30/4/09

Hoàng Quý - Bụi, và cát, và hương quyến rũ

BÀI VIẾT VỀ NHÀ THƠ , NHẠC SĨ A KHUÊ



Bụi, và cát,
và hương quyến rũ


Hoàng Quý


LTS: Bạn đọc đã biết Hoàng Quý qua các tập thơ: “Giấc phì nhiêu” (NXB Văn học, 1996), “Đi bên mùa lá rụng” (NXB Văn học, 2000), “Ngang qua cánh đồng” (NXB Hội Nhà văn, 2002 - tái bản 2004), “Giả trang” (NXB Văn học, 2007) với giọng thơ rất riêng, nhiều độc đáo, ngôn ngữ sống động, sức thơ vạm vỡ nhưng trầm tư và sâu sắc. Tuy nhiên, chúng ta còn chưa biết tới Hoàng Quý trong một thể loại văn học khác - thể loại chân dung và phê bình. Thật bất ngờ, ngay trong những năm nghỉ hưu đầu tiên nhà thơ đã và đang dành thời gian viết tập sách về những nhà văn, nhà thơ và những nghệ sĩ anh quý trọng hoặc phát hiện trong quá trình đi và viết của mình. Chúng ta bắt gặp một giọng văn giàu tình cảm, giàu chất thơ, những khám phá mới mẻ trước những tài năng văn học nghệ thuật sáng giá bị che phủ vô tình trong dòng sống nhiều biến động.
Xin trân trọng giới thiệu bài viết về nhà thơ - nhạc sĩ A Khuê (Bài viết đã được Báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam in trong số 38 ngày 20.9. 2008).

1. Vào một đêm mùa đông cuối tháng chạp năm 2001, trong một khách sạn nhỏ ở Hà Nội, tôi, hoạ sĩ - nhà thơ Nguyễn Trần Thái và thi sĩ Trần Quốc Thực tề tựu trò chuyện. Ba chúng tôi thân quý nhau nên mỗi trước khi tôi trở về Nam là các anh lại đến như ngầm quyến luyến chia tay. Khi có dịp gặp, chúng tôi thường nói đủ thứ chuyện trên trời dưới đất, những chuyện chợt đến bất kỳ, tất nhiên chủ yếu vẫn là chuyện văn chương. Nhưng, cũng có khi chỉ để im lặng ngắm nhau uống rượu và nghe “rượu nói” cũng đủ sướng !
Cái đêm cuối chạp kể trên thì khác. Tôi nhớ rằng, đêm ấy rét như cả năm dồn tụ và vón cục những tê buốt lại. Chỉ Nguyễn Trần Thái là đã ngà ngà, lơ mơ ngủ và vùi gần kín đầu trong chiếc chăn bông không lấy gì làm dày dặn. Anh Trần Quốc Thực đêm ấy uống rất ít. So ro và chậm rãi, anh đọc cho tôi nghe vài bài thơ trong tập Tháp Cúc, tập thơ in sau đó ít năm. Đang đọc mạch lạc, bỗng anh thoắt dừng, bất ngờ hỏi: Hoàng Quý có đọc nhiều thơ của những tác giả miền Nam viết trước 1975 không ? Mình được đọc ít quá. Sách rất thiếu. Sách của những nhà thơ miền Nam trước 1975 rất khó kiếm. Tôi nói với anh rằng cũng đọc nhưng không nhiều lắm. Anh thở dài, và bảo: Phải cố tìm mà đọc. Nhiều bài thơ, nhiều tác phẩm cả văn xuôi và thơ rất có giá trị văn học. Mình làm biên tập ở báo Văn nghệ, công việc tuy không quá bận nhưng sức khoẻ kém lắm rồi, dạo này phổi rất tệ, đọc ít dần, như thế thực không hay lắm đâu …

Anh nhìn đăm đắm bầu trời nhớp nhoá mưa bấc phía ngoài cửa sổ hẹp, bỗng thở dài, bỗng đọc:

“Đồi trăng một cụm tóc phơi
Thưa em uống rượu tả tơi một mình
Đồi trăng một cụm phơi mình
Thưa anh tầm thể đã nghìn xuân qua
Đồi trăng u uất chưa bưa
Bữa qua tôi uống thêm mùa uất u
Đồi trăng không ngớt vi vu
Bữa nay tôi ngậm sương mù thở than
Đồi trăng mỏng diệu diệu vàng
Hồn bay, bay giữa hai hàng hoa lê
Lên đồi khăn áo lê thê
Áo trăng quá lạnh tôi về giết trăng”

Nguyễn Trần Thái tung chăn choàng tỉnh, bật dậy, la: Thơ ai hay quá vậy ? Lên đồi khăn áo lê thê / Áo trăng quá lạnh tôi về giết trăng là hai câu thơ hay dựng tóc; còn hai câu kế trên đẹp như một tác phẩm hội hoạ của một danh hoạ tài ba ! Anh Thực ho húng hắng, rồi cười buồn: Hay quá phải không ? Mình nghe người ta đọc một lần, người đọc cũng không biết thơ của ai. Mình dò hỏi nhiều nguồn vẫn chưa biết ai là tác giả. Lúc đầu, mình đã nghĩ thơ của người này có cái gì đó giống thơ Hàn Mặc Tử, lại có cái gì đó rất Bùi Giáng. Nhưng, đọc kỹ nhiều lần thì càng thấy rằng không phải vậy. Tất nhiên là chỉ bài này, hoặc là 12 câu mà mình biết chứ những bài khác thì đâu đã biết. Người thơ này phải là một nhà thơ có tài. Mà cũng không rõ bài thơ chỉ bấy nhiêu thôi, hay còn nữa mà người đọc cho mình nghe cũng không nhớ. Nếu bài thơ kết ở đó thì đã rất hay rồi …khí thơ nghe lạnh mà vẫn trong, các ông ạ !
Đêm đó, chúng tôi thức trắng. Trần Quốc Thực còn đọc khá nhiều thơ của Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền và vài nhà thơ miền Nam khác mà anh yêu thích. Riêng tôi, 12 câu thơ của tác giả “bí mật” nọ cứ ám ảnh, và ám ảnh rất thường khi sau này. Khi thi sĩ Trần Quốc Thực đã bỏ bạn bè về một trời khác, thì ngoài thơ của anh mỗi lần tôi đọc lại, tôi lại nhớ tới 12 câu thơ anh đã đọc cho tôi và Nguyễn Trần Thái nghe đêm nào. Cũng như anh, tôi đã cố công dò tìm cho ra ngọn nguồn mà đành chịu.




2. Đầu tháng bảy năm nay, nhà nghiên cứu lịch sử kiêm phó Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Phước Phan Văn Dõng điện thoại xuống Vũng Tàu hỏi tôi:
- Anh có thu xếp đi một chuyến Bình Phước được không ? Giữa tháng này chúng tôi mở Trại sáng tác Văn học Nghệ thuật lần thứ II. Cố mà gác mọi việc lên với tụi mình. Ở trên này có A Khuê và Trung Đức biết anh đấy !
Và thế là tôi có điều kiện cho một chuyến đi mới, bổ ích và rất đặc biệt.
Anh Dõng bố trí cho tôi và nhạc sỹ A Khuê ở chung một phòng, phòng 406 của khách sạn Mỹ Lệ, một khách sạn đẹp nhất của thị xã Phước Long - mà cũng có lẽ là đẹp nhất của Bình Phước. Tôi và nhạc sỹ A Khuê luôn luôn ngồi kề cận nhau dù trên xe, hay trong các bữa ăn của đoàn. Hằng đêm, khi về đến khách sạn thì thôi rồi, thức, đọc thơ, hát, chụm đầu không ít lần xuống những khuông nhạc. Chúng tôi thường nói tếu: Rồi sẽ đến lúc được ngủ mãi. Vì thế có dịp ở với nhau sướng thế này cứ phải thức cái đã ! Đến Điểu Đức - anh bạn nhạc sỹ rất trẻ người S’tiêng nhập đoàn sau, ở cùng phòng 406 theo đề nghị của tôi cũng được một phen bội thực thơ, bội thực thức và bội thực chuyện ...tào lao.
Đêm cuối của chuyến đi, nhạc sỹ A Khuê bỗng hỏi: - Em đã đọc thơ thằng này chưa …Rồi anh đọc Em Pleiku má đỏ môi hồng / Ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông. Tôi reo lên: Thơ Vũ Hữu Định ! Rồi đọc nối luôn Nên mắt em ướt và tóc em ướt / Da em mềm như mây chiều trong.
Như chạm mạch, tôi say xưa đọc thêm mấy câu khác:
“Chiều khó thở ngồi bên quán xép
Một miếng khô, một xị rượu nồng
Nhai là nói với đời lận đận
Uống là nghe sầu chảy long đong”
(Thơ Vũ Hữu Định)

A Khuê khoái quá, cười sang sảng, rồi bảo: Em thuộc cả thơ thằng Định, thằng bạn tri kỷ của anh là anh sướng quá. Vũ Hữu Định lận đận lắm. Nó chết buồn quá, khi tuổi mới vừa 40, chết vào tháng giêng, tháng vừa xuân năm Tân Dậu (1981) ngay bên bờ sông Hàn của thành phố Đà Nẵng, cái thành phố mà thuở bé nó và anh đi đâu cũng có nhau. Anh kể cho tôi nghe rất nhiều những năm tháng trôi vô định cùng Vũ Hữu Định. Anh còn kể và đọc thơ của một người bạn rất thân nữa là Phạm Phú Hải (tác giả tập thơ Gánh Nước Tưới Sông). Anh khen Trần Quang Lộc - bạn cùng nhóm các anh ngày nào, rằng Trần Quang Lộc là một nhạc sỹ tài hoa. Nhưng tôi không thấy anh nhắc lời về cái hành vi “lờ ca từ” từ thơ của anh mà dư luận đã một dạo rất phản ứng. Khi tôi cố tình động chút ít vào sự kiện ấy, anh chỉ buồn buồn, rồi bảo: Cả thơ mình, ca từ mình viết cũng có ít nhất không dưới 13 lần trong nhạc Trần Quang Lộc chứ có riêng gì “Về đây nghe em” đâu. Nhưng thôi, chuyện đã qua rồi, mình cũng muốn gặp lại nó vì gì thì gì nó cũng đã từng là bạn của tụi mình …

Sang đầu tháng 8, tôi trở lại Bình Phước một lần nữa. Sáng hôm tiễn tôi ở bến xe khách thị xã Đồng Xoài, nhạc sỹ A Khuê đưa cho tôi một tập thơ mà anh photo từ những tờ bản thảo anh còn giữ được. Anh bảo:
- Hồi trẻ, anh làm nhiều thơ lắm. Chả biết hồi ấy chữ ở đâu mà lắm thế. Viết cứ như một thằng mộng mị…Em mang những bài thơ cũ này của anh về và đọc xem thế nào ! Năm 1999, cũng nhờ bạn hữu, Nhà Xuất bản Trẻ in cho anh tập thơ “Lùa bò trong sương”, còn tập “Vàng bay” do Nhà Xuất bản Da Vàng ở Đà Nẵng in năm 1970 thì anh chả còn tập nào trong tay nữa.
Tôi cảm động cất những bản photo anh đưa vào đáy chiếc ba lô và hứa sẽ đọc.
Và, tôi đã đọc đi đọc lại như bị ma ám suốt mấy đêm liên tiếp. A Khuê không chỉ là một nhạc sỹ có tài mà tôi đã biết. A Khuê còn là một nhà thơ, đúng hơn, là một thi sỹ - nhạc sỹ tài hoa, dấn thân cho cả nhạc lẫn thơ với ý nghĩa đúng đắn nhất của những từ này !
3. Thơ A Khuê là một thứ thơ được sinh ra trong lòng của người thi sỹ luôn luôn biết cách “uống chữ, uống đời rồi nhả tơ vàng” để rồi tự chuốc ngất say ngư hơn cả uống rượu. Và, cũng chỉ sinh ra ở “loài thi sỹ” bị mắc một căn bệnh trầm kha rất đỗi đáng yêu là bệnh “viêm xê dịch mãn tính”. Bởi thế, họ không ở đâu cho yên. Bởi thế họ rất biết cách tự vui thích và biết cách tự trào; rất biết gửi hồn mình, ẩn hồn mình trong mê trận chữ, biết “điều” chữ “đi” uyên náo cả lòng người.


Đây nhé:
Ra đi hồn không áo
Ngỡ dòng sống là đây
Con ngươi tôi trâng tráo
Chẳng có một bóng mây
Soi mặt dòng nước biếc
Tôi là tôi đó ư
Hay bắt đầu là hết
Và sau cùng thiên thu
(Sầu riêng - Trong: Bụi cát ra hương)

Đây nữa:
Rồi khi không ta dẫn hồn đi trốn
Chân trên cỏ chân lẫn cỏ sương bay
…Tóc tơi tả hồn tơi tả rong chơi
Tay phủi bụi tay bấu đời thơm ngát
Chìm vào cuộc loi ngoi ngát ngát
…Ta bơi qua tả ngạn mây chiều
(Long lanh hương - Trong: Bụi cát ra hương)

Và, đi đến độ:
Bỏ xứ con đi
Đường trời xa lạ
…Con ngươi của mẹ
Nhấp nháy mặt trời
Con đi trong nắng
Máu rờn rợn trôi
(Mẹ tàn phai - Trong: Bụi cát ra hương)

Thật là một cuộc đi nhiều kinh hoàng, mang nỗi buồn cuộc đi cũng rờn rợn kinh hoàng ! Con đi trong nắng / Máu rờn rợn trôi là những câu thơ viết về một sự đi trong cái kiếp nạn của đời người, của chính anh rất hay và rất gợi, không bình được. Đọc và đọc, và không nên bình. Tôi nghĩ thế !
Nhưng, liệu có phải người thi sỹ này đi chỉ nhằm cho một cuộc rong chơi bất cần đời ? Không đâu ! Ta có thể gặp anh lòng nhiều trĩu nặng khi thác lời những người hành khất để cất lên một điệu ca buồn, buồn đến nhức nhói, buồn đến tái tê: Tóc dài phất phới / Để tang đời ư / …Áo quần bẩn thỉu / Ta thù đời ư / Bao lời xua đuổi / Ta thương người ư / Ngồi nói một mình / Ta cao ngạo ư / Nằm ngủ trần truồng / Ta điên khùng ư (Khất hành ca - Trong: Lùa bò trong sương). Ở lời mà anh nói thác cho những kiếp hành khất là một loạt các câu hỏi gấp gáp mà nào có dễ trả lời ! Thương những kiếp mỏng ở cõi người, nhưng anh cũng biết rằng lòng anh dẫu có như Hồ nguyệt đọng cũng chỉ có thể Ném hòn sỏi đơn sơ và bất lực.
Trong bụi, cát tơi bời của cuộc đi, sự vật lộn, sự dằn vặt trong tâm hồn chính nhà thơ đã không dưới một lần anh buộc phải kêu to rôi tự thán: Ta là không bóng không hình nàng ơi / Sao ta đày ải cuộc đời trăm nơi / Ta còn đây hay ta mất hút / Trong nhà lớn bao la cuộc đời (Thiên thần không bóng không hình -Trong: Lùa bò trong sương). Phải chăng, mỗi khi như thế, mỗi khi lòng anh cô quạnh và nhiều bất lực, anh lại tự để cho lệ mình rơi rớt đầm đìa:
Buồn trên sông khóc trên sông
Cũng không đủ lệ một dòng cho ai
…Nằm bên cỏ dại thầm thì
Thương chưa hề yêu chưa hề thương yêu
Sao đâu sao đâu đìu hiu
Áo trăng ta lạc giữa chiều rồi chăng
(Lẻ loi - Trong: Lùa bò trong sương)

Rồi anh chia sẻ:
Dù rằng máu vẫn nguôi ngoai
Đêm đêm tiếng thở lạnh dài hư vô
…Tay cầm nguyệt đã tinh khôi
Vàng - một - phím - vàng - hai - rơi - ngõ - vàng
(Nỗi lòng chia sẻ - Trong: Lùa bò trong sương)

