12/9/13

Thơ Cuồng Từ - Lìa xa dòng sông biệt li ngày quá vãng




                                 





  Lìa xa dòng sông biệt li ngày quá vãng       

                                                            Cuồng Từ

Nhìn nhau bỗng thấy sông nhìn núi .
Sông thì sâu mà núi cách ngàn trùng .
Làm sao tôi có thể nhìn tôi .
Làm sao ta có thể nhìn nhau

Nhìn nhau như thể núi nhìn sông .
Sông chối bỏ một thời soi bóng .
Làm sao tôi úp mặt khóc non sông .
Làm sao ta có thể đau lòng ?

Người lìa xa dòng sông biệt li ngày quá vãng .
Tôi làm gì tôi ?
Ta làm gì ta ?
Hư vô một thế kỉ buồn câu thơ xót .
Khóc ta hay khóc phận người ơi !

Nhìn nhau mà tưởng sông bỏ núi .
Tôi như cánh rừng tình yêu từ buổi lửa thiêu rừng ,
trơ gốc cháy ngước nhìn trời giông bão
Nhìn nhau mà như thể dững dưng

Người lìa xa dòng sông biệt li .
Tôi như cánh rừng quên đất nước .
Nhìn nhau .
Nhìn nhau chợt thấy sông còn thức
và non cao gục khóc tự hôm nào

Người lìa xa dòng sông biệt li .
Sông núi nọ thanh tân màu khác lạ .
Cánh rừng xưa vẫn ngày đêm vật vả
nghe rưng rưng sám hối nỗi đau rừng

Sớm nay ,
có con chim Lạc bay về
rưng rưng dòng lệ
Nhìn tôi .
Nhìn tôi .
Cuối cùng kêu thảm ,
rơi
rơi
những hạt máu  vô tình .
Những hạt máu trong veo màu oan trái
của tương lai
hiện tại
ngậm ngùi thay


Người lìa xa dòng sông biệt li .
Tôi mong cánh rừng sống lại
đâm chồi tình yêu
nuôi dưỡng ước mơ rừng vô tội .

Sông là núi  
Tôi là rừng  
Ai được quyền buộc tội ai đây ?


 

 


        Cuồng Từ 
  ( chân dung tự họa )

11/9/13

Nhiều dòng gởi anh Ngô Đa


Nguyễn T Bình

Tập tin:Thanh nien hoc sinh Sai gon.jpgMở đầu, xin tự giới thiệu với anh, tôi dân Sài Gòn trước 1975, từng ngồi ghế giảng đường đại học Văn khoa . Do đó, tôi khá tường tận phong trào SVHS Sài Gòn và một số đô thị miền Nam trước 1975, nếu không nói tôi từng là thành viên trong số đông thành viên “không giấy chứng nhận” của phong trào này. Trung thực mà viết, đối với phong trào SVHS, cũng như đối với lực lượng đàn áp phong trào SVHS, tên anh không nổi như các anh Lê Hiếu Đằng, Huỳnh Tấn Mẫm, Hạ Đình Nguyên, Lê Văn Nuôi và một số anh/chị khác. Tôi viết như vậy vì trên bình diện công khai phong trào SVHS nói chung chỉ có “thủ lĩnh”, không có “thủ trưởng”. Mọi hình thái tập hợp và hành động đều gần như “thanh thiên bạch nhật” trong trường học, trên đường phố dưới hình thức chủ yếu biểu tình và dĩ nhiên các “thủ lĩnh” luôn luôn có mặt ở vị trí hàng đầu vô cùng nguy hiểm, nhưng đó là yêu cầu không thể thiếu đối với người “thủ lĩnh”.

