24/8/13

Viên Linh - NGUYỄN XUÂN HOÀNG, từ THƠ đến “VĂN”

 
 
24.08.2013


NxHoang-and-Van-Magazine
 
Lời Nói ÐầuDa màu ) : 
Bài viết dưới đây: “Nguyễn Xuân Hoàng, từ Thơ đến “Văn” – chữ “Văn” trong ngoặc kép, vừa là văn chương, vừa là tên Tạp chí Văn mà Nguyễn Xuân Hoàng làm Thư ký Tòa soạn khi ở Việt Nam từ 1972 tới 1974, và làm chủ nhiệm khi tờ báo tục bản ở Hoa Kỳ. Bài này mở đầu chủ đề đặc biệt của Tạp chí Khởi Hành số đôi 187-188, tháng 5 và 6, năm 2012. Tạp chí Khởi Hành do nhà thơ Viên Linh làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, xuất bản từ 1996 tại California, ra hàng tháng, hiện đã ra tới số 201, chủ đề Quang Dũng, tháng 7.2013. Hiện diện tại Hải ngoại 17 năm qua, Khởi Hành hiện nay là tờ tạp chí văn học ra hàng tháng duy nhất xuất bản từ Thế kỷ XX còn tồn tại và tới tháng 11.2013, sẽ bước qua năm thứ 18. Với chủ trương bảo tồn Văn hóa Văn học Truyền thống, đặc biệt là Văn học Miền Nam 1954-1975, Khởi Hành đã qui tự hầu hết những cây bút nổi tiếng của Miền Nam từ đó đến nay. Thư ký Tòa soạn của tờ báo là cây bút nữ Nguyễn Tà Cúc. Bài về Nguyễn Xuân Hoàng mở đầu cho loạt bài “Chân Dung Văn Học Việt Nam: mỗi nhà văn một tạp chí” của Khởi Hành dự trù sẽ gồm 9 bài, nhưng do suy nghĩ thêm, và do độc giả đề nghị, sẽ phải thêm hai ba bài nữa. Loạt bài này chủ yếu viết về những nhà văn mà sự nghiệp gắn liền với một tờ báo, như đã loan tin từ lúc đầu:

1. NGUYỄN XUÂN HOÀNG (tạp chí Văn, từ 1972-hải ngoại),
2. NGUIỄN NGU Í (tạp chí Bách Khoa),
3. NGUYÊN SA (tạp chí Hiện Ðại)
4. TUỆ SỸ (tạp chí Tư Tưởng-Vạn Hạnh)
5. NGUYỄN MẠNH CÔN (tạp chí Chỉ Ðạo)
6. MAI THẢO (tạp chí Sáng Tạo)
7. NGUYỄN KHẮC HOẠCH (tạp chí Thế Kỷ 20)
8. MẶC ÐỖ (tạp chí Phổ Thông Hà Nội, Quan Ðiểm)
9. VIÊN LINH (tạp chí Thời Tập-Khởi Hành) [...]
(Sau này do suy nghĩ thêm, và do độc giả đề nghị, danh sách đã ghi thêm:)
10. NGUYỄN VỸ (tạp chí Phổ Thông)
11. TRẦN PHONG GIAO (tạp chí Văn, nguyên thủy 1964-1972, số 1-210)
12. THẾ NGUYÊN (tạp chí Trình bày –bày không viết hoa-, Ðất Nước).
13. TAM ÍCH (tạp chí Nhân Loại, nhà văn Miền Nam)
Nhận định của nhà thơ Viên Linh là khác với những nước có tình thế ổn định lâu dài, nền văn học của họ trụ vào sách vở đã xuất bản; Việt Nam luôn luôn xáo trộn, phân ly, văn học trụ vào các tạp chí, nền văn học tạp chí đóng vai trò tiên phong và nòng cốt, sau mới đến xuất bản và sách vở. Ông nói rằng cứ nhìn vào các tạp chí ghi ở trên, người ta thấy được từng nhóm với các tên tuổi và khuynh hướng khác biệt. Ðiều này đã được ông viết ra nhiều lần, kể từ năm 1976, trong tập biên khảo được viết do học bổng The Ford Foundation tài trợ: “Những Khuynh Hướng Trong Văn Học Miền Nam, 1954-1975” (chưa xuất bản). Vì thế, viết về chân dung, hành trạng các nhà văn nói trên, cũng phải viết về những tạp chí do họ chủ trương, thực hiện. Tâm tư của họ ở trong các tạp chí họ làm, nhiều phần là đậm nét hơn trong các tác phẩm của họ, tác phẩm là viết lại, thêm bớt, vị nghệ thuật nhiều hơn là tạp chí, viết ngay, nói ý mình, bám sát sinh hoạt thời thế xung quanh. Bài dưới đây về Nguyễn Xuân Hoàng cho thấy vài nét về nhận định ấy.

1. Trong cuộc sống, đọc thơ văn sách báo của cổ nhân là điều tất phải có đối với kẻ từng có dịp ngồi trên ghế nhà trường; và chiêm nghiệm thanh sắc đương thời cũng là điều hẳn sẽ tới với kẻ biết nghe biết nhìn giữa cuộc hành trình. Chưa kể có kẻ đã kín đáo thổ lộ với bà tiên hiện ra trong giấc mộng ba điều ước của cuộc đời, mà không hề nghi ngờ rằng bà tiên đó đôi khi là một mụ phù thủy hóa trang, mụ sẽ nhân đó bày ra một lộ trình trắc trở cho kẻ mơ mòng. Không còn nhớ lúc niên thiếu kẻ viết bài này đã ước ao gì, nhưng cô bạn học lớp nhất trường làng – không phải là cô thôn nữ cùng quê, mà là dân Hà Nội tản cư về trú ngụ ở chùa Ðồng Văn – trong lúc nghe sáo diều vi vu vẳng lại từ con đê cuối thôn, đã vạch ngực áo tôi ra, đập nhẹ bàn tay trắng muốt lên ngực tôi, và chỉ bảo cho tôi làm ngược lại trên ngực nàng, nói rằng “về thể chất, mình cũng xứng đôi lắm;” tôi đã ngây thơ hỏi lại: “thể chất” là gì?
Khi nàng đứng trên mặt bàn lớp học, ở trên ngọn đồi đình làng, nhún nhảy xòe chiếc váy hoa ra, hát và múa theo bài “One Day” của Johanne Strauss [qua lời Việt của Phạm Duy], và dạy tôi hát theo; nàng nói: “Gia đình Xuân sẽ về Hà Nội. Sau này anh nhớ lên Hà Nội cho sớm. Em dạy mình hát, mình sẽ cùng nhau thành danh ca nức tiếng Hà thành;” tôi cho là không cần, nên nói rằng: “Chỉ cần Xuân hát cho anh nghe là được rồi.”
Nàng tiên ấy còn dạy tôi một điều thứ ba nữa, sau hai điều về thể chất và danh vọng, ấy là tiền tài. Nay nhớ lại, dường như lần nào nàng cũng lừ mắt lộ vẻ gì đó như chán nản, khiến sau này nghĩ đến, có lẽ vì thế mà đến ngày nàng theo gia đình “dinh tê” [rentrer] về thủ đô, vào khoảng năm 1949, nàng không thèm từ biệt tôi chăng? Nhưng không hẳn thế, vì nàng vẫn nhét vào túi quần soóc của tôi một chiếc khăn mùi soa thêu thùa trắng tinh, và một bánh xà phòng “Dove” mãi khi đi Mỹ tôi mới thấy lại, hẳn là có điều gì đầy hứa hẹn chứ? Chị tôi khi thấy hai kỷ vật “của cái con bé ranh Hà Nội tản cư,” đã cười rằng: “Ðó là quà của con ông Quan thuế bắt hàng lậu có khác, chứ ý tứ gì!” làm tôi tức lắm. Xuân đẹp và chân thành. Xuân không thể là người như chị tôi phán, hay như cái anh giáo sư Triết học nọ sau này phán: “Người ta nói sắc đẹp vốn là bạn đồng hành của dối trá và phản bội.” (1)
2. Năm 1959, trong một lúc sa xảy với nghề báo, tôi theo bạn lên dạy học tư ở Ban Mê Thuột. Rời Sài Gòn tạm một thời gian, sách vở đồ đạc nặng gửi lại nhà một đồng nghiệp, thình lình một hôm nhà giáo dạy cùng trường Bạch Ðằng đưa cho tôi xem tờ Tạp chí Hiện Ðại. Trên cùng một trang báo có bài thơ Phượng Liên của tôi đăng dưới bài Mang Mang của Hoang Vu. Tôi không gửi thơ cho Hiện Ðại, mà do người bạn nơi tôi để lại đồ đạc sách vở, đã lấy bài thơ tôi viết cho em Phượng Liên ở Huế, cũng là bạn chung, và là bạn thư từ với tôi, đưa cho Nguyên Sa. Như Võ Phiến nhớ đúng khi anh viết đã đọc thơ phiếm của Thần Ðăng (Ðinh Hùng) và thơ tôi trên nhật báo Ngôn Luận (giai đoạn 1954). (2) Tới năm 1960 tôi đã có vài chục bài thơ đăng trên các tạp chí Văn Nghệ, Sáng Tạo, Thế Kỷ 20, Gió Mới, nhưng Nguyên Sa viết như đây là những cây bút lần đầu xuất hiện, mặc dù anh có thòng một câu kiểu búa lớn: “Có phải nỗi buồn tập hợp trên mắt những người trẻ tuổi ấy phảng phất niềm đau của thế kỷ bây giờ?” (3) Tôi đã leo lên lầu cao ốc Mai Loan nơi đặt tòa soạn tạp chí Hiện Ðại để chất vấn, vì không ai chọn thơ của người đã có thơ in từ sáu năm trước, với một anh in thơ lần đầu, nhưng chỉ gặp Thái Thủy, trị sự tòa soạn, trong khi tôi chỉ muốn gặp Nguyên Sa, chủ nhiệm.
Hoang Vu chính là Nguyễn Xuân Hoàng. Và thơ Nguyễn Xuân Hoàng hay không thua gì văn Nguyễn Xuân Hoàng; (khác với trường hợp Mai Thảo: thơ Mai Thảo hay hơn và thật hơn văn Mai Thảo.) (4)
Tôi sao lục bài thơ ấy nguyên văn như sau, chỉ chú thích thêm tên của thi sĩ:
MANG MANG

 
từ xa phố chợ đến giờ
 
chân quen bỏ lệ gõ bờ lộ quen
 
hoang vu chín đến độ thèm
lạnh tàn nhẫn rót vào đêm lên đường
mùa sương phố núi mù sương
nhịp buồn hút gió hồn nương sao rừng
 
chuyện linh hồn với bản thân
 
bàn tay thượng đế mộ phần chiêm bao

đồi thông xanh tóc nghẹn ngào
 
ngập ngừng lạnh xuống từ bao lâu rồi
 
còn tôi, còn chỉ mình tôi
 
mây bay đầu núi kéo trời lên xa
 
bàn tay thoáng nổi da gà       
 thẳm sâu lòng đất nhà ga luân hồi

HOANG VU (tức Nguyễn Xuân Hoàng)


NXH-MangMang-tho
Bản chép tay “Mang Mang”
do độc giả Luna gửi tặng chuyên đề NXH

Bài thơ không viết hoa ở đầu câu, không dấu chấm xuống dòng, từ ngữ hay thi ngữ, đậm đặc nét thơ của giai đoạn ’60: “linh hồn, thượng đế, luân hồi, bản thân, mây kéo trời lên xa và mộ phần chiêm bao, lạnh tàn nhẫn…”. Tiếc thay cái tên Hoang Vu không xuất hiện nữa, vì nếu Nguyễn Xuân Hoàng còn làm thơ, bàu trời thi ca Việt Nam sẽ thêm một vì sao sáng.
Bài này cũng như bài Phượng Liên của tôi nằm cùng một trang báo, mà hai tác giả của hai bài thơ trước sau có chung những khó khăn tương tự, những rắc rối tan tác thì đúng hơn, đều rất bi thương. Nguyên Sa vơ vào hai tên trên cùng một trang báo, như sự tình cờ run rủi hai toa tàu xuôi ngược ráp tạm nơi một sân ga xép. Hoàng đậu tú tài xong, thi tuyển thành công vào Quốc Gia Hành Chánh, song bỏ. Ðang học Y khoa – vì bà mẹ muốn con trai thành bác sĩ — thì nhận lời thách đố của bạn học Hà Thúc Nhơn, — viên bác sĩ quân y ở Nha Trang sau này chống tham nhũng bằng súng đạn và chết vì súng đạn — chơi trò nghịch ngợm lỗ mãng của con trai thời mới lớn, nên một mặt thắng cuộc thách đố, (Hà Thúc Nhơn thua, sẽ phải trả tiền đãi bạn học ăn phở cả tháng), song Hoàng phải rời Y khoa vì trò dại dột. Cuối cùng anh đi học Sư Phạm, ra làm giáo sư Triết, một nghề anh từng xác định: “Giáo dục không phải ngành thích hợp của tôi. Từ tiểu học, qua trung học, lên đại học, các ông thày bà cô nhìn tôi như môt đối tượng để trút lên đó những bực dọc của cuộc đời khốn nạn của họ. Tôi là tấm bia để họ bắn vào đó những mũi tên mặc cảm.” (5)