Cố thi sỹ - nhà phê bình văn học Trịnh Thanh Sơn có lần tâm sự với tôi rằng: Thơ hay hình như phần nhiều bật lên trên miệng vực của những nỗi buồn. Có lẽ đây cũng không chỉ riêng là nhận định của cố thi sỹ họ Trịnh. Tôi đồng tình rằng, cái có thể là “quy luật” sinh ra thơ hay mà cố thi sỹ đúc rút, tâm sự với tôi bởi ông đã trải và nghiệm khi đọc hàng núi sách và trò chuyện với rất nhiều thi bá, thi hữu ông gặp trong mấy mươi năm sống, đọc và viết. Khi đọc thơ A Khuê, càng đọc tôi càng sửng sốt thấy các bài thơ hay của thi sỹ luôn luôn đi ra từ những nỗi buồn. Ví dụ, khi A Khuê tạ ơn tháng ngày ân huệ mà cuộc sống ban tặng, anh viết ra một thứ thơ đẹp và buồn tráng lệ đến thế này:
Hồn như vĩ cầm lệ
Kêu réo qua từng ngày
Từng ngày bao ân huệ
Như tháng tháng mây bay
(Không ngờ - Trong: Bụi cát ra hương)
Hoặc cả ngay khi A Khuê gửi lời, gửi lòng anh cho một người con gái dù là gái giang hồ thì câu chữ tài tình anh viết vẫn luôn bật lên từ thẳm sâu buồn:
Người em gái tóc giang hồ bạc phếch
Ta và em đôi mắt thở rất gần
Hồn xơ xác nằm im trong bụi trúc
Nghe xa xăm tiếng thở của vô cùng
(Người con gái giang hồ - Trong: Bụi cát ra hương)
Tôi đã đọc rất kỹ 80 trang photo mà nhạc sỹ - thi sỹ A Khuê đưa cho tôi hôm anh tiễn tôi ở bến xe thị xã Đồng Xoài. Chỉ mới 80 trang anh đưa, với 60 bài thơ (có lẽ là chưa đầy đủ - thuộc hai tập thơ khác nhau: Tập “Lùa bò trong sương” và tập “Bụi cát ra hương” anh đang viết dở dang rồi có thể mất hứng, có thể vì một lý do nào đó không viết thêm nữa) trải dài gần 40 năm chuyên chú với thơ trước khi bị bảy nốt ma mị của âm nhạc lôi kéo. Ở bất cứ bài thơ nào của anh cũng có thể tìm được những câu thơ bậc thi sỹ ! Tuy nhiên, quan trọng hơn là thơ A Khuê luôn mang một thi tâm rất nhất quán. Thơ anh buồn mà trong, khi vui cũng không vì thế quá tưng bừng, và khi chất chứa những cay đắng (người mà không có đôi khi cay đắng thì mới là cái giống lạ !) thơ anh cũng không rơi vào lối nói nhiều gào thét. Trái lại, bất kể thế nào, bất kể hoàn cảnh nào anh cũng luôn luôn giữ cho tư thế “đi” trong bụi và cát của đời thơ và có khi là đời anh một tư thế, một hồn chữ luôn luôn sang trọng, điềm tĩnh. Đó cũng là một phẩm cấp thi sỹ chăng ?
Nhà thơ tình của thế kỷ XX Xuân Diệu đã từng nói đại ý: Anh nói rằng anh bình thơ rất giỏi ư ? Tôi chưa tin ! Hãy trích dẫn dẫu chỉ một câu thơ hay tôi sẽ tin và tin hơn cả những lời bình !
Thơ A Khuê thật nhiều câu hay. Chữ trong thơ anh nhiều khi loé sáng và rất lạ, rất bất ngờ. Có những chữ cứ như thể ta đang đi đến một góc khuất bất kỳ thì thình lình hiện ra một bất ngờ nào đó làm ta phải giật mình. Có nhiều câu thơ của anh tôi chỉ đọc một lần là găm vào trí nhớ. Hình ảnh trong thơ anh cũng chuyển động khác thường. Ví dụ, khi viết về lòng yêu nhân loại, anh viết theo một giọng điệu rất A khuê, thế này:
Mắt đã nhỏ lệ
Ôi lệ ôi
Yêu thương nhân loại tơi bời trái tim
(Mổ ngực trăng - Trong: Bụi cát ra hương)

Yêu đến Tơi bời trái tim là còn hơn cả yêu tan nát. Chữ chọn dùng hay không bình được ! Hoặc là khi anh diễn tả cái sự anh yêu một cô gái đến mức:

Bình minh đỏ rực lên rồi
Môi cô hạt máu
Khóc lời tôi chăng
Thì xin cô hãy nhớ rằng
Trong tôi dòng máu vẫn hằng chảy ra
(Nón cỏ theo người - Trong lùa bò trong sương)

Hoặc là cái cách anh diễn đạt “cái sự bay” lay thức hồn anh cũng thật khác thường, cái sự bay không tới cao sang mà lại tới một bày cò con thì càng bất ngờ làm sao:
Nếu ta mọc cánh mà bay
Thì ta bay tới một bày cò con
Bay tàn phai bay héo hon
Bay đi tứ xứ tìm hồn duyên xưa
(Nỗi lòng chia sẻ - Trong: Lùa bò trong sương)
Và cũng để chứng minh rằng trong thơ A Khuê lao động chữ luôn cật lực nhằm tìm ra cách diễn đạt thật sống, thật mới mẻ có thể thấm vào tâm cảm người đọc. Ví dụ, trong bài “Tỳ bà xanh” anh tả các ngón tay lảy dây bấm phím như dốc tất thảy tim gan phổi óc ngỡ cháy thành khói thiêng mộng mị, ảo diệu đến thế này:
…Má hồng
Cô bé tỳ bà câm
Chặt năm ngón tay
Chặt năm ngón tay đốt trầm
Đàn khói lộng
Tan tành tình trăm năm

Giời ạ ! Đàn đến độ như đã Chặt năm ngón tay đốt trầm thì câu chữ thế còn biết tìm khác thế nào cho hay hơn nữa đây !

Tuy nhiên, cũng có thể thấy dù đã rất thành công, nhiều ấn tượng từ nhiều câu thơ, bài thơ độc đáo như một đặc sản A Khuê, cũng không phải không có những bài (trong số bài anh photo tặng tôi) anh viết quá gần Hàn Mặc Tử ở ảnh hình, quá gần Bùi Giáng ở cách nói. Cũng tất nhiên như một lẽ thường thôi mà, nhiều thi sỹ tài hoa vẫn ít nhiều ảnh hưởng những ngọn nguồn, những trào lưu, những giọng điệu tương hợp với sở ý mình. Ví như: Các em phải hiểu cho nhiều / Đời ta bụi gió đã nhiều lất lây / …Dạ thưa trời đất vốn là / Bụi bay cát chạy vốn là bụi bay cũng chừng hơi hơi tí ti Bùi Giáng phải không, anh A Khuê ?

4. Đêm nay, tôi ngồi đọc lại 60 bài thơ trong 80 trang photo mà thi sỹ - nhạc sỹ A Khuê tin cậy trao cho. Tôi mang một cảm giác nhiều tiếc nuối vì người thi sỹ tài hoa này bây giờ làm thơ ít quá. Hay anh bỏ thơ mà đi ? Hay ngược lại ? Như thế liệu có thiệt cho thơ Việt chúng ta chăng khi mỗi năm có đến hàng ngàn tập thơ in la liệt. Trong số đó thơ thứ thiệt, thơ đặc sản như cỡ A Khuê và một số thi tài khác đốt đuốc giữa ban ngày cũng chỉ lác đác. Chao ôi ! Cái sự mọi ai đều thích in thơ chưa hẳn đã là điều dở - tất nhiên ! Có chăng, cái thứ phẩm của món “thơ giả thơ” (chữ của nhà thơ Inrasara) mới làm cho mâm tiệc thanh cao và uyên ảo của Thơ (viết hoa) là phải chịu “hầm bà làng”. Điều này lại phải cậy nhờ mấy ông xuất bản và kêu gọi cả sự tỉnh ra của các ông các bà nhiều ngộ tưởng.

Nhưng, tôi có thêm một niềm vui bất chợt trong đêm nay. Ở cái khe bàn tôi ngồi viết lấp ló một tờ rơi. Tôi nhặt lên, không tin vào mắt mình nữa. Đây này, anh Thực ơi ! Đây này, cái bài thơ anh đọc cho em và Nguyễn Trần Thái nghe vào đêm đông cuối chạp năm nào chính là thơ của thi sỹ - nhạc sỹ A Khuê mà em đang có trong tay. Nó chính là bài thơ thứ 61 em cẩu thả để gió cuốn vào khe bàn. Anh Thực có biết không, cái người thơ mà chúng ta tìm có một đời sống vui chậm, buồn trước. A Khuê từng là một tay chăn bò thuê thứ thiệt nhiều năm trên núi đồi miệt Long Khánh. A Khuê cũng từng cùng vợ và tám đứa con nheo nhóc thử kiếp “thuần nông” trên các cánh đồng cò bay cò sã cánh tít hút Sóc Trăng. A Khuê có tới chừng 10 năm cấy lúa nhưng gặt rạ gặt rơm vì thất mùa nhiều gấp ba lần được. A Khuê vật vã thợ hồ, đốn củi, đốt than nuôi một đàn con đang sức tằm ăn rỗi. Bụi thế, cát thế mà thơ cứ ăm ắp mộng mị, cứ bay hương, bay những hương mê quyến rũ như chưa hề buồn chán bao giờ. Bài thơ có 12 câu anh đọc vào đêm đông ngày ấy chính là bài Đồi Trăng Uống Rượu anh Thực ạ. Cũng đúng là bài thơ chưa dừng ở câu Áo trăng quá lạnh tôi về giết trăng. Nó còn những sáu câu trong khổ kết. Sáu câu còn lại của bài thơ trọn vẹn Đồi Trăng Uống Rượu là khúc vĩ thanh rất nhiều tươi sáng. Trần Quốc Thực ơi ! Dù ở tận trời nào thì cũng hãy về quanh đây cho em được đọc nốt sáu câu kết mà anh dự cảm rằng có thể bài thơ chưa kết thúc. Nó thế này:
Giết trăng tôi lại lên đồi
Ngơ ngơ ngác ngác tôi ngồi nhớ trăng
Đồi trăng đỏ tôi mê man
Ôi tôi biết cõi phai tàn sau lưng
Đồi trăng uống rượu vô cùng
Xin thưa trời đất tôi mừng tôi say

Bài thơ đã hết thật rồi !
Tôi đốt một nén trầm rồi ba lần đọc to những câu thơ A Khuê như thể vẫn còn bên tôi một Trần Quốc Thực gan ruột với thơ giữa buốt rét đêm nào Hà Nội …

Thành phố Vũng Tàu
Đêm 13 rạng ngày 14.08.2008
H.Q

26/4/09

Trần Vũ : Quân đội Việt Nam — Con đường canh tân

Trần Vũ
Quân đội Việt Nam — Con đường canh tân



Trước hiểm nguy Trung Hoa, không thể phân biệt quân đội quốc gia với quân đội Bắc Việt hay quân đội Cộng hòa với quân đội Cộng sản. Duy nhất một quân đội Việt Nam mà hiện nay là Quân đội Nhân dân, vì quân đội Cộng hòa đã biến mất, vì Quân đội Nhân dân đang mang trọng trách bảo vệ đất nước. Tiên đề này làm nền cho các khảo sát.

1. Tinh thần ái quốc

Khác với quân đội của các đế quốc, quân đội Việt Nam đã luôn phải xây dựng sức mạnh trên chính lòng ái quốc của dân tộc mình. Ngay cả khi Đại Nam đạt đến sức mạnh của một đế quốc Đông Dương, quân đội Đại Nam chưa biết vận dụng sức lực của các sắc tộc Chàm, Ai Lao hay Thủy Chân Lạp. Sức mạnh của quân đội Việt Nam là sức mạnh của sự đoàn kết, chết để giữ đất và chết để mở đất, của sắc tộc Kinh. Mạc Cửu ở Hà Tiên là một biệt lệ.

Ngược hẳn, quân La Mã hay Thập Tự Chinh là một hỗn hợp các sắc dân tham chiến vì lý tưởng chinh phục hoặc chống Hồi giáo. Gần hơn, quân đội Anh trong hai thế chiến tập hợp lính Ái Nhĩ Lan, Tân Tây Lan, Gia Nã Đại, Nam Phi và Ấn Độ. Tinh thần ái quốc không hẳn là động cơ tham chiến của những người lính này. Trường hợp Quân đội Liên hiệp Pháp không khác. Quân đội Pháp sử dụng một bộ phận lớn lính Ma-rốc, Algérie, Tunisie, Sénégal, Cameroun và binh chủng Lê dương. Trên chiến trường Việt Nam, lính ngoại quốc đông hơn lính Pháp, 52% quân số Lê dương là cựu binh Đức. Có thể viết: Sức mạnh của các quân đội đế quốc là sức mạnh tổng hợp, xây dựng trên sức tổng hợp các lý thuyết, nhân chủng, nguyên vật liệu, kỹ thuật, tài chánh và cả lý tưởng.

Quốc gia Việt Nam chưa đạt đến sức mạnh này, tinh thần ái quốc vẫn là sức mạnh duy nhất.

Đến chiến tranh Việt-Pháp, quân đội Việt Nam gặp thử thách: Lần đầu tiên phải đương đầu với quân đội Tây phương. Quân nhà Nguyễn thất bại liên tiếp khiến triều đình Huế phải ký các hòa ước Nhâm Tuất, Giáp Tuất, Quý Mùi, rồi đến hòa ước Giáp Thân, tức hòa ước Patenôtre, công nhận vĩnh viễn nền bảo hộ Pháp. Lòng ái quốc đã không tạo ra đủ sức mạnh để thắng các phương tiện kỹ thuật của đối phương. Chiến thắng của quân viễn chinh Pháp là chiến thắng của một nền công nghiệp nặng đã nghiền nát một nền nông nghiệp lạc hậu. Một cách khác, quân đội nhà Nguyễn tụt hậu kỹ thuật đến mức mà tinh thần ái quốc và lòng can đảm không thể bù đắp. Cái chết tiết tháo của các đại thần Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu để lại trong lòng dân tộc vô vàn thương tiếc, cùng kính trọng. Nhưng những cái chết này không cứu vãn được nền độc lập quốc gia, chúng cứu vãn duy nhất danh dự của một giai cấp quan triều.

Canh tân trở nên cần thiết. Nhưng không phải lúc nào quốc gia cũng có đủ thời gian và đủ khả năng canh tân. Lịch sử là một chuỗi cơ hội mà chỉ những quốc gia nào biết kịp nắm bắt mới có thể giành lấy những cơ hội kế tiếp.

2. Thời điểm canh tân

Hệ thống dân vận và Viện Sử học cố gắng tìm ra những điểm tương đồng giữa phong trào Tây Sơn với Chính quyền Cách mạng. Trong thực tế, nhìn theo chiều dài lịch sử, chính phủ Việt Nam đương quyền có nhiều điểm tương đồng với nhà Nguyễn và rất khác Tây Sơn trong cách đối đầu với phương Bắc. Trên mặt quân sự, quân nhà Nguyễn đã tiến vào Nam Vang lập Trấn Tây thành nhưng không bình định được Chân Lạp, Quân đội Nhân dân cũng đã trải qua kinh nghiệm này. Trên mặt chính trị, chính quyền Tây Sơn không thật sự thần phục nhà Thanh trong lúc các triều vua Nguyễn đã luôn nhìn về phương Bắc và phụ thuộc vào động thái của Thanh triều trong phương cách ngoại giao với Tây phương. Chính quyền Việt Nam hiện nay ứng xử tương tự.

Điểm tương đồng lớn nhất giữa chính phủ hiện tại với nhà Nguyễn nằm ở sự chậm trễ canh tân sau khi thống nhất đất nước.

Kể từ thế kỷ 19, lịch sử dân tộc cho phép duy nhất hai thời kỳ khả dĩ có thể canh tân quân đội: Bốn triều vua đầu nhà Nguyễn và từ thập niên 90 đến nay. Các giai đoạn khác, quốc gia chìm đắm trong chiến tranh và loạn lạc.

Hoàng đế Gia Long có nhiều thuận lợi: Mối giao hảo ban đầu khá tốt đẹp với Pháp hoàng, ngay cả khi Pháp hoàng Louis XVI bị cách mạng đánh đổ, đường dây ngoại giao đã thiết lập, và ngay cả khi mối quan hệ này đứt đoạn, Âu châu đang chìm trong chiến tranh của Nã Phá Luân cho phép Đại Nam một thời kỳ dài bình yên. Các giám mục, giáo sĩ, kỹ sư theo phò Gia Long đã chứng tỏ trung thành và đắc lực. Một chính sách phổ biến kiến thức của các kỹ sư này, một cách quy mô, mở mang công xưởng và tận dụng tri thức Tây phương bằng cách thuê mướn người Âu châu như Nhật Bản sẽ thực hiện về sau, đã có thể cải tổ quân đội Đại Nam một cách hữu hiệu. Gia Long còn thừa hưởng âm vang của hai chiến thắng Rạch Gầm và Đống Đa của Nguyễn Huệ, khiến Xiêm La và Đại Thanh quốc nể vì. Gia Long đã không tận dụng những ưu thế này.

Các hoàng đế kế nhiệm Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức đã không nhìn thấy bối cảnh thế giới vẫn còn thuận lợi và Đại Nam là một trong những quốc gia mạnh ở Á châu, kể cả khi so sánh với Nhật Bản.

Phía Bắc, Thanh triều phải đối đầu với các nội loạn triền miên ở Lưỡng quảng cho đến 1864 mới dẹp yên Hồng Tú Toàn. Cuộc chiến với Thái bình Thiên quốc làm Thanh triều kiệt quệ. Phía Đông Bắc, Cao Ly đang bị Mãn Thanh chiếm đóng, còn Nhật Bản vẫn đóng cửa không giao tiếp với thế giới. Nhật Bản liên tiếp trải qua 11 trận đói trong suốt một thế kỷ rưỡi, mà nạn đói sau cùng diễn ra vào năm 1837. Các sứ quân Tokugawa suy yếu dần.

Phía Nam, Mã Lai không đủ sức uy hiếp Đại Nam. Phía Tây Nam, Xiêm La với 4 triệu dân không cản được Trương Minh Giảng tiến vào Chân Lạp. Phía Tây Bắc, vương quốc Miến Điện với 3 triệu dân không có cả quân đội chính quy để gây hấn với Đại Nam. Lính Miến, trưng binh khi chiến tranh, không được tổ chức thành một đạo quân thường trực.

