyết cởi trói và trả tự do cho văn nghệ sĩ,
Trong bài, nhà văn Hoàng Tiến viết “các cụ dân chủ’ tức là các vị cựu đảng viên Đảng dân chủ Việt Nam bị cựu TBT Lê Duẩn và e kip tuyên bố giải thể (cùng đợt với Đảng xã hội Việt Nam).
GNLT
 Nhà văn Hoàng Tiến
 Đám tang ai mà có chuyện lạ vậy?
Xin thưa, đó là đám tang tướng quân nhà văn Trần Độ tổ chức ngày 14-8-2002 tại nhà tang lễ Bộ Quốc phòng số 5 Trần Thánh Tông.
 Trung tướng Trần Độ là một vị lão thành cách mạng, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong bộ máy Đảng và Nhà nước cũng như trong tổ chức quân đội, những năm cuối Đảng, bị chính quyền coi là phần tử nguy hiểm, và công an gây nhiều phiền hà. 
 Cho nên đám tang ông khiến mọi người rất quan tâm. Nghĩa tử là nghĩa tận. Người ta chú ý xem lãnh đạo cư xử với đám tang ông ra sao?


Ông mất từ hôm mồng 9-8, việc đưa tin trên báo và tivi rất chậm. Mãi đến ngày 13-8 báo chí mới loan tin, và tối ngày 13-8 cô phát thanh viên trên tivi mới đọc tin tang lễ. Cô vẫn mặc áo màu hoa đẹp hàng ngày, không mặc áo tang đen. Đưa tin sát ngày như thế, thì người các tỉnh xa, trong đó có nhiều đồng đội, đồng nghiệp, và những người ái mộ ông không thể về kịp, vì ngày mai 14 đã lễ tang rồi.
 Ngày 14, từ 8 giờ sáng bắt đầu lễ viếng. Tuy nhiên những người yêu quý ông Độ ở Hà Nội và những tỉnh sát Hà Nội đã về kịp. Họ đi cá nhân, hoặc thành nhóm. Không thấy những viên chức cao cấp đương nhiệm, hoặc các cơ quan đoàn thể đến viếng. Hình như có chỉ thị của Ban Bí Thư (có người nói của Bộ Chính Trị) gửi các cơ quan đoàn thể về tang lễ này, hạn chế sự tham gia.
 Các vòng hoa đề chữ “Vô cùng thương tiếc trung tướng Trần Độ” bị ách lại từ ngoài cổng. Phải bỏ chữ Vô cùng thương tiếc và quân hàm trung tướng đi. Thắc mắc thì anh em nhà tang lễ giải thích: “Chúng cháu chỉ biết làm theo lệnh ở trên”(!)
 Vòng hoa của đại tướng Võ Nguyên Giáp đề hàng chữ: “Vô cùng thương tiếc trung tướng Trần Độ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp” cũng bị ách lại, đưa vào phòng đợi ngoài cổng, và đề nghị sửa (có anh em chuyên môn sửa ngay). Nghĩa là phải bỏ hàng chữ Vô cùng thương tiếc, và các quân hàm trung tướng, đại tướng, chỉ còn là ông Võ Nguyên Giáp viếng ông Trần Độ. Thư ký của đại tướng là ông Huyên, phản đối. Chuyện đôi co lằng nhằng, hai bên đều phải xin ý kiến cấp trên của mình. Mỗi bên đều xuống thang một chút. Cuối cùng vòng hoa còn là: “Thương tiếc trung tướng Trần Độ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp”. Có lẽ (đó) là vòng hoa duy nhất được giữ gần như nguyên vẹn lời viếng. Nhưng khi Ban Tang Lễ gọi loa đọc tên người viếng thì lại gọi là: “Vòng hoa của ông Võ Nguyên Giáp viếng ông Trần Độ“.
 Những người đứng đợi trong sân nhà tang lễ, nghe thấy thế, đều xì xào bàn tán. Ông Kim Sơn, một lão thành cách mạng, tham gia từ hồi quân giải phóng, không chịu nổi đã tiến lên cự nự Ban Tang Lễ. Quân hàm của Đại tướng Võ Nguyên Giáp là do Bác Hồ phong. Ai dám tự ý tước bỏ? Sao các anh làm ăn bậy bạ thế? Vòng hoa vẫn đề chữ đại tướng, mà các anh đọc sai đi là nghĩa sao?
 Thì quân hàm trung tướng của ông Trần Độ cũng thế, muốn tước bỏ phải có quyết định của quốc hội hoặc chủ tịch nước. Báo chí vẫn đăng là trung tướng, mà tang lễ lại bỏ đi. Thật chẳng ra làm sao! Rõ là trống đánh xuôi kèn thổi ngược!
 Lại nói đến vòng hoa của thượng tướng Lê Ngọc Hiền đề là đồng chí Trần Độ, cũng bị bỏ đi chữ đồng chí. Chắc sự chỉ đạo ở trên cho rằng, ông Trần Độ đã bị khai trừ khỏi Đảng thì không còn gọi là đồng chí nữa. Nhưng họ đã lầm, theo điều lệnh của quân đội, thì từ binh nhì đến tướng lĩnh đều xưng hô với nhau là đồng chí. Ông Lê Ngọc Hiền mặc quân phục, đeo quân hàm thượng tướng trang nghiêm, đến viếng ông Trần Độ, mà cũng chỉ được giới thiệu trên loa là ông Lê Ngọc Hiền đến viếng ông Trần Độ. 
 Trung tướng Nguyễn Hòa cũng quân phục, quân hàm, huân chương đầy đủ và cũng chịu cảnh ngộ như trên.
 Vòng hoa của anh em dân chủ Hải Phòng đề là “Vô cùng kính phục và thương nhớ bác Trần Độ. Các bạn đồng hành ở Hải Phòng” phải sửa thành “Kính viếng bác Trần Độ. Các bạn đồng hành ở Hải Phòng”. Vòng hoa cá nhân Vũ Cao Quận, đi cùng đoàn Hải Phòng, đề “Kính viếng lão tướng Trần Độ. Người lính già Vũ Cao Quận” bị giữ lại. Tranh cãi hồi lâu, không có cụm từ vô cùng thương tiếc, không có trung tướng hay đồng chí, lại không có gì sai phạm về ngữ pháp tiếng Việt, vậy cớ gì phải sửa, ai sửa được đúng hơn, xin mời. Mãi rồi cũng được vào.
 Những vòng hoa mẫu mực có băng chữ ghi phải là “Vòng hoa của ông Nguyễn Văn An kính viếng ông Trần Độ”, “Vòng hoa của ông Lê Đức Anh kính viếng ông Trần Độ”, “Vòng hoa của Văn phòng Quốc hội kính viếng ông Trần Độ ..v..v… Không thấy vòng hoa của ông Nông Đức Mạnh.
 Chúng tôi để ý thấy nhiều bức trướng chữ vàng trên nền đỏ vẫn đề trung tướng, tướng quân, danh tuớng ..v..v… không thể gỡ bỏ vì đã thêu bằng chỉ vàng bám chắc trên vải. Trong đó nổi bật bức trướng của các cụ dân chủ, trướng dài khổ to sát đất phải có gậy treo lên, thêu tám chữ vàng “Nhân văn danh tướng. Trung dũng vẹn toàn”. Bên dưới ghi tên tuổi các vị kính viếng. Trưởng đoàn là cụ Lê Giản, rồi đến các ông Hoàng Minh Chính, Lê Hồng Hà, Phạm Quế Dương, Nguyễn Thanh Giang ..vv…, hơn hai mươi ông. Mọi người xúm lại xem. Chụp ảnh. Quay phim. Có tiếng gọi bằng máy di động, đề nghị tịch thu. Rồi cũng không thấy gì. Mọi việc vẫn êm trôi. Tịch thu bức trướng trưởng đoàn là cụ Lê Giản thì cũng phiền đấy. Hơn nữa các cụ dân chủ đã đứng vây quanh bức trướng. Công an dùng bạo lực thì lôi thôi to.