Ðây là lời nói thật của Nguyễn Xuân Hoàng, kẻ đã cùng tôi “Ði thật xa với …” trên báo Văn.* Nhìn Hoàng tôi biết con người của bạn không phải con người của khuôn thước, vâng dạ, mòn sáo, lễ phép vì xã giao, vì một nghề nghiệp phải gương mẫu, có kẻ ra đường thấy ai cũng cúi đầu nhũn nhặn chào hỏi, mà miệng thì lầm bầm bài bác người ta. Tôi từng phải đi dạy học tư một thời gian, không phải giam thân vào nghề mô phạm như chàng thi sĩ Hoang Vu, nhưng tôi cũng không thích nghề dạy học, nghề nghiệp sau này của các bạn cùng lớp với tôi thời Trung học: các giáo sư Nguyễn Nhật Duật, Hà Mai Phương, và của hầu hết các bạn văn nghệ cùng thời: Huỳnh Phan Anh, Ðặng Phùng Quân, Nguyễn Ðông Ngạc, Nguyễn Văn Sâm, Cao Thoại Châu, Nguyễn Ðịnh, v.v… vì nhiều lý do.
Một trong những lý do “nhãn tiền” là thù lao quá ít ỏi. Không thể sống quá kham khổ, gò bó, hệ lụy: kham khổ về vật chất cũng như kham khổ về thời gian; gò bó hệ lụy về giao tế cũng như về phương cách sống. Người nghệ sĩ sáng tạo mà theo nghề dạy học thì khó thành công, dễ mang tiếng, vì cung cách nghệ sĩ là tự do diễn đạt, tự do phát biểu, … Tôi thật sự không nhìn thấy ở thi sĩ Hoang Vu, hay ở nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, một nhà giáo khuôn mẫu. Như tôi cũng thật sự không bao giờ nhìn thấy ở các bạn nhà giáo của tôi một phong cách duy nhiên tự do phóng khoáng cởi mở thành thật hồn hậu khôn ngoan thân hữu phục thiện giản dị tinh tế như ở Nguyễn Xuân Hoàng. Làm gì lại có một nhà giáo hiếm hoi như thế, mà chỉ có một nhà văn như thế đi làm nhà giáo mà thôi.
Thuở còn niên thiếu chắc hẳn Nguyễn Xuân Hoàng đã nói ra ba điều ước với một mụ phù thủy mà chàng ta ngỡ là nàng tiên, nên mụ liền thiết kế cho chàng một mê cung, một nẻo đường chông gai trắc trở, gài tác giả Người Ði Trên Mây vào đáy tầng địa đạo, Bụi và Rác, châm chọc Orphee đa tình và chất phác ngứa cổ quay lui, khiến cho Eurydice thân tâm hóa đá (+), tếch nẻo tây phương, hành hạ người cha thương con yêu dấu ngàn trùng xa cách, trừng phạt tấm lòng hồn hậu phải đeo mặt nạ vô tâm vô tình và bạc bẽo. Không, người đời cứ ngỡ Phan An Tống Ngọc khôi ngô kỳ vĩ thì hẳn đương nhiên hạnh phúc trong chốn tình trường, có biết đâu họ cũng tâm tư nhàu nát, mắt lệ nhiều khi, đêm đêm một mình một bóng chờ đợi người Bích Câu mái tóc bạch kim, hay xuân hạ thu đông cũng nhiều lần nương tai nghe tiếng mãn gào trên mái bỏng?
Bài thơ “Mang mang” của Hoang Vu mở đường văn chương cho họ Nguyễn năm 1960, thì bài “Phượng Liên” khiến trung niên thi sĩ Bùi Giáng lù lù hiện ra, ôm lấy tôi, ồn ào nói:
“Ông đừng làm thơ tự do nữa nhá, chỉ làm thơ lục bát thôi nhá! Lần đầu tiên thơ lục bát Việt Nam đem tên người yêu vào trong thơ một cách bề thế nghiêm trang số dách là ông đấy nhá. Huy Cận hắn đọc lục bát của ông là hắn sẽ đi tìm ông đấy.”** Từ đó mà tôi có thêm một người bạn thơ, và không chỉ có một hành lang vây sầu, mà hành lang nào cũng vây sầu cả. Sau này một cô gái Huế cười như nắc nẻ, cho tôi biết Phượng Liên là ai… Dù thế nào, nàng cũng đã ở Chín Suối rồi.
3. Tháng trước Khởi Hành dọn tòa soạn, kéo dài nhiều ngày, mỗi ngày ít nhất là một chuyến xe pick up sách vở chở đi, mang về địa điểm mới, chở vào kho, và vất vào thùng rác. Ông già chở sách báo mỗi chiều sau phận sự, lại chở đi một xe giấy báo sách vở đã xé bìa, đem bán. Chúng tôi nói rằng ngoài thù lao nhất định mỗi ngày, sách vở giấy báo cũ đem bán cân ông được quyền giữ lấy. Ông cho biết đã bán 6 xu một pound giấy, và mỗi ngày kiếm được thêm 20 đồng, có ngày tệ nhất được 15 đồng. Tôi đã cho đi hầu hếtû các tập san lưu giữ mấy chục năm nay: Văn Học, Văn, Hợp Lưu, vì cuối cùng, không định viết gì về báo chí văn học hải ngoại nữa, mà sẽ chỉ viết về Văn học Miền Nam 1954-1975 mà thôi. Tôi cũng đã cho đi khoảng gần trăm số báo Văn Học và tuần báo Văn nghệ của Hà Nội, mà hồi đặt mua từ nhà phát hành ở New York, phải trả 5mk một tờ báo có gáy vuông (Văn Học, Nghiên Cứu Lịch Sử, Khảo Cổ Học), và 3mk cho một tờ báo đóng gáy yên ngựa: (Tuần báo Văn nghệ của Hội Nhà Văn, …)
Trong thị trường xuất bản hải ngoại, các tạp chí văn chương hữu ích hơn các thi phẩm, truyện dài truyện ngắn, vì chính ở đó là công trình tập thể của từng nhóm, tâm tư trao đổi của tuổi trẻ lưu vong, và dấu tích làm báo tập thể của tờ báo; — chẳng hạn tờ Văn Học sẽ cho thấy đó là tờ báo của nhiều ông chủ nhiệm kiêm chủ bút nhất; năm trước có ông chủ nhiệm Võ Phiến thì năm sau có ông chủ nhiệm Nguyễn Mộng Giác; ông nào có tiền in báo thì lên làm chủ nhiệm một thời gian, hết tiền thì đi ra và lại có ông C ông D lên làm chủ nhiệm kế tục. Thành ra Văn Học là tờ báo có tới 5, 6 chủ nhiệm, ông nào có gan thì làm chủ nhiệm lâu hơn, ông nào có con là bác sĩ luật sư thì tờ báo dày hơn là ông độc thân, v.v…
Tờ Văn thì khác, ở trong nước đầu tiên thì Trần Phong Giao làm Thư ký Tòa Soạn, tới giai đoạn sau thì trước là Nguyễn Xuân Hoàng làm Thư ký Tòa Soạn, sau chót lại là Mai Thảo; ra hải ngoại thì đổi lại, Mai Thảo ra đi, để tờ báo lại cho Nguyễn Xuân Hoàng tiếp tục, cả hai kiên thủ thành trì được tổng cộng trên 250 số, công lao khá lớn. Nguyễn Xuân Hoàng làm tờ Văn từ tháng 12.1996, vất vả hơn Mai Thảo hồi ‘80, vì người trước được đàn em hỗ trợ, lấy cho rất nhiều quảng cáo, nếu chỉ tính 100 mk một trang, tờ Văn của tác giả “Cùng đi một đường” lấy quảng cáo một số có thể in ba số báo cho ba tháng, còn tờ Văn của tác giả “Người đi trên mây” ít quảng cáo hơn nhiều, nên khó khăn gấp bội.
Cuối năm 1996 Mai Thảo không có ý định trao lại báo Văn cho Nguyễn Xuân Hoàng, mà đã ngỏ ý giao cho người khác, song người này vốn luôn luôn thất bại khi làm báo, nên ý định của Mai Thảo thay đổi vào phút chót. Mai Thảo nói với tôi như thế khi anh còn ở trong chung cư độc thân Christian Home trên đường Bolsa, khoảng tháng 9 năm 1996.
Ðời làm báo của Nguyễn Xuân Hoàng không chỉ qua tờ Văn, mà còn trên 10 năm làm báo cho công ty Người Việt, và khoảng 5 năm làm tờ Việt Mercury ở San Jose. Và hiện nay còn đang làm tờ Việt Tribune cho bà Trương Gia Vy, cũng ở thành phố Bắc Cali đó. Trong khi đó hàng tuần anh còn viết bài cho cái blog do anh phụ trách trên diễn đàn của đài Tiếng nói Hoa Kỳ. Chủ nhiệm báo Văn là ông Nguyễn Ðình Vượng rất ưu ái nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, song một hôm vì tôi tới báo Văn gạ chuyện mà ông gọi anh và tôi là hai gã playboys. Lúc ấy có mặt Mai Thảo, chắc Hoàng còn nhớ.
Vốn là cuối tháng 4 đầu tháng 5.1969, nơi trang 80 trong số Văn chủ đề tưởng niệm Y Uyên mới gục ngã trên trận địa gần đồi Nora Phan Thiết, Thư ký Tòa soạn Trần Phong Giao đã sơ ý phát biểu một lời xúc phạm tới phụ nữ Huế.
Trần Phong Giao đã – lạ thay, – quá tự tin ở sự phán đoán của mình khi khuyên một nhà văn trẻ đừng lấy gái Huế “…ái tình […] thì được, còn cái mục xây dựng thì đừng, ấy là dựa theo kinh nghiệm bản thân cũng là đúc kết kinh nghiệm của một vài anh em có vợ Huế khác […]…”(6) Hai nhà văn nữ gốc Huế là Túy Hồng, Nhã Ca đã gửi lá thư cho trang Văn học Nghệ thuật Nhật báo Tiền Tuyến, do Thanh Tâm Tuyền phụ trách, một lá thư ngỏ kể tội Trần Phong Giao khinh nhờn xứ Huế, “cào xước quê hương xứ Huế” và tuyên bố chấm dứt cộng tác với báo Văn.
Thời gian ấy tôi nhận lời mời của Ðại tá Anh Việt Trần Văn Trọng, chủ tịch Hội Văn Nghệ Sĩ Quân Ðội, làm Thư ký Tòa soạn Tuần báo Khởi Hành mới được 3 tuần, nhưng từ 1966 tới lúc ấy vẫn đang là Thư ký Tòa Soạn Nhật báo Tiền Tuyến của Tổng cục Chiến Tranh Chính trị. Khi kiểm soát bài vở tôi khựng lại ở trang Văn nghệ, rồi đề nghị với Thanh Tâm Tuyền: Ðể cho có hiệu quả, thư của các nữ sĩ này phải đăng lên Khởi Hành, là báo Văn học Nghệ thuật. Tôi trả nhuận bút lá thư 500 đồng, nhờ anh gửi cho hai bà ấy.
Từ Cục Tâm Lý Chiến trên đường Hồng Thập Tự, tôi chạy ra Khởi Hành trên đường Phạm Ngũ Lão, đục bỏ một bài đã đổ khuôn chì, cho xắp chữ thay thế bằng lá thư của hai nữ sĩ. Thư đề “Kính gửi Anh Trần Phong Giao, TKTS báo Văn” nhưng tôi đã đặt lại tựa, in chữ lớn ngoài bìa báo: “Túy Hồng, Nhã Ca lên tiếng về một nhận định của báo Văn đối với gái Huế.”
Hôm sau báo phát hành, đó là Khởi Hành số 3, ra ngày 15.5.1969, và bài in nơi trang 2, chạy qua trang 3. Vào Tiền Tuyến Thanh Tâm Tuyền đưa trả tôi 500 và đòi lại lá thư, tôi đưa anh tờ Khởi Hành còn thơm mùi mực in, nói anh quên hôm nay là Thứ 5 rồi à? Báo đã phát hành sáng nay rồi. Thanh Tâm Tuyền có vẻ hối tiếc: “Tôi quên là tôi cũng viết báo Văn, ông Vượng (chủ nhiệm báo Văn) rất quí tôi, lẽ ra tôi không nên đưa cho bạn lá thư đó. Nhưng mà làm báo như bạn… mới là làm báo!”
Bài báo trên Khởi Hành gây chấn động dư luận cả nước, làn sóng phản đối báo Văn lan rộng, mấy ông bà dân biểu (trong có Kiều Mộng Thu địa hạt Huế) họp báo tại Quốc Hội kết tội và đòi báo Văn phải xin lỗi phụ nữ Huế.
Ít lâu sau từ Khởi Hành tôi qua báo Văn, cả hai tờ báo cùng tọa lạc trên đường Phạm Ngũ Lão, để xem phản ứng của anh em báo Văn ra sao. Không thấy Trần Phong Giao, chỉ thấy ông chủ nhiệm Nguyễn Ðình Vượng, Mai Thảo và bạn Nguyễn Xuân Hoàng.
Thấy tôi, ông Vượng cà khịa ngay: “Thư người ta gửi cho Trần Phong Giao, phản đối hắn chứ có gửi cho báo Văn đâu mà anh viết là gửi cho báo Văn?” “Ðành là thế, nhưng mà tội là của Trần Phong Giao, còn trách nhiệm là của báo Văn chứ?” “Mẹ, anh đánh anh em, anh đánh tôi. Chờ đó.” Ông lầm bầm nói với Mai Thảo ngồi viết ở cái bàn bên cạnh, nhưng cũng có ý để tôi nghe thấy: “Tôi mà đi giày săng-đá, tôi đá nó rồi.” Tôi nghe, trả lời: “Thì tôi vẫn ở đây mà.”
Mai Thảo tuy vẫn cắm cúi viết, nhưng khuôn mặt tươi rói, rồi cười rung cả hai vai. Tôi biết ý nghĩa phản ứng ấy của Mai Thảo. Năm 1965 Mai Thảo là chủ nhiệm Tuần báo Nghệ Thuật, tôi là tthư ký tòa soạn, làm việc nhiều năm bên nhau. Chúng tôi vốn biết ông Nguyễn Ðình Vượng xưa kia đi lính, đeo lon Thượng sĩ trong Quân đội Liên hiệp Pháp, đương nhiên ông quen đi giày đinh. Nguyễn Xuân Hoàng và tôi nhìn nhau cười vui vẻ, coi như chuyện phải thế thôi. Ông Nguyễn Ðình Vượng nói với Mai Thảo, mà như nói với cả Hoàng và tôi: “Mẹ, coi hai tên Thư ký Tòa Soạn hai tờ báo văn nghệ kìa! Trông như playboys với nhau. Thế thì văn nghệ khá làm sao được. Hừ…” Tôi nghe đúng như thế, dù mãi 1972 Hoàng mới chính thức làm Thư ký Tòa soạn báo Văn.
Chuyện văn nghệ xảy ra như thế là thường, sau này quan hệ giữa chúng tôi vẫn tốt đẹp. Trước đó ba năm ông Vượng đã xuất bản Thị Trấn Miền Ðông cho tôi, các năm sau còn xuất bản ba cuốn nữa cho tôi: Mã Lộ (1970), Một Mùa Mê Hoặc, Tình Nước Mặn 1973). Trần Phong Giao còn kể với tôi nhà văn nào đã tới bảo ông Vượng sau khi số Văn “đặc biệt về Thơ” lại phỏng vấn tôi dài đến 17 trang, sao (vẫn nhà văn này, vừa ra mắt sách ở Quận Cam) nhà xuất bản Nguyễn Ðình Vượng lại xuất bản Một Mùa Mê Hoặc cho tôi làm gì!
Sau đó ít lâu có xáo trộn trong báo Văn, Trần Phong Giao bị nghỉ việc, Nguyễn Xuân Hoàng thay thế. Rồi chẳng bao lâu Mai Thảo thay thế Nguyễn Xuân Hoàng. Báo Văn xuống dốc, có thể vì độc giả vẫn hâm mộ Trần Phong Giao, không chấp nhận việc anh bị sa thải một cách quá công khai, tàn nhẫn, sau hơn mười năm gây dựng tờ tạp chí từ chỗ bắt đầu, số không, tới khi nó trở thành tờ báo văn chương bán chạy nhất, thì người “có công hãn mã”phải bước ra đường.
Năm 1973 tôi mời Trần Phong Giao làm Tổng thư ký Tòa soạn cho tờ tạp chí Thời Tập của tôi, ngay lúc ra mắt đã rất đông đảo độc giả dài hạn. Chuyện rất giản dị là ngay số 1 bài vở của Thời Tập ký tên những người sau đây: Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Nguyễn Hiến Lê, Mặc Ðỗ, Nguyễn Sỹ Tế, Vũ Thành An, Trần Tuấn Kiết, Cung Trầm Tưởng, Võ Phiến, Túy Hồng, Nguyễn Ðức Sơn, Thanh Tâm Tuyền.
Nhưng Trần Phong Giao từ chối, chỉ nhận cộng tác thường xuyên bằng cách giữ mục “Giải đáp Thắc mắc Văn học” (ký tên Thư Trung), là mục ăn khách nhất của báo Văn, và tiếp tục trên Thời Tập cho tới tháng Tư 1975. Anh còn viết một bài rất giá trị và cần thiết cho những ai muốn trở thành chủ nhiệm hay Thư ký Tòa soạn một tờ tạp chí văn chương. (7) Sau này tôi mới biết Trần Phong Giao đã vĩnh viễn rời báo Văn, xung quanh chuyện mua một ngôi nhà, anh gặp khó khăn về tài chánh mà ông chủ nhiệm lại không giúp. Nguyễn Xuân Hoàng chính thức làm Thư ký Tòa Soạn báo Văn từ 1972, nhưng chỉ khoảng một năm, Mai Thảo thay thế Hoàng, làm báo Văn cho tới 1975. Làm thơ, viết văn, làm báo, là làm tất cả những gì bấp bênh, vô định. Giai đoạn làm báo của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng vui ít buồn nhiều, nhất là thời kỳ làm báo ở Little Saigon, từ Người Việt tới Thế Kỷ 21. Chính anh viết:
“Tôi và con đường Moran của Quận Cam dính vào nhau gần 12 năm trước khi chia tay. Mười hai năm, tôi đã sống và thở với nó. Mùa nắng mùa mưa. mùa nước mắt và mùa hạnh phúc. Sống giữa những bản tin, sống giữa những ngày dài, sống giữa những đêm đen. Con đường Moran như con đường Phạm Ngũ Lão Sài gòn, nó là dòng sông chảy mãi trong tôi như ở quê tôi, con sông chảy dưới chân cầu Hà Ra ngó lên một đỉnh tháp…” (8)
“Những bản in phải bỏ dấu bằng tay trước khi lay-out [trình bày], và những buổi tối dán từng trang trên bản vỗ để mỗi đêm trên đường trở về trời đã mịt đen, đói và lạnh. Và sao mà cô đơn.
“Mười hai năm là thời gian dài gấp rưỡi thời gian tôi đã ở lại Việt Nam sau Tháng Tư 75, và gần gấp ba thời gian tôi ở San Jose làm việc cho một tờ báo mới. … Nó đã ghi vào nhật ký tôi những trang tràn ngập niềm vui sau ngày rời trại tị nạn Bataan, Phi Luật Tân, và không ít những trang ướt nhòe những vết mực đen. Hình như đời sống con người được đo bằng khốn khó hơn là đo bằng những phút giây hạnh phúc. Phải rồi, chiều dày của nhân cách nào mà chẳng tính bằng sự mất mát hơn là sự thu nhập…
“Nó nuôi tôi và hủy diệt tôi nó cho tôi tình bạn, tình yêu nhưng nó cũng cho tôi nỗi bất hạnh và sự phản bội. …
“… và tôi khám phá ra cái ánh sáng của nó: con đường Phạm Ngũ Lão ngày xưa đang thở trong tôi.” (9)
Những trang viết trên chỉ là sơ khởi cho một chương của cuốn Hồi Ký, tôi viết trước ra nhân lấy tiêu điểm từ một bài thơ ít ai biết của Nguyễn Xuân Hoàng. Tặng bạn.
[Những đoạn dự thảo trong Hồi ký 60 Năm Làm Thơ Viết Văn Làm Báo, 5.2012.ª