Phía Đông, biên giới Hoa Kỳ chỉ chạm đến Thái Bình dương vào năm 1848 sau khi giành lấy California từ tay quân đội Mễ. Hiểm nguy đến từ Âu châu. Tuy nhiên, ngoài các thương điếm, Hòa Lan và Bồ Đào Nha không đủ sức mở những cuộc viễn chinh lớn. Tây Ban Nha tuy hiện diện ở Phi Luật Tân đã bắt đầu chu kỳ suy tàn. Đế quốc Phổ, một sức mạnh lục địa, không ưu tiên xây dựng hạm đội và hãy còn đang tìm cách chế ngự quân đội Pháp. Trường hợp Pháp, tiềm năng khoa học kỹ thuật và tham vọng vẫn tràn đầy nhưng hải quân Pháp bị tiêu hủy trong thủy chiến Trafalgar chưa vực dậy. Đế chế Nga tập trung sức lực hoàn thành tuyến đường hỏa xa xuyên Tây Bá Lợi Á để tiến vào Mãn châu bằng đường bộ, vì Bắc Băng dương đóng băng quanh năm, khiến tham vọng Nga giới hạn vào Bắc Á. Hoàng gia Anh đã bắt đầu xuất hiện ở miền duyên hải Miến Điện và Mã Lai ngay từ 1826, mở các thương điếm và ký thương ước. Trước yêu sách của các công ty hàng hải Peninsular and Oriental và Cunard Line, các triều vua George rồi Victoria sẽ gửi thêm chiến thuyền sang Á châu nhưng tập trung vào các vùng đất vừa khám phá ở Úc và Tân Tây Lan, rồi Trung Hoa, khiến lãng quên Đại Nam.

Các vua đầu triều Nguyễn, như thế, vẫn còn thời gian. Ngoài hai năm khởi loạn của Lê Văn Khôi và động loạn của vài bộ tộc thiểu số ở miền Thượng du Bắc Việt, nhà Nguyễn có sự ổn định ngai vàng và đã biết đến sự hiện diện của một nền văn minh khác ở Tây bán cầu, và chính sự hiện diện của nền văn minh này mới có thể giúp canh tân nếu có một chính sách đối ngoại vừa trung lập, vừa tương tác với nhiều quốc gia, vừa mở cửa tiếp nhận kỹ thuật Tây phương. Trong suốt sáu thập kỷ, từ lúc Gia Long tiến vào Phú Xuân cho đến khi Tự Đức nhận tối hậu thư của Pháp, triều Nguyễn đã không canh tân. Chính sự thụ động này đã kết án số phận dân Việt, một kết án chung thân khi những canh tân quyết định thế giới diễn ra trong thế kỷ 19.

Nhà Nguyễn đã không áp dụng phương châm của Bismarck: "Chính trong thời bình phải đúc súng."

Sang thế kỷ 20, đầu thập niên 90, lịch sử đem đến cho dân tộc một cơ hội thứ nhì. Trước đó, Chính quyền Cách mạng đã bị cả hai đế quốc Trung Hoa và Hoa Kỳ cô lập. Trong mặt nội chính, chính quyền này đã tự cấm vận tri thức của dân tộc khi không cho phép bất kỳ một giao dịch nào với thế giới. Thập niên 90, cánh cửa mở ra bên ngoài phơi bày hình ảnh của một quốc gia tụt hậu. Dân chúng ý thức rất rõ: Việt Nam đã bị nhân loại qua mặt. Tuy vậy, quốc gia không nội loạn, đầu tư thế giới đã vực dậy kinh tế, sự thay đổi chiến lược của các đế quốc, sự thay đổi các ý thức hệ, vị trí và tiềm năng quốc gia dần khôi phục cho phép dân tộc một hy vọng. Nhưng cho đến phút này, tiến trình công nghiệp nặng và hiện đại hóa quân đội vẫn chưa thực sự bắt đầu. Có thể giải thích vì Việt Nam vẫn là một quốc gia nghèo, dân trí thấp. Câu trả lời là nếu không canh tân, sẽ không bao giờ có thể nâng cao dân trí và nâng cao mức thu nhập quốc dân mà không vay mượn.

Hiểm nguy Trung Hoa còn là một lý do cấp thiết. Thời Mã viện, dân tộc bị đô hộ vì thua kém binh lực mà quyết tâm không để bị đồng hóa còn cho phép khởi nghĩa giành lại đất đai, quyền làm người. Dưới triều Tự Đức, dân tộc bị đô hộ vì không thể bắt kịp kỹ thuật Tây phương, vì đã không hiểu các cuộc xâm chiếm nằm trong một chuyển động toàn cầu, trong phân chia giữa các đế quốc. Cả hai nguy hiểm hôm nay nhập một. Với kẻ thù truyền kiếp Trung Hoa.

Nếu thập niên 70 tương đương với nội chiến Nguyễn Ánh-Tây Sơn và chấm dứt khi Nguyễn Ánh vào Phú Xuân, thập niên 80 tương đương với triều Minh Mạng tiến quân vào Chân Lạp rồi đồn trú và sa lầy, thì thập niên 90 cũng tương đồng với giai đoạn chuyển tiếp của triều Thiệu Trị. Hôm nay, sang thập niên 2010, dân tộc đã ở vào giữa triều Tự Đức mà hiểm nguy đã trông thấy. Nếu chậm trễ, quốc gia sẽ lâm vào hoàn cảnh của Tự Đức còn chưa đầy hai thập niên trước khi nhận tối hậu thư của giặc. Một cách khách quan, ở vào giữa triều Tự Đức là đã muộn. Vì vận tốc canh tân của quốc gia, nếu thực hiện, vẫn chậm hơn vận tốc phát triển kinh tế, binh lực, vũ khí hiện đại của Bắc Kinh đã đạt đến tầm mức lớn. Nhưng dân tộc vẫn muốn tin hãy còn kịp, chưa muộn.

Phải canh tân trước khi một Yalta thứ nhì chia chác các vùng ảnh hưởng được ký kết giữa các đế quốc Nga, Hoa, Mỹ, như đã xảy ra vào tháng 2-1945 giữa Churchill, Roosevelt và Staline, trao những tiểu quốc này vào tay đế quốc kia và những tiểu quốc khác vào tay đế quốc nọ. Với một phân vùng như vậy, Việt Nam sẽ không thoát được số mệnh trở thành chư hầu của Trung Hoa và tương lai dân Việt sẽ tùy thuộc hoàn toàn vào lương tâm Bắc Kinh. Hạn chót của canh tân đã điểm.

3. Quân đội công dân

Khiếm khuyết lớn của Quân đội Nhân dân và Viện Sử học là đã chịu chi phối bởi cách nhìn quân sử của Hồng quân Sô Viết về Âu châu, và của Hồng quân Trung quốc về Á Châu, trong một thời kỳ dài.

Khiếm khuyết lớn của dân tộc Việt là đã say mê khía cạnh chính trị của chiến tranh mà lãng quên khía cạnh thuần học thuật, quân sự của chiến tranh. Clausewitz nổi tiếng với mệnh đề thường xuyên được trích dẫn: "Chiến tranh là cánh tay nối dài của chính trị." Nhưng Clausewitz không viết duy nhất một mệnh đề này, mà soạn thảo tám tổng tập Cẩm nang Chiến tranh mà cho đến phút này vẫn chưa được dịch sang tiếng Việt, ngay cả tóm lược. Clausewitz không duy nhất. August von Gneisenau, Gerhard von Scharnhorst, Helmuth von Moltke và Alfred von Schlieffen là những gương mặt đã cải cách quân đội Phổ, đưa quân đội này từ vị trí thảm bại trước quân Nã Phá Luân đến vị trí thống trị ở Âu châu trong suốt thế kỷ 19 sang đến đầu thế kỷ 20. Có thể kể thêm Hans von Seeckt, đã xây dựng nền móng cho quân đội Wehrmacht.

Clausewitz là một lý thuyết gia quân sự. Gneisenau mới thật sự là một nhà cải cách. Lịch sử quân đội Phổ đánh một khúc quanh quan trọng sau các thảm bại Jena, Auerstaedt trước đại quân Nã Phá Luân. Tập thể sĩ quan ưu tú đặt câu hỏi: Làm cách nào để ngăn chặn sức bành trướng của đế chế Pháp? Xây dựng sức mạnh của quân đội Phổ từ đâu? Những câu hỏi mà quân nhà Nguyễn đã không đặt ra và Quân đội Nhân dân chưa tìm thấy câu trả lời trước uy hiếp của Giải Phóng quân Trung quốc. Các công trình suy nghiệm của Clausewitz, Gneisenau và Scharnhorst đều được biên soạn ở thời kỳ này, khi quân đội Phổ thất thế, ở dưới đáy cùng của bất lực. Điều cần nhấn mạnh là những công trình này, bên cạnh việc tập trung nghiên cứu tìm cách triệt tiêu sức mạnh quân sự của quân đội Pháp, ở cả hai mặt học thuyết và chiến thuật, trong tấn công cũng như trong phòng ngự, còn giải quyết những câu hỏi khái quát, trừu tượng, bằng những giải đáp thực tế.

Gneisenau và Scharnhorst định nghĩa tức khắc, sức mạnh của một quân đội nằm trong 7 yếu tố: Học thuyết, phương tiện, tổ chức, quân số, tinh thần, địa lý và tính tự trị độc lập của quân đội đó. Phải có học thuyết rồi mới có thể vận dụng phương tiện thích ứng để tổ chức, và phải có tổ chức mới có thể thâu nạp, huấn luyện, võ trang, khiển dụng hữu hiệu quân số mà tinh thần làm nên sức mạnh. Nếu sức mạnh này còn tùy thuộc vào địa lý của vùng đất phải tấn công hay phòng thủ, sức mạnh đó chỉ đạt đến viên mãn nếu tập thể quân đội có được sự tự trị độc lập với giới chức chính trị nắm giữ hành pháp mà các mục tiêu thường ngắn hạn không cho phép thực hiện một học thuyết chiến tranh lâu dài. Tất cả khái niệm về quân đội của Gneisenau và Scharnhorst thâu tóm trong khái quát căn bản này.

Trong 7 yếu tố, 3 yếu tố được xem tối quan trọng: Tinh thần, học thuyết và tính độc lập tự trị. Tinh thần không giản dị là tinh thần trách nhiệm, tinh thần tổ chức, tinh thần kỷ luật, hay tinh thần chiến đấu. Đây là những tinh thần phụ, cần có một tinh thần xương sống, xuyên suốt qua 7 yếu tố, để từ tinh thần này nảy sinh các tinh thần phụ kể trên.

Gneisenau viết: "Tập thể quân nhân tìm sức mạnh trong tập thể công dân mà trách nhiệm ngang bằng với dân quyền."

Tuy ăn lộc triều đình, Gneisenau đã yêu sách: Phải đặt khái niệm công dân lên trên khái niệm thần dân của Phổ hoàng. Đặt khái niệm quyền lợi dân sự ngang bằng với khái niệm nghĩa vụ quân sự. Có trách nhiệm thì phải có quyền lợi. Có thi hành thì phải có tham dự. Lòng ái quốc vô điều kiện phải chuyển hoán thành lòng ái quốc có điều kiện. Một cách vắn tắt: Tinh thần công dân.

Trước những tấn công của phái bảo hoàng, Gneisenau phân tích: Một tập thể quân nhân không thể thiếu tinh thần chủ đạo cho tất cả các quyết định. Tinh thần này không thể là tôn giáo, vì một dân tộc không thuần một tôn giáo, vì tôn giáo không cho phép những tư duy khoa học với những phương pháp khoa học. Tôn giáo cũng dễ đẩy đến những quyết định không chiến lược mà thuần đức tin. Còn lại tinh thần ái quốc. Nhưng lòng ái quốc là một tình cảm trừu tượng, thiếu cụ thể, dễ biến thiêng và dễ bị ngụy tạo. Tinh thần ái quốc thăng giảm tùy theo đạo đức chính trị của giới cầm quyền. Tinh thần ái quốc có thể dẫn đến sa ngã, làm chán nản, bất mãn, ly khai, khi đạo đức chính trị suy thoái, tác động đến hiệu năng chiến đấu của quân đội. Ngược lại, an nguy của một quốc gia không giới hạn vào một tập thể hành pháp mà có thể có nhiều chính quyền kế tục nhau nắm giữ hành pháp. Do vậy, quân đội cần phải tự trị, độc lập với chính trị, để có thể giữ được sức mạnh tinh thần của quân đội trong bất kỳ mọi hoàn cảnh. Có nghĩa vụ, phải có quyền lợi. Quyền lợi của công dân trong xã hội là được tham gia việc nước. Quyền lợi của công dân trong quân đội là được tham gia giữ nước ở vị thế bình đẳng với giai cấp quý tộc. Tinh thần công dân phải là tinh thần của quân đội.

Viết thành văn bản, đề nghị canh tân nền tảng, và hành động, Gneisenau xứng đáng là một gương mặt cải cách.

Phổ hoàng Friedrich không tầm thường, đã chuẩn y. Nhiều lý lẽ viện dẫn Phổ hoàng không có chọn lựa vì cần tập hợp toàn dân, toàn quân, chống lại Nã Phá Luân. Giải thích này đúng hoặc sai, không quan trọng. Điều quan trọng là Gneisenau và Scharnhorst đã san bằng giai cấp quý tộc, tuy vẫn hiện diện, thăng thưởng ngạch trật, giao phó trọng trách, sẽ dựa trên khả năng mà không còn trên giai cấp. Hàn lâm viện danh tiếng Bá Linh mở cửa cho các sĩ quan xuất thân từ giới thợ thuyền, bình dân và nông dân. Sự kết hợp toàn dân, ở cùng một vị trí công dân, làm nên sức mạnh của tân quân đội Phổ, trở thành một quân đội quốc gia, thay vì quân đội riêng của Phổ hoàng.

Cùng với Gneisenau, Scharnhorst bắt buộc tất cả các sĩ quan đều phải tốt nghiệp học viện quân sự, không còn sĩ quan chỉ có khả năng thuần trận mạc mà thiếu kiến thức tham mưu, khoa học, quản trị. Từ 3 hàn lâm viện ban đầu ở Bá Linh, Königsberg, Breslau ― Scharnhorst cho xây thêm 10 Kriegschule, học viện chiến tranh, trên khắp lãnh thổ: Anklam, Cassel, Dantzig, Erfurt, Glogaw, Hanovre, Hersfeld, Neisse, Postdam và Munich. Nếu Gneisenau khái quát, còn Clausewitz tổng hợp học thuyết, thì Scharnhorst đào tạo và quảng bá tư tưởng của Gneisenau và Clausewitz. Trong canh tân, Scharnhorst đặt dấu nhấn lên hệ thống giáo dục quân nhân.

Chưa đầy một thập niên sau trận Jena, quân Phổ chiến thắng ở Leipzig rồi Waterloo. Nếu hai chiến thắng này chưa thể xem là thành quả của canh tân vì có sự tham gia của liên quân Nga-Áo tại Leipzig và liên quân Anh-Áo tại Waterloo, đến chiến thắng Sedan về sau của Moltke, nhận đầu hàng của Nã Phá Luân đệ tam ngay tại mặt trận và giành lại hai tỉnh lỵ Alsace và Lorraine, có thể xem công trình canh tân của Gneisenau, Scharnhorst và Clausewitz đã hoàn tất. Số sĩ quan xuất thân bình dân đã chiếm ¾, tuy chưa lên đến thượng tầng, các sĩ quan này đã hiện diện ở các chức vụ trung cấp: trung đoàn phó, trung đoàn trưởng, phó phòng hành quân, phụ tá tham mưu, và suy nghĩ Clausewitz trở thành suy nghĩ của quân đội Reichswerh.

Ngoài kết quả chiến trường, cải tổ của Gneisenau còn mang tính chất căn bản: Quân đội Phổ sẽ từng bước đặt sứ mệnh quốc gia trên sứ mệnh hoàng gia, và đặt quyền lợi của dân tộc trên quyền lợi của dòng họ Hohenzollern đang trị vì. Quyết định đơn phương chấm dứt chiến tranh một thế kỷ sau, vào tháng 11-1918, yêu cầu Phổ hoàng Wilhelm thoái vị để quốc gia không bị chiếm đóng, để có thể giữ được tiềm năng của quân đội cho phép phục hưng về sau, là những quyết định của một quân đội quốc gia, không phải của một quân đội hoàng gia, của một tập thể sĩ quan công dân, không phải của một tập thể sĩ quan thần dân.

Khái niệm quân đội công dân là khái niệm bảo vệ quyền lợi chung của đất nước, thay vì bảo vệ một giai cấp, một cung đình.

4. Tinh thần Đại hòa

Cuối thế kỷ 18, chiến thắng hàng loạt của Nã Phá Luân trên chiến trường Âu châu thâu đạt từ cách vận dụng kỵ binh xé đội hình bộ binh ô vuông của các quốc gia đối phương. Tấn công bằng kỵ binh không phải là một chiến thuật mới. Các đế chế Nga, Thổ vẫn thường xuyên đánh dàn trận bằng kỵ binh đông đúc và áp đảo. Canh tân của Nã Phá Luân là đã tăng cường hỏa lực của kỵ binh bằng cách cho kỵ binh nặng kéo trung pháo và pháo nhẹ 30 ly, 40 ly, thậm chí 75 ly di động theo cùng đoàn kỵ mã, rồi khai hỏa vào cạnh sườn đối phương trước khi xung phong. Pháo nặng của quân đội các quốc gia Nga, Áo, Phổ do ở các đơn vị biệt lập, cố định hay vận chuyển chậm, đã không kịp tác xạ theo hướng di động của chiến trường. Thành công của Nã Phá Luân còn nằm trong chia cắt, đánh từng đạo binh của các quốc gia riêng rẽ, ngăn giao kết. Cải cách của lục quân Phổ thời kỳ này, là tạo khối liên kết hiệp đồng bên cạnh sản xuất hàng loạt pháo binh nhẹ ― theo phương thức của Scharnhorst.