Gần 40 năm đã trôi qua với biết bao phận đời đổi thay cùng vận rủi của đất nước, dân tộc tới mức khiến đầu óc nhiều người không còn muốn nhắc quá khứ, cũng như không còn muốn nghĩ đến hiện tại và tương lai. Bởi, niềm thất vọng lớn quá, sự bế tắc khủng khiếp quá. Dù vậy, khi bất chợt đọc được bài viết “Xin hãy quay lại” ký tên anh đăng trên Tuổi Trẻ ngày 11/9, lòng tôi vẫn bồi hồi, hai mắt bổng đầy nước, cay cay. Vì, trong bài viết đó, anh đã nhắc đến phong trào SVHS mà tôi từng có nhiều kỷ niệm đáng nhớ. Dù nội dung và mục đích chính bài viết này nhằm “thuyết phục” anh Lê Hiếu Đằng “quay về” sau khi anh Đằng đã trở thành Kinh Kha lần thứ hai, chỉ khác ở chổ khi trở thành Kinh Kha lần thứ nhất với bản án “tử hình vắng mặt” anh Đằng còn rất trẻ và khi trở thành Kinh Kha lần thứ hai anh ấy đã vào tuổi “xưa nay hiếm” nhưng vẫn gan dạ khó ai bằng. Tôi thương mến và quí trọng anh Lê Hiếu Đằng. Bởi, nói cách nào đó, ở cả hai thời đoạn tuổi trẻ và tuổi già, anh đều suy nghĩ và hành động đúng yêu cầu đối với một “thủ lĩnh” của ngày xưa cũng như của ngày nay.
Thưa anh Ngô Đa, tôi rất tiếc trong bài viết “Xin hãy quay lại” anh không nhấn mạnh mục tiêu của phong trào SVHS Sài Gòn và các đô thị miền Nam trước 1975 là “chống chiến tranh, đòi hòa bình”. Đây là mục tiêu công khai và là mục tiêu duy nhất đã tập hợp được đông đảo SVHS vào thời điểm đó. Có thể nói thêm, mục tiêu này cũng là niềm mong muốn, nỗi khát khao của số đông đồng bào Sài Gòn và miền Nam bấy giờ. Nhờ vậy, nhờ công khai mục tiêu “chống chiến tranh, đòi hỏi hòa bình”, phong trào SVHS đã lôi cuốn đông đảo tuổi trẻ trong và ngoài trường học cùng nhau tham gia, bất chấp thành phần lý lịch, gia đình. Và cũng nhờ vậy đã xuất hiện rất nhiều “Bà Mẹ Bàn Cờ”, bằng cách này, cách khác hết lòng hết dạ cưu mang, đùm bọc “đám trẻ phong trào SVHS”. Đúng vậy không anh Ngô Đa ?
Tôi tin điều tôi muốn anh nhấn mạnh như nêu ở trên cũng là điều số đông anh chị em từng trực tiếp hay gián tiếp tham gia, ủng hộ, hưởng ứng phong trào SVHS Sài Gòn và các đô thị miền Nam mong muốn. Ai ngộ nhận hoặc nói sai, viết sai về mục tiêu, tính chất phong trào này là không đàng hoàng, trung thực. Hết chiến tranh, hòa bình lập lại, đương nhiên phong trào SVHS chỉ còn là kỷ niệm trong ký ức cuộc đời nhiều người và đó mãi mãi là kỷ niệm đẹp. Dù nghe nói trong “tổng kết thắng lợi” người ta không đánh giá đúng mức tầm ảnh hưởng quan trọng của “mũi tiến công chính trị ở Sài Gòn và các đô thị miền Nam” – trong đó có phong trào SVHS. Tôi cũng như rất nhiều anh chị em từng tham gia phong trào không (thèm) suy nghĩ, đoái hoài gì về sự đánh giá này. Bởi lẽ, về chính thức, phong trào SVHS không phải là một hình thái hoạt động của bất cứ tổ chức chính trị đảng phái xã hội nào, dù trong bí mật có sự giật dây của một số VC nằm vùng, nhưng lúc bấy giờ các vị này bố bảo cũng không dám hé lộ ra, trước tiên là vì các vị thuộc thiểu số nhỏ nhoi so với hàng trăm ngàn SVHS thuần túy tự nguyện tự giác tham gia “chống chiến tranh, đòi hòa bình”. Nếu lúc đó số đông anh chị em tham gia phong trào biết có sự trà trộn, giật dây của VC chắc chắn phong trào xẹp ngay. Chống chiến tranh, đòi hòa bình là nguyện vọng chính đáng, đương nhiên của mọi người Việt Nam lương thiện, chứ không riêng gì tuổi trẻ Sài Gòn và các đô thị miền Nam trước 1975. Có thể xem phong trào SVHS là một hình thái biểu lộ công khai tấm lòng “yêu nước thương nòi” đơn thuần của tuổi trẻ miền Nam trước 1975. Chứ không thể úp bộ phong trào này là “phong trào hành động cách mạng gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Cái nào ra cái đó, phải không anh Ngô Đa ?
Tôi xin kể anh nghe một chuyện. Tôi có thằng bạn cùng tham gia phong trào SVHS rất tích cực, vô tư. Tốt nghiệp đại học không hiểu sao nó bị bắt quân dịch, làm phi công máy bay trinh sát L19. Hòa bình lập lại, nó bị bắt đi học tập cải tạo mấy năm, rồi sau đó qua Mỹ định cư theo chương trình HO. Năm 1997 tôi gặp lại nó tại Mỹ. Nó kể: “Hồi đi lính, tao bị tụi an ninh quân đội lục vấn hoài, tụi nó hỏi tao trước đây có tham gia phong trào SVHS không. Tao biết tụi nó đã nắm tin rồi, nên tao trả lời có, tụi nó hỏi tiếp vậy tao là Vi Xi phải không, tao trả lời không phải. Tụi nó buộc tao chứng minh, tao nói trong lý lịch tao đã khai rõ ba tao là sĩ quan cảnh sát đặc biệt không đội trời chung với Vi Xi, tụi nó hỏi ngược lại vậy tại sao tao tham gia phong trào SVHS, tao trả lời vì tao không muốn chiến tranh chỉ muốn hòa bình. Tụi nó nói hòa bình đâu dễ vãn hồi khi Vi Xi quyết đánh tới cùng dù phải đốt cháy dãy Trường Sơn và dù Hà Nội, Hải Phòng thành tro bụi cũng phải đánh để chiếm cho bằng được miền Nam, biến miền Nam giống như miền Bắc dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của cộng sản khổ sở tinh thần thể xác ghê gớm lắm. Mà thiệt là vậy phải không mậy? Sau 30/4/ 1975 tao hết còn muốn sống, nghĩ gì làm gì cũng bị khống chế nghĩ và làm theo ý của đảng. Mà đảng theo tao thấy chỉ luôn miệng nói yêu nước chứ thực tế đâu có thương nòi. Mầy còn nhớ không, hồi nhỏ tụi mình thường được cha mẹ, thầy cô dạy “yêu nước thương nòi” phải đi đôi với nhau, bây giờ đảng dạy “yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội”, tao nghe chướng tai muốn chửi thề, yêu nước mà không thương nòi, cứ bắt chước thủ đoạn nham hiểm của ngoại bang kích động, xúi dục nòi giống hằn thù nhau, đấu tố nhau, đấu tranh giai cấp với nhau, tước đoạt tài sản mồ hôi nước mắt của đồng bào mình theo thói ganh ăn ghét ở rất đê tiện, rồi sau đó sắc phong chung cho tất cả đều có vai trò, trách nhiệm “làm chủ” dưới sự “lãnh đạo” của đảng và sự “quản lý” của nhà nước trực thuộc đảng, thế thì còn cái mẹ gì nữa quyền làm người, quyền tự do dân chủ vốn dĩ là những quyền cơ bản của nhân loại trên trái đất này…”. Thằng bạn phong trào SVHS của tôi đã nói thật nói thẳng vậy đó anh Ngô Đa. Mong anh chịu khó ngược dòng thời sự 38 năm qua để kiểm chứng sự thật đúng sai, cũng như để anh khỏi hoài nghi tôi đã mượn mồm bạn tôi phun ra nỗi niềm của mình – giống như thói quen của tầng lớp cán bộ cầm quyền đương thời đã lạm dụng dài dài, thường xuyên hai chữ “nhân dân”. Sự lạm dụng có chủ đích này nếu suy nghĩ cho kỹ sẽ thấy bất lợi cho cả hai phía, chứ không phải một phía – nhân dân - đâu anh Ngô Đa.
Thưa anh Ngô Đa, đọc những dòng anh viết gởi anh Lê Hiếu Đằng, tôi cảm nhận được hai điều nơi anh. Thứ nhất, anh là người sống có niềm tin vào lý tưởng đã chọn từ khi xuất hiện trong phong trào SVHS “chống chiến tranh, đòi hòa bình”. Thứ hai, anh là người có sức chịu đựng bất chấp thực tế đã và đang diễn ra bất lợi cho dân cho nước mình. Xin cho phép tôi đưa ra nhận định ở đây, có lẽ ở điểm thứ nhất, anh không khác gì anh Lê Hiếu Đằng. Nhưng ở điểm thứ hai thì anh hoàn toàn khác anh Lê Hiếu Đằng. Vì vậy, chưa biết ai phải nói với ai câu “Xin hãy quay lại” cho đúng lẽ đời và đạo lý công dân “yêu nước phải thương nòi”. Nòi là nòi giống, đồng bào – những người “chung bào thai” với mình đó anh Ngô Đa. Chúng ta đã từng công khai “chống chiến tranh, đòi hòa bình” cho đất nước một cách quyết liệt. Vậy, xin hỏi anh Ngô Đa, tại sao giờ đây anh lại chủ trương hãy “từ từ” trong giải quyết biết bao bất công, khổ nạn làm cho đồng bào mình điêu linh, đất nước mình lâm nguy? Tại sao không thể quyết liệt? Trong khi ai cũng biết sau khi làm cho miền Nam sau 1975 tiêu điều xơ xác như miền Bắc sau 1954, đảng buộc phải “đổi mới”, nhưng chỉ “đổi mới” kinh tế mà thôi, vì vậy tham nhũng đã nhanh chóng nảy sinh tưng bừng gốc ngọn hoa lá cành, hút sạch sinh lực đất nước và nội lực trong dân suốt 27 năm “đổi mới”, năm sau hút bạo hơn năm trước theo đà tăng trưởng GDP. Tất cả sự tham nhũng đều trong hệ thống lãnh đạo và quản lý đất nước, chứ không phải trong dân. Do đó càng cần quyết liệt hơn cả khi phong trào SVHS quyết liệt “chống chiến tranh, đòi hòa bình” mới đúng chứ anh Ngô Đa. Ba mươi tám năm rồi, đâu phải ngắn ngủi gì cho cam, mọi ảo vọng và thử nghiệm chính trị đều cần nên kết thúc và sự kết thúc này nếu được diễn ra, cũng như diễn ra được trong tình đồng bào thì rất tốt.
Anh có mong vậy không anh Ngô Đa ? Chắc anh hiểu ở bất cứ thời nào và dưới bất cứ triều đại nào, “quan” bao giờ cũng nhất thời, chỉ có “dân” vạn đại mà thôi. Con đường anh đang đi để viết ra bài “Xin hãy quay lại” là con đường của “quan”. Con đường anh Lê Hiếu Đằng đang đi là con đường của dân. Khác nhau hoàn toàn, xét cả bề rộng lẫn chiều sâu. Nói gọn, anh đã chọn cái “nhất thời”, anh Lê Hiếu Đằng đã chọn cái “vạn đại”. Đánh giá sự khác biệt này trong ý thức bắt buộc yêu nước phải thương nòi, tôi nhận ra tuy cùng điểm xuất phát, cùng quê nhà, cùng tổ chức, cùng là đồng sự, đồng nghiệp bao năm với nhau, nhưng anh Lê Hiếu Đằng “giác ngộ” hơn anh rất nhiều anh Ngô Đa ạ. Vì vậy, trước khi tạm kết thúc bài viết “Nhiều dòng gởi anh Ngô Đa”, tôi xin mượn tựa bài viết “Xin hãy quay lại” của anh để nói thật cụ thể với anh như vầy: Anh Ngô Đa ơi, hãy quay về với nhân dân!
N. T. B.
( Sài Gòn )

Source  BVN ( Bauxite VN )

Thế Anh - Góc nhìn… mù màu!


Thế Anh
Cập nhật: 10:43 GMT - thứ hai, 9 tháng 9, 2013 
Ngẫu nhiên, bài viết của tác giả Nguyễn Quảng lại được BBC xuất bản đúng vào ngày sinh nhật quán cơm 2.000 đồng đầu tiên của nhóm Bấm Người Tôi Cưu Mang lập ra! 