CHÚ THÍCH
1. Nguyễn Xuân Hoàng, Người Ði Trên Mây, Người Việt 1987, trang 27.
2.Võ Phiến, Văn học Miền Nam, tổng quan, Văn Nghệ 1986, tr.180.
3. Nguyên Sa, tạp chí Hiện Ðại số 2, 5.1960, tr.102. [Cảm ơn thi sĩ Thành Tôn đã cho mượn tờ Hiện Ðại.]
4. Viên Linh, nói với Mai Thảo tại quán ăn của thân nhân thiếu tá Hùng Sùi ở San Jose, hôm ấy quanh bàn ăn có mặt nhiều văn nghệ sĩ, nếu tôi nhớ không lầm có Khánh Trường, Phan Thị Trọng Tuyến, …
5. Nguyễn Xuân Hoàng, Người Ði Trên Mây, 19.
*. Một mục của tờ L’Express Hoàng đã đề nghị với tôi, và chúng tôi đã đồng ý nói hết, nói thật, nói thẳng, trong bài “Ði thật xa với Viên Linh” của báo Văn chủ đề Thơ ở Việt Nam năm 1972.
+. Thần thoại Hy Lạp: Orpheus là một thi sĩ, con trai của Apollo và nữ thần Calliope, khi chàng hát thì không phải ai cũng mê say, mà muông thú cũng phải lắng nghe và cỏ cây, thậm chí mấy hòn đá, cũng phải rung đôïng. Vợ chàng là Eurydice, chết vì nọc rắn. Orpheus đau khổ xuống âm phủ tìm vợ, lấy cây đàn lyre (đàn dây của Hy Lạp) gẩy cho Thần chết Hades nghe. Dĩ nhiên, đến sắt cũng phải nhỏ lệ vì thơ nhạc Orpheus, nên y bằng lòng cho Eurydice theo chồng trở về dương thế, với một điều kiện: trên đường ra cửa ngục, cấm quay đầu nhìn lại. Hai vợ chồng được thả ra, Orpheus đi trước. Khi sắp bước qua ngưỡng cửa Dương thế, như mọi thi sĩ ở đời, Orpheus hoài nghi quay đầu nhìn lại, xem quả thật có vợ đi theo sau không? Eurydice liền hóa đá.
** Bài Phượng Liên kết bằng hai câu:
Thôi còn giấc ngủ canh thâu
Một hành lang rộng vây sầu Phượng Liên.

6. Túy Hồng-Nhã Ca, “Lên tiếng về một nhận định của báo Văn đối với gái Huế,” Khởi Hành số 3, 15.5.1969, tr.2-3 [Chúng tôi chỉ lược chữ lấy ý, không đăng nguyên văn có mấy chữ rất xúc phạm.]
7. Trần Phong Giao, “Ðộc giả và những người làm một tạp chí văn chương,” Thời Tập xuân Ất mão, 18+19, 1+2.1975, trang 75-80.
8. Nguyễn Xuân Hoàng, “Con đường mang tên Moran,” Viễn Ðông, 2004.
9. Như trên.ª

 Viên Linh

Source : damau.org
 

23/8/13

Nguyễn Xuân Hoàng - Tự truyện một người vô tích sự

 
Trong đời sống, mất mát nhiều hơn là thu nhận.
Cây lúa sẽ không trổ bông, nếu trước đó nó không chết đi.
Hãy sinh động một cách không mệt mỏi, nhìn về tương lai
và nuôi dưỡng bằng những nguồn dự trữ sống chất chứa
từ trí nhớ và sự lãng quên.
—Boris Pasternak