 Đoàn của các cụ dân chủ chỉ bị kìm lại thôi. Nhiều đoàn đăng ký sau đã vào trước. Ban tang lễ gây khó khăn cho các cụ phải đứng chờ dưới bóng cây, nắng chang chang, nhưng lại có cái hay là nhờ thế, mọi người hết tốp này tốp khác đến chiêm ngưỡng, bàn tán về các bức trướng. Bức trướng của nhà nghiên cứu Hán Nôm Trần Khuê bị quản chế từ Sài Gòn gửi ra:
 Công thần không làm phách
Danh toại chẳng cầu nhàn
Bút thần vung mấy độ
Ðáng mặt đại nghĩa quân. 
 (Ta chú ý bài thơ có chữ phách và chữ độ. Tên khai sinh là Tạ Ngọc Phách, tên tham gia cách mạng là Trần Độ).
 Bức trướng của nhà thơ Bùi Minh Quốc bị quản chế từ Đà Lạt gửi ra, người anh ruột là cụ Bùi Minh Đức gần 90 tuổi, cựu chiến binh chống Pháp, thay mặt em mang đến:
 Vì đại nghĩa nhân chân, thân mấy độ trần thân
Tướng dẫu không nguyên giáp, hồn vẫn vẹn tình dân.
 (Tạm dịch: Người chân chính vì nghĩa lớn, cái thân mình bị mấy lần vùi dập
Viên tướng không còn nguyên giáp, tâm hồn ông vẫn trọn vẹn tình dân).
 Bức trướng của tiến sĩ khoa học Hà Sĩ Phu cũng bị quản chế, từ Đà Lạt gửi ra, viết bẵng chữ Hán, do các cụ trong nhóm thư pháp Cảo Thơm thực hiện:
 Văn võ tung hoành, trung tướng phong trần, thế sự song kiên song trọng đảm
Bắc Nam xuất nhập, đại quân tế độ, hùng binh nhất trượng nhất đan tâm.
 (Câu đối vế trên có Trần, vế dưới có Độ. T”rung tướng phong trần” là trung tướng gian nan, lại có thể hiểu là ông Trần được phong trung tướng. Đại quân tế độ là đội quân cứu đời, tức quân giải phóng miền Nam. Đây nhắc đến việc ông Trần Độ là phó tư lệnh quân giải phóng miền Nam. Vậy câu đối trên có thể tạm dịch là:
 Văn võ dọc ngang, ông Trần được phong hàm trung tướng, việc đời hai vai gánh vác hai trách nhiệm lớn; 
Nam Bắc vào ra, tướng Ðộ chỉ huy quân giải phóng, cứu nước một gậy trường sơn một trái tim hồng).
 Bức trướng của nhóm Cảo Thơm trên nền giấy bồi khổ lớn đề 3 chữ đại tự “Vị dân tâm” (Tấm lòng vì dân), với hàng phụ đề bằng những câu thơ chữ Hán ca ngợi tướng quân Trần Độ. Ông Tú Sót mái đầu bạc phơ, trong nhóm thư pháp Cảo Thơm, luôn miệng giải thích cho mọi người rõ nghĩa:
 Vô tình vị tất chân hào kiệt
Hữu độ phương vi đại trượng phu
 (Nghĩa là :
Sống vô tình (như chủ nghĩa mackeno / mặc-kệ-nó bây giờ), không phải là người hào kiệt.
Có đức độ (vì dân vì nước) mới đáng mặt gọi trượng phu).
 Lại nghe được tin, cụ Độ vừa mất, công an đến đòi khám nhà, không có lệnh. Bà Độ phản đối. Công an đe dọa những người con, bắt hai con trai lên đồn, gây căng thẳng. Cuối cùng gia đình phải nộp 5 thùng sách vở của cụ Độ. Mọi người nghe tin đều phẫn nộ. Quá thể! Gia đình người ta đang tang gia bối rối. Thật nhẫn tâm!
 12 giờ 15 phút, lễ truy điệu bắt đầu. Giới thiệu vị đại diện Văn phòng Quốc hội là ông Vũ Mão đọc điếu văn. Ông Mão có nhắc đến lý lịch, quê quán, ngày sinh, quá trình tham gia cách mạng và những chức vụ ông Trần Độ đã đảm nhiệm. Phần hai, ông ta nói rất tiếc là ông Trần Độ cuối đời đã mắc những lỗi lầm nghiêm trọng… Phần hai tuy không dài, nhưng cả hội trường lặng đi. Không khí như nén lại, ngột ngạt.
 Đến mục gia đình lên đáp từ, người con trưởng cụ Độ là anh Thắng, sau khi kể những tình cảm về người bố, và sau khi cám ơn tất cả các cụ, các ông, bà, chú, bác, các anh chị … đến tham dự tang lễ, lời cuối của bài đáp từ là câu: Tôi thay mặt gia đình xin phép không tiếp nhận lời điếu của vị đại diện Văn phòng Quốc hội” (Chưa bao giờ lại có chuyện như vậy, tang gia khước từ lời điếu của chủ lễ ! !??).
 Như một kho thuốc nổ được châm ngòi, cả hội trường vỗ tay ran lên tán đồng. Tiếng hoan hô lẫn tiếng vỗ tay nổi lên càng to, kéo dài không ngờ, như hội bắn pháo hoa. Các đợt liên tiếp cao hơn, to hơn, dài hơn, càng âm vang cộng hưởng hết cỡ trong vòm nhà hội trường tang lễ. Có cảm tưởng như nóc hội trường sắp bật tung. Nhiều tiếng hét đến lạc giọng, nghe không rõ. Loáng thoáng những từ “hoan hô! phản đối! ngu dốt!, bất nhân!”... lẫn trong những tràng vỗ tay rền vang như sấm động.
 Những uẩn ức trong lòng mọi người bị dồn nén từ sáng đến giờ được dịp nổ tung. Tôi phải trèo lên chiếc ghế, đưa tay lên vành tai, nghiêng đầu lắng nghe. Một người hét to, giọng như người miền núi, tay giơ lên chỉ chỉ vào chiếc khung đen có hàng chữ Lễ tang ông Trần Độ ở trên cao, dưới là chiếc ảnh bán thân của ông mặc thường phục: “Ai cho phép chúng nó bỏ hàng chữ Vô cùng thương tiếc đi. Chúng nó không vô cùng thương tiếc, nhưng chúng tôi vô cùng thương tiếc …”.
 - Thật là bọn ăn cháo đá bát.
 - Không có tướng Trần Độ và anh em chúng tôi thì làm sao có chúng nó ngày nay.
 - Nghĩa tử là nghĩa tận, không có ai đi kiểm điểm người chết trước linh cữu cả.
 - Chuyện này cổ kim chưa thấy bao giờ.
 - Mà đã chắc là ai đúng, chắc là ai sai? Quan tòa là nhân dân.
 - Chúng nó phỉ báng lên truyền thống dân tộc.
 Nơi này, chỗ kia, ầm ầm những tiếng thét, tiếng quát tháo: Bọn phản nhân dân! Phản bội đường lối Hồ Chí Minh! Phản văn hóa! Đề nghị Bộ Chính Trị phải nghiêm trị!
 Có ai nói khẽ: “Đây là chỉ đạo của Bộ Chính Trị”.
 Tiếng quát to: “Nói láo! Bộ Chính Trị sáng suốt, không làm điều ngu dốt như thế. Nói thế là không đúng”.
 Có ai đó lại hô lên: “Trần Độ muôn năm!”.
 Nhân viên an ninh mặc thường phục vây quanh những người quá nóng nảy, đề phòng. Có tiếng hỏi: “Vũ Mão đâu? Vũ Mão đâu?”.
 “Hắn chạy rồi! Lủi ra xe rồi!” Thật là may cho Vũ Mão. Hắn ta đứng đực ra, mặt chảy xị, tái xám, ngơ ngác. Có ai giục, hắn như chợt tỉnh, vội lách ra phía sau, chuồn mất. 
Cũng may cho đám tang nữa. Sự tức giận của khối người đông đảo trong hội trường này, mà túm được Vũ Mão, thì không biết rồi những gì sẽ xảy ra.
 Các cụ dân chủ đều biết kìm mình. Trước đám tang vài ngày, cơ quan an ninh đã cử người đến dò la thái độ các cụ. Lo sợ các cụ dân chủ lợi dụng chiếm diễn đàn, cướp mi-crô, gây ra căng thẳng. Các cụ đã tin lại cho công an biết. Chỉ có đầu óc ngu tối mới nghĩ như thế. Những người yêu quý ông Độ, ai lại muốn phá rối đám tang. Chính lúc các cựu chiến binh, các lão thành cách mạng, bừng bừng nổi giận, thì các ông dân chủ lại bình tĩnh, tìm cách khuyên can, chứ không có thái độ quá khích nào cả.