Một quán cơm 2.000 đồng tại Sài Gòn được khai trương năm 2009

Tôi tôn trọng sự khác biệt trong góc nhìn, nhưng dù khác thế nào đi nữa cũng không vượt ra ngoài tính đúng đắn của hiện tượng cũng như những chuẩn mực của nhân loại.
Với bài viết của tác giả Nguyễn Quảng, tôi cho rằng đó là góc nhìn kinh tế học… phát xít, vì nó gạt bỏ con người ra ngoài, nhường chỗ cho toan tính của lợi nhuận. Bởi kinh tế học, tôn giáo, khoa học… mọi thứ cũng chỉ để phục vụ con người sao cho ngày một hạnh phúc và tốt đẹp hơn mà thôi. (Dù đôi lúc người ta vẫn mượn cái vỏ bọc đó để làm điều ngược lại). Hành trang trên con tàu tìm đến hạnh phúc của loài người không thể thiếu sự nhân văn, tình người! Những quán cơm 2.000 đồng không thể là cần câu, cũng không thể là con cá, mà chỉ đơn giản là qua từng phần cơm nhỏ bé đó hy vọng rằng sẽ nuôi dưỡng được cái tình người giữa phố chợ đông đúc.
Điều đáng trách nhất của tác giả Nguyễn Quảng là chưa hiểu gì về quán cơm mà đã… phán! Là một trong nhiều người đầu tiên đưa ra ý tưởng cũng như xây dựng quán cơm 2.000 đồng, tôi xin bày tỏ cùng tác giả mấy điều sau:
Quán cơm 2.000 đồng là một hoạt động từ thiện không thuộc nhà nước, nó là một dạng NGO. Mô hình này đã có ở Sài Gòn trước 1975, những năm 2000 xuất hiện trở lại một vài quán, chỗ thì bán rẻ, chỗ thì cho không. Sau đó một số quán phải ngưng vì nhiều lý do khác nhau. Quán cơm 2.000 đồng đầu tiên ra đời năm 2008 tại Lữ Gia- Tp.HCM, do chị Mai Anh là một thành viên của nhóm Người Tôi Cưu Mang (NTCM) mở ra và quản lý. Ngày 5/9/2009, quán cơm thứ hai do chính nhóm NTCM tổ chức chính thức khai trương. Sau đó mô hình được nhóm nhân rộng tại Cần Thơ và Đà Lạt. Năm 2012, anh Nam Đồng và những người bạn mở thêm vài quán nữa trên địa bàn thành phố…
Tại sao không cho không mà lại là 2.000 đồng? Ý nghĩa của 2.000 đồng là để người nghèo đến ăn không có cảm giác bị bố thí, bởi hơn ai hết chúng tôi hiểu người nghèo cũng có lòng tự trọng của họ. Với 2.000 đồng, chúng tôi luôn nhắc nhở những em sinh viên là tình nguyện viên tại quán hãy xem người nghèo đến ăn là khách hàng, hãy đối xử tử tế với họ.
Duy trì quán cơm để giúp người nghèo có bữa ăn ngon đã khó, nhưng cái khó hơn là bỏ công ra để chuyện trò với họ, để giải tỏa nỗi niềm hay tập cho họ những thói quen văn minh còn khó hơn. Nếu như tác giả Nguyễn Quảng một lần đặt chân đến quán cơm tại địa chỉ 14/1 Ngô Quyền, F5, Q10 thì có lẽ ông đã nghĩ khác. Những mảnh đời khốn khó, tù tội, vô gia cư… đã quen với cuộc sống chụp giật nay bỗng dưng xếp hàng ngay ngắn, biết nhường trẻ nhỏ và người già khi đến quán ăn là một kỳ công của những bạn trẻ tình nguyện nơi đây.
Đã có vài câu hỏi là liệu có những người khá giả đến quán ăn không? Xin thưa rằng có. Nhưng con số đó theo chúng tôi thống kê là không quá 5%. Họ là ai? Trong số đó có không ít là mạnh thường quân, họ đến ăn thử để xem quán phục vụ như thế nào rồi sau đó âm thầm hỗ trợ cho quán.
Có một dạo, ở quán có một thực khách là bà cụ già, nhà ở tận Tân Bình, đều đặn đi xe ôm hết 30 ngàn đồng để đến ăn cơm. Cụ là người có tiền, nhưng con cái đi làm tối ngày, ăn cơm một mình buồn nên cụ đến ăn tại quán để có người trò chuyện. Liệu các bạn có đủ can đảm đuổi bà cụ ra khỏi quán hay không? Rồi chuyện một cô gái giang hồ, suốt ngày chỉ biết nói tiếng… Đan Mạch, nhưng sau 6 tháng ăn ở quán, bằng sự tôn trọng và yêu thương, những người phục vụ đã làm thay đổi hoàn toàn con người này. Cô không còn rượu chè, chửi bới mà biết khoanh tay chào người lớn mỗi khi gặp, sau những giờ đi làm cô lại ghé quán phụ giúp mọi người rửa chén, sơ chế đồ ăn.
Cũng có những bác xe ôm, chị bán ve chai… sau vài lần ghé quán đã tình nguyện rút lui để nhường những phần cơm đó lại cho những người còn nghèo khó hơn mình. Đó là chị Huệ, 20 năm bán ve chai, học ít nhưng câu nói của chị không có mùi… kinh tế học phát xít: “Vô đây mình mới thấy còn nhiều người khổ hơn mình, thôi thì mình còn kiếm được, ra ngoài mua ăn, nhường phần cơm này lại cho người khác xem như là làm phước vậy!” Rồi một chị vô gia cư, là thực khách của quán khi còn bụng mang dạ chửa, nay chị vẫn đến quán cùng con với cảm giác như được về chính ngôi nhà của mình. Tạo cho người nghèo niềm tin vào tình người, được đối xử như những người thân trong những năm tháng xa xứ mưu sinh có thể nào là điều không nên? Tặng cho họ sự vui vẻ, niềm tin để tiếp tục vượt qua khó nhọc trong cuộc sống là con cá hay cần câu?
Ai đến quán thường xuyên thì sẽ thấy thực khách mới xuất hiện thêm khoảng 25 -30% mỗi ngày, trong khi số suất ăn vẫn ổn định ở mức trên dưới 500 phần/một ngày. Vậy số cũ đi đâu? Phải chăng họ đã âm thầm rút lui để nhường cho người khác?
Và tại sao quán cơm chỉ mở mỗi tuần 3 ngày, mỗi ngày chỉ một bữa trưa mà thôi? Với mặt bằng có sẵn, con người có sẵn, nhiều khi chúng tôi cũng đắn đo muốn mở cửa nguyên tuần khi chứng kiến những ông bà cụ ráng ăn thật nhiều vào bữa trưa để chiều khỏi tốn tiền mua cơm. Dù đau xót trước cảnh đó nhưng chúng tôi đã không làm, mà vận động người khác giúp đỡ những hoàn cảnh cụ thể đó. Nếu làm thì chúng tôi vẫn chọn cách mở thêm quán với mỗi tuần 3 bữa trên địa bàn khác với ý nghĩ mỗi nơi ươm một mầm thiện. Và thực lòng mà nói, ngay từ khi mở quán chúng tôi đã mong một ngày sớm nhất quán cơm không còn vai trò của nó nữa. Đó là khi những người khốn khó đã trở thành khách hàng của những nhà hàng sang trọng, khi cuộc đời của họ đã sang trang với tình thương và những nụ cười.
Những người thực hiện như chúng tôi vẫn thường nói vui với nhau rằng: “Lợi nhuận” từ quán cơm mang lại là trên cả mong đợi! Đó là chuỗi giá trị mà hệ thống quán cơm 2.000 đồng đã mang lại cho xã hội này, giá trị không thể giải bằng bài toán kinh tế. Đó là thêm được nhiều nụ cười trên khuôn mặt của người nhận lẫn người cho. Đó là có một sân chơi cho những bạn trẻ tình nguyện để tương lai họ không bị giam hãm trong lòng vị kỷ. Dù rằng, để có “lợi nhuận” đó chúng tôi đã phải nhiều năm lặng lẽ bước đi trước nhiều “góc nhìn khác”, nhức mình trước những bài viết của một vài nhà báo… trẻ con! Nhưng chúng tôi vẫn làm, vì đơn giản chúng tôi có niềm tin vào lòng nhân ái.
Quán cơm 2.000 đồng của nhóm NTCM mở ra không chỉ để làm no cái dạ dày. Mà nó là cơ hội để những người thực hiện nuôi dưỡng lòng nhân cho đời. Với người nghèo, chúng tôi không chỉ cho họ một bữa ăn mà quan trọng hơn là tặng họ một vài phút được đối đãi tử tế vốn là thứ xa xỉ đối với người yếu thế. Bởi chúng tôi tin rằng chỉ có sự tôn trọng, tình yêu thương thật sự mới gieo được hạt mầm yêu thương ở mảnh đất khô cằn trong những mảnh đời không may mắn.
Còn với những người có khả năng lo một bữa cơm ngoài chợ nhưng vẫn đến ăn cơm 2.000 đồng, chúng tôi xem họ là đối tượng cần phải cưu mang về suy nghĩ chứ không phải áo cơm! Chúng tôi vẫn tiếp đón họ với một hy vọng rằng qua trò chuyện, qua sự tử tế, tôn trọng họ sẽ thay đổi để sống biết chia sẻ hơn.
Điều nhẫn tâm nhất là tác giả nhìn ở góc độ kinh tế để rồi xem những người nghèo khó như thứ ung nhọt cần gạt ra và vứt đi trong xã hội này. Còn về những khía cạnh khác, đã có nhiều bài phân tích, thiết nghĩ tôi không cần phải nói thêm.
Chỉ mong rằng, những quán cơm 2.000 đồng tiếp theo nếu ra đời vẫn giữ được những tiêu chí mà những người đầu tiên tạo dựng ra nó. Và cũng mong rằng, những người làm từ thiện ở Việt Nam hãy hợp sức lại để cùng nhau làm tốt hơn. Kiểu nhà nhà làm từ thiện, nhà nhà mở quán cơm là điều không nên… Chúng tôi từng nghĩ, người Nhật nổi tiếng về sự đúng giờ, người Đức nổi tiếng về sự chính xác, vậy tại sao Việt Nam không thể xuất khẩu tình người?!
Kính thưa tác giả Nguyễn Quảng! Chúng tôi vẫn ấp ủ một ngày nào đó trên phần cơm 2.000 đồng cho người nghèo có đính thêm một bông hoa làm từ cà rốt hay cà chua, quán được trang trí đẹp hơn, lại thêm cả nhạc nữa. Và có thể, lại thêm một ly nước ép trái cây... Bởi chúng tôi nghĩ người nghèo cũng có đủ đầy quyền của một con người! Khi đó ông đừng nói chúng tôi lại cạnh tranh với nhà hàng 5 sao nhé!
Trong thế giới muôn màu muôn vẻ của chúng ta, thân phận con người đang được rải đều trên một phổ rất rộng, nhiều kẻ may mắn giàu sang nhưng cũng lắm kẻ bần hàn. Có người vừa sinh ra đôi mắt đã chìm trong bóng tối, có người thất bại liên tiếp dù đã hết sức vươn lên, cũng có người lâm vào cảnh cơ hàn do bởi chính lỗi của họ… Nhưng dù gì đi nữa, một khi họ đang ở trong hoàn cảnh ngặt nghèo, chúng tôi vẫn đi về phía họ.
Càng đến gần chúng tôi càng thấy, dường như trong những bóng dáng khắc khổ ấy có hình ảnh của cha, mẹ, anh chị em và con cái chúng tôi. Càng đến gần chúng tôi càng nhận ra rằng để giúp đỡ họ, một nhóm nhỏ như chúng tôi là không thể làm nổi.
Trang web Người Tôi Cưu Mang được lập ra là để quy tụ nhiều người cùng chung ý nghĩ giúp người. Quán cơm 2.000 đồng lập ra đã tập họp được những trái tim biết yêu thương và sẵn lòng chia sẻ, ai cũng muốn góp bàn tay nhỏ nhắn của mình để lan tỏa tình thương, lan tỏa lòng nhân ái.
Bài viết của tác giả Nguyễn Quảng tất nhiên không thể lay chuyển quyết tâm của những người đang có niềm tin vào lòng tốt của con người, nhưng nó có thể gây hại cho những bạn còn đang phân vân giữa ngã ba đường, khi bước chân chưa dứt khoát tiến về phía của lòng vị tha. Một lực kéo nhỏ thôi cũng làm cho họ đi về phía vị kỷ. Vì thế, tôi nói bài viết này mô tả một góc nhìn của cá nhân và đó là một góc nhìn nguy hiểm.
Và cuối cùng, bằng sự chân thành, tôi kính mời ông Nguyễn Quảng hãy một lần đến quán để chúng tôi được phục vụ.