Trường hợp Nhật Bản khác hẳn. Cho đến giữa thế kỷ 19, sức mạnh của quân đội Nhật xây dựng duy nhất trên kiếm pháp của giai cấp võ sĩ đạo. Tương tự Đại Nam, tinh thần ái quốc và lòng can đảm làm nên sức mạnh duy nhất của quân đội này. Tiến trình canh tân do vậy khởi điểm từ lưỡi kiếm samourai trên một mặt bằng nông nghiệp lạc hậu. Dưới triều Minh Trị, tiến trình này nhanh cấp kỳ.

Các sử gia hầu hết đều chuẩn thuận hai thời điểm: 1868 khởi đầu canh tân và 1894 hoàn tất hiện đại hóa quân đội Nhật. Vì sao hai niên lịch này? Vì trước 1868, Nhật Bản chưa sở hữu hạm đội viễn dương và đến 1894 thiên hoàng Minh Trị đủ sức khai chiến với Mãn Thanh giành lấy Cao Ly, Lữ Thuận khẩu và bán đảo Liêu Đông. Rồi vài năm sau tranh chấp Mãn Châu với Nga hoàng. Cả hai xung đột đều kết thúc bằng chiến thắng vang dội của Hải quân Hoàng gia Nhật, đánh chìm Hạm đội Bắc dương của Đinh Nhữ Xương tại Hoàng hải, và đánh đắm hoàn toàn Hạm đội Bắc hải của đô đốc Rojetsvensky tại eo biển Đối Mã. Canh tân Nhật Bản là một thành tựu rực rỡ ― đã thực hiện trong vòng 25 năm.

Vì sao Nhật Bản, một đảo quốc với 42 triệu dân đã dám tuyên chiến với Đại Thanh quốc, một lục địa với 350 triệu dân ở cuối thế kỷ 19, và dám tuyên chiến với đế chế Nga, một đế quốc trải dài từ Thái Bình dương qua hết Bắc Băng dương ở đầu thế kỷ 20? Rất khác quân đội Phổ, một tập thể công dân, quân đội Nhật vẫn là một tập thể thần dân. Nhưng tập thể quân nhân thần dân này, một cách trái nghịch đã tập hợp lại trong một quân đội quốc gia, mà cho đến 1868 chưa hiện hữu. Trước, vương quốc Nhật Bản mang dáng dấp của một cung đình vua Lê, chúa Trịnh. Quyền hành trong tay Mạc phủ, với các lãnh chúa địa phương mà mỗi lãnh chúa thuê mướn các võ sĩ dùng làm quân đội riêng. Vương quốc Nhật, như thế, bao gộp nhiều quân đội tư nhân hay hoàng phái, khi kết hợp, khi đánh lẫn nhau, khi liên kết từng phần để tranh giành quyền bính với Mạc phủ, hoặc giúp Mạc phủ. Những quân đội này không mang sứ mệnh quốc gia vì ăn lộc chúa. Sứ mệnh của các võ sĩ samourai là bảo vệ lãnh chúa của mình. Canh tân trước tiên của Minh Trị Mutsu-Hito nhằm thống nhất quốc gia, tức thống nhất hành chánh và quân đội. Sức mạnh chính của Minh Trị là đã biết cải tổ toàn phần cơ cấu xã hội dựa trên tinh thần Đại hòa của vương quốc Yamato ― Vương quốc Đại hòa xưa cũ. Đại hòa dân tộc là tinh thần cổ xưa của Nhật Bản.

Kể từ thế kỷ 12, xã tắc Nhật Bản không thay đổi. So với Đại Nam đứng dừng từ thế kỷ 15, tổ chức triều chính Nhật Bản bất động lâu hơn nữa. Cho đến khi đề đốc Perry tái xuất hiện ở vịnh Yédo vào tháng 3-1854, với 250 đại bác trí trên các thuyền chiến Hoa Kỳ, xã hội nhật Bản vẫn là một xã hội phong kiến nhiều giai cấp, với các lãnh chúa cát cứ có quyền đúc tiền riêng và quân đội riêng: Các lãnh chúa daimio khiêm nhượng có trên 200 võ sĩ, trong lúc các lãnh chúa ngự trị nhiều địa phương có đến hàng vạn samourai. Toàn xứ Nhật chia làm 276 lãnh địa do 276 lãnh chúa cai quản, toàn quyền sinh sát, tức toàn quyền sắp đặt công lý cá nhân, với nhiều đơn vị tiền khác nhau mà đứng đầu là sứ quân Chôgoun ― một chúa Trịnh của thiên hoàng. Tổng số samourai lên đến 500 ngàn. Chỉ có các võ sĩ có quyền mang kiếm, không phải lao động, không đóng thuế, và không bị áp dụng hình luật phổ thông, thậm chí có quyền "thế thiên hành đạo" nếu bị giai cấp thứ dân rônin bất kính. Sứ quân Tokugawa sở hữu ¼ tổng số đất của đảo Bản châu, đảo lớn nhất chiếm 60% diện tích nước Nhật, và chiêu tập dưới trướng 50 ngàn võ sĩ. Thiên hoàng chỉ là một vua Lê mờ nhạt, với các hoàng thân tạo ra giai cấp quý tộc kugé chỉ chiếm giữ một số ít đất đai. Trong suốt tám thế kỷ, Mạc phủ ngăn cấm thiên hoàng tiếp xúc với các lãnh chúa, ngược lại các lãnh chúa không được quyền lên đế đô Kyoto gặp thiên hoàng, tất cả phải thông qua sứ quân. Trong suốt tám thế kỷ, thiên hoàng không biểu trưng quốc gia Nhật Bản mà duy nhất làm một hình bóng dòng dõi thần linh theo truyền thuyết.

Ngay sau khi đăng quang vào năm 1868, Minh Trị hiểu ra tức khắc, không thể hiện đại hóa quân đội mà không cải cách toàn diện xã hội. Sáng suốt của thiên hoàng Mục Nhân là đã ý thức trong bất kỳ mọi cải cách sâu rộng, sẽ xảy ra thiệt hại cho một hay nhiều giai cấp, vì phải tước đặc quyền của một bộ phận dân chúng để trao cho nhiều bộ phận dân chúng. Nguy cơ lật đổ là khả dĩ. Nếu trầm trọng sẽ trở thành nội chiến, hay ít hơn tạo ra bất mãn ly khai và thụ động làm suy giảm tiềm lực đất nước. Giải pháp Đại hòa, xây dựng trên tinh thần Đại hòa truyền thống của vương quốc Yamato từng hiện hữu cho đến thế kỷ 12, sẽ được Minh Trị áp dụng.

Công thức canh tân của Mitsu-Hito có thể tóm lược vào một nguyên tắc: San hòa đồng đều quyền lợi và hy sinh.

Với Đại Hiến chương ban hành ngày 6 tháng 4-1868, còn gọi Khế ước 5 điểm, Minh Trị hiệu triệu quốc dân và cam kết: Xóa bỏ thể chế phong kiến. Thâu thập tri thức của toàn thế giới. Thực hiện ý nguyện chính đáng của mọi tầng lớp. Sự tham gia của quần chúng vào việc nước làm nền tảng của thể chế mới. Toàn dân bình đẳng.

Không còn sứ quân chôgoun, lãnh chúa daimio, quý tộc kugé, võ sĩ samourai hay cùng đinh rônin. Minh Trị trao trả tất cả đất đai của sứ quân và lãnh chúa cho nông dân, mà cho đến khi đó cày ruộng thuê cho lãnh chúa, phải giao nộp tất cả thóc lúa đổi lấy tiền công. Tất cả nông dân, ai đang cày thuê bao nhiêu sào ruộng thì trở thành chủ điền của các sào ruộng ấy, thay vì nộp toàn bộ hoa lợi cho lãnh chúa, được giữ lại và chỉ đóng thuế thu nhập theo gặt hái và thuế thổ trạch. Với tiền thuế này, Minh Trị bồi hoàn đất đai cho lãnh chúa, thu hồi cung điện, lâu đài làm dinh thự chính phủ, trợ cấp hàng tháng đủ bảo đảm phú quý cho lãnh chúa với điều kiện phải rời khỏi địa phương để lên sống ở Kyoto. Giải thể các võ sĩ, cho về quê, hưởng phụ cấp để sinh sống. Biện pháp đối với giai cấp quý tộc hoàng phái không khác. Trên mặt tài chánh, đồng yen, đơn vị tiền tệ quốc gia ra đời; trên mặt giáo dục, tiểu học bắt buộc cho cả hai giới tính, bắt buộc nam giới lên đến trung học; trên mặt truyền thông, báo chí tư nhân phát hành đầu tiên năm 1871, bốn năm sau trên 100 nhật trình và tập san định kỳ.

Các sử gia đặt câu hỏi vì sao sứ quân và các lãnh chúa đã đầu hàng nhanh chóng như vậy, sau tám thế kỷ ngự trị? Các sử gia cùng tìm ra câu trả lời: Sự suy vi của Mạc phủ Tokugawa, vì không giải quyết được nạn đói 1837 và hoàn toàn bất lực nhục nhã trước khiêu chiến của Âu Mỹ, đã đưa đến khinh thường rồi bất phục tòng của các lãnh chúa là một nguyên nhân. Lòng trung quân của một số lãnh chúa phê phán sứ quân chuyên quyền là một nguyên nhân khác. Nhưng nguyên nhân chính nằm trong sự phân rã của giai cấp lãnh chúa, khiến các lãnh chúa khiêm nhượng muốn quay về với thiên hoàng trước nguy cơ sẽ bị các lãnh chúa mạnh hơn tiêu diệt, các lãnh chúa cấp trung bình thiếu đoàn kết không cùng phù trợ một lãnh chúa mạnh nào để tạo ra thế lực đối kháng. Sau cùng, vì giữa các lãnh chúa mạnh thường trực kình chống nhau, không ai muốn đối thủ trở thành sứ quân thay thế Mạc phủ. Trên tổng số 276 lãnh chúa, duy nhất 17 lãnh chúa chống lại thiên hoàng.

Với giai cấp võ sĩ, mà tiền phụ cấp quá ít, cũng như đặc quyền mang gươm biến mất, Minh Trị nhanh chóng nhận ra phải vận dụng, thay vì lãng quên. Các samourai được mời gọi gia nhập quân đội hoàng gia, cảnh sát, hành chánh, kỹ nghệ mà với truyền thống võ sĩ đạo tinh tuyền, cùng khả năng được tôi luyện, giai cấp này nhanh chóng chiếm lĩnh các chức vụ chỉ huy trong tân quân đội Nhật Bản, và ở các ban ngành khác, đặc biệt trong kỹ thuật. Một cách gián tiếp Minh Trị đã chuyển hóa giai cấp võ sĩ thành một giai cấp kỹ trị. Các samourai mà truyền thống hiến thân, xả thân, xem trọng danh dự, khinh thường cái chết, sẽ từ bất mãn vì quyền lợi thâu hẹp, sang phục vụ và trở thành nhân tố thực hiện canh tân vì đã tìm lại được vị trí trong xã hội.

Đối với giai cấp thứ dân rônin, quyền sở hữu đất đai hơn một ân huệ, một thức tỉnh đất đai thuộc về quốc gia mà quốc gia thuộc về dân, không thuộc một thiểu số nào. Các nông dân khi tham gia quân đội, ý thức đang tham gia bảo vệ chính quyền lợi đất đai, quyền thụ hưởng một công lý minh bạch duy nhất, và vị thế bình đẳng của bản thân, gia đình mình. Cải cách sâu đậm này của Minh Trị khiến hình ảnh thiên hoàng trở nên biểu tượng quốc gia vì biểu trưng cho quyền lợi chung. Vẫn còn là thần dân trong một quân đội hoàng gia, nhưng việc quân đội này phụng sự thiên hoàng trở nên tương đồng với việc phụng sự quốc gia. Một bước đi vĩ đại trong lịch sử Nhật Bản đã thoát ra khỏi thời kỳ Mạc phủ.

Các tóm lược trên, nằm trong chính sách san hòa quyền lợi. Còn sự san hòa hy sinh vì canh tân?

Để thủy sư đô đốc Ito Sukeyuki có thể chỉ huy một hạm đội hiện đại vào năm 1894, tiến vào biển Hoàng hải giao chiến với hạm đội Mãn Thanh, dân Nhật đã phải hy sinh rất nhiều. Vào năm 1893, khi Bộ Hải quân quyết định mua thêm hai tuần dương hạm nặng 12 ngàn tấn của Anh, Bộ Tài chánh đã từ chối với sự đồng ý của thủ tướng Hirobumi Ito vì lý do ngân khố sắp cạn. Quốc hội Kokkai, với Hạ viện Shugi-in và Thượng viện Sangi-in, và kể cả Hội đồng Trưởng lão Genro chuẩn y.

Thiên hoàng Minh Trị đã can thiệp tức khắc, bằng đạo dụ ngày 10 tháng 2-1893: "Nếu chúng ta phạm bất kỳ một sai lầm nào trong an ninh quốc phòng, sai lầm này sẽ đè nặng lên dân tộc chúng ta trong suốt một thế kỷ."
[Meiji Mutsu-Hito, Rescrit du 10 février 1893, dẫn theo sử gia Pierre Renouvin, trong tập Câu hỏi Viễn Đông, chương Mâu thuẫn Hoa-Nhật 1894-1895, trang 142, Nxb Librairie Hachette, 1947]

Minh Trị quyết định cắt lương công chức, tỷ lệ thuận với mức lương và chức vụ. Số lương tiết kiệm dùng thanh toán phí tổn của hai tuần dương hạm. Vẫn giữ vững tinh thần Đại hòa, Minh Trị xuống chiếu cho phép tất cả con em công chức bị trừ lương được ưu tiên thi vào các trường trung học, đại học, học viện quân sự, cũng như cao học hành chánh hay công sở và ưu tiên được chọn ban, ngành, binh chủng. Ưu tiên, không có nghĩa đương nhiên thâu nhận mà không qua thi tuyển, ngược lại vẫn phải hội đủ sức khỏe, khả năng, trình độ và trí thông minh, tuy nhiên mỗi con em gia đình đã đóng góp cho đất nước hai tuần dương hạm sẽ được tăng thêm điểm, xem như quốc gia cộng cả công lao của cha mẹ vào điểm học vấn. Việc ưu tiên cứu xét còn cho phép các gia đình công chức cấp thấp một cơ may thăng tiến xã hội ở thế hệ thứ nhì. Đây chỉ là một chi tiết, nhìn rộng ra, tất cả nguồn vốn đầu tư của nước ngoài và cả vay mượn của chánh phủ đều dùng cho mục đích canh tân mà không tiêu sài cho mục đích tiện nghi. Nhật Bản không cải tạo đường xá, ngoài các quốc lộ chính dẫn đến hải cảng; không xây các đô thị nhà ở cao cấp, dân Nhật vẫn tiếp tục sống trong những ngôi nhà gỗ, cửa giấy, chật hẹp. Bốn công trình lớn: mỏ than Chikouho trên đảo Cửu châu, đường hỏa xa, điện lực, dẫn thủy canh nông - lâm thủy sản, dù đem đến thêm chút tiện ích và lương thực cho dân Nhật, vẫn không ra ngoài mục đích xây dựng quân đội mạnh. Tuyến đường xe hỏa nhằm vận chuyển khí cụ, nguyên vật liệu, điều phối các đơn vị quân đội; điện lực và than đá cần thiết để phát triển công nghiệp; khai thác quy mô canh nông - lâm thủy sản nhằm gia tăng dự trữ lương thảo của quân đội, tránh nạn đói trong quá khứ giúp tăng dân số để tăng quân, và sau hết khuếch trương xuất cảng trả vốn vay ngân hàng.

Năm 1878, chính phủ ra luật trái phiếu, bắt buộc dân Nhật phải mua công khố phiếu dài hạn với lãi suất thấp nhằm tài trợ tuyến đường xe hỏa Tokyo-Kobé, là một hình thức bắt buộc hy sinh ― để xây dựng hạ tầng cơ sở. Tuy khá gần với khái niệm "dân quyền" và "nghĩa vụ" của Gneisenau, sự hy sinh của dân chúng Nhật cao hơn mức ghi trong hiến pháp. Tiêu biểu là để có quyền chọn dân biểu của mình, mỗi cử tri phải mua lá phiếu với giá 15 yen để bỏ vào thùng phiếu. Cử tri có nghĩa vụ phải đến phòng phiếu nhưng muốn có dân quyền phải góp thêm tài chánh.

Sự san hòa hy sinh này vừa mang tính chất lý tưởng, vừa cụ thể, vừa áp đặt từ quyết tâm của thượng tầng.

Một khía cạnh khác của tinh thần Đại hòa còn nằm trong cách Minh Trị đã ân xá phó tổng tài hải quân Takeaki Enomoto, đã theo sứ quân sau cùng Tokugawa Yoshinobu làm phản. Sau khi dẹp yên, Minh Trị đã trao cho Enomoto chức phó đô đốc rồi bộ trưởng quốc phòng Nhật Bản. Vì khả năng tổ chức của Enomoto, mà cũng vì muốn tránh phân ly, cần hợp sức của toàn dân.

Bài học canh tân nhật Bản, trước nhất là bài học phải cải tổ cấu trúc thể chế-xã hội để có thể cải cách toàn diện. Các thiệt hại cùng quyền lợi phát sinh phải chia đều cho công chúng. Đối với Quân đội Nhân dân, tinh thần Đại hòa có thể hiểu giản dị là đi tìm đồng thuận xã hội để đạt sức mạnh hiệp nhất.