 Toàn là những người hiểu biết. Sự nóng giận liền dịu xuống. Tang lễ lại tiếp tục. Mọi người đều đứng rẽ ra hai bên làm thành một con đường để đội danh dự mặc lễ phục trắng khiêng linh cữu trong nhà tang lễ ra xe ô tô đã đỗ ở giữa sân. Lúc này nắng lắm!
 Một số phóng viên người nước ngoài tranh thủ phỏng vấn, ghi âm mấy cụ còn chưa nguôi cơn giận.
 Ai cùng đi đến nghĩa trang Hoàn Vũ (hỏa táng) thì lên xe. Tôi chậm chân nên xe tang đã ra ngoài cổng rồi, tôi vẫn còn trong sân để xe đạp xe máy. Gặp chị Ngọc, vợ ông Hoàng Minh Chính, hỏi tôi có đi nghĩa trang? Tôi trả lời sẽ đi bằng xe máy. Chị khuyên tôi nên đi ô tô, đỡ mệt. Các ông ấy đều lên ô tô cả. Tôi chạy vội ra cổng, thì đoàn xe đã đi xa. Lại gặp các cụ dân chủ đứng túm lại ở đầu cổng. Hỏi ra mới rõ, xe còn rộng chỗ lắm, nhưng lái xe không chịu mở cửa cho các cụ lên (đều do công an lái xe). Một cử chỉ nhỏ nhen! Các cụ bèn quyết định thuê tắc-xi đi.
 Trên xe, tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang nhận định một cách tổng quát: Chúng nó đểu một cách rất ngu, và đểu đến từng chi tiết”. Nhà báo đại tá chính ủy Phạm Quế Dương lại cười hề hề: “Trò đùa ấy mà! Có gì đâu!”.
 Xe tắc-xi chạy nhanh, bám kịp đoàn xe tang lễ. Quả thật, nhiều xe rất vắng, mang biển số 80B. Biển số này là của công an, nhiều người biết. Hai xe cam-nhông chở đầy vòng hoa viếng, những vòng hoa bên ngoài đều bị bóc hết các băng chữ. Lại nhỏ nhen!
 Dự hỏa táng xong, trở về nhà tang lễ Bộ Quốc phòng thì đã gần 3 giờ chiều. Chúng tôi lấy xe ra về, người mệt nhoài, vì nóng, vì nắng. Rủ nhau vào uống giải khát để lấy sức ngày mai còn đưa hài cốt hỏa táng cụ Độ về Thái Bình.
 Sẩm tối mới về tới nhà, đã thấy mấy ông bạn cựu chiến binh đón từ đầu đường hỏi về chuyện đám tang ông Trần Độ. Thì ra chuyện ở đám tang trưa nay đã đồn ầm lên trong dân chúng. Giấu làm sao được nhân dân! Che làm sao được miệng thế gian! Và bản tin chiều của hãng BBC mãi tít nước Anh đã đưa tin về đám tang. Có cả tiếng nói của cháu Thắng và tiếng vỗ tay rền vang như sấm. Nhanh thật! Trái đất cùng chung một mái nhà.
 Vài lời kết thúc
 Sáng sớm hôm sau (15-8-2002) chúng tôi tập trung tại 37 Lý Nam Đế, nhà ông Phạm Quế Dương, để di Thái Bình cho trọn tình trọn nghĩa. Công an mật đã đến lởn vởn trước cổng, từ 5 giờ sáng.
 Chúng tôi gọi tắc-xi, đúng 6 giờ 30 sáng lên đường. Nhìn sang lịch ta là ngày mồng 7. Ông cha ta dạy: “Chớ đi ngày 7 chớ về ngày 3”. Chúng tôi biết là chuyến đi này sẽ gặp trắc trở đây.
 Quả không sai, quãng đường hơn 100 km về quê cụ Độ bị 4 lần ách xe. Công an giao thông kiểm soát giấy tờ lái xe, phương tiện xe cộ có an toàn, để đảm bảo cho khách đi đường được yên tâm. Lại còn điều tra một tai nạn xe cộ, lái xe bỏ chạy, là một trong 300 chiếc tắc-xi của hãng này. Màu sơn này. Nên công an chúng cháu phải làm nhiệm vụ, mong các cụ thông cảm. Lần ách xe ở đất Thái Bình lâu nhất, mất gần 2 giờ đồng hồ. Đến nơi thì đã 1 giờ 30 chiều, tang lễ hạ huyệt đã xong. Tổng cộng mất hơn 7 tiếng đồng hồ mới đi nổi quãng đường hơn 100 km. Mọi người đang ăn cỗ. Phong tục nông thôn bà con xa gần kéo đến rất đông.
 Chúng tôi thắp hương, dâng lễ vật ở bàn thờ gia đình và bàn thờ ông Trần Độ. Lại phải ngồi ăn cỗ, thôi thì chiều nay ra mộ thắp hương trước khi về.
 Được gặp con cái cụ Độ, chúng tôi tranh thủ tìm hiểu việc công an định khám nhà và lấy đi 5 thùng sách báo. Các cháu đều trả lời lấp lửng, không rõ ràng, hình như e ngại điều gì. Gặp cháu Thắng, con trai trưởng, người đã nói được câu tuyệt vời hôm qua, thì hôm nay cũng không đậm đà bắt chuyện, muốn lảng tránh câu hỏi. Có thể tối qua cơ quan nơi cháu làm việc họ đã ấn huyệt. Thôi, thông cảm cho các cháu. Các cháu cần làm ăn, cuộc đời các cháu còn dài.
 Được biết thêm, có cả thảy 220 vòng hoa tang lễ ở Hà Nội. Các băng chữ bị lấy hết, gia đình chỉ giữ được 7 băng. Gia đình đòi lại được 5 cuốn sổ tang, một số trang bị xé rách.
 Toàn là những cử chỉ nhỏ nhen!
 Ngôi mộ ông Trần Độ được nằm cạnh ngôi mộ bà mẹ. Đó là ý nguyện của ông. Đây là nghĩa trang xóm làng, mỗi gia đình được một khoanh đất, để chôn cất những người thân trong gia đình. Ông Độ đã trở về với bà con xóm làng. Mộ ông cũng rất bình thường, như mọi ngôi mộ ở đây. Nằm ở đây thì yên ổn rồi, ấm lòng rồi. Chúng tôi tin chắc là ông Trần Độ rất thanh thản. Nhớ đến một đoạn thơ của ai đó:
 Sống tranh luồn cúi vào ra,
Chết còn xí cả (cái) nhà mồ to
Phải là những bậc anh hào,
Sống thiêng – chết lại đi vào trong dân,
Mã to bia nhớn chẳng cần… 
 Những ngày tang lễ ông Trần Độ
Hà Nội, tháng 8-2002 
Hoàng Tiến, nhà văn.

Source : Blog GNLT



8/8/13

GS. TƯƠNG LAI - HIỆN TƯỢNG TRẦN ĐỘ


Trần Độ (Tạ Ngọc Phách) ở chiến trường.
Trần Độ (Tạ Ngọc Phách) ở chiến trường.
GS. TƯƠNG LAI

Nói như vậy, vì người viết muốn nhìn ra ở đây “một hiện tượng lịch sử” có ‎ nghĩa biểu tượng.  
Lịch sử đi tới theo đội hình hình thoi chứ không “dàn hàng ngang mà tiến”. Bao giờ những người đi trước cũng thuộc số ít. Càng ít hơn nữa là những ngươi có tầm mắt vượt lên phía trước, nhìn thấu được những điều mà nhiều người đồng hành chưa nhìn ra, hoặc nhìn nhưng chưa thấy, hoặc thấy nhưng chưa rõ. Và càng sát cái điểm đầu chóp hình thoi ấy thì càng đơn độc! Trần Độ là một hiện tượng, đúng hơn, là một bằng chứng rất sống động về sự “đơn độc của tia chớp” đang dẫn dắt suy tư của người viết nhân ngày mất của ông, 9. 8. 2002.