Bài viết nêu quan điểm riêng của tác giả, thành viên Ban quản trị trang web www.nguoitoicuumang.com, nhóm khởi xướng mô hình quán cơm 2.000 đồng.


Source ; BBC (tieng Viet )

10/9/13

Remarks by the President in Address to the Nation on Syria



 
The White House
Office of the Press Secretary

Remarks by the President in Address to the Nation on Syria

East Room

9:01 P.M. EDT
THE PRESIDENT:  My fellow Americans, tonight I want to talk to you about Syria -- why it matters, and where we go from here.
Over the past two years, what began as a series of peaceful protests against the repressive regime of Bashar al-Assad has turned into a brutal civil war.  Over 100,000 people have been killed.  Millions have fled the country.  In that time, America has worked with allies to provide humanitarian support, to help the moderate opposition, and to shape a political settlement.  But I have resisted calls for military action, because we cannot resolve someone else’s civil war through force, particularly after a decade of war in Iraq and Afghanistan.
The situation profoundly changed, though, on August 21st, when Assad’s government gassed to death over a thousand people, including hundreds of children.  The images from this massacre are sickening:  Men, women, children lying in rows, killed by poison gas.  Others foaming at the mouth, gasping for breath.  A father clutching his dead children, imploring them to get up and walk.  On that terrible night, the world saw in gruesome detail the terrible nature of chemical weapons, and why the overwhelming majority of humanity has declared them off-limits -- a crime against humanity, and a violation of the laws of war.
This was not always the case.  In World War I, American GIs were among the many thousands killed by deadly gas in the trenches of Europe.  In World War II, the Nazis used gas to inflict the horror of the Holocaust.  Because these weapons can kill on a mass scale, with no distinction between soldier and infant, the civilized world has spent a century working to ban them.  And in 1997, the United States Senate overwhelmingly approved an international agreement prohibiting the use of chemical weapons, now joined by 189 governments that represent 98 percent of humanity.
On August 21st, these basic rules were violated, along with our sense of common humanity.  No one disputes that chemical weapons were used in Syria.  The world saw thousands of videos, cell phone pictures, and social media accounts from the attack, and humanitarian organizations told stories of hospitals packed with people who had symptoms of poison gas.
Moreover, we know the Assad regime was responsible.  In the days leading up to August 21st, we know that Assad’s chemical weapons personnel prepared for an attack near an area where they mix sarin gas.  They distributed gasmasks to their troops.  Then they fired rockets from a regime-controlled area into 11 neighborhoods that the regime has been trying to wipe clear of opposition forces.  Shortly after those rockets landed, the gas spread, and hospitals filled with the dying and the wounded.  We know senior figures in Assad’s military machine reviewed the results of the attack, and the regime increased their shelling of the same neighborhoods in the days that followed.  We’ve also studied samples of blood and hair from people at the site that tested positive for sarin.
When dictators commit atrocities, they depend upon the world to look the other way until those horrifying pictures fade from memory.  But these things happened.  The facts cannot be denied. The question now is what the United States of America, and the international community, is prepared to do about it.  Because what happened to those people -- to those children -- is not only a violation of international law, it’s also a danger to our security.
Let me explain why.  If we fail to act, the Assad regime will see no reason to stop using chemical weapons.  As the ban against these weapons erodes, other tyrants will have no reason to think twice about acquiring poison gas, and using them.  Over time, our troops would again face the prospect of chemical warfare on the battlefield.  And it could be easier for terrorist organizations to obtain these weapons, and to use them to attack civilians. 
If fighting spills beyond Syria’s borders, these weapons could threaten allies like Turkey, Jordan, and Israel.  And a failure to stand against the use of chemical weapons would weaken prohibitions against other weapons of mass destruction, and embolden Assad’s ally, Iran -- which must decide whether to ignore international law by building a nuclear weapon, or to take a more peaceful path.
This is not a world we should accept.  This is what’s at stake.  And that is why, after careful deliberation, I determined that it is in the national security interests of the United States to respond to the Assad regime’s use of chemical weapons through a targeted military strike.  The purpose of this strike would be to deter Assad from using chemical weapons, to degrade his regime’s ability to use them, and to make clear to the world that we will not tolerate their use. 
That's my judgment as Commander-in-Chief.  But I’m also the President of the world’s oldest constitutional democracy.  So even though I possess the authority to order military strikes, I believed it was right, in the absence of a direct or imminent threat to our security, to take this debate to Congress.  I believe our democracy is stronger when the President acts with the support of Congress.  And I believe that America acts more effectively abroad when we stand together. 
This is especially true after a decade that put more and more war-making power in the hands of the President, and more and more burdens on the shoulders of our troops, while sidelining the people’s representatives from the critical decisions about when we use force.
Now, I know that after the terrible toll of Iraq and Afghanistan, the idea of any military action, no matter how limited, is not going to be popular.  After all, I've spent four and a half years working to end wars, not to start them.  Our troops are out of Iraq.  Our troops are coming home from Afghanistan.  And I know Americans want all of us in Washington
-- especially me -- to concentrate on the task of building our nation here at home:  putting people back to work, educating our kids, growing our middle class.
It’s no wonder, then, that you're asking hard questions.  So let me answer some of the most important questions that I've heard from members of Congress, and that I've read in letters that you've sent to me.
First, many of you have asked, won’t this put us on a slippery slope to another war?  One man wrote to me that we are “still recovering from our involvement in Iraq.”  A veteran put it more bluntly:  “This nation is sick and tired of war.”
My answer is simple:  I will not put American boots on the ground in Syria.  I will not pursue an open-ended action like Iraq or Afghanistan.  I will not pursue a prolonged air campaign like Libya or Kosovo.  This would be a targeted strike to achieve a clear objective:  deterring the use of chemical weapons, and degrading Assad’s capabilities.
Others have asked whether it's worth acting if we don’t take out Assad.  As some members of Congress have said, there’s no point in simply doing a “pinprick” strike in Syria.
Let me make something clear:  The United States military doesn’t do pinpricks.  Even a limited strike will send a message to Assad that no other nation can deliver.  I don't think we should remove another dictator with force -- we learned from Iraq that doing so makes us responsible for all that comes next.  But a targeted strike can make Assad, or any other dictator, think twice before using chemical weapons.
Other questions involve the dangers of retaliation.  We don’t dismiss any threats, but the Assad regime does not have the ability to seriously threaten our military.  Any other retaliation they might seek is in line with threats that we face every day.  Neither Assad nor his allies have any interest in escalation that would lead to his demise.  And our ally, Israel, can defend itself with overwhelming force, as well as the unshakeable support of the United States of America.
Many of you have asked a broader question:  Why should we get involved at all in a place that's so complicated, and where  -- as one person wrote to me -- “those who come after Assad may be enemies of human rights?”
It’s true that some of Assad’s opponents are extremists.  But al Qaeda will only draw strength in a more chaotic Syria if people there see the world doing nothing to prevent innocent civilians from being gassed to death.  The majority of the Syrian people -- and the Syrian opposition we work with -- just want to live in peace, with dignity and freedom.  And the day after any military action, we would redouble our efforts to achieve a political solution that strengthens those who reject the forces of tyranny and extremism.
Finally, many of you have asked:  Why not leave this to other countries, or seek solutions short of force?  As several people wrote to me, “We should not be the world’s policeman.”
I agree, and I have a deeply held preference for peaceful solutions.  Over the last two years, my administration has tried diplomacy and sanctions, warning and negotiations -- but chemical weapons were still used by the Assad regime.
However, over the last few days, we’ve seen some encouraging signs.  In part because of the credible threat of U.S. military action, as well as constructive talks that I had with President Putin, the Russian government has indicated a willingness to join with the international community in pushing Assad to give up his chemical weapons.  The Assad regime has now admitted that it has these weapons, and even said they’d join the Chemical Weapons Convention, which prohibits their use. 
It’s too early to tell whether this offer will succeed, and any agreement must verify that the Assad regime keeps its commitments.  But this initiative has the potential to remove the threat of chemical weapons without the use of force, particularly because Russia is one of Assad’s strongest allies.
I have, therefore, asked the leaders of Congress to postpone a vote to authorize the use of force while we pursue this diplomatic path.  I’m sending Secretary of State John Kerry to meet his Russian counterpart on Thursday, and I will continue my own discussions with President Putin.  I’ve spoken to the leaders of two of our closest allies, France and the United Kingdom, and we will work together in consultation with Russia and China to put forward a resolution at the U.N. Security Council requiring Assad to give up his chemical weapons, and to ultimately destroy them under international control.  We’ll also give U.N. inspectors the opportunity to report their findings about what happened on August 21st.  And we will continue to rally support from allies from Europe to the Americas -- from Asia to the Middle East -- who agree on the need for action. 
Meanwhile, I’ve ordered our military to maintain their current posture to keep the pressure on Assad, and to be in a position to respond if diplomacy fails.  And tonight, I give thanks again to our military and their families for their incredible strength and sacrifices.
My fellow Americans, for nearly seven decades, the United States has been the anchor of global security.  This has meant doing more than forging international agreements -- it has meant enforcing them.  The burdens of leadership are often heavy, but the world is a better place because we have borne them. 
And so, to my friends on the right, I ask you to reconcile your commitment to America’s military might with a failure to act when a cause is so plainly just.  To my friends on the left, I ask you to reconcile your belief in freedom and dignity for all people with those images of children writhing in pain, and going still on a cold hospital floor.  For sometimes resolutions and statements of condemnation are simply not enough.
Indeed, I’d ask every member of Congress, and those of you watching at home tonight, to view those videos of the attack, and then ask:  What kind of world will we live in if the United States of America sees a dictator brazenly violate international law with poison gas, and we choose to look the other way?
Franklin Roosevelt once said, “Our national determination to keep free of foreign wars and foreign entanglements cannot prevent us from feeling deep concern when ideals and principles that we have cherished are challenged.”  Our ideals and principles, as well as our national security, are at stake in Syria, along with our leadership of a world where we seek to ensure that the worst weapons will never be used.
America is not the world’s policeman.  Terrible things happen across the globe, and it is beyond our means to right every wrong.  But when, with modest effort and risk, we can stop children from being gassed to death, and thereby make our own children safer over the long run, I believe we should act.  That’s what makes America different.  That’s what makes us exceptional.  With humility, but with resolve, let us never lose sight of that essential truth. 
Thank you.  God bless you.  And God bless the United States of America.
END                    9:17 P.M. EDT