5. Chiến lược canh tân

Các sử gia liệt kê 4 nguyên nhân thành công của Nhật Bản: Quyết tâm canh tân từ thượng tầng, chiến lược thích ứng, khả năng tiếp thu và vận dụng kỹ thuật Tây phương. Sau hết: bản sắc ái quốc, kỷ luật và tính hiếu kỳ của dân tộc Nhật làm điểm tựa cho Minh Trị.

Trong 4 nguyên nhân thành công kể trên, dân Việt có thể tự hào sở hữu hai thành tố: Khả năng học tập rồi áp dụng kỹ thuật Tây phương và bản sắc ái quốc cùng tính hiếu kỳ du nhập những đổi mới. Còn kỷ luật? Kỷ luật hay không là do kỷ cương nhà nước. Muốn một dân tộc kỷ luật thì nhà nước phải kỷ luật. Và muốn một dân tộc hùng cường thì nhà nước phải có hùng khí. Yếu kém quyết tâm và yếu kém kỷ cương ở thượng tầng quốc gia Việt Nam là nguyên nhân chính làm chậm phát triển quốc gia này.

Tể tướng Bismarck, trong những ngày cực thịnh của đế chế Phổ, rao giảng đức tin: Ngoại giao là vũ khí mạnh nhất của quân đội, trong điều kiện quân đội đó phải có thực lực để tiếng nói ngoại giao có trọng lượng, trường hợp quân đội chưa đủ mạnh, thế chiến lược của địa lý phải được khai thác để phủ dụ các tham vọng bằng chính sức mạnh của các tham vọng đối phương. Bismarck, bậc thầy của các hiệp ước, đã đi vào lịch sử Đức ở vị thế của một tể tướng giỏi nhất.

Đế quốc Phổ là một nền Quân chủ Tuyệt đối. Nhật Bản dưới triều Minh Trị cũng là một nền Quân chủ Tuyệt đối. Nhật Bản đã sao chép hiến chương quân chủ Phổ mà không phải hiến chương quân chủ Anh. Các thủ tướng Nhật từ Hirobumi Ito, Kiyotaka Kuroda đến Aritomo Yamagata đã theo sát Bismarck. Vấn đề an ninh đặt ra tức khắc: Phải có tấm khiên chắn trước khi lưỡi kiếm samourai được hiện đại hóa có thể vung lên lần nữa. Đế quốc Anh mà sự lớn mạnh của đế chế Phổ trở nên một mối lo, không muốn nhìn thấy hải quân Nga khống chế Thái Bình dương. Hải quân Anh đủ sức hủy diệt riêng rẻ hải quân Phổ, Pháp, Nga, nhưng không đủ sức vừa phân chia ở Thái Bình dương và Đại Tây dương, vừa đương đầu với liên hiệp các hải quân đế quốc. Nhật Bản trở thành một đối trọng cần thiết ở Viễn Đông. Liên minh với Nhật Bản có nghĩa hãm đường lan ra biển lớn của hải quân Nga từ căn cứ Hải Sâm Uy (Vladivostok). Vừa kềm chế hải quân Pháp đã vào Đại Nam. Vừa giảm ảnh hưởng của Tây Ban Nha từ Phi Luật Tân và cắm mốc đồng minh Anh trên đất Nhật Bản đối với Hoa Kỳ. Đế chế Phổ chỉ còn lại đầu cầu Thanh Đảo để nhìn ngắm, không đáng lo. Hiệp ước hỗ tương hàng hải và liên minh hải quân Anh-Nhật sẽ là viên gạch nền tảng trong chiến lược canh tân Nhật Bản. Các đế quốc Pháp, Nga, Phổ, Tây Ban Nha, Hoa Kỳ, tuy chậm trễ, đều nhìn thấy vị trí chiến lược của Nhật. Nhưng để lao vào Nhật Bản, Pháp cần bình định Đại Nam mà ở vào thời điểm 1868-1870 vừa chiếm được lục tỉnh Nam kỳ khiến đại thần Phan Thanh Giản phải quyên sinh đã là hết sức vì trên chiến trường Âu châu đại binh Phổ của thống chế Moltke đã bắt đầu gây chiến. Không thể lao vào Nhật Bản, Pháp bắt buộc phải mua chuộc bằng cách ký các thương ước, thỏa ước, gửi kỹ sư giúp Nhật Bản hầu giảm "sự thôn tính tinh thần" của Anh, với hy vọng trong tương lai sau khi giải quyết Phổ, có thể tách Nhật ra khỏi quỹ đạo Anh để trở về quỹ đạo Pháp. Hòa Lan tự biết sức không thể tranh giành với Anh, Pháp, chọn con đường giao thương bán vũ khí, tàu chiến, thương thuyền để kiếm lợi. Tây Ban Nha đã kiệt sức. Hoa Kỳ, đứng trước hiệp ước liên minh Anh-Nhật quyết định chọn Phi Luật Tân làm thuộc địa vì giao chiến với Tây Ban Nha vẫn dễ dàng hơn với Hải quân Hoàng gia Anh cực kỳ hùng mạnh. Phổ, hãy còn dồn hết nỗ lực giành lại Alsace và Lorraine, cố gắng thu phục Nhật bằng cách gửi các phái bộ quân sự cố vấn, tân trang và huấn luyện, trong cùng mục đích với Pháp lôi kéo Nhật Bản thành đồng minh.

Thế giới đã diễn ra như vậy và Nhật Bản đã sáng suốt nhìn thấy để trục lợi từ các tranh giành kình chống giữa các đế quốc. Các minh ước, thương ước, thỏa ước, hiệp ước chồng chéo càng củng cố vị trí trung lập của Nhật Bản cho đến 1894. Phương châm của Otto von Bismarck: "Khối lượng các hiệp ước phải đem đến sức mạnh thay vì ràng buộc tay chân" đã được các thủ tướng Nhật thực thi.

Vương triều Nguyễn, không biết đến Bismarck, đã đánh mất nhiều cơ hội.

Năm 1804, hoàng gia Anh cử Sir Roberts làm sứ thần mang phẩm vật và quốc thư dâng vua Gia Long xin thiết lập ngoại giao. Năm 1831, Hoa Kỳ xin đề cử Shilluber làm tổng lãnh sự tại Huế. Năm sau, phái đoàn của Edmund Robert và Georges Thompson đến Trà Sơn trình quốc thư, hy vọng ký kết một hiệp ước song phương. Quốc thư không ghi rõ danh hiệu hoàng đế Đại Nam, khiến vua Minh Mạng hạ bút phê: "Bất tất đầu đệ.", có nghĩa văn thư thiếu chính danh, không cần đệ lên ngự lãm. [Đại Nam Thực lục Chính biên, dẫn theo sử gia Phạm Văn Sơn, Quân dân Việt Nam chống Tây xâm]

Dưới triều Thiệu Trị vào tháng 10-1847, toàn quyền Anh tại Hương Cảng John Davis, cùng hai chiến hạm đến cửa Hàn trình quốc thư của nữ hoàng Victoria muốn lập thương điếm tại Đà Nẵng, đề nghị liên minh chống Pháp hoàng Louis Philippe ở Á châu. Cung đình Huế từ chối không cho John Davis diện kiến vua Thiệu Trị. Đến triều Tự Đức, nhà Nguyễn đánh mất những cơ hội cuối cùng khi khước từ các điều trần của các trung thần Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Đức Hậu, Nguyễn Điều, Nguyễn Hiệp, Lê Đĩnh, Phan Liêm, Bùi Viện mà ngay từ 1864 các sứ thần này sau khi đi sứ Hương Cảng, Xiêm La, Pháp, Mỹ trở về đã xin mở cửa thông thương và liên hiệp tìm sức mạnh. Năm 1868, tức niên đại Tự Đức thứ 21, hoàng đế Tự Đức khước từ phê duyệt lá sớ của Đinh Văn Điền quê ở huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, xin cải cách huấn luyện binh sĩ, khai mỏ bạc, làm tàu hỏa, bỏ lệnh cấm nghiên cứu binh thư, thăng thưởng đúng đắn và giảm sưu dịch cho lính tráng. Không đầy sáu năm sau, Françis Garnier hạ thành Hà Nội.

Chiến tranh đã luôn diễn ra bằng các động thái chính trị trước khi tiếp nối bằng vũ lực. Mà vũ lực chỉ xảy đến sau khi một phía thất bại chính trị. Chính phủ Việt Nam hôm nay đã bắt đầu các minh ước với Ấn Độ nhưng hãy còn quá chậm và quá ít, để thực sự xem là đang vận dụng đối sách của Bismarck. Liên minh với các quốc gia vòng đai Thái Bình dương và tìm thêm nguồn trang bị quân đội từ Do Thái và Tây Âu phải là quốc sách trong mục tiêu kềm hãm Trung Hoa.

Niên đại Tự Đức thứ 21, tức năm 1868, khi Đinh Văn Điền dâng sớ cũng là lúc Minh Trị đăng quang. Canh tân Nhật Bản diễn ra khác hẳn: Nhiều thế hệ sĩ quan ưu tú như Heihachiro Togo, Isoroku Yamamoto, các thủy sư đô đốc tương lai thắng trận Đối Mã và Trân Châu Cảng, sang tu nghiệp ở Hàn Lâm viện Hải quân Anh. Ngược lại, các đề đốc Douglas rồi Willan sang Nhật mở các trung tâm huấn luyện hoa tiêu và thủy thủ. Phía Phổ, thống chế Moltke gửi các sĩ quan Phổ qua Nhật để giám sát các khóa đào tạo bộ binh, cũng như nhiều sĩ quan lục quân Nhật theo học tại các học viện Phổ.

Liên minh Anh-Nhật đưa đến việc Anh giúp xây phân xưởng Kawasaki và khu công nghiệp Ishikawajima-Harima; thỏa ước Nhật-Phổ giúp kiến tạo ngành luyện kim do xưởng thép danh tiếng Krupp, chuyên đúc đại bác cho quân đội Phổ, đứng ra quy hoạch và trang bị. Năm 1870, hải quân công xưởng Mitsubishi ra đời và ngay tức khắc sao chép cách thức chế tạo thủy lôi cùng mìn đại dương. Một trong những đặc điểm của các hợp đồng đầu tư kỹ nghệ này còn nằm trong điều khoản bắt buộc các đối tác, bên cạnh phân xưởng, phải mở lớp đào tạo chuyên viên và các lớp huấn nghệ cho công nhân cũng như thu dụng kỹ sư bản xứ. Một hình thức chuyển giao kỹ thuật tuyệt đối, có thời hạn và trong điều kiện. Đặc điểm khác: Tất cả các công trình đầu tư vốn nước ngoài nếu do ngoại quốc xây cất, Nhật Bản vẫn sở hữu toàn bộ chủ quyền, từ đất đai đến nhà máy, các tập đoàn đầu tư thu lợi duy nhất từ khai thác. Các đặc điểm này do Hội đồng Trưởng lão Genro kiến nghị chính phủ thi hành, trước khi quốc hội Kokkai ra đời biểu quyết các quốc vụ.

Trong lĩnh vực tài chánh, Nhật Bản vận dụng một công cụ của kinh tế tư bản mà triều đình Huế không biết đến: Hệ thống ngân hàng. Nếu vào năm 1870, hai công trình hỏa xa Tokyo-Yokohama và Kobé-Osaka phải vay mượn từ Âu châu và do chính các ngân hàng Âu châu quản trị chi trả, chưa đầy ba năm sau, ngân hàng Daishi đầu tiên của nước Nhật, thành lập vào năm 1873, sẽ đứng ra đảm trách tất cả vay vốn, chi thu, rồi quản trị thành công luật trái phiếu 1878 bắt toàn dân ký gửi công khố phiếu giúp tài trợ tuyến xe hỏa Tokyo-Kobé. Trong 20 năm, 7200 cây số đường xe lửa sẽ do ngân hàng này triển khai tài chánh.

Tuy nhiên, tất cả những thành tựu kể trên chỉ có thể đem đến một nước Nhật hiện đại mà chưa bảo đảm sức mạnh thật sự của Quân đội Thiên hoàng. Để nắm chắc sức mạnh này, cần một học thuyết chiến tranh mũi nhọn mà Clausewitz đã định nghĩa: phải song hành với chiến lược kỹ nghệ, thiếu chiến lược này sẽ trở thành một tư duy không thể xác. Kỹ nghệ càng tăng tiến, học thuyết phải càng tinh vi.

Khi gửi các sĩ quan lục quân sang các học viện chiến tranh Kriegschule, do Scharnhorst sáng lập nhằm quảng bá tư tưởng Clausewitz, theo thỏa thuận ký kết với phái bộ của tướng Jacob Meckel đại diện Moltke, một cách trực tiếp, quân đội Nhật được uốn nắn theo suy nghĩ Clausewitz. Cùng lúc tại các Hàn Lâm viện Hải quân Anh, các sĩ quan hải quân Nhật bám sát các học thuyết của Nelson, mà Horatio Nelson, với uy danh của thủy chiến Trafalgar, từng yêu sách: Giữa một chiến hạm trọng tải nặng và hai chiến hạm trọng tải kém nặng, hai chiếm hạm chiếm ưu thế, với điều kiện hỏa lực không quá chênh lệch. Chiến lược võ trang của Nhật Bản sẽ không ra ngoài nhãn quan của Clausewitz và Nelson.

Đi sâu vào chi tiết: Khi đặt đóng các tuần dương hạm trong các phân xưởng Anh, dựa trên khuôn mẫu chiến thuyền Anh, Nhật Bản đã thương lượng sửa đổi khá nhiều chi tiết, đặc biệt trong concept, cấu trúc tam giác bọc thép―hỏa lực―vận tốc, làm nên sức mạnh của một chiến hạm. Có nghĩa, vừa trên khuôn mẫu Anh, vừa theo đơn đặt hàng của Nhật, tức theo nhu cầu và theo học thuyết chiến tranh trên biển của Nhật, theo phương thức "kỹ nghệ song hành chiến thuật" của Moltke kế thừa Clausewitz.

Học thuyết Nelson đưa đến Capital ships ― đúc tàu trọng tải không quá nặng, do vậy không bọc thép dầy, để tăng vận tốc. Ngược lại, hải quân Phổ ưu tiên che chắn và hỏa lực, đưa đến Panzerschiff ― hải vận chậm nhưng là cả một khối thép trên biển mà tiêu biểu là hai thiết giáp hạm Chen-Yuen và Ting-Yuen mà Mãn Thanh mua của Phổ. Học thuyết Nhật Bản, khi xác định kẻ thù trước mắt là Trung Hoa, đã tìm cách ứng phó: đúc và sắm nhiều tuần dương hạm hơn Mãn Thanh rồi dùng các tuần dương hạm này vây hai soái hạm Chen-Yuen và Ting-Yuen mà vì gia tốc chậm không thể triển khai đội hình nhanh bằng Nhật Bản. Hải quân Nhật giảm thiểu tối đa lớp vỏ bọc thép để tăng đường kính đại bác lên đến 255 ly so với 315 ly của Mãn Thanh. Với trọng tải tuần dương hạm trung bình năm ngàn tấn, kích cỡ đại bác này là một kỷ lục, vì trước thời kỳ Dreadnought.

Thủy chiến Hoàng hải chứng minh Panzerschiff khó đánh đắm, vì cả hai thiết giáp hạm Chen-Yuen và Ting-Yuen tuy trúng nhiều đại bác vẫn không chìm. Thủy chiến này đặc biệt chứng minh sự pha trộn hỏa lực của Panzerschiff với vận tốc của Capital ships, trong học thuyết Nhật Bản, chiếm ưu thế: Tám tuần dương hạm Mãn Thanh đều bị đánh chìm. Clausewitz, Moltke, rồi Nelson đã trao cho Nhật Bản định lý canh tân quân đội.

Anh và Phổ không phải là các đế quốc duy nhất hỗ trợ hiện đại hóa Nhật Bản. Kể từ 1886 đến 1890, Louis-Émile Bertin với một ê-kíp trên 300 kỹ sư Pháp xây cất các công xưởng và quân cảng Sasebo, Kure, Yokosuka. Louis-Émile Bertin giữ chức cố vấn tối cao của Minh Trị, gần như một thứ trưởng hải quân với quyền hạn quyết định, quy hoạch và tổ chức mọi thứ. Các kỹ sư Pháp, dưới quyền Bertin, sẽ chỉ huy công nhân Nhật đóng những chiến hạm nặng đầu tiên ngay trên đất Nhật. 90 năm sau Gia Long, Minh Trị tìm ra cho mình một Bá Đa Lộc. 90 năm trước Minh Trị, Đại Nam đã có cơ hội này.

Kinh nghiệm Nhật Bản là một la bàn định hướng:

- Đa dạng hóa nguồn cung cấp vũ khí, không tùy thuộc vào một quốc gia nào để có thể giữ vững độc lập chính trị về sau. Quân đội Nhân dân phải đủ can đảm từng bước thay thế vũ khí Trung Hoa vì không gì nguy hiểm bằng sử dụng vũ khí của kẻ thù khi chính kẻ thù có khả năng chế tạo và cải tiến vũ khí đó. Không duy nhất mua vũ khí mà phải sản xuất được vũ khí, qua thuê mướn kỹ sư thế giới, vừa giúp kỹ sư, sinh viên, công nhân Việt Nam học nghề.