Nhận thức là một quá trình, điều này chẳng có gì mới đáng nói. Cái đáng nói hơn vào thời điểm này là: với sự kiểm nghiệm của thời gian, có những con người đã trở thành một  hiện tượng lịch sử vì nó là biểu tượng sống động về sự oái oăm của lịch sử trong nhận thức về lịch sử. Mà trớ trêu thay, chính sự oái oăm đó làm nên lịch sử. Làm nên bằng chính cái tầm vươt lên phía trước ấy. Chẳng thế mà Voltaire từng khuyến cáo rằng “Lịch sử không nên đề cập đến sự thăng trầm của các ông vua mà là trào lưu tiến hoá của dân tộc, không nên đề cập đến từng quốc gia riêng rẽ mà là toàn thể nhân loại, không nên đề cập đến chiến tranh mà là đề cập đến sự phát triển của tư tưởng. Những trận đánh, những đoàn quân chiến thắng hoặc chiến bại, những thành phố bị chiếm đi hoặc lấy lại là những sự kiện quá tầm thường, không nói lên điều gì quan trọng. Điều quan trọng là con người sống và suy nghĩ như thế nào qua các thời đại… qua những giai đoạn nào con người đi từ trạng thái man rợ đến trạng thái văn minh”.* 
Không hiểu có phải lẩn thẩn không mà người viết bài này những cứ muốn bạo gan đặt ra câu hỏi với nhà Khai sáng Pháp : liệu dưới tác động nào đó, trong một thời đoạn đau thương nào đó, có thể có quá trình ngược lại, một cơ chế phi lý‎ đẩy con người đi từ trạng thái văn minh trở lại với trạng thái man rợ ? Trần Độ có bốn câu thơ dưới dạng “tự bạch” :
                                          Những mơ xoá ác ở trên đời
                                            Ta phó thân ta với đất trời
                                         Ngỡ ác xóa rồi thay cực thiện
                                           Ai hay, biến đổi, ác luân hồi.
Liệu nỗi niềm “ ai hay, biến đổi, ác luân hồi” có chút bóng dáng nào của cái cơ chế phi lý kia không? Vì rằng, nếu cứ nhìn về nhân thân và sự nghiệp theo một nếp hằn rất chi là “lập trường quan điểm” từng chi phối đời sống tinh thần xã hội gần hai phần ba thế kỷ nay, thì con người này là một mẫu mực sáng giá, một điểm son chói lọi trong những trang sử hiện đại : Đi làm cách mạng từ năm 16 tuổi, vào đảng năm 17 tuổi, vào tù, cắn răng chịu tra tấn trong các nhà tù đế quốc , vượt ngục về hoạt động bí mật vào những ngày “tiền khởi nghĩa”, góp phần vào Cách Mạng tháng 8.1945, đảm nhiệm vai trò chính ủy Mặt trận Hà Nội “cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh” những ngày Thủ đô rực lửa năm 1946, tiếp đó là chính ủy trung đoàn, chính ủy đại đoàn, chính ủy quân khu, rồi phó chính ủy và phó bí thư quân ủy, được phong hàm thiếu tướng rồi trung tướng, được bầu làm Phó Chủ tịch Quốc hội, ủy viên BCHTƯĐCSVN, Trưởng ban văn hóa văn nghệ TƯ.
Dù được quy chiếu theo những hệ thống giá trị nào thì cuộc đời dấn thân hết mình cho tổ quốc, nằm gai nếm mật, vào tù ra tội, luôn đứng ở mũi nhọn của cuộc chiến tranh cứu nước, con người này có một cuộc sống thật đẹp! Càng đẹp theo kiểu “ta phó thân ta với đất trời” chứ không chỉ vì những chức vụ, danh vọng mà ông có được bằng sự dấn thân kia !
Ấy thế mà khi con người ấy nằm xuống, người ta quyết không cho cuộc đời “thương tiếc” ông. Dùng một con rôbốt vô hồn để thực hiện một công vụ táng tận lương tâm là kể tội ông trong điếu văn đọc trước linh cữu người quá cố, người ta đã chà đạp lên truyền thống “nghĩa tử là nghĩa tận” trong đời sống dân tộc. Cái đáng sợ nhất, khủng khiếp nhất chính ở chỗ này đây.
Một giải pháp vô văn hóa, phản tâm linh được thực thi một cách triệt để theo lối “đào tận gốc, trốc tận rễ” khi người ta “trả nghĩa” cho ông “Trưởng ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương” của đảng bằng hành động vô văn hóa đó. Một hành động được hoạch định kỹ càng và đóng dấu ở nơi cao cấp nhất! Từ cách công bố tin ông mất sát kề ngày tang lễ để đồng chí, đồng đội của ông không đến kịp nhằm giảm tối đa số người “thương tiếc” ông tại nhà tang lễ đến chuyện xé bỏ những băng tang đính trên vòng hoa nếu có chữ “vô cùng thương tiếc” và rồi bài điếu văn phản nhân văn, ráo cạn nhân tình không tiền khoáng hậu đi vào lịch sử như một vết nhơ không sao xóa mờ đi được!
Xin chen vào đây một mẩu chuyện : vòng hoa của người viết bài này nhờ một người bạn vốn là lính của tướng Độ mang đến nhà tang lễ. Hai vị CA chặn lại, yêu cầu gỡ bỏ mấy chữ “Vô cùng thương tiếc” .Vị cựu chiến binh là thương binh chiến đấu ở chiến trường Miền Tây cố làm nhẹ sự căng thẳng bằng một đề nghị hóm hỉnh :” thế tôi sửa lại là ”thương tiếc vừa vừa đồng chí Trần Độ nhé“. CA trừng mắt, quát. Xô xát có cơ xảy ra vì anh thương binh “quân của tướng Độ” đã xắn tay áo. Ánh mắt đang đổ dồn về đây. Một vị đeo lon trung tá vừa lịch lãm vừa xử sự rất “có nghề” đã nhanh chóng xin lỗi người cựu chiến binh, vừa gạt tay thuộc cấp định gỡ vòng hoa, rồi mời người cựu chiến binh mang nó cùng đi. Nhưng khi đến gần bậc thềm nhà tang lễ thì anh ta nói “ theo quy định, chúng tôi phải trực tiếp chuyển vòng hoa, đồng chí cứ đứng đây“. Thế rồi y nhấc bổng vòng hoa đi vòng ra phía sau, mất hút!
Gọi điện kể lại, người cựu chiến binh tự hào là “quân của tướng Độ” đó an ủi : “thôi chú ạ, thế là mình cũng đã thể hiện được tấm lòng và ý chí trọn nghĩa vẹn tình với ông ấy, người sẽ đi vào lịch sử. Đến vòng hoa của Đại tướng Võ Nguyên Giáp mà chúng nó cũng đòi bóc, đại tá Huyên quyết liệt đấu tranh, cuối cùng cũng đành chỉ còn hai chữ “thương tiếc“, phải bỏ hai chữ “vô cùng” trên vòng hoa tang của bậc công thần, người anh cả của quân đội cụ Hồ gửi viếng một vị tướng từng chỉ huy Mặt trận quyết tử của Hà Nội mở đầu cuộc chiến tranh giữ nước để rồi có mặt trên tất cả các mặt trận nóng bỏng nhất cho đến khi kết thúc chiến tranh, mà chú!
Có thể ai đó khi hạ lệnh gỡ bỏ những dòng chữ “vô cùng thương tiếc” trên vòng hoa tang đã cạn nghĩ, hoặc mê muội trong nguyên lý khủng khiếp từng thuộc nằm lòng về sự chuyên chính đối với kẻ thù giai cấp, đã không lường trước được hệ lụy cũng khủng khiếp không kém của quyết định dại dột bất cận nhân tình ấy. Trong tâm thức của dân tộc, vết nhơ kia sẽ không có cách gì rửa sạch được. Và nếu như ông cha ta dạy “gươm dơ lấy nước làm sạch, nước dơ lấy máu làm sạch” thì rồi đây lấy gì để rửa vết nhơ lịch sử kia đây? Xét cho cùng, vết nhơ lịch sử này chính là nỗi đau văn hóa.