Nguyen Xuan Hoang - by QL
Tôi là đứa con thứ mười hai trong một gia đình mười ba anh chị em. Mười ba người con trong một gia đình, con số ấy đâu có nhỏ, phải không? Nhưng biết làm sao! Có ai trên đời này được quyền chọn nơi chốn, gia đình hay dân tộc để chào đời đâu. Tóm lại, tôi là một người Việt Nam ra đời ở miền Trung, trong thời chiến, dưới một mái nhà “đông dân” và “kinh tế gia cảnh” đang hồi sa sút.
Phải nói là nhà tôi đông người quá, đông đến nỗi tôi không thể nào nhớ hết tất cả những anh chị em của tôi. Cha tôi, má tôi, đôi ba ông anh, đôi ba bà chị, một vài cô em… chỉ chừng đó người thôi cũng đủ nằm chật trong ký ức tôi rồi.
Vậy thì, có lẽ, tôi chỉ xin nói trước một đôi điều về đôi ba người trong gia đình tôi thôi. Tôi nghĩ rằng khi vẽ lại chân dung những người thân thích ruột thịt của mình, tôi cũng đã tự vẽ phần nào chân dung mình. Tuy có hơi nhợt nhạt, nhưng chắc là sẽ không xa sự thực lắm đâu!
Cha tôi, tất nhiên đó là người mà tôi muốn nhắc đến trước nhất trong bản tự truyện này. Ông cao lớn, quắc thước, vạm vỡ. Ngay giờ đây, khi hồi tưởng lại hình ảnh của ông, điều mà tôi có thể nhìn thấy lại trước nhất và rõ nhất là đôi mắt của ông. Đôi mắt ấy đầy thần lực, hơi lạnh và có một vẻ gì như tàn nhẫn. Khi nhìn ai, đôi mắt kia như phát ra một mệnh lệnh buộc họ phải phục tùng. Rất nhiều màu nâu đen, rất ít lòng trắng, đôi mắt ấy khá gần với loài hổ báo. Cũng có khi tôi tưởng đôi mắt ấy là con dao cau phạt ngang, có thể cắt đứt cổ tôi như chơi.
Tôi rất sợ cha tôi. Và tôi không biết rõ lòng mình là có bao giờ tôi yêu ông không.
Má tôi thường nói cha tôi là một con sâu rượu. Quả thật, ông uống như hũ chìm và không bao giờ tôi thấy ông say. “Tao mà say rượu à, rượu say tao thì có!” Cha tôi nhiều lần nói như vậy.
Mỗi ngày bốn bận, cha tôi uống rượu theo chu kỳ “sáng – trưa – chiều – tối”. Sáng uống theo lối sáng, chiều uống theo kiểu chiều. Sáng đánh răng súc miệng, uống ít thôi. Tối cần giấc ngủ, uống khá khá được. Trưa, chiều thì tùy hứng.
Má tôi nói rượu là độc được. Cha tôi nói rượu là thuốc an thần. Cha tôi tích trữ rượu. Má tôi giấu rượu. Cha tôi ít nói khi đã uống nhiều. Và má tôi không phải là loại đàn bà lắm lời.
Nói chung, gia đình tôi đông, nhưng buồn và lạnh. Chúng tôi cử động, ăn uống, đi lại, học hành, trò chuyện như những người khách trọ trong một căn nhà nấu cơm tháng.
Có một thời gian, tuy hơi bất ngờ, nhưng mà cũng ngắn thôi, tôi thấy cha tôi không uống rượu nữa. “Sáng – trưa – chiều – tối” ông chỉ uống trà. Cái thói quen mà ông không thay đổi, đó là bao giờ cũng thức dậy sớm hơn tất cả mọi người trong nhà. Ông nấu nước trong một chiếc ấm màu đen quánh, pha trà trong một bình đất nung màu đỏ gạch cua bóng lưỡng, và uống trong một cái chén nhỏ cũng bằng đất nung da màu lông thỏ đỏ. Cái chén ấy ông trang trọng gọi nó là Thố Hào Trản. Cha tôi rất quý cái chén này. Có lúc tôi nghĩ là ông quý nó còn hơn đứa con của ông là tôi nữa. Ông thường đem khoe với mấy người bạn của ông cái chén đất và nói rằng nó xưa lắm, “bảy trăm năm tuổi đấy!”. Nếu đời sống con người chỉ kéo dài có năm mươi năm thôi thì cái chén này đã áp vào môi của mười bốn đời người. Nó “chạm” đến bảy thế kỷ của nhân loại. Có lần tôi hỏi ông tại sao cha biết cái chén này xưa tới bảy trăm năm. Ông nói chính một ông bạn làm quản thủ công nhựt ở viện bảo tàng vườn Bách Thảo Sài Gòn nói như vậy.
“Cha à! Ông ta căn cứ vào đâu mà nói như vậy?”
“Tao không biết, nhưng tao tin ông ấy. Ông ta là một nhà chơi đồ cổ lừng danh. Lời ông ông ấy rất có giá trị.”
“Nhưng tại sao bảy trăm năm thì quý?”
“Cái gì trên cõi đời này mà lâu đời đều quý cả.”
Tôi biết cha tôi trả lời lấy lệ. Và tôi vẫn không tin là hễ cái gì lâu đời cũng đều quý cả.
Nhưng đột nhiên, cũng bất ngờ như lần chừa rượu, ông bỏ trà không một lời báo hiệu. Tôi nhìn thấy cái chén đất nung, da màu lông thỏ đỏ, nằm lăn lóc dưới gầm tủ; bình trà bỏ ở góc nhà; còn cái ấm đất màu đen quánh nằm ở chái hiên.
Ông uống rượu trở lại.
Thời gian sau đó rất tình cờ có lần tôi nghe ông nói “mấy cái thằng ăn không ngồi rồi, dư tiền dư của, bày đặt chén Tiểu Tống với Đại Tống, Thán Hào Trổ với Thố Hào Trản!” Theo ông, rượu tốt hơn trà, và cái quan trọng chính là “nội dung” chứ không phải là cái “hình thức”. Chén nào cũng được, rượu là đủ.
Tôi không giống cha tôi về mặt này.
Tôi uống rượu nhưng không mê rượu.
*
Má tôi là một phụ nữ có cái chiều cao “hơi cao” so với chiều cao trung bình của một phụ nữ Việt Nam. Da trắng, tóc đốm màu bạch kim, mũi cao nhỏ, mắt xanh hơi nghịch ngợm, cái vẻ bề ngoài của bà nổi bật giữa những người phụ nữ Việt Nam. Những buổi đi học về, tôi thường chui xuống bếp với má tôi và đôi khi cả bà chị kế tôi cũng xuống bếp theo. Thỉnh thoảng, bà kể cho chúng tôi nghe về những mảnh đời của cha tôi. Chấp vá lại những câu chuyện hở đầu hụt đuôi của bà, tôi hình dung ra cuộc đời của ông, bằng cách thêm mắm dặm muối cho nó liền lạc.
Là thủy thủ của những thương thuyền, cha tôi trôi nổi từ hải cảng này sang thương cảng khác. Nay Hồng Kông mai Tân Gia Ba, mốt Marseille, bữa kia Amsterdam… ông như một con cá mập giang hồ vẫy vùng giữa trời và nước. Những hình xâm xanh lè còn đầy trên chiếc ngực vạm vỡ và lông lá của ông, cùng với dòng chữ lăn quăn trên hai cánh tay ông, làm chứng cho những lời nói của má tôi. Trước khi lấy bà, cha tôi đã có một đời vợ. Mẹ trước tôi là một phụ nữ Pháp, tên Suzanne, sinh trưởng ở Marseille, thành phố mà đã có thời cha tôi tưởng chừng sẽ chôn chân vĩnh viễn lại đó như quê hương thứ hai. Nhưng cũng theo lời má tôi kể, ông phải bỏ đi vì một chuyện “lỡ tay” của ông. Một hôm ông bước vào quán rượu quen, gọi thức uống như thường lệ, nhưng chờ mãi vẫn không thấy người bồi mang lại, trong khi đó thì tên chủ quán người Pháp cứ đi ra đi vào ngó ông khinh khỉnh. Ông sốt ruột, nắm cổ áo hắn hỏi tại sao. Hắn nói ở đây không có chỗ cho một dân “Mít”. Ông giận điên lên, quật tên chủ quán xuống sàn nhà và tấn công hắn bằng một thế võ cực kỳ hiểm độc. Tên chủ quán chết không kịp lời trối trăn. Để trốn tránh pháp luật, ông dắt bà Suzanne chạy lên Paris. Paris đâu phải đất sống của ông. Ông quẩy đuôi trở lại sông hồ, bỏ lại thành phố ánh sáng lộng lẫy kia người đàn bà với một giọt máu của ông. Sau này, vẫn theo lời kể của má tôi, có lần bà Suzanne gửi thư cho cha tôi nói về giọt máu rơi của ông nay đã là một thiếu nữ tên Marthe. Má tôi muốn tự tay biên thư cho bà Suzanne, nhưng cha tôi không bằng lòng. Ông nói đó là chuyện của ông, má tôi không được xen vào. Chị Marthe của tôi có thời nổi tiếng là một trong số những người mẫu lừng danh của Paris. Người ta gọi chị là Marthe Nuyen (lẽ ra phải viết là Marthe Nguyễn mới đúng, nhưng chuyện này đâu có ăn nhằm gì). Tôi biết chi tiết này vì lúc hơi lớn một chút có lần tình cờ tôi nhìn thấy trong cuốn nhật ký của bà chị kế tôi có một tấm ảnh in hình một cô gái Pháp ăn mặc thật đẹp như một tài tử điện ảnh. Sau lưng tấm ảnh là lời đề tặng cho cha tôi có chữ ký rất rõ là Marthe Nuyen. Nhật ký của chị nói rằng Marthe làm nghề người mẫu. Và cha tôi biên thư phản đối bà Suzanne tại sao để con tự do làm nghề này. Nghề người mẫu thì đâu có gì là xấu, nhưng tôi không hiểu tại sao cha tôi nói vậy. Cho đến bây giờ, thật tình mà nói, tôi không biết gì nhiều hơn về người chị có cùng chung với tôi một người cha này. Bỏ Paris, cha tôi đi Hương Cảng, lại theo một số tàu buôn khác, lại giang hồ kỳ hiệp, nay thương cảng này, mai hải cảng kia. Đó là thời gian cha tôi gặp má tôi.
*
Bà là người Trung Hoa, nhưng có dòng máu của dân Hồng Mao. Bà thường nhắc đến ông ngoại tôi một cách kính cẩn như nhắc đến một vị thần đầy quyền lực: “Ông ngoại con không phải là người phàm. Ổng là con nhà quý tộc chớ không phải dân giang hồ tứ chiếng như cha mày đâu.”
“Má, con nhà quý tộc thì sao?” Tôi hỏi.
“Dân quý tộc không lấy con nhà thường dân.”
“Vậy sao má chịu lấy cha?”
“Không biết! Đừng nhiều chuyện! Nhưng má thích tụi con ăn học đàng hoàng, hơn là lang bạt kỳ hồ.”
Bà không muốn chúng tôi giống cái thời tuổi trẻ của cha. Ước muốn của bà, sau này, tôi thấy hình như không đạt được bao nhiêu phần trăm.
Ông ngoại tôi người Bắc Kinh, con một gia đình quyền quý có chức phận, được gởi sang Anh du học. Ông lấy một phụ nữ người Anh và sinh ra má tôi. Không hiểu vì sao ông bỏ bà ngoại tôi ở lại Luân Đôn, về nước chỉ mang theo cô con gái là má tôi. Nhưng rồi, ông cũng không nuôi má tôi. Ông đem gửi bà cho một gia đình người Hoa khác ở Hương Cảng, cung cấp ít tiền bạc và thỉnh thoảng mới đến thăm bà. Cuộc tình duyên giữa má tôi và cha tôi ra sao, không ai trong đám con cái chúng tôi biết. Mà má tôi cũng không bao giờ hé môi nói rõ tại sao một thiếu nữ “con nhà quan xinh đẹp thế kia” (tôi vẫn luôn luôn nghĩ má tôi là người đàn bà đẹp nhất mà tôi đã gặp trong đời) lại đi phải lòng một người đàn ông giang hồ như cha tôi. Dù sao khi tôi bắt đầu nhận ra mình là đứa con của một gia đình đông đảo, tôi có thể nói má tôi là ngưòi đàn bà tần tảo lo cho chồng cho con trong cái xã hội bình thường của chúng ta. Quần quật suốt ngày với con cái nhà cửa, chạy ăn từng bữa, tất tả, ngược xuôi, đắp cái này, vá cái kia, nhưng không bao giờ thấy bà hé răng kêu một lời than thở. Về ngôn ngữ, tôi không biết nói sao cho đúng. Má tôi nói tiếng Hoa cũng sõi như tiếng Việt. Phần tôi, tôi chỉ ăn cắp được của má tôi và cha tôi một chút chiều cao của thân thể, nhưng tiếc thay, tôi không lấy được một tí nào về sự chịu đựng lớn lao của bà và cái cang cường dũng cảm của cha.
Tuy vậy hình như tôi là một đứa con được má nuông chiều quá đáng trong một gia đình đông đúc. Cha tôi lạnh lùng. Anh chị em tôi dửng dưng. Nhiều khi tôi có cảm tưởng như chẳng có sợi dây gia tộc nào ràng buộc được chúng tôi lại với nhau.
Nói nào ngay, mấy ông anh bà chị tôi không ai ghét bỏ tôi, nhưng hình như cũng không ai yêu tôi. Riêng tôi, tôi nghĩ là mình thù ghét tất cả mọi người, trừ một người, tất nhiên, đó là má tôi. Tôi đâu có cần gì phải làm ra vẻ lạnh lùng. Tôi có thừa sự nhạt nhẽo để có thể chia xẻ cho tất cả mọi người. Cái phần ấm áp, tôi chỉ dành riêng cho mỗi một mình má tôi.
Thật ra, chị Thảo tôi, mà tôi có lần nói rất giống má tôi, là người mà tôi cũng yêu lắm, gần bằng tình yêu mà tôi đã dành cho má tôi. Nhưng giữa chị và tôi có một khoảng cách vô hình. Không bao giờ hai chị em tôi nói với nhau quá câu thứ hai mà không cãi nhau. Đúng với cái tên mà má tôi đã đặt cho chị, chị là một thứ cỏ hoang mọc trên một vùng đất khô cằn là cái gia đình tàn tạ của chúng tôi. Và cái sắc đẹp man dại của chị làm cho má tôi lo lắng buồn bã hơn là làm cho bà hãnh diện mừng vui. Chị Thảo là một kết hợp kỳ lạ giữa cha tôi và má tôi. Chị có cái nhan sắc của má tôi và cũng có cái lạnh lùng đôi khi tàn nhẫn của cha tôi.
Năm mười bảy tuổi, chị bị một tên thanh niên con nhà giàu trên tỉnh theo đuổi. Hắn mang tặng chị hết món này đến thứ khác, toàn là loại đắt tiền. Lúc đầu chị cười cợt, coi như trò đùa. Về sau chị vất tất cả những thứ ấy ra cửa. Hắn tên là T. và theo chủ quan tôi, lúc ấy hắn là một thanh niên khá đẹp trai. Cao lớn, để ria mép, ăn mặc chải chuốt, hắn đẹp theo kiểu một công tử. Hắn khôn khéo, tìm mọi cách để chiều lòng mọi người trong nhà tôi. Kín đáo mang rượu đến cho cha tôi mỗi tuần, tặng vải vóc cho má tôi, đồ chơi cho tôi và các em tôi. T. đi lòng vòng chung quanh trước khi chinh phục tâm điểm là chị Thảo tôi. Tôi có cảm tưởng như nếu bắt hắn phải quỳ xuống để xin chị Thảo chút tình yêu, chắc hắn cũng sẵn sàng không do dự. Nhưng chị Thảo nhất mực không hề cảm động hay thương hại hắn nói gì đến thương yêu. Tôi không biết là lúc đó chị có đang yêu người nào không. Hình như là không. Thật ra tôi cũng không chắc lắm. Nhưng rõ ràng là chị vất cái thứ tình yêu đầy quy lụy, say đắm và mù quáng của T. xuống cống rãnh. Nhiều buổi chiều, tôi thấy T. đứng bứt rứt bên kia đường, dưới gốc cây muồng hoa vàng nghệ, ngó chăm vào nhà tôi. Hắn đau khổ thấy rõ. Và thú thật, tôi có thương hại hắn. Tôi thấy chị Thảo tàn nhẫn. Cha tôi không giờ uống một giọt rượu của T. Còn má tôi vào những ngày năm cùng tháng tận, cần mua sắm ít vải may quần áo mới cho chúng tôi, vậy mà bà cũng nhất quyết gói gửi trả tất cả vải vóc lại cho T. Một lần cha tôi cho gọi T. vào nhà, rót rượu cho hắn uống. T. nói không biết uống rượu. Cha tôi bảo “Nam vô tửu như kỳ vô phong” đàn ông không uống rượu như cờ không gió. Hắn nhìn cha tôi như cầu khẩn. Cha tôi cụng ly. T. bưng lên nốc cạn một hơi. “Khá!” cha tôi nói, và rót tiếp một ly thứ hai. Cứ thế hết ly này đến ly khác. Khi cha tôi đứng dậy, T. ói thóc ói tháo, đầu gục xuống bàn, người mềm như sợi bún.
Khi người Pháp trở lại Việt Nam sau cuộc chiến, T. làm thông ngôn trong một tiểu đoàn Lê dương. Hắn lúc bấy giờ nổi tiếng như một hung thần. Nhiều người đã chết dưới tay hắn. T. háo sắc đến độ gần như vùng nào mà tiểu đoàn hắn đi qua đều có vài ba thiếu nữ là nạn nhân của hắn. Đi bên cạnh T. luôn luôn có hai tên lính người Ma Rốc rạch mặt. Nhiều cô gái sau khi bị hãm hiếp, còn bị tên Ma Rốc dùng dao cắt vú và đâm nát cửa mình.
Thời gian này gia đình tôi đã tan thành nhiều mảnh. Tôi theo cha tôi chạy lên Hòn Lớn, một địa danh ở miền Trung, nằm dưới chân một ngọn núi khô cằn, nhà cửa giống như những căn chòi cất vội vàng trên một nền đất chưa được phẳng. Tiếng súng còn khá xa chỗ ở của cha con tôi.
Lúc đó, tiểu đoàn của T. đang bố ráp càn quét ở một vùng quê khác, nơi má tôi và chị Thảo đang ẩn náu. Sau này má tôi kể lại: Một buổi tối T. xông vào nhà với hai tên lính Ma Rốc rạch mặt. Hắn ung dung ngồi hút thuốc để hai tên Ma Rốc đè chị Thảo ra cột lên giường và trói má tôi chặt vào cột nhà. Ở thôn quê hồi đó, phòng khách, phòng ngủ, phòng ăn chỉ là một. Má tôi hãi sợ lắm. Hắn hỏi chị Thảo:
“Em có bằng lòng lấy tôi không?”
“Không!” Chị trả lời.
“Tại sao?”
“Không tại sao gì cả.”
“Chừng nào mới chịu lấy tôi?”
“Không chừng nào hết!”
“Sợ tôi không?”
“Tại sao phải sợ?” Chị Thảo hỏi lại ương ngạnh.
T. rút khẩu súng ngắn đeo ở thắt lưng ra, kê vào đầu chị, nhắc lại một lần nữa. Chị Thảo không nhìn hắn. Má tôi la lên, sợ T. bắn thật. Hắn tát vào mặt má tôi. Xong hắn xé quần áo chị Thảo ra, hãm hiếp chị ngay trước mắt chừng ấy con người. Lúc đó, má tôi nói, hắn như một con thú say mồi. Má tôi phát bệnh nặng sau khi chứng kiến cái cảnh tượng hãi hùng giáng xuống đời chị Thảo. Chị Thảo, sau tai nạn khủng khiếp kia, âm thầm bỏ má tôi đi biệt vô âm tín. Mặc dù chỉ nghe lời kể của má tôi về những hành động dã man của tên T., tôi không bao giờ quên hắn. Tôi sẽ nhắc hắn ở đoạn sau.
Phần tôi, kể từ khi bắt đầu va chạm cuộc sống, tôi khám phá ra rằng con người ta không thể nào sống mà thiếu người khác được. Tôi thấy tôi là kẻ đói tình thương trong một gia đình thừa mứa những liên hệ ruột thịt. Nói giản dị, khi tôi nhận thấy mình cần một bà chị như kiểu chị Thảo để yêu mến thì chị ấy không còn trong gia đình nữa. Có lẽ là chị ấy vẫn còn sống đâu đó mà không muốn trở về gia đình chăng, tôi không rõ.
Tôi giữ lại trong trái tim mình hai người anh. Một ông anh cả và một người anh kế.
*
Anh cả tôi bỏ nhà đi giang hồ khi mới mười bốn tuổi. Năm đó tôi chưa chào đời. Má tôi nói anh đi Sài Gòn. Sau đó là Cà Mau, Rạch Giá, Năm Căn, Cần Thơ, Châu Đốc… Có lần trong bữa cơm má tôi nói anh mày ở Vạn tượng bên Lào mới gửi thư và tiền về cho má. Lần khác trả lời câu hỏi của chị Thảo, má nói anh cả đang ở Savanakhet. Khi cha tôi bỏ trà, liệng lăn lóc cái Thố Hào Trản, là lúc ông nói anh đang ở đồn điền Chup bên Nam Vang, Căm bốt. Nói chung là tôi rất lơ mơ về nơi ăn chốn ở của anh ấy. Còn mặt mũi của anh ra sao thì mãi lâu về sau tôi mới có dịp nhìn thấy.
Người anh kế tôi, tuy cao lớn, nhưng dáng người thanh nhã. Ấy vậy mà khi vừa đậu xong cái bằng tú tài toán anh đã chọn đời lính như một nghề nghiệp. Anh thi vào trường Võ Bị Đà Lạt nhưng khi ra trường chuyển sang binh chủng Không Quân. Khi Sài Gòn thất thủ, anh đang mang lon trung tá, bị bắt đi học tập cải tạo và chết trong lao tù Cộng Sản. Anh là người lính ưa văn chương chữ nghĩa. Anh có nhiều bạn là nhà văn nhà thơ, mặc dù anh không hề viết một truyện ngắn hay làm một bài thơ nào. Sở dĩ tôi có biết mặt quen tên một ông nhà văn, một bà nhà thơ nào đó, chẳng qua cũng là do ông anh tôi dắt về nhà thôi. Anh che chở cho một nhạc sĩ trốn lính, bỏ tiền trợ cấp cho một bà ca sĩ có bầu “với ai đó”. Anh luôn luôn hào hoa rộng lượng. Tôi thích nhìn anh trong bộ đồ bay, chữ Tổ Quốc Không Gian trên ngực áo, chiếc nón lưỡi trai che ngang cặp kính Ray Ban rất là thời thượng. Anh có nhiều bạn gái, phần lớn là ca sĩ phòng trà, và anh không yêu một cô nào quá lâu. Anh nói với tôi anh không có tình yêu. Mãi đến năm Bảy Hai, sau mùa hè đỏ lửa, trước ngày má tôi qua đời, anh báo tin cho tôi biết là anh quyết định lấy vợ. Chị là một cô giáo dạy Vạn Vật và là người rất xa lạ với thế giới đầy buông thả của anh. Nếu cái vẻ hào hoa phong nhã của anh là thứ vũ khí sắc bén chinh phục các cô ca sĩ thì khi gặp chị, vũ khí ấy trở thành thừa thãi, vô hiệu. Chị nói chị lấy anh vì tánh thật thà của anh, chứ không phải vì “cái mã bề ngoài” của anh. Hôn nhân đã ép anh vào một khuôn khổ, không kẽ hở. Nhà cửa, vợ con, gia đình, hàng xóm đâu ra đấy. Anh không còn luông tuồng như xưa nữa. “Tình yêu có thật!” Anh vẫn nói với tôi như vậy khi đã có với chị một đứa con. Tuy vậy mỗi khi có dịp về Sài Gòn, anh như một con cá gặp nước. Bạn bè, ăn nhậu, nhẩy nhót như điên. Vũ nữ, ca sĩ, phòng trà, âm nhạc, rượu chè… anh sống vội vã như thể ngày mai trái đất này sẽ trở thành tro bụi. Tuy vậy có lần anh nghiêm chỉnh nói với tôi rằng không biết cuộc chiến tranh này rồi sẽ đi về đâu. Có nhiều điều anh không hiểu. Tình hình chính trị ngày càng xấu. Các thành phố lớn có vẻ như co rúm lại. Chiến tranh đâu chỉ có ở một mặt trận, nó nằm cùng khắp đất nước thành thị, thôn quê, ruộng vườn rừng núi. Ngay trong hơi thở ta, trên da thịt ta, trong thành phố hiền lành chiến tranh cũng đầy chật. Anh nói đến những ánh đèn nhấp nháy của nhà cửa làng mạc, nói đến rừng núi sông ngòi… những nơi anh đã bay qua. Anh nói đến những đám mây như những tảng bông trắng xốp, đến bầu trời xanh lơ mênh mông. Anh thích nhà văn phi công người Pháp, ông Saint Exupéry trong tác phẩm Terre Des Hommes. Và câu nói của một nhân vật trong cuốn sách này ám ảnh anh là: “Cái mà mình đã làm, mình nói thật, không một con vật nào làm được.” Anh muốn có cái cơ hội thử thách điều đó.
Khi hay tin anh chết trong lao tù cải tạo, nhớ đến lời nói của anh, tôi tự nghĩ không biết anh đã chiêm nghiệm ra điều ấy hay chưa.
Nghĩ cũng hay, một gia đình đông đảo đến là như thế mà chiến tranh đến, chiến tranh đi, vô tình cướp mất của tôi lúc này một ít ông anh, lúc kia một ít bà chị, để rồi rút cục con rắn dài mười ba khúc chỉ còn lại có khúc đầu, khúc giữa và khúc đuôi.
Tôi muốn giới thiệu về ông anh cả tôi trước khi nói tiếp về ông anh trung tá.
*
Cũng giống như cha tôi, anh cả tôi cao lớn vạm vỡ khác thường. Anh có một khuôn mặt bạnh, chân mày rậm xếch, mũi to, miệng rộng, cằm vuông, râu quai nón, đen sạm. Một vết sẹo dài chạy từ khóe mắt đến mang tai. Mắt anh không lớn nhưng lì lợm và dữ dằn như mắt cha tôi. Tóc anh xoắn chảy xuống gần phía ót một chùm mịn quăn tít. Cổ anh tròn cứng, vai ngang, hai bàn tay to lớn phốp pháp. Trên khuôn mặt anh, người ta có thể nhìn thấy một sự kết hợp kỳ lạ, mâu thuẫn đến tuyệt vời giữa sự cứng rắn và mềm mại, dễ ghét và dễ thương, hận thù và thân ái… Tất cả những hình nét mà tôi có thể vẽ được về anh chỉ là nhờ vào những tấm ảnh anh gửi về cho má tôi. Tôi còn nhớ Tết Nguyên Đán một năm nào đó, lần đầu tiên tôi giáp mặt anh. Tôi thấy những đường nét mà tôi đã hình dung về anh là không xa lắm. Hồi đó tôi mới bốn tuổi, má tôi bắt tôi ra mừng anh ở xa mới về. Tôi đứng nép bên má nhìn anh, thấy anh tưởng như một người đã quen nhau từ lâu lắm. Nhưng tôi không chào anh. Anh là người quen trong trí tưởng tôi, hơn là người anh có mặt trong đời sống thực tôi. Anh ở nhà không lâu và lại ra đi hồi nào tôi cũng không nhớ. Tôi chỉ biết thời gian đó gia đình tôi tạm coi như sum họp nhất, mặc dù lạnh lẽo vẫn là khí hậu chính của mọi người. In hình như là trong nhà ai cũng linh cảm sắp có một điều chi đó xảy ra, như chờ đợi một cơn bão vậy. Và tôi thấy người anh cả tôi lúc ấy rất quan tâm đến chị Thảo. Anh nói chuyện khá lâu với chị và loáng thoáng tôi nghe nhắc đến tên T., người thanh niên vẫn theo đuổi chị. Một buổi tối, cả nhà ngồi quanh bàn ăn, cha tôi gợi chuyện để anh cả tôi kể những biến cố đời anh. Anh cười, hàm râu quai nón giãn ra như một ông tây con. Anh nói ít, cũng như má tôi vậy, về nơi ăn chốn ở của anh: rừng cao su, những người phu được mộ từ miền Bắc, những tên chủ đồn điền người Pháp hách dịch phách lối, cách tra tấn dã man những người trốn việc mà bọn cai vẫn thường đối xử với đám phu phen… Anh kể chậm rãi về nhiều người, nhiều việc, nhưng không ai biết chút gì thêm về đời tư của anh. Khi anh đứng dậy thì thầm với chị Thảo điều gì đó, cha tôi tuyên bố một câu khó hiểu: “Thằng này giống tao!” Về sau tôi biết là anh đã “làm thịt” một tên cai phu tàn ác vì hắn hành hạ dã man một người phu đồn điền.
Một năm sau, Cách mạng Tháng Tám bùng nổ trên toàn quốc, anh tôi bị con lốc thời cuộc cuốn theo, thổi bay từ núi rừng này sang núi rừng khác, mặt trận, chiến khu, và biệt tích biệt tăm, cho đến sau tai nạn buồn thảm của chị Thảo tôi.
Tôi quên nói là sau khi trái lựu đạn nội hóa đầu tiên nổ tung trong một ngày mùa Thu ngay trước cửa nhà tôi thì gia đình tôi giống như một tổ ong bị vỡ. Chúng tôi, những con ong bay tán loạn, tơi tả, lạc loài, vô định. Má tôi và chị Thảo một đàng, các ông anh bà chị khác một ngõ. Chỉ có riêng mình tôi, theo cha chạy qua những làng xa tận cùng một chân núi. Tôi biết những cánh đồng xanh lá mạ, những vườn xoài vườn mận, những hệ thống dẫn thủy nhập điền thô lậu, những con sông dài phơi mình ngái ngủ giữa trưa hay trôi lặng lẽ dưới bóng trăng đêm… Tôi được thấy những đàn bò gậm cỏ buồn nản, những con trâu lười biếng trầm mình dưới đầm nước tù ngầu đục… Nhưng cuộc chiến ngày một đuổi nà những người thành phố. Tiếng súng lúc đầu còn xa, càng về sau càng gần hơn. Trước mặt chúng tôi là ruộng vườn, thôn xóm. Sau lưng chúng tôi là núi đá, rừng cây. Cùng đường rồi, chạy đi đâu nữa. Cha tôi nói như vậy. Và ông vừa làm tiều phu, vừa làm nhà nông. Cha tôi nói đất đai chỉ nuôi sống che chở những ai yêu nó, sống với nó, làm việc với nó. Cha tôi là một người tháo vát. Ông nói tận trong máu huyết của mỗi người Việt Nam đều có chứa đựng dòng máu của một nông dân. Đây là thời gian cha tôi trở lại với ấm trà và chén đất. Không còn cái Thố Hào Trản của thời Đại Tống Tiểu Tống gì đó, mà một ông bạn già của cha tôi từng nói. Chén đất nung thứ thiệt màu đỏ gạch cua, cha tôi làm lấy. Ông vẫn là người dậy sớm, nấu ấm trà. Và tôi trở thành người bạn hiền bé nhỏ đối ẩm cùng ông. Cuộc sống của hai cha con tôi nơi sơn cùng thủy tận hạnh phúc một cách bắt buộc. Cha tôi nhắc má tôi và chị Thảo ít hơn là nhắc đến hai ông anh tôi. Cho đến một hôm, một người liên lạc đến báo cho cha tôi biết anh cả tôi ở chiến khu về muốn gặp ông. Tôi mừng lắm. Nhưng cha tôi trầm ngâm không nói chi. Tôi còn nhớ cuộc gặp gỡ của chúng tôi diễn ra dưới chái hiên của căn chòi lợp lá phên. Buổi chiều ở núi lạnh tê. Anh tôi đứng trước sân căn chòi. Vẫn cao lớn, hơi gầy, râu cạo nhẵn, tóc vẫn xoăn tít bám sát da đầu. Vết sẹo dài từ khóe mắt trái đến mang tai. Cha tôi và tôi đứng dưới dàn bầu nậm. Tôi hết nhìn anh lại nhìn cha. Anh gầy càng giống cha nhiều hơn. Hai người đàn ông đứng im sững như hai người thợ săn đang rình mồi, nhìn ngó nhau trân trân. Tôi thấy những đốm sáng cuối cùng của ngày lóng lánh trong đôi mắt anh. Sau cùng, tôi nghe thấy tiếng cha tôi kêu tên anh trai tôi. Tối hôm đó, ba chúng tôi ăn cơm chung bên bếp lửa. Cơm trộn bắp chan nước mắm bằng nước muối pha đường thẻ. Bữa cơm rất ngon miệng, mặc dù tôi đã quá ngấy với những hột bắp nhiều hơn gạo trong chén cơm. Anh ôm tôi vào lòng, lấy khẩu súng ngắn ở thắt lưng ra, tháo đạn, cho tôi mượn. Anh đọc cho tôi nghe một bài thơ của một tác giả mà sau này tôi biết là Quang Dũng:

Mẹ tôi em có gặp đâu không
Những xác già nua ngập cánh đồng

Đó là những câu thơ mà tôi sẽ còn nhớ mãi. Một lúc, anh ngập ngừng nói với cha:
“Con đã gặp thằng T.!”
“Thằng T.?” Cha tôi hỏi gặng. “Mà ở đâu?”
“Ở Tân Hưng. Gần Gò Quít, cha nhớ không?”
“Nhớ. Rồi sao?”
“Con hỏi nó có biết con là ai không? Nó nói biết. Con hỏi nó sợ không? Nó nói không…”
Anh ngừng lại, trầm ngâm.
“Cha biết con đã làm điều gì phải làm cho em Thảo.”
Cha tôi im lặng rót trà vào chén đất, uống một hơi cạn.
Sáng hôm sau, khi tôi thức dậy, anh đã ra đi từ hồi nào. Cả cha tôi nữa, ông cũng đã vào rừng đốn cây làm thêm phên cửa, sửa vách và dành củi cho mùa đông.
Người anh sinh trước tôi vài năm, cũng như tôi, lớn lên khi cuộc chiến tranh Việt Nam đi vào một khúc quanh khác. Người Pháp đã ra đi sau khi thất thủ Điện Biên Phủ. Người Mỹ vừa đến, Quốc trưởng Bảo Đại bị truất phế, Tổng Thống Ngô Đình Diệm và nền Đệ Nhất Cộng Hòa thành lập. Gia đình mười ba anh em chúng tôi chỉ còn cô út ở nhà với má tôi. Anh cả tôi cũng như chị Thảo đều biệt tăm. Ông anh kế của tôi theo học trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Còn tôi, sau đó vào Quang Trung rồi đi Thủ Đức. Chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ. Các tướng lãnh thay nhau cầm quyền. Cha tôi qua đời đúng vào dịp Tết Mậu Thân. Bốn năm sau má tôi cũng “đi theo”, khi một tay nhà báo Pháp viết về “đại lộ kinh hoàng” ở Quảng Trị, nơi người bạn Thủy Quân Lục Chiến của tôi làm bài thơ Cổ Thành tặng tôi trước khi hy sinh. Cô em gái út nhà tôi lấy chồng. Ngôi nhà tôi ở đã bán. Tôi là người lính sống ở văn phòng nhiều hơn chiến trường. Tôi luôn luôn là kẻ được nuông chiều trong một xã hội không phải ai cũng may mắn được như thế. Ông anh Không Quân của tôi tuy vẫn hào hoa bay bướm, nhưng là một người cha gương mẫu, một người chồng tốt. Anh được bạn bè đồng đội quý mến và quả tình anh cũng rất yêu mến con đường anh đi. Một lần chúng tôi gặp nhau ở Sài Gòn, anh nhắc tên người anh lớn và chị Thảo của chúng tôi. Không biết bây giờ anh chị ấy ở đâu, ra sao. Sống chết thế nào. Anh nói chiến tranh ghê tởm và anh hỏi tôi nghĩ sao. Tôi nghĩ sao? Tôi là một người vô tích sự. Nhưng bây giờ hiểu ra, tôi yêu tất cả mọi người. Tôi không thù ghét ai. Người anh Không Quân của tôi cũng nói vậy. Anh chờ đợi và mong muốn hòa bình. Anh nói anh không phải là một nhà chính trị, nhưng anh tin rằng anh chiến đấu cho tự do của dân tộc. Anh nói anh không hề mù quáng nghĩ rằng anh đang sống trong một xã hội tốt đẹp, nhưng anh tin rằng anh đang chiến đấu trong một xã hội để làm cho nó tốt hơn cái hiện có.
*
Tháng Tư Bảy Lăm, Sài Gòn thất thủ, trong “những người chiến thắng” trở về có ông anh cả tôi, nay là một cán bộ chức sắc, một thứ công thần. Anh có tìm gặp tôi trước ngày tôi bị gọi đi học tập cải tạo. Tôi thấy anh khác xưa nhiều. Vết sẹo trên mặt có vẻ như nhạt đi, những bắp thịt gân guốc đã mất. Anh gầy và trầm ngâm. Anh không gặp người anh Không Quân của tôi. Tôi không nghe anh giải thích tại sao. Cô em út của chúng tôi đã theo chồng rời bỏ Sài Gòn trong một ngày áp chót của cuộc chiến. Tôi không hiểu tại sao có phương tiện trong tay mà người anh Không Quân của tôi không ra đi. Cũng như những sĩ quan thua trận cấp úy khác, tôi thu xếp ít quần áo và lương thực cho mười ngày học tập. Nói là mười ngày, nhưng ba năm sau tôi mới được trở về, khi ông anh Không Quân của tôi vẫn còn ở lại trong một trại cải tạo ngoài Bắc. Ra tù tôi sống lang thang làm đủ thứ nghề, đi khắp mọi nơi, nhưng tôi vẫn không gặp và không nghe chút tin tức gì về chị Thảo tôi. Làm như chị là một người không có thực trong gia đình tôi.
Ông anh cả tôi sau đó có đến thăm tôi trên một lần nữa, sau khi tôi vượt biên bị bắt ở Rạch Giá vừa được thả về. Ông nói đừng làm chuyện bá láp, vượt biên là phản quốc. Đó là thời gian chế độ mới đánh tư sản, đổi tiền. Ông nói học tập cải tạo là rất tốt cho những đầu óc vô tích sự như tôi. Phải như thế thì tôi mới “sáng mắt sáng lòng” ra được. Mãi đến năm thứ mười sau ngày Sài Gòn thất thủ tôi mới vượt biên thông suốt. Tôi đến được Pulau Bidong, trong một chuyến đi không đến nỗi bi thảm như những người khác. Tôi luôn luôn là một người may mắn. Một năm sau nhờ sự bảo lãnh của cô em út, tôi được Mỹ nhận cho định cư.
Khi còn ở đảo tôi hay tin người anh lính Không Quân đã chết trong trại giam. Ông anh cả tôi cũng không còn nữa. Một lá thư từ bên nhà gửi qua cho biết ông ấy chết hơi khác thường: tự tử bằng một viên đạn bắn qua đầu. Qua thư từ tôi biết thêm sau khi ông đi thăm người anh lính Không Quân bị bệnh nặng nằm chờ chết trở về, ông đã chọn cái chết của chính mình như một cách nói lời tuyệt vọng. Mười năm sau khi lấn chiếm miền Nam, đất nước ngày càng tan nát, đời sống người dân ngày càng xuống thấp, trong khi máu mủ ruột thịt bỏ đi xa hay vẫn còn nằm trong lao tù của chế độ mà mình phục vụ, có lẽ đã là động cơ thúc đẩy họng súng quay về phía ông. Đôi khi tôi nghĩ cái lẽ sống mới quan trọng hơn sự sống. Có phải vì thế mà ông anh cả tôi hành động kiểu đó chăng? Đó là tôi suy nghĩ vậy, chớ tôi không chắc lắm đâu.
Hôm qua tôi vừa được thư bà chị dâu từ Cabramatta Úc Đại Lợi gửi sang cho hay chị đã lập gia đình. Người chồng chị hiện nay cũng là một người Việt Nam. Hai vợ chồng mở một tiệm ăn. Cả hai mời tôi có dịp sang chơi, sẽ đài thọ vé máy bay và nơi ăn chốn ở.
Tôi không biên thư trả lời. Tôi gọi điện thoại viễn liên chúc mừng chị. Tôi nói muốn đón các cháu sang Mỹ chơi. Chị hứa.
Đời sống ở Mỹ thật tiện nghi. Tôi đủ ăn đủ mặc và tôi giàu tự do. Tuy nhiên vào những buổi sáng cuối tuần, đi bách bộ trong khu công viên Mile Square Park ở Quận Cam, tôi như thấy mình đang trở lại thời sống với cha ở một vùng núi miền Trung, và văng vẳng bên tai vẫn như còn nghe lời cha nói: “Thằng này đúng là đồ vô tích sự!”
Buổi sáng sớm rừng còn đầy sương mù, gió thổi luồn qua những vòm cây lạnh. Trên những ngọn cây cao, tôi nghe tiếng chim kêu từng hồi. Giẫm trên những ngọn cỏ ướt sương, bập bập điếu thuốc lá chưa kịp khô, tôi thấy mình già hẳn. Như giờ đây, gần bốn mươi năm sau tôi thấy tôi mới già bằng thuở đó.