- Tập trung vốn vay vào việc xây cất công xưởng trước việc xây cất các đô thị cao cấp. Hy sinh của dân chúng phải được vận dụng thích đáng. Ký tối đa các hiệp ước với các quốc gia hỗ trợ canh tân. Đặt ra lịch trình công nghiệp nặng phải đạt được trước khi kẻ thù trở nên quá mạnh. Sau nữa, xác định rõ rệt đối thủ quân sự cần kềm hãm và khu vực phải đương đầu, để học thuyết chiến tranh tương thích.

- Nếu ở cuối thế kỷ 19 thiết giáp hạm là vũ khí tuyệt đối, vào đầu thế kỷ 21, một tân không lực chiến thuật tầm xa có thể kiểm soát được biển Đông.

- Sau hết và quan trọng nhất, thâu thập tri thức thế giới.

Với công lao mở mang bờ cõi, nhà Nguyễn có thể được giảm khinh vì phương tiện thông tin yếu kém trong thế kỷ 19. Với công lao kháng Pháp, Chính quyền Cách Mạng sẽ khó được giảm khinh nếu không hành động sau bài học nhà Nguyễn và Minh Trị.

6. Chủ nghĩa quốc gia

Tể tướng Bismarck trong suốt thời gian cầm quyền đã củng cố tối đa quân đội để có thể áp đảo trên bàn đàm phán, ký nhiều hiệp ước chồng chéo mà mỗi một hiệp ước đem đến thêm cho đế chế Phổ thời gian cần thiết để tăng thêm cực thịnh. Mỗi quốc gia Âu châu đều vừa lo ngại, vừa muốn tựa vào sức mạnh quân sự Phổ. Với mỗi quốc gia Âu châu, Bismarck hứa hẹn hòa bình, bảo vệ, vừa chuẩn bị chiến tranh ngay cả với quốc gia vừa ký kết hiệp ước. Tài năng của Bismarck là đã giữ cho thế chiến không bùng phát, quan hệ không bao giờ đứt với Anh, Áo, Nga, Thổ, các đối thủ tranh giành ảnh hưởng. Không thế chiến, nhưng Bismarck áp đặt lên Âu châu một nhãn quan Phổ, đến mức "Âu châu Bismarck" đã trở thành thành-ngữ. Hồ Cẩm Đào đang áp dụng triệt để phương pháp Bismarck.

Tất cả những công cuộc canh tân và hiện đại hóa quân đội, về lâu dài đều dẫn đến chiến tranh. Trường hợp Nhật Bản là một điển hình, ngay khi sở hữu một hạm đội viễn dương đã khai chiến với Trung Hoa để giành lấy Cao Ly. Trường hợp Phổ vẫn là một điển hình: Sau khi canh tân, quân đội Phổ khai chiến với Pháp để giành lại Alsace và Lorraine, một thứ Lưỡng Quảng của Phổ. Dân Việt có thể phản chiến hay yêu chuộng hòa bình, nhưng nếu các dân tộc khác không phản chiến và không yêu chuộng hòa bình, dân Việt sẽ rơi vào thảm cảnh bị khuất phục. Trong quá khứ, nhà Nguyễn mỗi một lần cầu hòa là một lần cắt đất. Lịch sử đã diễn ra như vậy. Tương lai cũng sẽ tiếp tục diễn ra như vậy, tuy có thể không ở hình thức chiến tranh quy ước, mà bằng xâm lấn kinh tế, chính trị và bằng tước đoạt quyền lợi giao thương.

Viễn cảnh một đế quốc Việt Nam khai chiến để giành lại Lưỡng Quảng quá xa vời, trong lúc cận ảnh Hán thuộc quá đen tối để cho phép dân Việt phản chiến mà không yêu sách chính quyền canh tân. Trước câu hỏi: "Bao nhiêu chủ nghĩa dân tộc là đủ?" Câu trả lời giản dị: Không bao giờ đủ. Và cần gọi một cách chính danh là chủ nghĩa quốc gia, thay vì chủ nghĩa dân tộc, khi dung từ "dân tộc" ở đây mang âm hưởng vị kỷ. Không thánh chiến, không kỳ thị, và cũng không lấn áp các dân tộc khác, chủ nghĩa quốc gia Việt Nam xây dựng trên nền tảng của sự tồn vong của chính quốc gia này. Vì lòng ái quốc vẫn là sức mạnh duy nhất của dân tộc này.

Dung nạp khái niệm "Phản chiến", hay "Thế giới Đại đồng", hoặc "Hòa bình Xanh" sẽ làm suy yếu quốc gia Việt Nam đang cần hiện đại hóa quân đội. Quốc gia này chưa đạt đến khả năng phòng vệ của Tây phương để cho phép an nhiên nhìn ngắm hòa bình.

Lịch sử đã trưng bày đậm nét khả năng bất lực của Hội Quốc liên, của Liên Hiệp quốc và tính bất nhất của các nền dân chủ Tây phương. Lịch sử đang lập lại sức bành trướng của Thiên triều. Quốc sách của Việt Nam hôm nay không thể khác quốc sách của Minh Trị: Canh tân đất nước để có thể áp đặt sự hiện diện quốc gia trước đối phương và canh tân quân đội để đảm bảo cho sự hiện diện này một uy thế, cũng để có một lá chắn sau cùng sau khi tất cả các phương thức ngoại giao thất bại. Quân đội trong lịch sử nhân loại đã luôn là điều kiện sống sót của một dân tộc.

Lịch sử là kho tàng của canh tân.

Trần Vũ
21 tháng 4-2009

Thư mục sách tham khảo

Ambroise Fourcy Traité de l'artillerie, par le général Scharnhorst, accompagné d'observations et d'une notice historique sur l'auteur par le capitaine d'artillerie Mazé, Nxb J. Corréard, 1840
Benoist Méchin
Histoire de l’armée allemande, Nxb Albin Michel, 1966
Bernard Brodie
La stratégie navale, Nxb Payot, 1947
Carl von Clausewitz
De la guerre, Edition présentée par Gérard Chaliand, Nxb Perrin, 2006
Carl von Clausewitz
De la guerre, Traduction intégrale par Denise Naville, Nxb Editions de Minuit, 1992
Carl von Clausewitz
De la révolution à la restauration, Ecrits et lettres, Nxb Gallimard, 1976
Carl von Clausewitz
Campagne de 1815 en France, Nxb Ivréa, 1973
Donald Macintyre
Jutland, La dernière grande bataille navale, Nxb Presses de la Cité, 1958
Edouard Driault
La question d'Extrême-Orient, Nxb Félix Alcan, 1908
Emil Ludwig & A. Lecourt
Bismarck, Nxb Payot, 1984
Frank Thiess
Tsoushima, Nxb Flammarion, 1956
Frédéric Mauro
L'Expansion européenne 1600-1870, Nxb Presses universitaires de France, 1967
Friedrich Wilhelm von Hohenzollern
Mémoires de Guillaume II, Nxb Agence Radio, 1922
Georges Blond
L’Amiral Togo, Nxb Librairie Arthème Fayard, 1958
Georges Lefèbvre
Napoléon, Nxb Presses Universitaires de France, 1965
Hans von Seeckt
Pensées d'un soldat, Nxb Éditions du Cavalier, 1932
Helmuth Karl Bernhard von Moltke
Mémoires du maréchal, Nxb Librairie H. Le Soudier, 1892
Henri Welschinger
Bismarck, Nxb Ancienne librairie Germer Baillière et cie Félix Alcan, 1900
Henry Bidou
Histoire de la grande guerre, Nxb Gallimard, 1936
Henry Houssaye
1815, Wellington, Gneisenau, Nxb Perrin & Cie, 1898
Hiroyuki Agawa
Yamamoto, Chef de guerre malgré lui, Nxb Editions France-Empire, 1982
Hubert F.
La guerre navale, Mer du Nord - Mers lointaines, Nxb Payot, 1916
Jacques Boudet & Bernard Druène
Histoire universelle des Armées 1700-1914, De Pierre Le Grand à Moltke, Nxb Laffont, 1966
Jean Thiry
Ulm – Trafalgar – Austerlitz, Nxb Editions Berger-Levrault, 1962
Jean Trogoff
Les grandes dates de la guerre sur mer, Nxb Imprimerie Bretonne, 1950
Jean-Paul Bled
Bismarck: De la Prusse à l'Allemagne, Nxb Alvik Editions, 2005
Maxime Joseph Marie Sauvage
La guerre sino-japonaise 1894-1895, Nxb L. Baudoin, 1897
Otto von Bismarck
Pensées et souvenirs, par Joseph Rovan, Nxb Calmann-Lévy, 1984
Paul Chack & Jean Jacques Antier
Histoire maritime de la première guerre mondiale, Nxb France-Empire, 1970
Paul Étienne Antoine Roques
Adversaires prussiens de Napoléon: Blücher-Scharnhorst-Gneisenau, Nxb Berger-Levrault, 1928
Paul Matter
Bismarck et son temps, Nxb Félix Alcan, 1905
Phạm Văn Sơn
Quân dân Việt Nam chống Tây xâm 1847-1945, Quân sử tập 3, 1971, Đại Nam tái bản, Cali
Philippe Héduy
Histoire de L'Indochine, La conquête 1624-1885, Nxb Henri Veyrier, 1983
Philippe Héduy
Histoire de L'Indochine, La Perle de L'empire 1624-1954, Nxb Albin Michel, 2002
Pierre Renouvin
La question d’Extrême-Orient 1840-1940, Nxb Librairie Hachette, 1947
Pierre Renouvin
Histoire des relations internationales‎, Le XIXè Siècle, Nxb Librairie Hachette, 1954
Raymond Aron
Penser la guerre, Clausewitz, Nxb Gallimard, 1976
Sebastian Haffner, Wolfgang Venohr, Isabelle Hildenbrand & Michel Tournier
Profils prussiens: Frédéric II, Neithardt von Gneisenau, Otto von Bismarck, Helmuth von Moltke, Nxb Gallimard, 1976

© 2009 talawas
Trần Vũ (1962), hiện sống tại Paris. Website cá nhân của Trần Vũ: http://tranvu.free.fr/

22/4/09

Cái sướng của kẻ cầm… bút

Cái sướng của kẻ cầm… bút

22/04/2009 | 1:40 sáng |

Tác giả: Vy Huyền

Chuyên mục: Báo chí - Truyền thông
Thẻ: văn hoá tranh luận

Quyền lực của cây bút là bất tận. Nói theo lối giang hồ, cây bút của người viết tựa cây kiếm của một kiếm thủ. Cao thủ tài ba, ngọn bút tài ba. Cây bút có thể “giết” thanh danh của một hay nhiều người. Nó không cướp đi mạng sống, thể xác, nhưng dễ cướp đi danh dự. Những kẻ bị ngòi bút hạ bệ, nếu sống, cũng lao đao - hay đôi khi sống chẳng ra gì. Ngược lại, khi quyền lực của cây bút bị sử dụng lệch lạc, không những nó không gây được ảnh hưởng như bài viết mong muốn, mà ngược lại, còn trở thành sự “hiếp dâm” con mắt độc giả.

Nhân đọc bài tranh luận về kẻ sĩ Trịnh Công Sơn của Trương Thái Du, và cú đáp trả “điệu nghệ” của Đào Hiếu, tự nhiên tôi thấy cái sướng của kẻ cầm bút lan sang cả tôi. Đây cũng là điều thường thấy trong các bài viết, và khi ở trong giới hạn cho phép, chúng dễ được chấp nhận hay cho qua. Nhưng khi nó đi xa quá với giới hạn, điển hình như trong hai bài viết của Trương Thái Du và Đào Hiếu thì nó làm người đọc “choáng”. Xin nêu ra vài điều.
“Tự sướng”

Cái sướng của người cầm bút, trước hết, là “tự sướng”. Mà không tự sướng sao được, chỉ cần tung vài “cú” trong một bài viết đôi ba trang, là ta đây có thể làm được vô số điều.

- Hạ bệ nhau

Con người, đa số thích được khen. Nếu không ai khen ta, thì chê kẻ khác cũng là một cách tự khen - “sướng”. Cái này, đôi khi còn sướng hơn cả tự khen. Trương Thái Du làm rất tốt điều đó, nhất là với những ai không thích Trịnh Công Sơn và nhạc của ông. Chỉ trong chớp mắt, Trịnh Công Sơn đã là một nhạc sĩ thường thường bậc trung, không đáng bàn đến.

Đào Hiếu cũng không kém bằng cách gõ đầu “cậu em” Trương Thái Du mà bảo rằng - em chẳng biết “cảm thụ” nghệ thuật. Đọc đến khúc này, tôi cứ liên tưởng rằng nếu Đào Hiếu và Trương Thái Du mà ngồi chén thù chén tạc cùng nhau, có khi Đào Hiếu sẽ xỉa mặt thằng em mà nói rằng “Chú em mày thì biết đ… gì về nghệ thuật mà bàn”.

Cách xưng hô trong bài viết cũng là một cách để hạ nhau. Vừa đọc xong câu đầu tiên trong bài của Đào Hiếu, qua cách xưng hô, tôi đã mường tượng rằng Đào Hiếu tự cho mình chiếu trên, Trương Thái Du chiếu dưới. Không những vậy, cái lối “nể” trong ngoặc kép của Đào Hiếu phải khiến tôi, dù muốn dù không, nghĩ rằng Đào Hiếu chẳng coi cái mớ kiến thức của Trương Thái Du ra gì. Nhưng đã không ngang hàng thì sao tranh luận? Một khi thằng em đã bị cho ngồi chiếu dưới thì dù có gào la vọng lên, thằng anh ở chiếu trên cũng không thể nghe, hay không thèm nghe tới. Đôi khi, “tao”-”mày” nghe thô thiển, nhưng phù hợp hơn.

- Ta chỉ nói những gì ta thích

Người viết có quyền lựa chọn những điều mình muốn nói, như ông tướng ra trận sắp xếp quân sao có lợi cho mình. Tài “điều binh khiển tướng” này đương nhiên là lợi hại. Như Trương Thái Du chê Trịnh Công Sơn là “sến”, hay chỉ “thích” nói đến hai bài “Em ở nông trường em ra biên giới” và “Huyền thoại Mẹ” mà “quên” đi mấy trăm bài khác của Trịnh Công Sơn.



Trương Thái Du cũng quên rằng Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ có ảnh hưởng - tích cực hay tiệu cực - rất lớn đến thế hệ trẻ miền Nam Việt Nam trước 1975 (1). Thế hệ thanh niên giữa thời chinh chiến, khi nghe “Ngựa hồng đã mỏi vó, chết trên đồi quê hương” (2) thì sao không nao lòng? Và người ta có thể la lớn rằng tôi không thích Trịnh Công Sơn hay nhạc của ông, nhưng ít ai nói rằng “tao không biết bài Diễm xưa”. Người ta có thể trách ông rằng hai bài “Em ở nông trường em ra biên giới” và “Huyền thoại Mẹ” khác hẳn với một Trịnh Công Sơn mà người ta từng biết, nhưng ít người phủ nhận ông là một nhạc sĩ phổ thông, là người đã rung dòng nhạc của mình trong con tim của nhiều người, nhiều thế hệ. Công tâm mà nói, hai bài đó đại diện cho khúc trũng trong sự nghiệp sáng tác của ông, nhưng chúng là gì trong cái sự nghiệp đồ sộ mà ông để lại? Nếu dùng chúng để chứng minh sự a dua thì có thể đúng, nhưng dùng nó để đánh giá sự nghiệp của ông thì sai.



Những điều ta “thích” nói không thể che giấu đi sự thật của vấn đề, dù ta “thích” hay không thích.

- Ta thích gì ta nói nấy

Đây là cái đại sướng, vì không ai có thể cản ta, dù những gì ta nói đôi khi sai.

Trương Thái Du “thích” nên gọi Trịnh Công Sơn là “sến” và gọi cả “Cát bụi” là bolero. Ở đây, bolero trong khái niệm của Trương Thái Du là rất lớn (nên xin được viết nghiêng). Nếu “Cát bụi” được coi là bolero thì hầu như toàn bộ nền âm nhạc miền Nam Việt Nam đều là bolero cả. Trương Thái Du có vẻ không thích nhạc ủy mị, nhưng việc xếp “Cát bụi” vào dòng bolero cho thấy không những ông không hiểu gì về nhạc Trịnh, mà lại càng chẳng biết mấy về bolero.



Nói về chữ “sến” trong bài của Trương Thái Du, cũng nên bàn về chữ “sến” và “bolero” đã được gắn với dòng nhạc buồn, ủy mị mà người ta gọi là “nhạc Vàng”. Nhạc - “Sến” - là một từ không nằm trong tự điển tiếng Việt (3) nhưng lại được sử dụng rất nhiều để phân loại những bài hát buồn thê lương, đa phần ở thể điệu bolero. Nhiều người sử dụng từ này như để phân cách giữa những bài nhạc “sang” (tích cực và cao cấp) với những bài nhạc “sến” (tiêu cực và bình dân), tùy theo cảm nhận của mỗi người.