Trí thức và cách mạng – Nhà thơ Syria Adonis trả lời phỏng vấn




Tháng 9 9, 2013

Phạm Thị Hoài dịch và giới thiệu

Trước một biển thông tin về Nội chiến Syria và Mùa Xuân Ả-rập, càng đọc càng bối rối, với kiến thức ít ỏi về khu vực thế giới vốn xa lạ với người Việt này tôi tìm tư vấn ở Adonis, một trí thức Syria khả kính, được coi là nhà thơ Ả-rập đương đại quan trọng nhất hiện còn sống, ứng viên thường trực cho Giải Nobel Văn chương, người không ngừng chất vấn cả văn hóa và xã hội Ả-rập truyền thống lẫn văn hóa và xã hội phương Tây hiện đại. Song khóa tư vấn mà tôi theo đuổi từ nhiều tháng nay lại đặt ra những câu hỏi mới, trong đó nổi bật lên chủ đề “Trí thức và Cách mạng”.
Adonis (sinh năm 1930, sống lưu vong tại Paris) viết cho một cột thường kì trên Al-Hayat, tờ báo hàng đầu của khu vực Ả-rập, tập hợp nhiều trí thức Ả-rập cởi mở. Uy tín và trọng lượng tinh thần của ông khiến không chỉ những nhận định mà trước hết là thái độ của ông trước những biến đổi rung   chuyển thế giới Ả-rập từ gần ba năm nay được đặc biệt chú ý. Thái độ ấy,  tóm tắt thật ngắn gọn như sau: Từ chỗ dè dặt bày tỏ cảm tình với Mùa Xuân Ả-rập, ông chuyển dần sang hoài nghi, cảnh báo, phê phán và gần đây nhất, ông tuyên bố thẳng là mình không đứng về phía “cách mạng”, tức quân nổi dậy tại Syria. Thậm chí còn có dư luận rằng ông bênh vực nhà độc tài Assad. Có vẻ như Adonis không phải là trường hợp cá biệt. Phần lớn các trí thức và văn nghệ sĩ Ả-rập đã thành danh  và không còn trẻ, những người từng đi đầu, từng là những nhân vật nổi loạn trong văn hóa và nghệ thuật, từng có ảnh hưởng mạnh mẽ trong đời sống tinh thần ở các quốc gia khu vực này, nay dường như không theo kịp tốc độ của các sự kiện chính trị đang diễn ra. Hầu như không một ai trong số họ đóng một vai trò nổi bật trong Mùa Xuân Ả-rập. Họ không nói cùng ngôn ngữ của các nhà cách mạng trẻ tuổi và khó đi cùng cuộc cách mạng này.
Ở trường hợp Maxim Gorky , người cũng có một quan hệ đầy xung đột với một cuộc cách mạng chống lại ách chuyên chế: Cách mạng tháng Mười Nga, lịch sử cuối cùng đã trả lời nhiều câu hỏi quan trọng cho những kẻ hậu sinh. Còn ở trường hợp Adonis, lịch sử đang quá bận với chính nó. Nhưng bản thân các vấn đề từ Ả-rập xa lạ lại gần với những câu hỏi trong bối cảnh chính trị Việt Nam đến bất ngờ. Vì thế tôi giới thiệu bài phỏng vấn Adonis trên tờ Frankfurter Allgemeine Zeitung (FAZ) sau đây, để nhường suy ngẫm cho người đọc.
Người dịch
_________________
FAZ: Khi Mùa Xuân Ả-rập bắt đầu, ông có nói rằng: “Tôi không thể tham gia một cuộc cách mạng xuất phát từ thánh đường Hồi giáo. Cái đó chẳng liên quan gì đến tự do và dân chủ.” Sao ông bi quan thế?
Adonis: Không phải bi quan, mà thực tế là như vậy. Nếu hệ thống chính trị được dựng trên một nền tảng tôn giáo thì đó không phải là dân chủ. Hoặc chúng ta theo dân chủ và sống trong tự do, hoặc chúng ta theo tôn giáo. Tôi chọn cái thứ nhất – dân chủ và tự do. Nhưng thế không có nghĩa là tôi chống tôn giáo. Tôi rất tôn trọng cái tín ngưỡng mà cá nhân mỗi người thực hành từ xác tín của riêng mình. Nhưng khi chúng ta phải tuân phục tôn giáo như một thiết chế thì đó là độc tài. Bởi lẽ, còn có những người không theo tôn giáo nào hay theo một tôn giáo khác. Một xã hội lấy luật lệ tôn giáo làm nền tảng, theo tôi là một nền độc tài. Thậm chí còn tồi tệ hơn chế độ độc tài quân sự.
Độc tài tôn giáo và độc tài quân sự khác nhau ở điểm nào?
Độc tài quân sự kiểm soát bộ óc và tư duy chính trị của ta. Thế đã là tệ lắm rồi. Nhưng độc tài tôn giáo thì kiểm soát bộ óc, trái tim, tâm hồn và cả thân thể ta, tức toàn bộ cuộc đời ta. Hiển nhiên cả hai kiểu độc tài này đều phi dân chủ.
Có nghĩa là khi tôn giáo thực thi quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước thì nó phi dân chủ?
Còn tệ hơn thế. Không chỉ phi dân chủ mà đơn giản là bất công. Tôn giáo bắt mọi nhóm trong xã hội phải chấp hành những nghĩa vụ như nhau, nhưng lại không cho hưởng những quyền lợi giống nhau. Ví dụ, vì sao theo luật lệ Hồi giáo thì một người đàn ông Hồi giáo được phép cưới một phụ nữ Thiên chúa giáo, nhưng một người đàn ông Thiên chúa giáo lại phải cải đạo theo Hồi giáo mới được cưới một phụ nữ Hồi giáo? Vì sao ở những nước đậm nét Hồi giáo hoặc Hồi giáo thống trị thì người Hồi giáo được đảm nhiệm chức bộ trưởng hay những chức vụ quan trọng khác, còn người Thiên chúa giáo thì không? Ở một số quốc gia nhất định, cái quyền đó chỉ thuộc về người Hồi giáo. Đó là cưỡng hiếp, là xử tử quyền công dân. Nếu quyền lực chính trị dựa duy nhất vào tôn giáo và xã hội được cai trị nhân danh tôn giáo thì mọi quyền dân sự bị vô hiệu hóa. Tín đồ Hồi giáo khẳng định rằng đạo Hồi là bảo hiểm cho tự do. Nhưng tôn giáo không bảo đảm và cũng chẳng bảo hiểm tự do cho bất kì ai, tuyệt đối không có ngoại lệ! Chức năng ấy chỉ thuộc về Tuyên ngôn Nhân quyền, và chỉ một Hiến pháp mới bảo đảm cho tôi quyền tự do của tôi mà thôi. Nền dân chủ ở các nước Ả-rập chỉ có thể đạt được bằng những quyền lực nhà nước thế tục và dân sự, trên cơ sở bình đẳng về quyền công dân và tách nhà nước khỏi nhà thờ.
Vậy giải pháp là tách nhà nước khỏi nhà thờ?
Đương nhiên. Không tách ra như vậy thì không thể xây dựng một xã hội hiện đại. Nếu mục tiêu là thiết lập một xã hội “Ả-rập” tự do và dân chủ thì mọi nhóm thiểu số và bất đồng chính kiến đều phải được thừa nhận vô điều kiện. Chỉ như vậy mới tạo lập được một xã hội tiến bộ và hội nhập với thế giới. Tách nhà nước khỏi nhà thờ không phải là chống đức tin của mỗi cá nhân. Mỗi người đều có quyền tín ngưỡng, đó là tự do cá nhân. Trong chế độ dân chủ, tự do cá nhân phải được tôn trọng.
Xã hội Ả-rập hiện tại có thích hợp cho việc tách nhà nước khỏi nhà thờ không?
Đáng tiếc là không. Nhưng đó là hiện thực.
Vì sao?
Vì những xã hội này vẫn tiếp tục nói tiếng nói của những triều đại Caliphate và nguyên lí chinh phục vẫn tồn tại. Chỉ riêng cái cách phân một xã hội thành đa số và thiểu số theo quan niệm tôn giáo đã cho thấy các cấu trúc phi dân chủ của nó.
Đã bao giờ xã hội Ả-rập trải qua một chế độ dân chủ trong lịch sử chưa?
Chưa bao giờ. Từ 1500 năm nay người Ả-rập chúng tôi giậm chân tại chỗ. Trong mười lăm thế kỉ ấy, khát vọng chủ đạo của chúng tôi là giành quyền lực chính trị mà không hề đếm xỉa đến những biến đổi theo hướng tiến bộ xã hội. Thay nhân sự ở thượng tầng quyền lực, nhưng đổi nền móng thì không. Chẳng ai thử xoay chuyển xã hội. Chẳng ai tìm đường cải thiện những phát triển trong văn hóa và xã hội. Chẳng ai tìm kiếm những khả năng biến một người Ả-rập thành một con người hiện đại.