California, Tháng Bảy, 1987
Biên tập lại tháng Mười Một, 2009

Nguyễn Xuân Hoàng


Source : damau
 

Nguyễn Hưng Quốc - Bài học Ai Cập






 

22.08.2013

 

Ai Cập đang trở thành tâm điểm thu hút sự chú ý của thế giới. Tin tức dồn dập xuất hiện trên báo chí ở khắp nơi. Chỉ riêng Thứ Tư ngày 14/8, đã có khoảng 300 người bị giết chết trong các cuộc bạo động trên đường phố rải rác trong khắp cả nước. Đó được xem là một ngày đẫm máu nhất kể từ cuộc nổi dậy đầu năm 2011 nhằm lật đổ nhà độc tài Hosni Mubarak. Ngoài những người bị giết chết, có cả hàng trăm người khác bị bắt. Chính phủ quân sự thay thế Mohamad Morsi cho biết có 43 cảnh sát bị giết chết và ban hành thiết quân luật trên toàn quốc.

Những ngày sau đó, bạo loạn tiếp tục xảy ra. Những người chống đối chính phủ quân sự lâm thời tiếp tục biểu tình, cảnh sát và quân đội tiếp tục trấn áp. Và máu tiếp tục chảy. Trên màn ảnh ti vi, xác chết nằm la liệt. Dân chúng có. Cảnh sát có.

Sự hỗn độn trên chính trường cũng như cảnh đẫm máu trên đường phố khiến người ta không thể không nhớ lại sự “hồ hởi” phấn khởi vào những tháng đầu năm 2011, thời điểm người ta gọi là “cách mạng” hoặc “Mùa xuân Ả Rập”. Hơn hai năm trước, người ta hân hoan tin tưởng bao nhiêu; bây giờ, người ta hãi hùng và thất vọng bấy nhiêu. Không ít người đi đến kết luận: Lật đổ một nhà độc tài thì dễ nhưng để xây dựng được một chế độ dân chủ, hòa bình và phát triển thực sự thì lại là một điều khó. Cực khó. Trước cái khó ấy, không ít quốc gia thất bại. Một số người đang nghĩ là Ai Cập đang thất bại trong nỗ lực dân chủ hóa.

Ấn tượng cho việc lật đổ độc tài dễ vì ở Ai Cập đầu năm 2011, mọi việc diễn ra một cách quá nhanh chóng. Ngày 25 tháng giêng, dân chúng ào ạt đổ xuống đường biểu tình. Sự xô xát giữa người biểu tình và cảnh sát làm cho trên 800 người chết và hàng ngàn người khác bị thương. Dân chúng vẫn không khiếp sợ. Họ vẫn tràn xuống đường. Thoạt đầu vài ngàn người, sau, hàng chục ngàn người, cuối cùng, có lúc đến cả triệu người. Ngày 11 tháng 2, tức chỉ hơn nửa tháng sau, Hosni Mubarak tuyên bố từ chức sau 30 năm cầm quyền (1981-2011) một cách gần như tuyệt đối. Cuộc cách mạng, với vai trò tích cực của các mạng lưới xã hội trên internet, coi như thành công rực rỡ.

Nhưng những gì xảy ra tại Ai Cập sau đó lại không như sự chờ đợi của mọi người.

Trước hết là sự xung đột giữa người Hồi giáo và người theo Thiên Chúa giáo, có lúc, như trong ngày 9/10/2011, làm cho mấy chục người chết. Sau đó là cuộc bầu cử Quốc Hội với chiến thắng vang dội của những người Hồi giáo, kế tiếp là cuộc bầu cử Tổng thống khá gay cấn, nhưng cuối cùng, chiến thắng thuộc về Mohamed Morsi, lãnh đạo phong trào Huynh Đệ Hồi giáo, với 51.7% số phiếu bầu. Chỉ có điều, từ khi lên làm Tổng thống, thay vì nỗ lực xây dựng một chế độ dân chủ, Morsi lại tìm mọi cách để củng cố quyền lực không những cho cá nhân ông mà còn cho cả lực lượng Hồi giáo nói chung. Ông thay đổi Hiến pháp theo tinh thần Hồi giáo. Dân chúng lại xuống đường biểu tình, thoạt đầu, quy tụ hàng chục ngàn, rồi hàng trăm ngàn, và có lúc, cả triệu người. Chính phủ lại ra tay đàn áp. Kinh tế bị xuống dốc trầm trọng. Đời sống dân chúng càng lúc càng khốn cùng.

Cuối cùng, mọi chuyện kết thúc bằng một cuộc đảo chính vào ngày 3 tháng 7 năm 2013 khi tướng Abdul Fatah al-Sisi tuyên bố tước quyền của Morsi và bãi bỏ hiến pháp mới được Morsi thông qua. Dân chúng lại đổ xuống đường biểu tình. Có đoàn biểu tình nhằm ủng hộ Morsi và yêu sách tướng Sisi phải từ bỏ quyền lực và trả lại quyền lãnh đạo đất nước cho Morsi. Lại có đoàn biểu tình ủng hộ cuộc đảo chính, lên án Morsi. Hai nhóm người, với những chủ trương khác nhau, thường xuyên đụng độ nhau. Lại có người chết, lúc bên này, lúc bên kia. Máu lại đổ đầy trên các đường phố.

Quan sát những gì hiện đang xảy ra tại Ai Cập, thế giới không khỏi lo lắng. Người ta sợ hai viễn cảnh có thể xảy ra: Một, Ai Cập sẽ lâm vào tình trạng nội chiến thảm khốc như Syria hiện nay; và hai, giới quân phiệt lại lên cầm quyền và lại độc tài như chế độ Hosni Mubarak trước đây.

Nhưng dù lo lắng, các cường quốc trên thế giới, kể cả Mỹ và châu Âu, vẫn loay hoay chưa biết đối phó thế nào cả. Thứ nhất, khả năng can thiệp vào cuộc đấu đá nội bộ giữa các lực lượng chính trị tại Ai Cập rất giới hạn; và thứ hai, sự lựa chọn của họ không hề đơn giản: Một mặt, Mohamed Morsi là một tổng thống dân cử; đảo chính ông, do đó, là một hành động vi phạm dân chủ; nhưng mặt khác, Morsi, dù mới cầm quyền, lại nhen nhúm xu hướng độc tài, và, quan trọng nhất, muốn biến Ai Cập thành một quốc gia Hồi giáo. Chỉ riêng điều đó đã hứa hẹn rất nhiều bất ổn trong khu vực. Nhưng ủng hộ tướng Sisi cũng khó không kém: Nó đồng nghĩa với việc ủng hộ một hành động phản dân chủ, ủng hộ việc dùng quân đội để đàn áp dân chúng, và, đặc biệt hơn nữa, không ai dám chắc Sisi sẽ không biến thành một nhà độc tài quân phiệt mới.

Chỉ có hai điều hầu như mọi người đều đồng ý với nhau: Một, tình hình chính trị Ai Cập đang bị khủng hoảng nghiêm trọng, và hai, con đường dân chủ hóa của họ còn rất nhiều chông gai. Không ai biết họ sẽ đi về đâu.

Giáo sư Shibley Telhami, một chuyên gia về Trung Đông, cho sự khủng hoảng tại Ai Cập hiện nay chủ yếu xuất phát từ sự khủng hoảng về bản sắc (identity crisis). Theo ông, dân chúng Ai Cập có hai đặc điểm nổi bật. Thứ nhất, phần lớn người Ai Cập tự xem họ là người Hồi giáo và Ả Rập hơn là người Ai Cập; và thứ hai, họ thường tự hào họ là những người sùng đạo nhất trên thế giới.

Giáo sư Mansoor Moaddel cũng đồng ý như vậy. Theo ông, trong cả hai cuộc điều tra năm 2001 và năm 2007, chỉ có 8% người Ai Cập xem họ, trước hết, là người Ai Cập, trong khi đó có đến 81% lại xem họ, trước hết, là người Hồi giáo. Sau cuộc cách mạng năm 2011, số người tự xem họ trước hết là người Ai Cập tăng lên đến 50%. Số người muốn biến luật quốc gia thành luật Hồi giáo cũng giảm xuống. Tuy nhiên, những con số này cũng rất bấp bênh. Kết quả các cuộc thăm dò dư luận vẫn khác với kết quả các cuộc bỏ phiếu tại Ai Cập sau đó.

Nói cách khác, ở Ai Cập, ý thức tôn giáo mạnh và sâu hơn hẳn ý thức dân tộc. Hậu quả là, với đại đa số dân chúng, vẫn chưa có sự tách biệt giữa tôn giáo và chính trị, giữa thần quyền và thế quyền. Bởi vậy, khi có quyền trong tay, điều họ nhắm tới, trước hết, không phải là dân chủ hóa - dân chủ cho mọi người, bất kể tôn giáo - mà là khẳng định vị thế thống trị của Hồi giáo. Suốt hơn hai năm qua, mô hình chính trị được xem là lý tưởng đối với phần lớn người Ai Cập không phải là các chế độ dân chủ giàu mạnh ở Tây phương mà chính là Thổ Nhĩ Kỳ, một quốc gia dân chủ theo kiểu Hồi giáo, do một đảng Hồi giáo cai trị.

Những thử thách mà người Ai Cập đang đối diện, do đó, cũng là những thử thách của hầu hết các quốc gia Hồi giáo ở Trung Đông và Bắc Phi hiện nay. Một mặt, việc kết hợp giữa Hồi giáo và dân chủ chưa có truyền thống mạnh để người ta có thể dễ dàng bắt chước. Mặt khác, kể từ sau biến cố 11 tháng 9 năm 2001, phần lớn người Hồi giáo đều bị mặc cảm là bị Tây phương ghét bỏ và nghi kỵ, từ đó, họ dễ có tâm lý kháng cự tại Tây phương vốn được xây dựng trên bảng giá trị có tính chất thế tục và dân chủ. Khi kháng cự như vậy, người ta dễ có xu hướng bảo thủ và cực đoan trong cách suy nghĩ dựa trên thần quyền và tinh thần loại trừ những người có niềm tin khác mình.

Như vậy, hai vấn đề mà người Ai Cập cũng như phần lớn người Ả Rập phải khắc phục trước hết là, một, đồng ý việc tách thần quyền ra khỏi thế quyền, và hai, xây dựng các xã hội dân sự dựa trên tinh thần bình đẳng, cởi mở và hợp tác. Có như vậy, một nền dân chủ thực sự mới có thể được xây dựng và vững mạnh.

* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.



21/8/13

Thiền Phong Phạm Tuấn - NGUYỄN DU VÀ “VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH”...

                           

                        
                        
                        NGUYỄN DU VÀ “VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH”
TRONG TƯƠNG QUAN VĂN HÓA PHẬT GIÁO


Thiền Phong Phạm Tuấn
Thác là thể phách - còn là tinh anh
(Nguyễn Du)

Cúng mười loại cô hồn là loại hình văn hóa nghi thức Phật giáo dùng trong ngày rằm tháng bảy hàng năm, để siêu thoát cho các cô hồn trong lục đạo được ăn uống tránh đói khổ, siêu sinh lên cõi trời thanh tịnh, lạc đạo. Với mười loại cô hồn, bài Văn tế thập loại chúng sinh (gọi tắt là Văn tế) tương truyền là của Nguyễn Du không những chủ yếu trong nghi thức mà còn là một tác phẩm văn học Nôm có giá trị.

Trước tiên chúng tôi tìm về lễ nghi thí thực mà đến nay bài văn này vẫn dùng trong cúng cô hồn ngày rằm tháng bảy. Khi nghiên cứu về văn bản Văn tế, các học giả đi trước cũng nhìn nhận rằng, bài văn được dùng trong lễ nghi Phật giáo, tuy nhiên chưa ai tìm nguồn gốc chuyển thể, phóng tác tác phẩm. Nguồn gốc khoa cúng thí thực từ câu chuyện trong Phật kinh bảo điển, cho biết Diện Nhiên thị hiện cho A Nan và đức Phật dạy nghi thức cúng thí thực. Các bản kinh Phật về thí thực và lễ nghi được lưu lại rất đầy đủ trong bộ Mật tông của Đại tạng kinh do Thật-xoa-nan-đà, Kim Cương Trí và học trò là Bất Không chuyển dịch như: Thí chư ngạ quỹ ẩm thực cập thủy pháp, Du-già tập yếu cứu A-Nan Đà-la-ni nghi quỹ, Phật thuyết Cứu Diện nhiên ngạ quỹ đà la ni thần chú... hoặc các bản nghi thức trong Vạn tục tạng kinh của các tác giả đời Minh Thanh.

Trong bộ Mật tông của Đại tạng kinh như 瑜 伽 集 要 焰 口 施 食 儀 Du già tập yếu Diệm khẩu thí thực nghi, 1 quyển không rõ dịch giả, ghi rõ nghi thức cúng thí thực vào rằm tháng bảy. Khoa nghi tổng hợp các chân ngôn, các lời chú, quyết, bao gồm thân, khẩu, ý trong hành trì của Mật tông để đạt hiệu quả dẫn dụ cho cô hồn, ngạ quỹ được cứu vớt, thoát khỏi địa ngục khổ đói. Về sau, sự kết hợp tín ngưỡng bản địa Trung Quốc và Mật tông đã cho ra đời nghi thức cúng Thủy lục chư khoa bởi pháp sư Bất Động ở núi Mông Sơn. Đàn cúng Mông Sơn ngày nay vẫn thịnh hành trong nghi thức cúng ngày rằm tháng bảy ở Trung Quốc cũng như Việt Nam. Tuy nhiên trong văn bản Hán thì khoa cúng Mông Sơn là một dạng tổng hợp và rút gọn của Nghi quỹ thí thực. Có thể nói bản Nghi quỹ thí thực do Châu Hoằng Vân Thê hiệu chỉnh là chuẩn mực cho các bản về sau, đồng thời cũng đơn giản hơn. Ông không những hiệu chỉnh mà còn chú giải tường tận cho Nghi quỹ Du già truyền bản sang Việt Nam.