Cách phân loại “sến”, “sang” này không hoàn hảo, và đôi khi dựa nhiều vào cảm tính, nhưng từ lâu nó đã trở thành một khái niệm mơ hồ để phân loại nhạc bình dân, với những bài hát ca từ bóng bẩy, cao xa và đôi khi khó hiểu. Trương Thái Du có thể không “thích” Trịnh Công Sơn, nhưng biến những sáng tác của ông, những bài mà từ lâu người ta vẫn nôm na xếp vào hàng nhạc “sang”, thành “sến” là điều sai không những trong cách đánh giá một nền âm nhạc mà còn trong cả cái khái niệm “sang” “sến” lệch lạc từ lâu đã được dùng đến. Và có lẽ cũng không nên quên rằng cái “sến” hay cái “ủy mị” của nền âm nhạc miền Nam, nếu có, là sản phẩm của một xã hội (tương đối được) tự do sáng tác, và là điểm son nghệ thuật gắn liền với một giai đoạn lịch sử thảm khốc của Việt Nam thế kỷ 20. Nó khác xa với dòng nhạc tuyên truyền kiểm duyệt sặc mùi máu kiểu “Pháo anh trên đồi cao nã vào đầu giặc Mỹ. (4)


Đào Hiếu “thích” nên phê “em” Trương Thái Du là không biết “cảm thụ nghệ thuật”. Phải chăng vì Trương Thái Du không thích Trịnh Công Sơn, nên mới bị gán cho cái “tật” ngặt nghèo này? Đây cũng không phải là lần đầu Đào Hiếu tung “búa” lớn. Trong bài “Obama và hơn thế nữa”, Đào Hiếu cũng đã hơn một lần dõng dạc Obama là “sự chọn lựa của các thế lực tài phiệt Mỹ”. Tôi đã thầm “khâm phục” cái khả năng “tung chưởng” của Đào Hiếu, nhất là khi ông không hề đưa một dẫn chứng nào cho một kết luận kiểu như vậy. Tôi muốn tin rằng Đào Hiếu là một nhân vật tầm cỡ, am hiểu nội tình chính quyền Mỹ, hoặc đã tham khảo nhiều tài liệu giá trị về một vị tổng thống tại vị chưa được 100 ngày, và nhờ vậy nên có thể đưa ra những kết luận “sét đánh” như thế.

Nhưng không, tôi không tìm thấy tư liệu chứng minh cho kết luận của bài viết. Bài viết kiểu như vậy không hơn, xin lỗi, một bài viết “lá cải”.

- Khoe kiến thức và những lỗ hổng khổng lồ

Đó là một cách tự diễn của người viết, nhưng khi dùng sai hay quá đà, nó trở thành lố bịch.

Trương Thái Du kết luận Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ “xoàng”, nhưng trước hết, để làm được điều đó, thì phải kéo từ Lý Cao Tông, Nguyễn Thường đến… Nguyễn Hữu Liêm, từ Văn Cao đến Yoshimi Tendo, rồi cả Dương Hùng, Thái Mão, Đổng Trác… tóm lại, toàn “đao to búa lớn”. Trình diễn kiến thức vòng vo như vậy để rồi chỉ đưa ra một kết luận “hùng hồn” và không thuyết phục.

“Dễ dãi tuyền giọng mi thứ”: Tôi khoái nhất ý này của Trương Thái Du, vì nó lộ ra cái lỗ kiến thức khổng lồ. E rằng đa số những tay chơi guitar văn nghệ, mà ở miền Nam Việt Nam ngày trước có lẽ rất nhiều, khi nghe đến câu này thì sẽ vỗ đùi đắc ý mừng run, vì Mi thứ và La thứ đơn giản, dễ “chấn” hơn mấy cái hợp âm ác ôn kia. Nhưng sao lại gọi là dễ dãi? Phải chăng, đó là bước đệm để Trương Thái Du “ném” ông nhạc sĩ nổi tiếng nhất của Việt Nam thế kỷ 20 và cả những sáng tác của ông vào trong xó xỉnh nào đó của lịch sử?!

- “Đình đám”

Một khi những điều ta viết là trung tâm chú ý của công luận, thì ta hiển nhiên trở thành một nhân vật nổi tiếng. Cứ xem trường hợp Trịnh Cung thì rõ. Họa sĩ (tự đổi sang) họ Trịnh cho ra một bài gây đầy tranh cãi về Trịnh Công Sơn ngay trong ngày giỗ của nhạc sĩ họ Trịnh, và ngay lập tức trở thành “hiện tượng” của tháng. Những điều Trịnh Cung viết là thật hay không thật, phải hay không phải đối với Trịnh Công Sơn, xin nhường lại cho những người của cả hai cánh ủng hộ và không ủng hộ luận bàn.
“Sướng lan”

Ngoài cái tự sướng, cái sướng còn lan truyền ra cả những người ủng hộ quan điểm. Quan điểm đó đúng hay sai, đôi khi cần sự cân nhắc kỹ lưỡng.

Nếu tôi là người “phù Trương Thái Du”, một người chưa từng nghe nhạc Trịnh Công Sơn, nhẹ dạ, hay là người của một trăm năm nữa, khi nghiên cứu, tìm hiểu mà đọc trúng bài này… thì khi đọc xong bài viết “Có không kẻ sĩ Trịnh Công Sơn”, tôi sẽ tin và/hoặc nhớ rằng:

- Trịnh Công Sơn là người viết ra một loại nhạc ủy mị, ru ngủ.
- Trịnh Công Sơn là một tay nhạc sĩ thường thường bậc trung, không có thành tựu gì đặc biệt, chẳng qua những người sinh ra trong cảnh lầm than thời chinh chiến tìm đến nhạc của ông như một cách giải thoát, hay một sự đồng cảm quái lạ, như dân Nhật chẳng hạn.
- Trịnh Công Sơn là một tay a dua, khi thì thế này, khi thì thế nọ. Lúc thì phản chiến, lúc thì “Em ở nông trường em ra biên giới”, ôi thôi thôi… không biết đường nào mà lần.
- Trịnh Công Sơn là người viết “những mớ nốt nhạc dễ dãi tuyền giọng mi thứ nhàm chán”.

Nói tóm lại, Trịnh Công Sơn chẳng là cái đinh gì cả… Nếu vậy, cớ sao phải thắc mắc Trịnh Công Sơn có là kẻ sĩ hay không là kẻ sĩ? Đó là cái sướng lan từ người viết qua người đọc - sự sung sướng của một kẻ vừa thấy một kẻ khác hạ bệ một người - trong trường hợp này là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.

Nếu tôi là người “phù Đào Hiếu”, hay nhẹ dạ, đọc xong bài “Màng nhĩ hay yên ngựa”, tôi sẽ tin và/hoặc nhớ rằng:

- Trương Thái Du thuộc hàng đàn em của Đào Hiếu.
- Trương Thái Du không biết cảm thụ nghệ thuật.
- Trương Thái Du viết chỉ để khoe mẽ, nhưng thật sự là “tấm ngực lép kẹp” - rỗng tuyếch.
- Trương Thái Du không am hiểu, hay dốt về nhạc, khi dám nói nhạc Trịnh Công Sơn chỉ là một “mớ nốt nhạc dễ dãi tuyền giọng Mi thứ”. Bằng cách là ông anh chỉ cho thằng em thấy hàng loạt những bài khác ở Fa trưởng, Rê trưởng, Đô thứ, Fa thứ…
- Nhạc với Trương Thái Du như “đàn gảy tai trâu”, hay đứt/chạm dây “thần kinh rung động”, nên không cảm được nhạc Trịnh Công Sơn. Đương nhiên, nếu đó là sự thật, thì ngay cả khi ông anh Đào Hiếu mang cái búa đàn anh ra nện, “yên ngựa” chắc sẽ không thèm nghe.

Tóm lại, so với Đào Hiếu, thì Trương Thái Du kém xa, nhất là trong khoản cảm thụ nghệ thuật. Đó là cái sướng lan từ một Đào Hiếu, lan sang cả những người “phù Trịnh” hay cả những người bất bình với Trương Thái Du.
Và văn hoá tranh luận

Những bài viết quá đà tự chúng đẩy chúng ra khỏi phạm vi mà chúng muốn hay hy vọng làm - trình bày và bảo vệ quan điểm của chúng. Một bài tranh luận hợp lý và tích cực, bao giờ cũng phải đưa ra những nguồn, những thông tin đáng tin cậy để có thể đưa ra một kết luận công bằng. Thông tin một chiều bao giờ cũng gây hoài nghi và không có lối thoát. Một bài tranh luận hợp lý và tích cực còn phải đặt đối tượng mà mình muốn/cần tranh luận vào vị trí ngang hàng với chính mình. Một khi anh không công tâm với người anh đang tranh luận, thì làm sao độc giả tin rằng những gì anh nói là đáng được tin? Xin đừng để những cái “sướng” của cá nhân trở thành những cái gai trong con mắt độc giả.

Vy Huyền

1. Độc giả có thể tham khảo thêm nghiên cứu “Hiện tượng Trịnh Công Sơn” của John Schafer về sự ảnh hưởng của Trịnh Công Sơn đối với xã hội miền Nam Việt Nam trước 1975.

2. Xin mặt trời ngủ yên – Sáng tác Trịnh Công Sơn

3. Tham khảo Đại tự điển tiếng Việt, Nguyễn Như Ý chủ biên. Nhà xuất bản Văn hoá – Thông tin, 1998.

4. Hành khúc ngày và đêm – Sáng tác Phan Huỳnh Điểu
Create PDF

Phản hồi

2 phản hồi (bài “Cái sướng của kẻ cầm… bút”)

1.
NguyenAustin nói:
22/04/2009 lúc 10:12 chiều

Không phải là “cái gai” nhưng có lẽ nó cũng là hạt bụi trong mắt. Xin trích: “Dễ dãi tuyền giọng mi thứ”: Tôi khoái nhất ý này của Trương Thái Du, vì nó lộ ra cái lỗ kiến thức khổng lồ.”. Những ai chơi guitar (không cần phải ở miền Nam ngày trước) đều biết rằng chỉ cần với hai ngón là có thể tạo nên hợp âm mi thứ và những hợp âm thứ (mineur) đều mang âm hưởng buồn tủi, da diết,… nói chung là négatif so với hợp âm trưởng (majeur) (trừ những nhạc sĩ siêu hạng mới dùng mineur để diễn tả cái vui nhộn,… positif). Nhiều người đồng ý rằng về lời TCS là “phù thủy” nhưng về nhạc, TCS không phải là bậc thầy như những nhạc sĩ khác (chẳng hạn như Phạm Duy). Trương Thái Du gán lên nhạc của TCS hai tính chất: dễ dãi và buồn tủi là dựa trên những kiến thức về nhạc lý như vừa phân tích. Điều này cho thấy TTD không phải là người có con số không về kiến thức âm nhạc. Sao Vi Huyền lại cho rằng “nó lộ ra một lỗ kiến thức khổng lồ”. Xin hỏi kiến thức mà VH đề cập là kiến thức gì? Và nó có khổng lồ như VH “phán”?
Đời bầy cuộc vui. Không có TCS thì Trịnh Cung lấy gì mà viết? Không có TC thì TTD và Đào Hiếu lấy gì để “tự sướng”? Và rồi không có TTD và ĐH thì VH lấy gì để mà… viết (không biết có tự sướng không?). Tôi không nói “Văn là người”, nhưng người thì chắc chắn là tổ hợp của “thất tình lục dục”. Vì vậy “tự sướng” hay “sướng lan” trong một cuộc vui nhỏ chỉ là chuyện… “vui thôi mà!” (chữ của Bùi Giáng). Có cần phải serious quá như khi bàn về lẽ huyền vi của trời đất không? Thưa ông Huyền Vi, ủa lộn, xin lỗi, Vi Huyền?

© talawas 2009

Có không kẻ sĩ Trịnh Công Sơn?

Có không kẻ sĩ Trịnh Công Sơn?

14/04/2009 | 6:58 sáng |

Tác giả: Trương Thái Du


Theo Khâm định Việt sử, tháng Tám, mùa thu, năm Nhâm Tuất 1202 vua Lý Cao Tông “Sai nhạc công đặt ra nhạc khúc gọi là “Chiêm Thành âm”. Nhạc khúc này giọng sầu oán não nùng, ai nghe cũng rỏ nước mắt. Nhà sư Nguyễn Thường nói rằng: “Tôi nghe nói: thanh âm của nước loạn thì ai oán giận hờn. Nay chúa thượng rong chơi vô độ, kỷ cương triều đình rối ren, lòng dân ngày một ly tán. Tiếng nhạc ai oán làm não lòng người! Đó là triệu chứng bại vong”. Chỉ hơn hai mươi năm sau, nhà Trần đoạt ngôi của họ Lý.

Ở phiên bản talawas cũ, tác giả Nguyễn Hữu Liêm có bài viết “Cái âm điệu tủi thân bi đát“. Ông dẫn: “Cách đây khoảng hai ngàn năm trăm năm, hai nhà hiền triết Ðông Tây, Khổng Tử và Socrates, đã đồng lúc khuyến cáo đến cái tầm quan trọng của âm nhạc. Âm nhạc là sinh khí của tinh thần. Hễ nhạc xuống là nước nhà xuống; hễ nhạc uỷ mị là con người tha hóa. Cái thối nát của con người khởi đi từ sự thối nát của âm nhạc”. Và “Nietzsche trong cuốn The Will to Power có nói tới cái tâm thức amor fati - cái bệnh tủi thân, cái lòng yêu số phận bi đát của mình. Cái bệnh amor fati của dân Việt khởi đi từ Truyện Kiều và kéo dài cho đến ngày nay. Từ Kiều qua nhạc Chàm, qua nhạc Huế, qua vọng cổ, qua nhạc bolero đã làm cho miến Nam ngồi xuống vỉa hè, che mặt và lau nuớc mắt. Cái quần chúng lau nước mắt này bị lưu đày qua đất mới và tiếp tục uống nước dừa tang thương bằng âm nhạc”.

Gần đây, khởi đi từ một bài viết của Trịnh Cung về Trịnh Công Sơn, dư luận xã hội Việt Nam bỗng xôn xao khác thường. Nó có phần lấn át, dù chỉ là tức thời, sự chú ý của mọi người về vận nước trong các vấn đề Biên giới - Biển - Đảo và khai thác quặng nhôm ở Tây Nguyên.

Trong đám đông dư luận “phù Trịnh”, có ai đó đã nói tham vọng chính trị của họ Trịnh chính là phản chiến, là hòa bình. Hãy lắng nghe ý kiến của một người dân thường cùng thời với Trịnh Công Sơn: “Hồi đang học những năm đầu của bậc trung học, khoảng những năm 65, 66… tôi bắt đầu nghe nói về một thứ nhạc của ai đó, khi nghe có cảm giác rã rời như hút ma túy, lính chiến nghe nó không còn muốn chiến đấu nữa. Một hôm đứng trong một hiệu sách, tôi nghe tiếng hát lê thê như lời cầu kinh vọng ra từ máy thu băng. Người bán sách nói với mấy người đang trả tiền đó là nhạc của Trịnh Công Sơn. Nhạc phản chiến đấy”[1].

Không phải ai cũng xem Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ tài ba, vĩ đại. Ông không sáng tác nhạc. Ông chỉ hát thơ như Văn Cao nhận xét: “Với những lời, ý đẹp và độc đáo đến bất ngờ hôn phối cùng một kết cấu đặc biệt như một hình thức của dân ca hầu như không thay đổi, Trịnh Công Sơn đã chinh phục hàng triệu con tim…”[2]. Số đông ít khi nghi ngờ họ Trịnh là nhạc sĩ, là cây cao bóng cả trong nền âm nhạc Việt Nam hôm qua, hôm nay và mãi mãi về sau. Bởi lịch sử ngắn ngủi của tân nhạc Việt Nam gần như không có chuẩn nhạc sĩ rõ ràng, và lại càng không có “nhạc sĩ vĩ đại” để mà so sánh sự nghiệp cũng như thành tựu nhạc thức.

Thi thoảng từng có không ít công dân trung niên của nước Nhật bẽ bàng, nước Nhật thua trận, nước Nhật nhục nhã sau thế chiến thứ hai, đồng cảm một cách lạ lùng với “nhạc” Trịnh. Đồng khí tương cầu chăng? Ca khúc “Diễm xưa” của họ Trịnh được đại học Kansai Gakuin đưa vào giảng dạy trong bộ môn văn hóa Việt Nam, hình như dưới chiêu PR của công ty kinh doanh âm nhạc Myrica. Sau đợt Khánh Ly đem chuông Trịnh đến “đánh” ở Osaka năm 1970, ca sĩ dòng nhạc “sến” enka Yoshimi Tendo cũng từng nhiều lần hát nhạc Trịnh[3].

Cuối những năm 80 của thế kỷ trước, nhiều văn nghệ sĩ xuất thân từ phong trào sinh viên tranh đấu của mặt trận giải phóng đã rỉ tai nhau câu vè “Sơn vàng, ôm guitar đỏ hát nhạc màu da cam”. Nếu ca khúc “Cát bụi” rất hợp với vỉa hè bolero của Sài Gòn, chính thức đóng dấu xác nhận tác phẩm của Trịnh Công Sơn trước 1975 có một phần quan trọng là nhạc vàng ru ngủ, bạc nhược và ủy mị; thì dòng nhạc “Da cam” của ông bên cây “guitar đỏ” không thể không nhắc tới những “Em ở nông trường em ra biên giới”, “Huyền thoại mẹ”… sống sượng, yếm thế và a dua dựa dẫm.

Người ta sẽ còn ca ngợi và nói nhiều về Trịnh Công Sơn, trong đó chắc chắn có tiếng góp đầy trọng lượng của những ai vẫn hưởng lợi trên di sản của ông. Kể ra, phải nói Trịnh Công Sơn thật may mắn. Chẳng bì với Dương Hùng thời Tây Hán, làm sách Thôi Huyền, Pháp Ngôn nhưng bị đời khinh bỉ quên lãng vì thất thân với Vương Mãng. Chẳng hổ như Thái Mão đời Đông Hán soạn hết cả Cửu Kinh, làm văn bia ở trước nhà Thái Học nhưng trót lụy Đổng Trác nên danh nhơ tiết nhục, chẳng ai thèm đọc sách[4].