Phong trào được mệnh danh là Mùa Xuân Ả-rập không phải là bước mở đầu cho tiến trình dân chủ hóa xã hội hay sao?
Sau chính biến, có thể chúng tôi sẽ có một chính phủ ít tàn bạo hơn chính phủ trước hoặc chỉ đơn thuần là có vẻ ít tệ hại hơn. Vì thế mà tôi phải nhấn mạnh rằng không thể có dân chủ với một hệ thống dựa trên tôn giáo.
Phe đối lập ở Syria đòi tự do và dân chủ. Một số người cũng đưa ý tưởng về xã hội dân sự ra để thảo luận. Đó không phải là viên gạch xây nên một xã hội dân sự hiện đại hay sao?
Những chuyện đang được bàn luận trong xã hội Ả-rập đó không có ý nghĩa gì hết. Phe giải phóng thậm chí chưa bao giờ nhắc đến khái niệm “tách nhà nước khỏi nhà thờ” trong các cương lĩnh chính trị của họ. Một khái niệm mà cũng sợ thì cách mạng cái nỗi gì?
Tổ chức Huynh đệ Hồi giáo có tuyên bố rằng hòm phiếu sẽ quyết định, ai sẽ cầm quyền ở đất nước này trên nền tảng dân chủ. Tuyên bố ấy khả tín đến mức nào?
Hoàn toàn không. Họ có chấp nhận để một người Thiên chúa giáo lên làm Tổng thống Syria không? Họ có chấp nhận một Tổng thống Ai Cập theo Thiên chúa Coptic không? Không. Vì cái giáo điều phân chia xã hội thành đa số và thiểu số tôn giáo vẫn ngự trị trong não trạng họ.
Nhưng trong chế độ dân chủ thì mọi chính đảng đều có thể ra ứng cử.
Tôi tán thành tuyển cử tự do và tôi tôn trọng chế độ dân chủ. Tôi sẽ đi bỏ phiếu, nhưng tất nhiên là không bầu cho Huynh đệ Hồi giáo. Tôi cực lực phản đối việc họ gây ảnh hưởng trong chính trị. Đáng tiếc là trong một số trường hợp, bầu cử dân chủ không phải là giải pháp, vì số đông cũng có thể chuyên chế, ngay cả khi nó giành được chính quyền nhờ bầu cử tự do, hãy xem trường hợp Hitler.
Tín đồ Thiên chúa và các nhóm tôn giáo khác ở Syria đứng ở vị trí nào trong cuộc cách mạng này? Ông bị coi là người ủng hộ chế độ Assad?
Tôi phản đối sự quy chụp đó. Hơn nữa, nếu phải tham gia cách mạng thì họ tham gia với tư cách những công dân chứ không phải như những tín đồ Thiên chúa. Nhưng nghĩa vụ đó nằm ở thái độ của bản thân họ, dù họ là người Thiên chúa giáo, người Alawite, người Druze hay ai khác. Chính họ nên chống lại việc phân biệt, chẳng hạn giữa các nhà cách mạng Hồi giáo và các nhà cách mạng Thiên chúa giáo. Trong Hội đồng Quốc gia hoặc trong Liên minh Quốc gia, những người Thiên chúa giáo nên lấy tư cách đại diện cho nhân dân Syria chứ không phải đại diện riêng cho tín đồ Thiên chúa. Lời kêu gọi tham gia cách mạng với tư cách một thiểu số tôn giáo – trong thực tế – chẳng khác gì một sự kì thị.
Trí thức Ả-rập nói chung có đóng vai trò gì trong biến chuyển này không?
Tất nhiên là có. Những điều đang diễn ra tại Syria và các nước Ả-rập khác đều hình thành từ những ý tưởng, nguyện vọng và hình dung về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Những ý tưởng đó không bỗng nhiên tuôn ra. Nhiều nhà văn và trí thức Ả-rập đã lên tiếng cho tự do và dân chủ. Nhờ đó mới có một phong trào xuất phát từ bối cảnh chính trị.
Vì sao ông không đứng về phía cách mạng?
Cuộc cách mạng hiện tại này thì làm sao tôi ủng hộ được? Thử hỏi, cương lĩnh chính trị của nó là gì? Lúc đầu, nó là cuộc cách mạng đòi tự do dân chủ, diễn ra trong hòa bình. Bây giờ thì nó đầy bạo lực. Nó đã trở thành một cuộc bạo loạn vũ trang. Trong hàng ngũ cách mạng có lính đánh thuê từ đủ thứ quốc gia Hồi giáo khác nhau. Còn vũ khí thì do Qatar, Ả-rập Saudi và Hoa Kỳ cung cấp. Nó không còn là cách mạng. Nó chỉ là một tập hợp những nhóm bạo loạn riêng lẻ muốn lật đổ chính quyền. Làm sao tôi có thể ủng hộ cái thứ đó được?
Còn vai trò của phương Tây trong Khủng hoảng Syria hiện tại?
Trong vụ này, phương Tây xử sự như một kẻ hoàn toàn không biết gì. Phương Tây không thiếu chuyên gia và nhà tư vấn, nhưng họ không thật sự đóng góp để làm sáng tỏ hiện trạng. Họ chỉ đưa ra những thông tin bề mặt. Đây là tôi đang nói về lĩnh vực chính trị. Nhiều trí thức phương Tây nắm vững tình hình chính trị, nhưng họ không phải là những người ra quyết định. Thêm vào đó, trước hết là trong những vấn đề chính trị nhưng trong cả những vấn đề văn hóa cũng vậy, phương Tây đối xử với các nước Ả-rập và với Hồi giáo không mấy tương kính. Hiện nay phương Tây đang rơi vào khủng hoảng kinh tế. Và phần lớn các nước Ả-rập đều giầu. Cho nên phương Tây sẽ làm tất cả để giải quyết các vấn đề kinh tế của mình, dù có phải vi phạm những thành tựu văn hóa, những nguyên tắc dân chủ và nhân quyền của mình.
Vì sao cho đến nay vẫn chưa có một giải pháp chính trị nào?
Có một số thế lực, cả bên trong lẫn bên ngoài, phản đối một giải pháp chính trị. Vì thế mà bạo lực leo thang. Phe cách mạng là những người đầu tiên phản đối một giải pháp chính trị. Họ được tài trợ bằng tiền của một số quốc gia không hề muốn cảnh bạo loạn ở Syria kết thúc. Một số thế lực bên ngoài muốn thấy xã hội Syria bị tàn phá, đất nước Syria bị suy yếu vì kiệt quệ nguồn nhân lực và tài lực. Một số quốc gia còn hô hào phải can thiệp bằng quân sự để Syria suy yếu. Bởi lẽ, một đất nước bị suy yếu và chia cắt thì không có gì để ra điều kiện bên bàn đàm phán. Nó phải chấp nhận áp đặt của kẻ khác.
Vậy là có khả năng rằng Syria sẽ bị chia thành nhiều nước?
Mọi thứ đều có thể. Nó phụ thuộc vào vai trò của các cường quốc thế giới ở Syria.
Một số nước phương Tây đang đe là sẽ can thiệp quân sự vào Syria.
Tôi không tin điều đó sẽ xảy ra. Syria là một tổng thể phức tạp: Ả-rập Saudi, Qatar và Thổ Nhĩ Kì muốn nhân danh một chế độ Hồi giáo ôn hòa để tập hợp cả một loạt quốc gia từ Maroc đến Pakistan dưới trướng Hồi giáo Sunni. Từ đó sẽ hình thành một vùng thống nhất mới, trải dài từ Địa Trung Hải, qua Caucasus đến tận biên giới Nga. Hệ quả sẽ là, một mặt cô lập được Nga, mặt khác ngăn chặn được ảnh hưởng của Hồi giáo Shia. Ngoài ra còn công cụ hóa được cả người Hồi giáo ở Nga và ở Trung Quốc. Còn Nga và Trung Quốc thì lại theo đuổi những quyền lợi riêng ở Syria. Xung đột ở đây vì thế hết sức phức tạp. Syria giáp với Thổ, Địa Trung Hải, Lebanon, Israel, Jordan và Iraq. Từ đây cũng có thể tiến thẳng vào các vùng của người Kurd. Ả-rập Saudi, các nước vùng Vịnh Ba Tư, Iran về hướng Trung Á, Ai Cập về hướng châu Phi cũng như Đảo Cyprus và Hy Lạp về hướng châu Âu đều không xa. Nếu can thiệp quân sự xảy ra, có khả năng Syria sẽ rơi vào tay các thế lực thánh chiến Hồi giáo. Họ sẽ gây ảnh hưởng với toàn bộ những khu vực vừa kể. Phương Tây có thực sự chịu chấp nhận như vậy không? Tôi tin là không.