Chúng tôi chưa có điều kiện khảo cứu kĩ về khoa cúng thí thực ở Việt Nam,nhưng theo Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang thì từ thời Trần đã có nghi thức cúng cô hồn, cho biết Huyền Quang đã từng đăng đàn chẩn tế. Đồng thời trong các chùa Việt lưu truyền sách Bảo Đỉnh hành trì tập hợp khoa nghi bí mật nội truyền do Huyền Quang tổ sư soạn thảo cũng phần nào nói lên việc thịnh hành nghi thức Phật giáo. Hơn thế, các bộ sách sử như Việt sử lược, Đại Việt sử kí toàn thư.... đều ghi chép đời Trần nước ta đã xin vua Tống Đại tạng kinh. Điều này phần nào nói lên Nghi quỹ thí thực tồn tại ở nước ta từ rất sớm. Thời Lê - Trịnh - Nguyễn, đàn Thủy lục được Chuyết Chuyết tiến hành để bảo dương độ âm cho tướng sĩ bại vong trong chiến tranh được nhiều tư liệu Hán Nôm ghi lại. Bộ Thủy lục từ bản Chân Nguyên (1709) đến bản gần đây nhất là năm 1894 đã trải qua nhiều lần in nhưng nội dung không có nhiều dị biệt. Ngoài ra, bản Tiểu Du già thí thực pháp, cũng được Phúc Điền hòa thượng cho khắc in tại chùa Đại Quang xã Phú Nhi (Sơn Tây - Hà Tây) năm Thiệu Trị 4 (1844) đầy đủ nghi tiết cúng Thí thực cho cô hồn, giống bản của Châu Hoằng đời Minh. Điều này cho biết vào thời Lê - Trịnh và sang thời Nguyễn nghi thức cúng cô hồn rất thịnh hành ở nước ta, truyền thừa từ Trung Quốc sang Việt Nam cũng giống như các truyền bản văn học cùng thời, và việc biên dịch Văn tế từ Hán sang văn bản Nôm là điều có thể.

Bài Văn tế bao gồm 184 câu, chia ra làm ba phần chính: Phần đầu giới thiệu cảnh não nề của tháng bảy mưa dầm sùi sụt, cảnh lặng lẽ man mác, buồn thương...; Phần thứ hai nói rõ mười loại cô hồn, đây là phần chính của bài văn; Phần cuối kết luận, mở hướng cho con người đi vào con đường lương thiện, theo cầu đạo Phật từ bi để không sa đọa vào cô hồn quỷ đói. Cả ba phần đều với giọng văn thê thiết, vạch hướng con người đi vào con đường từ bi lương thiện để thoát khỏi cảnh tai ương khổ ai của kiếp nhân quả luân hồi.
Phần thứ hai, tức phần chính bao gồm 10 loại cô hồn chúng tôi thấy có nhiều điểm tương quan với Nghi quỹ Du già thí thực. Vì vậy, trong bài viết này, chúng tôi so sánh văn bản Hán là Du già tập yếu thí thực nghi quỹ 施食 (gọi tắt là bản Du già) do Châu Hoằng đời Minh soạn với bản Văn tế được GS. Hoàng Xuân Hãn giới thiệu. Chúng tôi sẽ lấy bản Hán làm bản chính, để so sánh sự thay đổi thứ tự trong hai bản.
So sánh “thập loại cô hồn” trong hai bản:

Bản Du già


Bản Văn tế
1. Vua chúa vương hầu.
2. Anh hùng tướng soái.
3. Tể thần.
4. Văn nhân tài tử.
5. Tăng ni - xuất gia.
6. Đạo sĩ.
7. Buôn bán chết xa.
8. Binh lính chết trận.
9. Mẹ con sản nạn.
10. Man rợ, điếc, mù,...
11. Mỹ nhân khuê các.
12. Đói, rét... chết nạn.
13. Tổng hợp “thập loại cô hồn” 
      trong “lục đạo”.


1. Vua chúa bị giết.
2. Quý nữ liều thân.
3. Tể thần thất thế.
4. Đại tướng bại trận.
5. Ham giàu chết đường.
6. Ham danh chết quán.
7. Buôn bán chết xa.
8. Binh lính chết trận.
9. Kĩ nữ cô đơn.
10. Chết bởi nghèo nàn
tai họa.
Tuy hai bản con số cô hồn liệt kê khác nhau nhưng hệ số cô hồn được ấn định là con số 10 (thập loại). Đồng thời “thập loại cô hồn” là số phiếm chỉ cho tất cả các loại cô hồn tồn tại trong “lục đạo”. Các bản trong Đại tạng, Vạn tục tạng hay các nghi thức dân gian đều ghi là 10 loại cô hồn (thập loại cô hồn) nhưng không bản nào cố định con số 10 loại. Bản Văn tế tóm gọn là 10 loại cô hồn nhưng loại thứ 10 nếu chia nhỏ ra thì cũng có thể thành 13 loại, như bản Du già. Tuy số loại cô hồn trong hai bản về cơ bản không khác nhau, nhưng thứ tự các loại cô hồn cũng như loại cô hồn trong hai bản khác nhau.

Điều đáng nói là bản Văn tế - bản Nôm, tác giả đã không kể người Tăng ni xuất gia đầuPhật và Đạo sĩ như trong bản Du già. Chúng tôi không rõ tác giả có dụng ý gì khi loại trừ hai loại cô hồn trên. Các bản Nghi quỹ Du già không loại trừ Tăng ni xuất gia và Đạo sĩ trong “lục đạo cô hồn”, cho thấy hoàn toàn phù hợp với thế giới quan của Phật giáo.


Bản Du giàVăn tế có nhiều điểm giống nhau trong phân loại cô hồn, điều đó thể hiện trên phương diện nào đó của ngôn ngữ cũng như dụng ý. Tuy nhiên, từ một văn bản Hán theo lối của bản Du già, tác giả Văn tế đã phóng tác uyển chuyển thành dạng văn song thất lục bát:

Ví dụ đoạn 2 bản Du già:

一心 請。 將。 侯。 里。() 帳。 勞。 煙。 望。 ( ) 在。 滿 流。 ( )

Phiên âm:

Nhất tâm triệu thỉnh: Trúc đàn bái tướng, kiến tiết phong hầu. Lực di kim đỉnh thiên quân, thân tác trường thành vạn lí. Bạch hà hàn báo trướng, đồ cần hãn mã chi lao; Phong tức lang yên, không phụ phan long chi vọng. Ô hô ! Tướng quân chiến mã kim hà tại; Dã thảo nhàn hoa mãn địa sầu. Như thị anh hùng tướng suất chi lưu, nhất loại cô hồn đẳng chúng v.v...

Dịch nghĩa:

Một lòng triệu thỉnh: xây đàn bái tướng, dựng tiết phong hầu. Sức dời kimđỉnh nghìn cân, thân làm trường thành muôn dặm. Bạch sương hàn trướng báo, uổng sức trâu ngựa nhọc nhằn; gió tạnh lang yên, luống phụ vương hầu ngóng vọng. Ô hô ! tướng quân chiến mã nay đâu tá; Cỏ dại hoa suông khắp đất buồn. Đấy là loại cô hồn anh hùng tướng soái.
Với đoạn 4 - Đại tướng bại trận, bản Văn tế:
Nào những kẻ bài binh bố trận
Vâng mệnh sai lĩnh ấn nguyên nhung
Gió mưa thét rống đùng đùng
Phơi thây trăm họ làm công một người
Khi thất thế cung rơi tên lạc
Bãi sa trường thịt nát máu trôi
Bơ vơ góc bể chân trời
Bó thân da ngựa biết vùi vào đâu
Trời xâm xẩm mưa gào gió thét
Khí âm ngưng mù mịt trước sau
Năm năm sương nắng dãi dầu
Còn đâu tế tự, còn đâu chưng thường.
Cho thấy văn bản phóng tác uyển chuyển mạch lạc và phần nào nói rõ hơn dụng ý cũng như mặt ngôn ngữ Việt hàm súc mà bản Văn tế dường như không hề dịch sát nguyên văn từ bản Du già, tuy nhiên âm hưởng buồn và tình tiết có nhiều điểm tương tự.

Để thấy rõ hơn chúng tôi dẫn dụ so sánh đoạn 11 của Du già:

人。 妍。 俏。 () ( ) 日風 見。 寒。 流。 ( )

Phiên âm:

Nhất tâm triệu thỉnh: Cung vi mĩ nữ, khuê các giai nhân. Yên chi họa diện tranh nghiên, long xạ huân y cạnh tiếu. (Bạch), vân thu vũ yết, hồn tiêu Kim Cốc chi viên; Nguyệt khuyết hoa tàn, trường đoạn Mã Ngôi chi dịch. Ô hô! tích nhật phong lưu đô bất kiến; Lục dương phương thảo độc lâu hàn. Như thị quần thoa phụ nữ chi lưu, nhất loại cô hồn đẳng chúng ,... v. v....

Dịch nghĩa:

Một lòng triệu thỉnh: mỹ nữ cấm cung, giai nhân khuê các. Phấn son vẽ mặt đua duyên, áo ướp xạ hương khoe sắc. (Bạch) mây tạnh mưa tan, hồn về vườn cũ Kim Cốc; Trăng khuyết, hoa tàn, ruột đứt trạm quán Mã ngôi (như Dương Quý Phi thời Đường). Ô hô ! Dấu xưa phong lưu giờ đâu thấy; cỏ thơm liễu biếc đống xương tàn. Như vậy là loại cô hồn quần xoa phụ nữ.

Với đoạn 2 -Quý nữ liều thân, bản Văn tế:
Nào những kẻ màn lan trướng huệ
Những cậy mình cung Quế Hằng nga
Một phen thay đổi sơn hà
Tấm thân mảnh lá biết là làm sao
Lên lầu cao, xuống dòng nước chảy
Phận đã đành trâm gãy bình rơi
Khi sao đông đúc vui cười
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương
Thảm thiết nhẽ không hương không khói
Hồn vẩn vơ bãi cói ngàn sim
Thương thay chân yếu tay mềm
Càng năm càng héo, càng đêm càng dàu.
Qua so sánh cho thấy hai văn bản có sự dị biệt không nhỏ. Bản Du già mang tính chất quy phạm, ước lệ và sáo mòn. Từ vua chúa công hầu, khanh tướng mang tính chất ước lệ như đưa hình ảnh Lưu Bang vua Hán dựng đàn bái Hàn Tín làm tướng, hay một thân phận Dương Quý Phi khi đến Mã Ngôi bị vua Đường giết (Châu Hoằng chú bản Du già), v.v...Tính chất ước lệ tượng trưng thể hiện rõ trong quan điểm đạo đức tôn ti trật tự từ cao xuống thấp, đứng đầu là vua rồi dần dần thấp hơn trong thứ bậc. Đồng thời, hình thức diễn đạt của văn bản thuần túy là một nghi thức bao gồm các phần “nhất tâm triệu thỉnh”, “ô hô”, “bạch”,... trong mỗi loại cô hồn, cũng như chủ thể tác giả hoàn toàn cách biệt, không gắn sự thương cảm trong ngôn ngữ tác phẩm. Trong khi tác phẩm Nôm Việt, tác giả bản Văn tế đã đứng trong cái bi thương của kiếp người để viết lên những trang từ lòng người. Vị thế của người viết đã khác với bản Du già, hòa nhập trong ngôn ngữ, chủ động và sáng tạo. Giữa hai bản thì bản Văn tế uyển chuyển và tình cảm, cái tôi thương cảm của tác giả thể hiện đến với từng thân phận con người. Bản Văn tế không có cái tính chất sáo mòn của nghi lễ, mỗi thân phận cô hồn đều được nhìn trên nhiều góc độ, của chủ nghĩa nhân đạo. Hơn thế, tác giả không chỉ hòa nhập trong bối cảnh, hòa mình trong bài Văn tế mà còn đứng trong vai trò khách quan với tâm thái của người ở trên tất cả, để nhìn nhận xuống bên dưới là vua tôi khanh tướng. Cái tâm thái đó thể hiện của người “bề trên” khi tác giả gọi vua tôi, khanh tướng đều là “kẻ”:

“Nào những kẻ tính đường kiểu hạnh” (nói về vua chúa bị giết, câu 21).
“Nào những kẻ màn lan trướng huệ” (nói về quý nữ liều thân, câu 33).
v.v...

Nhưng cũng là cái tâm thái nhập vào ngôn ngữ đau thương cho thân phận con người. Dưới đây tác giả than cho thân phận phụ nữ:

“Đau đớn thay phận đàn bà
Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu”
(câu 116).
hay thương cảm cho người tướng bại trận:
“Bơ vơ góc bể chân trời
Bó thân da ngựa biết vùi vào đâu”
(câu 64).

Từ so sánh chúng tôi nhận định:

- Trong văn bản Hán cũng như Nôm đều ghi là “thập loại chúng sinh” tức là 10 loại cô hồn. Tuy nhiên trong cả văn bản Nôm và Hán đều không dừng lại ở con số 10, mà là đến 13 loại cô hồn và mở ra con số không cố định. Trong nhân sinh quan Phật giáo, 10 loại cô hồn chỉ là dạng tượng trưng trong tổng thể các loại cô hồn trong “lục đạo”.

- Vị thế tác giả tác phẩm là hoàn toàn chủ quan. Tác giả nhìn nhận tất cả các loại cô hồn bằng tình cảm nhân đạo, bằng vị thế bao trùm, tổng quát nhưng không mất đi tình cảm đau thương. Điều này có phần thích hợp với giai đoạn xã hội có nhiều biến chuyển cuối Lê đầu Nguyễn, đất nước loạn ly, nhân dân khổ sở, đói rách mà tâm thức tác giả với vị vua sáng tướng hiền không còn. Bộ mặt xã hội thể hiện trên sự miêu tả các loại cô hồn, tác giả đã đồng cảm, thương cảm cho kiếp người cũng như cho chính bản thân tác giả trong sự bế tắc, bộ mặt đau thương của xã hội.

- Dụng ý ban đầu của chúng tôi dựa trên nội chứng của văn bản để xác định tác giả, và không loại trừ khả năng tác giả bài Văn tế không phải là Nguyễn Du. Tuy nhiên quá trình so sánh, nhìn nhận trong tương quan thời đại và con người, ngôn ngữ và văn bản thì dần chúng tôi thấy đồng cảm hơn với các học giả đi trước như cụ Lê Thước, GS. Hoàng Xuân Hãn khi cho rằng tác giả bài Văn tế là Nguyễn Du.

- Nguyễn Du đã phóng tác bài Văn tế từ một khoa nghi Phật giáo, khoa cúng Du già, chuyển thể một dạng thức Hán văn 10 loại cô hồn thành một bài Văn tế uyển chuyển về văn từ và ngữ nghĩa. Bản Nôm có phần mở đầu, phần giữa và kết thúc dễ đọc dễ thuộc và không khó trong phổ biến, tạo hiệu quả tốt hơn cho người đọc người nghe trong con đường hướng thiện mà sự biểu hiện của dạng thức nghi thức là phương tiện dẫn dụ.

Nhiều người đã tiến hành phân tích cũng như nói về nghệ thuật ngôn ngữ của tác giả Nguyễn Du trong diễn tiến văn bản Nôm. Chúng tôi không nghĩ có thể tiến sát đến dụng ý của tác giả, nhưng thông qua nghệ thuật ngôn ngữ phần nào có thể tiếp cận con người và thời đại đã đản sinh nên áng văn chương này.