Mai này, ở tương lai nào đó, may phúc dân tộc Việt Nam không còn “lòng yêu số phận bi đát của mình”, không còn mặc cảm nhược tiểu và yếm thế thì cái hồn của ca từ Trịnh Công Sơn sẽ mai một. Người ta sẽ ném những mớ nốt nhạc dễ dãi tuyền giọng mi thứ nhàm chán của ông vào sọt rác ký ức. Lúc ấy, nếu tình cờ con cháu chúng ta tiếp xúc với “nhạc” Trịnh, có lẽ chúng sẽ lấy làm ngạc nhiên mà ướm hỏi: “Trình độ âm nhạc của tổ tiên mình tệ đến thế ư?”. Đừng mơ chúng sẽ nghi hoặc: “Có không kẻ sĩ Trịnh Công Sơn?”.

Thảo Điền tháng 4.2009

© 2009 Trương Thái Du

© 2009 talawas blog

[1] http://www.x-cafevn.org/forum/showthread.php?t=24602&page=2

[2] Trịnh Công Sơn - Tuyển tập những bài ca không năm tháng, NXB âm nhạc 1997, trang 278.

[3] Tham khảo Nguyễn Đình Đăng, tienve.org

[4] Theo thơ văn Phan Bội Châu, thời kỳ ở Huế. NXB Thuận Hóa 1987, trang 315.
Create PDF

Phản hồi

12 phản hồi (bài “Có không kẻ sĩ Trịnh Công Sơn?”)

1.
Nguyễn Khánh Hưng nói:
16/04/2009 lúc 2:16 sáng

Tôi hoàn toàn không thể đồng ý với đoạn kết bài của anh Trương Thái Du.

Thứ nhất, vì cái đẹp trong nghệ thuật tự nó có một sự độc lập tương đối, không phụ thuộc vào ngoại cảnh. Chẳng thể vì anh hay vì tôi thay đổi mà cái hồn trong ca từ của Trịnh Công Sơn bị mai một. Cái bị mai một, hay kẻ bị mai một, chỉ có thể là tâm hồn của anh hay của tôi.

Thứ nhì, tôi tin rằng các tác phẩm của Trịnh Công Sơn thuộc số những tác phẩm âm nhạc [được viết trong thế kỷ 20 bởi người Việt Nam] bị vứt vào sọt rác cuối cùng, nếu một ngày nào đó việc này xảy ra. [Những thứ bị vứt đầu tiên có lẽ sẽ là những tác phẩm giao hưởng thính phòng mà các nhạc sĩ Việt Nam gồng mình lên viết trong mấy chục năm qua.] Nhưng phải nói thật, tôi cảm thấy tuyệt vọng nếu con cháu chúng ta vứt những tác phẩm của Trịnh Công Sơn vào sọt rác, bởi vì điều đó chỉ ra chúng là những kẻ đần độn [về âm nhạc].
2.
democracy nói:
15/04/2009 lúc 10:34 chiều

Gởi Thiên Sầu,

Thiên Sầu là người cổ súy cho dân chủ nhưng sao không có tinh thần dân chủ gì hết vậy?! Tranh luận mà chỉ “phán” một cách vô lý, chẳng có lý luận lý lẽ gì hết cả!
3.
Cyclo nói:
15/04/2009 lúc 3:05 chiều

“Mai này, ở tương lai nào đó, may phúc dân tộc Việt Nam không còn “lòng yêu số phận bi đát của mình”, không còn mặc cảm nhược tiểu và yếm thế thì cái hồn của ca từ Trịnh Công Sơn sẽ mai một. Người ta sẽ ném những mớ nốt nhạc dễ dãi tuyền giọng mi thứ nhàm chán của ông vào sọt rác ký ức. Lúc ấy, nếu tình cờ con cháu chúng ta tiếp xúc với “nhạc” Trịnh, có lẽ chúng sẽ lấy làm ngạc nhiên mà ướm hỏi: “Trình độ âm nhạc của tổ tiên mình tệ đến thế ư?”. Đừng mơ chúng sẽ nghi hoặc: “Có không kẻ sĩ Trịnh Công Sơn?”.”

Tác giả bài viết này quá chủ quan và ngạo mạn. Nhưng lại quá dại dột với cái kết luận như ở trên. Ông Trương, ông không đủ trình độ!
4.
Ha Anh nói:
15/04/2009 lúc 4:15 sáng

Trương Thái Du nêu lên 1 giả thuyết quan trọng: dân tộc nào có mặc cảm nhược tiểu và yếm thế thì thích nhạc ủy mị.

Tác giả có biết nghiên cứu xã hội học nào kiểm chứng giả thuyết này? Không thể coi nhận định của Socrates hay Khổng Tử là một bằng chứng khoa học, chẳng qua cũng chỉ là giả thuyết.

Một giả thuyết liên quan theo logic trên cũng cần được kiểm chứng khoa học: cá nhân nào tự ti và yếm thế thì thích nhạc Trịnh Công Sơn.

Tôi cho rằng các phương pháp nghiên cứu định lượng hiện hành của ngành xã hội học và tâm lý học có thể giúp kiểm định các giả thuyết trên.
5.
NguyenAustin nói:
15/04/2009 lúc 1:10 sáng

Đọc xong bài viết :”Có không kẻ sĩ Trịnh Công Sơn” của tác giả Trương Thái Du (TTD) tôi có một vài suy nghĩ sau:
- Về khả năng cảm thụ âm nhạc .Thật vậy, trong đoạn thứ tư của bài viết TTD cho biết rằng ông cũng là một trong số những người không công nhận TCS là nhạc sĩ : Ông (tức TCS) không sáng tác nhạc. Và rồi trích dẫn lời của Văn Cao về nhạc TCS: Ông chỉ hát thơ như Văn Cao nhận xét: “Với những lời, ý đẹp và độc đáo đến bất ngờ hôn phối cùng một kết cấu đặc biệt như một hình thức của dân ca hầu như không thay đổi, Trịnh Công Sơn đã chinh phục hàng triệu con tim…”. Tôi tự hỏi rằng nhạc sĩ là gì nếu không phải là người viết phần nhạc (hoặc luôn phần lời ) cho một tác phẩm. Đại đa số tác phẩm của TCS đều do chính ông viết phần nhạc và lời. Riêng về phần lời ,ai cũng công nhận rằng TCS là phù thủy về ca từ. TTD chắc không biết điều đó và cũng không hiểu Văn Cao dùng hai chữ “hôn phối” để ám chỉ sự kết hợp giữa lời và nhạc TCS trong lời ca ngợi này .
TTD cũng làm tôi ngạc nhiên khi quan niệm về một thứ nhạc “sến” trong âm nhạc. Theo cách hiểu của ông, “sến” là những gì có tính cách cầu kỳ, hoa mỹ để làm dáng cho những gì mình muốn nói, muốn chứng tỏ mà nội dung thì rỗng tuếch (?) như những loại nhạc Boléro ở vỉa hè Sàigòn mà ông đã đồng hóa với nhạc phẩm “Cát bụi” của TCS. Cảm thụ nghệ thuật có tính cá nhân. Khinh thường những cảm thụ nghệ thuật khác với mình là một sự kiêu kỳ, ngạo mạn. Tôi không biết TTD có phải là người sống ở miền nam trước 75 hay không (?) .Trong cái trí nhớ khiêm tốn của tôi, vào thời đó “Cát bụi” có vị trí riêng trong lòng người thưởng ngoạn, không thể nào được xem là loại nhạc Boléro vỉa hè như TTD trích dẫn.
- Kẻ sĩ là gì? thế nào là một kẻ sĩ? Trong một xã hội văn minh mà con người có quyền suy nghĩ và bày tỏ suy nghĩ bằng cách thức riêng của mình thì khái niệm “ kẻ sĩ” có cần thiết hay không? Tôi thật thất vọng khi chỉ thấy TTD chỉ cho thấy khái niệm kẻ sĩ “bàng bạc” qua bài viết này. Nếu không lầm, kẻ sĩ của TTD ( hay của những aì không “phù trịnh”) là những người “ăn cây nào ,rào cây ấy”, thờ một chúa, không đâm sau lưng chiến sĩ,…Kẻ sĩ phải chăng là những người không được quyền nói khác , sống khác trong một hoàn cảnh nào đó của lịch sử ? Kẻ sĩ không thể nào là một người “phản chiến” trước một cuộc chiến không có gì chính nghĩa (theo quan niệm cá nhân)? Và một khi thời thế đã ngã ngũ kẻ sĩ phải là người không được phép ca ngợi những nét đẹp khác của tình người, tình tự dân tộc trong một khung cảnh mới?….Dù thế nào đi nữa vấn đề đặt ra là tại sao TTD ( cũng như nhiều người khác ) cứ phải bắt TCS phải là một “kẻ sĩ” nếu chính TCS không bao giờ tuyên bố (hoặc ít ra là qua những tác phẩm của ông) mình là một kẻ sĩ trong cuộc chiến đầy oan ức và tức tưởi vừa qua của cả hai miền?
Tôi không phải là người “phù Trịnh” hay nói đúng hơn tôi là người “phù “cả Phạm với Phạm Duy, Phạm Đình Chương, phù luôn Từ Công Phụng,Ngô Thụy Miên ….của miền nam nhưng tôi cũng phù luôn cả Văn Cao, Nguyễn Văn Tý với “ tấm áo ấy con qúi hơn tất cả,…” ,…của miền bắc.
Điều cuối cùng thưa ông TTD, gỉa như bây giờ chúng ta được nghe lại “Chiêm Thành Âm” đành rằng chúng ta không thấy hay và nhận ra rằng đây không phải là loại nhạc của thế kỷ 20-21 . Đó chỉ vì chúng ta không phải là người sống trong giai đoạn ấy hay chúng ta không phải là những nhà nghiên cứu âm nhạc chứ không phải là nó đáng ném vào sọt rác. Chỉ có những ai muốn ném qúa khứ đầy đau thương của một dân tộc vào sọt rác mới là kẻ đáng khinh! Và biết đâu trong cái qúa khứ đó có cả những mớ nốt nhạc dễ dãi tuyền giọng mi thứ của TCS.

Chú thích: chữ in nghiêng là của TTD
6.
THIENSAU nói:
14/04/2009 lúc 6:36 chiều

Sáo rỗng.
7.
Nguyễn Đình Đăng nói:
14/04/2009 lúc 5:12 chiều

Trong bài viết đang gây chú ý, Trịnh Cung không phủ nhận tài năng âm nhạc của Trịnh Công Sơn (TCS). Ông chỉ muốn nói về con người thực của TCS theo cách nhìn của ông. Những bài viết như vậy theo tôi là cần thiết. Những chi tiết ông đưa ra sai đúng tới đâu thì chỉ có một số người trong cuộc, hiện vẫn còn sống, mà bài viết đụng đến, mới có thế minh định được.

Đã là con người thì không thể tránh khỏi những sai lầm, có những thói hư, tật xấu, âu cũng là lẽ tự nhiên. Đến các đại danh hoạ như Michelangelo, Rembrandt, Picasso, Dalí, Gauguin, Van Gogh v.v., thiên tài âm nhạc như Mozart, Beethoven, Chopin v.v., các nhà vật lý đại tài từ Newton, Einstein, tới Landau, Marie Curie v.v. cũng mắc không ít lỗi lầm, thói hư tật xấu. Michelangelo nổi tiếng vì nhỏ nhen, ghen tài với Leonardo. Rembrandt khi vẽ bức “Đi tuần đêm” bị phê phán là chỉ vẽ rõ chân dung những người trả nhiều tiền, còn ai trả ít tiền thì ông vẽ qua quýt, mờ nhạt trong bức tranh. Pablo Picasso từng là đảng viên cộng sản Pháp, từng có nhiều “bồ bịch”, từng bị coi là hèn nhát ngồi nhìn các bạn mình hy sinh trong thế chiến I, II, và nội chiến tại Tây Ban Nha. Salvador Dalí lại bị nhiều người đương thời ghét cay ghét đắng vì tính khoa trương, hám tiền, và “nâng bi” độc tài phát-xit Franco (Dalí từng vẽ chân dung con gái Franco để tặng Franco). Chopin bắt bồ với George Sand và từng bị coi là nguyên nhân khiến George Sand từ bỏ chính con gái bà, v.v. (Tôi sẽ vượt quá 1500 chữ nếu liệt kê tiếp).

Bài của Trương Thái Du (và một số người khác) lại phê phán “mớ nốt nhạc dễ dãi tuyền giọng mi thứ nhàm chán” (từ của TTD) của TCS. Đành rằng thời gian sẽ là câu trả lời chính xác cho những chân giá trị. Nhưng đến khi đó chắc gì chúng ta còn sống. Con cháu chúng ta đánh giá thế nào hoàn toàn là quyền, thẩm mĩ, và tự do của chúng. Hành xử thế nào để khỏi hổ thẹn với chính lương tâm của mình, theo tôi, là điều cần thiết hơn nhiều. Hiện thời, không thể phủ nhận một sự thật là có một “đám đông dư luận ‘phù’ Trịnh” (từ của TTD), nhưng cũng có những người không thích các bài hát của TCS. Điều đó có lẽ cũng tương tự như có người thích nhạc cổ điển, có người thích nhạc pop, nhạc rock, nhạc rap v.v. Không thể vì tôi thích nhạc cố điển, cho rằng đó là loại nhạc sang, để rồi tôi lên giọng chê bai những nhạc enka là sến rẻ tiền, nhạc pop là loại cho quần chúng ít học v.v. Nói như thế thì cũng tựa như tôi chỉ cho rượu vang, pho-mát, prosciutto là ngon, là cao cấp, rồi đi chê bai mắm tôm với bún ốc. Vả chăng, tôi vẫn cho rằng cố sáng tạo ra cái gì đó của mình vẫn hơn là phung phí cuộc đời ngắn ngủi vào việc chê bai người khác.

Các bàn luận quanh bài viết của Trịnh Cung khiến tôi nhớ lại W. Somerset Maugham. Trong tiểu thuyết “Mặt trăng và đồng xu” (The moon and sixpence) (1919) (Xem free tại http://www.gutenberg.org/files/222/222-h/222-h.htm), W. Somerset Maugham viết: “Đối với tôi điều hấp dẫn nhất trong nghệ thuật là nhân cách của nghệ sĩ; và nếu nhân cách đó dị thường, tôi sẵn lòng tha thứ cả ngàn lỗi lầm.” (To my mind the most interesting thing in art is the personality of the artist; and if that is singular, I am willing to excuse a thousand faults.)
8.
vantruong nói:
14/04/2009 lúc 9:58 sáng

“Vi vu”
Thợ lắp
Chữ nổ
Toác hoác
Rỗng tuếch
“Vô riêng”
9.
Tôn Thất Tuệ nói:
14/04/2009 lúc 9:22 sáng

Ca Sĩ Anh Ngọc khoe với vợ chồng tôi ở tiệm thu băng Au Printemps Saigon ông có băng master Khánh Ly hát TCS tại phòng thông tin Mỹ để gởi qua Đông Âu cho sinh viên Bắc. Một bạn tù cải tạo nói với tôi thân nhân của anh ở Hanoi có cassette nhạc TCS con du học đem về. Nét ủy mỵ và mung lung cua TCS, cả hai bên đều khai thác.
Tình báo Saigon tin rằng các quán nhạc lọai tranh tre khởi đầu bởi Quán Gió, Võ Tánh, có bàn tay yểm trợ của cộng sản. Sony, Akai tràn ngập qua PX Mỹ. Các quán nhỏ hơn như quán Cô Hồng trước Viện Pasteur cũng TCS. Thật ra ủy mỵ và phản chiến không riêng TCS. Kỷ Vật Cho Em gồm chiến thắng Pleme mất hút trong bại tướng cụt chân, hòm gỗ đầy hoa, người yêu tật nguyền chai đá. Trả lại em yêu thì anh ra đi chẳng mong ngày về.
Mặc dù hát một hai ba ta đi lính cộng hòa, một hai ba ta đi lính cả nhà, Phạm Duy nói hơi quá: lính CS chết thấy bầu trời trăng sao, lính CH chết chỉ thấy cái tam giác của em gái Dạ Lan. Tôi không đồng ý về hình ảnh ấy, nhưng em gái Dạ Lan õng ẹo hơi nhiều.
Mấy năm cuối ít ai để ý đến sự ru ngủ kinh khủng trong giới công chức quân nhân là xoa mạc chược mà tin như tiểu thuyết mặt trận vẫn bình yên. Nghe nói đại tá Khoa còn kẹt trong canh xì khi địch vào Huế, ông phải lên núp mán xối.
Nhạc yếu làm con người yếu hèn. Nhưng nhạc mạnh không hồn, phi nhân, làm mình xung động như kiểu Pavlov, sẽ vỡ mộng mà chết.
10.
HaThuan nói:
14/04/2009 lúc 8:15 sáng

Tôi cùng bàn bè nhiều lần bàn luận về TCS. Riêng tôi luôn có cảm giác nhạc của ông là một thứ ma túy, tôi không bao giờ chủ động nghe, nhưng đã nghe là khó dứt. Sau đó là một cảm giác mệt mỏi, rã rời. Có người bạn hỏi tôi về bài hát tôi yêu thích nhất của TCS, tôi trả lời đó là bài “Tuổi đời mênh mông” (dành cho thiếu nhi). Cảm ơn Trương Thái Du rất nhiều về bài viết sắc sảo này.

© talawas 2009