Nguồn: FAZ, 28-8-2013. Nhan đề của người dịch.

       Bản tiếng Việt © 2013 pro&contra

8/9/13

Phạm Chí Dũng- Thời điểm “Minsky” cho Việt Nam?



Thời điểm “Minsky” cho Việt Nam?
Tác giả: Phạm Chí Dũng

Tỷ phú hay hóa rồng?
Gần như ngay sau vụ giám đốc doanh nghiệp nhà Vĩnh Hưng bị bắt giữ ở Hà Nội, một trong những đầu tàu bất động sản của Việt Nam là ông Đoàn Nguyên Đức lại khoét thêm một lát cắt vào vết thương hoại tử đang ngoác rộng của thị trường địa ốc quốc gia này, với việc lần đầu tiên thừa nhận công khai về Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai sẽ “say goodbye” miền đất đã từng làm nhiều đại gia được ních chặt túi.


Báo chí Việt một lần nữa có được đề tài để bàn luận, lồng trong không khí rệu rã của thị trường bất động sản thời suy thoái. Tuy thế, ngay cả tiếng nói của những nhà báo vụ lợi nhất cũng như buồn thảm: trước đó, người ta đã viết và PR quá nhiều, quá đậm cho sự hồi phục của thị trường, nhưng cho đến giờ vẫn chưa có bất kỳ dấu hiệu khả quan nào cho chế độ tiêu thụ căn hộ tồn kho.
Chế độ chính sách đặc thù và đặc lợi dành cho nhóm lợi ích bất động sản và các ngân hàng đang ôm hàng tồn kho căn hộ cũng vì thế đang trở nên vơi cạn ý nghĩa thiết thân về quyền lực và chỗ đứng trong lòng người tiêu dùng.

Giờ đây, người được giới cuồng nhiệt bóng đá quen gọi là bầu Đức lại chuyển sang tìm kiếm một hứa hẹn nào đó ở miền đất dân chủ còn phôi thai là Myanmar. Có vẻ bỏ mặc các khoản nợ chồng chất bị đóng kín trong sổ sách kế toán ở những ngân hàng ruột rà như BIDV, Vietcombank, Sacombank, ông Đoàn Nguyên Đức chính thức bị dư luận xã hội xem là “bỏ của chạy lấy người”.