Đây là điều mà M.Gorki, một thời được mệnh danh là “nhà văn vô sản vĩ đại” từng chiếm lĩnh trọn vẹn các giáo trình lý luận văn học của các trường đại học và sách dạy phổ thông ở nước ta đã từng quyết liệt cảnh báo ngay từ những năm 1917-1918 [đương nhiên là người ta dấu nhẹm sự cảnh báo này] : “Cách mạng đã đánh đổ nền quân chủ, điều đó đúng! Nhưng điều đó có lẽ cũng có nghĩa rằng cuộc cách mạng đã mang chứng bệnh ngoài da vào bên trong nội tạng. Người ta không được phép tin rằng cách mạng đã chữa trị và làm phong phú cho nước Nga về mặt tinh thần. Chính vì vậy, M.Gorki viết : “Đối với tôi, lời kêu gọi Tổ quốc lâm nguy cũng không đáng sợ hơn lời kêu gọi “Hỡi các công dân! Văn hóa bị lâm nguy”!**
Sư suy thoái đạo đức đích thực, chứ không phải sự gán ghép tùy tiện do sự lú lẫn đầy ác ý, là biểu hiện dễ thấy của “sự lâm nguy” này. Sự lâm nguy bắt đầu từ khi người ta “đã mang chứng bệnh ngoài da vào bên trong nội tạng” của cả dân tộc. Càng nguy hiểm hơn khi, thay vì “phải được trui rèn trong ngọn lửa cháy không bao giờ dứt của văn hóa, tinh thần nô lệ đã hằn sâu trong nó phải bị tẩy sạch đi“, thì người ta làm ngược lại, tàn phá văn hóa.
Sẽ quá dài nếu phải liệt kê ra đây sự tàn phá đó khi mà chỉ lẩy riêng ra “một hiện tượng Trần Độ“, nói chính xác hơn, cách ứng xử với ông Trưởng Ban Văn hóa Văn Nghệ Trung Ương Trần Độ khi ông nằm xuống, cũng đã quá đủ để minh họa một cách sống động về điều này.
.
Trong một bài gần đây trên tạp chí “Văn Hóa Nghệ An” ngày 31.7.2013, giáo sư Nguyễn Minh Thuyết lưu ý‎ rằng : “quan sát trong xã hội, đạo đức suy thoái, đúng là chưa bao giờ đất nước ở vào tình trạng như hiện nay. Nói cách khác, trong lịch sử chỉ thời mạt mới xuất hiện những chuyện như thế…”. Ông dẫn trong “Hoàng Lê Nhất thống chí” lời học trò của L‎ý‎ Trần Quán trả lời thầy khi bị ông mắng về tội bắt Chúa Trịnh Tông nộp cho Tây Sơn : “Sợ thầy không bằng sợ giặc, yêu chúa không bằng yêu thân” để đưa ra nhận định : “Có thể nói đó là câu nói điển hình cho sự suy thoái…. Còn về các nước, có thể nói, nếu so sánh, phải thấy là những xã hội có hiện tượng như thế này là xã hội kém phát triển. Xã hội văn minh cũng có những hiện tượng này nhưng nó không bệ rạc, không phổ biến như thế“….Quả đúng vậy. Nhưng để cho trọn vẹn hơn thì xin mạo muội đề nghị giáo sư Thuyết trích thêm một dòng nữa ở trang 106 trong sách nói trên, con người “lừa thầy phản chúa” ấy rồi “được phong làm Tráng Nghĩa hầu thêm chức Trấn thủ Sơn Tây“! Chính cái “được” này mới là động cơ mãnh liệt thôi thúc những chuyện lừa thầy, phản chủ mà giáo sư gọi là “suy thoái” kia.
Những con “rô bốt” vô hồn, dù là cao sang quyền quý, danh gia vọng tộc hay lưu manh chính trị mạt hạng đang nhan nhản khắp nơi, hoặc tác oai tác quái với dân, hoặc lên mặt đạo đức giả đi rao giảng đạo đức lấy đó làm cái lá nho để che đi những xấu xa thối nát quá lộ liễu, hoặc nói một đằng làm một nẻo mất hết liêm sỉ mà dân gian gọi là đã đứt giây thần kinh xấu hổ …xét đến cùng chính là vì cái được ấy! Ngay cả những người đang theo lý thuyết “mắc-kê-nô”, tạm bằng lòng với ngôi nhà vừa tậu, chiếc ô tô đời mới hay cái công ty của con đang làm ăn yên ổn đang xua tay “không muốn động đến chuyện chính trị” thì trong sâu thẳm tâm hồn họ, cái động cơ mãnh liệt kia vẫn đang khởi động.
Xét đến cùng, vâng, xét đến cùng, cái “được” kia, nói chữ nghĩa ra là lợi ích nhận được từ cái cơ chế sản sinh ra những “rôbốt” vô hồn kia chính là chất xi măng gắn kết chúng với nhau vì lợi ích, và cái đem lại lợi ích nhanh chóng nhất chính là quyền lực. Trong bài viết cách đây chưa lâu, người viết này đã nói về quy luật này : Quyền lực thúc đẩy việc mở rộng vô hạn độ quyền lực, và hầu như không có điểm dừng. Nhưng “quyền lực lại có xu hướng tha hóa và quyền lực tuyệt đối thì tha hóa cũng tuyệt đối”(Power tends to corrupt and absolute power corrupts absolutely, có người dịch từ “corrupt” là “tham nhũng” trong những văn cảnh nhất định nào đó).Chế độ toàn trị phản dân chủ là nguyên nhân sâu xa cho cái chuyện “quyền lực tuyệt đối thì tha hóa cũng tuyệt đối ” ấyLiệu lịch sử loài người đã biết có bao nhiêu thứ “quyền lực tuyệt đối” như chê độ toàn trị hiện hành?
Thật ra thì vào cuối những năm 50 của thế kỷ trước, Milovan Dijlas, tác giả của “Giai cấp mới“, một tác phẩm viết trong tù  được bí mật gửi ra nước ngoài và được in ở New York năm 1957 từng phân tích rất rành mạch về chyện này :
Đảng sinh ra giai cấp. Sau đó giai cấp tự phát triển bằng chính nguồn lực của mình và sử dụng đảng như là cơ sởỞ đây, muốn trở thành chủ sở hữu hay đồng sở hữu thì cần phải len được vào hàng ngũ của bộ máy quan liêu chính trị“.
Ông chỉ ra rằng : “Giai cấp mới giống như một hình kim tự tháp : đáy to, càng lên trên càng hẹp dần. Để đi lên, chỉ ý chí không chưa đủ, còn cần phải hiểu và “vận dụng lý luận nữa”, cần phải quyết liệt trong cuộc đấu tranh với kẻ thù, phải cực kỳ khôn khéo khi xảy ra các cuộc tranh chấp trong nội bộ đảng, phải nắm được nghệ thuật, thậm chí tài năng trong việc củng cố vị trí cho giai cấp nữa“.
Vì thế, “cùng với việc củng cố giai cấp mới, khi bộ mặt của nó càng thể hiện rõ, thì vai trò của đảng cũng ngày càng giảm đi. Hạt nhân và cơ sở của giai cấp mới đã hình thành ở bên trong cũng như trên đỉnh quyền lực của đảng cũng như của bộ máy nhà nước. Cái đảng từng có lúc là một tổ chức sinh động đầy sáng kiến, thì nay, đối với những người cầm đầu của giai cấp mới, đảng đã biến thành một vật trang trí, càng ngày chỉ càng kéo vào hàng ngũ của mình những kẻ hãnh tiến, những kẻ muốn nhập vào hàng ngũ của giai cấp mới và đẩy những người vẫn còn tin vào lý tưởng ra“.***
“Hiện tượng Trần Độ” liệu có phải là minh chứng sống động về“những người vẫn còn tin vào lý tưởng” bị đẩy ra một cách quyết liệt, quá sức phũ phàng, cạn tàu ráo máng? Mà phải đẩy ra bằng được, vì lý tưởng cao đẹp của con người ấy đang là vật cản cho quá trình “củng cố giai cấp mới ở bên trong cũng như trên đỉnh quyền lực của đảng, cũng như của bộ máy nhà nước“.