Tác giả đã có nhiều thủ pháp khi sử dụng nhiều cặp đối nhau trong các câu tám (của câu lục bát), ngắt câu thành hai, mỗi bên 4 chữ tạo nên cặp tiểu đối rất chỉnh thể. Mỗi câu có một vế đối trong chỉnh thể của nó, tạo thành cặp đối, tạo nên nhịp điệu cho câu và nhấn mạnh ý nghĩa cần diễn đạt. Câu hàm súc hơn cũng như uyển chuyển hơn. Dưới đây là một vài ví dụ để thấy rõ thủ pháp sử dụng ngôn từ một cách điêu luyện của tác giả:

“Ngàn lau khảm bạc; giếng ngô rụng vàng” (câu 4)
“Máu tươi lai láng; xương khô rã rời” (câu 28)
“Đã đêm Quản Cát; lại ngày Y Chu” (câu 48)
.....
Cho thấy, các vế tạo nên một cặp đối tương xứng về nhịp điệu âm vận bằng trắc, như “Anh em: thiên hạ” đối với “láng giềng: người dưng” (câu 88) hay “Ư ư tiếng khóc” với “xót xa nỗi lòng” (câu 128). Đồng thời cũng đối cả các cặp từ láy luyến, tạo nên hiệu quả đặc biệt cho ngôn ngữ biểu cảm. Số lượng câu tiểu đối trong toàn bài là 13 câu, chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong chỉnh thể một cặp thơ song thất lục bát.

Hơn nữa, bài Văn tế có rất nhiều cặp từ láy luyến. Đây cũng là điều rất đặc biệt trong phong cách sử dụng ngôn ngữ của tác giả. Các cặp láy luyến như: “xùi xụt” (câu 1), “man mác” (câu 5), “lác đác” (câu 6), “thiết tha” (câu 7), “tối tăm” (câu 9),.... Toàn bài gồm 45 cặp láy đôi như vậy.

Ngoài ra còn các dạng thức láy ba, láy bốn khác mà chúng tôi chưa khảo cứu kỹ lưỡng. Đồng thời, phương diện ngôn ngữ chúng tôi cũng chỉ nêu các cặp láy mà thôi chứ không phân tích về hình thức láy âm, láy vận, láy phụ âm hay nguyên âm,....

Tạo nên cú pháp với các điệp láy, tác giả đã làm cho hiệu quả câu thơ uyển chuyển hơn, dễ đọc, hàm xúc và đảm bảo biểu đạt trong ngôn ngữ. Văn tế sử dụng trong nghi thức Phật giáo, cúng ngày rằm tháng bảy nên phương diện ngữ âm đọc đạt được hiệu quả, giọng điệu ngâm nga phù hợp cũng như tạo nên âm hưởng thê thiết, bi thương.

Dụng pháp trong ngôn ngữ Phật giáo đã được tác giả Nguyễn Du sử dụng nhuần nhuyễn qua hình ảnh tôn giáo nằm sâu trong lớp lang văn hóa của bài Văn tế. Là một văn bản chuyển thể từ dạng thức Hán sang Nôm, tác giả đã vượt qua cái khô cứng của ngôn ngữ văn chương biền ngẫu Hán, một văn bản ngôn ngữ Phật giáo để chuyển thể sang ngôn ngữ Nôm Việt thuần tuý, gần gũi và thuần phác, có tính chất bác học. Chúng tôi muốn nói tới hệ thống văn hóa Phật giáo trong bài Văn tế, để có thể nhìn nhận một khía cạnh nào đó trong tư tưởng của tác giả thông qua thế giới quan Phật giáo phổ hợp lên dạng thức ngôn ngữ Nôm Việt.

Thực ra, Nguyễn Du không sử dụng quá nhiều thuật ngữ Phật giáo trong toàn văn, duy chỉ phần thứ tư “cầu Phật giải thoát cô hồn” là dẫn dụ một số thuật ngữ Phật giáo, nhưng hàm ý của toàn bài văn mang nội dung tín ngưỡng tôn giáo cũng như một nội hàm triết thuyết. Ngay như phần đầu tác giả viết:

“Muôn nhờ Phật lực từ bi
Giải oan cứu khổ hồn về Tây phương”
(câu 20)

Đã rõ ràng cho thấy một dạng thức của tư tưởng người Việt trong cảm quan văn hóa Phật giáo thể hiện qua ngôn ngữ. Hồn được giải oan cứu khổ, không xa rời kinh điển Phật giáo, Phật thuyết Cứu Diện nhiên ngạ quỷ đà la ni thần chú trong bộ Mật tông nói về cúng thí thực cô hồn, để cô hồn “thoát khỏi quỷ đói để sinh lên cõi trời” (li ngạ quỷ chi khổ, đắc sinh thiên thượng ). Nhưng rõ ràng ngôn ngữ gần gũi với người Việt, gần gũi với tín ngưỡng siêu sinh Tây phương cực lạc, như hình thức tôn thờ Phật Di lặc và Bồ tát trong dân gian. “Giải oan cứu khổ” đã gắn với ngôn ngữ đời thường, gắn với cuộc sống của con người mong cầu vượt qua được “oan”, “khổ” để đạt đến cuộc sống lương thiện tốt đẹp. Như đoạn cuối cũng viết “nhờ Phật lực siêu sinh Tịnh độ...”, cả đoạn này về sau đều hướng con người đến với Phật pháp, để được siêu thoát khỏi kiếp đời khổ đau này. Tác giả viết:

“Ai ai lấy Phật làm lòng
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi”
(câu 172)

Cho thấy sự đúc kết lại là con người nên lấy tâm làm tâm Phật, “tâm tức thị Phật” thì có thể thành chính quả, đến với cõi trời thanh tịnh, không phải chịu cảnh khổ đau nữa.

Toàn bài văn là không gian ảm đạm thê lương của “tiết tháng bảy”. Cõi âm như được tái hiện trên cõi dương bằng hiện thân của các loại cô hồn trong xã hội. Phải chăng đây cũng là bộ mặt xã hội mà tác giả dụng ý thể hiện qua hình thức ngôn ngữ, phần nào nói lên cái đau đời trong tâm thức của ông ? Có thể nói Nguyễn Du đã đau cái đau của nhân gian, của xã hội trong một giai kì biến loạn. Bản Văn tế không chỉ là một nghi thức trong khoa cúng thí thực chẩn tế cô hồn ngày rằm tháng bảy hàng năm mà hơn thế là bộ mặt của một giai đoạn tăm tối, nhân dân khổ cực, chiến tranh và đói khát gắn liền đưa con người vào vòng khổ não.

Chưa phải kết ngữ cho nghiên cứu về Nguyễn Du, những cố gắng của chúng tôi chỉ nhằm làm rõ hơn con đường chuyển thể từ Hán sang Nôm của bài Văn tế. Bài Văn tế đã thể hiện được nhuần nhuyễn, sinh động và bi thương hơn trong dạng thức Nôm Việt. Đồng thời cho thấy tác giả gửi gắm tâm sự với chúng sinh, hướng thiện con người sống theo đạo từ bi Phật giáo. Nhân sinh quan của tác giả đặt trong thế giới quan Phật giáo thể hiện tấm lòng nhân đạo thiết tha với đất nước với dân tộc trong giai kì nhiều biến chuyển.
Tài liệu tham khảo
(1) Nguyễn Du: Chiêu hồn thập loại chúng sinh, T.T Thích Tâm Châu đề tựa, Đàm Quang Thiện hiệu chú, Nam Chi Tùng thư xuất bản, Sài gòn 1965, tr.64, 65.
(2) La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, Tập 3, Nxb. Giáo dục, H. 1998, tr.1292.
(3) Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb. Văn học, H. 2000.
(4) Lê Thánh Tông, Thập giới cô hồn quốc ngữ văn, trong Hồng Đức quốc âm thi tập, Phan Trọng Điềm - Bùi Văn Nguyên, phiên âm, sưu tầm, giới thiệu, Nxb. Văn hóa, Viện Văn học, H. 1962.
(4) Ứng phó dư biên tổng tập, kí hiệu AB.658 và AB.21, tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
(5) Thủy lục chư khoa, Chân Nguyên Tuệ Đăng in năm Vĩnh Thịnh 5 triều Lê (1709), ký hiệu AC.691 và AC.340 tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
(6) Thủy lục chư khoa, in năm Thành Thái thứ 6 (1894) gồm 6 tập 30 quyển trong đó có khoa Mông Sơn, trùng san tại Vĩnh Phúc hợp phái Phù Lãng, Vũ Giang, Từ Sơn, Bắc Ninh, bản lưu tại chùa Ngọc Quán, Hà Nội.
(7) Tiểu Du già thí thực pháp, kí hiệu AC.961, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hòa thượng Phúc Điền in tại chùa Phú Nhi xã Đại Quang, Sơn Tây, năm 1844.
(8) Du già tập yếu diệm khẩu thí thực nghi T.21, Đại tạng kinh, kí hiệu: No.1320.
(9) Phật thuyết Cứu Diện nhiên ngạ quỹ đà la ni thần chú, Đại tạng kinh, No.13114.
(10) Vạn tục tạng kinh, quyển 59:
Kí hiệu 1080 - Du già tập yếu thí thực nghi quỹ - Châu Hoằng triều Minh trùng đính.
Kí hiệu 1081 - Tu thiết Du già tập yếu thí thực đàn nghi chú - Châu Hoằng bổ chú.
Kí hiệu 1082 - Ư mật sâm thí thực chỉ khái - Pháp Tạng triều Thanh viết.
Kí hiệu 1083- Tu tập Du già tập yếu thí thực đàn nghi - Pháp Tạng triều Thanh viết.
Kí hiệu 1084 -Du già diệm khẩu chú tập toản yếu nghi quỹ - Tịch Cù đời Thanh soạn./.
(Tạp chí Hán Nôm, Số 2 (75) 2006; Tr. 50-57).

Nam Mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

_________________________________

VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH
Nguyễn Du


Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt xương khô
Não người thay buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng...
Đường bạch dương bóng chiều man mác,
Dịp đường lê lác đác mưa sa
Lòng nào lòng chẳng thiết tha
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.
Trong trường dạ tối tăm trời đất,
Có khôn thiêng phảng phất u minh...
Thương thay thập loại chúng sinh
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người
Hương lửa đã không nơi nương tựa
Hồn mồ côi lần lữa bấy niên...
Còn chi ai khá, ai hèn
Còn chi mà nói ai hiền ai ngu!
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Nước tĩnh đàn sái hạt dương chi
Muôn nhờ đức Phật từ bi
Giải oan cứu khổ độ về tây phương.

Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh
Chí những lăm cất gánh non sông
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởng khi thế khuất, vận cùng mà đau!
Bỗng phút đâu mưa sa, ngói lở
Khôn đem mình làm đứa thất phu
Giàu sang càng nặng oán thù
Máu tươi lai láng, xương khô rụng rời
Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
Quỷ không đầu đứng khóc đêm mưa
Cho hay thành bại là cơ
Mà cô hồn biết bao giờ cho tan.
Cũng có kẻ màn lan trướng huệ
Những cậy mình cung quế Hằng Nga,
Một phen thay đổi sơn hà,
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?
Trên lầu cao dưới dòng nước chảy
Phận đã đành trâm gãy, bình rơi
Khi sao đông đúc vui cười
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.
Đau đớn nhẽ không hương không khói
Hồn ngẩn ngơ dòng suối, rừng sim.
Thương thay chân yếu, tay mềm
Càng lăm càng héo một đêm, một dài.
Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn bút son thác sống ở tay
Kinh luân găm một túi đầy
Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.
Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm,
Trăm loài ma mồ nấm chung quanh
Ngàn vàn khôn đổi được mình
Lầu ca viện hát tan tành còn đâu?
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước
Biết lấy ai bát nước nén nhang?
Cô hồn thất thểu dọc ngang
Nặng oan khôn nhỏ tìm đường hóa sinh?
Kìa những kẻ bài binh bố trận
Đổi mình vào cướp ấn nguyên nhung
Gió mưa sấm sét đùng đùng
Phơi thây trăm họ nên công một người.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc
Bãi sa trường thịt nát máu rơi
Mênh mông góc bể chân trời
Nắm xương vô chủ biết rơi chốn nào?

Trời thăm thẳm mưa gào gió thét
Khí âm huyền mờ mịt trước sau
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,
Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?
Cũng có kẻ tính đường trí phú
Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn
Ruột rà không kẻ chí thân
Dẫu làm nên để dành phần cho ai?
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ
Của phù vân dẫu có như không
Sống thời tiền chảy bạc ròng
Thác không đem được một đồng nào đi.
Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm
Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm
Ngẩn ngơ trong quảng đồng chiêm
Nén hương giọt nước biết tìm vào đâu?
Cũng có kẻ rắp cầu chữ qúy
Dẫn mình vào thành thị lân la
Mấy thu lìa cửa lìa nhà
Văn chương đã chắc đâu mà trí thân.
Dọc hàng quán gặp tuần mưa nắng
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng
Anh em thiên hạ láng giềng người dưng
Bóng phần tử xa chừng hương khúc
Bãi tha ma kẻ dọc người ngang
Cô hồn nhờ gửi tha phương
Gió trăng hiu hắt lửa huơng lạnh lùng.
Cũng có kẻ vào sông ra bể,
Cánh buồm mây chạy xế gió đông
Gặp cơn giông tố giữa dòng
Đem thân chôn rấp vào lòng kình nghê.

Cũng có kẻ đi về buôn bán
Đòn gánh tre chín dạn hai vai
Gặp cơn mưa nắng giữa trời
Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?
Cũng có kẻ mắc vào khóa lính
Bỏ cửa nhà gồng gánh việc quan
Nước khe cơm vắt gian nan
Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời
Buổi chiến trận mạng người như rác
Phận đã đành đạn lạc tên rơi
Lập lòe ngọn lửa ma trơi
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương!
Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp
Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa
Ngẩn ngơ khi trở về già
Ai chồng con tá biết là cậy ai?
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa
Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?
Cũng có kẻ nằm cầu gối đất
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi
Thương thay cũng một kiếp người
Sống nhờ hàng xứ chết vùi đường quan.
Cũng có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi mình vào chiếu rách một manh
Nắm xương chôn rấp góc thành
Kiếp nào cỡi được oan tình ấy đi?
Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha
Lấy ai bồng bế xót xa
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.

Kìa những kẻ chìm sông lạc suối
Cũng có người sẩy cối sa cây
Có người leo giếng đứt dây
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.
Người thì mắc sơn tinh thủy quái
Người thì sa nanh sói ngà voi
Có người hay đẻ không nuôi
Có người sa sẩy có người khốn thương.
Gặp phải lúc đi đường lỡ bước
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ?

Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi
Hoặc là nương ngọn suối chân mây
Hoặc là điếm cỏ bóng cây
Hoặc là quán nọ cầu này bơ vơ
Hoặc là nương thần từ Phật tự
Hoặc là nhờ đầu chợ cuối sông
Hoặc là trong quãng đồng không
Hoặc nơi gò đống hoặc vùng lau tre
Sống đã chịu một bề thảm thiết
Ruột héo khô dạ rét căm căm
Dãi dầu trong mấy mươi năm
Thở than dưới đất ăn nằm trên sương
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn
Tắt mặt trời lẩn thẩn tìm ra
Lôi thôi bồng trẻ dắt già
Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.
Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ
Phóng hào quang cứu khổ độ u
Rắp hòa tứ hải quần chu
Não phiền trút sạch oán thù rửa không.
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại
Chuyển pháp luân tam giới thập phương
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao
Mười loài là những loài nào?
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.
Kiếp phù sinh như hình như ảnh
Có chữ rằng:"Vạn cảnh giai không"
Ai ơi lấy Phật làm lòng
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.

Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo
Của có khi bát cháo nén nhang
Gọi là manh áo thoi vàng
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.
Ai đến đây dưới trên ngồi lại
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêụ
Phép thiên biến ít thành nhiều
Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sinh.
Phật hữu tình từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có không không.
Nam mô chư Phật, Pháp, Tăng
Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài.

Tranh “Văn tế thập loại chúng sinh” - Một góc nhìn mới lạ
.