Thực tồn mà phải đối diện đang khác xa hai năm trước – vào lúc bầu Đức còn hăng hái đưa ra tuyên bố chậm nhất đến năm 2014 sẽ trở thành tỷ phú đô la, hay các chính khách vẫn mơ muộn nhất đến năm 2015 Việt Nam sẽ “hóa rồng”.

2014?
Mới cuối năm 2012, người đứng đầu của Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai còn tỏ ra lạc quan về triển vọng của các dự án cao su và thủy điện. Nhưng đến giữa năm 2013, Hoàng Anh Gia Lai đột ngột tuyên bố sẽ không còn quá tập trung vào các dự án thủy điện nữa, bán một phần và chỉ giữ lại phần nhỏ hơn… Thậm chí, Hoàng Anh Gia Lai còn dự kiến “hy sinh” những dự án thủy điện mà theo đúng kế hoạch, năm nay bắt đầu hái quả.
Tất nhiên, lời giải thích của ông Đoàn Nguyên Đức luôn có vẻ hợp lý, nhất là trong bối cảnh Hoàng Anh Gia Lai đang cần tập trung nguồn lực vốn liếng cho các công trình bất động sản có tiềm năng hơn hẳn ở Myanmar.
Song khác hẳn với bối cảnh cuối năm 2011 và nửa đầu năm 2012, con số nợ vay của Hoàng Anh Gia Lai cho tới giờ phút này đã vượt trên 21.000 tỷ đồng, nằm ngoài dự báo của nhiều chuyên gia và tất nhiên cũng cao hơn cả con số khoảng 16.000 tỷ đồng nợ vay do chính Hoàng Anh Gia Lai công bố vào năm 2012.
Đó cũng là bối cảnh mà nền kinh tế Việt Nam đã bị các nhóm lợi ích bắt làm con tin với hơn 500.000 tỷ đồng nợ xấu và nợ công quốc gia chiếm đến hàng trăm phần trăm GDP.
Những xáo trộn kinh khủng của thị trường bất động sản trong vài năm qua đã làm không biết bao nhiêu nhà đầu tư và chủ doanh nghiệp mất ăn mất ngủ, để đến nỗi nguyện ước lớn nhất của nhiều đại gia hiện thời là mong một buổi sáng thức giấc không còn nợ nần. Đó cũng là lý do để tập đoàn của ông Đoàn Nguyên Đức không phải là ngoại lệ của nhóm Sông Đà Thăng Long, Phát Đạt hay Vinaconex, khi cũng phải đối mặt với một cơn khủng hoảng toàn diện về tồn kho căn hộ trung cấp và cao cấp có thể xảy đến ngay vào năm 2014.
Hoàng Anh Gia Lai rõ ràng không còn được lợi thế như những năm trước, dù có thể chưa nằm trong thế suy kiệt như những người khác. Cũng không còn cái thế khuynh đảo thị trường đất nền và căn hộ. Ngay cả cú bán phá giá căn hộ được ông Đức tung ra vào cuối năm 2012 cũng không làm cho tình hình của tập đoàn này được cải thiện hơn.
2013 lại tiếp nối năm ngoái bằng một đợt cáo buộc của một trong những tổ chức phi chính phủ mạnh nhất thế giới – Global Witness. Những dự án trồng cao su chưa kịp thu hoạch của Hoàng Anh Gia Lai ở Lào và đặc biệt ở Campuchia đã bị lên án sâu sắc về cách thức đối xử với môi trường và nông dân bản địa của tập đoàn này.
Chưa bao giờ trong lịch sử hoạt động của mình, Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai lại vướng phải sự cáo buộc nghiêm trọng đến thế từ một tổ chức phi chính phủ. Hiển nhiên, uy tín của tập đoàn này đã bị sứt mẻ rất nghiêm trọng trên thương trường quốc tế sau chuỗi bị hạ uy tín trong quan hệ buôn bán ở trong nước. Trong tình cảnh như thế, rất nhiều người đã phải ngỡ ngàng khi nghe nói bầu Đức “vẫn ngủ ngon trên đống nợ”.
Cú choàng giấc với còng 88 của giám đốc Công ty bất động sản Vĩnh Hưng vừa qua cũng làm dấy lên cơn ác mộng về hàng loạt đại gia khác có thể “nhập kho” trong thời gian còn lại của năm 2013.
Giờ đây, tương lai của Hoàng Anh Gia Lai sẽ và chỉ có thể được quyết định bởi chính họ. Giờ đây, tất cả những nguyện ước về tỷ phú đô la hay hình ảnh vươn ra thế giới chắc chắn đã phải tạm dừng. Tất cả còn phải tập trung vào bài toán giải quyết nợ nần và làm sao thoát khỏi cái thị trường bất động sản và hậu trường kinh doanh – chính trị khủng khiếp này càng sớm càng tốt.
“Minsky” chính giới?
Một phương trình với quá nhiều ẩn số đang công khai thách thức giới điều hành đầy dụng ý cùng các nhóm lợi ích và tài phiệt ở Việt Nam.
Muốn giải quyết nợ xấu nói chung và nợ xấu bất động sản nói riêng thì phải xử lý tồn kho nói chung và tồn kho bất động sản nói riêng; muốn xử lý tồn kho bất động sản lại phải làm tăng tổng cầu và niềm tin tiêu dùng cho nền kinh tế. Nhưng ai cũng biết rằng muốn tăng tổng cầu kinh tế thì phải bơm tiền, trong khi nguồn tiền đang có dấu hiệu cạn kiệt do bị tồn kho và không giải quyết được nợ xấu. Chưa tính tới yếu tố bơm tiền hoàn toàn có thể sinh ra lạm phát…
Đây chính là một cái vòng luẩn quẩn mà sẽ dẫn tới “thời điểm Minsky” – tức thời điểm nền kinh tế phải chịu cảnh đổ vỡ dây chuyền, bắt đầu từ khối doanh nghiệp con nợ và ngân hàng chủ nợ không thu hồi được các món nợ, dẫn tới khả năng sụp đổ kinh tế.
Nhiều khả năng triển vọng giải quyết tồn kho bất động sản sẽ rất chậm và phải kéo dài ít nhất 4-5 năm. Nhưng ngay trong ngắn hạn năm 2013 và năm 2014, tình trạng nợ khó đòi từ các doanh nghiệp bất động sản lại luôn có thể tạo nên sang chấn bùng vỡ cho giới ngân hàng chủ nợ, mà có thể kéo theo một làn sóng sụp đổ dây chuyền giữa một số ngân hàng lớn.
Nếu không thể giải quyết núi tồn kho bất động sản vào thời hạn “Minsky” giữa năm 2014, hoặc chậm lắm đến cuối năm đó, rất nhiều khả năng nợ xấu bất động sản sẽ làm bùng vỡ nợ xấu quốc gia và đẩy các ngân hàng vào thế tồn vong. Thế tồn vong đó cũng có thể gây tác động tiêu cực không nhỏ đến chân đứng của một nền chính trị vốn đang chịu nhiều xáo động và có thể cả manh động.
Với tất cả những bất cập và bất bình đẳng ghê gớm tích tụ trong suốt hai chục năm qua, bất động sản hoàn toàn có đủ tư cách để làm lộn nhào cái nôi của một nền kinh tế thị trường không rõ định hướng nào hết.
Nếu không tự xử lý được phương trình bất động sản với quá nhiều ẩn số, nền kinh tế Việt Nam sẽ có nhiều triển vọng rơi vào một cơn khủng hoảng mới còn ghê gớm hơn cả khủng hoảng 2008 và đợt suy thoái kéo dài suốt ba năm qua. Khủng hoảng kinh tế lại rất dễ dẫn đến khủng hoảng xã hội – một phạm trù vốn đã tiềm ẩn nhiều mầm mống được thể hiện trên nhiều đường phố.
Ai cũng biết khủng hoảng xã hội một khi đã kết tủa và cộng hưởng với khủng hoảng kinh tế thì hoàn toàn có đủ tư cách để tạo nên một xung chấn chính trị đủ mạnh, có thể làm thay đổi cả một chế độ cùng bản chất tưởng như không thể đổi thay của nó.
Theo quy luật song trùng giữa kinh tế và chính trị, thời điểm Minsky đáo hạn để thanh toán các khoản nợ tài chính cũng có thể là thời khắc chuyển từ lời giục nợ thành hành vi siết nợ đối với chính giới điều hành ở Việt Nam.
Thời khắc ấy đang đến gần, rất gần…
P.C.D.

Source : blog Alan Phan