Chẳng có gì khó hiểu và ví ( bí?) ẩn trong chuyện phũ phàng, cạn tàu ráo máng với Trần Độ. Đây là diễn biến logic về sự tha hóa của quyền lực. Nó đồng thời cảnh báo một nguyên lý sẽ được đẩy tới ngày càng hung dữ và bất chấp đạo lý cũng như luật pháp : quyền lực tuyệt đối thì tha hóa cũng tuyệt đối! Chuyện chà đạp lên đời sống tâm linh trong đạo lý nghĩa tình dân tộc chẳng là gì so với chuyện củng cố bộ máy quyền lực khi “cần phải quyết liệt trong cuộc đấu tranh với kẻ thù, phải cực kỳ khôn khéo khi xảy ra các cuộc tranh chấp trong nội bộ đảng, phải nắm được nghệ thuật, thậm chí tài năng trong việc củng cố vị trí cho giai cấp mới đang nắm quyền”!***
Thế thì làm sao chấp nhận được một ủy viên trung ương đảng, một phó chủ tịch Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, lại đòi hỏi :” Đảng Cộng sản phải tự mình từ bỏ chế độ độc đảng, toàn trị, khôi phục vai trò, vị trí vốn có của Quốc hội, Chính phủ. Phải thực hiện đúng Hiến pháp, tức là sửa chữa các đạo luật chưa đúng tinh thần Hiến pháp. Đó là phải có những đạo luật ban bố quyền tự do lập hội, lập đảng, tự do ngôn luận, luật báo chí, xuất bản. Sửa chữa các luật bầu cử ứng cử tự do, từ bỏ quyền quyết định của cơ quan tổ chức Đảng…”.
Càng không thể nào dung nạp được một cách tư duy quyết liệt khi vạch ra rằng :” Không nên lạm dụng chữ cách mạng. Ta bây giờ không phải là cách mạng chống ai cả, không phải đánh đổ ai cả. Xây dựng hoà bình thì phải đoàn kết, có gì trở ngại thì hoá giải nó để tiến lên…không thể lúc nào cũng phải có chương trình hoạt động cách mạng, lúc nào cũng phải hành động cách mạng…
Chính quyền bây giờ không phải là chính quyền cách mạng. Điều đó chỉ có ý nghĩa khi cách mạng vừa mới thành côngNgày nay chính quyền phải là chính quyền xây dựng. Chính quyền xây dựng thì phải có những chủ trương, chính sách làm cho mọi người dân đều được tự do làm ăn. Và từ đó người dân phải có tự do nói, tự do tìm thông tin và trao đổi thông tin. Như thế tự do làm ăn mới thực hiện được… Ở rất nhiều nơi, nhiều lúc, không cần đến cách mạngNhưng ở tất cả các nơi đều cần có tự do, và lớn nhất là “tự do làm ăn” phải có tự do hưởng lợi ích của kết quả sự làm ăn đó.
Nhân dân chỉ muốn tiến hoá, chứ không muốn cách mạng bạo lực! Đất nước ta đã trải qua một thời kỳ lịch sử kéo dài gồm những cuộc chiến đấu chống xâm lược giành độc lập, hoà bình xây dựng, rồi lại bị xâm lược. Và lại chiến tranh chống xâm lược. Qua quá trình đó mà đất nước ta trưởng thành và phát triển. Cho đến nay, đất nước đã được hoà bình độc lập, thống nhất.
Không biết tương lai loài người sẽ phát triển, tiến bộ thế nào và do đó đất nước ta sẽ gặp những tình huống thế nào ? Nhưng chắc chắn là những bước đi sắp tới của ta cũng không có thể lặp lại y nguyên những tình hình trước đây
“Động trời” hơn nữa khi Trần Độ tuyên bố không úp mở : “ Chiến tranh lớn và các hoạt động bạo lực, lật đổ càng ngày càng trở nên lạc hậu lỗi thời…Để có tự do và hạnh phúc, không nhất thiết phải có bạo lực, không nhất thiết phải đánh đổ ai. Thậm chí ngày nay có những nền độc lập giành được cũng không cần có bạo lực và chiến tranh“!
Và rồi, người đứng đầu cơ quan lãnh đạo văn hóa văn nghệ mà lại công khai nói thẳng cái sự thật nghiệt ngã mà hơn nửa thế kỷ qua người ta cố né tránh, bưng bít : “Văn hóa mà không có tự do là văn hóa chết. Văn hóa mà chỉ còn có văn hóa tuyên truyền cũng là văn hóa chết. Càng tăng cường lãnh đạo bao nhiêu, càng bóp chết văn hóa bấy nhiêu, càng hiếm có những giá trị văn hóa và những nhà văn hóa cao đẹp”.
Cách chức, khai trừ đảng là chuyện quá dễ hiểu, không thế mới lạ! Thì chẳng phải đã có một ví dụ quá rõ nét khi Đảng và nhà nước Nam Tư đã bỏ tù tác giả của “Giai cấp mới“, người đã từng được bầu làm Phỏ Tổng thống Liên bang Nam Tư, “cây lý luận hàng đầu” của Đảng Cộng sản Nam Tư đó sao?
Milovan Dijlas từng tuyên bố : “Tôi, một trí thức đã đi trọn con đường mà một đảng viên cộng sản có thể đi. Từ những chức vụ thấp nhất, từ các tổ chức cơ sở cho đến quốc gia và quốc tế, từ việc thành lập một đảng cộng sản chân chính, chuẩn bị cách mạng, đến việc tham gia xây dựng cái gọi là chế độ xã hội chủ nghĩa. Không ai buộc tôi phải tham gia hay từ bỏ chủ nghĩa cộng sản cả. Tôi đã tự quyết, theo niềm tin của mình, một cách tự do…Càng rời xa chủ nghĩa cộng sản, tôi càng tiến gần đến lý tưởng của chủ nghĩa xã hội dân chủ”…
Tư tưởng bình đẳng và bác ái tồn tại cũng lâu như chính loài người, được chủ nghĩa cộng sản ủng hộ trên lời nói, vốn mang trong mình nó sức hấp dẫn vĩnh hằng đối với những chiến sĩ tranh đấu cho tự do và tiến bộ. Sức hấp dẫn mang tính nhân bản của những lý tưởng đó đã làm cho việc phê phán chúng trở thành không chỉ phản động mà còn trống rỗng và vô nghĩa nữa”.
Chính vì thế, người trí thức “đã đi trọn con đường mà một đảng viên cộng sản có thể đi” ấy đã “tập trung mô tả đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản hiến đại…Tất cả chỉ là sản phẩm của thế giới mà tôi đang sống và đang phê phán. Tôi đã thấy và đã trình bày tất cả mà không ngượng ngùng khi thú nhận rằng mình đã là sản phẩm của nó, có lúc đã là người tham gia xây dựng nó và bây giờ là người phê phán nó“. ***
Phải chăng đây là sự” phê phán nó” khi “” đã tự tha hóa, tự biến mình thành công cụ trong tay “giai cấp mới” với lợi ích của chính nó, củng cố chế độ toàn trị phản dân chủ, quay lưng lại với nhân dân? Trong những bức thư Trần Độ gửi lãnh đạo của, đặc biệt là bức thư viết vào cuối năm 1974 dưới bút danh Chín Vinh, đã có bóng dáng của sự phê phán nói trên :” nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội và trong tất cả các tổ chức Đảng, trong bộ máy chính quyền…Điều đó ai cũng thấy. Thế nhưng vấn đề là tại sao nó lại chuyển biến chậm chạp. Sự biến chuyển chậm chạp này đã tạo ra một tình trạng giảm sút lòng tin trong cán bộ, đảng viên, trong nhân dân và đáng ngại nhất là trong thanh niên…Những hiện tượng tiêu cực của xã hội ( và trong Đảng, trong chính quyên) làm vẩn đục sự trong sáng và đẹp đẽ của những lý tưởng, đầu độc những lòng say mê hăng hái có tính chất lãng mạn cách mạng, “sống tiêu cực”, tạo nên “một thế lực xã hội” bao vây và xua đuổi những tâm hồn trung thực”…mọi người trung thực đều nóng lòng mong đó một cái gì đổi mới, chuyển biến gì mạnh mẽ…”.****
Phải chuyển nhanh, phải đổi mới nhanh để khỏi phải chứng kiến những điều đau lòng mà ông nghe được từ người bạn cũ cùng xóm lần ông từ chiến trường về quê sau mười năm xa cách :”cuộc sống ở nhà thật khốn khổ, khốn khổ nhưng không ai dám kêu. Đói đấy phải bảo là no. Có ai hỏi đều nói ” cám ơn bác cũng đủ ăn. Nếu kêu đói tức là thành phần xấu. Ông hỏi người bạn cũ : Được mấy cháu rồi?- Nhờ ơn cách mạng được ba đứa- Sao lại nhờ ơn cách mạng?- Ở chiến trường không biết chứ ở nhà cái gì chả nhờ ơn cách mạng. Nuôi được con lợn to, cưới được vợ cho con, nhất nhất là ơn của cách mạng cả“!
Là người lăn lộn ở chiến trường cùng với chiến sĩ, lặng lẽ ghi những hiện thực thất đáng buồn ở hậu phương, câu chữ ngọn bút ghi lại chạy trên trang giây mỏng hoàn toàn là sự thật, tướng Trần Độ day dứt : “Nếu sự thật này ở tiền tuyến người lính biết được hoàn cảnh sống của cha mẹ vợ con thì cấp trên biết nói thế nào với họ“? **** Trung thực với chính mình, trung thực với cuộc sống, trung thực với lịch sử, chính cái đó tạo ra “hiện tượng Trần Độ”, ở đây “sức hấp dẫn vĩnh hằng đối với những chiến sĩ tranh đấu cho tự do và tiến bộ. Sức hấp dẫn mang tính nhân bản của những lý tưởng đó” bị chính sự dối trá lọc lừa của “quyền lực bị tha hóa” làm cho băng hoại. Bằng sự trải nghiệm của cả cuộc đời dấn thân trọn vẹn cho lý‎ tưởng nhân văn cao đẹp, Trần Độ tỉnh táo nhận ra sự băng hoại khủng khiếp đó.
Trong Nhật ký viết vào những năm cuối đời mà ông gọi “đây là một tấc lòng “để tặng người đời và cuộc đời”. Đây là những ý nghĩ nung nấu trong những tháng cuối năm Rồng và đầu năm Rắn, và cũng là những ý nghĩ nung nấu trước đó hàng chục năm và sẽ còn nung nấu tiếp đến cả khi sang thế giới bên kia. Đây là nỗi niềm cay đắng của một cuộc cách mạng, và của một kiếp người“.
Vấn đề Trần Độ đặt ra đâu chỉ là ý nghĩ của riêng ông. Một xã hội mà công dân không được quyền sống thật, nói thật, nhà văn cũng không được quyền bộc bạch tâm sự riêng tư của mình trên trang giấy là một xã hội không có chân móng. Câu này Nguyễn Khải viết trong “Đi tìm cái tôi đã mât“. Thật đau đớn khi “một dân tộc đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ mà mặt người dân nám đen, mắt nhìn ngơ ngác, đi đứng long rom như một kẻ bại trận. Quả thật dân tộc Việt Nam đã thắng lớn trong phong trào chiến tranh giải phóng nhưng lại thua đậm trong công cuộc xây dựng một xã hội tự do và dân chủ. Thoát ách nô lệ của thực dân lại tự nguyện tròng vào cổ cái ách của một học thuyết đã mất hết sức sống. Dân mình sao lại phải chịu một số phận nghiệt ngã đến vậy! Vẫn là Nguyễn Khải dăn vặt trong “Đi tìm cái tôi đã mất“.
Mà đâu chỉ nhà văn Nguyễn Khải có nỗi dắn văt đó, nhà thơ Chế Lan Viên trong bài “Trừ Đi” cũng từng nói lên nỗi đau dằng xé tâm can :
Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ
Có  phải tôi viết đâu! Một nửa
Cái cần đưa vào thơ, tôi đã giết rồi
Giết một tiếng đau – giết một tiếng cười
Giết một kỷ niệm – giết một ước mơ – tôi giết
Cái cánh sắp bay – trước khi tôi viết
Tôi giết bão ngoài khơi cho được yên ổn trên bờ
Và giết luôn mặt trời lên trên biển – Giết mưa
Và giết cả cỏ trong mưa luôn thể
Cho nên câu thơ tôi gầy còm như thế
Tôi viết bằng xương thôi, không có thịt của mình
Và thơ này rơi đến tay anh
Anh bảo đấy là tôi.
                             Không phải!
Nhưng cũng chính là tôi – Người có lỗi
Đã phải giết đi bao nhiêu cái
Có khi không có tội như mình 
                                             
Chính vì thế, Trần Độ thẳng thắn chỉ rõ :
 ”Tự do là chìa khoá của phát triển.
Tôi nghĩ thế này: nước Việt Nam ta hiện nay, sau bao nhiêu năm đấu tranh và chiến tranh gian khổ, cần phải hoà bình phát triển và cần phải phát triển nhanh, để bù lại những thời gian đã mất, và để theo kịp các nước chung quanh. Đó là mục đích và yêu cầu quan trọng nhất của đất nước. Những cái khác là phụ. Do đó, để phát triển đất nước thì rõ ràng ta phải tìm đường lối nào, học thuyết nào phục vụ được yêu cầu đó. Nếu thật sự coi phát triển đất nước là quan trọng nhất thì Đại đoàn kết dân tộc là quan trọng hơn đấu tranh giai cấp; trí thức quan trọng hơn công nhân và nông dân; phát triển sức sản xuất là quan trọng hơn mọi thứ; để dân làm chủ mọi lĩnh vực quan trọng hơn các trò chuyên chính đàn áp; nghe và thu thập được nhiều ý kiến khác nhau và trái ngược nhau kể cả về đường lối chính sách, quan trọng hơn là bắt mọi người phải tuân theo một quan điểm, một ý kiến“.
Cho nên, đúng là không có gì khó hiểu khi người ta phải khai trừ Trần Độ ra khỏi đảng, rốt raó đến độ khi ông mất lại cạn tào ráo máng cấm không được “thương tiếc ông“. Đây là kế tục thực hiện một nguyên lý‎ cai trị. Thì chẳng thế sao ? Từ những năm 1955, ngay sau giải phóng Thủ đô, thay vì “Khi đoàn quân tiến về là đêm tan dần” như Văn Cao mơ ước, người ta đã “…đem bục công an đặt giữa tim người/ Bắt tình cảm ngược xuôi/ theo luật đi đường nhà nước“. [Thơ Lê Đạt] Chẳng những thế, “phải tạo ra một tình hình chính trị luôn căng thẳng (một cuộc chiến tranh có thể xảy ra, một cuộc bạo loạn có thể xảy ra) để buộc các công dân phải sống trong những quy chế nghiêm ngặt của thời chiến, ở các chế độ toàn trị chỉ có hai cơ quan mà quyền uy bao trùm cả xã hội. Đó là cơ quan tư tưởng, tuyên truyền và cơ quan công an. Một để chặn, một để chống. 
Còn khi đã có chuyện bất thường xảy ra thì chỉ có một biện pháp: đàn áp, bắt giữ, lập toà án xét xử những kẻ cầm đầu. Cách giải quyết vừa nhanh gọn lại mau ổn định, không dây dưa, phiền toái vì có quá nhiều luật lệ, qua nhiều lý lẽ như ở các nước tư bản. Những rối loạn vặt vãnh thật ra là nước là không khí của các nhà cầm quyền độc tài. 
Họ đâu có sợ loạn. Họ còn bày ra những cuộc chiến cung đình như ở Liên Xô và các nước Đông Âu, hay một cuộc chiến giữa nhân dân với nhau như đã làm ở Trung Quốc. Không có mùi vị của thuốc súng, của máu người và những tiếng la hét cuồng nộ của đám đông thì người cầm quyền biết thở bằng gì“…Những câu này là của tác giả “Đi tìm cái tôi đã mất”.
Chính vì thế mà phải “ Nói dối lem lém, nói dối lì lợm, nói không biết xấu hổ, không biết run sợ vì người nghe không có thói quen hỏi lại, không có thói quen lưu giữ các lời giải thích và lời hứa để kiểm tra. Hoặc giả hỏi lại và kiểm tra là không được phép, là tối kỵ, dễ gặp tai hoạ nên không hỏi gì cũng là một phép giữ mình. Người nói nói trong cái trống không, người nghe tuy có mặt đấy nhưng cũng chỉ nghe có những tiếng vang của cái trống không. Nói để giao tiếp đã trở thành nói để không giao tiếp gì hết, nói để mà nói, chả lẽ làm người lại không nói .
 Thật ra nói thế mà vẫn hiểu nhau cả. Người cầm quyền thì biết là nhân dân đang rất bất bình về nhiều chuyện, nhân dân thì biết người cầm quyền đang nói dối, nhìn vào thực tiễn là biết ngay họ đang nói dối. Nhưng hãy mặc họ với những lời lẽ dối trá của họ, còn mình là dân chả nên hỏi lại nói thế là thật hay không thật
Mọi cái khác với chính thống đều bị lên án, mọi cái giống nhau đều được tuyên dương. Vì những cái khác nhau rất khó tạo ra sự nhất trí, còn những cái giống nhau sẽ dễ nghe theo, làm theo mọi mệnh lệnh.
Nhà văn Nguyễn Khải đau đớn đặt ra một câu hỏi : “một môi trường xã hội ngột ngạt vì cái bóng quyền lực phủ lên tất cả, quyết định tất cả thì số phận những cá nhân sẽ ra sao? Vị tướng Trần Độ trả lời câu hỏi đó trong những trang Nhật ký viết ở chặng sắp kết thúc một cuộc đời dấn thân trọn vẹn cho lý tưởng cao cả từ thuở đầu xanh cho đến lúc tóc bạc để đúc kết vào chỉ mỗi một câu thôi :
 Đây là nỗi niềm cay đắng của một cuộc cách mạng, và của một kiếp người“.
Tôi mượn câu này làm một nén hương lòng thắp trước di ảnh của ông nhân ngày Giỗ của người mà tôi kính mến. Tôi là kẻ hậu sinh, quen biết ông quá muộn, được ông xem là bạn vong niên đã là một niềm cảm kích lớn, xin chỉ gợi lại một kỷ niệm nhỏ với ông. Hôm ông đến chơi, ông trách tôi : “anh tệ thật, không thèm gửi sách cho tôi”, vừa nói ông vừa đến bên giá sách và chỉ vào cuốn “Khảo sát xã hội học về phân tầng xã hội” đã in cách đó 5 năm. Tôi choáng người, vội xin lỗi và thanh mình : “Chết tôi rồi, tôi đã gửi biếu anh ngay sau khi nhận được từ nhà xuất bản về. Tôi còn nhớ rõ, cuốn đánh số 4“. “Sao? Đánh số? lại số 4″, ông ngạc nhiên hỏi.
“Vâng, chính vì thế mà tôi nhớ rõ mà. Duyên do là cuốn sách ấy chỉ là toàn bộ bản báo cáo về cuộc khảo sát xã hội học ở Thái Bình mà Anh đã hỏi chuyện tôi khi gặp anh tại nhà khách tỉnh ủy sau đó một năm nay hoàn chỉnh lại về văn phong, câu chữ để đưa in. Tuy đã được Hội đồng nghiệm thu cấp Nhà nước chấp thuận, nhưng khi đưa in thì Nhà xuất bản đòi bỏ một số đoạn. Tôi từ chối. Giằng co mãi, cuối cùng anh Nguyễn Duy Quý xử lý một cách rất cao tay : in và lưu hành nội bộ. Tôi đồng ý ngay. Chỉ cần in, còn lưu hành nội bộ thì càng tốt, đó là một cách quảng cáo cho sách. NXB chơi chua : chỉ in 100 cuốn và đánh số từ 1 đến 100, gửi cho ai thì phải ghi tên người đó và số của cuốn sách (!). Cuốn này, tôi gửi cho anh HTK, sau khi anh ấy mất, tình cờ đến chơi nhà, thấy cuốn sách nằm lăn lóc trong đống sách cũ, tôi xin lại đem về đặt vào đây, cuốn sách mà anh đang cầm trong tay đó, vì còn cuốn cuối cùng trên giá sách này thì một người bạn thân cầm về rồi “quên” chưa trả”.
Ông trầm ngâm đưa trả cuốn sách không nói gì. Một lần khác, cùng ông lên chơi nhà Thu Bồn ở “Suối Lồ Ồ”, đến nơi thì đã tối tròi, khi bước xuống xe thấy ánh đèn flash lóe sáng. Ông cầm tay tôi nói to với các bạn cùng xuống xe : “đứng lại để người ta chụp ảnh đã, chụp xong rồi hãy vào nhà“, mọi người cười ồ. Lúc ăn cơm, tôi nhắc với ông để in lỗi vì chưa đi photo cuốn sách để gửi đến ông nhưng nói thêm là sách lạc hậu rồi, anh đứng mất thì giờ đọc làm gì. Ông cười và yêu cầu gửi gấp, câu này ông nói hơi to. Thế là, sáng hôm sau, một người học trò cũ của tôi, nay là “nhà báo”, người ngồi cạnh tôi tối qua ở nhà Thu Bồn và bả lả vui vẻ : “em tình cờ thấy thầy và theo vào đây, vui quá, thầy cho phép em ngồi chứ“, bỗng bất ngờ đến chơi. Thầy trò gặp nhau vui vẻ, anh ấy xuống bếp mươn mấy cái đĩa, lôi từ trong túi giấy ra mấy thứ bánh lá “em biết thầy vẫn thích loại bánh này nên mang đến thấy dùng bữa sáng“. Vừa ăn bánh, vừa hàn huyên bao chuyện cũ, anh học trò hạ giọng, “thầy ơi, cuốn sách thầy đinh photo biếu bác Độ, thấy có thể cho em xem được không ạ”.Biết việc anh ấy phải làm và mục đích của bữa ăn sáng, tôi kéo anh ta đến giá sách, lôi cuốn sách ra đưa cho anh và nói : “Mình nhờ cậu đi photo giúp mình, quả thật mình cũng đang định làm chuyện này nhưng bận quá. Cậu photo cho mình 2 cuốn, một mình giữ lại, một đưa biếu ông Độ, còn lại cậu muốn photo ấy bản đủ cho công việc của cậu thì tùy“! Người ta “chăm sóc” ông Độ thật chu đáo.
Nhưng rồi bộ sách”Trần Độ. Tác Phẩm tập 1, 2,3″ do NXB Hội Nhà Văn in rất đẹp cũng đã ra mắt bạn đọc. Dành thì giờ đọc lướt qua mấy nghìn trang sách, nhưng những lời, những đoạn tôi trích ra trong bài viết này thì không có ở trong đó.Thôi thì chăc là ai đó đang sực nghĩ đến những bước đi của lịch sử và sự sòng phẳng của lịch sử. Ngạn ngữ phương tây có câu : “Không có vĩ nhân dưới con mắt của kẻ hầu phòng“. Người hầu phòng mẫn cán và thông thạo nghiệp vụ chỉ cần đánh giá khách hàng của anh ta thông qua đẳng cấp căn phòng mà khách thuê và số tiến bo anh ta sẽ nhận được từ hầu bao của vị khách.
Sực nhớ đến “Lời” trong “Bơ vơ Đông đảo” của Việt Phương :
Những người lính trẻ ngã xuống ở Lạng Sơn
                   không liên quan gì đến ngày hôm nay nữa
Chỉ còn lo toan những ghế nhỏ lên ghế to
                    xe cúp lên ô tô chung cư lên biệt thự
                              trong cuộc đòi bơ sữa mà thôi. 
Vậy thì người lính Trần Độ, tướng Trần Độ, nhà văn hóa Trần Độ liệu có “bơ vơ” giữa cuộc đời “đông đảo” này không nhỉ?
Tôi tìm thấy trong tâp thơ “Nắng” của Việt Phương với đề từ “đời đang đón đợi để đong đầy” vừa nhận được hôm qua hai câu :
Mong sao được là người mê muội
Lặn xuống sâu đắm đuối gặp chân trời
                                                                                                      Sài Gòn 8.8.2013
Source : Blog Nguyen Trong Tao 
_______________________
Roger Pearson, (2005), Voltaire Almighty, London: Bloombury Publishing. Tr. 66 – 67.
** Maxim Gorky Những ý tưởng không hợp thời đăng trên nhật báoNovaja Žizn (Đời Mới) trong những năm 1917-1918.  NXB Surkamp               taschenbuch của Đức ấn hành năm 1974.
     ***Những đoạn có *** đều trích trong “Giai Cấp Mới” của Milovan Dijlas
     **** Những đoạn có **** đều trích trong “Chuyện Tướng Độ” của Võ Bá Cường. NXB Quân Đội Nhân dân